|
Chương3. (tt6)
Vợ ông sẽ bảo, “Tôi xin lỗi… nhưng ông cũng phải biết là nếu người khác trông thấy chúng ta thế này thì thể nào họ cũng sẽ nói này nói nọ cho mà xem. Nếu thấy hai người chúng ta tuy sống chung một nhà mà lại người đi trước kẻ đi sau, họ sẽ bảo chắc ông bà ấy ghét nhau lắm nên mới không thể đi cạnh nhau. Người ta trông thấy như thế thì có gì hay ho đâu, ông có công nhận không? Tôi không cần phải nắm tay ông hay gì hết, chỉ cần ông đi chậm lại một chút là được. Ông cứ đi nhanh như thế, nếu lạc mất tôi thì ông tính sao?”
Ông nghĩ chắc bà biết rồi có ngày chuyện thế này sẽ xảy ra nên đã báo trước cho ông. Trong suốt năm mươi năm qua kể từ lần đầu gặp nhau khi ông mới hai mươi tuổi, câu nói “Ông đi chậm một chút” là câu mà ông nghe nhiều nhất từ vợ mình. Sao ông không đi chậm lại khi mà suốt đời vợ ông luôn bảo ông đi chậm lại một chút cơ chứ? Ông có thể dừng lại đợi vợ mình, nhưng ông chưa bao giờ sải bước đi bên cạnh chuyện trò với bà như bà muốn, chưa bao giờ, dù chỉ một lần.
Kể từ khi vợ bị lạc, cứ mỗi khi nghĩ đến chuyện mình luôn đi quá nhanh, ngực ông lại như muốn nổ tung…
Cả đời ông lúc nào cũng đi trước vợ. Có những khi ông rẽ sang đường mà không hề quay đầu lại. Khi vợ ông gọi với theo từ phía sau, thế nào ông cũng càu nhàu, “Sao bà đi chậm thế.” Vậy mà năm mươi năm đã trôi qua. Mỗi khi ông dừng lại đợi, bà sẽ tiến lại chỗ ông, hai má đỏ bừng, vừa cười vừa nói, “Nếu ông đi chậm một chút nữa thì tốt biết mấy.” Ông cứ nghĩ phần đời còn lại của mình sẽ tiếp tục diễn ra như vậy. Thế nhưng kể từ cái hôm ở ga Seoul khi ông lên chuyến tàu điện ngầm, cái ngày mà vợ ông chỉ ở phía sau ông có mấy bước chân, bà vẫn chưa đến bên ông.
Vừa nhìn lũ trẻ ăn ngấu nghiến bát cơm dở sống dở chín với thức ăn chỉ là đĩa kim chi, ông nhấc cái chân trái đã từng phải phẫu thuật khớp xương đặt lên trên sàn nhà. Sau khi phẫu thuật, chân ông không còn đau hay tê cứng nữa, nhưng nó thành ra không gập được.
“Để tôi chườm nóng cho ông nhé?”
Ông tưởng chừng như có thể nghe thấy tiếng vợ vẳng bên tai. Dù ông không trả lời thì đôi bàn tay đồi mồi của vợ ông vẫn thoăn thoắt đặt xoong nước lên bếp ga đun rồi nhúng khăn vào nước nóng, vắt kiệt rồi đắp lên đầu gối cho ông. Mỗi lần nhìn đôi bàn tay chai sần của vợ ấn chiếc khăn lên đầu gối ông, ông lại mong rằng bà sẽ sống lâu hơn mình dù chỉ một ngày. Để sau khi ông chết, chính bàn tay của vợ ông sẽ vuốt mắt cho ông lần cuối cùng, sẽ lau rửa cơ thể đã lạnh ngắt của ông trước mặt các con, và cũng chính bàn tay ấy sẽ đặt tấm vải liệm cho ông.
“Mấy đứa lại đi đâu rồi?” ông hét lên gọi lũ trẻ. Sau khi ăn xong, lũ trẻ đã chạy biến đi, chỉ còn lại mình ông ngồi duỗi chân trên sàn nhà, người đàn ông lạc mất vợ, người đàn ông cô độc trong ngôi nhà trống trải. Ông hét lên, cố gắng kìm nén không bật khóc thổn thức khi mà cơn nghẹn cứ chực sẵn nơi cổ họng kể từ khi vợ ông bị mất tích. Ông chẳng thể gào thét hay rơi lệ trước mặt con trai hay con gái hoặc con dâu, nhưng giờ đây vì cơn giận dữ hay vì cái gì đó, nước mắt ông cứ tràn ra không sao kìm lại được. Nước mắt đã không hề rơi khi những người hàng xóm chôn cất bố mẹ ông trên núi, bố mẹ ông mất cách nhau có hai ngày khi dịch tả tràn qua làng. Ông không thể khóc cho dù rất muốn. Chôn cất bố mẹ xong, ông đi xuống núi trong cảm giác run rẩy vì lạnh và vì sợ. Nước mắt cũng không hề rơi trên mặt ông trong suốt cả thời kỳ chiến tranh. Hồi đó, nhà ông có một con bò. Ban ngày, khi quân đội quốc gia còn ở trong làng, ông thường dắt bò ra đồng cày ruộng. Thời ấy cứ đêm đến là quân lính Bắc Triều Tiên lại từ trên núi mò xuống làng bắt người và gia súc. Khi mặt trời lặn, ông sẽ dắt con bò vào thị trấn, buộc gần đồn cảnh sát rồi tựa vào bụng nó mà ngủ. Sáng ra, ông lại dắt con bò về làng để đi cày ruộng. Vào đúng cái đêm ông không dắt con bò đến đồn cảnh sát vì nghĩ rằng quân đội Bắc Triều Tiên đã rút khỏi khu vực này, chúng đã kéo vào làng. Chúng ra sức bắt con bò đi. Ông nhất định không chịu thả con bò ra cho dù bị chúng đấm đá thùm thụp. Ông chạy theo để giằng lại con bò, ông gạt sang bên bà chị gái đang cố ngăn ông lại, và ngay cả khi bị chúng đánh bằng báng súng, ông cũng không hề khóc. Ông vốn không rơi một giọt nước mắt khi bị nhốt trong thùng nước gạo cùng với nhiều người khác trong làng do bị quy kết là phần tử phản động vì có người chú làm cảnh sát, ông cũng chẳng hề khóc khi bị cái xiên tre chọc vào cổ, nhưng giờ đây ông đang gào lên nức nở. Cho đến tận bây giờ ông mới nhận ra rằng, mong muốn cho người vợ được sống lâu hơn mình của ông mới ích kỷ biết bao. Chính sự ích kỷ đã khiến ông lờ đi sự thực là vợ ông đã mắc bệnh nặng. Ông cũng biết rằng vợ ông thường ngủ như chết trong những lần ông về nhà vào ban đêm, mắt nhắm nghiền vì cơn đau đầu dữ dội. Chỉ có điều ông không chịu chấp nhận thực tế đó. Ông cũng biết có những lúc vợ ông bảo mang cơm cho chó nhưng không đi tới chuồng chó mà lại ra ngoài sân giếng, hay những khi bà ra khỏi nhà để đi đâu đó nhưng lại đứng ngẩn ngơ trước cổng, không nhớ nổi mình định đi đâu, rồi cuối cùng bà bỏ cuộc và quay vào nhà. Những việc như thế diễn ra thường xuyên. Ông chỉ biết đứng nhìn khi vợ ông lết vào phòng, khó lắm mới tìm được cái gối để ngả lưng, nỗi khắc khổ hằn trên khuôn mặt. Ông lúc nào cũng đóng vai người đau ốm, còn vợ ông là người chăm sóc. Nếu vợ ông có kêu đau bụng, thì ông sẽ nói mình cũng đang đau thắt lưng. Mỗi khi ông đau ốm, vợ ông thường bóp trán, xoa bụng cho ông, rồi ra hiệu mua thuốc và nấu cháo đậu xanh cho ông. Vậy mà khi bà ốm, ông chỉ nói, “Bà uống thuốc đi.”
Cũng phải đến tận bây giờ ông mới nhận ra rằng, ngay cả khi vợ ông bị bệnh tiêu chảy, không ăn uống gì được trong mấy ngày liền, ông cũng không mang nổi cho bà một cốc nước ấm.
Chuyện đó xảy ra khi ông còn đang lang thang khắp đất nước, đắm mình trong tiếng trống cổ truyền. Nửa tháng sau ông về nhà thì vợ đã sinh một cô con gái. Bà chị gái của ông, người đã đỡ đứa bé, bảo với ông là mẹ tròn con vuông, nhưng vợ ông đang mắc tiêu chảy. Vợ ông cứ ăn gì vào bụng là ra ngoài hết, da mặt bà khô khốc, gò má hốc hác, nhăn nheo, chẳng hề có dáng một người phụ nữ vừa sinh con. Tình trạng sức khỏe của vợ ông không hề tiến triển. Ông nghĩ nếu cứ để thế thì có lẽ bà không qua khỏi. Ông đã đưa tiền cho chị gái mình đi mua thuốc Bắc về sắc cho vợ ông uống.
Ông ngồi trên nền ngôi nhà trống trải khóc nức nở, tiếng khóc ngày càng to.
Đến bây giờ ông mới nghĩ ra đó là lần duy nhất ông bỏ tiền mua thuốc cho vợ mình. Chị cả của ông đã cắt ba thang thuốc về sắc cho vợ ông uống. Sau này, mỗi khi bụng có vấn đề, vợ ông thường rên rỉ, “Hồi đó nếu tôi được uống thêm hai thang thuốc Bắc nữa thì bệnh đã khỏi hẳn!”
Họ hàng nhà ông đều rất quý vợ ông. Dù khi họ tới thăm, ông chỉ biết nói “Bác đến chơi ạ!” và lúc họ về thì chào “Bác lại nhà ạ!” nhưng rất nhiều họ hàng nhà ông vẫn đến chơi vì có vợ ông. Mọi người đều bảo những món ăn do bà làm luôn đong đầy tình cảm trong đó. Dù tất cả những gì vợ ông làm là ra vườn cắt ít cẩm quỳ vào nấu canh và nhổ một cây cải thảo để làm món rau cải muối đơn giản, mọi người đều ăn rất ngon miệng. Họ không ngớt lời khen canh và cải thảo muối thật tuyệt. Vào dịp nghỉ hè, mấy đứa cháu về quê chơi với ông bà. Khi trở lại thành phố, chúng cứ phàn nàn là chúng tăng cân đến mức không thể cài khuy áo đồng phục được nữa. Mọi người đều bảo cơm do vợ ông nấu có khả năng vỗ béo người ta. Vào vụ cấy, khi ông và những người hàng xóm làm hộ đang gieo mạ trên thửa ruộng nhà ông, vợ ông thường mang cơm trưa có canh cá bao kiếm hầm khoai tây mới dỡ, mọi người sẽ dừng tay và tranh nhau ăn lấy ăn để. Ngay cả những người vô tình đi ngang qua cũng dừng lại ăn chực. Dân làng cứ tranh nhau đến làm việc cho nhà ông. Họ bảo nếu ăn cơm trưa do vợ ông nấu thì phải làm được gấp đôi số việc so với bình thường mới lại thấy đói. Nếu có người bán dưa bở hay bán quần áo nào đó cứ đảo qua đảo lại trước cổng nhà vào đúng giờ ăn trưa của gia đình ông, thế nào bà cũng bảo họ để hàng hóa vào một góc rồi mời cơm mời nước. Vợ ông có thể ăn uống vui vẻ với người lạ nhưng lại không tài nào hòa hợp được với chị gái ông.
“Khi đó, tôi chỉ cần uống thêm hai thang thuốc Bắc nữa là sẽ khỏi hết bệnh… Ngay đến cả người vô tâm như ông cũng nói với người vợ vừa qua kỳ sinh nở là nên uống thêm hai thang thuốc nữa cho bệnh khỏi hẳn, thế mà bà chị gái của ông lại lườm nguýt và nói rằng, uống thêm hai thang làm cái gì, thế là đủ rồi, không phải sắc siếc gì nữa. Chị ấy đã không mua thêm thuốc cho tôi. Lúc đó mà uống thêm hai thang nữa thì có phải bây giờ đỡ khổ rồi không!” Cứ mỗi khi đau đớn vì căn bệnh đường ruột, bà lại than thở như thể câu chuyện khó chịu ấy vừa mới xảy ra ngày hôm qua, cho dù ông không hề nhớ gì về chuyện đó cả. Và, mặc dù bà nhắc đi nhắc lại chuyện này bao nhiêu lần, ông không bao giờ mua thuốc Bắc về sắc cho vợ khi bà bị tả lị.
“Phải uống thuốc từ lúc ấy, chứ bây giờ mới uống thì có ích gì đâu!” Mỗi khi bị bệnh tả, vợ ông chẳng ăn bất cứ thứ gì. Ông chẳng hiểu làm sao người ta có thể không ăn gì trong nhiều ngày liền. Hồi còn trẻ thì ông cứ mặc kệ, phải đến khi đã già ông mới hỏi vợ được một câu, “Bà cũng phải ăn cái gì vào chứ.” Những lúc như vậy, vợ ông sẽ trả lời với điệu bộ thật đáng thương, “Tôi thấy loài cầm thú cũng thế đấy thôi. Đến như con bò hay con lợn… nếu chúng mà ốm đau thì cũng bỏ ăn ngay. Ngay cả con gà cũng vậy. Con chó nhà ta cũng thế, nó mà sinh bệnh thì có thiết ăn uống gì đâu! Nó mà bị ốm là nó bỏ ăn, cho dù tôi có cho cơm ngon đến thế nào nó cũng không thèm ngó ngàng, nó chỉ bới một cái hố trước chuồng rồi đặt bụng xuống nằm im ở đấy thôi. Nó cứ nằm như thế mấy ngày rồi tự khỏe dậy. Lúc đấy nó mới ăn cơm. Người cũng có khác gì đâu ông, bụng dạ đang lục cục lên thế này mà ăn thứ gì thì dù có ngon đến mấy cũng thành ra độc đấy ông ạ.”
Nếu căn bệnh tả không cầm được, vợ ông sẽ giã quả hồng khô rồi ăn một thìa. Bà nhất quyết không đi khám. Cho dù ông có nói, “Hồng khô thì sao có thể làm bà khỏi bệnh được, phải đi viện xem người ta chẩn đoán thế nào rồi mua thuốc về mà uống mới đỡ chứ,” thì vợ ông cũng không nghe. Nếu ông cứ nói đi nói lại, vợ ông sẽ cáu lên, “Tôi đã bảo với ông là sẽ không đi viện rồi còn gì!” và không cho ông nhắc lại chuyện đó nữa. Có một năm, ông bỏ nhà ra đi vào mùa hè và trở về nhà vào mùa đông, ông thấy bên ngực trái của vợ nổi lên một khối u. Ông nói với bà rằng điều đó thật khác thường, nhưng vợ ông chẳng quan tâm. Chỉ đến khi núm vú của bà lõm xuống và có chất dịch rỉ ra, ông mới dẫn vợ đến bệnh viện trong thị trấn để khám, bà vẫn đội cái khăn thấm đẫm mồ hôi ở trên đầu. Người ta không thể ngay lập tức cho ông biết chính xác vợ ông mắc bệnh gì. Họ kiểm tra rồi bảo phải mười ngày sau mới có kết quả. Nghe thấy thế, vợ ông thở dài thườn thượt. Chuyện gì đã xảy ra trong mười ngày ấy? Khi đó, ông đã mải mê với việc gì quan trọng đến mức không đi lấy kết quả cho vợ mình? Sao ông lại chần chừ không quay lại lấy để xem có điều gì không ổn với bà? Cuối cùng, khi núm vú của vợ ông mưng mủ, ông mới dẫn vợ trở lại bệnh viện. Bác sĩ nói rằng bà bị ung thư vú.
“Bác sĩ bảo tôi bị ung thư vú sao?” Vợ ông nói rằng không thể như thế được. Rằng bà không có thời gian để nằm trên giường vì đau ốm. Rằng bà có quá nhiều việc phải làm. Bác sĩ giải thích rằng vợ ông không thuộc nhóm có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú. Bà sinh nở sớm, cả năm đứa con đều bú mẹ, bà không hề có kinh sớm vì kỳ kinh nguyệt đầu tiên xuất hiện vào năm lấy ông, và bà cũng không thích ăn thịt, hay nói đúng hơn là không có điều kiện để ăn. Vậy mà tế bào ung thư lại đang phát triển ở bên ngực trái của bà. Nếu ông quay trở lại bệnh viện lấy kết quả ngay lần đầu đi khám thì có lẽ bà đã không phải cắt đi ngực trái. Sau khi phẫu thuật, ngực vẫn còn quấn băng, vợ ông đã ra đồng để trồng khoai tây. Vừa trồng khoai tây trên mảnh ruộng mà ông đã phải bán cho người ta để lấy tiền phẫu thuật, bà vừa tuyên bố, “Kiếp này tôi sẽ không bao giờ đi bệnh viện nữa!” Không chỉ từ chối không đi bệnh viện mà vợ ông còn không để ông lại gần mình.
|
|