Năm Nhâm Tuất (542), một hào trưởng người Việt tên là Lý Bí phát động khởi nghĩa và chỉ trong vòng ba tháng đã quét sạch quân đô hộ nhà Lương ra khỏi bờ cõi. Sau đó ông lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đến năm Mậu Thìn (548) trước khi mất, ông trao quyền lại cho Triệu Quang Phục (hiệu là Triệu Việt Vương).
Năm Đinh Sửu (557) một tướng cũ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành quyền lại cho họ Lý nhưng không thành, hai bên giảng hòa. Năm Tân Mão (571), Lý Phật Tử bất ngờ cho quân đánh úp, Triệu Việt Vương bị đại bại phải tự vẫn. Lý Phật Tử liền lên ngôi cũng xưng là Lý Nam Đế, để phân biệt với Lý Bí, sử cũ gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế.
Theo chính sử, năm Nhâm Tuất (602), giặc Tuỳ sang xâm lược, Hậu Lý Nam Đế chống không nổi phải đầu hàng rồi bị bắt đưa về phương Bắc, kết thúc 31 năm làm vua; tuy nhiên theo sách Việt điện u linh thì “Hậu Lý Nam đế làm vua 23 năm, sau bị phó tướng là Lưu Đức diệt”. Khác với chính sử, một số tư liệu dã sử thì cho biết người quân Tùy bị bắt không phải là Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đế) mà là một vị vua khác cũng xưng hiệu là Lý Nam Đế, đó là Lý Sư Lợi, con trai thứ của Hậu Lý Nam Đế. Lên làm vua được mấy năm, chỉ ham ăn chơi hưởng lạc vì thế vị Hậu Lý Nam Đế thứ 2 này khi giặc chưa đánh đã xin hàng rồi bị bắt làm tù binh. Ông tự chuốc nhục vào thân, làm nước mất nhà tan.
cre:lichsu.vn
Tác giả: hwang_ryu
Thời gian: 31-1-2012 02:22 PM
Cảm ơn bạn vì những thông tin bổ ích này
Rất hữu ích cho mọi người thêm hiểu về lịch sử nước nhà
Tác giả: mirain1102
Thời gian: 1-2-2012 09:57 PM
Bổ ích. Nhưng mà ngắn quá, post lên nữa đi bạn. Nếu như có bài nói về trạng post luôn bạn nha. ^^
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:09 PM
Mỗi vị vua có suy nghĩ, quan điểm, hành động khác nhau khi ngồi trên ngai vàng. Và số phận của họ cũng chứa đựng những chuyện lạ kỳ rất khác nhau.
Mai Hắc Đế một mình đánh hổ
Nhắc tới chuyện đánh hổ, mọi người thường nghĩ ngay đến Võ Tòng trong tác phẩm Thuỷ Hử mà không biết rằng ở Việt Nam ta, nơi “hào kiệt đời nào cũng có” thì chuyện đánh hổ không phải là hiếm. Nếu như chuyện đánh hổ của Bố Cái đại vương Phùng Hưng được lưu truyền rộng rãi từ bao đời nay thì chuyện đánh hổ cứu mẹ của Mai Hắc Đế lại ít người được biết.

Mai Thúc Loan và nghĩa quân (ảnh: Internet)
Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) là người thứ 2 trong lịch sử nước ta xưng đế sau khi lãnh đạo thắng lợi cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ của nhà Đường. Thuở nhỏ, một lần Mai Thúc Loan cùng mẹ vào rừng kiếm củi, bất ngờ có một con hổ lớn lông vàng chồm ra ngoạm lấy cổ bà mẹ định tha đi. Cậu bé họ Mai nghe tiếng thét của mẹ liền lao đến giang tay chém mạnh một nhát rìu vào đầu hổ, con hổ dữ bị chém đòn thí mạng phải buông mồi nhưng liền nhảy tới tát mạnh vào kẻ tấn công. Mai Thúc Loan tránh được rồi dồn sức dùng rìu chém tiếp khiến con hổ bạt vía cụp đuôi bỏ chạy vào rừng với vết thương lớn trên người. Người mẹ thoát khỏi nanh vuốt của hổ nhưng vì vết thương trên cổ quá nặng nên đã qua đời, Mai Thúc Loan trước đã mồ côi cha nay mất cả mẹ. Ông được một người bạn của cha tên là Đinh Thế cưu mang, nuôi dạy. Đến khi Mai Thúc Loan trưởng thành Đinh Thế đã gả con gái là Đinh Thị Ngọc Tô. Chính người vợ này và gia đình bà đã giúp đỡ Mai Thúc Loan rất nhiều trong việc chuẩn bị lực lượng dấy cờ khởi nghĩa.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:10 PM
Những món quà “độc” của vua Lê Đại Hành
Năm Canh Dần (990), sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt, sứ giả nhà Tống là Tống Cảo sang nước ta nối lại quan hệ ngoại giao. Trong chuyến đi này đoàn sứ giả nhà Tống đã được vua Lê Đại Hành tặng những món quà đặc biệt, đáng nhớ suốt đời.
Một lần sau bữa tiệc, vua cho người khiêng một con trăn lớn dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ Tống: Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời. Sứ Tống khiếp đảm từ chối. Một lần khác, Lê Đại Hành cho người dắt tới hai con hổ dữ tặng cho sứ thần thưởng ngoạn làm phái bộ nhà Tống lại một phen sợ toát mồ hôi
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:14 PM
Lý Thái Tông đề xướng “Người Việt dùng hàng Việt”
Vị vua thứ 2 của nhà Lý là Lý Thái Tông. Trong 26 năm ở ngôi báu ông đã có những đóng góp tích cực tới hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quốc gia, củng cố bộ máy nhà nước và để lại nhiều dấu ấn thú vị, đáng nhớ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá ông “là người nhân triết thông tuệ, có đại lược văn võ, trong lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Vì có tài đức ấy nên có thể làm mọi việc”. Tổng kết về sự nghiệp và đức độ của Lý Thái Tông, sách Việt giám thông khảo tổng luận khen ngợi là người “trí dũng gồm hai, đánh đâu được đấy; có đức hiếu hữu, học tập lễ văn, đánh giặc giã, dẹp man nhung, cày tịch điền, khuyên việc ruộng, dân oan có chuông, việc hình có luật; là một bậc vua giỏi giữ nền nếp vậy”.
Là người có tinh thần dân tộc cao, Lý Thái Tông là người đi đầu trong việc bài trừ tư tưởng sùng ngoại. Tháng 2 năm Canh Thìn (1040) “vua dạy cung nữ dệt gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc trong kho ban cho các quan. Làm vậy để tỏ ý là vua sẽ không dùng gấm vóc của nước Tống nữa” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đánh giá về việc này, các sử thần nhà Nguyễn trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục phê một câu rất ngắn gọn: Được.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:16 PM
Lê Thánh Tông xin lỗi bề tôi
Lê Thánh Tông trong 37 năm làm vua đã đưa nước Đại Việt trở thành một quốc gia hùng cường.
Dù là một minh quân, Lê Thánh Tông cũng không tránh khỏi những sai lầm nhất định.Nếu như Lý Cao Tông dũng cảm nhận lỗi trước muôn dân thì Lê Thánh Tông cũng không vì địa vị cao sang mà quên rằng cần phải thừa nhận những điều mình làm không đúng. Một lần vua xử phạt mấy viên tướng bại trận, quan Ngự sử Trần Xác cho rằng việc thưởng phạt không đúng lệ định, Lê Thánh Tông tức giận mắng ông. Ít lâu sau vua nghĩ lại thấy mình sai bèn nhận lỗi và xin được nghe tiếp những lời thẳng thắn của Trần Xác: “Ta vì vu oan cho ngươi là kẻ biện bác để mê hoặc người, đó là ta lỡ lời. Nay ngươi có mưu kế gì hãy cứ nói với ta, ấy cũng là như cơn mưa ngọt đến khi trời hạn, như con thuyền đến lúc ta cần đi qua sông” (Đại Việt sử ký toàn thư).
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:18 PM
Ai làm chúa rồi lại làm vua?
Khi nhắc đến chính quyền của họ Nguyễn người ta thường nói tới “chín chúa, mười ba vua”. Điều đó không sai nhưng chưa chính xác bởi thực ra họ Nguyễn có tới 10 đời chúa; tháng 9 năm Đinh Dậu (1777), vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần trong một trận đánh ác liệt với quân Tây Sơn đã bị bắt, sau đó bị giết. Sự nghiệp phục dựng quyền bính của họ Nguyễn đặt hết lên vai Nguyễn Phúc Ánh, đây chính là người duy nhất trong lịch sử Việt Nam làm chúa rồi lại làm vua.
Sau một thời gian tổ chức lại lực lượng, tiến hành tái chiếm nhiều vùng đất và làm chủ cả vùng Gia Định, đến năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi chúa và xưng vương, dùng niên hiệu Cảnh Hưng của vua Lê trong các văn bản giấy tờ, cho đúc ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” để sử dụng. Trải nhiều năm tháng với các trận chiến ác liệt, đến tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn rồi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Gia Long (1802-1819), lập ra triều Nguyễn.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:23 PM
Các vị quân vương là “thiên tử” thay trời hành đạo nhưng cũng phải nếm đủ mùi vị của cuộc sống với muôn vẻ bi hài.
Trần Nhân Tông có màu da như vàng ròng
Trần Nhân Tông là một minh quân trong lịch sử Việt Nam, là người lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ 3, là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền đặc trưng của Phật giáo Việt Nam.

Ảnh thờ Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông còn có tên là Kim Phật, cái tên đặc biệt này xuất phát từ nước da lạ kỳ của vua. Sách Đại Việt sử ký toàn thư không ghi cụ thể về điều đó mà chỉ cho biết vua “được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung (tức Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông) đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử”.
Trong sách Thiền Tông bản hạnh thì ghi mẹ vua là Nguyên Thánh Hoàng thái hậu nằm mộng thấy thần trao cho hai thanh kiếm và bảo bà lựa chọn rồi từ đó có mang mà sinh ra vua. Đặc biệt, trong Thánh Đăng ngữ lục chép rõ về nước da của Trần Nhân Tông như sau: “Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật...”.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:25 PM
Hồ Hán Thương lập cơ quan y tế đầu tiên
Dưới triều Hồ, nhiều chính sách cải cách có những điểm rất tiến bộ. Một trong số đó là việc thiết lập cơ quan y tế cấp quốc gia. Cơ quan y tế đó do vua Hồ Hán Thương lập ra tháng 9 Quý Mùi (1403) để chữa trị bệnh tật cho người dân mà không có sự phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Phương sĩ Nguyễn Đại Năng, người ở Giáp Sơn có thuật dùng lửa cứu hoặc lấy kim châm để chữa bệnh cho người, Hán Thương bổ làm chức Quảng Tế thự thừa. Đặt quan thuộc Quảng Tế bắt đầu từ đó”. Như vậy cơ quan y tế công cộng đầu tiên ở nước ta có tên gọi là Quảng Tế (một số sách chép là Quảng Tế hựu, Quảng tế thự, Quảng tế thực…) và người đứng đầu cơ sở này giữ chức Quảng Tế tự thừa .
Nhân vật Nguyễn Đại Năng quê ở Giáp Sơn (nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) là một danh y, nhà châm cứu tài năng, để lại một tác phẩm nổi tiếng là sách “Châm cứu tiếp hiệu diễn ca” ghi cách chữa 130 bệnh dùng 140 huyệt châm cứu, trong đó có 11 huyệt do người Việt tìm ra. Đây là tác phẩm chuyên ngành châm cứu đầu tiên ở nước ta.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:26 PM
Con hổ xám và sự ra đời của vua Lê Thái Tổ
Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi. Ông sinh vào giờ Tý, ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385). Truyền rằng ở thôn Như Áng, gần nhà vua “có một cây quế, dưới cây quế có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Từ khi Hoàng đế ra đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho đó là một sự lạ.

Tượng Đài Lê Lợi ở TP Thanh Hóa
Ngày Hoàng đế sinh thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt bay khắp làng. Khi lớn lên, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng mồm rộng; sống mũi cao. Xương mi mắt gồ lên; bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ; tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường” (Đại Việt thông sử).
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:30 PM
Trần Minh Tông bị ong đốt mà qua đời
Trần Minh Tông là vị vua thứ 5 của nhà Trần, được đánh giá là người “tính trời khiêm hòa, nhận ngôi của Anh Tông nhường, để tâm vào thú hàn mặc, sính bút ở tập Thủy vân, có thơ khuyên người hiền, có bài răn uống rượu, dường như cũng đáng khen” ( Việt giám thông khảo tổng luận).
Trong cuộc đời mình, Trần Minh Tông thấy ân hận, day dứt nhất là việc nghe lời xiểm nịnh giết oan bố vợ đồng thời cũng là chú ruột của mình là Huệ Võ vương Trần Quốc Chẩn vào tháng 3 năm Mậu Thìn (1328). Sau này vụ việc sáng tỏ, vua lấy làm ân hận cho khôi phục chức tước, sai lập đền thờ Trần Quốc Chẩn, thế nhưng vụ án oan khuất đó vẫn ám ảnh ông.
Tháng 8 năm Bính Thân (1356) khi đã lên làm Thái thượng hoàng, Trần Minh Tông về thăm đền thờ cha vợ ở núi Kiệt Đặc (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương ngày nay). “Khi trở về, trong thuyền ngự có con ong vàng đốt vào má phía bên trái của Thượng hoàng, rồi Thượng hoàng bị bệnh” (Đại Việt sử ký toàn thư). Về đến Thăng Long, bệnh tình của Trần Minh Tông ngày một xấu, đến tháng 2 năm Đinh Dậu (1357) thì qua đời. Theo dã sử, con ong vàng đó chính là oan hồn của Trần Quốc Chẩn về báo thù.
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:36 PM
Trần Thái Tông đoán dúng ngày giờ mình chết
Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (1277) Trần Thái Tông băng hà, theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trước đó một năm vị vua này đã đoán trúng thời điểm mình sẽ qua đời, khi ấy ông đã rời ngôi báu để làm Thái Thượng hoàng được 18 năm:
“Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh. Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm dữ.
Hôm sau Mặc lão tâu: "Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có chữ Nguyệt, trên hòm có một cái kim, một chiếc lược". Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức là quan tài, chữ "nguyệt" (tháng) ở bốn bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi".
Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu: "Mau đến ngày mồng 1 thay phiên". Thượng hoàng lại đoán: "Thế là ngày mồng 1 ta chết". Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu: "Tháng 4 sang năm ta tất chết". Quả như vậy”.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:41 PM
Trần Anh Tông dùng… chân cứu nhiều người thoát chết đuối
Năm Nhâm Tý (1312) vua Trần Anh Tông dẫn quân Nam chinh đánh Chiêm Thành thắng trận. Khi trở về ông cho làm lễ thắng trận lại các lăng vua đời trước ở phủ Long Hưng (nay thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình). Sau đó vua cùng đoàn tùy tùng theo đường thủy trở lại Thăng Long.
Chuyến đi này đã gặp trở ngại và câu chuyện vua dùng chân cứu người được sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Khi về đến sông Thâm Thị (một đoạn sông Hồng chảy qua huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay- TG), bỗng gặp mưa gió sấm chớp, ban ngày mà tối đen như đổ mực, trong khoảng gang tấc cũng không nhìn thấy nhau. Dây buộc thuyền đều bị đứt cả, thuyền ngự chìm ở giữa dòng. Vua bám lấy đầu thuyền leo lên mui, lấy chân cho các cung nữ, nữ quan bám lấy để cùng leo lên mui.”
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:46 PM
Vua Gia Long được xóm “cái bang” cứu giúp
Vị vua sáng lập vương triều Nguyễn là Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) khi đánh với quân Tây Sơn đã nhiều lần thất bại, bị truy đuổi gay gắt và không ít lần rơi vào hoàn cảnh quấn bách, nguy khốn nhưng đều may mắn được cứu giúp.
Thú vị nhất là chuyện Nguyễn Phúc Ánh được những người ăn mày thuộc một xóm “cái bang” giúp đỡ qua cơn hoạn nạn. Một lần thua trận, chỉ còn một thân một mình Nguyễn Phúc Ánh trốn vào khu cư ngụ của đám ăn mày ở làng Nhơn Ngãi ngoại thành Gia Định (nay thuộc phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, TP HCM). Không rõ vì biết thân thế hay vì cảm thương một người sắp lâm vào cảnh chết chóc, hoặc cũng có thể do tính nghĩa hiệp mà họ đã ra tay cứu giúp Nguyễn Phúc Ánh.
Những người ăn mày đưa ông đi ẩn nấp rồi gọi cả nhóm “cái bang” la hét ầm ĩ, đánh trống, đập thùng, gõ xoong chảo... làm như nơi đây có binh hùng tướng mạnh khiến cho toán quân Tây Sơn đang truy đuổi sợ gặp phục binh của chúa Nguyễn bèn rút lui.Về sau, khi đã lên ngôi hoàng đế, nhớ tới ơn xưa, vua Gia Long đã ban thưởng cho những người ăn mày từng cứu giúp mình. Ông cho phép họ lập thành xóm rồi ban cho ba chữ Tân Lộc Phường lấy làm tên xóm.
cre:lichsu.vn
Xem thêm thông tin về vua triều Nguyễn tại đây
http://kites.vn/forum.php?mod=re ... 3580&pid=862819 (tổng hợp của bạn love_milk_tea9)
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:47 PM
Vua Tự Đức lấy trẻ con làm lính thị vệ
Lính thị vệ là những người bảo vệ vua được tuyển chọn rất cẩn thận. Họ phải đảm bảo ít nhất hai yêu cầu: tuyệt đối trung thành và giỏi võ nghệ. Thế nhưng có trường hợp đặc biệt, vua Tự Đức đã đặc cách phong hai đứa trẻ làm thị vệ.
Bấy giờ, vào năm Kỷ Mùi (1859), ở Quảng Trị có một khu trại tre rộng hơn một mẫu, có rất nhiều chim về làm tổ. Biết vua thích săn bắn, các quan địa phương đã niêm yết cấm dân thường vào đó phá phách, để dành riêng nơi đây cho vua hàng năm ra săn bắn. Một lần vua Tự Đức ra Quảng Trị, ông không muốn kinh động nên truyền cho tùy tùng đứng ở xa đợi, còn vua mặc thường phục, một mình mang súng vào bắn chim. Bỗng đâu xuất hiện hai đứa bé chăn trâu chừng 11- 12 tuổi, chúng giằng súng, níu áo không cho bắn, nói là làm như thế cả làng sẽ bị tội và cho biết ở đây chỉ có vua được bắn chim thôi.
Vua Tự Đức rất bất ngờ, ông liền quay ra gọi các quan và sai trở về kinh, mang theo 2 đứa trẻ , phong chúng làm Ngũ đẳng thị vệ. Vua còn ban tiền bạc khen ngợi cha mẹ chúng vì đã đẻ con có nghĩa, biết dạy con lòng trung thành.
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:49 PM
Mạc Mậu Hợp mưu giết bề tôi để cướp vợ
Ở ngôi 30 năm (1562-1592), Mạc Mậu Hợp là người làm vua lâu nhất trong số các vua Mạc thời hưng thịnh. Tuy nhiên cũng chính ông vua này khiến cho cơ nghiệp của họ Mạc suy vong. Và một trong các nguyên nhân chính là thói hoang dâm hiếu sắc của ông.
Nếu như trong lịch sử Trung Quốc có không ít chuyện các hôn quân, bạo chúa cướp vợ của thần dân, con em hoàng tộc hoặc bề tôi của mình để thỏa mãn dục vọng thì lịch sử Việt Nam chỉ duy nhất có vua Mạc Mậu Hợp là dám làm chuyện như vậy. Ông đã lập kế định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh lực nhà Mạc đã theo viên tướng này về quy phục vua Lê làm cho thế lực của Mạc Mậu Hợp ngày càng suy yếu. Sự việc này xảy ra vào cuối năm Nhâm Thìn (1592). Sách Lê triều thông sử viết: “Vợ viên trấn thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức con gái Nguyễn Quyện. Chị gái của Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết rõ hơn: “Chúa Mạc là Mậu Hợp ngày ngày say đắm tửu sắc. Nguyễn thị là con gái của Nguyễn Quyện và là vợ Bùi Văn Khuê, nhân có em gái là vợ của Mạc Mậu Hợp, nên thường ra vào trong cấm cung. Mậu Hợp ưng ý Nguyễn thị vì nàng có nhan sắc, nên muốn giết Văn Khuê để chiếm lấy nàng. Văn Khuê biết chuyện, bèn đem quân bản bộ tự ý rút về Gia Viễn, đóng binh một chỗ, không chịu vào chầu. Mậu Hợp sai quân đến bức bách để bắt Văn Khuê sai con trai là Văn Nguyên chạy vào Thanh Hoa, dâng lễ đầu hàng và xin cứu viện. Trịnh Tùng ưng nhận cho hàng và mừng rỡ nói: Văn Khuê đầu hàng, thế là trời giúp cho ta được chóng thành công. Đất đai bản triều có thể hẹn ngày khôi phục được”.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:51 PM
Giản Định Đế bị bắt làm Thái thượng hoàng
Thái thượng hoàng là ngôi vị mang nghĩa "vua bề trên". Danh hiệu này được dùng từ khi người đó nhường ngôi vua cho con trai, cháu trai, hoặc em trai, cho đến khi qua đời. Tuy nhiên trong lịch sử nước ta, cũng có một số trường hợp tuy không làm vua nhưng vẫn được tôn làm Thái thượng hoàng như Sùng Hiền Hầu thời Lý, Trần Thừa thời Trần… Chế độ Thái thường hoàng có từ thời Lý, trải qua các triều Trần, Hồ, Hậu Trần, Mạc, Lê Trung Hưng có tổng cộng 17 người ở trên ngôi vị này, trong số đó có duy nhất trường hợp của Giản Định Đế là bị bắt phải làm Thái thượng hoàng.
Giản Định đế tên húy là Trần Ngỗi, còn có tên khác là Trần Quỹ, vị vua đầu tiên của nhà Hậu Trần, được dựng lên trong thời kỳ đầu chống ách đô hộ của giặc Minh xâm lược. Vì vua giết oan trung thần nên con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị, con Đặng Tất là Đặng Dung đều căm giận mới đem quân về Thanh Hóa rước cháu của Giản Định đế là Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua, lấy niên hiệu là Trùng Quang. Để thống nhất lực lượng kháng chiến, vua Trùng Quang sai Thái phó Nguyễn Súy đem quân đánh thành Ngự Thiên (nay thuộc Hưng Nhân, Thái Bình) bắt được Giản Định đế đưa về Nghệ An vào ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1409), “tôn lên làm Thượng hoàng, cùng chung sức đánh giặc” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Sự kiện này cũng được sách sử phương Bắc chép, sách Nguyên sử viết: “Bấy giờ bọn Nguyễn Súy suy tôn Giản Định làm Thái Thượng hoàng, lập riêng Trần Quý Khoáng làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang”.
Mặc dù bị bắt làm Thái thượng hoàng nhưng Giản Định đế cũng không có phản ứng gì tiêu cực mà vẫn hăng hái đánh giặc cho đến khi bị chúng bắt được vào tháng 7 năm Kỷ Sửu (1409) đưa về phương Bắc giết hại. Giản Định đế là vị Thái Thượng hoàng duy nhất của thời Hậu Trần và ở ngôi ngắn nhất tronng lịch sử (gần 4 tháng).
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:52 PM
Đời vua Tự Đức từng có đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha
Thời Nguyễn, quan hệ ngoại giao của nước ta không chỉ bó hẹp với các quốc gia láng giềng phương Đông mà với các quốc gia Tây phương quan hệ cũng được mở rộng hơn so với thời Lê Trung Hưng.
Đã có những tiếp xúc giữa Đại Nam với các quốc gia Mỹ, Anh… nhưng do những lý do khác nhau, quan hệ ngoại giao chưa được xác lập chính thức. Tuy nhiên có một đại diện ngoại giao chính thức của phương Tây đã được đặt ở nước ta, đó là đại diện của Tây Ban Nha. Ngày 9 tháng 7 năm 1881, Don Tiburcio Rodriguez đặt chân đến thành Gia Định (Sài Gòn) với cương vị Đại sứ Toàn quyền của Tây Ban Nha ở Đại Thanh (Trung Quốc), Xiêm La (Thái Lan) và Đại Nam (Việt Nam).
Bấy giờ quân Pháp đang đẩy mạnh chiến tranh xâm lược nước ta, nhiều vùng đất ở miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị giặc chiếm đóng, vì vậy một mặt quân Pháp ở Gia Định uy hiếp đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha, mặt khác chính phủ Pháp phản đối quyết liệt việc Tây Ban Nha thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Đại Nam ở cấp đại sứ, cuối cùng Tây Ban Nha buộc phải bãi bỏ cơ quan đại diện ở nước ta. Mối quan hệ ngắn ngủi giữa Đại Nam và Tây Ban Nha thời vua Tự Đức đã kết thúc nhanh chóng như vậy.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 1-2-2012 11:54 PM
Lý Anh Tông, hoàng đế đầu tiên đi tuần biển Đông
Trong khi nhiều quốc gia lân bang cùng thời kỳ chỉ quan tâm đến lãnh thổ trên đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc biệt chú trọng đến biển, không chỉ nhằm khai thác hải sản và các nguồn lợi khác từ biển mà còn từng bước xác lập chủ quyền trên các hải đảo. Thậm chí có vị vua còn đi tuần thú ra biển để xem xét và người đầu tiên thực hiện việc đó là Lý Anh Tông, hoàng đế thứ 6 của triều Lý.
Sử chép rằng, vào tháng 11 năm Tân Tị (1161) vua sai Thái úy Tô Hiến Thành “đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên bờ cõi xa” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Năm Tân Mão (1171) “vua đi tuần ra cù lao ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần thế nào”; tháng 2 năm Nhâm Thìn (1172) “vua lại đi tuần ra cù lao ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Qua các lần đi này, vua Lý Anh Tông đã soạn một cuốn sách lấy tên là “Nam Bắc phiên giới đề”.
cre;lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 10-2-2012 01:29 AM
Trần Nhân Tông giữa đường xử kiện
Tháng 10 năm Canh Thìn, vua Trần Nhân Tông đang đi trên đường thì có người dân đón đường mong được minh xét. Vua đã xử án ngay giữa đường, phát hiện ra một số quan lại lộng quyền ức hiếp người dân.
Là người nắm uy quyền tối cao nên mặc dù đặt ra cơ quan chuyên phụ trách việc hình án, xử lý kiện tụng nhưng trong một số trường hợp nhất định, có những vị vua Việt Nam đã trực tiếp xử án. Như trường hợp vua Trần Nhân Tông, nhưng chuyện ông xử án rất đặc biệt, không phải tại cung đình, trong công đường mà ở giữa đường.
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cho hay, vào tháng 10 năm Canh Thìn (1280) khi vua đang đi trên đường thì phải dừng xe lại để xử kiện: “Em Đỗ Khắc Chung* là Đỗ Thiên Thư kiện tụng với người dân, tình lý đều trái. Người dân kia đón xa giá để kêu bày.
Vua hỏi quan xử kiện. Viên quan đó trả lời: "Án xử đã xong, nhưng hình như quan thoái thác không chịu chuẩn định đó thôi".
Vua nói: "Đó là do sợ mà né tránh Khắc Chung đấy!". Ngay lúc đó, vua sai Chánh trưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao kiêm chức kiểm pháp quan để chuẩn định. Thiên Thư quả nhiên làm trái, Quan áo xanh (tức là hoạn quan) được làm việc kiểm pháp bắt đầu từ Hùng Thao.
Đánh giá về câu chuyện này, nhà sử học thời Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên viết: “Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình được thấu lên trên. Việc cai trị dân, thà sai để khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử ngay, cũng đủ thấy được lòng trung hậu của vua” (Đại Việt sử ký toàn thư).
cre;lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 10-2-2012 01:31 AM
Vua Tự Đức làm vè châm biếm các quan
Có lẽ Tự Đức, hoàng đế thứ 4 của nhà Nguyễn là vị vua duy nhất trong số các đế vương nước Việt làm vè, càng lạ hơn qua nội dung của bài vè này vua đã châm biếm các đại thần của mình.
Sự tình bắt đầu từ việc tháng 4 năm Bính Tý (1876), vua Tự Đức cùng triều thần ra cửa Thuận An (còn được gọi là cửa Eo, cửa Nộn cách Huế khoảng 15 km) để quan sát dân tình. Bỗng xuất hiện 2 chiếc thuyền của bọn cướp biển Tàu Ô tấn công 9 chiếc thuyền chở hàng của quân Nguyễn. Chúng bắn giết khiến thuyền của triều đình bỏ chạy tán loạn, những thuyền chiến được cử ra đánh thì súng thần công bắn không tới, phát thì trượt, phát thì không nổ. Không những thế bọn cướp bắn lại khiến cho quân ta nhiều người bị thương vong, sau một hồi cướp giết, thuyền Tàu Ô bỏ đi.
Tận mắt thấy cảnh trớ trêu, bi thảm, tinh thần yếu kém bạc nhược của quan quân, vua Tự Đức ngao ngán trở về triều nhưng không ban lệnh trách phạt ai cả. Trái lại vua dùng “đòn bút” làm cho những người có liên quan phải hổ thẹn bằng một bài vè châm biếm, trong đó có đoạn:
“Nghênh ngang võng võng, dù dù
Bài vàng xiêm mũ xuân thu tháp đầu
Cũng không tài cán chi đâu
Rồi ra múa mỏ, vểnh râu một bè
Phen này mắt thấy, tai nghe
Tham sinh quý tử một bề như nhau
Ăn thì giành trước giành sau
Đến khi có giặc thụt đầu, thụt đuôi
Cũng xưng rằng đấng làm tôi
Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mình!”
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 10-2-2012 01:32 AM
Bảo Đại - vua duy nhất phản đối chế độ đa thê
Cuộc đời vị hoàng đế cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam thường được gắn với những chuyến thăm thú, vui chơi và nhất là những câu chuyện tình ái với biết bao bóng hồng tuyệt sắc Á, Âu. Tuy nhiên ông cũng chính là vị quân vương duy nhất trong lịch sử công khai tuyên bố phản đối chế độ đa thê.
Chuyện kể rằng để lấy được người đẹp Nguyễn Hữu Thị Lan, vua Bảo Đại đã phải chấp nhận 4 điều kiện của bà. Trong đó điều đầu tiên là phải tấn phong hoàng hậu ngay trong ngày làm lễ thành hôn. Vị hoàng đế đa tình đã chấp nhận tất cả để rồi cô con gái của một hào phú Nam bộ đã trở thành Hoàng hậu Nam Phương. Đáng lẽ ra bà Nguyễn Hữu Thị Lan còn đặt thêm điều kiện “chỉ một vợ một chồng, vua không được có nhiều phi tần”, nhưng bà không đưa ra điều kiện này vì trong một buổi bàn về chuyện hôn nhân của vua, Bảo Đại là nói với triều thần rằng ông chống lại tục đa thê.
Sau này, trong cuốn hồi ký “Le Dragon d’ Annam” (Con rồng An Nam) của mình, chính Bảo Đại cũng đã cho biết lý do ông phản đối tục đa thê: “Như tôi đã có dịp nói, tôi đả phá chế độ đa thê đang thịnh hành ở Việt Nam. Khi phong tôi làm Đông cung Thái tử, không có gì khó khăn vì tôi là hoàng tử độc nhất của Hoàng phụ tôi. Nhưng tôi biết đã xảy ra nhiều tấn bi kịch đẫm máu vì sự tranh chấp kế vị, nhiều khi rất hèn hạ xấu xa giữa anh em ruột hay anh em cùng cha khác mẹ. Tôi không muốn giẫm lên vết xe đổ ấy nữa”.
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 10-2-2012 01:34 AM
Lý Thánh Tông đổi niên hiệu vì được dâng voi trắng
Niên hiệu là danh hiệu của vị vua được đặt khi lên ngôi để thần dân trong nước gọi thay cho tên chính, đồng thời để tính năm trị vì. Theo các từ trong niên hiệu, người ta thấy niên hiệu bắt nguồn từ triết lý vương quyền trong Nho giáo, theo lý thuyết này, vua trị nước là do mệnh trời vì thế niên hiệu đều mang ý nghĩa tốt đẹp. Khi có một sự kiện lớn, hoặc nhằm giải trừ những điều không may mắn, một vị vua có thể cho cải nguyên (đổi niên hiệu).
Với Lý Thánh Tông, vị hoàng đế thứ 3 của triều Lý, trong 18 năm trị vì (1054 - 1072) ông đã 5 lần đặt niên hiệu; đó là: Long Thuỵ Thái Bình (1054 – 1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059 – 1065), Long Chương Thiên Tự (1066 – 1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068 – 1069), Thần Vũ (1069 – 1072). Đặc biệt niên hiệu thứ 4 được vua đặt liên quan đến một vật cống của đại thần, sử chép rằng vào tháng 2 năm Giáp Thân (1068), “châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân thế đổi niên hiệu là Thiên Huống Bảo Tượng thứ 1” ("Đại Việt sử ký toàn thư").
Đây là lý do đổi niên hiệu rất lạ, niên hiệu này có nghĩa là Trời ban cho con voi quý; mặt khác niên hiệu Thiên Huống Bảo Tượng là một ẩn ý gắn với sự tích Hoàng hậu Ma-Da nằm chiêm bao thấy voi trắng 6 ngà còn non từ trên không bay xuống và chui vào hông phải, sau đó bà thọ thai, đủ tháng đủ ngày sinh hạ ra hoàng tử Tất-Đạt-Đa (sau này tu hành đắc đạo trở thành đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni).
cre:lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 10-2-2012 01:37 AM
Khải Định kêu gọi dân chúng mua công trái
Công trái là hình thức nhà nước vay vốn của người dân, trong thời hạn nhất định người cho vay được quyền thu lại vốn và hưởng lãi theo quy định. Trước đó người cho vay chuyển tiền cho nhà nước và được nhận công trái là loại giấy tờ có ghi mệnh giá, đây được coi là tờ giấy bảo đảm bảo đảm trong khâu thanh toán cả gốc lẫn lãi của nhà nước.
Công trái xuất hiện ở nước ta từ cuối thời Nguyễn, giai đoạn bị Pháp đô hộ; theo sử sách thì trước tình hình khó khăn tại chính quốc, chính quyền bảo hộ Pháp đã ép triều Nguyễn phải mua công trái. Tháng 10 năm Đinh Tị (1917) vua Khải Định dụ rằng: “Chia sẻ lo buồn với bạn mà còn lần lữa lâu ngày thì còn gì là tình nghĩa lân bang. Hơn nữa đây lại là cho vay lấy lãi, nhẽ phải dốc hết của nhà ra mới gọi là tận tình, tận nghĩa. Khổ nỗi nhìn lại kho quỹ nước ta rỗng tuếch, khắp các hạt đất cằn, dân nghèo khiến ý nguyện khó thành, đúng là giàu lòng mà không giàu của, nghĩ cũng thấy vô cùng xấu hổ. Đành chỉ nên trích ra cho trẫm 1 vạn đồng bạc gọi là một chút tình của trẫm đem ra trợ giúp, còn các quan trong triều cũng nên trích ra một phần bổng, … Còn trong dân gian cũng đã thực hiện vận động mua công trái, tất cũng có triển vọng tốt, không cần nói đến ở đây” (Quốc sử di biên). Đến tháng 9 năm (1918) Khải Định lại kêu gọi “người nước ta từ các quan lại xuống đến các tầng lớp sĩ công nông thương, nếu ai còn dư của thì đều nên kịp thời mua công trái để giúp đỡ, vừa được thu lãi lại vừa được vinh dự vẻ vang”.
Đầu năm Canh Thân (1920), Khải Định lại dụ dân chúng “quyên mộ quốc trái” của Pháp để “làm tròn nghĩa vụ với nước bạn”. Đến tháng giêng năm Nhâm Tuất (1922), theo yêu cầu của Pháp, vua Khải Định cho mở khoản công trái 6 triệu đồng để có tiền xây dựng tuyến đường sắt nối từ Thành Vinh (Nghệ An) với Đông Hà (Quảng Trị). Bài dụ có đoạn: “Xây dựng tuyến giao thông đường sắt giữa Bắc Kỳ và Trung Kỳ là rất hợp thời, nếu không vất vả một phen thì làm sao có cái an nhàn mãi mãi, không chịu phí tổn nhất thời làm sao có được yên ổn lâu dài. Các bậc hào phú ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ hãy xét cho dụng tâm kinh tế của triều đình mong muốn có toàn dân hưởng lợi lạc, từ đó mở lòng nộp vào công trái cho đủ số tiền” (Quốc sử di biên).
cre:lichsu.vn
Tác giả: thugianghn1
Thời gian: 10-2-2012 03:25 PM
Selly gửi lúc 10-2-2012 01:37 
Khải Định kêu gọi dân chúng mua công trái
Công trái là hình thức nhà nước vay vố ...
Ôi ôi like manh, e không hiểu ss lấy đâu ra nhiều bí sử thế
cơ mà hay quá
mỗi tội lúc e kể lại mấy cái truyện nì
vì nhớ ko ra đầu ko ra đuôi
ko ra cả tên nhân vật nên thành ra bị nói là điêu
lần này đã thấy Credit của ss, lần sau phải thật to vào ấy ạ
e in ra cho mọi ng im luôn :D
Tác giả: Selly
Thời gian: 10-2-2012 05:32 PM
thugianghn1 gửi lúc 10-2-2012 15:25 
Ôi ôi like manh, e không hiểu ss lấy đâu ra nhiều bí sử thế
cơ mà hay quá
mỗi tội ...
ừa, vào đó mà đọc, còn nhiều thứ hay lắm
những thứ hơi "ghê rợn" nên chị ko tiện cop về
hồi bé dốt sử lắm {:420:}
tự nhiên h lại thích tìm hiểu {:408:}
Tác giả: Selly
Thời gian: 11-2-2012 04:03 PM
Trần Thái Tông uống rượu, ca hát cùng các quan
Khi nói về sức mạnh của Đại Việt giúp làm lên chiến thắng oanh liệt trước giặc Nguyên-Mông hung bạo, danh tướng Trần Hưng Đạo cho rằng đoàn kết nội bộ là một nhân tố cực kỳ quan trọng tạo thành sức mạnh đó, ông nói: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà chung sức”.
Việc vua tôi nhà Trần đồng lòng, đồng sức được thể hiện rất rõ, như câu chuyện xảy ra trong một buổi yến tiệc vào tháng 3 năm Tân Hợi (1251) là minh chứng tiêu biểu. Khi đó vua Trần Thái Tông “ban yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi rượu say, mọi người đứng cả dậy, dang tay mà hát. Ngự sử trung tướng (sau đổi là Trung úy) Trần Chu Phổ cũng dang tay theo mọi người nhưng không hát câu gì khác, chỉ nói: “Sử quan hát thế thôi, sử quan hát thế thôi!” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Đánh giá về chuyện này, sử thần nhà Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Xem thế đủ thấy bấy giờ vua tôi cùng vui, không gò bó vào lễ phép, cũng là điều giản dị, chất phát của phong tục, nhưng không có tiết độ”.
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 11-2-2012 04:14 PM
Lê Tương Dực và mối liện hệ lạ lùng với Quốc Tử Giám
Lê Tương Dực là vị hoàng đế mà thời kỳ ở ngôi của ông chia làm hai giai đoạn: tốt và xấu. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết như sau: “Vua khi mới lên ngôi, ban hành giáo hóa, cẩn thận hình phạt, cũng đáng gọi là có làm. Song ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy”.
Một trong những việc làm được đánh giá có ý nghĩa là vào giữa năm Tân Mùi (1512) Lê Tương Dực “Sai Nguyễn Văn Lang trung tu Sùng Nho điện ở Quốc Tử Giám và hai giải vũ, sáu nhà Minh Luân, nhà bếp, phòng kho, cùng làm mới hai nhà bia bên đông và bên tây, mỗi gian đặt một tấm bia bên tả, một tấm bên hữu. Năm này, dựng hai nhà bia đề tên các tiến sĩ khoa Ất Sửu năm Đoan Khánh thứ 1 và khoa Mậu Thìn năm Đoan Khánh thứ 4”. (Đại Việt sử ký toàn thư).
Một đại thần được vua sai viết bài văn trên bia Tiến sĩ là Thượng thư, Đông các đại học sĩ, Nhập thi kinh diên Đỗ Nhạc đã có những dòng ca ngợi vua như sau: “Thánh học ngày càng cao minh, thánh đức ngày càng thuần tuý. Hơn nữa, đến nhà Thái học hỏi về đạo trị nước, ra nơi điện đình thi chọn bọn học trò, then máy cổ võ lại càng chu đáo lắm. Đã sai quan trùng tu Quốc tử giám và làm mới nhà bia, lại nghĩ tới hai khoa Ất Sửu, Mậu Thìn chưa có dựng bia, liền sai quan khắc bia soạn ký để dựng lên. Như vậy có thể thấy được cái ý tôn sùng đạo học, khuyến khích hiền tài sâu sắc dường nào!”.
Tuy nhiên có một điều oái oăm là mấy năm sau đó, số phận của vua Lê Tương Dực lại kết thúc cũng chính ở Quốc Tử Giám mà nguyên nhân xuất phát từ chính sự ham chơi, thích xây dựng đền đài của ông. Đầu tháng 4 năm Bính Tý (1516) “Trịnh Duy Sản giết vua ở cửa nhà Thái Học. Trước đây, Duy Sản vì nhiều lần can ngăn trái ý vua, bị đánh bằng trượng. Duy Sản mới cùng với bọn Lê Quảng Độ, Trình Chí Sâm mưu việc phế lập” ("Đại Việt sử ký toàn thư"), sau đó những người này đem hơn 3000 quân đánh vào cung Bắc Thần.
Lê Tương Dực nghe tin có biến liền cưỡi ngựa tắt qua cửa nhà Thái Học (tức Quốc Tử Giám) thì bị Trịnh Duy Sản ngăn lại rồi sai võ sĩ dùng giáo đâm vua ngã xuống rồi giết chết.
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 11-2-2012 04:16 PM
Lê Thuần Tông và mối duyên tình với con gái ông thợ vẽ
Đời Lê Dụ Tông đã tuyển được một người thợ rất giỏi vào cung phụ trách việc trang trí nội điện, đó là ông Đào Thúc Kiên quê ở làng Thọ Vực, huyện Văn Giang, phủ Thuận An, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Bảo Vực, huyện Văn Giang, Hưng Yên).
Do vừa phải trực tiếp vẽ, pha mầu lại phải trông nom nhiều việc trang trí, thiết kế nên Đào Thúc Kiên xin phép vua cho con gái của mình là Đào Thị Ngọc Nhiễm được mang cơm rượu vào cung cho cha, đồng thời phụ giúp thêm cho ông trong việc bút, màu.
Bấy giờ nghe tiếng về người thợ vẽ tài hoa, hoàng tử Lê Duy Tường rất tò mò muốn xem con người đó thế nào, một hôm hoàng tử đến xem ông Đào Thúc Kiên và toán thợ sơn vẽ, trang trí hoàng cung, tình cờ hôm đó lại gặp đúng lúc cô Nhiễm mang cơm vào. Ngỡ ngàng trước một thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng, hoàng tử đem long yêu mến rồi không lâu sau đó đã lấy cô làm vợ.
Khi vua Lê Dụ Tông mất, thái tử Lê Duy Phường lên nối ngôi, lấy hiệu là Vĩnh Khánh, làm vua mới được 3 năm thì đến ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Tý (1732) chúa Trịnh Giang kiếm cớ phế truất Lê Duy Phường và đưa em trai của ông là Lê Duy Tường lên làm vua đặt niên hiệu Long Đức (tức vua Thuần Tông).
Chồng trở thành hoàng đế, Đào Thị Ngọc Nhiễm lúc này cũng trở thành một hoàng phi, tháng 4 năm Đinh Dậu (1717) bà sinh cho vua một hoàng tử đặt tên là Lê Duy Diêu (sau được tôn làm vua, đó là Lê Hiển Tông).
cre: lichsu.vn
Tác giả: Selly
Thời gian: 11-2-2012 04:19 PM
Trần Minh Tông học đá cầu
Trần Minh Tông tên thật là Trần Mạnh, con thứ 4 của Trần Anh Tông, ông không chỉ nổi tiếng là vị vua tài giỏi mà còn là người rất đa tài, trong đó có tài đá cầu. Những tài năng này của ông có được phần lớn nhờ công dạy dỗ của quan Độc bạ là Trần Cụ.
Tháng giêng năm Ất Tỵ (1305) lúc bấy giờ hoàng tử Trần Mạnh được phong làm Thái tử, vua Trần Anh Tông đã sai Trần Cụ làm thày dạy cho vị vua tương lai bởi ông thấy “Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi nghề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Loại cầu mà thái tử Trần Mạnh (sau là vua Trần Minh Tông) được học đá có cấu tạo gần như một quả bóng da, nó được Trần Cụ làm bằng cách khâu ghép các múi da thành mười hai múi cân nhau, duy ba múi ở miệng cầu là chỗ bỏ cái bóng lợn vào thì hơi mỏng và nhẹ, để cân với sức nặng ở đầu bong bóng, cho nên khi đá cầu, múi nào ở trên đến lúc rơi xuống đất lại nguyên như cũ, không bao giờ chuyển khác.
cre: lichsu.vn
----------------
chả tưởng tượng cái cầu này nó thế nào {:399:}
Tác giả: Shaphiraable
Thời gian: 17-2-2012 05:51 PM
Oa đọc xong cái nì ms biết được kiến thức ls của mềnh còn kém ntn
Cám ơn vì đã post bài nhé bạn
*chụt chụt* Moahhhhhhhhhh
Tác giả: LinhNhi
Thời gian: 19-2-2012 04:03 PM
Không ngờ sử ta có những chuyện hay như vậy :))~. Nếu trong SGK cũng có những chuyện như thế này để học sinh biết them, yêu quý thêm Sử Việt có phải là tốt hay không? :*~~
topic này rất bổ ích ^^~Mong chủ thớt post thêm nhiều chuyện nữa, để tăng kiến thức cho mọi người :x~~~
Tks chủ thớt nhiều :X~
Tác giả: mozilla199
Thời gian: 20-3-2012 11:59 PM
oa topic này rất hay ^^, thanks bạn đã share :)
học sử mà cũng có hứng như đọc topic của bạn thì có lẽ mình đã thi khối C :))))
... dễ học, dễ nhớ, lại khá thú vị :)))
Tác giả: Ly.Ly
Thời gian: 22-4-2012 12:15 AM
Topic hay
Hồi cấp 2 mình theo phía Văn Sử Địa chỉ vì mê Sử + được tất cả các cô giáo dạy lịch sử trong trường quý mến (:D), sang cấp 3 lại chuyển sang Toán Lý Hóa nhưng vẫn chăm chỉ học môn Lịch Sử. Ấy thế mà lên đại học lại bỏ Sử, chẳng quan tâm gì mấy. Hic, đọc topic này lại nhớ ngày xa xưa đã từng yêu Sử ấy
Tác giả: rainy_day
Thời gian: 5-6-2012 09:42 AM
cảm ơn bạn
những câu chuyện rất bổ ích với kiến thức lịch sử mịt mùng của mình
nếu có thể thì mong bạn post tiếp nhé
Tác giả: yool_bluespill
Thời gian: 29-6-2012 05:32 PM
hì mình trước đây cũng học sử cũng tàm tạm
đọc sách cũng khá nhiều nhưng h nhận thấy minh cũng chưa là gì
chắc bạn là ng rất yêu lịch sử nhỉ
Tác giả: kenji.katori
Thời gian: 25-7-2012 08:55 AM
bạn đăng thêm về những vị vua anh minh, lỗi lạc của dân tộc ta đi

những vị vua với chiến công hiển hách
những vị vua coi trọng hiền tài...
Tác giả: haianhdang
Thời gian: 31-1-2018 02:49 PM
cảm ơn bạn nhé
bài viết rất hữu ích
Chào mừng ghé thăm Kites (https://forum.kites.vn/) |
Powered by Discuz! X3 |