|
- Cháu đã khoác áo toga sớm hơn là cậu nghĩ cơ đấy, - Vinixius đáp - và trước khi thằng bé Aulux chạy tới, cháu đã chăm chú ngắm nghía những đường nét kia, vì cháu biết rằng, ở Hy Lạp cũng như ở La Mã, không ít nàng trinh nữ thường vạch lên cát lời thổ lộ mà môi họ không muốn thốt ra… Song cậu hãy đoán thử xem nàng đã vẽ gì nào?
- Nếu như là cái gì khác những điều cậu nghĩ thì cậu xin chịu.
- Một con cá.
- Anh nói sao?
- Cháu nói: một con cá! Phải chăng điều đó có nghĩa là cho tới nay trong huyết quản nàng chỉ tuần hoàn rặt một thứ máu lạnh thì cháu không rõ. Hẳn là cậu, người vừa gọi cháu là cái chồi xuân trên cây đời biết cách hiểu rõ hơn cháu cái dấu hiệu này.
- Anh cháu thân yêu ơi[12]! Chuyện đó thì phải hỏi Plinius! Ông ta vốn sành về cá mà. Giá như cụ Apixius còn sống thì hẳn cụ già cũng có thể mách bảo anh đôi điều về chuyện ấy, vì rằng trong đời mình, cụ đã từng xơi một số cá nhiều hơn số cá có thể chứa trong vịnh Neapon.
Đến đây câu chuyện bị gián đoạn, bởi họ được kiệu qua những phố xá tấp nập, ồn ào cản trở câu chuyện. Qua Vieux Apolinix, họ rẽ sang Forum Romanum, nơi trong những ngày đẹp trời, trước khi mặt trời lặn, tụ tập đủ mọi dân tộc để dạo chơi giữa các hàng cột, kể hoặc hóng nghe tin tức thời sự, ngắm nhìn những chiếc kiệu với những nhân vật nổi tiếng được cáng qua, rồi ghé thăm các hiệu kim hoàn, các hiệu sách, các hiệu đổi tiền, hiệu đồ đồng cùng tất cả những cửa hiệu khác, vô số cửa hiệu trong các ngôi nhà chiếm một phần của Bãi Chợ đối diện với đồi Kapitol.
Một nửa Forum nằm ngay dưới chân cung điện đã ngập trong bóng râm, song những hàng cột của các đền đài phía trên hãy còn đang rực lên trong ánh mặt trời trên nền trời xanh màu thanh thiên. Những đền đài nằm thấp hơn trải bóng râm lên những phiến đá cẩm thạch. Khắp nơi nhan nhản đền thờ, đến nỗi mắt người lạc trong ấy như lạc giữa rừng. Các ngôi đền và những hàng cột ấy dường như đang chen chúc nhau, chồng chất lên nhau, né sang trái sang phải, chòi lên đồi, ép sát vào bờ tường lâu đài hoặc ép vào nhau, trông giống như những thân cây cao và thấp; to và mảnh; vàng và trắng; cái cuộn theo kiểu lon, cái được kết thúc bằng một khối vuông giản dị kiểu Đoryx.
Trên cả khu rừng ấy lấp lánh những bản triglif nhiều mầu sắc, từ dưới các xà mái nhô ra hình tạc các vị thần; trên đỉnh, những cỗ xe có cánh bằng vàng trông như đang muốn lao lên khoảng không, lao vào cái màu thanh thiên thanh bình đang treo lơ lửng trên thành phố chật ních những đền đài nọ. Ở giữa Bãi Chợ và viền quanh nó là cả một dòng sông người: những đám người ngồi trên các bậc thềm của đền thờ hai anh em thần Kaxtor và Ponlukx, những đám người đi dạo dưới các vòm của đền thờ Juliux Xezar, lượn quanh đền thờ của nữ thần Vexta; trên cái phông khổng lồ bằng cẩm thạch này, nom hệt như những đàn bướm hay bọ sừng đông nghìn nghịt.
Từ phía trên cao, từ phía thánh đường thờ Jovi Optimo Maximo, qua những bậc thềm đồ sộ đang tràn về đây những làn sóng người mới; bên các diễn đàn người ta lắng nghe những diễn giả ngẫu nhiên nào đó diễn thuyết; đây đó dậy lên tiếng rao hàng của bọn buôn hoa quả, bọn bán rượu nho hay thức uống có pha nước quả vả, tiếng bọn lừa đảo đang mời mọc người mua những loại thần dược; tiếng lũ thầy bói, tiếng bọn thầy địa lý chuyên dò kho của ngầm và tiếng bọn thầy bói chuyên đoán mộng.
Đây đó xen giữa những hỗn âm của những lời trò chuyện và tiếng gọi nhau, vang lên những thanh âm của đàn xixtrum xambux của Ai Cập hoặc tiếng sáo Hy Lạp. Nơi này nơi khác, những con bệnh thành kính hoặc ưu phiền, đang mang lễ vật tới tế hiến các đền thờ. Chen lấn giữa đám người, trên những phiến đá lát, những đàn bồ câu nom giống như các vết sẫm nhiều màu sắc, linh động, đang thèm thuồng nhặt ngũ cốc mà người ta ném cho, thỉnh thoảng lại ồn ã đập cánh bay vụt lên để rồi lại sà xuống những khoảng thưa người.
Đôi lúc, đám người dạt ra trước những chiếc kiệu, trong đó có thể thấy những khuôn mặt đàn bà trang nhã hoặc đầu của các nguyên lão và các hiệp sĩ với những đường nét đã bị cuộc đời hủy hoại khiến cho méo mó đi. Đám dân chúng gồm nhiều dân tộc khác nhau tên họ kèm theo cả biệt danh, với lời nhạo báng hay câu ca tụng. Thỉnh thoảng, xuyên qua những đám người hỗn độn ấy lại có các toán binh lính đang bước đều hay những đội vigin canh giữ trật tự công cộng. Bốn chung quanh, có thể nghe thấy tiếng Hy Lạp cũng nhiều như tiếng Latinh.
Vinixius, người xa thành phố đã lâu, thú vị nhìn ngắm cái quần hợp nọ của loài người bên cái Forum Romanum vừa như đang ngự trị trên những làn sóng của thế giới vừa như bị chìm ngập trong những làn sóng ấy, khiến ông Petronius đoán được ý nghĩa của chàng nên gọi đó là “cái tổ của dân Quiryt không có mặt dân Quiryt”[13]. Quả vậy, cư dân bản xứ hầu như biến mất trong cái đám người gồm hết thảy mọi chủng người và đủ loại dân tộc này.
Ở đây thấy có cả người Êtiopi, lẫn những người cao lớn tóc màu sáng từ phương bắc xa xôi - người Brytania, người Gan và người German. Có cả các cư dân mắt xếch của Xericum, lẫn những người từ Eufrat và từ Ind với bộ râu cằm nhuộm ngả sang màu gạch: có cả người xứ Xiry từ bờ Oront với những cặp mắt đen huyền dịu ngọt, lẫn những cư dân khô khẳng như xương của các sa mạc A Rập, người Do Thái với bộ ngực lép, người Ai cập với nụ cười thản nhiên muôn thuở trên nét mặt cùng người Numidi và người Afri; có người Hy Lạp từ Helađa, những người bình quyền với dân La Mã trong việc cai trị thành bang nhưng lại nắm thêm cả khoa học, nghệ thuật, trí thông minh lẫn thói quỷ quyệt: có người Hy Lạp từ vùng đảo và từ Tiểu Á, từ Ai Cập và từ Italia, từ mãi xứ Galia Narbonxka về.
Giữa đám nô lệ dái tai bị đục lỗ, không thiếu mặt đám dân tự do và rỗng tuếch mà hoàng đế đùa bỡn, nuôi ăn và thậm chí sắm mặc, cùng những lữ khách tự do bị sự dễ dãi của đời sống và viễn ảnh tiền tài lôi kéo tới cái thành bang khổng lồ này, không thiếu bọn chuyên mua đi bán lại cùng các giáo sĩ Xerapix với nhành lá cọ trong tay, các thầy tu thờ nữ thần Izyđa, vị thần được người ta hiến tế nhiều hơn cả thần Jupiter Kapiton, có các tín đồ Kibela cầm nhánh lúa vàng, cả tín đồ của những vị thần lang thang, có các vũ nữ phương đông đội những chiếc mũ sặc sỡ.
Có những kẻ bán bùa phép cùng những người thổi kèn gọi rắn, có các thầy phù thủy Khanđeya, và cuối cùng là bọn vô nghề nghiệp, cứ hàng tuần lại kéo tới các vựa lúa thành Roma để kiếm ngũ cốc, choảng nhau vì vé xổ số trong hí trường, trú đêm trong những căn nhà không ngừng sụp đổ ở các khu phố bên kia sông Tyber, còn những ngày nắng ấm thì ngụ trong các tầng hầm ngoại vi, trong những tửu quán tồi tàn bẩn thỉu của khu Xubura, trên cầu Milviux hay trước dinh thự của những người giàu có, nơi thi thoảng người ta vứt ra cho chúng những thức ăn thừa trên bàn ăn của đám nô lệ.
Những đám đông ấy biết rõ Petronius. Tai Vinixius nghe không ngớt những tiếng: “Hie est” - “Ông ta đấy”. Người ta thích ông vì tính hào phóng, và ông đặc biệt nổi tiếng khi người ta biết rằng ông đã lên tiếng trước mặt hoàng đế để chống lại án tử hình dành cho đám gia nô - nghĩa là toàn bộ nô lệ không phân biệt giới tính và tuổi tác - nhà quan Penđanius Xekunđa, chỉ vì một người trong bọn họ, trong một phút tuyệt vọng, đã giết chết gã chủ tàn bạo nọ.
Mặc dù Petronius đã lớn tiếng nhắc đi nhắc lại rằng với ông chuyện đó chẳng hề có chút nghĩa lý gì, rằng ông nói chuyện với hoàng đế một cách hoàn toàn riêng tư, chỉ với cương vị arbiter elegantiarum, người mà mĩ cảm bị phẫn nộ bởi hành vi giết chóc man rợ nọ, hành vi chỉ có thể xứng đáng với bọn Xkyth nào đó chứ không xứng với người La Mã. Tuy vậy, kể từ lúc ấy dân chúng, vốn phẫn nộ vì vụ hành quyết ấy, vẫn yêu mến Petronius.
[12] Carissime (Latinh)
[13] Quiryt: tên gọi chính thức các công dân có đủ thẩm quyền ở Cổ La Mã. |
|