|
- Nhưng còn cả ngày mai thì bác ngại gì? Tôi chỉ sợ bác chả đem nổi vài vạn tấm lánh sáng mà chụp cho xuể thôi.
Thế là thành cuộc. Bốn vai trò: ông "tham Ngọc" người đi săn, anh Vân người hướng đạo, ông thân sinh ra anh, chim mòng, với tôi, một người tò mò, đi xem. Tôi rất lấy làm lạ vì cứ thấy vai con chim mòng thắng trận, ù tràn đi mà nhà đi săn kia đã phí gần hai mươi viên đạn. Chính anh Vân cũng hơi tái mặt, chỉ sợ người mình lôi về chưa hẳn là thiện xạ, có bao nhiêu lại đến chui hết cả vào két của ông cụ thì...
Làm ra bộ thua cay, nóng tiết, đang đánh một, hai, ba đồng, ông "tham Ngọc" rủ đánh gấp đôi.
- Thưa cụ, đánh nhỏ con lại hay thua, có đánh to mới cao được.
Gặp hồi đỏ, ông cụ hăng hái như đang say rượu nhận lời liền! Thể là từ lúc đánh hai, bốn, sáu đồng, ông cụ năm thì mười hoạ mới được một ván ù suông. Ù tài bàn, sửu bàn 9 chỉ riêng về ông "tham Ngọc".
Thấy số giấy bạc trước mặt, trong tủi mình cứ lần lượt chui ra rồi bay đi với gió, moi ví mãi nóng tiết, ông già thỉnh thoảng lại làm ván ké một "rồng xanh" 10. Nhưng bao nhiêu cũng đều "giá vũ đằng vân" đi đâu mất cả!
Cái ví lép kẹp của ông già giục cả làng tan chầu, đứng lên:
- Thôi, mời bác lên gác đi nghỉ với em. Bác đỏ và đánh cao quá, thật số bác hôm nay phát tài. Tôi thua dễ đến hơn sáu chục!...
Ông cụ "tuy không ăn ớt mà cay " nhưng vẫn vui vẻ như thường, vẫn thản nhiên, lộ cái vẻ yêu con người đã lịch thiệp lại có biệt tài, đánh tài bàn cao.
Còn tôi, tuy tò mò ngồi để ý mất cả buổi tôi, cũng không sao khám phá nổi những ngón bịp ! Vậy "mặt mũi" những ngón bịp thế nào?
o O o
Trên gác riêng của anh Vân, giữa lúc chia tiền.
- Vốn tôi đem sang: mười lăm đồng, vốn bác: năm đồng, mà đây tám mươi ba tất cả, thế là cụ bị mất đút 63 đồng. Đáng lẽ ta chia ba, ông ấm B... ở Hà Nội với tôi hai, còn bác một. Nghĩa là cả ba đạo binh cùng hưởng: đoàn hướng đạo, đoàn quân thắng trận với bộ tham mưu. Nhưng mòng là cụ nhà bác thì bác cứ cầm bốn mươi của. Anh em chúng tôi chỉ dùng 23 hòn đạn là đủ rồi.
Trước cái thái độ nhã nhặn và biết điều này, anh Vân đáp bằng cái gật đầu, chìa tay ra nhận và nói:
- Để lần sau bác sang, tôi gọi cho mấy via 11 nữa đến, rồi ta lại sẽ có dịp được chia hương hoả với nhau. Nhưng tôi muốn bác cho xem qua các ngón để sau này mà tránh...
Nhà đi săn cười. Một cuộc phấn đẩu chốc lát trong óc anh chàng: bí mật nhà nghề, cỏ nên? Hay không?
Sau một lúc lưỡng lự, "ông tham" có ý lấy chúng tôi làm chỗ đồng chí, cũng chẳng phải ngại gì. Chúng tôi ngồi nghe như hai cậu học trò trước một giáo sư dạy khoa quỷ thuật.
- Có ba lối tài bàn. Thứ nhất: lối đánh kiệu hay là nhị cập nhất, hai người thông lưng nhau hại một người bằng những luật nhất định như để tay vào đùi, vào gối, ống chân, bàn chân tuỳ theo quân chờ về hàng văn, hàng sách, hàng vạn... Muốn ăn quân gì hoặc chờ quân gì, cứ việc ra hiệu để bên kia để ý đánh cho mà ăn hoặc hạ ù. Nhưng đó chỉ là phương pháp của các bịp non, dễ lộ tẩy, nếu người ta nghi hoặc, khám bài thấy rõ sự đánh tầm bậy, gian lận thì nguy. Lối ấy không xứng đáng, tôi không thèm dùng.
Thứ nhì: hụt nọc. Lối chơi này cần mĩ thuật lắm, người đánh phải có cả tài lẫn gan. Bắt cái xong, mình phải cầm lấy bài nọc vờ chang đi mấy lớp. Thế là vài ba quân đã theo cái chang chui lọt, nằm gọn trong tay áo mình rồi Đến lúc lên bài, phải xoay đi cho phu nào vào phu ấy, lưng nào vào lưng ấy, Thừa quân thì dễ ù lắm. Nếu ù... hạ bài xong cử để mặc làng khám cho kĩ. Xong đâu đấy, gạt cả ra một góc chiếu cho người chia bài... là mấy quân bài trốn thẻ" trong tay áo đã thừa cơ chui tọt ra, theo cái lúc "hỗn quân hỗn quan", hợp với bọn lính thắng trận về cổng khải hoàn. Muốn đề phòng sự làng nghi ngờ, thấy mình ù nhiều mà điểm lại bài nọc, bài rìa, thì có hai cách cản. Một là thấy mình hạ xong ông "bạn đồng chí" cầm ngay lấy phần nọc vờ tìm quân ông ta đang chờ, phàn nàn rầm lên, "gọi chó" rầm lên, ồ ạt xoá đi cho người kia không kịp điểm nữa. Hai là rút ở nọc lên mà ù. Quần bài chờ ấy lẽ tất nhiên là quân mình thụt được ở nọc từ trước đã giấu sẵn trong tay. Lúc xoa tay xuống nọc vờ rút nó lên thì trong lòng bàn tay phải có sẵn cả những quân mình đã hụt, trả vào nọc, chỉ "xách cổ" lên một quân chờ ù. Đến thế thì ván nào mình ù, làng có điểm bài cũng không ngại gì nữa.
Lắm khi chơi với bọn thạo, không hụt nổi ở nọc thì mình phải dùng đến chước thứ ba, nghĩa là hụt vào phần bài của ông "bạn đồng chí" với mình. Bắt cái xong, cầm phần bài mình trong tay rồi, mình lại phải vớ lấy "phần bài tòng phạm" liệng trả ông bạn. Trong cái liệng rất ý tứ mà ít ai để ý ấy, ngón tay cái với ngón tay trỏ của mình đã "họp đảng" với nhau giữ lại vài quân, trập phắt vào phần mình. Thế là ông bạn cầm phần bài thiếu phải đánh bậy bạ cho qua cuộc, cốt sao "che mắt thế gian".
Ấy, chỉ có thế thôi, bịp tài bàn cũng vậy hay tổ tôm cũng vậy..Cốt nhất phải có bộ mặt tài tử đóng kịch, nghiễm nhiên, bệ vệ, cũng cốt nhất là ngồi vào một chỗ không ai ám nổi, tránh cho xa những bác chầu rìa. Trong cuộc giảng bài này, ông "tham" cho chúng tôi rõ cả phần thực hành lẫn phần lí thuyết. Nhanh như chớp, ông giở ngón có bảo trước cho biết mà chúng tôi chịu, không sao vớ được cái "thiên biến vạn hoá" của nhà quỷ thuật đại tài.
Bữa tiệc nào cũng phải có đồ nước nên nhà bạc bịp thuật thêm một câu chuyện ngắn nữa để làm món đét-xe ( tráng miệng).
Một lần, ngồi vào cuộc với hai ông khách lạ mà tôi tưởng là quých, tôi vờ chang bài nọc, hụt xong, để xuống đĩa thì bỗng phải giật mình lo sợ vì chỉ cuỗm có bốn quân mà sao phần nọc có lẽ thiếu nhiều? Đang mải ngẫm nghĩ thì một ông khách lạ nắm chặt lấy tay tôi. Cuống quá, đã tái cả mặt nhưng nhanh trí khôn, tôi cũng vội liều nắm chặt cổ tay ông ta làm cái "trả miếng". Rồi chúng tôi cùng buông nhau ra để cười sằng sặc, gập đôi người lại mà cười. Tôi hụt bốn quân bài thì ông khách ấy cũng hụt ba quân cộng với một quân. Ông ta chia thừa cho phần bài của ông mà tôi thì hụt nọc! Chúng tôi gọi buổi ấy là ngày "anh hùng tương ngộ", cũng là "bịp lũa" cả mà bên nọ còn tưởng bên kia là mòng.
Trước mặt anh chàng dắt khách lấy hồ hòng chuyện nọ kia, mặt tiu nghỉu như chó bị thiến, chúng tôi vỗ vai nhau, bắt tay nhau một cách ân cần, gọi nhau là "tri kỉ".
Chú thích
1.Ông Ấm B. sổ...phố Hàng Cá. Hà Nội.
2.Bắc Ninh. ngày 26 tháng 2 năm 1933.
3.Giày da mềm dùng những khi nhảy đầm.
4.Tham tán là nhân viên hành chính trung cấp của các cơ quan của Pháp.
5.Kinh tế khủng hoảng, nói tắt.
6.Mồng 6 tháng 10 năm 1931.
7.Hội các nước trên thế giới năm 1920, đến 1946 đổi thành tên Liên Hiệp Quốc.
8.Luật sư.
9.Ù tài bàn là ăn một ván bài to nhất, sửu bàn là to thử hai.
10.Giấy bạc hai mươi đồng.
11.Nói theo tiếng Pháp: vieux nghĩa là ông già. |
|