Kites

Tiêu đề: [Truyện Ngắn] Lại Thằng Nhóc Emil | Astrild Lindgren [In trang]

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 06:53 PM
Tiêu đề: [Truyện Ngắn] Lại Thằng Nhóc Emil | Astrild Lindgren


Tên tác phẩm: Lại thành nhóc Emil
Tên tác giả: ASTRID LINDGREN
Tên dịch giả:Vũ Hương Giang
Thể loại: thiếu nhi
Độ dài: 3 Phần lớn
Tình trạng sáng tác: đã hoàn thành
Nguồn tác phẩm: tự type


Emil - cậu đặc biệt khi cậu cứ nghịch không ngừng, nghịch bằng mọi giá và trở thành tác giả năm tuổi của một serie trò nghịch oái ăm không dứt tại trang trại Katthult, làng Lonneberga, tỉnh Smaland, thụy Điển. Tại sao lại như vậy? Ông bố thì bứt tóc kêu trời, bà mẹ thì cầu nguyện và ghi nhật ký, dân làng thì thấy vợ chồng họ thật đáng thương, bởi Emil nghịch quá thể, biết bao là bối rối…
Lại thằng nhóc Emil! Người lớn cứ kêu ca vậy suốt. Emil chui đầu vào liền súp, Emil treo Ida lên đỉnh cột cờ, Emil nhổ răng hàm cho cô Lina, Emil phải đẽo hình nhân trong xưởng mộc, Emil…Emil… Và gì gì nữa có trời mới biết. Vậy những, có ai thích sống mà thiếu vắng Emil đâu. Bạn hãy đọc Emil đi rồi sẽ rõ điều mà dân làng Lonneberga rốt cục cũng hiểu đó, dù chẳng chịu nói ra.
Và thế là, ở giữa nơi thấm đẫm sự bình yên tươi sáng của quê hương Astrid Lindgren, chẳng kém cạnh PippiT ất dài bằng món nghịch tối ngày đó, Emil trở thành một trong bộ đôi sứ giả văn chương được yêu mến nhất của nữ thánh văn học thiếu nhi Thụy Điển.



Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 06:54 PM
Phần 1: Emil mắc đầu trong liễu súp

Emil làng Lönneberga là tên một thằng nhóc sống ở làng Lönneberga. Đó là một thằng nhóc hiếu động và bướng bỉnh chứ không ngoan ngoãn được như các bạn, mặc dù trông nó dễ thương. Mà quả dễ thương thật những lúc nó không gào thét.

Mắt Emil xanh và tròn xoe, gương mặt cũng tròn, hai má đỏ au, mái tóc sáng màu vừa bông vừa mềm. Mọi nét gộp lại khiến nó trông dễ thương đến nỗi người ta có thể tưởng đâu Emil là một thiên thần nhỏ đích thực. Nhưng ai ơi chớ có tưởng bở.

Thằng nhóc lên năm tuổi và khỏe như một con bò mộng nhỏ. Nó sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga tại Smăland, một vùng đất thuộc Thụy Điển. Và bởi dân vùng Smăland nói tiếng địa phương Smăland nên Emil cũng đặc sệt giọng ấy. Đấy đâu phải lỗi của nó. Giả sử nó muốn lấy mũ, nó không nói như những đứa trẻ khác: “Cho con xin cái mũ”, mà nói: “Đưa con cái mú!” Cái “mú” của Emil là một chiếc mũ mềm xanh lơ có lưỡi trai màu đen, trông xấu chết. Bố đã mua cho nó trong một lần lên thị trấn.

Emil rất khoái cái mũ. Tối tối hễ đến lúc phải đi ngủ, nó lại nói: “Đưa con cái mú!” Tuy nhiên mẹ lại cho rằng Emil không nên mang mũ lên giường . Bà định cất chiếc mũ trên mắc áo ngoài hành lang. Thế là Emil hét toáng lên khiến cả làng Lönneberga đều nghe: “Đưa con cái mú!”

Cứ như vậy suốt ba tuần lễ, đêm nào Emil cũng ngủ với cái mũ sùm sụp trên đầu. Rốt cuộc nó có sao đâu, dù hơi bó đầu một tẹo. Cái chính là Emil được làm theo ý mình, đấy mới là điều nó quan tâm nhất. Đặc biệt Emil không thích nghe theo những gì mẹ muốn. Lần nọ, vào ngày lễ Giáng sinh, mẹ tìm cách dỗ Emil ăn món đậu đũa, vì rau rất có lợi cho sức khỏe. Nhưng Emil bảo không.

- Con định không khi nào ăn rau sao? - Mẹ nó nói.

- Có chứ ạ, - Emil đáp, - nhưng phải đúng là rau.

Rồi rất lặng lẽ, nó đến ngồi sau cây thông Noen và bắt đầu gặm lá thông. Nhưng nó đã vội dừng lại vì bị lá thông nhọn chọc vào mồm.

Emil ương bướng thế đấy. Nó muốn quyết định về bố mẹ mình, về trang tại Katthult, và thích nhất là quyết định cho cả làng Lönneberga luôn, nhưng dân làng Lönneberga đâu có chịu.

- Khổ thân cái nhà anh chị Svensson ở trang trại Katthult, có thằng con nghịch như quỷ sứ! - Họ nói. - Ngữ ấy chẳng bao giờ nên người được.

Dân làng Lönneberga nghĩ vậy đó! Giá mà họ biết được rồi ra Emil sẽ trở thành người thế nào, hẳn họ đã không thế. Giá mà họ biết có ngày Emil sẽ trở thành chủ tịch hội đồng xã, khi nó lớn lên ấy! Chắc bạn không biết chủ tịch hội đồng xã là cái gì, nhưng đó là một thứ rất tuyệt, tôi xin bảo đảm với bạn, và rốt cuộc Emil sẽ trở thành thứ đó.

Nhưng giờ chúng ta hãy cứ xem xem chuyện gì đã xảy ra khi Emil còn bé và sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga tại Smăland cùng với ông bố tên là Anton Svensson, bà mẹ tên là Alma Svensson và đứa em gái nhỏ Ida. Gia đình họ còn nuôi một đầy tớ trai là chú Alfred và một cô hầu gái là cô Lina. Vì thời Emil còn bé, ở làng Lönneberga và đâu đây cũng sẵn đầy tớ và người hầu. Đám đầy tớ trai lo cày cuốc, chăn ngựa và bò kéo,chở rơm rạ ngoài đồng về và trông khoai tây, trong khi đám hầu gái lo vắt sữa bò, dọn rửa, giặt giũ, quét tước và hát dỗ lũ trẻ. Bây giờ thì bạn biết những ai sống ở trang trại Katthult rồi nhé: bố Anton, mẹ Alma, bé Ida, chú Alfred và cô Lina. Ngoài ra còn có hai con ngựa, vài con bò kéo, tám con bò sữa, ba con lợn, chục con cừu, mười lăm con gài mái, một chú gà trống, một chú mèo và một chú chó. Rồi đến Emil.

Katthult là một trang trại nhỏ xinh đẹp với một ngôi nhà quét vôi đỏ nằm giữa những cây táo và tử đinh hương trên một triền đồi. Bao quanh trang trại là những cánh đồng, bãi cỏ, những cánh rừng nhỏ, một cái hồ và một khu rừng to ơi là to.

Katthult sẽ yên bình xiết bao nếu thằng nhóc Emil không ở đó.

- Lúc nào nó cũng gây chuyện chẳng lành, cái thằng nhóc này, - cô Lina nói. - Mà nếu chính nó không gây chuyện đi nữa, thì cũng đã xảy ra quá đủ chuyện với Emil. Thật cháu chưa từng thấy thằng oắt nào như nó!

Nhưng mẹ Emil vội bênh con:

- Emil nào có đến nỗi nào. Hôm nay nó chỉ véo con bé Ida mỗi một cái và làm đổ váng sữa để cà phê, chỉ thế thôi mà… ừ thì đúng thật là thằng bé cũng có đuổi con mèo chạy quanh chuồng gà thật. Nhưng dù sao tôi vẫn thấy nó bắt đầu bớt hiếu động và ngoan hơn rồi.

Emil không hề độc ác, không thể nói là nó ác. Cả bé Ida và con mèo đều rất yêu quý nó. Nhưng nó phải véo bé Ida một chút, nếu không đời nào con bé chịu đưa miếng bánh phết mứt của mình cho nó chứ, còn con mèo thì Emil rượt đuổi với tất cả niềm thương mến, cốt chỉ để thử xem mình có chạy nhanh bằng con mèo không. Nhưng con mèo làm sao hiểu được.

Đó là ngày mồng 7 tháng Ba, cái ngày mà Emil thật đáng yêu khi chỉ véo bé Ida có mỗi một cái, chỉ làm đổ váng sữa và đuổi theo con mèo. Nhưng bây giờ bạn hãy nghe về những ngày khác nữa trong cuộc đời Emil, khi có nhiều chuyện xảy ra hơn, hoặc do chính Emil gây ra, như cô Lina nói, hoặc đơn giản chỉ bởi bao giờ cũng lắm chuyện xảy ra với thằng bé.

Chúng ta có thể bắt đầu với một ngày thứ Ba. Đó là

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 06:57 PM
Thứ Ba, ngày 22 tháng Năm,
ngày Emil chui đầu vào liễn súp


Hôm đó bữa trưa ở trang trại Katthult có món súp thịt bò. Cô Lina bưng súp đựng trong cái liễn sâu có vẽ hình hoa lên và mọi người ngồi quanh bàn thưởng thức món súp, đặc biệt là Emil. Nó thích súp, và hễ nó ăn súp là nghe thấy liền.

- Con cứ phải húp sụp soạp như thế mới được sao? - mẹ nó hỏi

- Nếu không thế, thì làm sao người ta biết được đây là súp ạ, - Emil đáp

Mọi người tha hồ chén thỏa thích, chắng mấy mà liễn súp cạn sạch. Chỉ còn mỗi một hớp nhỏ ơi là nhỏ đọng lại dưới đáy liễn. Emil muốn ăn nốt hớp súp ấy, và muốn như thế chỉ có mỗi một cách là chui đầu vào liễn súp để cố húp thôi. Thế là Emil làm liền, và mọi người nghe tiếng nó húp trong liễn rõ mồn một.

Nhưng rồi Emil định rút đầu ra, và - không thể tin nổi - nó không rút ra được. Đầu nó mắc chặt trong đó. Sợ quá nó nhảy phắt dậy khỏi bàn và đứng đó với liễn súp như một chậu cây úp trên đầu, sụp xuống tận dưới mặt, che hết cả mắt lẫn tai. Emil vừa cố giằng cái liễn vừa gào toáng lên. Cô Lina phát hoảng.

- Cái liễn đẹp của nhà ta, - cô xuýt xoa. - Ôi cái liễn hoa quý là thế của nhà ta ! Giờ thì biết đựng súp vào đâu cơ chứ?

Là vì nếu đầu của Emil cứ ở trong cái liễn thì không đổ súp vào được nữa, chí ít cô Lina cũng hiểu như thế, mặc dù bình thường cô không sáng ý gì cho lắm.

Nhưng mẹ Emil nghĩ đến nó nhiều hơn.

- Ôi trời, làm sao chúng ta lôi thằng bé ra được đây? Chúng ta phải lấy thanh sắt chọc lò mà đập vỡ cái liễn thôi.

- Mình có điên không hả ! - bố Emil kêu lên. - Mua cái miễn mất những bốn đồng bạc đấy !

- Để chấu thử xem đã, - chú đầu tớ khỏe mạnh và chăm chỉ Alfred nói. Chú nắm hai quai liễn và lấy hết sức bình sinh nhấc cái liễn lên. Nhưng ăn thua gì chứ? Emil cũng bị nhất bổng lên, vì đầu nó mắc cứng trong đó. Thế là nó giãy giụa hai chân trong trạng thái treo lơ lửng để rồi lại được hạ xuống đất.

- Thôi đi ! Bỏ cháu xuống ! Thôi đi, đã bảo mà ! - nó gào lên

Thế là chú Alfred đành thôi.

Giờ thì ai nấy đều ỉu xìu thật sự. Họ xúm quanh Emil trong bép và ra sức nghĩ cách. Bó Anton, mẹ Alma, bé Ida, chú Alfred và cô Lina. Không ai biết làm sao lôi nổi Emil ra khỏi liễn súp.

- Nhìn kìa, anh hai khóc đấy, - bé Ida nói, tay chỉ vào mấy giọt nước mắt to tướng đang rỏ từ mép liễn rồi từ từ lăn dài trên má Emil

- Khóc đâu mà khóc, - Emil cãi. - Nước súp thịt thì có !

Nó vẫn tỏ ra gan lì như nó vốn thế, nhưng bị mắc kẹt trong liễn súp hẳn chẳng sung sướng gì. Mà sẽ thế nào nhỉ, nếu nó vĩnh viễn không rũ bỏ được cái liễn này? Tội nghiệp Emil, đến bao giờ nó mới lại có thể đội mũ lên đầu? Me Emil xót xa cho thằng con bé bỏng của mình. Bà lại toan lấy que cời  đập vỡ cái liễn, nhưng bố Emil ngăn lại:

- Không đời nào ! Cái liễn đáng giá những bốn đồng bạc. Tốt hơn là chúng ta đến Mariannelind tìm ông bác sĩ. Ông ấy sẽ lôi ra được. Thế nào ông ấy cũng chỉ lấy ba đồng tiền công, vậy là chúng ta kiếm được một đồng.

Mẹ Emil thấy sáng kiến này hay. Xét cho cùng, đẩu phải ngày nào cũng kiếm nổi hẳn một đồng bạc. Nhất là khi nghĩ có thể dùng đồng bạc ấy mua bao nhiêu thứ đồ lặt vặt, một món quà gì đó cho bé Ida chẳng hạn, vì con bé phải ngồi nhà trong lúc thằng anh Emil được đi chơi xa.

Thế là người ở trang trại Katthult tất bật cả lên. Cần phải cho nó diện bộ quần áo đẹp nhất. Khổng thể chải đầu cho Emil, cũng không thể rửa tai cho nó, mặc dù rất cần phái như thế. Tuy nhiên mẹ nó vẫn cố thử luồn ngón trỏ từ dưới miệng liễn súp lên để cọ tai cho Emil. Nhưng kết cục thật tồi tệ vì đến lượt ngón tay của bà cũng kẹt lại trong liễn súp.

- Vâng vâng, như thế đấy, - bé Ida nói. Còn bố Anton nổi giận thật sự, mặc dù bình thường ông hiền lành là thế.

- Lại có kẻ cũng muốn mắc kẹt trong liễu súp hả? - ông quát lên. - Xin cứ việc ! Rồi tôi sẽ lấy cỗ xe lớn cho cỏ rướt tất cả các người đến ông bác sĩ ở Mariannelund.

Nhưng mẹ của Emil giật mạnh và rút được ngón ta ra.

- Thôi con cứ để tai bản mà đi cũng được, Emil ạ, - bà vừa nói vừa thổi phù phù vào ngón ta. Thề là Emil nở một nụ cười mãn nguyện trong liễn súp và bảo:

- Đúng là lần đầu tiên cái liễn có lợi cho con

Nhưng lúc này chú Alfred đã cho xe ngựa đến đỗ bên cầu thang lớn. Emil đi ra để trèo lên xe. Trong nó rõ bảnh bao với bộ cánh Chủ nhật kẻ sọc, đôi ủng cài cúc màu đen với cái liễn súp - ừ thì trong nó cũng có phần hơi lập dị với cái liễn súp chụp kín đầu, nhưng cái liễn có vẽ hoa đẹp ra phét và nom lại giông giống một chút mũ mùa he theo mốt mới. Thứ duy naht61 khiến người khác để ý là chiếc mũ này sụp khác sâu, che kín cả mắt của Emil.

Bây giờ họ muốn khởi hành đến Mariannelund.

- Nhớ trong nom bé Ida cẩn thận khi chúng tôi vắng nhà nhé ! - mẹ Emil dặn với. Mẹ ngồi cùng bố trên băng ghế trước. Emil ngồi ghết sau cùng cái liễn. Còn chiếc “mú’ của Emil để trên ghế, ngay cạnh nó. Thì lúc quay về nhà nó cũng phải có gì đội đầu chứ. Mày mà nó lại nghĩ ra !

- Thế cháu phải nấu gì cho bữa tối đây ạ? - Cô Lina kêu lên khi xe ngựa vừa chuyển bánh.

- Tùy cô, - mẹ Emil đáp. - Giờ tôi đang bận nghĩ chuyện khác

- Thế thì chắc cháu lại nấu món súp thịt bò, - cô hầu gái nói. Nhưng đúng lúc đó cô thoáng trông thấy cái gì có hình vẽ hoa khất sau lối rẽ trên đường và sực nhớ chuyện đã xảy ra. Cô quay sang chú Alfred và bé Ida với vẻ đầy ưu phiền.

- Xem ra tối nay sẽ chỉ có bánh mì và thịt lợn nguội, - cô nói.

Emil đã được đi Mariannelung nhiều lần. Nó thích ngồi vắt vẻo trên xe ngựa ngắm những con đường chạy ngoằn ngoèo và những trang trại mà nó đi ngang qua, nhìn lũ trẻ sống trong các trang trại đó, rồi những con chó sủa nhặng xị sau bờ giậu, rồi bò ngựa được chăn thả trên các bãi cỏ. Nhưng lúc này ít thú vị hơn. Lúc này nó ngồi trên xe với cái liễn sùm sụp che kín mắt và chỉ còn trông thấ một phần tí tẹo đôi ủng của mình qua khe hở dưới miệng liễn súp. Nó phải luôn mồm hỏi bố:

- Mình đến đâu rồi bố? Đã đi qua trang trại Bánh Rán chưa? Sắp đến trang trại Lợn Xinh chưa?

Chả là Emil đã tự đặt cho mỗi trang trại ven đường một cái tên riêng. Bánh Rán là tên trang trại mà lần nọ Emil đi xe ngựa ngang qua trông thấy hai đứa nhóc béo tròn đứng bên bờ giậu chén bánh rán. Còn trang trại Lợn Xinh được gọi theo một chú lợn con ngộ nghĩnh mà thi thoảng Emil vẫn xoa lưng.

Nhưng lúc này thì Emil đang ngồi buồn bã ngó xuống đôi ủng của mình, chẳng thấy đâu bánh rán lẫn chỗ lợn con ngộ nghĩnh. Thế nên không có gì lạ khi nó cứ hỏi dồn:

- Chúng mình đang ở đâu rồi ạ? Sắp đến Mariannelund chưa bố?

Phòng chờ chỗ ông bác sĩ đến là đông người khi Emil bước vào với liễn súp trên đầu. Lập tức hết thảy những ai có mặt đều cảm thương Emil. Họ hiểu vừa xảy ra một tai nạn nhỏ. Riêng một lão già thấp bé cất tiếng cười độc địa, làm như mắc kẹt đầu trong liễn súp là điều vui nhộn lắm không bằng”

- Hô hô hô ! Lạnh cóng ở tai hả, nhóc con? - lão hỏi

- Đâu ạ ! - Emil đáp

- Thật hả? Thế sao cần cái bịt tai?

- Vì nếu không tai cháu sẽ lạnh cóng, - Emil đáp. Dù còn bé, nó vẫn có thể thật sự dí dỏm.

Nhưng rồi nó được gọi vào phòng khám. Ông bác sĩ không cười, chỉ nói:

- Chào cháu ! Chào cháu ! Cháu làm gì trong đó vậy?

Mặc dù không thể nhìn thấy ông bác sĩ, nhưng Emil cũng vẫn phải chào ông ấy chứ. Nó bèn cúi đầu rõ thấp - tất nhiên cùng với cái liễn. Choang ! Cái liễn nằm đó, vỡ làm hai mảnh. Là vì Emil vô tình cụng đầu rất mạnh xuống bàn viết của ông bác sĩ.

- Thế là tan tành bốn đồng bạc, - bố Emil khẽ bảo mẹ Emil. Nhưng ông bác sĩ nghe được.

- Đúng, nhưng dẫu sao anh chị cũng kiếm được một đồng đấy, - ông nói. - Vì tôi vẫn lấy năm đồng công mỗi khi giải thoát các chú bé ra khỏi những liễn súp. Chú bé này đã tự giải quyết được rồi.

Bố Emil trở nên phấn khởi, thầm biết ơn thằng con đã đập vỡ cái liễn và nhờ thế kiếm được hẳn một đồng. Ông vội nhặt hai mảnh miễn, lôi vợ con ra về.

Nhưng ra tới ngoài đượng, mẹ Emil bảo:

- Tuyệt quá! Chúng ta lại vừa kiếm được một đồng! Để mua gì đây nhỉ?

- Không mua bán gì hết, - bố Emil đáp. - Đồng bạc ấy sẽ để tiết kiệm. Nhưng cũng là công bằng và ít tốn kém, nếu thưởng cho Emil năm xu. Khi về nhà nó sẽ được phép bỏ năm xu ấy vào con lợn đất của nó.

Nói đoạn ông bèn lục trong hầu bao lấy ra đồng năm xu đưa cho Emil. Thử đoán xem Emil có sướng không nào!

Rồi họ lên đường trở về làng Lönneberga.

Emil thích chí ngồi ở băng ghế say với đồng năm xu trong tay, cái “mú” trên đầu, và từ trên xe quan sát tất cả những đứa trẻ, những con chó, con ngựa, con bò, con lợn mà nó bắt gặp trên đường.

Giá Emil chỉ là một thằng bé bình thường thì ngày hôm đó đã chẳng xảy ra thêm chuyện gì. Nhưng Emil không phải là một thằng bé bình thường. Thử đoán xem nó làm gì! Phởn chí, nó đút đồng năm xu vào mồm, và đúng lúc cả nhà đi ngang qua trang trại Lợn Xinh, từ băng ghế sau khẽ vang lên tiếng “Ực”. Đó là Emil nuốt phải đồng xu.

- Ô, - Emil kêu lên, - sao nhanh thế nhỉ!

Thế là mẹ nó lại có chuyện mới để ca thán

- Trời ơi, làm sao lấy đồng năm xu ra khỏi bụng thằng bé được đây? Chúng ta phải quay lại chỗ ông bác sĩ thôi.

- Thế à, mình tính toán giỏi gớm nhỉ, - bố Emil nói. - Chẳng lẽ chúng ta phải trả ông bác sĩ năm đồng để lấy lại có năm xu sao? Hồi đi học, mình được mấy điểm môn toán thế không biết?

Nhưng Emil rất thản nhiên trước sự cố. Nó vỗ vỗ bụng bảo:

- Con tự làm con lợn đất cũng được và giữ đồng năm xu trong bụng tốt chẳng kém gì con lợn đất ở nhà. Vì lợn đất ở nhà cũng có moi được tiền ra đâu. Con thử moi bằng dao ăn mãi rồi, con còn lạ gì.

Nhưng mẹ Emil không nhân nhượng. Bà đòi quay lại Mariannelund tìm ông bác sĩ.

- Ngày trước, khi thằng bé nuốt tất cả chỗ cúc quần, em có nói gì đâu, - mẹ nhắc bố nhớ lại. - Nhưng một đồng năm xu khó tiêu hóa hơn, có thể gây hậu quả tồi tệ, mình nghe em đi!

Và mẹ đã thành công khi khiến bố sợ đến nỗi ông cho ngựa quay đầu và đánh xe trở lại Mariannelund. Vì thật ra bó Emil cũng lo lắng cho con trai.

Thở không ra hỏi, ba bố mẹ con xông vào phòng ông bác sĩ.

- Các vị quên gì à? - ông bác sĩ hỏi

- Không, thưa bác sĩ, chỉ là… cháu Emil nuốt phải một đồng năm xua, - bố Emil nói. - Vâng, giá như bác sĩ có thể mổ cho cháu một tẹo với giá bốn đồng gì đó// Đồng năm xu ấy xin miếu bác sĩ luôn cũng được ạ…

Nhưng Emil đã giật giật gấu áo bố, thì thào:

- Bố đừng có làm thế nhá! Đồng năm xu ấy là của con.

Ông bác sĩ không nghĩ đến chuyện lấy của Emil đồng năm xu. Ông bảo không cần phải mổ thì vài hôm nữa đồng năm xu cũng sẽ tự ra.

- Nhưng cách nên ăn năm chiếc bánh mì con độn nho, - ông dặn Emil. - Như thế đồng năm xu sẽ có bầu có bạn và không cào vào dạ dày cháu.

Một ông bác sĩ mới tuyệt vời làm sao! Mà lần này ông cũng không lấy tiền. Bố Emil hài lòng đến rạng rỡ cả mày mặt khi ba người ra tới ngoài đường.

Nhưng lúc này mẹ Emil lại muốn vào ngay hiệu bánh của hai chị em nhà Andersson để mua cho Emil năm chiếc bánh mì con độn nho.

- Không đời nào, - bố nói. - Ở nhà chúng ta cũng có bánh mì độn nho.

Emil ra chiều nghĩ ngợi. Nó giỏi cân nhắc suy tính và cũng thấy đói rồi. Vì vậy nó bảo:

- Con còn giữ một đồng năm xu trong người cơ mà. Giá mà lấy ngay ra được thì con cũng tự sức tự mua bánh mì nho.

Nó suy nghĩ thêm giây lát rồi bảo:

- Bố, thế bố không cho con vay tạm năm xu trong vài ngày được ạ? Con sẽ trả cho bố mà, con thế đấy!

Thế là bố chịu thua và cả ba đi đến hiệu bánh của hai chị em nhà Andersson mua cho Emil năm chiếc bánh mì con độn nho, những chiếc bánh mì rất rất ngon, tròn, vàng rộm và có rắc đường. Loáng cái, Emil đã chén hết.

- Đây là loại thuốc tốt nhất con được dùng từ bé đến giờ, - nó nhận xét

Lúc này bố Emil bỗng vui vẻ và phấn khích tới mức không biết mình đang làm gì.

- Dẫu sao hôm nay chúng ta cũng đã kiếm được kha khá tiền, - ông tuyên bố và bỏ luôn ra năm xu mua cho bé Ida ở nhà một gói đường thanh.

Bạn phải biết rằng chuyện này diễn ra vào cái thời mà trẻ con không hề bận tâm xem chúng có hai hàm răng hay không, chúng ngốc ngếch và kém hiểu biết như chúng vốn là như thế. Ngày nay lũ trẻ làng Lönneberga không ăn đồ ngọt nữa, nhưng bù lại chúng có hai hàm răng.

Sau đó cả nhà quay về trang trại Katthult.

Bố chĩ vừa đặt chân qua cửa nhà, còn chư kịp cởi bỏ mũ và áo khoác, đã vội lôi hai nửa liễn súp ra gắn lại. Chũng chẳng khó khăn gì, vì cái liễn chỉ vỡ làm đôi.

Thấy vậy, cô Lina sướng đến nỗi nhảy cẫng lên và reo to với chú Alfred lúc bấy giờ đang tháo ngựa khỏi cỗ xe.
- Từ nay ở Katthult lại có súp thịt bò rồi nhá!

Đấy là cô Lina cứ tưởng thế! Hẳn cô đã quên mất Emil.

Chiều hôm ấy Emil chịu khó hcơi với bé Ida lâu một cách khá thường. Nó dựng hẳn cho am một ngôi nhà giữa các tảng đá ngoài bãi cỏ để chui ra chui vào. Bé Ida thích lắm. Và thi thoảng, khi muốn chén một miếng trong chõ đường thanh của Ida, Emil mới véo em một cái. Nhưng rồi trời sẩm tối và hai anh em thấy đã đến lúc phải vào nhà. Chúng xuống bếp xem mẹ có ở đó không. Không thấy mẹ. Chẳng có ai dưới bếp. Chỉ thấy mỗi cái liễn súp để trên bàn, đã được gắn lại đẹp đẽ.

Emil và bé Ida đến bên bàn, ngắm nghía cái liễn kỳ lạ đã được chở đi lòng vòng suốt cả ngày hôm nay.

- Anh tưởng tượng xem, nó đã đến tận Mariannelund! - bé Ida trầm trồ, rồi hỏi: - Anh Emil, anh làm thế nào mà chui đầu vào cái liễn được thế?

- Có gì khó đâu, - Emil đáp. - Anh chỉ làm thế này này!

Đúng lúc đó mẹ bước vào bếp. Và thứ đầu tiên bà trông thấy là thằng bé Emil đang đứng đó với cái liễn chụp kím đầu. Emil ra sức lôi cái liễn ra, còn bé Ida thét toáng lên. Emil cũng hét toáng lên. Vì nó đang bị mắc cứng trong cái liễn y như lúc ban trưa.
Thế là mẹ chạy đi lấy thanh sắt chọc lò, thẳng tay đập vái liễn, khiến cả làng nghe thấy. Choang! Cái liễn tan thành ngàn mảnh, rơi như mưa rào quanh người Emil.

Bố đang ở ngoài chuồng cừu, nhưng nghe tiếng động vội chạy vào.

Bố dừng lại trên ngưỡng cửa bếp, sững sờ hết nhìn Emil lại nhìn những mảnh vỡ dưới sàn, rồi đến thanh sắt chọc lò trên tay mẹ

Chẳng nói chằng rằng, ông quay gót trở lại chuồng cừu.

Nhưng hai hôm sau ông được Emil trả lại đồng năm xu. Chí ít đấy cũng là một niềm an ủi nho nhỏ.

Phải, giờ thì bạn đã biết đại khái Emil là người thế nào. Đó là thứ Ba, ngày 22 tháng Năm, ngày xảy ra sự cố với cái liễn súp. Nhưng có thể bạn cũng muốn nghe thêm chút ít về một ngày chủ nhật nọ. Đó là

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 07:00 PM
Chủ nhật, ngày mồng 10 tháng Sáu,
ngày Emil kéo bé Ida lên đỉnh cột cờ


Chủ nhật, ngày mồng 10 tháng Sau, trang trại Katthult mở tiệc. Sẽ có nhiều khách đến từ làng Lönneberga và từ những nơi khác nữa. Mẹ Emil bận bịu nấu nướng suốt mất ngày nay.

- Sẽ tốn kém đấy, - bố Emil nói. - Nhưng đã ăn thì phải cho ra ăn! Chỉ cần đừng hà tiện… Mặc dù lẽ ra mình có thể nặn những viên thịt băm bé đi một tẹo

- Em làm món thịt viên đúng chuẩn miễn chê. -Mẹ Emil nói. - Vừa đủ to, vừa đủ tròn, và rán vừa đủ độ.

Mà quả đúng thế. Ngoài ra mẹ còn làm món sườn, món thịt bê cuốn và món sa-lát cá, rồi thì cá muối, bánh táo, lươn nấu đông, lại cả chè thạch, và hai cái bánh ngọt to tướng nữa, chưa kể còn món xúc xích đặc biệt, ngon đến nỗi nhiều người chẳng quản đường xa, thậm chí từ tít thị trấn Vimmerby và Hultsfred cũng sẵn sàng đánh đường đến tận đây để được thưởng thức.

Cả Emil cũng rất thích ăn loại xúc xích này.

Hôm nay quả là một ngày đẹp dành cho tiệc tùng. Mặt trời lên rực rỡ, những cây táo và tử đinh hương nở hoa. Tiếng chim hót ngập tràn không trung. Cả trang trại Katthult nằm trên triền đồi đẹp như một giấc mơ. Sân trước được dọn quang, mọi ngóc ngách trong nhà đều được quét tước sạch sẽ, các món ăn đã chuẩn bị xong. Chẳng còn thiếu thứ gì. Ồ không, vẫn còn thiếu một thứ đấy.

- Ồ chúng ta quên chưa kéo cờ lên rồi! - Mẹ Emil sực nhớ ra.

Thế là bố Emil vội vắt chân lên cổ chạy đến chỗ cột cờ, theo sát ông là Emil và bé Ida. Chúng muốn xem kéo cờ lên như thế nào.

- Tôi nghĩ lần này chúng ta sẽ có một bữa tiệc vui vẻ và dễ chịu, - mẹ Emil bảo cô Lina khi chỉ có hai người trong bếp.

- Vâng, nhưng có sẽ lẽ chắc chắn hơn khi cứ nhốt Emil lại như lần trước ấy, bà nhỉ?

Mẹ Emil nhìn cô hầu gái đầy trách móc, nhưng không nói gì.

Thế là cô Lina vác mặt lên, lẩm bẩm:

- Cháu thì thế nào cũng được! Để rồi xem sẽ xảy ra chuyện gì.

- Emil là thằng bé dễ thương, - mẹ Emil nói rất quả quyết. Qua cửa sổ bếp, bà trông thấy thằng bé dễ thương đang chạy lăng quăng và chơi với em gái nó. Bà thấy hai đứa đều xinh đẹp như thiên thần: Emil trong bộ cánh Chủ nhật kẻ sọc, trên mái tóc bồng bềnh là chiếc mũ lưỡi trai, còn bé Ida mặc váy mới màu đỏ, một chiếc đai nơ trắng quấn quanh cái bụng mũm mĩm. Mẹ Emil cười tủm tỉm. Nhưng rồi bà lo lắng ngó xuôi con đường xuống là và nói:

- Không biết bao giờ ông Anton nhà tôi mới chịu kéo cờ lên đây, vì khách khứa của chúng ta có thể đến bất kỳ lúc nào.

Xem ra mọi việc rồi sẽ suôn sẻ. Nhưng thật bực quá - đúng lúc bố Emil đang bận bịu với lá cờ thì chú Alfred tất tả chạy từ phía chuồng bò đến, miệng kêu lên:

- Bò nhà ta đẻ! Bò nhà ta đẻ!

Tất nhiên đó là con bò cái Broka. Con bò hư thế thì thôi, nhè đúng lúc người ta đang bấn lên với hàng trăm thứ việc rồi lại còn phải kéo cờ mà đẻ cơ chứ!

Thế là bố đành bỏ tất cả đó để chạy xuống chuồng bò. Nhưng hai anh em Emil vẫn ở bên cột cờ.

Bé Ida ngửa cổ hết cỡ ngó lên quả cầu bằng vàng trên đỉnh cột cờ.

- Sao mà cao thế! - Cô bé nói. - Từ trên ấy thể nào cũng nhìn được tới tận Mariannelund!

Emil nghĩ ngợi, nhưng không lâu.

- Chúng mình có thể thử thật nhanh, - nó nói. - Có muốn anh kéo em lên trên ấy không?

Bé Ida bật cười. Ồ, anh Emil thật đáng yêu, lúc nào cũng có những sáng kiến đến là ngộ.

- Có, em muốn nhìn thấy Mariannelund! - Bé Ida đáp.

- Thì em sẽ thấy, - Emil ân cần nói. Nó cầm cái móc vốn dùng để móc lá cờ móc vào chiếc đai nơ ở bụng Ida. Xong đâu đấy nó cầm chắc dây kéo cờ bằng cả hai tay.

- Bắt đầu này, - Emil tuyên bố.

- Hi hi,- bé Ida cười.

Thế là bé Ida được kéo lên đến tận đỉnh cột cờ. Rồi Emil buộc thật chặt dây vào chân cột, giống như bố nó vẫn làm, vì nó không muốn làm Ida rơi xuống đất và bị đau. Lúc này bé Ida đã được neo chắc chắn và ngay ngắn hơn bao giờ hết ở trên kia.

- Có trông thấy Mariannelund không? - Emil gọi với lên hỏi.

- Không ạ, chỉ thấy làng Lönneberga thôi, - bé Ida hét xuống.

- Dào, chỉ thấy làng Lönneberga thôi à… thế đã muốn xuống chưa?

- Chưa, chưa đâu. Nhìn làng Lönneberga cũng thích lắm. Nhưng, ô kìa, khách đang đến kia kìa! Tất cả mọi người đang cùng đến kìa!

Và khách khứa kéo đến thật. Trên sân lớn của trang trại chẳng mấy chốc đã đầy xe và ngựa. Khách đã lũ lượt qua cổng tiến dần đến phía nhà chính.

Đi đầu là bà Petrell quý phái. Bà thậm chí đi xe ngựa từ mãi tận thị trấn Vimmerby đến đây để ăn món xúc xích của mẹ Emil. Bà là một phụ nữ rất đỏm dáng với chiếc mũ cắm lông đà điểu, khắp người chỗ nào cũng lộng lẫy. Bà hài lòng ngó quanh. Trang trại Katthult nằm phơi mình dưới nắng giữa những cây táo và tử đinh hương trông thật xinh đẹp. Ồ, mọi thứ ở đây đều tràn ngập không khí tiệc tùng, cờ cũng đã được kéo lên.

Cờ gì thế này? Bỗng bà Petrell dừng lại với vẻ vô cùng bối rối. Không hiểu vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult nghĩ ngợi ra sao mà lại như thế nhỉ? Đúng là không hiểu nổi.

Vừa lúc ấy bố Emil từ chuồng bò đi ra. Bà Petrell bèn gọi:

- Này Anton, bạn tốt nhất của tôi ơi, thế này là nghĩa làm sao hả? Sao nhà anh chị lại treo cờ Đan Mạch hả?

Emil đứng ngay cạnh bà. Nó không biết cờ Đan Mạch là gì. Nó đâu biết cờ Đan Mạch là tên lá quốc kỳ mang hai màu đỏ trắng của đất nước Đan Mạch, nơi những người Đan Mạch sinh sống. Nhưng có một điều nó biết chắc, ấy là cái vật mang hai màu đỏ trắng treo chót vót trên đỉnh cột cờ kia không phải là cờ Đan Mạch.

- Hihi! Đấy chỉ là Ida thôi mà! - Emil nói.

Và bé Ida ở trên cao cũng bật cười.

- Hi hi, là con đây mà! - Cô bé reo lên. - Con nhìn được khắp cả làng Lönneberga.

Nhưng bố Emil không cười. Ông tất tả chạy tới hạ Ida xuống. Cô bé hớn hở:

- Từ cái lần anh Emil nhúng con vào thùng mứt dâu, mãi đến bây giờ con mới lại được vui như thế!

Ấy là Ida nhắc tới cái hôm hai anh em chơi trò thổ dân da đỏ, Emil đã nhúng em gái nó vào thùng mứt dâu để toàn thân cô bé đỏ au như một người da đỏ.

Phải, Emil luôn làm cho Ida vui. Thế mà chẳng ai thèm cảm ơn nó. Ngược lại thì có! Giờ đây bố tóm chặt cánh tay nó mà lắc lấy lắc để.

- Mình đã bảo mà, - cô Lina lẩm bẩm khi trông thấy hai bố con đi về phía xuởng mộc. Đây luôn là nơi Emil bị phạt giam sau mỗi lần nghịch dại.

Emil gào khóc.

- Chính nó muốn nhìn thấy Ma-ri-anne-u-nd đấy-chứ, - nó thổn thức.

Nó thấy bố khá lá bất công. Chưa từng có ai dặn nó không được cho bé Ida nhìn thấy Meriannelund. Còn Ida không nhìn quá được làng Lönneberga thì đó đâu phải là lỗi của nó chứ!

Emil cứ thế mà khóc. Nhưng chỉ đến lúc bố khóa cửa xong bỏ đi là nó nín liền.. Thực ra ở trong một xưởng mộc cũng thích đáo để. Trong này có bao nhiêu là mẩu gỗ và những tấm ván đầu thừa đuôi thẹo có thể dùng làm khối thứ. Mỗi lần bị phạt giam trong xưởng mộc sau một trò nghịch ngợm nào đó. Emil lại tự đẽo cho mình một hình nhân nhỏ ngộ nghĩnh. Nó đã đẽo được tất cả năm mươi tư hình nhân và xem ra con số này vẫn còn tăng đều đều.

- Mình thèm vào bữa tiệc thiu của họ, - Emil tự nhủ. - Nếu bố thích thì đi mà treo cờ lấy. Mình sẽ lại đẽo một hình nhân và mình sẽ cau có, cáu bẳn thật là lâu cho họ biết tay.

Emil biết bố lại sắp thả mình ra ngay thôi. Chưa bao giờ nó phải ngồi lâu trong xưởng mộc cả. “Chỉ cần đủ để con suy nghĩ thấm thía về lỗi của mình và sẽ không tái phạm nữa,” bố luôn nói như vậy.

Còn Emil thì biết nghe lời ở chừng mực hiếm khi nó lặp lại lần thứ hai một trò nghịch ngợm, mà luôn nghĩ ra một trò mới toe.
Lúc này nó ngồi đây cặm cụi đẽo hình nhân và suy nghĩ về trò nghịch dại treo bé Ida lên. Hình nhân đã xong vì Emil đâu có nghĩ ngợi gì nhiều, mà nó lại đẽo gọt rất nhanh và thuần thục.

Bây giờ Emil muốn ra ngoài. Nhưng hẳn mọi người quá mải tiệc tùng nên đã quên mất nó. Nó đợi, đợi mãi, nhưng chẳng ai đến cả. Thế là Emil bèn nghĩ cách tự giải thoát.

Chui qua cửa sổ chăng? Cái đó không quá khó, Emil nghĩ. Cửa sổ ở trên cao thật, nhưng Emil có thể leo tuốt lên chồng ván xếp vô cùng thuận tiện ngay sát tường. Emil mở cánh cửa sổ, toan nhảy ra ngoài. Nhưng nó chợt thấy những chiếc lá han tua tủa mọc từ dưới lên bên ngoài cửa sổ. Emil đã từng sờ thử vào lá han nên quá rõ rồi, giờ không muốn lại bị nếm mùi nữa. “Mình đâu có điên,” nó tự như. “Nhất định mình sẽ nghĩ ra chiêu gì đấy hay hơn.”

Nếu bạn đã từng đến trang trại như Katthult, thì bạn biết rằng ở đó có rất nhiều ngôi nhà mọc san sát nhau. Hễ cứ đến đấy là tự nhiên lại muốn chơi trò trốn tìm. Ở trang trại Katthult không chỉ có một kho cỏ, một chuồng dành cho ngựa lẫn bò, một chuồng lợn, một chuồng gà và một chuồng cừu, mà còn có một loạt các căn nhà nhỏ và kho. Có một nhà hun khói, nơi mẹ Emil hun món xúc xích tuyệt ngon của bà này, rồi nhà giặt, nơi cô Lina giặt tất cả quần áo chăn màn bẩn này, rồi còn có hai căn nhà nhỏ đứng kề nhau nữa. Trong một căn la kho củi và xưởng mộc, còn căn thứ hai là kho chứa đồ và kho thực phẩm.
Chiều chiều Emil và bé Ida thường chơi trốn tìm và len lỏi giữa những căn nhà này. Tất nhiên chúng không mò vào nơi có lá han mọc.

Nhưng đúng lúc này thì Emil hầu như chẳng chơi gì được. Nó phải chôn chân tại đây chỉ vì trên khoảng đất nhỏ xen giữa xưởng mộc và kho thực phẩm mọc lên quá nhiều lá han.

Emil nghĩ ngợi. Nhìn cửa sổ bên kho thực phẩm mở toang, nó nảy ra một sáng kiến. Hẳn là rất dễ dàng bắc một tấm ván từ cửa sổ xưởng mộc sang cửa sổ kho thực phẩm rồi bò qua bên đó. Nó đã ngồi trong xưởng mộc quá đủ lâu rồi, hơn nữa nó bắt đầu thấy đói bụng.

Một khi đã nảy ra ý hay thì Emil chẳng bao giờ mất công cân nhắc nữa. Loáng một cái, tấm ván đã sẵn sàng và Emil bắt đầu bò qua. Trông thật nguy hiểm, vì tấm ván thì mỏng mà Emil thì nặng.

“Nếu phen này thoát thì mình sẽ cho Ida con búp bê chăn cừu của mình, mình hứa đấy,” Emil vừa bò vừa lẩm bẩm. Tấm ván kẽo kẹt nghe ghê người. Khi nhìn thấy đám lá han phía dưới, Emil phát hoảng và loạng choạng.

- Cứu với! - Nó kịp hét lên trước khi bị tuột khỏi tấm ván. Chỉ thiếu một chút nữa là nó bị rơi xuống đám lá han, nhưng đúng tích tắc cuối cùng nó quắp được hai cẳng chân vào tấm ván và lại đu người lên được. Lúc này nó đã bình tĩnh hơn và bò sang kho thực phẩm.

“Trò này thật chả khó gì,” nó lẩm bẩm. “Nhưng dù sao bé Ida vẫn được con búp bê … của mình….. mình nghĩ thế……. hay để lần khác…… biết đâu đến lúc ấy nó cũng bị hỏng rồi…. Ừ, phải tính xem nên làm thế nào…”

Emil đẩy mạnh cho tấm ván tụt trở lại xưởng mộc. Với nó, mọi thứ cứ là phải đâu và đấy. Nó chạy tới vặn thử cửa kho từ bên trong, nhưng cửa bị khóa.

- Mình biết ngay mà, - nó nói. -Nhưng thể nào họ cũng sắp đến lấy xúc xích, và mình sẽ biết một kẻ đào tẩu thành công.

Emil hểnh mũi hít hít. Mùi trong kho thực phẩm đến là thơm. Nhưng ở bàn tiệc cũng có bao nhiêu món ngon. Emil ngó quanh. Ô đúng rồi, ở đây cứ là tha hồ chén! Dưới trần nhà treo hàng dây nào đùi lợn hun khói, nào bánh tiết cuộn tròn, vì bố đặc biệt thích ăn bánh tiết với thịt lợn và nước sốt kem. Còn ở góc kho đằng kia, bên cạnh chiếc bàn gấp để đầy những bánh pho mát vàng ươm và những vại gốm đựng bơ tươi và chiếc hòm đựng đủ loại bánh mì. Phía sau bàn có cái thùng gỗ đựng đầy thịt lợn muối, còn bên cạnh là chiếc tủ lớn, nơi mẹ chuyên cất nào nước dâu ép, nào dưa chuột muối, nào lê, nào dâu đất. Nhưng ngăn giữa của tủ thì mẹ dành để cất loại xúc xích đặc sản của mẹ.

Emil rất khoái xúc xích, thật đấy!

Lúc này bữa tiệc ở trang trại Katthult đang vào lúc rôm rả nhất, khách khứa đã dùng cà phê và bánh ngọt. Lúc này họ chờ cho bụng ngơi bớt để có thể ăn thịt lợn rán, xa-lát cá, xúc xích và nhiều món khác nữa.

Nhưng chợt mẹ Emil la lên:

- Ồ, chúng ta quên mất Emil! Nó đã bị phát giam suốt từ nãy tới giờ, tội nghiệp thằng bé!

Bố Emil lập tức chạy tới xưởng mộc, có Ida te tái theo sau.

- Giờ con được phép ra rồi, Emil! - Bố vừa gọi vừa mở toang cánh cửa. Đoán xem ông ấy có ngạc nhiên không? Bên trong chẳng có Emil nào cả.

- Nó chuồn qua lối cửa sổ rồi, cái thằng ranh này, - bố nói. Nhưng khi thò đầu ra và trông thấy bậu cửa sổ những bụi lá han vẫn mọc thẳng đứng mà không bị xéo nát thì ông đâm hoảng.

- Ở đây có cái gì không ổn, - ông nói. Không ai bước vào chỗ này cả, ít nhất cũng không một dấu chân người.

Bé Ida bắt đầu khóc. Anh Emil bị làm sao rồi? Cô Lina thường xuyên hát một bài hát rất buồn. Bài hát kể về một cô bé biến thành chim bồ câu bay lên trời và không còn phải ngồi trong cái thùng đinh gớm ghiếc mà người ta cầm tù nó. Anh Emil chẳng vừa bị giam là gì. Ai biết được liệu anh ấy có biến thành con gì để bay đi không! Bé Ida vội ngó quanh xem có con chim bồ câu nào quanh đó không. Nhưng vật duy nhất mà nó thấy là một con gà mái lông trắng, béo múp, đang luẩn quẩn bới giun trước xưởng mộc.

Con bé òa khóc, chỉ tay vào con gà:

- Hay anh Emil đây, - nó nói.

Bố không tin. Nhưng để cho chắc, bố chạy lại hỏi mẹ xem có bao giờ mẹ nhận thấy ở Emil một biểu hiện biết bay không.
Mẹ bảo không. Thế là trang trại Katthult trộn rộn cả lên. Chuyện ăn uống tạm gác lại sau cũng không sao. Mọi người chạy túa đi tìm Emil.

- Nhất định thằng bé phải ở trong xưởng mộc, - mẹ Emil nói. Thế là mọi người đổ xô tới đó tìm cho kỹ.

Nhưng ở đây chẳng thấy Emil nào cả. Chỉ thấy năm mươi lăm hình nhân nhỏ bằng gỗ xếp hàng ngang trên một cái giá. Bà Petrell chưa từng trông thấy một lúc nhiều hình nhân bằng gỗ như thế, bèn hỏi ai đã đẽo ra chúng.

- Chẳng ai khác ngoài thằng bé Emil nhà chúng tôi, - mẹ Emil đáp và bắt đầu khóc. - Thằng bé mới đáng yêu làm sao!

- Ồ phải, - cô Lina vừa nói vừa vác mặt lên. Đoạn cô nói thêm: - Tốt nhất là hãy tìm kiếm ở kho thực phẩm.

Ý kiến này của cô Lina không đến nỗi ngớ ngẩn. Mọi nguời lại kéo nhau chạy sang kho thực phẩm. Nhưng ở đấy cũng không có Emil nốt!

Bé Ida cứ khóc rấm rứt mãi. Khi chẳng bị ai nhìn, cô bé đến bên con gà mái lông trắng thì thào:

- Đừng bay lên trời, Emil yêu quý nhé! Em sẽ cho anh ăn thóc và cả xô đầy cơm thừa canh cặn, chỉ cần anh ở lại Katthult!

Nhưng con gà mái không muốn hứa hẹn gì cả, nó kêu lên quang quác và bỏ đi. Khổ thân những người ở trang trại Katthult cứ nhọc công tìm kiếm! Họ sục vào kho củi, kho chứa đồ, chẳng ở đâu có Emil! Rồi trong chuồng ngựa, chuồng bò, chuồng lợn, cả trong chuồng gà nữa - không có Emil! Trong chuồng cừu, trong nhà hun khói, nhà giặt - cũng không có Emil nốt! Cuối cùng họ nhòm xuống giếng. Dưới giếng cũng không thấy Emil, và thế là đáng mừng, nhưng giờ đây tất cả đều bật khóc. Và những người dân làng Lönneberga có mặt dự tiệc hôm nay rỉ tai nhau:

- Thật ra Emil là một thằng bé đáng yêu! Nó đâu phải là thằng bé nghịch như quỷ sứ……..mà tôi cũng chưa bao giờ như thế đâu nhé!

- Chắc cu cậu ngã xuống suối mất rồi, - cô Lina nói. Con suối ở Katthult chảy xiết, rất dữ và nguy hiểm, trẻ con bé dễ bị chết đuối ở đây.

- Cháu nó không được phép ra đó, cô biết rõ rồi mà!

Mẹ Emil nghiêm khắc nói. Cô Lina vác ngay mặt lên.

- Thì chính vì thế mà lị! - Cô đáp.

Tất cả xô nhau chạy ra suối. May quá không tìm thấy Emil ở đó. Dầu vậy mọi người vẫn khóc nhiều hơn ban nãy. Thế mà mẹ Emil đã đinh ninh rằng họ sẽ có một bữa tiệc vui vẻ và đầm ấm lắm!

Bây giờ thì chẳng còn chỗ nào để mà tìm nữa.

- Chúng ta biết làm gì bây giờ hả trời! - Mẹ Emil than.

- Dù sao cũng phải đi lấy cái gì ra ăn đã, - bố Emil nói, và ông có lý vì ai nấy đều đói sau một hồi lo lắng và tìm kiếm.

Mẹ Emil lập tức dọn tiệc. Khi bưng món sa-lát cá ra, nước mắt bà rỏ cả vào đấy, nhưng bà vẫn đặt nó lên bàn, bên cạnh các món thịt bê cuộn, thịt lợn rán, bánh ngọt và nhiều món khác.

Bà Petrell liếm môi. Bàn tiệc trông đầy hứa hẹn. Nhưng chưa thấy món xúc xích thì bà còn chưa yên tâm.

Đúng lúc ấy mẹ Emil kêu lên:

- Cô Lina, chúng ta quên món xúc xích! Cô chạy đi lấy mau lên!

Cô Lina chạy liền, tất cả hồi hộp chờ đợi, còn bà Petrell gật gù:

- Ồ phải, xúc xích! Đúng lúc buồn thế này, ăn món ấy sẽ thấy ngon miệng đấy.

Cô Lina quay lại kia rồi. Không thấy xúc xích.

- Tất cả theo tôi, tôi chỉ cho xem cái này! - Cô Lina nói.

Trông cô có vẻ hơi bí hiểm, nhưng cô vẫn thế luôn nên chẳng ai để ý làm gì.

- Giờ cô lại nghĩ ra những trò gì ngu ngốc nữa đây? - Mẹ Emil nghiêm giọng hỏi.

Lina càng tỏ vẻ bí hiểm tợn, cô cười khe khẽ và là lạ.

- Cứ theo tôi, - cô nói. Thế là tất cả những ai đến dự tiệc tại Katthult đều đi theo cô.

Cô Lina le te chạy trước, còn mọi người ngạc nhiên theo chân cô đến kho thực phẩm. Suốt dọc đường cô Lina cứ cười khúc khích một mình, nghe lạ lắm. Cô đẩy cánh cửa kho nặng trịch, bước qua ngưỡng cửa khá cao, rồi dẫn mọi người đến trước cái tủ to, mở cánh cửa tủ khiến nó kêu cót két, và chỉ vào ngăn giữa, nơi mẹ Emil luôn cất xúc xích. Giờ ở đó tịnh chẳng thấy cái xúc xích nào, nhưng thấy Emil.

Thằng bé đang ngủ. Nó nằm giữa cả đống vỏ xúc xích mà ngủ, cái thằng bé đáng yêu nhất trần đời này! Còn mẹ nó thì sướng vui khôn tả, như thể bà vừa phát hiện trong tủ nhà mình cả một mỏ vàng. Có sao đâu, nếu Emil đã tọng hết vào bụng tất cả chỗ xúc xích! Tìm thấy Emil trong tủ lại chẳng ngàn lần tốt hơn là tìm thấy vài cân xúc xích ấy chứ! Cả bố Emil cũng nghĩ thế.
- Hi hi, anh Emil kia rồi! - Bé Ida hoan hỉ. Anh ấy không bị phù phép, hoặc chỉ bị phù phép một tẹo.

Không thể tin nổi việc một thằng bé được tìm thấy sau khi ních căng một bụng xúc xích lại có thể làm nhiều người vui sướng đến thế.

Rốt cuộc ở trang trại Katthult vẫn diễn ra một bữa tiệc vui vẻ và đầm ấm. Mẹ Emil tìm thấy một chiếc xúc xích nhỏ còn sót lại do Emil chịu không ăn nổi nữa. Và bà Petrell mừng rõ đón nhận ngay. Tất cả những ai dù chẳng được ăn xúc xích, cũng không phải bụng đói ra về. Họ tha hồ chén thỏa thích thịt lợn rán, thịt bê cuốn, thịt viên, cá muối, cá nướng, chè thạch và lươn nấu đông. Kết thúc bữa tiệc. Họ còn tráng miệng món bánh ngọt tuyệt vời nhất phủ đầy thạch dâu và kem tươi.

- Bánh này ngon nhất trên đời! - Emil nói. Và nếu bạn từng được nếm một chiếc bánh ngọt như chiếc bánh ở Katthult, hẳn bạn biết Emil đã phát ngôn một câu chí lý.

Trời dần về chiều, hoàng hôn hiền hòa phủ bóng xuống trang trại Katthult, xuống làng Lönneberga và khắp vùng Smăland. Bố Emil hạ cờ xuống, Emil và bé Ida đứng xem bên cạnh.

Rồi tiệc tàn. Tất cả lên đường ai về nhà nấy. Những cỗ xe nối đuôi nhau lăn bánh. Bà Petrell quý phái rời Katthult sau cùng trên cỗ xe ngựa. Emil và bé Ida còn nghe tiếng vó ngựa lộp cộp lắng dần giữa những triền đồi.

- Mong là bà ấy tử tế với con chuột của anh, - Emil nói.

- Chuột nào cơ? - Bé Ida hỏi.

- Con chuốt mà anh đút vào xắc tay bà ấy chứ con chuột nào, Emil đáp.

- Sao anh lại làm thế? - Bé Ida hỏi.

- À, tại anh thương con chuột, - Emil đáp. - Suốt đời nó chẳng nhìn thấy gì ngoài cái tủ to đựng xúc xích. Anh nghĩ, làm như thế chí ít con chuột cũng một lần được nhìn thấy thị trấn Vimmerby.

- Nếu bà Petrell tử tế với nó, - bé Ida nói.

- Ồ, nhất định là bà ấy tử tế với nó rồi, - Emil nói.

Đó là ngày mồng 10 tháng Sáu, ngày mà Emil treo bé Ida lên đỉnh cột cờ và xơi hết chỗ xúc xích. Có lẽ bạn còn muốn nghe chuyện cuối cùng xảy ra vào ngày mồng 8 tháng Bảy. Ấy là

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 07:05 PM
Chủ nhật ngày mồng 8 tháng Bảy,
ngày Emil “sống cuộc đời vui nhộn” tại lễ hội vùng Hultsfred


Chú Alfred, đầy tớ trang trại Katthult, rất yêu trẻ con. Đặc biệt là Emil. Emil ngỗ nghịch và ương ngạnh, nhưng chú Alfred chẳng bận tâm. Chú vẫn yêu quý Emil như thường và đẽo cho nó một khẩu súng gỗ đẹp tuyệt vời. Trông y như một khẩu súng gỗ đẹp tuyệt vời. Trông y như một khẩu súng thực thụ, mặc dù tất nhiên không thể dùng để bắn rồi.

Vậy mà Emil vẫn vừa bóp cò khẩu súng của nó vừa hét: “Pằng! Pằng!”, khiến nhiều ngày trời lũ chim sẻ ở trang trại Katthult không dám thò ra khỏi tổ. Emil yêu khẩu súng của nó đến nỗi ban đêm nó muốn đem súng cả lên giường ngủ.

- Đưa con cái “sún”! - Nó gào lên giọng địa phương đặc sệt và bất bình khi mẹ hiểu sai, tất tả mang “mú” đến cho nó.

- Con không muốn cái “mú”, - nó hét lên . - Con muốn cái “sún”!

Thế là nó được toại nguyện.

Phải, Emil yêu khẩu súng, Nhưng nó còn yêu chú Alfred, người đã đẽo khẩu súng cho nó hơn nữa. Vì thế việc Emil khóc khi chú Alfred lên đường đến Hulsfred làm nghĩa vụ quân sự chẳng có gì là lạ.

Hẳn bạn không hiểu người ta làm gì khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, nhưng bạn thấy đấy, trước kia người ta vẫn gọi thế khi đi lính. Tất cả đầy tớ trai ở làng Lönneberga và ở đâu cũng vậy thôi, đều phải làm nghĩa vụ quân sự và trở thành người lính.

- Lại nhè đúng lúc nhà ta đang định chở rơm về cơ chứ, - bố Emil phàn nàn.

Bố chẳng muốn mất chú Alfred vào giữa mùa thu hoạch chút nào vì như thế trang trại Katthult sẽ rất bấn người. Nhưng bố có phải là người quyết định bao giờ đám đầy tớ trai trong làng Lönneberga phải đến Hulsfred để làm lính đâu, mà chính là đức vua và đám tướng lĩnh của ngài chứ. Hơn nữa, rồi chú Alfred sẽ lại trở về nhà sau khi được huấn luyện xong - mà cũng chẳng lâu đâu. Thế nên thật ra Emil cần gì phải khóc, nhưng nó vẫn cứ khóc, cả cô Lina nữa. Là vì đâu chỉ có một mình Emil yêu quý chú Alfred.

Chú Alfred không khóc. Chú bảo: ở Hulsfred người ra có thể sống cuộc đời vui nhộn và nói chung là rất sướng. Khi chiếc xe chở chú Alfred rời bánh và mọi người buồn bã đứng vẫy tay tiễn biệt, thì chú nhỏm phắt dậy vừa hát vừa reo lên hoan hỉ để mọi người hết lo lắng.

Bài hát mà chú hát như sau:

Nơi thành phố Eksjö lễ hội sớm trưa
Thiên hạ vui cười nhảy múa say sưa,
Cứ xem các cô nàng Hulsfred đong đưa,
Thế nào một cô cũng bị tớ cưa.
Halli halllo, tớ tớ sướng chưa,
Halli halllo, tớ sướng chưa!


Rồi không ai còn nghe được tiếng hát của chú Alfred nữa, vì cô Lina bắt đầu khóc tu tu, khóc to hết cỡ. Lát sau chiếc xe chở chú Alfred khuất sau lối rẽ.

Mẹ Emil tìm cách an ủi cô Lina:

- Thôi đừng buồn thế, Lina! Cô chịu khó đợi đến ngày mồng 8 tháng Bảy có lễ hội ở Hultsfred, rồi chúng ta sẽ tới đó thăm Alfred.

- Con cũng muốn tới Hultsfred để sống một cuộc đời vui nhộn và thăm chú Alfred,- Emil tuyên bố.

- Con nữa! - Bé Ida nói.

Nhưng mẹ lắc đầu.

- Những lễ hội như thế không phải dành cho trẻ con bé. Trẻ con đến đấy chỉ tổ bị lạc đường giữa đám đông chen chúc mà thôi.

- Con thấy bị lạc giữa đám đông mới vui, - Emil nói. Nhưng chẳng ăn thua gì.

Ngày mồng 8 tháng Bảy bố mẹ cùng cô Lina đi Hultsfred dự lễ hội từ sáng sớm, để Emil và bé Ida ở nhà cho bà Krösa-Maja trông coi. Krösa-Maja là một bà lão nhỏ bé thỉnh thoảng vẫn đến Katthult giúp dăm ba việc lặt vặt. Bé Ida là một đứa trẻ ngoan ngoãn. Cô bé lập tức ngồi vào lòng bà Krösa-Maja và xin bà kể cho mình nghe một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất của bà. Thế thôi đã đủ khiến Ida mãn nguyện và hạnh phúc. Nhưng Emil thì khác. Tay lăm lăm khẩu súng gỗ, nó đi ra chuồng ngựa, bước chân giận dữ đến mức gót giầy kêu lên ken két.

- Mình đừng hòng cam chịu, - Emil nói. Mình muốn đến Hultsfred sống cuộc đời vui nhộn y như những kẻ khác, mình đã quyết rồi đấy. Mày có hiểu không hả, Julla?

Câu hỏi cuối cùng nó dành cho con ngựa cái già đang gặm cỏ trên bãi cỏ phía sau chuồng. Ở trang trại Katthult còn có một chú ngựa non tên là Markus. Nhưng Markus đang trên đường chở bố mẹ và cô Lina đi Hultsfred. Thế đấy, những người khác thì được phép đi chơi xa và vui vẻ.

- Nhưng tao biết có hai kẻ sẽ đuổi kịp họ, khiến họ ù cả tai lên, - Emil nói. Đó là mày và tao đấy, Julla ơi!

Đã nói là làm. Emil đóng dây cương vào con ngựa cái già Julla và dắt nó rời bãi cỏ.

- Mày không việc gì phải sợ,- nó bảo Julla. - Chú Alfred sẽ rất mừng khi tao đến, và chắc chắn mày sẽ tìm được bà ngựa già đáng mến khác để cùng ngồi buôn chuyện, nếu mày cũng muốn nếm mùi cuộc đời vui nhộn tý chút. Emil lùa con ngựa đến bên cổng trang trại, vì nó cần có bước đệm để leo lên ngựa. Cái thằng nhóc này đúng là tinh ranh thật!

- Nào, lên đường! - Nó nói, - Halli hallo, tớ sướng chưa! Chúng ta sẽ chào tạm biệt bà Krösa-Maja  khi trở về.

Thế là con Julla đi nước kiệu xuôi theo những triền đồi, còn Emil ngồi ngay ngắn và can trường trên lưng ngựa với khẩu súng trước ngực. Đúng, phải mang khẩu súng theo, nếu bây giờ chú Alfred là lính thì Emil cũng muốn như chú. Chú Alfred có súng của chú, thì Emil có súng của nó, hai khẩu gần như là một, cả hai chú cháu đều là lính, phải thế chứ, Emil nghĩ.

Con Julla đã già, không thể đi nhanh. Để con ngựa không bị mất hứng, Emil bèn hát cho nó nghe.

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió,
Rệu rã rồi, chân cẳng nó.
Có hề chi?
Cõng tớ, nó vẫn đàng hoàng phi,
tuy nước kiệu hơi chậm tí ti -
trên những con đường phẳng lỳ.


Dù con Julla hết đi nước kiệu lại giậm chân tại chỗ hoặc lê từng bước mệt mỏi, thì cuối cùng cả hai đứa, nó và Emil, cũng vẫn đến được Hultsfred.

- Ha! - Emil reo. - Cuộc đời vui nhộn bắt đầu!

Nhưng thằng bé bỗng im tịt và trố mắt lên. Cố nhiên nó biết trên thế giới có rất nhiều người, nhưng nó ngờ đâu tất cả số người ấy lại đổ dồn về đông nghìn nghịt trên bãi cỏ rộng dành cho lễ hội Hultsfred. Chưa bao giờ Emil nhìn thấy người đông đến thế, hàng ngàn người đang xúm xít xung quanh bãi cỏ, trên khoảng trống ở giữa là các chú lính đang bồng súng trên vai, rồi tập quay phải, quay trái, đủ thứ như lính vẫn quen làm. Một ông già béo, lùn, vẻ mặt dữ tợn, cứ cưỡi ngựa chạy vòng quanh và hò hét bắt các chú lình làm thế này, làm thế nọ. Vậy mà các chú lính cũng chịu, nhất nhất làm theo ý ông ta.

Emil thấy kỳ cục.

- Chú Alfred không phải là người ra lệnh ở đây hay sao? - Nó hỏi mấy thằng bé nông dân đứng cạnh đó. Nhưng lũ này còn mải xem các chú lính nên không trả lời nó.

Emil khá thích thú xem cảnh các chú lính bồng súng trên vai, nhưng không được lâu. Chỉ một lát sau nó đã nghĩ phải gặp chú Alfred, vì xét cho cùng nó đến đây là để thăm chú ấy. Nhưng tất cả các chú lính đều mặc quân phục màu tím than và giống như như đúc. Tìm ra chú Alfred giữa cái đám này đây có dễ.

- Ô hô, hay chờ tới lúc chú Alfred trông thấy tao.- Emil bảo con Julla. - Rồi chú ấy sẽ chạy ù đến với tao, còn lão già độc ác kia nếu thích thì đi mà múa may với khẩu súng.

Và để chú Alfred có thể nhìn thấy mình. Emil cưỡi ngựa đi qua tất cả các chú lính, miệng hét to hết cỡ:

- Chú Alfred, chú ở đâu? Lại đây chú ôi, rồi chúng ta sẽ sống một cuộc đời vui nhộn! Chú không thấy cháu hay sao, chú Alfred ơi?

Có chứ, tất nhiên chú Alfred có trông thấy Emil đến. Emil với “mú” và “sún” của nó trên lưng con ngựa cái già Julla. Nhưng chú Alfred đang đứng giữa đám lính và không dám đi ra vì sợ lão béo già lùn độc ác suốt nãy giờ cứ hò hét và ra lệnh kia.

Thay vì chú Alfred, lão già béo lùn độc ác cưỡi ngựa đến bên Emil và hỏi một câu ân cần:

- Chuyện gì xảy ra vậy, cậu bé của ta? Cháu bị lạc bố mẹ sao?

Đây là câu hỏi ngu ngốc nhất mà đã từ lâu lắm Emil mới nghe thấy.

- Cháu đâu có bị lạc, cháu đang ở đây cơ mà! - Nó đáp. - Nếu có người đang bị lạc thì đó là bố mẹ cháu.

Mà nó nói chí phải. Trẻ con bé có thể bị lạc nơi lễ hội rộng lớn ở Hultsfred, mẹ đã bảo thế. Vậy mà sự thực giờ đây chính bố cùng mẹ và cô Lina đang kẹt cứng giữa đám đông và cả ba đều cảm thấy tuyệt vọng chẳng khác gì trẻ lạc, vì không ai trong số họ nhúc nhích nổi một bước.

Nhưng Emil thì họ có trông thấy, thật thế! Họ nhìn thấy họ đến trên lưng con ngựa cái già với đầy đủ “mú” và “sún”. Bố Emil nói:

- Bây giờ phải lôi được thằng Emil về, bắt ngồi đẽo một hình nhân mới.

- Được rồi, - mẹ bảo. - Nhưng làm sao túm được nó đây?

Phải, vấn đề là thế! Nếu bạn đã từng dự lễ hội ở Hultsfred, bạn sẽ hiểu ở đó đông đúc và nhộn nhạo tới mức nào. Đám lính vừa tập tành xong và rầm rập đi khỏi, lập tức cả sân bãi rộng mênh mông này tràn ngập người là người. Khi ấy ta có cảm giác dường như không thể tìm ra chính bản thân mình nữa, huống hồ tìm ra Emil. Không riêng bố mẹ Emil tìm nó, mà cả chú Alfred cũng tìm nó. Vì lúc này chú đã được tự do, không phải tập tành gì nữa. Lúc này chú muốn vui chơi cùng Emil. Nhưng đơn giản là không thể tìm ra ai giữa cái đám đông lễ hội này. Hầu như tất cả những người có mặt tại đây đều đang nháo nhác chạy quanh tìm kiếm ai đó. Chú Alfred tìm Emil còn Emil tìm chú Alfred, mẹ tìm Emil, cô Lina tìm chú Alfred, còn bố tìm mẹ.

Phải, mẹ đã bị lạc khác lâu. Sau hai tiếng đồng hồ chạy đôn chạy đáo, rốt cuộc bố mới tìm thấy mẹ đang vô cùng tuyệt vọng và kẹt cứng giữa hai người đàn ông cao lớn kềnh càng đến từ thị trấn Vimmerby.

Nhưng Emil chẳng tìm thấy ai, cũng không ai tìm thấy nó. Vậy là Emil hiểu nó đành phải một mình bắt đầu cuộc đời vui nhộn vậy, nếu muốn vớt vát được tí chút.

Thế nhưng trước khi có thể bắt đầu, Emil còn phải lo tìm cho Julla một con ngựa già nào đó để cùng buôn chuyện đã, nó trót hứa thế rồi.

Emil chẳng kiếm đâu ra một bà bạn già cho Julla. Nhưng nó tìm được con Markus, như thế càng hay. Bị buộc vào thân cây, con Markus đang đứng nhai rơm bên rìa rừng phía sau. Sát cạnh nó là cỗ xe ngựa của trang trại Katthult mà Emil quá quen thuộc. Con Julla mừng ra mặt khi trông thấy con Markus. Emil bèn buộc nó vào cùng thân cây với con Merkus và lấy từ trên xe xuống một ôm cỏ khô. Thời đó người ta luôn chở cỏ khô theo cho ngựa. Ngay lập tức con Jullia bắt đầu ăn và Emil cảm thấy mình cũng đã đói bụng.

- Mặc dù thật ra mình không ăn cỏ khô, - Emil nói.

Mà cũng tội gì phải ăn. Ở lễ hội đầy rẫy những gian hàng nhỏ, nơi người ta có thể mua bánh mì bơ, xúc xích, bánh mì con và bánh ngọt bao nhiêu tùy thích, miễn là có tiền.

Còn với kẻ nào muốn sống cuộc đời vui nhộn thì ở đây cũng có cơ man trò chơi giải trí: một rạp xiếc này, một sàn nhảy này, và một sân chơi đu quay và nhiều thú vui khác….. Bạn thử hình dung xem, ở đây thậm chí còn có cả một nghệ sĩ nuốt kiếm, rồi một nghệ sĩ nuốt lửa - ông ta nuốt được lửa, rồi lại một quý cô xinh đẹp lộng lẫy có râu quai nón - nhưng cô này không nuốt được gì khác ngoài cà phê và bánh mì sau mỗi giờ đồng hồ. Tất nhiên cô ta không thể làm giàu nổi với cái tài mọn đó, nhưng may mà còn có bộ râu. Cô ta phô bộ râu để thu tiền, và cũng kiếm được kha khá.

Ở lễ hội Hultsfred cái gì cũng phải trả tiền. Mà Emil lại chẳng có tiền. Thế nhưng nó lại là một thằng nhóc tinh ranh, như tôi đã nói. Emil muốn xem được càng nhiều càng tốt và nó bắt đầu từ rạp xiếc, vì việc đó dễ nhất. Nó chỉ cần trèo lên một cái hòm đằng sau rạp, rồi ngó qua một lỗ thủng trên lều rạp.

Thế nhưng tiết mục của chú hề đang nhảy nhót và chọc cười trên sàn diễn khiến Emil cười khiếp quá, đến mức nó ngã huỵch khỏi cái hòm, đầu va vào một hòn đá. Thế là nó nhổ toẹt vào rạp xiếc. Hơn nữa nó thấy đói bụng, bụng còn cồn cào hơn cả ban nãy.

- Một cuộc đời vui nhộn mà không có gì ăn thì cũng vứt đi, - Emil nói. - Mà không có tiền thì lấy gì ăn. Vậy mình phải nghĩ cách thôi.

Nó đã thấy người ta có rất nhiều cách kiếm tiền ở lễ hội, vậy cũng phải có cách nào cho nó chứ. Lửa và kiếm thì nó chịu không nuốt được rồi, râu nó cũng chẳng có - nó nên làm gì đây?

Emil cứ đứng đực ra mà nghĩ ngợi. Rồi nó thấy một ông già mù nghèo khổ ngồi trên một cái hòm ngay giữa đám đông. Ông già ca những bài ca u buồn nhất, nghe rất thê lương, thế mà ông lại được thưởng tiền. Ông đặt dưới đất, ngay bên cạnh chân mình, một cái mũ và những người thân thiện đi ngang cứ bỏ xu vào đấy suốt. Mình cũng làm được tốt, Emil nghĩ, may quá mình có mang “mú” theo. Nó bèn đặt cái mũ xuống đất, ngay trước mặt, sửa tư thế đứng và bắt đầu hát cho những ai muốn nghe:

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió….

Thoáng cái, một đám đông đã bu kín quanh nó.

- Ồ, một chú bé mới dễ thương làm sao! - Họ nói. - Chắc nó phải nghèo lắm mới ra đây đứng hát kiếm tiền.

Thời đó có nhiều trẻ em nghèo chẳng có gì ăn. Lúc này một quý bà thân thiện tiến đến gần Emil và hỏi:

- Anh bạn nhỏ của tôi, hôm nay cháu đã có gì ăn chưa?

- Thưa có, nhưng chỉ là cỏ khô thôi ạ, - Emil đáp.

Câu trả lời khiến ai nấy đều thương xót. Một bác nông dân thấp bé tốt bụng đến từ làng Vena ứa nước mắt. Bác ta khóc vì thương đứa trẻ nghèo rất đỗi cô đơn đang đứng đó với mái tóc bồng bềnh mới đẹp làm sao. Tất cả bèn đua nhau bỏ vào “mú” của Emil những đồng hai xu, năm xu và mười xu. Bác nông dân thấp bé tốt bụng đến từ làng Vena lục tìm trong hầu bao đồng hai xu, nhưng rồi bác ta kịp nghĩ lại trước khi quá muộn và đút tọt đồng tiền trở lại túi mình. Bác ta thì thào bảo Emil:

- Nếu chú mày đi cùng với ta đến chỗ ta để xe, chú mày có thể lấy thêm ít cỏ khô!

Nhưng bây giờ Emil đã giàu với một cái mũ đầy tiền. Nó chỉ muốn bỏ đi và mua cho mình thật nhiều bánh mì bơ, bánh mì con, bánh ngọt và nước quả. Sau khi đã ních tất cả vào bụng, Emil bỏ ra bốn đồng và hai mươi xu để đi bốn mươi hai vòng đu quay. Trước đây nó chưa từng được đi đu quay nên không hề biết trên thế gian lại có trò vui nhộn như thế.

Rõ ràng mình đang sống một cuộc đời vui nhộn, Emil nghĩ khi ngồi quay tròn trên đu quay, khiến mái tóc bồng bềnh của nó tung bay. Từ bé mình đã biết nhiều trò vui nhưng trò này thì chưa.

Rồi nó đi xem nghệ sĩ nuốt kiếm, nghệ sĩ nuốt lửa và quý cô có râu quai nón. Thưởng thức xong những trò đó nó chỉ còn thừa lại hai xu.

Mình có thể hát thêm một bài hát nữa và lại làm đầy “mú” của mình, Emil nghĩ. Ở đây ai ai cũng thân thiện thế cơ mà.

Nhưng rồi nó cảm thấy buồn ngủ. Nó không muốn hát nữa, cũng không muốn có tiền nữa. Thế là nó đem đồng hai xu cho ông lão mù. Sau đó nó chạy loăng quăng một chút và tìm chú Alfred.

Nếu Emil nghĩ rằng ai ai cũng thân thiện thì nó đã nhầm. Thế nào hôm ấy chẳng có kẻ này hay kẻ khác xấu xa độc ác cũng mò đến Hultsfred dự lễ hội. Thời đó trong vùng có một tên trộm khét tiếng đang tác oai tác quái. Hắn được gọi là Quạ Đen. Khắp vùng Smăland đều sợ hắn. Người ta có thể đọc trên tờ “Nhật báo Smăland ” và trên tờ “Bưu điện Hultsfred” về những vụ trộm cướp mà hắn gây ra. Bất kỳ ở đâu có hội hè, họp chợ hoặc cứ ở đâu có người và tiền tụ hội, là thế nào Quạ Đen cũng xuất hiện và trộm cắp những gì hắn có thể khoắng được. Để không ai nhận dạng được mình, mỗi lần hắn lại gắn một bộ râu và bộ ria khác. Lúc này hắn đã mò đến lễ hội Hultsfred và với chiếc mũ mềm rộng vành đen sì cùng bộ ria giả cũng màu đen, hắn đang len lỏi quanh đó để xem xem có gì thó được không. Không ai biết kẻ phất phơ lượn lờ kia chính là Quạ Đen, nếu biết thì hẳn tất cả đã sợ phát khiếp.

Nhưng giá mà Quạ Đen thông mình thì hắn đã không mò tới lễ hội Hultsfred vào đúng cái ngày mà Emil từ làng Lönneberga cũng có mặt ở đó với khẩu súng gỗ của nó.

Lúc này Emil lặng lẽ đi loanh quanh tìm chú Alfred. Nó đi ngang qua căn lều của quý cô có bộ râu quai nón và tình cờ nhìn qua cửa lều thấy cô ta đang ngồi đếm tiền. Hẳn cô ta muốn biết trong cái ngày Chủ nhật may mắn duy nhất ở Hultsfred này mình đã kiếm được bao nhiêu tiền nhờ bộ râu.

Chắc số tiền không ít, vì cô ta cười tủm tỉm, hài lòng vuốt râu. Sau đó cô ta phát hiện ra Emil.

- Cứ vào trong này đi, cậu bé, - cô ta gọi. - Cậu cứ việc vào ngắm bộ râu của ta hoàn toàn miễn phí. Vì trông cậu rất dễ thương.

Thật ra Emil ngắm bộ râu rồi, nhưng đã được mời thì tội gì nó từ chối. Mà bởi lần này được miễn phí hoàn toàn, nên nó bước vào trong lều - với đủ cả mũ lẫn súng - định bụng sẽ ngắm quý cô có râu một cách hào phóng, với quãng thời gian mà lẽ ra nó phải chi hai mươi lăm xu.

- Làm thế nào mà cô nuôi được bộ râu đẹp thế ạ? - Nó lịch sự hỏi. Nhưng quý cô có râu chưa kịp trả lời thì một giọng ghê sợ rít lên:

- Đưa ngay tiền ra đây, nếu không ta sẽ vặt trụi bộ râu của ngươi!

Đó là Quạ Đen, hắn đã lẻn vào lều lúc nào không ai hay biết.

Quý cô có râu tái mét cả mặt mũi - cố nhiên trừ chỗ râu mọc. Người phụ nữ đáng thương đang định trao hết số tiền cho Quạ Đen thì Emil thì thào bảo:

- Cầm lấy súng của cháu này!

Quý cô có râu cầm lấy khẩu súng gỗ mà Emil thận trọng dúi cho. Trong lều khá tối nên không thể nhìn rõ vật gì. Quý cô có râu đinh ninh là khẩu súng thật và có thể bắn được. Nhưng hay hơn tất cả là chính Quạ Đen cũng tưởng như vậy:

- Giơ tay lên không ta bắn! - Quý cô có râu thét.

Bây giờ tới lượt Quạ Đen tái mét mặt, hắn giơ tay lên quá đầu, người run lẩy bẩy, trong khi quý cô có râu la toáng lên gọi cảnh sát, đến nỗi khắp khu vực lễ hội đều nghe thấy. Cảnh sát đến, và kể từ đó người ta không bao giờ còn nhìn thấy Quạ Đen nữa, dù ở Hultsfred hay bất kỳ đâu, và nạn trộm cắp ở Smăland cũng chấm dứt. Phải, phải, chuyện là thế đấy. Quý cô có râu quai nón trở nên tiếng tăm lừng lẫy, vì đã bắt được Quạ Đen. Nhưng chẳng ai viết một dòng về Emil và khẩu súng gỗ của nó. Vì vậy tôi cho rằng đã đến lúc phải có ai đó kể lại diễn biến thực sự của câu chuyện.

- May quá cháu đã đem theo cả “mú” và “sún” đến Hultsfred. - Emil nói khi cảnh sát giải Quạ Đen đi để bỏ tù hắn.

- Phải, cháu là một cậu bé ngoan, - quý cô có bộ râu quai nón nói. - Vì vậy cháu được phép ngắm bộ râu của ta hoàn toàn miễn phí, bất kể lúc nào cháu muốn.

Nhưng Emil đã thấm mệt. Nó chẳng thiết ngắm bộ râu nào nữa, cũng chẳng thiết sống cuộc đời vui nhộn hay bất cứ thứ gì khác nữa. Nó chỉ muốn ngủ. Vì lúc này bóng tối đã phủ xuống khắp khu vực lễ hội ở Hultsfred. Một ngày dài đã trôi qua, vậy mà Emil vẫn chẳng tìm thấy chú Alfred!

Bố mẹ và cô Lina cũng mệt rồi. Họ đã tìm kiếm Emil khắp nơi khắp chốn, bây giờ chẳng ai còn hơi sức đâu mà tìm tiếp
- Ôi, chân tôi ê ẩm này, - mẹ than vãn, còn bố cau có gật đầu.

- Phải, những lễ hội kiểu này vui gớm, - bố nói. - Nào ta quay về Katthult thôi. Chẳng còn cách nào khác đâu.

Thế là họ lê bước đi đến bìa rừng để thắng ngựa và xe lên đường.

Rồi họ trông thấy con Julla bị buộc vào cùng một thân cây với con Markus và đang nhai rơm. Mẹ Emil òa lên khóc.

- Ôi trời, Emil bé bỏng của tôi đâu rồi? - Mẹ nói. Nhưng cô Lina vác mặt lên.

- Nó thì có bao giờ là không gây rắc rối đâu, cái thằng ngỗ nghịch ấy. Nó đúng là đồ quỷ sứ, - cô nói.

Vừa lúc họ nghe tiếng ai đang chạy lại, người đó thở không ra hơi. Đó là chú Alfred.

- Emil đâu? Tôi tìm nó suốt cả ngày.

- Nó ở đâu tôi không cần biết, - cô Lina nói, rồi ngúng ngẩy bỏ lên xe để đi về nhà. Và bạn hãy tưởng tượng xem, cô giẫm luôn phải Emil! Trên xe vẫn còn lại ít cỏ khô. Emil nằm trên đống cỏ khô ấy, ngủ khì khì. Nhưng nó thức giấc khi bị cô Lina giẫm phải, và trông thấy một người mặc quân phục màu xanh lơ đang thở hổn hển đứng ngay cạnh xe. Nó bèn giơ một cánh tay quàng lên cổ chú Alfred.

- Chú đây rồi, chú Alfred! - Nó nói và lại ngủ thiếp đi.

Thế là cả nhà lên đường đi về Katthult. Con Markus phải kéo xem, còn con Julla - được buộc vào xe - tấp tểnh chạy theo sau. Thi thoảng Emil tỉnh giấc giữa chừng, trông thấy cánh rừng thẫm đen và bầu trời đêm mùa hạ trong trẻo. Nó ngửi thấy mùi cỏ khô, mùi ngựa, mùi đêm tối, nghe tiếng vó ngựa cộp cộp và tiếng bánh xe cót két. Còn nói chung nó ngủ suốt quãng đường và mơ thấy chú Alfred sắp được giải ngũ về nhà. Về Katthult với Emil. Và cũng đúng là chú sẽ về thật. Đó là ngày mồng 8 tháng Bảy, ngày mà Emil sống cuộc đời vui vẻ ở lễ hội tại Katthult. Bạn nghĩ sao, liệu hôm ấy có còn ai nữa cũng tìm Emil không? Bạn hãy hỏi bà lão Krösa-Maja ấy! Đừng, tốt hơn bạn đừng hỏi, kẻo bà Krösa-Maja lại tức giận đến đỏ ửng cả hai cánh tay lên, đến cả ngày cũng chưa hết đỏ cho mà xem.

Giờ thì bạn đã nghe Emil làm những gì trong các ngày mồng 7 tháng Ba, 22 tháng Năm, mồng 10 tháng Sáu và mồng 8 tháng Bảy, nhưng còn nhiều ngày khác trong lịch của một đứa muốn bày trò nghịch ngợm như Emil. Gần như hàng ngày, trong suốt cả năm, thằng bé lúc nào cũng gây chuyện, nhưng đặc biệt là vào các ngày 19 tháng Tám, 11 tháng Mười và mồng 3 tháng Mười Một.

Hô hô hô, tôi không thể nín cười khi nghĩ đến chuyện Emil đã làm trong ngày mồng 3 tháng Mười một.

Nhưng tôi chẳng kể ra đâu, tôi đã hứa với mẹ của Emil rồi. Mặc dù sau đó dân làng Lönneberga đã phải tổ chức một cuộc họp nội bộ. Họ thấy thương cho vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult có thằng con ngỗ nghịch. Vì vậy họ họp lại và mỗi người đóng góp năm mươi xu. Sau đó bỏ chỗ tiền vào một cái túi vải nhỏ và cùng tìm gặp mẹ Emil.

- Có lẽ số tiền này đủ để anh chị gửi cháu Emil sang Mỹ, - họ nói. Phải, nếu chuyện đó xảy ra nhỉ! Gửi Emil sang Mỹ….

Nếu chuyện đó xảy ra, có trời biết rồi họ sẽ lấy ai làm chủ tịch hội đồng xã cho họ đây? Là tôi muốn nói về sau này, khi Emil đã thành đạt ấy.

May mà mẹ Emil không nghe theo những đề nghị ngu xuẩn kiểu đó. Bà nổi giận, quăng luôn túi tiền đi, khiến những đồng tiên xu bay vung vãi khắp làng Lönneberga.

- Emil là một thằng bé dễ thương, - bà nói. - Và chúng tôi yêu nó như nó vốn thế!

Mặc dù vậy chắc bà vẫn lo lắng cho Emil. Các bà mẹ bao giờ cũng thế, nếu người khác phàn nàn về con mình.

Tối đến, khi Emil nằm trên giường với “mú” và “sún” của nó, mẹ bèn vào ngồi với nó một lát.

- Emil, - mẹ nói. - Con sắp lớn và sắp đi học. Sẽ ra sao đây, nếu con cứ là một cậu bé nghịch ngợm và quậy phá như thế này?

Emil nằm trên giường và trông chẳng khác gì một thiên thần nhỏ với đôi mắt xanh tròn và mái tóc bồng bềnh sáng màu.

- Halli hallo, tớ sướng chưa, - nó hát, vì nó chúa ghét nghe những chuyện đại loại như thế.

- Emil, - mẹ nghiêm giọng nói. - Con nghĩ thế nào, sẽ ra sao khi bắt đầu khai giảng?

- Thôi được, - Emil cười. - Thì con sẽ thôi quậy, con nghĩ thế…… nếu con đi học.

Mẹ nó thở dài.

- Phải, bố mẹ mong là như vậy, - mẹ nói và đi ra cửa.

Thế là Emil nhỏm đầu ngó qua thành giường, nhoẻn cười như một thiên thần nhỏ và nói:

- Dù sao, chắc gì sẽ là như vậy!


Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 07:08 PM
Phần 2: Emil phải đẽo nhiều hình nhân nữa

Bạn đã từng nghe gì về Emil ở làng Lönneberga chưa? Cái thằng bé sống trong trang trại Katthult ở làng Lönneberga thuộc vùng Smăland ấy? Chưa ư?      

Ai chứ dân làng Lönneberga - tôi cam đoan với bạn thế - thì không ai không biết cái thằng bé kinh khủng ở trang trại Katthult, cái thằng bé Emil từng gây chuyện nhiều hơn cơm bữa, đã khiến dân làng Lönneberga khiếp sợ đến nỗi chỉ muốn gửi nó sang Mỹ. Phải, phải, có thể thật, dân làng Lönneberga đã quyên một túi đầy tiền, rồi đem đến gặp mẹ Emil và bảo:

- Có lẽ số tiền này đủ để anh chị gửi cháu Emil sang Mỹ.

Họ tin rằng làng Lönneberga sẽ yên tĩnh hơn nhiều nếu Emil không còn sống ở đó, và cố nhiên họ có lý. Nhưng mẹ Emil đã nổi giận đùng đùng, quăng ngay túi tiền ra cửa sổ, khiến những đồng tiền bay vung vãi khắp làng.

- Emil là một thằng bé dễ thương, - bà nói. - Chúng tôi yêu nó như nó vốn thế.

Còn Lina, cô hầu gái của trang trại Katthult thì bảo:

- Thì chúng ta cũng phải nghĩ cho người Mỹ một tý chứ. Họ có làm điều gì xấu với chúng ta đâu. Hà cớ gì chúng ta lại đem thằng bé Emil quàng vào cổ họ?

Mẹ Emil nghiêm khắc lừ mắt với Lina, khiến cô nhận ra mình vừa nói điều gì ngu ngốc. Cô bắt đầu lắp bắp, định sửa sai:

- Vâng thưa bà, chả là trên tờ “Thời bào Vimmerby” có đăng tin về trận động đất khủng kiếp bên Mỹ…. Ý cháu là……. bên ấy có quá nhiều tai họa, nếu như bây giờ lại thêm thằng Emil…..

- Im đi, Lina! - Mẹ Emil nói. - Cô xuống chuồng bò mà vắt sữa đi, đấy mới là việc của cô.

Thế là Lina xách xô sữa chạy xuống chuồng bò. Cô ngồi xuống, vắt lấy vắt để khiến sữa văng tung tóe. Cô Lina luôn làm việc tốt nhất mỗi khi cô hơi nổi giận. Vì thế nên lúc này cô vắt sữa hăng hơn bình thường, miệng làu nhàu:

- Thì cũng phải công bằng một tí chứ! Sao lại bắt người Mỹ phải gánh chịu mọi khổ ải. Nhưng nếu được, mình sẵn sàng đánh đổi với họ, mình nghĩ…….mình nghĩ mình sẽ viết cho họ thế này: “Đấy, phần các ngươi thằng bé Emil! Mau gởi động đất sang đây cho tôi!”

Chỗ này thì cô Lina hơi quá lời. Cô rõ khéo tự phong cho mình là người viết thư sang Mỹ, chính cô, người mà đến viết chữ nước mình cho ngay dân ta ở Smăland đọc còn chẳng viết nổi.

Không, nếu có ai đó viết thư sang Mỹ thì đó chỉ có thể là mẹ của Emil. Bà rất chăm viết. Bà ghi chép tất cả những trò nghich của Emil vào một cuốn vở màu xanh cất trong ngăn kéo.

- Mình làm thế để làm gì? - Bố Emil hỏi. - Tự nhiên lại ghi chép tất cả những trò khỉ của thằng nhóc gây ra! Chỉ tổ tốn giấy tốn mực. Mình có nghĩ tới điều đó không?

Mẹ Emil chẳng buồn bận tâm điều đó. Bà cứ miệt mài ghi lại tất cả. Rồi đến một ngày, khi Emil lớn, thằng bé sẽ biết được những việc nó đã làm hồi nhỏ. Chí phải, rồi ra nó sẽ hiểu vì sao tóc mẹ nó bạc, và biết đâu nó vẫn yêu mẹ bất chấp mái tóc đã bạc màu vì nó.

Giờ bạn không được hiểu rằng Emil là một đứa trẻ vô giáo dục. Ồ không, mẹ nó đã rất có lý khi nói rằng Emil là một thằng bé dễ thương và trông chẳng khác gì một thiên thần với đôi mắt xanh ngoan đạo vào mái tóc sáng màu bồng bềnh. Chắc chắn là Emil ngoan và mẹ nó đã công bằng, mẹ nó cũng đã viết điều này một cách đầy tin tưởng vào cuốn vở màu xanh.

“Hôm qua Emil ngoan,” - ngày 27 tháng Bảy bà viết vào cuốn vở. “Cả ngày thằng bé không gây ra chuyện gì. Có lẽ vì nó đang sốt cao và đơn giản là không còn sức để nghịch ngợm.”

Nhưng chỉ sang ngày 28 tháng Bảy, cơn sốt của Emil đã lui tới mức các trò nghịch ngợm của nó chiếm liền tù tì nhiều trang trong cuốn vở. Vì thằng bé khỏe như một chú bò mộng nhỏ, và nếu không ốm thì nó dư sức bày trò tai quái.

- Chưa từng thấy một thằng oắt nào như nó! - Cô Lina nói.

Có lẽ bạn nhận thấy cô Lina không mấy hài lòng với Emil. Cô yêu quý bé Ida, em gái của Emil, một cô bé ngoan ngoãn và biết vâng lời hơn nhiều. Nhưng chú Alfred, đầy tớ trai của trang trại Katthult, lại ưng Emil- chẳng biết tại sao. Còn Emil rất yêu quý chú Alfred. Hai chú cháu cùng chơi đùa với nhau mỗi khi chú Alfred xong việc. Emil học được ở chú mọi điều có ích, ví như cách buộc đai ngựa, cách câu cá măng và nhai thuốc lá. Vâng, điều sau cùng chắc không đặc biệt có ích, và Emil cũng chỉ thử có mỗi một lần, nhưng nó vẫn thử, vì nó muốn làm được tất cả những gì chú Alfred làm được và bắt chước chú trong mọi việc. Chú Alfred đã đẽo cho nó một khẩu súng gỗ - chú thật tốt, phải không? Đối với Emil, khẩu súng gỗ này là báu vật quý giá nhất. Báu vật quý thứ nhì là cái mũ lưỡi trai xấu xí mà bố đã mua cho Emil trong lần ông vào thành phố và không biết rõ mình đang làm gì.

- Con thích cái “sún” và cái “mú” của con, - Emil luôn nói như vậy với giọng địa phương đặc sệt của người cùng Smăland.
Không có tối nào mà nó không tha cả súng và mũ lên giường ngủ.

Bạn còn nhớ những ai sống ở trang trại Katthult chứ? Bố của Emil tên là Anton, rồi mẹ của Emil tên là Alma, em gái của Emil tên là Ida, chú đầy tớ tên là Alfred, cô hầu gái tên là Lina, và cả Emil tên là Emil nữa.

Và đương nhiên chúng ta không được phép quên Krösa-Maja. Đó là một bà lão gày gò sống ở một túp lều trong rừng. Thi thoảng bà đến trang trại Katthult để giúp những việc lặt vặt như giặt giũ, nhồi xúc xích, hoặc để hù dọa Emil và bé Ida với những câu chuyện rùng rợn của bà, những câu chuyện về thần linh, ma quỷ, về lũ sát nhân, trộm cắp và những thứ hay ho đại loại mà bà biết rõ.

Nhưng có lẽ bây giờ bạn muốn nghe một chút về những trò nghịch ngợm của Emil? Trừ những hôm thằng bé bị sốt, còn ngày nào nó chẳng quậy phá. Chúng ta có thể từ tốn nhặt ra một ngày bất kỳ trong cái mớ hỗn độn đầy những nhé. Vâng, tại sao không xem ngày 28 tháng Bảy này nhỉ, đó là:


Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 07:12 PM
Thứ Bảy, ngày 28 tháng Bảy,
ngày Emil trút bột nhão trộn tiết lên đầu bố và phải đẽo hình nhân bằng gỗ thứ 100


Trong bếp của trang trại Katthult có một cái ghế thấp dài bằng gỗ, quét sơn xanh, mà cô Lina vẫn ngủ trên đó. Vào cái thời xảy ra tất cả những câu chuyện này, khắp vùng Smăland đầy những chiếc ghế dài kiểu đó, nơi các cô hầu gái trải những chiếc đệm sờn rách và nằm ngủ giữa những chú ruồi vo ve - vậy thì tại sao ở trang trại Katthult lại phải khác cơ chứ? Cô Lina ngủ ngon lành trên chiếc ghế dài kê trong bếp ấy, và trước bốn rưỡi sáng, là giờ đồng hồ báo thức đổ chuông và cô phải dậy đi vắt sữa bò, thì đố cái gì đánh thức nổi cô.

Cô Lina vừa đi khỏi thì bố Emil rón rén vào bếp, để được nhâm nhi tách cà phê sáng, trước khi Emil thức dậy. Bố thấy thật tuyệt vời khi được ngồi hoàn toàn một mình trên chiếc bàn gấp lớn, không phải thấy mặt thằng bé Emil ở bất kỳ đâu, chỉ nghe ngoài kia tiếng chim hót và tiếng lũ gà mái kêu cúc cúc, rồi vừa nhâm nhi cà phê vừa khẽ đu đưa người trên ghế, cảm nhận được sàn bếp dưới đôi bàn chân mà cô Lina đã kỳ cọ trắng tinh như tuyết. Không, sàn bếp mới là thứ mà cô Lina đã kỳ cọ, bạn phải hiểu như thế, chứ không phải đôi bàn chân của bố Emil, cho dù có khi lẽ ra nó cũng cần được kỳ cọ như thế - có trời biết! Sáng sớm bố Emil thường đi chân đất loanh quanh trong nhà, nhưng không phải đôi bàn chân của bố Emil, cho dù có khi lẽ ra nó cũng cần được kỳ cọ như thế - có trời biết! Sáng sớm bố Emil thường đi chân đất loanh quanh trong nhà, nhưng không phải chỉ vì ông thích thế.

- Như vậy cũng phần nào cũng tiết kiệm được giầy dép, - ông bảo mẹ Emil, người cứ ương bướng nhất định không bao giờ chịu đi chân đất. - Cứ xem cái cách mình mài mòn đôi giầy của mình, thì quả thật ……. quả thật là cứ mười năm lại phải sắm cho mình một đôi giày mới mất thôi.

- Vâng chính thế đấy, - mẹ Emil đáp, và họ không đả động tới chuyện đó nữa.

Vừa nãy tôi đã kể là không thể đánh thức cô Lina nếu không có chiếc đồng hồ báo thức. Nhưng một sáng nọ cô đã bị đánh thức bởi một thứ khác. Ấy là vào ngày 27 tháng Bảy, đúng vào ngày Emil bị sốt. Có thể hình dung chuyện kinh khủng này không - mới bốn giờ sáng cô Lina đã tỉnh giấc, vì một con chuột to tướng chạy đúng qua mặt cô. Cô Lina rú lên, bật dậy và vớ một thanh củi, nhưng con chuột đã lủi vào cái lỗ ở ngay cạnh hòm gỗ.

Bố Emil nổi đóa khi nghe chuyện con chuột.

- Chuyện hay ho gớm nhỉ! - ông nói. - Trong bếp có chuột! Chúng dám ăn hết bánh mì và thịt của nhà ta lắm.

- Ăn cả cháu nữa ấy chứ! - Cô Lina nói.

- Phải, rồi đến thịt và bánh mì của nhà ta, - bố Emil nói. - Đêm nay phải cho con mèo ở trong bếp thôi!

Emil nghe được chuyện con chuột, và mặc dù đang bị sốt, nó lập tức nghĩ xem làm cách nào để bắt được con chuột, nếu như con mèo không hoàn toàn phát huy được khả năng.

Đúng mười giờ tối ngày 27 tháng Bảy thì Emil đã hết hẳn sốt và tràn đầy sinh lực. Vào giờ này tất cả những người khác ở Katthult đều đã ngủ: bố Emil, mẹ Emil, bé Ida trong buồng ngủ cạnh bếp, cô Lina trên chiếc ghế dài trong bếp, chú Alfred trong lán đầy tớ cảnh xưởng mộc.

Lợn và gà thì ngủ trong chuồng lơn, chuồng gà, còn bò, ngựa, cừu ngủ ngoài trời trên bãi cỏ xanh. Riêng con mèo ngồi thức trong bếp và thấy nhớ kho thóc, nơi có nhiều chuột hơn.

Emil cũng thức. Nó rời khỏi chiếc giường trong phòng ngủ và nhón chân lẻn vào bếp.

- Con miu tội nghiệp, - nói nói khi thấy đôi mắt mèo lóe sáng bên cạnh cửa bếp, - mày ngồi đây à.

- Meo! - Con mèo đáp. Và vốn là đứa rất yêu các loài vật, Emil mở cửa thả ngay con mèo.

Tất nhiên con chuột phải bị bắt, Emil hiểu rõ như thế, nhưng vì con mèo không còn ngồi đây nữa nên phải tìm cách khác. Emil bèn lấy cái bẫy chuột ra, găm một miếng mỡ vào đó và đặt cái bẫy ngay cạnh chiếc hòm gỗ. Nhưng rồi nó suy tính lại. Nếu con chuột vừa thò mũi ra khỏi cái lỗ đã thấy ngay cái bẫy thì con chuột sẽ sinh nghi và sẽ không để mình bị sập bẫy nữa. Tốt hơn là, Emil nghĩ, nếu đầu tiên cứ để con chuột thoải mái loăng quăng trong bếp rồi bỗng đâu sa vào cái bẫy đặt ở chỗ nó không ngờ nhất. Emil cũng thoáng nghĩ đến chuyện đặt cái bẫy ngay trên mặt cô Lina, vì đấy là nơi con chuột thích lượn lờ nhất. Nhưng thằng bé lại sợ cô Lina thức giấc và làm hỏng việc. Không, phải tìm chỗ khác thôi. Mà tại sao lại không đặt bẫy ở dưới cái bàn gấp lớn nhỉ? Đấy chính là nơi con chuột cần chạy đến để tìm những mẩu vụn bánh mì rơi vãi từ trên bàn xuống. Tất nhiên không phải ở ngay dưới chỗ của bố rồi, ở đấy thì hiếm bánh vụn lắm.

Khiếp quá, - Emil chợt rùng mình dừng lại ở giữa bếp. - Ngộ nhỡ con chuột lại mò đến đúng chỗ đấy, rồi không tìm được vụn bánh nào, lại quay sang gặm ngón chân cái của bố thì chết.

Emil sẽ lo sao để chuyện đó không thể xảy ra. Thế nên nó đặt bẫy đúng chỗ bố hay để chân. Xong đâu đấy, nó lại bò về giường, vô cùng hài lòng với bản thân.

Mãi tới lúc trời sáng bạch Emil mới thức giấc. Tiếng la hét trong bếp đã đánh thức nó.

Mọi người thấy con chuột bị sập bẫy mừng quá có khác, hò la to thế, Emil nghĩ. Nhưng đúng lúc đó mẹ Emil lao vào phòng, lôi nó ra khỏi giường và thì thào vào tai nó:

- Nhanh, trốn ngay xuống xưởng mộc, trước khi bố gỡ được ngón chân cái ra khỏi cái bẫy chuột! Mau lên - nếu không mẹ e rằng giờ tận số của con đã điểm rồi đấy.

Mẹ dắt tay Emil kéo nó cùng chạy. Trên người thằng bé phong phanh độc chiếc áo ngủ, vì làm gì có thời gian mặc quần áo.

- Nhưng phải đem theo “sún” và “mú” của con cơ! - Emil la lên. Nó chộp lấy mũ và súng rồi cắm đầu chạy thẳng xuống xưởng mộc, chiếc áo ngủ bay phần phật.

Xưởng mộc là nơi Emil luôn phải ngồi chịu phạt sau mỗi trò tinh nghịch. Mẹ đóng chốt bên ngoài để Emil không ra được, còn Emil cài then bên trong để bố không vào được. Cả hai mẹ con đều khôn ngoan và biết lo xa.

Mẹ Emil cho rằng tốt nhất Emil không nên chạm mặt bố trong vài giờ nữa. Emil cũng nghĩ thế, bởi vậy nó mới cẩn thận cài then cửa, trước khi nó yên chí ngồi xuống cái thớt gỗ lớn và đẽo một hình nhân bằng gỗ. Nó luôn làm việc này mỗi khi bị nhốt vào xưởng mộc sau mỗi trò nghịch ngợm, và đã đẽo được cả thảy chín mươi bảy hình nhân. Đám hình nhân đứng dàn hàng ngay ngắn trên một cái giá, và Emil vui mừng mỗi khi ngắm nhìn chúng, nghĩ bụng mình sắp đẽo đủ một trăm hình nhân. Khi ấy nhất định phải ăn mừng thật to!

“Ngày đó mình sẽ mở tiệc trong xưởng mộc và chỉ mời một mình chú Alfred”, Alfred bụng bảo dạ khi ngồi trên thớt gõ với con dao gọt trên tay. Nó nghe tiếng bố quát lác từ xa, nhưng sau đó cứ nhỏ dần. Thay vào đó bỗng vang lên một tiếng kêu khác, chói tai hơn nhiều. Emil chột dạ, không hiểu mẹ bị sao. Nhưng rồi nó chợt nhớ hôm nay là ngày con lợn nái to bị chọc tiết. Chính con lợn đã kêu tiếng eng éc. Tội nghiệp con nái, với con lợn thì ngày 28 tháng Bảy này cũng chẳng vui vẻ gì! Té ra hôm nay có kha khá khá người không gặp may.

Quãng trưa thì Emil được thả, Nó vừa bước vào bếp thì Ida hớn hở chạy ra đón.

- Trưa hôm nay có bánh tiết cơ đấy! - Cô bé hớn hở khoe.

Có thể bạn không biết bánh tiết là gì chăng? Đó là những chiếc bánh tròn to màu đen, nhân thịt mỡ. Mà một khi trang trại Katthult mổ lợn thì đương nhiên là mẹ Emil sẽ làm bánh tiết rồi. Mẹ đã quấy bột trong một cái âu lớn và trên bếp nước bắt đầu sôi sùng sục trong một cái nồi sắt to tướng. Sắp sửa có bánh tiết ăn rồi, thật là sướng.

- Em sẽ ăn mười cái bánh tiết, - bé Ida khoe khoang, trong khi nó gầy như cái que và giỏi lắm cũng chỉ ăn hết được nửa cái bánh tiết.

- Đừng hòng bố cho ăn lắm thế, - Emil nói. - Thế bố đâu rồi.

- Bố đang nằm nghỉ ngoài kia, - bé Ida đáp.

Emil ngó qua cửa sổ bếp. Đúng vậy, bố nằm trên bãi cỏ, ngay dưới cửa sổ bếp, chiếc mũ cói che mặt và đang nghỉ trưa như thường lệ. Bình thường tất nhiên bố không nghỉ trưa trước mà sau bữa ăn, nhưng hôm nay chắc bố quá mệt - người ta có thể bị thế lắm, nếu người ta bắt đầu một ngày mới trong cái bẫy chuột.

Emil trông thấy bố chỉ đi một chiếc giầy bên chân phải. Thoạt đầu nó hy vọng bố quá ư tiết kiệm chỉ muốn dùng mòn từng chiếc giầy một.

Nhưng rồi Emil nhìn thấy cái băng đẫm đầy máu quấn quanh ngón cái chân trái bố, và hiểu ra rằng ngón chân đau khiến bố không thể xỏ giày được.

Emil thấy xấu hổ và ân hận vì cái trò bẫy chuột ngu ngốc của mình. Lúc này nó muốn làm bố vui trở lại, và bởi nó biết bố khoái món bánh tiết hơn hết thảy, nó bèn bưng âu bột lên, giơ ra ngoài cửa sổ.

- Bố xem này, - nó hoan hỉ reo to, - bữa trưa hôm nay có bánh tiết.

Bố nó nhấc chiếc mũ cói khỏi mặt, buồn bã ngước nhìn Emil. Có thể thấy bố chưa quên cái bẫy chuột. Và để lập công chuộc tội, Emil càng gắng sức hơn.

- Bố xem này, bao nhiêu là bột! - Nó reo và cố giơ cái âu ra xa nữa bên ngoài khung cửa sổ. Nhưng - người ta có thể tưởng tượng ra điều gì kinh khủng như thế này chăng? - Thằng bé không còn giữ nổi cái âu, và cả âu bột nhão trộn tiết rơi úp xuống, đúng vào chỗ bố Emil đang nằm ngửa mặt lên trời.

- Blupp, - bố chỉ kêu được có vậy. Vì khi bị bột nhão bịt kín mặt mũi như thế, thử hỏi ai còn nói năng gì được nữa. Nhưng rồi bố khó nhọc ngồi gượng dậy và cuối cùng cũng gầm lên được, thoạt đầu tiếng gầm bị bột nhão cản bớt, nhưng sau thì to đến nỗi cả làng Lönneberga nghe thấy. Cái âu úp trên đầu bố như chiếc mũ giáp của một tên cướp biển, và bột cứ thế cứ chảy lòng tòng theo người bố. Đúng lúc đó bà lão Krösa-Maja đi từ trong nhà giặt - nơi bà vừa rửa sạch chỗ lòng lợn - đi ra. Vừa trông thấy bố Emil đỏ lòe từ đầu xuống chân như thể tắm trong máu, bà rú lên còn chói tai hơn cả con lợn bị chọc tiết, rồi cắm đầu cắm cổ chạy với tin dữ khủng khiếp.

- Xong đời ông chủ ở Katthult rồi, - bà Krösa-Maja kêu lên. Cái thằng Emil tội nợ đã đánh bố nó đến xối cả máu ra. Ôi, ôi, ôi khiếp quá bà con ơi!

Khi trông thấy sự tình, mẹ Emil đã vội vã nắm tay nó lôi xuống xưởng mộc. Và trong khi Emil - vẫn chỉ mặc độc chiếc áo ngủ - ngồi đẽo hình nhân thứ chín mươi chín, thì mẹ nó tay năm tay mười gột rửa cho bố nó.

- Mình cũng phải khéo vét thế nào để chí ít cũng còn làm được dăm ba cái bánh chứ, - bố nói. Nhưng mẹ lắc đầu.
- Cái gì phí cũng đã phí rồi. Giờ em sẽ làm bánh khoai tây chiên.

- Hí hí, hôm nay nhà mình sẽ không còn bữa ăn trưa trước bữa ăn tối, - bé Ida nói. Nhưng rồi nó im bặt, vì chợt nhìn thấy cặp mắt rầu rĩ của bố giữa đám bột.

Mẹ Emil để cô Lina nạo khoai tây làm bột bánh khoai tây chiên. Có thể bạn không biết bánh khoai tây chiên là gì chăng? Đó là một loại bánh xếp làm bằng bột bạo từ khoai tây tươi, ngon hơn tên gọi của nó nhiều, tôi cam đoan với bạn đấy.

Chẳng mấy chốc cô Lina đã làm được kha khá thứ bột bánh màu vàng nâu, rất quánh và mịn đựng trong cái âu mà bố Emil ban nãy gỡ xuống khỏi đầu. Bố không muốn suốt ngày chạy quanh trong bộ dạng của một tên cướp biển. Khi đã được gột rửa tương đối sạch sẽ, bố ra đồng tranh thủ bắt tay vào thu hoạch lúa mạch đen trong khi chờ làm xong món bánh khoai tây chiên. Thế là mẹ thả Emil ra khỏi xưởng mộc.

Emil đã ngồi yên khá lâu. Giờ đây nó cảm thấy phải vận động.

- Chơi trò “Cù rốn-cù rốn!” đi, - nó rủ Ida, và bé Ida lập tức co cẳng chạy ngay.

“Cù rốn-cù rốn!” là một trò chơi Emil tự nghĩ ra. Trò chơi như sau: Bọn trẻ chạy thục mạng từ bếp ra hành lang, từ hành lang vào buồng ngủ vào bếp, rồi lại từ bếp ra hành lang, cứ thế chạy ù tai hết vòng này sang vòng khác. Nhưng Emil và bé Ida chạy ngược hướng nhau và mỗi khi chạm trán, chúng lại chọc ngón trỏ vào bụng nhau và kêu lên: “Cù rốn-cù rốn!” Vì thế mà trò chơi có cái tên này. Hai anh em Emil thấy trò “Cù rốn-cù rốn” vui nhộn kinh khủng.

Nhưng Emil đang lao ở vòng thứ tám mươi tám vào bếp thì gặp cô Lina đúng lúc cô đang bưng âu bột khoai tây sang lò để làm bánh. Vì Emil cũng muốn cô được vui một tý, nó bèn chọc ngay ngón tay vào bụng cô mà reo: “Cù rốn- cù rốn!” Lẽ ra nó không nên làm như thế. Nó vẫn biết cô Lina có máu buồn cơ mà.

- Kiiia! - Cô Lina rú lên và cong gập người như một con sâu. Rồi - có thể tưởng tượng chuyện nào kinh khủng tới mức này không? - Cái âu bay khỏi tay cô Lina. không ai biết sự thể đã diễn ra như thế nào. Chỉ biết là lúc ấy bố Emil, bụng đói cồn cào, vừa bước vào cửa bếp thì lĩnh trọn âu bột khoai tây nhão vào giữa mặt.

- Blupp, - bố lại kêu lên. Vì khi mặt bít đầy bột khoai tây nhão như thế, thử hỏi ai còn nói năng gì được nữa. Từ cảnh tượng này, về sau hai anh em Emil đã sáng tác hẳn một câu gần như thành ngữ.


Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 07:13 PM

“Blupp, bố kêu trong bột khoai tây nhão”, chúng thường vừa cười khúc khích vừa đọc hoặc : “Blupp, bố kêu trong bột trộn tiết nhão” - lúc này cũng đúng một trong hai tình huống.

Nhưng giờ đây Emil không còn thời gian để cười khúc khích, vì mẹ đã nắm tay nó lôi tuột xuống xưởng mộc. Emil còn nghe sau lưng tiếng gầm của bố, thoạt đầu tiếng gầm bị bột khoai tây nhão cản bớt, nhưng sau khi to đến nỗi cả làng Lönneberga đều nghe thấy.

Khi Emil ngồi trên cái thớt gỗ lớn trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm thì nó chẳng còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện ăn mừng nữa. Ngược lại, nó tức giận như một chú kiến lửa đang trở nên hung dữ. Trong một ngày mà bị nhốt đến ba lần trong xưởng mộc thì thật là quá lắm, nó nghĩ, - mà hơn nữa còn bất công.

- Đâu phải lỗi của mình, nếu bố chỗ nào cũng thò mặt tới, - Emil tức tối nói. - Ở cái trang trại này đến một cái bẫy chuột cũng không biết đặt vào đâu…. vừa đặt thì bố đã lò dò đến và thò ngay ngón chân cái vào. Mà tại sao bố cứ phải nhè đúng chỗ bột trộn tiết nhão với bột khoai tây nhão bay vèo vèo mà hứng mặt vào cho kỳ được!

Nhưng bây giờ tôi không đời nào muốn bạn nghĩ rằng Emil không yêu bố và bố thằng bé không yêu nó. Bình thường hai bố con họ vẫn yêu quý nhau, nhưng ngay cả những người yêu quý nhau cũng xung khắc, nếu xảy ra chuyện chẳng lành với cái bẫy chuột, hoặc với bột tiết hay bột khoai tây.

Thứ Bảy, ngày 28 tháng Bảy sắp kết thúc. Emil ngồi trong xưởng mộc, mỗi lúc càng thêm tức giận. Nó đâu có ngờ lễ ăn mừng con hình nhân gỗ thứ một trăm của nó lại ra nông nỗi này. Thứ nhất, giờ đang là tối thứ Bảy, thử hỏi nó làm sao mời được chú Alfred đến xưởng mộc đây? Tối thứ Bảy chú Alfred còn bận chuyện khác. Chú ngồi trên bậc thang ở lán đầy tớ, tán tỉnh cô Lina và chơi đàn phong cầm cho cô nghe. Không, quả là chú không có thời gian cho lễ ăn mừng của Emil.

Emil quăng con dao gọt gỗ đi. Đến chú Alfred nó cũng không có, nó hoàn toàn cô đơn, và nó chỉ thêm tức giận khi nghĩ đến cái cách mọi người cư xử với mình. Cái lối ở đâu mà lại bắt người ta suốt cả ngày thứ Bảy dài đằng đẵng cứ ngồi một chỗ trong chiếc áo ngủ - không cho người ta cả thời gian mặc quần áo nữa, lúc nào cũng phải chạy hộc tốc xốc gan đến xưởng mộc. Thế nhưng xem ra họ lại thích nhốt nó trong cái xưởng mộc này, những người lớn ở trang trại Katthult! Họ sẽ được toại nguyện!

Emil đấm tay cái rầm xuống cái bàn dùng để bào gỗ. Được, rồi họ sẽ toại nguyện! Và trong khoảnh khắc ấy Emil đã đưa ra một quyết định kinh khủng: nó sẽ sống nốt quãng đời còn lại trong xưởng mộc này. Chỉ trong chiếc áo ngủ phong phanh, chiếc “mú” đội đầu, cô đơn và bị mọi người ruồng bỏ - Emil sẽ ở lại đây, chừng nào nó còn sống trên trái đất này.

Hẳn cuối cùng mọi người sẽ hài lòng và không cần thiết phải tất tả ngược xuôi giữa nhà chính và xưởng mộc nữa, thằng bé nghĩ. Nhưng đừng hòng tìm cách vào xưởng mộc của mình - vô ích thôi! Nếu bố muốn bào các tấm ván, thì tốt hơn là bố cứ mặc chúng, khỏi bào làm gì, vì nếu có bào thì thể nào bố cũng lại bào bay ngón tay mất thôi. Mình chưa thấy ai hay bị đen đủi như bố.

Nhưng khi trời nhá nhem tối, mẹ của Emil đi xuống xưởng mộc và đẩy chốt cửa - tất nhiên là cái chốt bên ngoài. Bà kéo cánh cửa và nhận ra cửa bị cài then bên trong. Thế là bà mỉm cười dịu dàng và bảo:

- Con không việc gì phải sợ nữa. Emil bé bỏng! Bố đã đi nằm rồi. Bây giờ con có thể ra được rồi.

Nhưng từ trong xưởng mộc vọng ra một tiếng “Ha!” nghe rất đáng sợ.

- Sao con lại nói “Ha!”, - mẹ Emil hỏi. - Mở cửa và đi ra nào, Emil bé bỏng!

- Con sẽ không bao giờ ra khỏi đây nữa, - Emil trầm giọng nói. - Mẹ đừng tìm cách vào đây, nếu không con sẽ bắn!

Mẹ Emil nhìn đứa con trai bé bỏng đứng bên cửa sổ trong xưởng, tay lăm lăm khẩu súng. Thoạt đầu bà không muốn tin thằng bé nói nghiêm chỉnh, nhưng cuối cùng, khi hiểu ra là nó nói thật, bà vừa khóc vừa ù té chạy vào nhà đánh thức bố Emil.

- Emil ngồi trong xưởng mộc và không chịu ra nữa, - bà nói. - Chúng ta phải làm sao đây?

Bé Ida vừa thức giấc và lập tức khóc òa lên. Thế là tất cả chạy vội xuống xưởng mộc: bố Emil, mẹ Emil và cả Ida. Còn chú Alfred và cô Lina lúc đấy đang ngồi trên bậc thang ở lán đầy tớ tán tỉnh nhau đành phải dừng lại - khiến cô Lina rất cáu. Giờ đây mọi người đều phải giúp sức dỗ Emil ra.

- Nào nào! Nếu đói bụng, con sẽ phải ra thôi! - Bố Emil gọi.

- Ha! - Emil lại nói.

Bố không biết Emil có gì trong cái hộp để sau bàn bào. Trong hộp để toàn thức ăn dự trữ ngon lành, thật đấy! Vốn tinh khôn, Emil đã lo xa dự trữ thức ăn để không bị chết đói trong xưởng mộc. Nó đâu biết vào ngày nào, giờ nào sẽ bị tống vào đây, và vì vậy nó luôn trữ thứ gì ăn được trong cái hộp. Đúng lúc này trong hộp đang có bánh mì và phô mai, mấy miếng thịt nguội, và ngoài ra còn có những trái anh đào khô và nhiều bánh mì sấy. Những chiến binh ngày xưa thường giữ vững những thành trì bị bao vây của họ với ít lương thực hơn ý chứ. Với Emil, xưởng mộc giờ đây là một pháo đài bị bao vây, và nó quyết bảo vệ pháo đài này trước mọi kẻ thù.

Can đảm như một dũng tướng, nó đứng sát bên cửa sổ, chĩa súng ngắm:

- Kẻ nào tiến lại gần đầu tiên, ta sẽ bắn! - Nó thét.

- Ồ, Emil, con trai bé bỏng yêu quý của mẹ, đừng nói năng như thế, ra đi con trai, - mẹ Emil van vỉ. Nhưng không ăn thua, Emil cứng như đá. Dỗ ngọt như chú Alfred cũng chẳng nước non gì:

- Nghe này, Emil, ra đây rồi hai chú cháu mình ra hồ bơi nhé, chỉ chú cháu mình thôi!

- Không! - Emil thét lên quyết liệt. - Chú đi mà ngồi cầu thang với cô Lina, cháu cóc cần! Còn cháu, cháu cứ ở đây đấy.
Chẳng thay đổi được gì. Emil vẫn ở nguyên chỗ. Cuối cùng, khi thấy mọi cách - từ dọa nạt đến van xin - đều vô hiệu, bố mẹ và Ida đành đi ngủ.

Một tối thứ Bảy buồn, mẹ và bé Ida khóc như mưa. Bố thì thở dài thườn thượt khi bò lên giường, bố thấy nhớ cậu con trai bé bỏng bình thường vẫn nằm ngủ trên chiếc giường xinh xắn đằng kia với mái tóc tơ bồng bềnh xõa trên gối, “mú” và “sún” kè kè bên người.

Chỉ mỗi cô Lina chẳng nhớ gì Emil, cô cũng chưa muốn đi nằm. Cô chỉ muốn ngồi cùng chú Alfred trên bậc thang dẫn lên lán đầy tớ mà chẳng bị ai quấy rầy. Vì vậy cô rất hài lòng khi biết Emil đang giam mình trong xưởng mộc.

- Nhưng ai mà biết được thằng nhóc đáng nguyền rủa này thực sự ở trong đó bao lâu, - cô lẩm bẩm, rồi lặng lẽ đi đến xưởng mộc và lén cài cái chốt cửa ngoài.

Chú Alfred mải kéo đàn và hát, không nhận thấy hành vi xấu xa của cô Lina. “Các chiến binh từ chiến trường trở về trên lưng ngựa…..”, Emil nghe chú hát. Nó ngồi trên cái thớt gỗ và thở dài.

Nhưng cô Lina đã quàng tay bá cổ chú Alfred mà tỉ tê nũng nịu, như cô lúc nào cũng thế, và chú Alfred đáp lại bằng câu trả lời muôn thủa:

- Tất nhiên anh có thể cưới em, nếu em nhất định muốn thế, nhưng có vội gì đâu.

- Nhưng sang năm là phải cưới đấy, - cô Lina nói không khoan nhượng, và chú Alfred còn thở dài não ruột hơn cả Emil, rồi chú hát bài ca về Cô dâu sư tử Hà Đông. Emil cũng nghe chú hát, bụng nghĩ: giá được ra hồ bơi với chú Alfred cũng thích.

- Mà tội gì lại không nhỉ? - Nó tự nhủ. - Mình có thể dễ dàng đi bơi với chú Alfred. Sau đó nếu muốn, mình lại vẫn chui vào xưởng mộc của mình được mà.

Emil lao về phía cửa, rút cái then ra. Nhưng ích gì nữa, vì cái cô Lina đầy mưu mô ấy đã cài chốt bên ngoài mất rồi. Cánh cửa không chịu mở, cho dù Emil đã lấy hết sức húc vào đấy. Thế là nó hiểu. Nó biết ngay kẻ nào đã giam nó.

- Rồi cô ta sẽ thấy. - nó nói. - Cô ta sẽ thấy.

Emil ngó quanh trong tường lúc này đã khá tối. Lần nọ, sau khi gây ra một lỗi tồi tệ nhất, Emil đã từng thoát thân qua cửa sổ xưởng mộc. Nhưng sau đó bố đã đóng mấy thanh gỗ bắt chéo phía ngoài cửa sổ, để Emil không thể chui ra một lần nữa mà không bị rơi xuống đám lá han mọc bên dưới cửa sổ. Bố Emil thực sự lo lắng cho thằng con bé bỏng và không muốn nó bị bỏng lá han.

- Mình không ra được lối cửa sổ, - Emil nói, - lối cửa ra vào cũng không nốt. Kêu cứu thì mình thà chết còn hơn. Vậy mình ra cách nào được đây?

Nó tư lự nhìn về phía lò sưởi, nơi vẫn đốt lửa để sưởi ấm xưởng mộc trong mùa đông, và để bố Emil đun nóng keo dán.
- Chỉ còn cách chui qua ống khói, - Emil nghĩ và nhanh nhẹn trèo qua bệ lò sưởi, bước vào giữa đống tro than còn lại từ mùa đông năm ngoái, khiến những lớp tro mềm bám cả vào đôi chân trần của nó.

Thằng bé ngước nhìn lên theo đường ống khói và phát hiện ra một thứ rất hay. Trong cái lỗ phía trên, đúng đỉnh đầu nó, vầng trăng tháng Bảy đỏ ối đang ngó xuống Emil.

- Chào ông trăng, - Emil reo lên. - Giờ ông hãy xem một đứa biết trèo nhé !

Đoạn nó tỳ vào thành ống khói đầy muội than và trườn dần lên.

Nếu bạn đã từng thử trườn mình lên theo đường ống khói chật hẹp, hẳn bạn biết việc đó khó khăn nhường nào và khắp mình mẩy sẽ đen nhẻm ra sao. Nhưng bạn chớ nghĩ điều đó ngăn cản được Emil.

Lina, cô hầu gái đáng thương nhất đời, đang ngồi bên chú Alfred trên bậc thang, hai tay bá cổ người tình, mà không hề linh cảm điều gì. Nhưng Emil thề là cô ta sẽ thấy, và cô ta sắp thấy thật.

Bỗng Lina ngước mắt lên để ngắm trăng, và cô ta rú lên một tiếng làm kinh động cả làng Lönneberga.

- Ma! - Cô Lina rú lên. - Có con ma trên ống khói!

Trước kia dân làng Lönneberga rất sợ ma. Cô Lina cũng từng nghe câu chuyện rùng rợn của bà Krösa-Maja về tất cả những thứ ma quỷ mà người ta có thể bắt gặp, thế nên cô rú lên như hóa dại khi trông thấy một con ma ngồi thù lù trên miệng ống khói, mặt mũi đen sì, từ đầu xuống chân chỗ nào trông cũng nhọ nhem phát khiếp.

Chú Alfred cũng nhìn thấy con ma, nhưng chú chỉ cười.

- Ta nhận ra con ma nhỏ này, - chú nói. Xuống đi, Emil!

Emil nhỏm dậy trong chiếc áo ngủ đầy bồ hóng và đứng trên mái nhà, hiên ngang như một tổng tư lệnh. Nó giơ thẳng nắm đấm đen thui lên trời và đứng trên mái nhà, hiên ngang như một tổng tư lệnh. Nó giơ thẳng nắm đấm đen thui lên trời và thét to khắp làng Lönneberga đều nghe thấy:

- Tối nay xưởng mộc này sẽ bị phá tan hoang và ta sẽ không bao giờ ngồi trong ấy nữa!

Chú Alfred đi đến xưởng mộc, dang rộng hai cánh tay.

- Nhảy xuống nào, Emil! - Chú nói.

Thế là Emil nhảy. Đúng vào vòng tay của chú Alfred. Rồi hai chú cháu đi ra hồ bơi. Emil cần phải được tắm táp.

- Mình chưa từng thấy một thằng oắt nào như nó! - Cô Lina nói, rồi tức tối bỏ vào nhà đi nằm.

Trong khi dưới hồ của trang trại Katthult, giữa những bông hoa súng trắng, Emil và chú Alfred bơi lội thỏa thích trong làn nước mát. Trên trời, vầng trăng tháng Bảy như một chiếc đèn lồng treo lơ lửng đang tỏa sáng.

- Hai chú cháu mình, chú Alfred nhỉ, - Emil nói.

- Phải, hai chú cháu mình, Emil, - chú Alfred đáp. - Nhất định phải thế rồi! Vắt ngang mặt hồ là một dải đường rộng lóng lánh bạc được tạo bởi ánh trăng, nhưng xung quanh hồ lại tối đen. Bởi đêm đã khuya, và ngày 28 tháng Bảy cũng đã hết.

Nhưng rồi sẽ đến ngày mới với trò nghịch ngợm mới. Mẹ của Emil ghi chép vào cuốn sổ xanh miệt mài tới mức mỏi cứng cả tay. Rốt cuộc cuốn vở đã được viết kín từ trang đầu tới trang cuối.

- Mình phải kiếm một cuốn vở mới, - mẹ Emil nói. - Đằng nào cũng sắp có chợ phiên hàng năm ở thị trấn Vimmerby,  khi đến đó mình phải nhờ mua một cuốn vở mới được. Và bà đã nhớ mua, may thế!

Vì nếu không bà biết ghi chép vào đâu tất cả những trò quái quỷ mà Emil đã gây ra trong ngày có phiên chợ đó?

“Cầu Chúa phù hộ cho thằng bé,” bà viết. “Để thằng bé thành đạt, nếu nó còn sống tới lúc nó trưởng thành, cho dù bố nó không tin điều này.”

Thế nhưng ở đây bố Emil đã nhầm, còn mẹ lại có lý. Emil sau này đã rất thành đạt, trở thành chủ tịch hội đồng xã và là người đàn ông tốt nhất, giỏi giang nhất làng Lönneberga.

Nhưng bây giờ chúng ta hãy cứ xem xem chuyện gì đã xảy ra tại phiên chợ hàng năm ở thị trấn Vimmerby thời đó, khi Emil vẫn còn nhỏ. Đó là

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 09:41 PM
Thứ tư ngày 31 tháng Mười,
ngày Emil sắm cho mình một con ngựa riêng và khiến bà Petrell cùng cả thị trấn Vimmerby phát điên


Trong cái ngày thứ Tư cuối cùng của tháng Mười, thị trấn Vimmerby mở chợ phiên hàng năm và cứ chộn rộn từ sáng sớm tinh mơ tới tối mịt, tôi cam đoan thế. Tất cả dân làng Lönneberga và cư dân từ các vùng khác đều lũ lượt kéo đến đây để mua bán bò cày, bò sữa, để đổi ngựa, để gặp gỡ nhau, để kiếm chồng, để mút đường thanh, để nhảy điệu Polka, để đánh lộn và để mua vui….. Tóm lại mỗi người mỗi kiểu.

Có lần mẹ hỏi cô Lina xem cô có thể kể các ngày lễ lớn trong năm không, vì mẹ muốn thử trí khôn của cô Lina.

- Có chứ ạ, lễ Giáng sinh này, lễ Phục sinh này, rồi cả chợ phiên hàng năm của Vimmerby nữa, là cháu nghĩ thế!

Giờ thì bạn hiểu vì sao ngày 31 tháng Mười ai ai cũng muốn đến Vimmerby rồi nhé! Mới năm giờ sáng, khi trời vẫn còn tối mịt, chú Alfred đã thắng hai con ngựa Markus và Julla vào cỗ xe lớn và thế là tất cả dân cư của trang trại Katthult lên đường: bố Emil, mẹ Emil, chú Alfred, cô Lina, Emil và bé Ida. Riêng bà Krösa–Maja phải ở nhà chăm lo cho bày gia súc.

- Krösa–Maja đáng thương, bà không muốn cùng đi chợ phiên sao? – Chú Alfred, một tâm hồn nhân hậu hỏi.

- Ta có điên đâu,– bà Krösa–Maja đáp. – Đúng vào hôm nay, ngày thiên thạch khổng lồ rớt xuống đấy ư! Ồ không, xin đa tạ! Ta muốn được chết ở làng Lönneberga, nơi ta sống.

Chuyện là thế này: Người dân ở Smăland đang chờ đợi một thiên thạch lớn sẽ đến vào giờ tờ “Bưu điện Vimmerby” loan tin rằng đúng vào ngày 31 tháng Mười thiên thạch này sẽ bay với tốc độ điên cuồng và có thể va vào trái đất khiến trái đất tan thành ngàn mảnh.

Chắc bạn không biết thiên thạch là gì, tôi cũng hầu như không biết, nhưng tôi nghĩ đó là một mẩu của vì sao bị tách ra và rơi xuống, rồi cứ thế bay lang thang trong vũ trụ. Mọi người dân vùng Smăland đều hãi hùng trước một thiên thạch có thể bất ngờ đập vỡ tan tành cả trái đất, và chấm dứt mọi điều tốt đẹp trên đời.

- Rõ là cái thiên thạch chết tiệt đã nhè đúng ngày chợ phiên ở Vimmerby mà đến, – cô Lina tức giận nói. – Nhưng thây kệ, biết đâu mãi chiều tối nó mới tới, khi ấy thì mình cũng chơi gần hết phiên chợ rồi.

Cô Lina cười ranh mãnh và huých cái cùi chỏ vào người chú Alfred đang ngồi cạnh cô trên băng ghế sau. Cô chờ đợi rất nhiều ở ngày hôm nay.

Phía trước là mẹ ngồi ôm bé Ida trong lòng và bố ngồi ôm Emil trong lòng. Thử đoán xem ai là người đánh xe nào? Tất nhiên là Emil rồi. Tôi quên không kể Emil là một xà ích giỏi như thế nào. Từ nhỏ Emil đã được chú Alfred dậy cho tất cả những điều cần biết về ngựa, rốt cuộc nó thạo về ngựa hơn bất kỳ ai trong làng Lönneberga và điều khiển ngựa còn tài tình hơn cả chú Alfred. Lúc ấy nó đang ngồi trong lòng bố và đánh xe như một xà ích thiện nghệ nhất, – phải, thằng nhóc biết phải cầm cương ra sao!

Đêm qua trời mưa, thành thử vào buổi sáng tháng Mười u ám này, bóng tối và sương mù như một tấm chăn phủ lên làng Lönneberga và khắp vùng Smăland. Khi chiếc xe ngựa chở người của trang trại Katthult đi qua, phía trên các ngọn cây trời vẫn chưa hửng sáng, còn rừng hai bên thì tối đen và ẩm ướt. Dẫu vậy ai nấy đều hớn hở và cả con Markus lần con Julla đều đi nước kiệu khiến bùn nhão trên con đường lầy lội bắn tung tóe dưới móng của chúng.

Con Julla chắc chắn không phấn khởi cho lắm. Nó đã già yếu, và chỉ thích nhất là được đứng trong chuồng ở nhà. Từ lâu Emil đã tỉ tê vào tai bố là bố hãy mua một con ngựa non, đủ trẻ đủ khỏe để chạy cùng con Markus. Bây giờ sẽ là cơ hội tốt nhất để làm việc đó, vì cả nhà sẽ đến chợ phiên, Emil nói.

Nhưng bố lại bảo:

- Dễ con tưởng nhà ta dư tiền để sắm tất tần tật mọi cái và mua thêm thứ nọ thứ kia hay sao? Không, không, con ngựa già Julla sẽ phải chạy thêm vài năm nữa. Chẳng ích gì đâu.

Và con Julla cùng chạy, chắc chắn rồi. Con ngựa can đảm chạy trên những triền dốc, còn Emil, vốn quý mến Julla, bèn hát cho Julla nghe như nó thường hát mỗi khi muốn động viên con ngựa già:

Con ngựa của tớ chẳng phi như gió.
Rệu rã rồi, chân cẳng nó.
Có hề chi?
Cõng tớ, nó vẫn đang hoàng phi,
tuy nước kiệu hơi chậm tí ti,
trên những con đường phẳng lỳ.


Đến Vimmerby, việc đầu tiên của những người trang trại Katthult là tìm một chỗ tốt cho hai con ngựa, không xa khu chợ súc vật là bao. Sau đó mỗi người đều muốn lo việc của mình. Mẹ Emil, cô bé Ida bám váy theo sau, tính sẽ tìm mua một cuốn vở màu xanh. Ngoài ra bà định bán tại chợ chỗ len và trứng mang theo. Cô Lina muốn cùng chú Alfred vào một tiệm bánh ngọt để cùng uống cà phê, và quả nhiên cô đã lôi được chú đi, mặc dù thoạt đầu chú cứ giằng ra, cố thoát khỏi cô, vì chú muốn cùng hai bố con Emil đến khu chợ súc vật.

Nếu bạn đã từng tham dự phiên chợ hàng năm ở Vimmerby, thì bạn sẽ biết thế nào là khu chợ súc vật, nơi người ta mua bán bò ngựa. Vào giờ này khu chợ ấy đã rộn rã, tấp nập lắm. Emil chỉ muốn đến đó luôn, và bố không phản đối việc đi cùng nó, mặc dù bố chẳng định bụng mua gì, chỉ muốn xem cho biết thôi.

- Nhưng phải nhớ đúng mười hai giờ trưa nay chúng ta được mời dùng bữa trưa tại nhà bà Petrell đấy nhé! – Mẹ Emil dặn trước khi mất hút cùng bé Ida.

- Mình khỏi lo, tôi mà quên được một việc như thế sao, – bố Emil đáp, rồi bố cùng đi với Emil.

Có mặt ở chợ súc vật chưa đầy năm phút, Emil đã trông thấy con ngựa. Con ngựa mà nó muốn có, con ngựa đã khiến tim nó đập loạn xạ chưa từng thấy. Ngựa thế mới là ngựa! Đó là một con ngựa nhỏ ba tuổi, màu nâu, đẹp tuyệt vời. Bị cột vào hàng rào, con ngựa đứng nhìn Emil rất dịu dàng, như thể hy vọng cậu bé rồi sẽ mua mình. Emil muốn mua, ồ, nó mới thèm mua con ngựa làm sao! Nó quay người ngó tìm bố: bây giờ nó sẽ bắt đầu nũng nịu kỳ kèo bố dai như đỉa, cho tới lúc bố đành mua con ngựa, để chấm dứt màn mè nheo của nó. Nhưng có ai ngờ nổi nỗi bất hạnh này không: bố đã biến mất! Bố chuồn đi thật đúng lúc, lẩn vào đám đông nông dân nhốn nháo đang gọi nhau í ới và cười nói bô bô, đám ngựa vừa hí vừa giậm chân thình thịch và đám bò cái bò đực thi nhau kêu ầm ĩ.

Bao giờ cũng thế, Emil chua chát nghĩ: Không tài nào rủ bố đi đâu được. Việc đầu tiên là bố tình đường chuồn mất.

Mà lại đúng vào lúc đang vội. Kìa một gã lái ngựa to kềnh càng người vùng Målilla đi tới và ngắm nghía con ngựa của Emil.

- Con này giá bao nhiêu? – Gã kia hỏi bác nông dân đang muốn bán con ngựa. Đó là một người xanh xao bé nhỏ đến từ Tuna.

- Ba trăm đồng ạ, – bác nông dân vùng Tuma đáp, còn Emil thấy tim nhói đau khi nghe câu trả lời. Moi được ba trăm đồng từ bố cũng khó ngang việc khoét được số tiền ấy từ một tảng đá, nó biết thế.

Nhưng mình vẫn cứ thử xem, Emil nghĩ. Thì nó vốn là thằng bé ương ngạnh nhất làng Lönneberga, thậm chí nhất vùng Smăland mà. Thế là nó lao người chạy như bay qua đám đông để tìm bố thật nhanh. Nó sục sạo chỗ này, chỗ khác, mỗi lúc một nôn nóng. Thấy bất kỳ bác nông dân nào nó cũng lôi tay kéo áo, vì cứ ngỡ là bố mình – trông đằng sau họ giống bố lắm. Nhưng lần nào quay lại cũng là một bác nông dân lạ hoắc, hoặc người làng Söedravi hoặc người làng Locknevi, chứ chẳng có ai là Anton Svensson đến từ trang trại Katthult làng Lönneberga cả.

Bạn chớ tưởng Emil sẽ chịu bó tay! Trên chợ súc vật có một cột cờ nhỏ, thoắt cái Emil đã leo lên đến đỉnh cột để ai ai cũng trông thấy nó, và lấy hết sức gào to:

- Mọi người ơi, mọi người ơi, có ai biết thằng bé ở trên này không ạ? Bố nó chạy đâu mất rồi ấy ạ!

Và nó thấy có chuyện gì đó đang xảy ra trong đám đông hỗn độn những nông dân, bò và ngựa bên dưới. Lập tức đám đông rẽ ra và ai đó đang phi nước đại tới chân cột cờ. Còn ai khác ngoài bố của Emil.

Bố Anton Svensson lay cột chờ cho thằng con phải xuống như người ta rung cây táo cho trái táo chín rụng vậy, đoạn bố véo tai Emil kéo đi.

- Cái thằng nhóc hư đốn này, – bố mắng. – Con đã ở đâu vậy hả? Sao lúc nào việc đầu tiên con làm cũng là chuồn mất thế hả?

Emil không có thời gian trả lời bố.

- Bố lại đây, – nó nói, – có một con ngựa mà nhất định bố phải trông thấy!

Phải, chắc chắn bố Emil trông thấy con ngựa, nhưng con ngựa đã bị bán! Có thể nào tưởng tượng một chuyện kinh khủng như thế chăng? Emil và bố đến vừa đúng lúc gã lái ngựa người vùng Målilla rút ví ba trăm đồng dúi vào tay bác nông dân vùng Tuna.

Thế là Emil òa khóc.

- Con ngựa này xem ra rất thân thiện, đúng không? – Gã lái ngựa hỏi.

- Thân thiện lắm ấy chứ ạ, – bác nông dân đáp. Nhưng khi nói thế, bác ta lại nhìn tránh sang bên, trông như thể đang suy tính chuyện gì.

- Tôi thấy nó vẫn chưa có móng sắt, – gã lái ngựa nói. – Tôi phải cho đóng móng xong trước khi đưa nó về nhà.

Emil cứ đứng đó mà khóc khiến bố nó mủi lòng.

- Thôi đừng khóc nữa, Emil, – bố nói, đoạn gật đầu vẻ quyết đoán. – Chúng ta sẽ mua hẳn một túi đường thanh, đắt mấy cũng mua!

Bố Emil dắt Emil vào chợ, nơi những bà bán kẹo ngồi trong quầy kẹo của họ, và mua cho Emil mười xu đường thanh có hình kẻ sọc. Nhưng rồi bố nó gặp một bác nông dân cùng làng và mải trò chuyện với bác này đến nỗi quên cả Emil. Thằng bé đứng đấy, mồn đầy đường thanh, mắt đẫm lệ, bụng nghĩ đến con ngựa. Bỗng nó trông thấy chú Alfred. Cô Lina theo sau chú. Trông chú thật mệt mỏi, chú Alfred đáng thương, và điều đó chẳng có gì lạ, vì cô Lina đã mười bảy lần dắt chú chú đi qua đi lại trước tiệm vàng và lần nào cũng tìm cách lôi chú vào để bắt chú mua nhẫn đính hôn cho cô.

- Nếu chú không ghì cả hai chân cự lại, thì ai mà biết kết cục sẽ thế nào, – chú Alfred sung sướng nói. Tất nhiên chú rất vui khi trông thấy Emil. Emil vội kể cho chú về con ngựa và cả hai chú cháu cùng đứng đấy mà thở dài vì nỗi con ngựa sẽ chẳng khi nào về trang trại Katthult. Sau đó chú Alfred mua từ bác thợ gốm đang rao bán hàng giữa chợ một con chim cúc cu bằng gốm cho Emil.

- Đây là quà chợ phiên của chú tặng cháu, – chú Alfred nói và lập tức Emil cảm thấy sâu trong lòng nó, nơi mọi thứ đều ảm đạm, bỗng như tươi sáng hơn.

- Thế đấy, cái còi chim cu thì anh mua được, – cô Lina dằn dỗi. –Mà này, khi nào thì cái thiên thạch đó rơi xuống đây? Theo tôi thì bây giờ nó rơi xuống được rồi đấy.

Nhưng chẳng thấy thiên thạch nào cả. Mà cũng mới gần mười hai giờ trưa, thiên thạch việc gì phải vội. Lúc này chú Alfred và cô Lina phải đi xem xét hai con ngựa Markus và Julla thế nào và ăn chút gì đó, họ để một giỏ thức ăn dưới ghế trong xe ngựa. Emil rất muốn đi cùng họ, nhưng nó biết đúng mười hai giờ trưa phải ăn trưa nhà bà Petrell, vì vậy nó quay sang bố. Và – bạn tin tôi hay không thì tùy – bố nó lại biến mất! Bố chuồn thật đúng lúc, lẩn vào đám đông hỗn độn trên quảng trường chợ, giữa bát nháo dân chợ, những bà bán kẹo, những ông thợ gốm, những chú đan sọt, những cô bện sợi, những bác bán bóng bay và ti tỉ những người đi chợ khác.

- Không thể tin được cái ngữ ấy sao mà giỏi biến thế, – Emil nói. – Lần sau mà mình vào thị trấn, sẽ bắt bố ngồi nhà. Vì mình không chấp nhận được nữa.

Emil không chịu bỏ cuộc chỉ vì bố nó đã biến mất. Trước kia nó đã từng vào thị trấn và biết đại khái chỗ ở của bà Petrell. Bà ấy ở đâu đó gần phố chính, trong một ngôi nhà đỏm dáng quét vôi trắng, có sân thượng lồng kính.

Gì mà không tìm được tới đó, Emil nghĩ.

Bà Petrell là một trong những quý bà sang trọng nhất vùng Vimmerby. Việc bà ấy mời những người trong trang trại Katthult tới dùng cơm trưa cũng đã là lạ. Tôi không thể nghĩ bà làm thế chỉ vì món xúc xích ngon lành mà lần nào mẹ Emil cũng mang theo biếu bà – làm gì có ai mê xúc xích đến mức ấy. Không, mà là vì bà Petrell thích tham dự mọi bữa tiệc ở trang trại Katthult, nào là tiệc anh đào, tiệc cua, tiệc bánh ngọt và tất cả những bữa liên hoan khác có món xúc xích, món sườn rán, thịt bê cuốn, thịt băm viên, trứng ốp la, lươn nấu đông và cơ man những món ngon khác nữa. Xét cho cùng không thể cứ đi ăn tiệc triền miên nhà người ta mà không mời lại lấy một lần, bà Petrell nghĩ thế. Cũng phải có đi có lại một chút chứ, bà tự nhủ, và bởi thế bà tranh thủ ngày chợ phiên, ngày mà đằng nào nhà Svensson cũng đến thị trấn để mời họ đến dùng bữa trưa lúc mười hai giờ. Họ sẽ dùng món chè cá và món súp dâu tím hâm nóng, bà tính thế. Riêng bà, từ quãng mười một giờ trưa bà đã dùng cơm trước với mỗi một mẩu nhỏ thịt thăn bê và một miếng to bánh hạnh nhân, vì món chè cá còn hơi ít. Trông sẽ kỳ cục lắm, nếu chính bà lại ngồi đấy mà múc lấy múc để món chè cá, trong khi khách ăn không đủ no! Không, bà Petrell không đời nào làm thế.

Lúc này họ đã ngồi trên bàn ăn trên sân thượng, bố Emil, mẹ Emil và bé Ida.

- Cái thằng quỷ này nữa, giữ một túi bọ chét còn dễ hơn giữ chân nó. Bọ chét cũng không biến nhanh như nó – bố Emil phàn nàn.

Ấy là bố đang nói về Emil.

Mẹ Emil chỉ muốn chạy ngay đi tìm con trai bé bỏng của bà, mặc dù bố cam đoan rằng bố đã tìm nó khắp nơi khắp chốn.

Nhưng bà Petrell bảo:

- Cứ như tôi biết thì thằng bé sẽ tự tìm đến đây được.

Bà Petrell nói không sai. Chả là đúng lúc ấy Emil đang trên đường đi vào cổng vườn nhà bà. Nhưng nó bỗng thấy một thứ níu chân nó lại. Ông thị trưởng Vimmerby ở ngay cạnh bà Petrell, trong một ngôi nhà đẹp có vườn bao quanh. Trong vườn, giữa những cây táo là một thằng bé đang đi lò dò trên đôi cà kheo lênh khênh. Đó là Gottfried, cậu con trai nhỏ của ông thị trưởng. Nó phát hiện ra Emil và lập tức ngã cắm đầu xuống bụi tử đinh hương. Nếu bạn đã từng đi thử trên đôi cà kheo, bạn sẽ hiểu vì sao. Thật không dễ giữ được thăng bằng trên hai thanh cọc dài mà trên mỗi thanh cọc chỉ nhô ra một mẩu gỗ nhỏ vừa để bạn đặt chân lên. Gottfried nhanh chóng thò mũi ra khỏi bụi cây và thích thú nhìn Emil. Hai thằng nhóc cùng một guộc chỉ mới lần đầu gặp nhau mắt đã lập tức sáng lên. Gottfried và Emil nhìn nhau cười.

- Tớ cũng rất muốn có một cái “mú” như của cậu. – Gottfried nói.

- Cho tớ mượn nhé! – Không được. – Emil đáp. – Nhưng đổi lại cậu có thể cho tớ mượn đôi cà kheo của cậu.

Gottfried thấy đây là một cuộc đổi chác ngon lành.

- Nhưng tớ không tin là cậu dùng được chúng. – nó nói. – Vì khó lắm đấy.

- Để rồi xem. – Emil đáp.

Emil hiếu động hơn là Gottfried tưởng. Loáng cái nó đã lênh khênh trên đôi cà kheo và bước những bước dặt dẹo hối hả giữa những cây táo. Nó đã quên phéng bữa ăn trưa ở nhà bà Petrell.

Trong khi ấy bố mẹ Emil và bé Ida ngồi trên sân thượng bịt kín nuốt món chè cá. Chẳng mấy mà hết, nên họ quay ra món súp dâu tím. Món này thì nhiều, cả một liễn tướng đầy phè đặt thù lù giữa bàn.

- Ăn đi thôi, – bà Petrell mời. – Tôi hy vọng cả nhà ngon miệng.

Chính bà lại không thấy món súp dâu có gì ngon, nên chẳng hề động đến. Bù lại bà lại lắm lời hơn. Bà nói về cái thiên thạch khổng lồ nọ, vì nó chính là chủ đề câu chuyện của tất cả mọi người ở thị trấn Vimmerby ngày hôm nay.

- Sẽ là quá ư khủng kiếp, nếu một thiên thạch có thể kết liễu tất cả, – bà nói.

- Vâng, ai mà biết được, có khi món súp dâu tím này là món ăn cuối cùng trong đời chúng ta, – mẹ Emil nói, thế là bố Emil vội chìa cái đĩa của mình ra.

- Cho tôi xin thêm chút nữa được không? – ông hỏi. – Đề phòng mọi bất chắc mà.

Nhưng bà Petrell chưa kịp múc đầy súp vào đĩa thì đã xảy ra một chuyện kinh khủng, một tiếng choang, một tiếng rú, rồi từ phía sau bà Petrell một vật gì bay vèo qua khung cửa sổ lớn, rồi bỗng nhiên nào mảnh thủy tinh nào súp dâu tím văng loạn xạ trên khắp sân thượng.

- Thiên thạch! – Bà Petrell kêu thét lên và – “Phịch” bà ta ngã lăn ra sàn bất tỉnh.

Nhưng đó không phải là thiên thạch, chỉ là thằng nhóc Emil đã như là một viên đạn đại bác xuyên qua kính cửa sổ, đầu cắm thẳng vào liễn súp khiếp súp bắn ra tung tóe.

Ôi trời, thế là trên sân thượng bịt kính loạn xị ngầu cả lên. Mẹ la hét, bố quát tháo còn bé Ida thì khóc. Có mỗi bà Petrell tỏ thái độ hoàn toàn im lặng, thì bà đang nằm bất tỉnh dưới sàn mà.

- Chạy xuống bếp mau! Lấy nước lạnh lại đây! – Bố Emil hét. – Phải đắp nước lạnh lên trán bà ấy!

Thế là mẹ Emil co cẳng chạy hết tốc lực, bố cũng vừa chạy theo vừa đẩy lưng mẹ, vì bố muốn mẹ chạy nhanh nữa.

Emil từ từ ngóc khuôn mặt bê bết dâu tím lên khỏi liễn súp.

- Sao lúc nào muốn ăn anh cứ vội vội vàng vàng thế? – Bé Ida hỏi đầy trách móc.

Emil không trả lời.

- Gottfried nói thế mà đúng, – nó nói. – Không thể đi cà kheo mà trèo qua hàng rào được. Ít nhất điều đó đã được chứng minh.

Đoạn nó trông thấy bà Petrell tội nghiệp nằm bất động dưới sàn nhà và thấy thương bà.

- Có lấy nước lên thôi mà cũng lâu đến thế sao? – Nó nói. – Phải cấp cứu nhanh, thật nhanh vào chứ!

Emil không quá khó tính. Nó nhanh tay bưng ngay liễn súp dâu tím và hắt hết phần súp còn lại vào chính giữa mặt bà Petrell. Mặc bạn có tin tôi hay không, – cách này đúng là hiệu nghiệm.

- Blupp, – bà Petrell nói và nhanh như chớp đứng phắt dậy. Có thể thấy ích lợi của việc nấu nhiều súp dâu tím, nó đủ dùng trong trường hợp xảy ra tai nạn.

- Con đã chữa khỏi cho bác ấy rồi! – Emil tự hào khoe, khi bố mẹ nó cuối cùng cũng mang được nước từ nhà bếp lên.

Bố Emil nhìn nó hằm hằm và bảo:

- Bố biết khi chúng ta về đến nhà, có kẻ sẽ được chữa khỏi trong xưởng mộc.



Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 09:44 PM
Đầu óc bà Petrell vẫn còn rối tinh. Mặt mũi bà nhoe nhoét tím chẳng kém gì Emil. Nhưng mẹ Emil, vốn nhanh nhẹn khéo léo, đã đặt bà Petrell nằm trên ghế sô pha rồi cầm một cái bàn chải to bản.

- Phải làm vệ sinh chỗ này mới được, – mẹ tuyên bố rồi bắt đầu cọ, đầu tiên là bà Petrell, sau đến lượt Emil, rồi tới sàn sân thượng. Chẳng mấy chốc đã chẳng còn chút dấu vết nào của món súp dâu tím – trừ một tí tẹo súp còn đọng lại bên tai của Emil. Mẹ còn quét những mảnh kính vỡ vụn thành đống, trong khi bố chạy đến ông hàng kính cắt một miếng kính mới đem về lắp đền vào chỗ kính vỡ. Emil mon men định giúp, nhưng bố không cho nó lại gần kính cửa sổ.

- Tránh xa ra! – Bố rít lên. – Biến ra ngoài kia và đừng có quay trở vào trước khi chúng ta ra về.

Emil không phản đối việc phải biến ra ngoài. Nó đang muốn tán chuyện với Gottfried thêm tí nữa. Nhưng nó đói. Nó chẳng có gì trong bụng ngoài một ngụm nhỏ súp dâu tím mà nó nuốt phải khi cắm đầu vào cái liễn.

- Trong nhà cậu có gì ăn được không? – Nó hỏi cậu bé Gottfried nãy giờ vẫn đứng sau hàng rào.

- Chà, tớ nghĩ là có đấy, – Gottfried đáp. – Hôm nay bố tớ tròn năm mươi tuổi nên nhà tớ sẽ liên hoan to. Thức ăn nhiều đến nỗi các cánh cửa kho căng phồng lên ấy chứ.

- Tốt, – Emil nói. – Có lẽ tớ có thể nếm một chút xem đã vừa muối chưa.

Gottfried chẳng nghĩ ngợi lâu. Nó vào bếp nhà ông thị trưởng lấy ra một đĩa đầy ụ toàn là món ngon: xúc xích này, thịt băm viên này, cả pate gan nữa, mỗi thứ một ít. Thế là Gottfried và Emil – mỗi đứa đứng một bên hàng rào – ngon lành chén hết đĩa thức ăn. Emil sung sướng mãn nguyện lắm.

Cho tới khi Gottfried bảo:

- Tối nay chúng tớ sẽ có một cuộc đốt pháo hoa lớn chưa từng thấy ở Vimmerby!

Emil tội nghiệp cả đời đã được xem đốt pháo hoa bao giờ đâu – dân làng Lönneberga chẳng dư tiền cho những trò điên rồ như thế – cho nên giờ đây thằng bé bực mình vì nỗi ở đây sẽ có một đêm pháo hoa cực kỳ hoành tráng mà nó lại chẳng được xem, bởi trước lúc trời tối cả nhà nó đã phải lên đường trở về trang trại Katthult rồi. Emil thở dài. Nghĩ cho kỹ thì đây là một ngày chợ phiên buồn thảm. Không ngựa, không pháo hoa, chỉ toàn chuyện bực mình và cả một xưởng mộc còn đang chờ đợi ai đó ở nhà. Đấy, tất cả chỉ có thế.

Emil rầu rĩ chào từ biệt Gottfried, và lên đường tìm chú Alfred, người bạn của nó, niềm an ủi của nó những lúc nó buồn.

Nhưng chú Alfred đâu nhỉ? Đường phố đông nghẹt những người, những bác nông dân đi chợ, và cư dân của thị trấn Vimmerby, cứ tán loạn hết cả lên. Gặp được chú Alfred giữa đám đông bát nháo này không phải là chuyện dễ nhất. Emil chạy loanh quanh tìm kiếm cả tiếng đồng hồ và kịp gây khá nhiều rắc rối, những rắc rối không bao giờ được ghi vào cuốn sổ xanh do không ai phát hiện ra. Nhưng chú Alfred thì nó không tìm thấy.

Ngày tháng Mười chưa cười đã tối. Mấy chốc nữa mà trời nhập nhoạng, mấy chốc nữa mà chợ phiên năm nay kết thúc. Khách đi chợ đã nghĩ đến chuyện lên xe ra về, và thật ra người dân thị trấn Vimmerby cũng đã đến lúc rục rịch chuẩn bị về nhà được rồi, nhưng họ chưa muốn. Họ vẫn muốn nán lại ngoài đường mà cười, mà tán gẫu, mà làm ầm ĩ phố xá. Tất cả bọn họ đều có vẻ phấn khích lạ thường – đúng vậy, nhưng hãy xem hôm nay là một ngày thế nào chứ! Nào phiên chợ một năm mới có một lần, nào sinh nhật ông thị trưởng, rồi biết đâu lại là ngày tận thế nếu mảnh thiên thạch ấy lại vù vù lao tới thật. Chắc bạn sẽ hiểu cảm giác của người dân Vimmerby khi họ cứ đi loanh quanh dưới trời chiều chạng vạng và chờ đợi mà chẳng biết thứ họ chờ đợi sẽ vui hay khủng khiếp nữa. Khi con người ta cùng lúc vừa hân hoan lại vừa sợ hãi thì họ sẽ gây ồn ào hơn bình thường. Bởi thế mà trên các phố mỗi lúc một sôi nổi và ầm ĩ hơn. Nhưng trong các ngôi nhà lặng lẽ và yên ả, chẳng có ai ngoài lũ mèo và bà cụ này hay bà cụ khác phải ngồi nhà trông cháu nội, cháu ngoại.

Nếu bạn đã từng đi dạo qua một thị trấn như Vimmerby, có thể vào một ngày chợ phiên hoặc đúng vào lúc trời chạng vạng tối, thì bạn sẽ biết cảm giác tuyệt vời khi đi qua những con đường nhỏ lát đá và nhìn những bà cụ cùng bầy cháu nội, cháu ngoại rồi lũ mèo sau những ô cửa sổ của những căn nhà nhỏ. Và bạn cũng sẽ biết cái cảm giác hồi hộp khi lách người qua những ngõ, những cổng tối tăm và bước vào những khoảng sân tối om, nơi khách thăm chợ để những cỗ xe ngựa của họ và lúc này họ vẫn đứng luẩn quẩn trên sân, tay cầm chai bia, trước khi thắng ngựa vào xe lên đường về nhà.

Emil cũng thấy thích và hồi hộp. Chỉ lát sau nó đã quên khuấy là vừa nãy thôi nó còn rất bất bình, và nó tin rằng sớm muộn nó cũng tìm được chú Alfred. Mà nó tìm được chú Alfred thật, nhưng trước tiên nó tìm thấy một thứ khác.

Đang đi qua một ngõ nhỏ, Emil bỗng nghe thấy tiếng ầm ĩ kinh khủng vọng ra từ một cái sân tối tăm. Nó nghe tiếng đàn ông chửi rủa và tiếng một con ngựa hí. Emil lập tức vọt qua cổng vào sân xem có chuyện gì xảy ra. Điều mà Emil trông thấy cũng chẳng vui vẻ gì với nó. Trên sân có một xưởng rèn móng ngựa cũ kỹ, và trong ánh lửa Emil thấy con ngựa của nó, con ngựa lông nâu xinh đẹp của nó, lọt giữa đám đàn ông đang nổi giận đùng đùng. Bạn đoán xem tại sao họ lại tức giận? Chỉ vì con ngựa lông nâu không chịu để cho họ đóng móng sắt. Hễ bác thợ rèn thử tìm cách nhấc chân con ngựa là con ngựa lồng lên điên cuồng, chân đá tứ tung, khiến đám đàn ông chỉ còn nước chạy dạt ra. Bác thợ rèn vò đầu bứt tai không biết làm sao.

- Đời tôi, tôi đã đóng móng cho biết bao nhiêu con ngựa, – bác nói. – Nhưng tôi chưa từng gặp con nào như nó.

Có thể bạn không biết một thợ rèn móng là gì? Đó là một người đàn ông chuyên đóng giày cho ngựa. Phải, ngựa cũng cần giầy như bạn vậy, nếu không nó sẽ bị mòn móng, bị trượt chân và chạy rất khó khăn trên những con đường xấu. Tất nhiên ngựa không mang những đôi giầy bình thường, mà là miếng sắt uốn vừa vặn và đóng chặt vào móng của nó: đơn giản là những chiếc móng sắt – nếu bạn đã từng trông thấy.

Rõ ràng con ngựa lông nâu đã quyết định không chấp nhận móng sắt. Nó đứng rất yên lặng và hiền từ, như người ta không thể mong gì hơn thế, chừng nào không có ai chạm đến một trong hai chân sau của nó. Nhưng chỉ cần bác thợ rèn đưa tay vuốt nhẹ lên chân con ngựa là màn xiếc dữ dội vừa rồi sẽ lập tức tái diễn, và con ngựa sẽ giãy ra kỳ được., bất chấp cả nửa tá đàn ông đang gắng sức giữ lấy nó. Gã lái ngựa người vùng Målilla, kẻ đã mua con ngựa, mỗi lúc một cau có.

- Giờ tôi sẽ tự ra tay….– Cuối cùng gã nói và tóm mạnh một chân sau con ngựa. Nhưng gã đã bị con ngựa đá bay, rơi phịch xuống chính giữa một vũng nước mưa.

- Chà chà, thế đấy, – một bác nông dân đứng xem nói. – Tin tôi đi, không đóng móng cho con ngựa này được đâu. Vì chủ cũ của nó ở Tuna đã thử ít nhất cả hai chục lần rồi.

Thế là gã lái buôn hiểu ra mình đã bị lừa khi mua con ngựa và càng tức lồng tức lộn.

- Ai thích thì đi mà dắt cái con nghẽo chết tiệt này về! – Gã gầm lên. – Chỉ cần đây thoát được nó!

Ai bước vội lên thế nhỉ? Cố nhiên là Emil.

- Cháu có thể dắt nó về ạ, – Emil nói.

Gã lái ngựa phá lên cười:

- Choắt con như mày ư?

Là gã nói thế, chứ gã đâu định cho con ngựa đi thật. Nhưng bởi đang có đông người xúm quanh và lắng nghe, gã phải tìm cách khôn khéo gỡ bí cho đỡ ngượng.

Vì thế gã bảo:

- Tất nhiên mày sẽ được con ngựa, với điều kiện mày có thể giữ chặt chân nó để chúng tao đóng móng cho nó.

Tất cả mọi người đứng đó đều cười ồ, vì chính họ đã từng thử và biết không ai có thể giữ được con ngựa này.

Nhưng bạn chớ nghĩ rằng Emil ngu ngốc. Thằng bé hiểu biết về ngựa hơn bất kỳ ai ở làng Lönneberga cũng như khắp vùng Smăland. Và ban nãy, khi con ngựa lông nâu lồng lộn, đã lung tung và hí lên hung tợn, Emil đã tự nhủ: Nó phản ứng y như cô Lina ở nhà khi cô bị cù vậy!

Chính xác là như vậy, và Emil là người duy nhất hiểu được điều ấy! Rất đơn giản là con ngựa có máu buồn. Vì thế con ngựa mới thở phì phò và tung vó loạn xạ y như cô Lina, và nó hí to nhường ấy cũng bởi nó cười gần chết như cô Lina khi ai đó chạm vào chân sau của nó. Chính bạn cũng biết cảm giác thế nào khi bị cù mà.

Thế là Emil đi đến bên con ngựa, đưa đôi tay khỏe khoắn bé nhỏ ôm lấy đầu con ngựa.

- Nghe này, ngựa ơi, – nó nói. – Đừng giận dữ nữa nhé. Mày phải có móng sắt chứ. Tao hứa sẽ không cù mày đâu.

Đoán xem Emil làm gì tiếp nào! Nó vòng ra sau con ngựa, nắm thật nhanh một móng sau và nhấc lên. Con ngựa chỉ ngoái đầu lại và nhìn Emil rất thân thiện, như thể muốn xem Emil đang định làm gì. Vì bạn thấy đấy, ngựa cảm nhận ở móng không hơn gì bạn cảm nhận ở móng tay, và giờ thì bạn biết nó không hề có cảm giác buồn hay nhột gì ở đó.

- Mời bác, – Emil bảo bác thợ rèn. – Bác hãy đem móng sắt lại đây! Cháu giữ chặt nó rồi.

Tiếng trầm trồ rộ lên trong đám đông, và họ còn tiếp tục trầm trồ khi Emil giúp bác thợ rèn đóng móng sắt vào cả bốn vó của con ngựa.

Nhưng khi công việc xong xuôi, gã lái ngựa bắt đầu trở mặt. Gã thừa biết mình đã hứa gì, nhưng không muốn giữ lời. Thay vào đó, gã rút ví đưa tờ năm đồng cho Emil.

- Thế này hẳn đã đủ rồi, – gã nói.

Nhưng đám đông nổi giận. Tất thảy bọn họ đều trọng danh dự và quen hành xử theo phương châm “Quân tử nhất ngôn”.

- Đừng có giở trò nữa, – họ nói. – Con ngựa là của thằng bé!

Thế là đã quyết định. Mọi người đều biết gã lái ngựa rất giàu có và vì sĩ diện gã sẽ phải giữ lời.

- Thôi được, ba trăm đồng bạc đâu phải cả thế gian, –gã nói. – Nhận lấy cón nghẽo và xéo đi!

Hãy đoán xem Emil mừng rỡ tới cỡ nào! Nó nhảy phắt lên lưng con ngựa vừa đóng móng của mình và đi ra cổng, hiên ngang như một vị tướng quả cảm nhất. Cả đám nông dân đồng thanh hô “Hurra!”, còn bác thợ rèn thì bảo:

- Những chuyện như thế này chỉ xảy ra khi có chợ phiên ở Vimmerby.

Emil cưỡi ngựa xuyên qua đám đông đang họp chợ với vẻ sung sướng và kiêu hãnh, khiến xung quanh chỉ còn biết ngước nhìn ngưỡng mộ. Trên phố chính, đúng nơi người ngựa chen chúc nhất, nó quả nhiên chạm mặt chú Alfred.

Chú Alfred đứng sững lại, trố mắt nhìn:

- Ôi chao, ôi chao, – chú kêu lên – con ngựa nào vậy hở?

- Ngựa của cháu, – Emil đáp. – Nó tên là Lukas. Chú tin cháu đi: Nó có máu buồn y như cô Lina!

Đúng lúc đó cô Lina chạy tới, kéo tay chú Alfred.

- Chúng mình phải về nhà thôi, – cô nói. – Ông chủ đang thắng ngựa và xe rồi.

Phải, giờ đây mọi sự vui vẻ đã chấm dứt. Giờ đây những người của trang trại Katthult muốn trở về làng Lönneberga. Nhưng Emil nhất định muốn làm một việc việc nữa: Nó phải khoe con ngựa với Gottfried.

- Bảo với bố cháu là năm phút nữa cháu sẽ quay lại!

Emil kêu to và thúc ngựa đi đến nhà ông thị trưởng, tiếng móng ngựa gõ vang trên con đường lát đá.

Màn chiều tháng Mười đã buông xuống khu vườn và khu nhà của ông thị trưởng, nhưng mọi ô cửa sổ đều rực rỡ ánh đèn và từ trong nhà vọng ra tiếng cười nói vui vẻ. Tiệc sinh nhật của ông thị trưởng đang vào lúc cao trào.

Ngoài vườn, Gottfried đang đi tới đi lui với đôi cà kheo. Nó vốn chẳng ưa gì tiệc tùng nên bỏ ra đây. Vừa trông thấy Emil cưỡi ngựa tới, nó đã ngã cắm đầu xuống bụi tử đinh hương.

- Ngựa của ai thế? – Chưa kịp ngóc đầu lên nó đã hỏi.

- Của tớ, – Emil đáp. – Con ngựa thuộc về tớ.

Thoạt đầu Gottfried không muốn tin, nhưng cuối cùng khi đã hiểu ra, nó nổi giận. Nó đã mất công rót vào tai bố nó bao nhiêu lần là hãy mua ngựa cho nó. Nó từng năn nỉ bố suốt từ sáng đến tối – và bố đã luôn luôn trả lời nó như thế nào chứ?

- Con còn quá nhỏ. Không có đứa trẻ nào ở tuổi con mà lại có ngựa cả!

Một lời nói dối trắng trợn làm sao! Bây giờ thì Emil đã tới đây rồi – bây giờ bố có thể tự thấy, nếu trên đầu bố vẫn còn có hai con mắt và nếu bố chịu ra đây mà nhìn! Nhưng bố còn đang mải ngồi trong nhà còn tiệc tùng cơ, Gottfried giải thích cho Emil. Bố ngồi lì giữa một đám những kẻ ngu ngốc, những kẻ chỉ biết ăn, uống, tán chuyện và diễn thuyết không bao giờ dứt.

- Tớ không thể lôi bố ra đây, – Gottfried buồn bã nói, nước mắt rơm rớm.

Emil thấy thương Gottfried và nó không bao giờ bối rối khi nghĩ cách giải quyết. Nếu ông thị trưởng không thể ra với với con ngựa, thì con ngựa có thể vào với ông thị trưởng chứ sao, khó khăn gì đâu. Chỉ cần đi lên cầu thang, qua cửa, qua sảnh là vào phòng tiệc thôi mà. Việc duy nhất mà Gottfried phải là mở và giữ hộ các cánh cửa.

Nếu bạn đã từng có mặt trong một bữa tiệc, nơi đột nhiên có một con ngựa lừng lững tiến vào, thì bạn biết không ít người sẽ tròn mắt và giật thót cả người, như thể suốt đời họ chưa từng thấy một con ngựa! Ở bữa tiệc này cũng thế. Đặc biệt là ông thị trưởng. Ông giật mình đến nỗi một miếng bánh to tướng mắc nghẹn trong cổ ông.

Vì vậy mà ông không thể thốt ra một lời chống chế khi thằng con Gottfried gào lên:

- Giờ thì bố nói gì nào? Nhìn đây, giờ thì bố đã thấy trẻ con cũng có ngựa rồi nhé!

Thực ra trong thâm tâm đám thực khách lấy làm hoan hỉ khi con ngựa xuất hiện, mà điều này cũng hoàn toàn tất nhiên thôi, vì ngựa là loài vật đáng yêu. Ai cũng muốn vuốt ve con Lukas. Emil ngồi trên lưng ngựa, mỉm cười mãn nguyện. Họ cứ việc vuốt ve con ngựa của nó.

Nhưng rồi một ông đại tá già tiến lại gần, ông ta muốn chứng tỏ mình sành ngựa đến thế nào và định véo yêu vào cẳng con ngựa. Trời ạ, ông ta đâu biết Lukas là chúa có máu buồn! Đúng lúc ông thị trưởng vừa tạm nuốt trôi miếng bánh và toan nói gì đó với Gottfried, thì ông đại tá véo và cẳng sau con Lukas. Con ngựa lập tức tung vó đá văng chiếc bàn nhỏ đặt cạnh đó, khiến cả chiếc bánh kem bày trên bàn bay vèo ngang căn phòng, úp đánh “bẹt!” vào chính giữa mặt ông thị trưởng.

- Blupp, – ông thị trưởng chỉ thốt lên được có thế.

Lạ một điều là tất cả đều phá lên cười, họ cũng chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Riêng phu nhân thị trưởng không dám cười. Sợ hãi, bà vơ cái đĩa lớn lật đật chạy đến và bắt tay vào việc cào kem trên mặt đức ông chồng, để chí ít ông cũng hở được hai lỗ quanh mắt mà nhìn ra, nếu không làm sao ông thấy được chuyện gì sẽ còn tiếp diễn tại bữa tiệc sinh nhật của mình.

Nhưng sực nhớ ra đã đến lúc phải trở về nhà ở làng Lönneberga, Emil vội phi ngựa ra cửa. Gottfried chạy theo, vì đằng nào cũng chưa nói được chuyện với bố khi mặt ông phủ đầy những bánh kem, hơn nữa Gottfried không nỡ rời xa con ngựa.
Emil đứng lại đợi bên cổng vườn để chào tạm biệt.

- Cậu may thế, – Gottfried vừa nói vừa vuốt ve con ngựa lần cuối.

- Ừ, tớ may thật, – Emil đáp.

Gottfried thở dài.

- Nhưng dù sao chúng tớ cũng sẽ có một màn pháo hoa ra trò, – Gottfried nói như để tự an ủi. – Pháo kia kìa!

Gottfried chỉ cho Emil thấy cả đống pháo trên chiếc bàn kê trong vườn giữa những bụi tử đinh hương, thế là Emil lập tức nóng ran cả người. Chắc chắn là Emil đang vội rồi – nhưng trong suốt cuộc đời đáng thương của mình, nó chưa từng được biết thế nào là pháo hoa.

- Tớ có thể châm thử một quả xem sao, – nó nói. – Xem nổ có giòn không.

Gottfried chẳng nghĩ ngợi lâu. Nó nhặt từ đống pháo lên một quả và bảo:

- Được, nhưng chỉ quả pháo ếch nhỏ này thôi đấy!

Emil gật đầu, tụt khỏi lưng ngựa:

- Ừ, chỉ quả pháo ếch nhỏ này thôi. Cho tớ xin que diêm được không?

Nó nhận que diêm. Và ….pip…..pap, quả pháo ếch nhỏ vừa nổ vừa nhảy loi choi. Được, nổ giòn đấy! Quả pháo nhảy tới nhảy lui, cuối cùng nhảy lên chiếc bàn, chui tọt vào giữa đống pháo. Hẳn quả pháo không muốn ở một mình, tôi đoán thế. Nhưng cả Gottfried và Emil đều không hề nhận thấy điều này, vì đúng lúc đó chúng nghe tiếng gọi to đằng sau lưng. Đó là ông thị trưởng đang chạy tất tả xuống bậc tam cấp ra vườn, ông muốn nói chuyện với hai đứa. Lúc này mặt ông đã gần như sạch kem, chỉ bộ râu là vẫn trắng lấp loáng trong màn đêm tháng Mười.

Trên các phố thị trấn Vimmerby, người dân Vimmerby vẫn còn đang dạo chơi, cười đùa, hò reo mà không biết mình đang chờ đợi một điều gì đó vui vẻ hay khủng khiếp. Và rồi nó đến! Cái điều khủng khiếp mà họ đã rùng mình chờ đợi. Đột nhiên cả bầu trời phía trên nhà ông thị trưởng chìm trong lửa. Đột nhiên khắp thế gian tràn ngập những con rắn rực đỏ gầm rít, những vầng sáng chói lòa và những vầng sáng chói lòa và những chùm lửa dội từ trên cao xuống. Những tiếng nổ chát chúa, đùng đoàng rồi tiếng rít và xé gió tạo thành một tạp âm ghê rợn đến nỗi đám cư dân tội nghiệp của thị trấn Vimmerby sợ hãi xanh xám hết mặt mày.

- Thiên thạch! – Họ rú lên. – Cứu với! Chúng tôi chết mất!

Chưa bao giờ ở thị trấn này tiếng than khóc lại nổi lên ầm ĩ như thế, và ai nấy đều đinh ninh giờ tận số của mình đã điểm. Những kẻ đáng thương! Chẳng có gì lạ khi họ cứ ra sức gào rú và ngã lăn ra bất tỉnh, chất thành đống trên đường phố.
Duy có bà Petrell vẫn điềm nhiên ngồi trên sân thượng mà ngắm nhìn những trái bóng lửa bay loạn xạ.

- Ta không tin vào chuyện thiên thạch, – bà thủ thỉ với con mèo của mình. – Ta đánh cuộc lại thằng bé Emil bày trò đấy thôi.

Bà Petrell đã nói chí lý. Dĩ nhiên chính là Emil và quả pháo ếch nhỏ của nó đã làm cho cả đống pháo “nổ giòn” và bay tung hết lên trời. Nhưng thật may là ông thị trưởng đã mò ra vườn đúng lúc, nếu không có lẽ ông ông đã chẳng được thưởng thức màn pháo hoa tuyệt vời vốn dành mừng sinh nhật ông. Còn bây giờ ông ở đó, nơi tập trung nhiều tiếng nổ và chớp lửa nhất, và quả thật ông rất vất vả khi cứ phải nhảy loi choi hết qua phải lại qua trái để tránh những quả cầu lửa cứ rin rít bay sát sạn ngang tai. Emil và Gottfried đoán ông thích thú lắm, vì mỗi lần nhảy cẫng lên ông lại hét to hoan hỉ. Chỉ khi bị một quả pháo bay tọt vào một bên ống quần, thì ông thị trưởng mới tức giận ra mặt. Nếu không tại sao ông lại rú lên một tiếng khủng khiếp và cứ bướng bỉnh rú mãi lên như thế trong khi vội vã chạy lại chum nước ở góc nhà và nhúng cả cẳng chân vào đó như một người điên! Ai lại nhúng pháo vào nước cơ chứ, sẽ bị xịt ngóm còn gì là pháo! Lẽ ra ông thị trưởng phải tính được như vậy.

- Cuối cùng thì tớ cũng đã được xem pháo hoa rồi, – Emil nói.

Nó đang nằm nấp cạnh Gottfried sau kho củi nhà ông thị trưởng.

- Ừ, giờ thì quả là cậu đã được xem một màn pháo hoa, – Gottfried đáp.

Rồi chúng im lặng chờ đợi. Cũng chẳng chờ đợi gì đặc biệt, mà chỉ chờ cho ông thị trưởng thôi lượn vè vè trong vườn như một con ong vò vẽ to to kềnh càng hung dữ.

Nhưng sau đó một lát, khi cỗ xe ngựa trang trại Katthult lăn bánh trở về làng Lönneberga, thì tất cả những vầng pháo sáng và những quả bóng lửa đều đã tắt ngóm từ lâu. Chỉ các vì sao còn nhấp nháy trên những ngọn thông. Rừng tối om, đường cũng tối om, nhưng Emil vẫn sung sướng hát vang khi nó cưỡi ngựa đi xuyên bóng đêm:

Ha–hop! Bố yêu ơi!
Thế mới là con ngựa của tôi:
Ngựa nhanh nhất, giỏi nhất trên đời
Lại chẳng tốn tiền, thế mới hời!


Còn bố Emil ngồi đánh xe, rất hài lòng về cậu con trai. Chắc chắn là thằng bé đã khiến bà Petrell và cả thị trấn Vimmerby suýt phát điên với những trò nghịch ngợm và màn trình làng thiên thạch của nó, nhưng chẳng phải Emil cũng đã kiếm được hẳn một con ngựa đó sao? Mà lại chẳng tốn lấy một xu – mà rốt cuộc đây mới là điều then chốt. Đào đâu ra ở khắp làng Lönneberga một thằng bé như thế, và lần này thằng bé sẽ không bị nhốt vào xưởng mộc, bố Emil bụng bảo dạ như vậy.
Hơn nữa bố lại đang lâng lâng khoan khoái, có lẽ vì đúng lúc cả nhà định lên đường về thì bố gặp một người quen cũ và được ông này mời uống hẳn mấy chai bia. Bình thường bố không uống bia, không, bố không phải hạng người thích bia bọt, nhưng nếu đã được mời uống không mất tiền thì bố còn biết làm thế nào khác?

Bố Emil phấn khích quất ròi đèn đẹt trong lúc đánh xe ngựa và thét vang:

- Ông bố tô…..ố….t ở trang trại Katthult,…… người đàn ông qua....a….an trọng đang đến!

- Ha ha ha, phải, phải, – mẹ của Emil nói. – May quá, không phải ngày nào cũng có phiên chợ hàng năm. Ồ, được trở về nhà mới sướng làm sao!

Bé Ida đang ngủ trong lòng mẹ, hai bàn tay ôm chặt món quà chợ phiên của nó. Đó là một cái giỏ nhỏ bằng sứ màu trắng với những bông hồng cũng bằng sứ, trên có dòng chữ “Kỷ niệm Vimmerby”.

Trên hàng ghế sau, cô Lina tựa vào cánh tay chú Alfred mà ngủ. Cánh tay chú Alfred cũng ngủ, vì bị cô Lina tỳ vừa nặng vừa lâu. Nhưng ngoài ra chú đang tươi tỉnh và vô cùng phấn chấn, đúng như một nông dân thực thụ. Chú quay sang bảo Emil đang cưỡi ngựa đi bên cạnh:

- Mai nhà ta chở phân cả ngày, sẽ vui lắm đấy.

- Mai cháu sẽ cưỡi con ngựa của cháu cả ngày, – Emil nói. – Sẽ vui lắm đấy. Đúng lúc ấy cả nhà quành vào chỗ rẽ cuối cùng và cả nhà có thể trông thấy ánh sáng sau ô cửa sổ bếp của trang trại Katthult, nơi bà Krösa–Maja đang chờ họ về ăn tối.

Lúc này bạn có thể tưởng tượng rằng Emil sẽ thôi bày trò nghịch ngợm chỉ vì nó đã có một con ngựa. Nhưng không phải như thế. Hai ngày liền nó mê mải cưỡi ngựa chạy loăng quăng, nhưng sang ngày thứ ba tức ngày mồng 3 tháng Mười một, nó lại bắt đầu giở trò…. Hô hô hô, cứ nghĩ đến đấy là tôi không sao nhịn được cười. Là thế này, đúng vào hôm đó, Emil đã…….Thôi, dừng lại! Dừng lại! Tôi đã hứa với mẹ của Emil là sẽ không bao giờ kể cái thằng bé đã gây ra chuyện gì trong ngày mồng 3 tháng Mười một đấy, vì sau trò quỷ quái đó dân làng Lönneberga đã quyên góp tiền – bạn vẫn nhớ chứ – và muốn gửi Emil sang Mỹ. Sau này mẹ của Emil chỉ ước gì quên được mọi sự. Bà cũng không hề ghi lại chuyện này vào cuốn vở xanh, vậy thì hà cớ gì tôi lại phải kể ra đây nhỉ? Không, và thay vào đó bạn sẽ được nghe chuyện Emil đã làm gì trong ngày thứ Hai của lễ Giáng sinh. Đó là

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 09:57 PM
Thứ Hai, ngày 26 tháng Mười hai,
ngày Emil tổ chức “cuộc tổng càn quét ở Katthult” và bắt được mụ Maduskan trong bẫy sói.


Trước khi có thể đón lễ Giáng sinh, người ta còn phải vượt qua mùa Thu lạnh giá, mùa gió và u ám, cái tiết trời chẳng dễ chịu ở bất kỳ đâu. Cũng chẳng dễ chịu ở Katthult. Dưới màn mưa phùn, chú Alfred lầm lũi theo sau hai con bò cày thửa ruộng rắn như đá, bám sau chú là Emil bước thập thõm trên luống cầy. Nó giúp chú Alfred thúc giục mấy con bò vừalười chảy thây vừa hầu như không hiểu nổi tại sao ruộng cứ phải cày mới tốt. Nhưng rồi chẳng mấy chốc trời đã nhá nhem tối, nên chú Alfred tháo cày ra và cả bọn lê bước về nhà: chú Alfred, Emil và hai con bò. Sau đó hai chú cháu cứ thế dận nguyên cả ủng còn bê bết những tảng bùn lớn vào bếp khiến cô Lina nổi đóa vì cô sợ họ bôi bẩn sàn bếp vừa cọ sạch của cô.

- Người đâu mà đanh đá, – chú Alfred nói. – Ai cưới phải ngữ này thì đố còn nổi một giây yên tĩnh cho tới lúc chết.

- Vâng, mà chắc là chú chứ ai, – Emil đáp.

Chú Alfred im lặng nghĩ ngợi.

- Không, cháu thấy đấy, không phải chú, – cuối cùng chú Alfred nói. – Chú chẳng dám. Nhưng chú cũng không dám nói với cô ấy điều đó.

- Chú muốn cháu nói hộ không? – Emil, thằng bé rất can đảm và sốt sắng, bèn hỏi. Nhưng chú Alfred không muốn.

Chú Alfred cứ suy nghĩ mãi xem làm thế nào để cô Lina hiểu là chú không muốn cưới cô, nhưng chẳng nảy ra được ý gì hay ho.

Lúc này bóng tối mùa Thu đã đè nặng lên trang trại Katthult. Mới ba giờ chiều mà đã phải thắp đèn dầu trong bếp, nơi mọi người ngồi quây quần, ai làm việc người nấy. Mẹ Emil đang quay guồng kéo những sợi len trắng mịn sẽ dùng để đan bít tất cho Emil và bé Ida. Cô Lina cào bông và bà Krösa–Maja cũng vậy, nếu bà có mặt. Bố Emil vá giày và nhờ thế tiết kiệm được vô khối tiền mà đáng ra bác thợ giày trong làng đã được đút túi. Chú Alfred cũng chăm chỉ không kém, chú đang tự mạng lấy bít tất. Những chiếc tất của chú thường xuyên thủng những lỗ to tướng ở ngón chân cái và gót chân, nhưng chú đã nhanh chóng khâu tịt chúng lại. Cô Lina rất muốn giúp, nhưng chú không khiến.

- Không, cháu thấy đấy, để chú bị sa vào bẫy à, – chú Alfred giải thích với Emil. – Trót nhờ rồi, thì sau này có khéo nói đến đâu cô ấy cũng đừng hòng chịu hiểu.

Emil và bé Ida thường chui dưới gầm bàn chơi với con mèo. Lần nọ Emil cố thuyết phục Ida rằng con mèo thực ra là một con sói, và khi thấy cô em nhất định không chịu tin, thằng anh bèn bắt chước tiếng sói tru khiến ai nấy trong bếp đều giật thót người. Mẹ muốn biết sao Emil lại tru lên như thế. Emil đáp:

- Chúng con đang có một con sói dưới gầm bàn ạ.

Lập tức bà Krösa–Maja bắt đầu kể chuyện sói, và lập tức cả Emil và bé Ida lần lượt hớn hở bò ra khỏi gầm bàn để lắng nghe. Thế nào cũng sắp có cái gì đó kinh dị, chúng biết thế, vì bà Krösa–Maja toàn kể những chuyện kinh dị. Nếu không phải chuyện lũ sát nhân hay trộm cắp, ma quỷ, thì lại là những cảnh chặt đầu ghê rợn, giàn thiêu khủng khiếp, tai nạn kinh hoàng, bệnh tật chết người hoặc những con thú nguy hiểm. Ví như sói chẳng hạn.

- Thời tôi còn nhỏ, – bà Krösa–Maja mở đầu, – ở xứ Smăland này có rất nhiều sói.

- Nhưng Đức Vua Karl thứ Mười Hai đã đến và bắn chết chúng…..may quá! – Cô Lina xen vào.

Thế là bà Krösa–Maja nổi giận. Bà cao tuổi thật, nhưng đâu đã già tới mức như cô Lina tưởng.

- Cô thì biết gì mà nói, – bà mắng và không muốn kể chuyện nữa. Nhưng Emil cứ ngon ngọt năn nỉ và thúc ép quá, nên cuối cùng bà lại nhượng bộ và kể cơ man là chuyện đáng sợ về bầy sói và chuyện thời xưa, khi bà còn nhỏ, người ta đã đào bẫy sói như thế nào, và bắt được sói trong đó ra sao.

- Thế nghĩa là Karl thứ Mười Hai khỏi cần đến nữa….. – Cô Lina lại bắt đầu ngứa miệng, nhưng cô đã vội im tịt, vì bà Krösa–Maja lại lại tức mình, và điều đó cũng không có gì lạ. Karl thứ Mười Hai là vị vua sống cách đây hàng trăm năm, bạn nên biết thế, mà bà Krösa–Maja đâu có già khú già khụ đến mức ấy.

Nhưng Emil lại làm bà mềm lòng lần nữa. Thế là bà Krösa–Maja kể về người sói, loài đáng sợ nhất trong các loài sói, luôn chỉ lượn lờ dưới ánh trăng. Người sói biết nói, bà Krösa–Maja bảo, vì chúng không phải những con sói thường, mà nửa người nửa sói, là loài thú đáng sợ nhất. Ai không may gặp phải người sói trong những đêm trăng thì yên tâm nói lời vĩnh biệt với trần gian, vì trên đời này không có loài dã thú nào tệ hại hơn. Và chính vì vậy mà người ta cần ở trong nhà vào những đêm trăng rằm – bà Krösa–Maja nói vậy, mắt chằm chằm nhìn cô Lina với vẻ tức giận.

- Mặc dù Karl thứ Mười Hai….– Cô Lina lại mở miệng.

Thế là bà Krösa–Maja quăng luôn cái bàn chải cào bông đi và tuyên bố đã đến lúc bà phải về nhà, vì bà đang cảm thấy thực sự già nua và mệt mỏi.

Nhưng tối đến, khi đã lên giường nằm, Emil và bé Ida lại bàn luận về những con sói.

- May mà bây giờ không có sói nữa, – bé Ida bảo.

- Không có là thế nào? – Emil vặc lại. – Sao em biết được, khi mà em chẳng có cái bẫy nào để bẫy chúng?

Emil nằm thao thức, nghĩ ngợi rõ lâu. Càng nghĩ, nó càng tin chắc rằng chỉ cần có một cái bẫy sói là thể nào nó cũng bắt được một con sói trong bẫy. Vốn nhanh nhẹn, ngay sáng hôm sau Emil đã bắt tay vào đào một cái bẫy sói trên khoảng đất giữa xưởng mộc và kho trữ thức ăn. Đây là nơi rất nhiều bụi lá han sẽ mọc vào mùa hè, nhưng lúc này chúng đã thâm đen, héo rũ trên mặt đất.

Phải mất khá lâu mới đào xong bẫy sói. Hố bẫy phải sâu để con sói đã sa xuống là không tài nào len lên được nữa. Thi thoảng chú Alfred lại đào giúp Emil vài nhát thuổng, ấy vậy mà mãi đến trước kỳ lễ Giáng sinh cái bẫy mới hoàn tất.

- Thế mà lại hay, - chú Alfred nói. – Vì lũ sói sẽ không mò ra rừng chừng nào chưa vào tiết đông lạnh giá và chúng chưa đói rã họng

Bé Ida rùng mình khi nghĩ đến những con sói đói trong rừng sẽ rón rén mò ra giữa đên đông giá lạnh và vừa cất tiếng tru vừa lượn lờ quanh các góc nhà. Nhưng Emil chằng rùng mình. Mắt sáng rỡ, nó nhìn chú Alfred, trong lòng khấp khởi nghĩ đến con sói sẽ sa xuống bẫy.

- Bây giờ cháu chỉ còn việc lấy cành cây phủ lên trên để con sói không phát hiện ra cái bẫy, - Emil hài lòng tuyên bố
- Đúng thế! Ở đời phải có mưu mẹo, Stolle-Jocke nói và bắt rận bằng ngón chân, - chú Alfred liền phụ họa.

Đó là câu cửa miệng của dân làng Lönneberga. Riêng chú Alfred lẽ ra không được phép nói vậy, vì Stolle-Jocke là ông nội của chú, cụ hiện đang tá túc trong trại tế bần của làng. Mà đã là cháu thì không được phép đưa ông nội mình ra làm trò cười. Tất nhiên chú Alfred nói không chút ác ý, không đời nào. Chú chỉ nhắc lại lời mà tất cả những người khác đều nói mà thôi.

Bây giờ thì còn phải đợi mùa Đông thế nào cũng phải đến. Và mùa Đông đến thật. Trước Giáng sinh ít ngày có sương giá, rồi bỗng nhiên tuyết bắt đầu rơi khiến ai nấy đều mừng rỡ. Tuyết rơi trên khắp trang trại Katthult, trên khắp làng Lönneberga, trên khắp vùng Smăland, cho tới khi tất cả đều bị phủ kín dưới một tấm chăn tuyết duy nhất. Những tấm ván rào vẫn nhô lên vừa đủ để người ta có thể nhìn ra đâu là đường. Nhưng bây giờ không ai còn có thể nhận biết được ở khoảng giữa xưởng mộc và kho trữ thức ăn có một cái bẫy sói. Tuyết phủ trên miệng bẫy như một tấm thảm mỏng màu trắng, và tối nào Emil cũng cầu nguyện sao cho những cành cây tấp trên miệng hố không bị sập trước khi một con sói dẫn xác đến và rơi bịch xuống hố.
Lúc này mọi người ở trang trại Katthult khá bận bịu, vì lễ Giáng sinh ở đây được chuẩn bị khá kỹ càng. Trước tiên là tổng giặt giũ chăn ga gối đệm. Cô Lina và bà Krösa–Maja quỳ trên cái cầu lạnh ngắt bên dòng suối ở Katthult mà giặt. Cô Lina vừa khóc vừa thổi phù phù vào những ngón tay tê cóng vì giá lạnh. Con lợn được vỗ béo cho lễ Giáng sinh bị đem ra mổ thịt và bây giờ, theo lời cô Lina, trong bếp hầu như chẳng còn chỗ nào mà đứng nữa. Đâu đâu cũng la liệt nào giò nạc, thịt băm viên, nào xúc xích rán, dồi gan, rồi đùi lợn muối, sườn lợn hun khói, và những món gì gì nữa tôi chịu không biết hết. Đã là Giáng sinh thì phải có bia tươi nữa. Mẹ Emil đã ủ bia trong cái thùng gỗ to tướng trong kho. Còn bánh thì ôi chao mẹ làm nhiều loại đến nỗi chỉ nhìn cũng đủ chóng mặt: nào bánh siro, bánh mạch đen, bánh nghệ, bánh mì, bánh quế, và đặc biệt là những chiếc bánh vừng xinh xinh, rồi bánh kem, bánh quy nhiều màu, bánh rắc đường…….. chẳng tài nào kể ra cho hết. Tất nhiên cũng phải có nến nữa. Mẹ Emil và cô Lina thức gần một đêm để đổ nến, những cây nến to, nến nhỏ, rồi nến hình cây thông, vì dù sao cũng sắp Giáng sinh rồi. Chú Alfred và Emil thắng con Lukas vào cỗ xe trượt bằng gỗ và đi vào rừng chặt một cây thông đem về làm cây thông Noel, trong khi bố vào kho thóc lôi ra mấy bó lúa mạch mà bố đã cất dành cho bầy chim sẻ.

- Tất nhiên thế này là quá ư lãng phí, – bố nói. – Nhưng Giáng sinh thì lũ chim sẽ cũng phải được một lần chén thỏa thuê chứ.
Còn nhiều nữa những đối tượng mà người ta phải nghĩ đến, nhiều những đối tượng cũng cần một bữa no vào dịp Giáng sinh. Đó là những kẻ nghèo khó đang tá túc trong trại tế bần! Chắc chắn bạn không biết trại tế bần là gì, và bạn hãy mừng về điều đó. Trại tế bần là một thứ từng có ngày xưa, và nếu tôi kể tất cả thật chi tiết về nó, thì câu chuyện sẽ hẳn còn ghê rợn hơn mọi thứ chuyện kinh dị mà bà Krösa–Maja thường kể về bọn sát nhân, ma quỷ và dã thú. Nếu bạn tưởng tượng một căn lều nhỏ tồi tàn ngăn làm vài gian, nơi toàn những ông già bà lão tiều tụy, nghèo khổ chung sống giữa một mớ hỗn độn những rác rưởi, giẻ rách, chấy rận, đói khát và khốn khó, thì bạn sẽ biết thuở đó người nghèo sống ra sao trong trại tế bần. Chắc chắn trại tế bần ở làng Lönneberga không tệ hơn trại tế bần nơi nào khác, nhưng cũng đủ kinh khủng cho ai phải đến đó nương thân khi đã già yếu và không còn tự lo cho bản thân được nữa.

- Tội nghiệp ông nội, – chú Alfred thường nói. – Ông chẳng được lấy một ngày vui vẻ. Giá như ở đó đừng có mụ Maduskan hống hách, thích gây gổ tác oai tác quái thì còn đỡ!

Mụ đàn bà hổ lửa này nắm quyền sinh quyền sát trong trại tế bần. Chắc chắn mụ cũng chỉ là một người sống nương nhờ trong trại, nhưng mụ to cao nhất, khỏe nhất và độc ác nhất, và vì thế là người ra lệnh ở đây – điều mà đáng lẽ đã chẳng thể xảy ra, nếu Emil có cách nào lớn mau hơn và sớm trở thành ông chủ tịch hội đồng xã hơn. Nhưng đáng tiếc nó vẫn còn là một thằng bé và chưa thể làm gì để chống lại mụ Maduskan. Ông nội của chú Alfred sợ mụ và những người khác trong trại tế bần cũng sợ mụ.

- Nhìn xem mụ bước đi dữ dằn như một con sư tử cái giữa bầy cừu, – cụ Stolle–Jocke luôn nói vậy. Cụ có hơi lập di, cái cụ Jocke này, và nói năng cứ như trích dẫn Kinh Thánh, nhưng cụ nhân hậu và chú Alfred rất yêu người ông già nua của mình.
Những người già sống trong trại tế bần hầu như chẳng bao giờ được ăn no, đúng là quá khổ, mẹ Emil nghĩ vậy.

- Tội nghiệp các cụ, họ cũng phải có chút gì cho ấm bụng vào dịp Giáng sinh chứ, – mẹ bảo. Và vì thế mà vài ngày trước Giáng sinh người ta trông thấy Emil và bé Ida cùng xách một giỏ lớn đi trên con đường tuyết phủ đến trại tế bần. Mẹ đã xếp vào giỏ toàn những thứ ngon lành, mỗi món một ít, đủ tất cả các loại xúc xích, thịt lợn hun khói, đùi lợn muối, thịt băm viên, rồi bánh mì trắng, bánh tiêu đen, bánh ngọt Giáng sinh, lại cả những cây nến và một hộp thuốc lá ngửi cho cụ Stolle–Jocke nữa.

Chỉ ai bản thân cũng đã từng phải nhịn đói lâu ngày mới hình dung nổi các cụ ở trại tế bần hoan hỉ tới mức nào khi Emil và bé Ida mang đồ ăn đến. Tất cả bọn họ không mong ước gì hơn là lập tức đánh chén: nào cụ Stolle–Jocke, và cụ Kalle–Caro, cụ Johann–Một xu, cụ Niklas–Ve chai, cụ bà Fia–Tổ Đỉa, cụ bà Ulla–Tiên đoán tai ương, các cụ Vibergsche và Salia Amalia và còn nhiều nhiều cụ nữa bất kể tên gì. Nhưng mụ Maduskan quyết định:

- Không được ăn trước ngày Giáng sinh, ta nói để các ngươi biết!

Thế là chẳng ai dám hé răng cãi lại.

Emil và Ida ra về. Rồi đến ngày Giáng sinh. Hôm đó và những hôm sau nữa ở trang trại Katthult thật tuyệt. Tất cả mọi người cùng đến nhà thờ làng Lönneberga dự lễ Chúa Giáng sinh, và Emil thật sự vui sướng khi ngồi trên xe trượt, vì hai con ngựa Markus và Lukas phi nhanh đến nỗi tuyết bay xoáy quanh vó chúng và chúng bỏ xa các cỗ xe trượt khác.

Suốt buổi lễ, Emil ngồi ngoan ngoãn và yên lặng tại chỗ, phải, Emil cư xử đúng mực đến nỗi mẹ nó ghi lại như sau vào cuốn vở xanh:
“Thằng bé thực ra rất ngoan đạo; nó không bày tý trò nghịch ngợm nào trong nhà thờ.”

Cả ngày lễ Giáng sinh đầu tiên Emil vẫn hiền hoà như thế. Nó và bé Ida ngoan ngoãn chơi những món quà Giáng sinh, và khắp trang trại Katthult yên ả tuyệt vời.

Nhưng rồi sang ngày Giáng sinh thứ hai, bố mẹ Emil phải đến Skorphult dự tiệc Giáng sinh. Skorphult là một trang trại ở tít đầu làng bên kia. Dân làng Lönneberga chẳng ai lạ gì Emil, thế nên trẻ con nhà này không được mời dự tiệc.

- Dào, anh cóc cần, – Emil nói. – Chỉ tội nghiệp cho nhà Skorphult. Cứ thế này thì những con người đáng thương ấy chẳng khi nào làm quen được với anh!

Tất nhiên bố mẹ định để cô Lina ở nhà trông bọn trẻ, nhưng mới sáng sớm cô đã khóc lóc và nhất định đòi về thăm mẹ cô hiện đang ở trong một túp lều gần trang trại Skorphult. Hẳn cô Lina đã hình dung sẽ tiện lợi biết bao nếu cô được đi ké xe trượt, vì đằng nào xe cũng chạy về hướng ấy.

- Thôi, để cháu trông nom bọn trẻ cũng được, – chú Alfred nói. –Thức ăn thì đã có sẵn. Cháu sẽ trông chừng không cho chúng nghịch diêm hoặc không cho chúng mó vào thứ này thứ khác là được chứ gì.

- Chắc chắn rồi, nhưng cậu biết thằng bé Emil thế nào rồi đấy, – bố Emil nói, mắt đăm đăm nhìn ra phía trước đầy vẻ u ám. Nhưng mẹ đã vội xen vào:

- Emil là một thằng bé dễ thương. Nó sẽ không nghịch ngợm, chí ít là trong lễ Giáng sinh này. Thôi đừng khóc nữa, Lina, chúng tôi cho cô đi cùng đấy!

Thế là xong.

Chú Alfred, Emil và bé Ida đứng bên cửa sổ bếp nhìn theo cỗ xe trượt khuất dần sau đầu dốc. Khi cỗ xe đã mất dạng, Emil hài lòng nhảy cẫng lên mà reo:

- Hoan hô! Bây giờ bọn mình sẽ đem sự sống vào ngôi nhà này!

Nhưng bỗng bé Ida giơ ngón tay trỏ gày gò chỉ ra đường.

- Nhìn kìa, cụ Stolle–Jocke đang đến, – cô bé nói.

- Ừ, thật nhỉ, – chú Alfred bảo. – Chắc xảy chuyện gì rồi.

Số là cụ Stolle–Jocke không được phép đi ra ngoài. Đầu óc cụ lẩn thẩn và cụ không tự nhớ đường được. Ít nhất thì mụ Maduskan cũng khẳng định như vậy.

- Lão già không tìm nổi đường đi lẫn lối về, – mụ nói. – Mà tôi thì chẳng có thời gian đâu mà đôn đáo chạy quanh tìm lão khi lão bị lạc.

Nhưng cụ Jocke luôn tìm được đường đến trang trại Katthult, và lúc này đây cụ lê bước trên đường tựa hồ như trên vai cụ đang chồng chất bao nỗi đau. Những sợi tóc bạc trắng bay lơ phơ quanh tai cụ và chả mấy chốc cụ đã nghẹn ngào đứng trên ngưỡng cửa bếp.

- Bọn ông không được chưa thịt băm viên! – Cụ mách. – Cả xúc xích cũng không. Mụ Maduskan đã giành lấy hết.

Thế rồi cụ không nói được nữa vì khóc dữ quá.

Thế là Emil nổi giận, giận khủng khiếp tới mức cả chú Alfred và bé Ida đều không dám nhìn nó. Trong mắt Emil ánh lên vẻ hoang dại, và nó chộp một cái bát sứ để trên bàn.

- Mụ Maduskan có giỏi hãy lại đây! – Nó hét lên và ném thẳng cái bát vào tường khiến các mảnh vỡ bắn tung toé. – Đưa khẩu “sún” cho cháu!

Chú Alfred hoảng thật sự.

- Cháu hãy bình tĩnh đã nào, – chú nói. –Tức giận như thế nguy hiểm lắm đấy.

Đoạn chú quay sang vỗ về an ủi người ông tội nghiệp của mình và hỏi tại sao mụ Maduskan lại làm một việc kinh khủng như thế, nhưng điều duy nhất cụ Jocke có thể nói được lúc này là:

- Bọn ông không được chia thịt băm viên! Cả xúc xích cũng không. Mà ông chẳng được nhận thuố–ố–c l–á–á h–í–í–ít gì sất.
Bé Ida lại chỉ tay ra đường.

- Nhìn kìa, cụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương đến kìa!

- Để đưa ông về đấy mà, – cụ Jocke nói và bắt đầu run bắn toàn thân.

Cụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương là một bà lão nhỏ bé, nhanh nhẹn sống trong trại tế bần. Lần nào cũng vậy, hễ cụ Jocke biến mất là mụ Maduskan lại bắt bà cụ đi đến trang trại Katthult. Cụ Jocke hay mò đến trang trại Katthult, là nơi ngoài việc tìm thấy đứa cháu nội Alfred cụ còn được gặp mẹ Emil, người lúc nào cũng rất ân cần với những ai nghèo khó.

Qua cụ bà Ulla – Tiên Đoán Tai Ương mấy chú cháu Emil mới nghe thủng câu chuyện. Đồ ăn từ trang trại Katthult mang đến bị mụ Maduskan cất hết trong một cái tủ để trên căn xép áp mái vốn khá lạnh vào mùa này. Nhưng vào hôm Giáng sinh, khi định đem số đồ ăn dự trữ ra, cụ thấy thiếu một mẩu xúc xích nhỏ, thế là mụ nổi ngay cơn tam bành.

- Cứ như con sư tử cái lồng lộn giữa bầy cừu vậy, – cụ Stolle Jocke nói và cụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương tán thành. Ôi chao, cái mụ Maduskan đã hành họ đến khốn khổ vì mẩu xúc xích và muốn dùng bạo lực để truy cho ra tên tội đồ đã đánh cắp mẩu xúc xích.

- Nếu không, ở đây sẽ có một ngày Giáng sinh mà mới chỉ nghĩ đến thôi thiên thần của Chúa cũng phải khóc thét – mụ hăm doạ. – Và quả sẽ thế thật, cụ bà Ulla – Tiên Đoán Tai Ương cam đoan. – Là bởi không một ai muốn thú nhận mình đã lấy mẩu xúc xích, cho dù mụ Maduskan có nhảy chồm chồm và gào thét điên cuồng đến đâu. Nhưng một số người lại cho rằng chẳng qua mụ bịa ra như thế để lấy cớ giữ lại những miếng ngon cho mình. Dù thế nào thì đó cũng là một ngày Giáng sinh mà quả thật khi nghĩ đến thì ngay những thiên thần của Chúa cũng phải khóc, – cụ bà Ulla – Tiên Đoán Tai Ương nói.

Suốt hôm đó mụ Maduskan ngồi lì trên căp xép áp mái, bên chiếc bàn thắp nến lung linh mà chén liền tù tì nào xúc xích, thịt băm viên, rồi đùi lợn muối và bánh Giáng sinh, ních nhiều đến nỗi bụng căng muốn nổ tung. Trong khi ở gian dưới của trại tế bần, những kẻ khác ngồi khóc và chỉ có một tí cá muối bỏ vào mồm, cho dù đang lễ Giáng sinh.

Ngày hôm sau vẫn tệ như thế. Mụ Maduskan hơn một lần thề rằng chừng nào tên ăn cắp xúc xích chưa chịu thò mặt ra thú tội thì không kẻ nào được nhận dù chỉ một nửa viên viên thịt băm. Và trong lúc chờ đợi mụ lại leo tót lên căn xép ăn lấy ăn để, chẳng thèm trò chuyện với ai. Cứ một tiếng một lần, cụ bà Ulla lại nhòm qua lỗ khoá quan sát và chứng kiến tất cả lần lượt chui vào cái mồm rộng ngoác của mụ. Nhưng bây giờ hình như mụ Maduskan sợ rằng cụ Stolle–Jocke đã đến trang trại Katthult để tố cáo mụ, vì vậy mụ bảo cụ bà Ulla phải lập tức lôi cổ cụ Stolle–Jocke về nhà – bất kể còn sống hay đã chết.

- Thế nên có lẽ tốt hơn là chúng ta về nhà thôi, ông Jocke, – cụ bà Ulla nói.

- Phải đấy, ông ạ, – chú Alfred cũng bảo. – Người nghèo bao giờ cũng thua thiệt!

Emil không nói gì. Nó ngồi trên chiếc hòm gỗ, nghiến răng trèo trẹo. Cụ Jocke và cụ Ulla đã đi khỏi từ lâu mà nó vẫn ngồi đó, và người ta nhận thấy nó đang nghĩ ngợi. Cuối cùng nó đấm tay xuống chiếc hòm gỗ và nói:

- Anh biết ai sẽ mở tiệc rồi!

- Ai thế ạ? – Bé Ida hỏi.

Emil lại đấm tay lần nữa xuống chiếc hòm gỗ.

- Anh! – Nó đáp. Đoạn nó kể bữa tiệc sẽ như thế nào. Sẽ là bữa tiệc ồn ào náo nhiệt, vì bây giờ tất cả những người ở trại tế bần làng Lönneberga sẽ được mời đến trang trại Katthult này, thậm chí ngay lập tức!

- Vâng, nhưng mà anh Emil, anh chắc đây không phải là một trò nghịch dại đấy chứ? – Bé Ida sợ hãi hỏi.

Chú Alfred cũng sợ và nghĩ đây là một trò nghịch dại. Nhưng Emil cam đoan với chú rằng không phải. Đây là một việc làm tốt, và ngay đến các thiên thần của Chúa cũng sẽ phải vỗ tay hoan hô, giống như đã từng phải khóc trước lễ Giáng sinh khốn khổ của các cụ ở trại tế bần.

- Mẹ cũng sẽ vui cho mà xem, – Emil nói.

- Vâng, nhưng còn bố……. – bé Ida rụt rè nói.

- Hừm, – Emil tư lự. –Nhưng dù thế nào thì đây cũng không phải là trò nghịch dại. –Nói rồi nó lại im lặng và ra chiều nghĩ ngợi.
- Nhưng lôi được tất cả bọn họ ra khỏi cái hang của mụ sư tử ấy mới là điều khó nhất, – Emil nói. – Nào, chúng mình tới đó thử xem! Lúc này mụ Maduskan đã tọng hết xúc xích, thịt băm viên, đùi lợn muối, thịt hun khói, rồi cả chỗ bánh Giáng sinh còn lại cũng như những chiếc bánh quế cuối cùng vào bụng. Mụ còn hít lấy hít để chỗ thuốc lá ngửi lẽ ra sẽ là của cụ Stolle–Jocke. Giờ đây mụ ngồi trong gian buồng áp mái và cảm thấy khổ sở, như người ta vẫn thường cảm thấy mỗi khi đã làm điều gì không phải, hơn nữa lại còn ăn hơi nhiều thịt băm viên. Xuống dưới nhà với đám già kia thì mụ không muốn. Bọn họ cứ thở dài sườn sượt và cứ giương mắt nhìn mụ mà chẳng nói chẳng rằng.

Đang ngồi rầu rĩ thì mụ nghe có tiếng gõ cửa bên ngoài. Mụ vội lật đật xuống thang xem ai.

Đứng ngoài cửa té ra là Emil. Thằng bé Emil ở trang trại Katthult. Mụ đâm hoảng. Chắc lão Stolle–Jocke và mụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương đã mách lẻo gì rồi, nên thằng bé Emil mới mò tới tận đây.

Nhưng Emil bé bỏng chỉ cúi chào lễ phép và hỏi:

- Lần trước đến đây cháu có bỏ quên con dao nhíp của cháu không ạ?

Thử nghĩ xem Emil có láu cá không cơ chứ? Con dao nhíp của nó vẫn nằm nguyên trong túi quần mà. Nhưng Emil cần kiếm cớ để vào trại tế bần nên bịa ra câu hỏi này.

Mụ Maduskan cam đoan rằng bọn họ không hề thấy con dao nhíp nào cả. Thế là Emil bèn hỏi:

- Món xúc xích có ngon không ạ? Cả món thịt đông và những món khác nữa.

Mụ Maduskan cụp măt, ngó đăm đăm xuống hai bàn chân to bè của mụ.

- Có chứ, có chứ, – mụ vội đáp. – Phải bà mẹ đáng mến của cậu ở trang trại Katthult……… bà ấy rất biết người nghèo cần gì. Cho tôi gửi lời chào thắm thiết đến bà ấy nhé!

Lúc này Emil muốn nói ra điều nó định nói, cũng chính là lý do mà nó đến đây. Tuy nhiên nó làm như thể tiện mồm thì nói chứ chẳng có gì quan trọng.

- Bố mẹ cháu đang dự tiệc Giáng sinh ở Skorphult,– nó nói.

Mụ Maduskan nổi tò mò.

- Vậy hả, hôm nay ở Skorphult có tiệc hả? Thế mà ta không biết đấy.



Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 09:59 PM
Phải, nếu biết thì bà đã chẳng mò đến đó từ lâu rồi. Emil nghĩ. Cũng như mọi dân làng Lönneberga, Emil biết tỏng là hễ biết bất kỳ ở đâu có tiệc, y như rằng mụ Maduskan lù lù dẫn xác đến trước nhà bếp. Và đừng hòng mụ chịu rời bước nếu chưa nhận được ít nhất là một miếng bánh pho mát. Mụ sẵn sàng lao qua lửa vì bánh pho mát. Và nếu bạn từng dự một bữa tiệc ở làng Lönneberga, thì bạn cũng biết rõ như mụ Maduskan rằng trên bàn ở đây xếp cả dãy âu đồng sáng loáng đựng đầy bánh pho mát mà khi tàn tiệc thực khách sẽ được biếu đem về, coi như “chút lộc” – như dân làng Lönneberga thường gọi.

- Mười bảy ổ bánh phô mai, – Emil nói. Bà nghĩ sao ạ?

Emil làm sao biết được liệu ở trang trại Skorphult có tới mười bảy ổ bánh phô mát hay không. Nó cũng không khẳng định điều đó, vì không muốn nói dối. Vì vậy mà nó chỉ ranh mãnh nói bâng quơ. “Mười bảy ổ bánh phô mát, bà nghĩ sao ạ?”

- Phải, ta cũng đang muốn biết đây, – mụ Maduskan đáp.

Rồi Emil bỏ đi. Nó đã làm xong việc cần làm. Nó biết chậm nhất chỉ nửa giờ nữa, mụ Maduskan sẽ lên đường đến trang trại Skorphult.

Và Emil đã tính toán đúng. Cùng chú Alfred và bé Ida nấp sau đống củi lớn, nó thấy mụ Maduskan quấn chiếc khăn quàng rõ dày, tay khoác cái bị ăn xin, ra khỏi nhà: mụ sắp đánh đường đến Skorphult. Nhưng – có ai hình dung nổi một mụ phù thủy như mụ chăng? – Mụ khóa trái cửa và lặn chiếc chìa khóa vào người. Mụ đã nghĩ ra trò quái quỷ gì vậy! Giờ đây những con người khốn khổ kia đã bị giam như trong nhà ngục. Và hẳn mụ Maduskan đắc chí cho rằng làm thế là phải. Lão Stolle–Jocke thế nào chẳng tìm cách thoát ra và mụ muốn cho lão biết ở đây ai là người có quyền và lão đừng hòng giỡn mặt ai!

Rồi với tốc độ nhanh nhất mà cặp giò mập ú của mụ cho phép, mụ Maduskan tất tả chạy về hướng Skorphult.

Emil đi đến lay lay cánh cửa và nhận thấy cửa được khóa rất kỹ. Cả chú Alfred và bé Ida cũng góp một tay, nhưng cửa đã khóa trái và không tài nào giật ra được.

Tất cả ông lão bà lão sống trong trại tế bần đổ xô đến bên cửa sổ, hoảng hốt trân trối nhìn ba chú cháu lúc bấy giờ đứng bên ngoài đang tìm cách vào trong. Emil gọi:

- Các ông các bà hãy đến trang trại Katthult để ăn tiệc! Chỉ cần các công các bà ra khỏi đây thôi ạ!

Trong nhà lời qua tiếng lại bắt đầu nổ lên rào rào như trong tôt ong. Tiếng động có một không hai, kỳ lạ, đồng thời toát lên một nỗi khốn khổ đến tuyệt vọng, vì họ đang bị nhốt trong đó và không biết làm cách nào để thoát ra ngoài.

Có thể bây giờ bạn sẽ nói: Tại sao họ không mở cửa sổ mà trèo ra, có khó gì nhỉ? Người ta liền nhận thấy bạn chẳng biết tí gì về lớp cửa sổ bên trong cả. Vào mùa Đông không thể mở một cánh cửa sổ nào của trại tế bần cũng vì lớp cửa sổ bên trong này. Lớp cửa sổ bên trong bị đóng đinh rất chắc, hơn thế nữa người ta còn dán những băng giấy bịt dọc theo khung cửa để gió không lọt vào được.

Thế thì làm sao lưu thông khí trong nhà? Có thể bạn sẽ hỏi. Bạn nhỏ thân mến ơi, sao bạn có thể đặt một câu hỏi ngốc nghếch thế cơ chứ! Có ai bảo người ta thường thông khí trong trại tế bần đâu? Chẳng ai thèm quan tâm đến việc điên rồ đấy, vì chẳng ai khao khát thêm không khí trong lành ngoài một tí tẹo khí trời lọt qua đường ống khói, qua những kẽ hở trên tường và sàn nhà.

Không, những con người khốn khổ đó không thể ra qua lối cửa sổ! Kể ra cũng có một cửa sổ mở được, nhưng ở tận trên căn buồng áp mái của mụ Maduskan cơ. Nhưng chẳng ai trong số các cụ ở trại tế bần bụng đang đói meo có thể nhảy từ độ cao bốn mét từ trên đó xuống để đi ăn tiệc cả– thế có khác nào nhảy lên thiên đường chầu trời, ai cũng biết thế.

Nhưng đời nào Emil chịu bó tay trước những việc cỏn con như thế. Quả nhiên nó tìm được một cái thang dấu dưới kho củi, bèn bắc thang cửa sổ áp mái mà cụ Ulla đã vui sướng mở toang hai cánh. Chú Alfred trèo lên thang. Chú to cao, khỏe mạnh, với chú thì việc vác các cụ già thấp bé nhẹ cân nhẹ tựa lông hồng. Các cụ cũng than những tiếng “ồ, à”, nhưng rốt cuộc đều “hạ cánh” an toàn cả. Mỗi cụ bà Salia Amalia ở lại. Cụ không dám và cũng không muốn đi. Nhưng cụ Vibergsche hứa sẽ ra sức tha thật nhiều thức ăn về cho bạn, thế là cụ Salia Amalia hài lòng.

Nếu trong ngày Giáng sinh này có ai đi xe ngựa dọc đường đến trang trại Katthult vào lúc trời chiều chạng vạng, hẳn sẽ tin rằng đang nhìn thấy một đoàn các bóng ma xám xịt vừa thở hào hển vừa cà nhắc cà nhót lê chân trên triền đồi thẳng hướng Katthult. Mà quả thật trông họ rất ma quái trong những bộ cánh rách rưới, những cụ già đáng thương này, nhưng họ đang vui như chim và hân hoan tựa trẻ nhỏ. Ôi trời, ôi trời! Lần cuối cùng họ được có mặt trong tiệc Giáng sinh đã xửa xưa lắm rồi! Họ vui sướng khi nghĩ đến việc mụ Maduskan lát nữa quay về sẽ chỉ thấy khu trại tế bần trống không, chỉ còn lại trơ trọi một sinh linh tội nghiệp, ấy là cụ bà Salia Amalia.

- Hihi, đáng đời mụ! – Cụ Johann – Một Xu nói, – Hi hi, thế là mụ trơ thân mụ mà không có chúng ta! Cho mụ nếm mùi cô đơn!
Ai nấy đều cười hể hả. Nhưng sau đó, khi họ bước vào bếp của trang trại Katthult và Emil thắp lên năm ngọn nến to, ánh nến phản chiếu trên những chiếc chảo đồng vừa mới cọ sáng choang treo trên tường làm mọi vật trở nên lung linh huyền ảo, thì họ bỗng im phăng phắc, còn cụ Stolle–Jocke cữ ngỡ mình đang ở trên thiên đàng.

- Xem kìa, ấy là ánh sáng và phước lành vô biên… – cụ nói và bật khóc.

Vì cụ Jocke luôn khóc khi quá vui hay quá buồn. Nhưng Emil đã bảo:

- Chúng ta vào cuộc thôi! Và họ bắt đầu vào cuộc, Emil, chú Alfred và bé Ida bưng lên tất cả những gì có thể tha được từ kho thực phẩm ra. Và bây giờ bạn cần biết trên bàn ăn của trang trại Katthult có những gì sau khi chú cháu họ đã bày ra hết.

Này nhé:

một liễn dồi tiết
một liễn xúc xích lợn
một liễn thịt muối
một liễn pate gan
một liễn xúc xích hun khói
một liễn thịt băm viên
một liễn thăn bê
một liễn sườn lợn nướng
một liễn xúc xích rán để nguội
một liễn dồi gan mới làm
một liễn xa–lát cá
một liễn thịt hun khói
một liễn lưỡi bò dầm muối
một chảo tướng đùi lợn muối Giáng sinh
một chảo tướng phô mai Giáng sinh
một giỏ bánh mì trắng một giỏ bánh mì ngọt
một giỏ bánh mì lúa mạch
một can nước ép quả tươi

một can sữa tươi
một liễn cháo tấm kiều mạch
một khay bánh pho mát
một tô mận bỏ lò
một khay bánh táo
một liễn kem tươi một tô mứt dâu tây
một tô mứt lê

một chú lợn sữa nhỏ quay nguyên con, hai mắt gắn hai viên kẹo đường màu trắng.


Tôi nghĩ đó là tất cả. Tôi không thể quên quá ba món, nhiều lắm là bốn món, ừ, mà thôi để chắc chắn, cứ cho tôi quên quá 5 món đi…. còn lại tôi đã liệt kê ra hết rồi đấy.

Các cụ già của trại tế bần làng Lönneberga ngồi quanh bàn, họ ngồi chờ đợi rất kiên nhẫn, nhưng cứ mỗi chiếc liễn được bưng ra là một lần họ cảm động đến rớt nước mắt.

Cuối cùng Emil nói:

- Xin mời các cụ! Ta nhà vô thôi!

Thế là họ nhào vô thật, họ ăn rào rào.

Chú Alfred, Emil và bé Ida cũng ăn. Bé Ida không nuốt được quá mấy viên thịt băm, vì nó bắt đầu băn khoăn. Nó bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải việc không nên làm. Nó chợt nhớ là ngày mai, tức ngày thứ ba của lễ Giáng sinh, những người họ hàng từ Ingatorp định đến trang trại Katthult. Vậy mà thức ăn cho bữa tiệc ngày mai đã bị chén sạch từ hôm nay. Nó nghe xung quanh tiếng cắn rau ráu, tiếng húp sụp soạp và tiếng nhai chóp chép. Cứ như thể có một bầy thú ăn thịt đang sà xuống những cái liễn, những tô và những can đồ ăn thức uống vậy. Bé Ida hiểu rằng chỉ có những ai đói khát thực sự mới ăn uống như vậy, nhưng nó vẫn sợ. Nó kéo ông tay áo Emil, thì thầm để không ai ngoài Emil nghe được.

- Anh chắc đây không phải trò nghịch dại đấy chứ? Nên nhớ mai là ngày họ hàng nhà mình ở Ingatorp đến đấy!

- Họ đủ béo rồi, – Emil thản nhiên đáp. – Hẳn thức ăn chảy vào đâu có ích thì vẫn hơn.

Nhưng sau đó nó cũng hơi lo lo, vì xem ra sau khi bữa tiệc này tàn sẽ không còn lại nổi dăm lạng thịt băm viên. Những gì không chui được vào mồm thì cũng chui vào nào túi, nào ruột tượng, loáng cái cả liễn lẫn tô đã sạch nhẵn.

- Giờ tôi đã tổng càn quét xong món sườn lợn, – cụ Kalle–Carô vừa nói vừa giẫm mẩu xương cuối cùng.

- Còn tôi tổng càn quét món xa–lát cá muối, – cụ Fia–Tổ đỉa nói.

Họ nói “tổng càn quét” có nghĩa là họ vét sạch mọi thứ khiến các liễn thức ăn giờ đây nhẵn như chùi.

- Bây giờ chúng ta đã tổng dọn dẹp hết mọi thứ rồi, – cuối cùng cụ Niklas–Ve chai tuyên bố, và chưa bao giờ cụ tả được một câu thực hơn thế.

Bởi vậy mà sau này bữa tiệc mãi mãi được gọi là “cuộc tổng càn quét ở Katthult”, vì bạn phải biết rằng rất lâu sau dân làng Lönneberga và các thôn khác vẫn còn kháo nhau hoài về chuyện đó.

Lúc này còn duy nhất một thứ là chú lợn sữa quay giòn. Chú đứng trên bàn, hai con mắt bằng hai viên kẹo trân trối nhìn với vẻ rầu rĩ.

- Ui chao, trông con lợn chẳng khác gì một con tiểu yêu, – cụ Fia–Tổ đỉa nói. – Tôi hãi chạm vào nó lắm!

Chưa bao giờ cụ thấy lợn quay nguyên con cả, các cụ khác cũng vậy. Vì vậy mà các cụ như có phần kính nể con lợn, không động đến nó.

- Chắc chẳng còn chiếc xúc xích nhỏ nào đâu nhỉ? – Cụ Kalle–Carô nói, sau khi tất cả các liễn đã sạch nhẵn. Nhưng Emil đáp rằng khắp trang trại Katthult chỉ còn một chiếc xúc xích nhỏ được găm ở đầu một cái que trên cái bẫy sói của nó. Và chiếc xúc xích phải ở lại đó làm mồi nhử con sói mà Emil đang đợi. Không, cụ Kalle không được ăn chiếc xúc xích đó, các cụ khác cũng vậy.

Bỗng cụ bà Vibergsche kêu lên:

- Còn bà Salia Amalia! Chúng ta quên mất bà ấy!

Cụ nháo nhác nhìn quanh tìm lời khuyên, và dừng mắt ở con lợn quay.

- Chắc có thể đề phần thứ đó cho bà ấy chứ, cụ bà Amalia ấy mà? Mặc dù trông nó như một con ma. Hay cháu nghĩ sao hở, Emil?

- Vâng, hẳn phải để phần con lợn cho bà ấy thôi, – Emil thở dài đáp.

Lúc này tất thảy bọn họ đều no đến nỗi không nhúc nhắc nổi nữa. Họ hoàn toàn không còn khả năng tự tha thân xác trên đôi chân của mình trở về trại tế bần.

0 Chắc chúng ta phải dùng cỗ xe trượt thôi, – Emil nói.

Và họ đã làm thế. Trang trại có một cỗ xe trượt rất to bằng gỗ dài, nhưng dùng để tải trượt đó có thể tha hồ chở các cụ trại tế bần, dù rằng lúc này các cụ có ngẫu nhiên béo hơn bình thường một chút.

Trời đã tối, trên trời lấp lánh các vì sao. Trăng rằm cũng lửng lơ treo, và tuyết trải trắng cả vùng. Thời tiết mới êm dịu và tuyệt vời làm sao! Đúng là một buổi tối lý tưởng để đi xe trượt. Emil và chú Alfred đỡ tất cả các cụ lên xe. Cụ Vibergsche ôm con lợn ngồi ở đầu xe, sau đó lần lượt đến các cụ khác, tít sau cùng là bé Ida, Emil và chú Alfred.

- Lên đường nào! – Emil thét to.

.

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 10:00 PM
Thế là cỗ xe trượt lao xuôi xuống triền đồi Katthult, khiến tuyết tung trắng xóa và các cụ trên xe rú lên hoan hỉ, vì lần cuối cùng họ được đi xe trượt đã xa xưa lắm rồi. Ồ, họ hò reo mới khiếp chứ! Mỗi chú lợn quay là đứng im lìm trong tay cụ Vibergsche.

Nào, còn mụ Maduskan, nãy giờ mụ làm gì nhỉ?

Phải, bạn cần phải nghe chuyện này. Tôi ước gì bạn trông thấy mụ khi mụ từ Skorphult trở về, trở về từ cuộc săn bánh pho mát của mụ! Nhìn xem mụ về tới nơi trong chiếc khăn choàng len màu xám của mụ, béo tốt và thỏa mãn, xem mục móc chìa khóa ra và tra vào ổ – mụ gừ gừ vui sướng khi nghĩ đến những kẻ đáng thương trong kia giờ đã trở nên khiêm nhường và ngoan ngoãn thế nào. Phải, phải, cuối cùng chúng cũng nên biết ở đây ai là người quyết định. Đương nhiên bao giờ cũng là ta!
Lúc này mụ vặn chìa khóa, bước qua ngưỡng cửa, vào đến hành lang – nhưng sao im ắng thế này! Chúng ngủ rồi chăng? Hay chúng chỉ biết gục đầu ủ rũ trong ấy? Ánh trăng rọi qua cửa sổ, mọi góc nhà đều sáng – sao mụ không trông thấy một sinh vật sống nào? Là vì ở đó làm gì có ai! Không, khốn nạn thân mụ, chẳng có ma nào ở trong nhà cả!

Mụ Maduskan bắt đầu run bắn toàn thân, cả đời mụ chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Ai có thể đi qua những cánh cửa khóa chặt chứ? Không ai ngoài những thiên thần của Chúa trên trời….. Phải, chắc đúng thế rồi! Những kẻ nghèo túng bị mụ lừa chiếm hết xúc xích, thịt viên và thuốc lá ngửi, giờ đã được các thiên thần của Chúa đem đến một nơi tốt đẹp hơn là trại tế bần. Chỉ có mụ là khốn khổ khốn nạn, bị bỏ lại nơi đây, ôi khốn thay thân mụ, khốn thân mụ quá! Mụ Maduskan khóc hú lên như một con chó. Nhưng sau lưng mụ, một tiếng nói bỗng cất lên từ dãy giường, từ một sinh linh nhỏ bé đáng thương đang rúc dưới tấm chăn.

- Sao bà lại khóc? – Cụ Salia Amalia hỏi.

Mụ Maduskan lấy lại bình tĩnh mới nhanh làm sao. Và cũng thật mau lẹ, mụ ép cụ Amalia khai hết cả ra. Mụ Maduskan biết cách làm chuyện ấy. Loáng cái, mụ đã lên đường đến trang trại Katthult. Bây giờ họ phải về nhà. Phải làm sao về thật nhanh và lặng lẽ, để dân làng Lönneberga không biết mà đàm tiếu ầm ĩ về toàn bộ câu chuyện chẳng có gì là hay ho này.

Trang trại Katthult tuyệt đẹp dưới ánh trăng. Mụ thấy ánh sáng hắt ra từ ô cửa sổ bếp như từ rất nhiều ngọn nến. Nhưng bây giờ mụ bỗng cảm thấy xấu hổ và không còn dám thò mặt vào. Thoạt tiên mụ định nhòm vào xem có đúng ngồi trong đó và đang đánh chén hay không. Nhưng mụ cần có cái gì để kê mà trèo lên, một chiếc hòm gỗ hoặc vật gì đấy tương tự, nếu không mụ có kiễng chân mấy cũng chẳng nhòm vào được.

Mụ bèn đi vòng xuống xưởng mộc. Biết đâu lại chẳng kiếm được thứ gì đó ở đây.

Mà mụ kiếm được thật. Không phải hòm gỗ. Mụ tìm thấy một cái xúc xích! Ai mà ngờ được chứ? Ngay dưới ánh trăng, giữa mênh mông tuyết, mụ lại tìm thấy một cái xúc xích nhỏ xiên ở đầu một cái que. Lúc này mụ đã no đến đến nứt bụng vì ăn bánh pho mát, nhưng mụ cũng biết con người ta mau đói trở lại lắm, và họa có điên mới để nguyên một cái xúc xích nằm thiu ra ở đấy, mụ Maduskan nghĩ. Mụ bèn bước lên một bước, một bước dài duy nhất.

Ngày xưa ở vùng Smăland người ta vẫn bẫy sói như thế.

Lúc mụ Maduskan sa xuống bẫy cũng là lúc bữa tiệc ở Katthult kết thúc, và các cụ ông cụ bà của trại tế bần lục tục kéo nhau đi ra, lên xe trượt để về nhà. Không có tiếng động nào vọng lên từ bẫy sói, vì mụ Maduskan không muốn kêu cứu ngay. Hẳn mụ tin rằng tự mình sẽ leo lên được mà chẳng cần kêu cứu, thế nên mụ lặng thing.

Trong khi ấy, các cụ già ngồi trên cỗ xe trượt lướt nhanh xuống đồi trở về trại tế bần, và các cụ thấy làm lạ khi thấy cửa nhà mở toang. Vừa vào nhà, họ đã lảo đảo quăng mình ngay xuống giường, kiệt sức vì ăn uống và đi xe trượt, nhưng hạnh phúc như chưa từng thấy từ nhiều năm qua.

Emil, bé Ida và bố Alfred trở lại trang trại Katthult dưới ánh trăng rằm và muôn vì nó còn bé.

Nếu bạn đã từng cùng chiếc xe trượt của mình đi trên một con đường mùa đông như thế ở khu vực làng Lönneberga trong một đêm trăng sáng thì bạn sẽ biết không gian lúc đó im ắng đến lạ lùng, dường như cả thế giới đang say ngủ. Và có thể bạn tưởng tượng mức độ bàng hoàng khi giữa lúc đó nghe một tiếng hú kinh khủng. Đúng lúc chú Alfred, Emil và bé Ida – không hề linh cảm chuyện gì tồi tệ – đang cùng đỗ xe trượt leo nốt con dốc cuối cùng thì đột nhiên nghe từ dưới bẫy sói của Emil một tiếng hú có thể khiến cho máu của bất kỳ ai đông cứng lại trong huyết quản. Bé Ida tái mét mặt và trong phút đó bé khao khát có mẹ ở bên biết chừng nào. Nhưng Emil thì không! Nó nhảy cẫng lên vì vui sướng.

- Một con sói trong bẫy của cháu! – Nó reo lên. – Ồ, “sún” của cháu đâu rồi?

Họ càng tiến đến gần, tiếng hú càng ghê rợn, nó vang dội khắp trang trại Katthult, khiến người ta có thể ngỡ như cả khu rừng đầy những con sói đang đáp lại tiếng kêu than của con sói bị sa bẫy.

Nhưng chú Alfred bảo:

- Tiếng hú của con sói này lạ sao ấy! Nghe mà xem!

Ba chú cháu đứng im dưới ánh trăng và lắng nghe tiếng hú ghê rợn của con sói.

- Cứu! Cứu! Cứu! – Con sói tru lên.

Mắt Emil sáng rỡ.

- Người sói! – Nó reo. – Nhưng thật ra cháu không tin đó là người sói đâu nhé.

Chỉ vài bước chạy nó đã tiến đến miệng bẫy trước cả chú Alfred và bé Ida. Và nó trông thấy mình đã bẫy được con sói như thế nào. Nói chung không phải là người sói, mà chỉ là mụ Maduskan khốn khổ. Emil nổi giận – mụ có gì để tìm kiếm dưới bẫy sói của nó cơ chứ! Nó đã muốn bẫy một con sói thực thụ kia mà! Nhưng rồi nó nghĩ lại. Có thể việc mụ Maduskan bị sa xuống bẫy sói của nó cũng có một ý nghĩa nào đó! Nó nghĩ xem liệu có thể nhân cơ hội này thuần hóa mụ một tí, để mụ ít nhiều tử tế hơn và không độc ác nữa. Phải, nó nghĩ xem có nên dạy cho mụ biết ăn nói nhẹ nhàng được chăng. Vì mụ Maduskan cần điều đó. Thế nên Emil thét gọi chú Emil và bé Ida.

Lại đây nào! Lại đây mà xem một con thú dữ xấu xí và độc ác!

Rồi cả ba chú cháu cùng đứng trên miệng hố ngó xuống mụ Maduskan trông gần giống một con sói trong chiếc khăn choàng len màu xám của mụ.

- Anh có chắc đây là một người sói không? – Bé Ida run giọng hỏi.

- Tin anh đi! – Emil đáp. – Đây là một người sói cái ác độc, và người sói là loài nguy hiểm nhất trên đời.

- Phải, vì chúng rất tham lam, – chú Alfred phụ họa.

- Tất nhiên, cứ nhìn con này mà xem, – Emil nói. – Đời nó đã nuốt bao nhiêu con mồi. Nhưng bây giờ sẽ chấm dứt. Đưa cháu khẩu “sún” nào, chú Alfred!

- Ô kìa, ô kìa, Emil bé bỏng, cháu không nhận ra ta là ai sao? – Mụ Maduskan vội vã kêu lên thất thanh. Nghe Emil nhắc đến “sún” của nó, mụ sợ mất mạng. Mụ đâu có biết đó chỉ là một khẩu súng đồ chơi bằng gỗ mà chú Alfred đã đẽo cho Emil.

- Chú Alfred, chú có nghe con người sói nói gì không? – Emil hỏi.

- Cháu chẳng nghe thấy gì sất! Chú Alfred lắc đầu:

- Không, chú cũng không nghe thấy.

- Hơn nữa cháu cũng không quan tâm, – Emil nói. – Đưa cháu khẩu “sún” đi

Thế là mụ Maduskan thét lên, hoàn toàn tuyệt vọng.

- Các ngươi không nhận ra bà già này hay sao?

- Nó nói gì thế? – Emil nói to. – Nó hỏi về bà dì của nó ạ?

- Ừ, nhưng chúng ta đâu có trông thấy bà dì nào, – chú Alfred đáp.

- Đúng vậy, may quá cả bà nội nó mình cũng không trông thấy, – Emil nói.

- Nào, đưa cháu khẩu “sún”, chú Alfred! Thế là mụ Maduskan bắt đầu khóc lóc ầm ĩ.

- Bây giờ các ngươi thật quá đáng, – mụ khóc nức nở.

- Các người muốn không để ta yên chứ gì?

- Nó nói gì đấy ạ? – Emil hỏi. – Nó muốn thịt băm viên à?

- Ừ, nhưng chúng ta không còn thịt băm viên. – Chú Alfred đáp.

- Vâng, khắp vùng Smăland này chẳng bói đâu ra thịt băm viên nữa, – Emil nói.

- Có bao nhiêu thì mụ Maduskan đã nuốt hết rồi còn gì.

Lúc này mụ Maduskan còn khóc dữ hơn trước đấy vì mụ hiểu rằng Emil đã biết mụ đối xử tệ thế nào với ông Stolle–Jocke và những người nghèo khác trong trại tế bần. Mụ khóc lóc thảm thiết sao cho Emil động lòng thương mụ, vì cậu bé vốn có tấm lòng nhân hậu. Nhưng nếu muốn tình hình ở trại tế bần tốt lên, thì không được để mụ Maduskan dễ dàng thoát khỏi đây, nghĩ vậy nên Emil nói:

- Này chú Alfred, nếu nhìn con sói này kỹ hơn thì chú có nghĩ là nó có nét gì đó giống với bà Maduskan ở trại tế bần không ạ?

- Không, làm gì có chuyện ấy, – chú Alfred đáp. – Bà ta còn tệ hại hơn cả lũ người sói ở khắp vùng Smăland cộng lại ấy chứ.

- Vâng, tất nhiên rồi, – Emil tán thành. – Chắc chắn so với bà Maduskan thì lũ người sói chỉ là lũ cún con hiền lành dễ thương. Vì bà ta không bao giờ tha cho ai điều gì. Hơn nữa cháu tự hỏi không biết kẻ nào đã ăn cắp chiếc xúc xích nhỏ trong tủ của bà ta.
– Đấy là tôi, – mụ Maduskan kêu lên.

- Đấy là tôi mà! Tôi sẽ thú nhận hết, chỉ cần các người giúp tôi lên khỏi đây!

Thế là chú Alfred và Emil nhìn nhau mỉm cười.

- Chú Alfred, – Emil nói. –Mắt mũi chú để đi đâu vậy? Chú không thấy đây là bà Maduskan chứ không phải người sói à?

- Ôi trời đất ơi, – chú Alfred thốt lên. – Sao chúng ta lại có thể nhầm lẫn thế cơ chứ?

- Vâng cháu cũng chẳng hiểu tại sao. Tất nhiên là trông họ giống nhau, đành là thế, nhưng như cháu biết thì người sói không choàng khăn.

- Ừ, chác chắn là không rồi! Nhưng sói cũng có ria mép chứ, đúng không nhỉ?

- Thôi nào, chú Alfred, bây giờ chú phải tử tế với bà Maduskan chứ, – Emil nói.– Chú đi lấy một cái thang lại đây!

Vừa nhận cái thang được thả xuống, mụ Maduskan bèn hổn hển leo lên. Đoạn mụ ù té chạy, chạy đến rẽ cả tóc, vì mụ chỉ muốn rời xa Katthult càng nhanh càng tốt, mãi mãi. Mụ không bao giờ còn muốn đặt dù chỉ một bàn chân đến đấy. Nhưng trước khi biến mất sau sau khúc ngoạt, mụ ngoái lại kêu to:

- Phải, chính tôi đã ăn cắp chiếc xúc xích đó! Chúa tha tội cho tôi, nhưng vào đêm Giáng sinh tôi lại quên mất điều ấy. Tôi thề là tôi đã trót quên mất.

- Vậy thì việc bà ta được ngồi dưới kia một lúc cũng tốt, để bà ta lại sực nhớ ra, – Emil nói. – Dù sao thì cái hố bẫy sói cũng không hoàn toàn vô dụng.

Phần mụ Maduskan thì – trong chừng mực cặp giò mập ú của mụ cho phép – ba chân bốn cẳng chạy xuống triền đồi. Khi về tới trại tế bần, mụ gần như không thở nổi nữa. Lúc này tất cả đều đã ngủ trên chiếc giường đầy chấy trong thùng, và trong trường hợp khẩn cấp thì món thịt lợn rán với khoai tây và nước sốt hành vẫn có thể được bầy ra mời ngay cả một vị hoàng đế.

Nhưng tối hôm đó, khi ghi chép vào cuốn vở màu xanh, mẹ của Emil thật buồn bã – phải thừa nhận như thế – và trên trang vở hôm ấy vẫn còn những vết loang, như thể ai đó đã khóc và nước mắt nhỏ xuống đó.

“Ngày Giáng sinh thứ hai, buổi tối, trong nỗi khổ tâm của tôi,” là tiêu đề của trang viết. Sau đó thì: “Hôm nay thằng bé ngồi cả ngày trong xưởng mộc, đứa con tội nghiệp của tôi. Thực ra thằng bé chắc chắn là đứa bé ngoan đạo, mặc dù đôi khi tôi nghĩ nó quá ư điên rồ.”

Nhưng cuộc sống ở Katthult vẫn tiếp tục. Chẳng mấy chốc mà Đông qua, xuân tới. Emil thường xuyên ngồi trong xưởng mộc, nếu không thì chơi với bé Ida hoặc cưỡi con Lukas, hoặc làm xà ích cho cỗ xe chở sữa, hay chọc tức cô Lina, trò chuyện với chú Alfred và luôn luôn bày những trò nghịch ngợm mới, những trò khiến cho cuộc sống của nó – từ sáng đến tối – trở nên phong phú và không buồn tẻ. Vào đầu tháng Năm thì Emil – cái thằng bé chăm chỉ này! – đã có không dưới một trăm hai nhăm hình nhân bằng gỗ để trên giá trong xưởng mộc.

Chú Alfred không bày trò nghịch ngợm, và dù sao chú cũng có nỗi lo của riêng mình, vì chú vẫn chưa dám nói cho cô Lina biết chú không muốn cưới cô.

- Chắc để cháu nói cho thì hay hơn, – Emil đề nghị, nhưng chú Alfred không nghe.

- Chú đã giải thích với cháu rồi, phải lựa lời nói sao cho thật khéo để cô ấy khỏi buồn.

Chú Alfred có một tâm hồn nhân hậu, nhưng chú không biết ăn nói với cô Lina ra sao. Thế nhưng vào một chiều thứ Bảy đầu tháng Năm, khi cô Lina ngồi trên bậc tam cấp trước căn lán của đầy tớ nam và lì lợm chờ chú Alfred ra kỳ được để làm trò hò hẹn với cô, thì chú Alfred quyết định phải nói ra cho xong. Thế là chú từ trong nhà thò đầu ra cửa sổ, cúi gập người xuống gọi cô:

- Nghe này, Lina! Đây là chuyện mà lâu nay anh muốn nói với em!

Cô Lina cười khúc khích. Hẳn bây giờ chú sẽ nói cái điều mà cô muốn nghe.

- Gì vậy, Alfred yêu quý của em? – Cô đáp. – Anh muốn bảo gì em cơ?

– Phải, cái trò cưới xin mà chúng ta đã nói đến ý mà, cô nghe đấy chứ, quẳng quách nó đi! Cứt lắm!

Chú nói thế đấy, chú Alfred đáng thương! Phải kể lại điều này thật khủng khiếp. Thật ra tôi cũng không muốn kể lại, vì tôi không muốn dạy cho bạn thêm những từ ngữ khó nghe ngoài những từ ngữ thô lỗ mà bạn đã biết. Nhưng bạn phải hiểu rằng chú Alfred chỉ là một đầy tớ nghèo ở làng Lönneberga, chứ bạn thì không thế. Chú ấy không thể nói năng lịch sự hơn, mặc dù đã nghĩ rõ là lâu, tưởng đến nát cả óc – cái chú Alfred tội nghiệp đó!

Nhưng cô Lina không buồn.

- Anh nghĩ thế, hả? – Cô đáp. – Được, rồi anh sẽ biết!

Trong khoảnh khắc đấy chú Alfred hiểu rằng hẳn chú sẽ chẳng bao giờ rũ bỏ nỗi cô Lina. Có điều chiều nay chú muốn được tự do và hạnh phúc. Vì vậy chú cùng Emil đi ra hồ Katthult câu cá măng.

Đấy là buổi chiều đẹp đến nỗi dường như chỉ có ở vùng Smăland. Mọi cây anh đào ở Katthult đều nở hoa, bầy chim sáo hót véo von, đàn muỗi vo ve, còn lũ cá măng thì đớp mồi. Emil và chú Alfred ngồi đó nhìn những cái bấc ở dây câu nổi lên chìm xuống trên mặt nước phẳng lặng. Hai chú cháu chẳng nói gì nhiều nhưng cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Hai chú cháu ngồi đó cho tới lúc mặt trời lặn mới quay về nhà. Chú Alfred xách đám cá măng câu được, còn Emil thổi cây sáo và chú Alfred đã làm cho nó. Họ đi qua cánh đồng cỏ, đi qua con đường mòn uốn mình dưới những rặng lê xanh mướt mùa xuân. Emil thổi sáo hăng đến mức bầy chim sáo cũng phải kinh ngạc, nhưng đột nhiên nó ngừng thổi, bỏ cây sáo khỏi miệng.

- Chú biết mai cháu sẽ làm gì không? – Nó hỏi chú Alfred.

- Chịu, – chú Alfred đáp. – Lại trò nghịch ngợm gì à?

Emil lại đưa sáo lên miệng và thổi. Nó vừa đi vừa thổi sáo và vắt óc suy nghĩ.

- Cháu cũng chẳng biết, – cuối cùng nó nói. Cháu chẳng bao giờ biết trước lát nữa

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 10-9-2011 10:12 PM
Emil đưa thế giới vào quy củ

Khắp làng Lönneberga, khắp cùng Smăland, khắp đất nước Thụy Điển với – ai mà biết được – có khi khắp cả thế gian này, chưa bao giờ có một thằng bé lai bày ra lắm trò nghịch hơn thằng bé Emil mà cách đây rất lâu đã từng sống ở trang trại Katthult, làng Lönneberga thuộc vùng Smăland. Việc thằng bé này lớn lên trở thành chủ tịch hội đồng xã là một trong những điều kỳ diệu của thế giới. Nhưng đúng là nó đã trở thành chủ tịch hội đồng xã, thành người đàn ông tốt nhất làng Lönneberga. Qua đó ta thấy rằng ngay những đứa trẻ tồi tệ nhất cũng sẽ đến lúc trưởng thành, và cùng với thời gian chúng sẽ thực sự nên người. Tôi thấy thật tuyệt khi nghĩ đến điều đó. Bạn cũng thấy vậy, đúng không? Đúng, bởi chính bạn cũng hẳn cũng từng bày ra khối trò nghịch ngợm, tôi hình dung được mà. Không phải vậy sao? Chẳng lẽ tôi có thể nhầm đến thế?

Alma Svensson ở trang trại Katthult – mẹ của Emil – ghi tất cả những trò nghịch ngợm của con và những cuốn vở màu xanh mà bà giấu trong ngăn kéo của mình. Cuối cùng cái ngăn kéo đó nhét đầy vở đến nỗi hầu như không kéo nổi ra nữa. Lúc nào cũng có một cuốn vở bị kẹt nhầu nhĩ và xoay ngang ra. Nhưng đến tận bây giờ những cuốn vở màu xanh vẫn được cất giữ ở đấy, trong chính cái tủ cũ kỹ ấy. Trừ ba cuốn vở mà Emil từng muốn bán cho cô giáo không muốn mua, nên Emil đã xé chúng gấp thuyền giấy đem ra thả trên dòng suối ở Katthult, và sau đó thì không còn ai trông thấy ba cuốn vở đó nữa.
Cô giáo trường mẫu giáo không hiểu tại sao cô cần phải mua những cuốn vở đó của Emil.

- Cô biết làm gì với chúng đây? – Cô ngạc nhiên hỏi.

- Để dạy bọn trẻ con khỏi trở nên kinh khủng như cháu ạ, – Emil đáp.

Phải, phải, Emil tự biết nó là một trái ổi ương tới mức nào, và nếu giả sử có lúc nó quên, thì luôn luôn còn có cô Lina – cô hầu gái ở trang trại Katthult – nhắc cho nó nhớ.

- Gửi cậu đến trường mẫu giáo cũng vô ích thôi, – cô Lina nói, – dạy dỗ cậu còn quá là nước đổ đầu vịt. Ngữ cậu thì chẳng đời nào được lên Thiên đàng…. trừ phi – ừ có thể lắm – trừ khi trên ấy các ngài cần cậu giúp một tay để giáng sấm sét!

Cô Lina nhận thấy Emil đến đâu, là y như rằng ở đó có giông bão.

- Chưa từng thấy một thằng quỷ sứ nhà giời nào như nó, – cô nói, rồi dắt bé Ida, em gái của Emil, cùng đi ra bãi chăn thả, nơi bé Ida được phép hái quả dâu dại trong khi cô Lina vắt sữa bò. Bé Ida bứt hẳn cả cành dâu dại và đem về nhà năm cành trĩu trịt quả. Emil chỉ chén mất của em mỗi hai cành – dù sao nó cũng biết điều đấy chứ.

Nhưng bạn chớ tưởng rằng hình như Emil thích cùng ra chỗ vắt sữa bò với cô Lina và bé Ida. Không, nó muốn tận hưởng nhiều hơn thế, và vì vậy nó vớ lấy “mú” và “sún” của mình, chạy thẳng xuống chuồng ngựa, nhảy lên lưng con Lukas, phi qua bụi dẻ khiến đám cỏ bay tung lên. Emil chơi trò “Husaren Smăland tấn công”. Nó nhìn thấy một bức tranh như thế trên báo và biết phải bắt chước như thế nào.

“Mú”, “sún” và Lukas – đó hẳn là những vật yêu quý nhất mà Emil có trên đời. Lukas là con ngựa của Emil, vâng đúng là con ngựa của nó thật. Nhờ khôn khéo mà Emil nhận được con ngựa ở hội chợ thị trấn Vimmerby. “Mú” là một cái mũ lưỡi trai nhỏ xấu xí màu xanh lam mà bố đã mua cho Emil. Còn “sún” là khẩu súng gỗ mà chú Alfred, đầy tớ trang trại Katthult đã đẽo cho Emil vì nó rất thích. Lẽ ra Emil cũng thừa sức tự đẽo khẩu súng cho mình. Nếu có ai đó khéo tay đẽo gỗ thì đó chính là Emil. Nhưng nó cũng chăm chỉ luyện tập lắm! Chẳng là cứ mỗi lần sau khi Emil bày trò nghịch ngợm thì nó lại bị nhốt vào xưởng mộc, và lần nào nó cũng đẽo một hình nhân nhỏ ngộ nghĩnh. Rốt cuộc nó đã đẽo được cả thảy 369 hình nhân, cho đến nay vẫn giữ được hết – trừ một hình nhân mà mẹ nó đã chôn giấu sau bụi dâu dại, vì trông giống ông mục sư. “Không được phép thể hiện hình ảnh đức cha theo cách này,” mẹ Emil nói.

Phải, giờ bạn đã biết đại khái Emil là người như thế nào. Bạn có biết nó quanh năm gây chuyện, hè cũng như đông, còn tôi, người đã đọc tất cả những cuốn vở màu xanh, sẽ kể cho bạn nghe một số ngày trong cuộc đời của Emil. Bạn cũng sẽ nhận thấy Emil làm được bao nhiêu việc tốt. Phải công bằng và nhắc cả đến những chuyện như vậy, chứ không chỉ kể toàn những trò nghịch ngợm kinh khủng của thằng bé. Hơn nữa không phải tất cả các trò đều kinh khủng. Emil cũng bày kha khá trò nghịch ngợm tương đối vô tội đấy chứ, ví như ngày mồng 3 tháng Mười một, ngày mà thằng bé hoàn toàn nên điên rồ…. Ồ thôi nào, đừng tìm cách dụ tôi kể xem thằng bé đã làm gì trong cái ngày mồng 3 tháng Mười một ấy, vì tôi sẽ chẳng bao giờ nói ra đâu, tôi đã hứa với mẹ thằng bé rồi. Không, để thay đổi không khí, chúng ta sẽ xem một ngày mà hôm đó – xét về đại cuộc – Emil đã cư xử rất tốt, cho dù bố nó có lẽ có quan điểm khác. Đó là


Tác giả: blue.smile    Thời gian: 11-9-2011 03:43 PM
Thứ Bảy, ngày 12 tháng Sáu,
ngày Emil có vài vụ làm ăn may mắn tại phiên đáu giá ở Backhorva


Vào một ngày thứ bảy trong tháng Sáu có phiên bán đấu giá ở trang trại Backhorva và tất cả mọi người đều muốn đến đó, vì các phiên bán đấu giá là những thứ vui nhộn nhất mà người dân ở làng Lönneberga và khắp vùng Smăland được biết. Tất nhiên bố của Emil – ông Anton Svensson – phải tới đó, chú Alfred và cô Lina cũng xin đi cùng, rồi đương nhiên cả Emil nữa.
Nếu bạn đã từng có mặt ở một phiên đấu giá, thì bạn biết người ta có thể chứng kiến những gì tại đó. Bạn biết rằng khi ai đó muốn bán đồ đạc của mình, ông ta sẽ mở phiên bán đấu giá, để những người khác muốn mua tìm đến.

Người của trang trại Backhorva muốn bán đi tất cả những gì họ có, vì họ định di cư sang Mỹ giống như bao người khác thời bấy giờ. Mà họ thì không thể tha theo sang Mỹ nào ghế dài trong bếp ăn, nào xoong chảo, rồi bò, lợn, gà qué, vì vậy mà đầu mùa hè có phiên đấu giá ở trang trại Backhorva.

Bố Emil hy vọng mua rẻ được một con bò cái mà có thể thêm một con lợn nái và vài con gà. Vì thế mà bố hăng hái muốn đến Backhorva và cho chú Alfred và cô Lina đi cùng để còn giúp bố chở về nhà đám gia súc mà bố định tậu nhân cơ hội này.

- Nhưng tôi không hiểu thằng Emil cần đến đó làm gì,– bố nói.

- Đúng quá, chẳng cần chúng ta mang thêm thằng Emil đến thì ở đó cũng đủ ầm ĩ lắm rồi, – cô Lina phụ họa.

Cô Lina đã biết tại các phiên chợ đấu giá  ở làng Lönneberga cũng như ở khắp vùng Smăland lúc nào cũng rất ầm ĩ và đầy những cuộc ẩu đảm và thật ra thì cô có lý. Nhưng mẹ Emil nghiêm khắc nhìn cô và bảo:

- Nếu Emil muốn cùng đến phiên đấu giá thì cứ để nó đi. Không mượn cô phải lo. Tốt hơn là cô hãy để ý một chút đến việc cô luôn cư xử chẳng ra sao ở chốn đông người.

Bị mẹ Emil nói trúng cô Lina im thít.

Emil đội “mú” của nó lên đầu và chuẩn bị sẵn sàng – nó muốn lên đường.

- Nhớ mua quà nhé, – bé Ida nói nghiêng đầu sang bên vẻ nũng nịu.

Cô bé không dặn người nào cụ thể, mà chỉ nói bâng quơ thế thôi. Nhưng bố lập tức nhướn lông mày lên:

- Mua, mua, lúc nào cũng mua! Chẳng phải mới đây thôi bố vừa mới mua cho con mười xu kẹo ho hay sao? Nhân ngày sinh nhật của con dạo tháng Giêng ấy, con quên rồi à?

Đúng lúc Emil đang định xin bố tiền, vì ai lại đến một phiên đấu giá mà chẳng có một xu dính túi, nhưng đành thôi. Đây hoàn toàn không phải là lúc thích hợp để nã tiền bố – nó biết rõ như vậy. Không phải lúc này, khi mà mọi người đều vội vã và bố đã ngồi chĩnh chệ trên cỗ xe chở sữa to kềnh càng, sẵn sàng lên đường. Những thứ mà ta không thể kiếm được bằng cách này, thì ta phải kiếm được bằng cách khác, Emil tự nhủ. Nó suy nghĩ rất rất lung, đoạn bảo:

- Mọi người cứ đi trước đi! Con cưỡi con Lukas đuổi theo sau!

Nghe vậy, bố Emil không mấy tin tưởng, nhưng vì đang muốn khởi hành càng nhanh càng tốt, nên ông chỉ bảo:

- Được rồi, được rồi! Giá mà con cứ ở nhà luôn thì hay biết mấy!

Đoạn ông quất roi ngựa và cỗ xe lăn bánh. Chú Alfred vẫy chào Emil, còn cô Lina vẫy chào bé Ida, trong khi mẹ gọi với theo bố:

- Liệu mà trở về nhà cho lành lặn, đủ chân đủ tay đấy nhé!

Mẹ dặn thế là vì mẹ biết đôi khi ở các phiên đấu giá có thể xảy ra những cuộc ẩu đả điên cuồng.

Cỗ xe chở sữa khuất sau lối rẽ. Emil đứng trong đám bụi đường nhìn theo. Nhưng rồi nó bắt đầu vội – giờ phải lo kiếm tiền cái đã. Bạn nghĩ sao, Emil sẽ kiếm tiền bằng cách nào đây?

Nếu bạn đã từng là một đứa trẻ ở Smăland vào cái thời mà Emil còn bé, thì bạn sẽ biết thời đó thật là may là đâu đâu trên đường cũng có nhiều rào chắn. Những tấm rào chắn nhằm giữ chân lũ bò cày, bò sữa và cừu ở lại trên những cánh đồng cỏ của chúng, và còn để tất cả bọn con trai ở vùng Smăland đôi khi có thể kiếm được những đồng hai xu, nếu chúng mở giúp rào chắn cho một bác nông dân nào đó đi đến trên cỗ xe ngựa kéo của mình nhưng lười nhác không muốn tự nhạy xuống mà mở lấy.

Ở trang trại Katthult cũng có một cổng rào chắn bằng gỗ. Emil không có mấy dịp kiếm tiền ở đấy, vì trang trại Katthult nằm tít cuối làng, ít người qua lại. Chỉ duy nhất một trang trại còn nằm sau Katthult đó là trang trại Backhorva, cũng chính là nơi hôm nay có phiên đấu giá.

Điều đó có nghĩa ai muốn đến đấy đều phải qua cổng rào nhà ta, Emil – cái thằng nhóc láu lỉnh ấy – nghĩ bụng.

Emil canh cổng rào suốt một giờ đồng hồ và kiếm được những năm đồng và bảy mươi tư xu. Không thể tin nổi!

Các cỗ xe ngựa nối đuôi nhau thành dòng kéo đến khiến Emil hầu như không kịp đóng cổng rào khi cỗ xe này đi qua, trước khi lại phải mở cho cỗ xe khác. Còn đám nông dân đánh xe ngang qua ai nấy đều đang vui vẻ vì đang muốn đến phiên đấu giá, và họ sẵn sàng ném những đầu hai xu và năm xu vào chiếc mũ của Emil. Một vài ông lịch sự thậm chí còn cao hứng cho Emil hẳn đồng mười xu, dù rằng ngay sau đấy đương nhiên họ lại ân hận.

Nhưng gã nông dân từ trang trại Krakstorp lại nổi đóa khi Emil đóng sập cánh cổng rào lại trước mũi con ngựa nâu già của lão.

- Sao mày lại đóng cổng rào lại hả? – Gã rít lên.

- Cháu phải đóng nó trước, rồi mới mở lại được chứ ạ. – Emil giải thích.

- Vào một ngày như hôm nay mà sao mày không để ngỏ cổng rào luôn đi? – Gã nông dân tức giận hỏi.

- Cháu có điên đâu, – Emil đáp. – Lại nhè hôm nay, đúng ngày mà lần đầu tiên cái cổng rào cũ kỹ này làm lợi cho cháu chắc!

Nhưng gã nông dân từ trang trại Krakstorp vung roi quất về phía Emil, mà nhất định không thò ra cho nó một xu.

Thấy tất cả những người muốn đến phiên đấu giá đều đã đi qua cổng rào nhà mình và không còn cơ hội kiếm thêm tiền nữa, Emil bèn nhảy lên lưng con Lukas và phi như bay, khiến những đồng xu trong túi nó kêu xủng xoảng.

Phiên đấu giá ở trang trại Backhorva đã vào hồi cao trào. Thiên hạ chen chúc quanh những đồ cũ được bày thành dãy trên sân trang trại. Dưới ánh mặt trời, đống đồ lủng củng trông tựa đám trẻ lạc. Người cầm trịch phiên đấu giá đứng trên một cái thùng ngay giữa đám đông. Ông ta nhận được nhiều lời chào giá hời cho đám xoong, chảo rồi bộ tách cà phê, rồi ghế gỗ, và đủ thứ linh tinh tôi không nhớ hết. Bạn phải biết tại phiên đấu giá người ta phải xướng lên với người cầm trịch là mình muốn trả giá bao nhiêu cho một món đồ. Nhưng nếu ai đó sẵn sàng trả nhiều tiền hơn và chào giá cao hơn, thì anh ta sẽ mua được cái ghế dài kê trong bếp ăn hoặc món đồ gì đó mà người ta đấu giá.

Đám đông bỗng ồ lên khi Emil và con Lukas phi vào sân trang trại. Nhiều người lẩm bẩm:

- Thằng bé nhà Katthult mà đã thò mặt đến đây thì tốt hơn là ta nên chuồn!

Nhưng lúc này Emil đang có hứng làm ăn và trong túi thì nhiều tiền đến nỗi suýt làm nó chóng mặt. Trước khi xuống khỏi lưng ngựa, nó đã kịp trả ba đồng cho khung giường sắt cũ kỹ, thứ là lẽ ra không gì trên thế gian có thể bắt nó nhận. May mà vợ một bác nông dân trả lên tận bốn đồng, nên Emil thoát được cái khung giường. Nhưng Emil vẫn hăng hái tiếp tục và hầu như bạ món gì nó cũng chào giá, và loáng cái nó đã thành chủ sở hữu của ba món đồ. Món thứ nhất là một cái hộp bằng nhung đã bợt màu, trên nắp gắn những vỏ ốc nhỏ màu xanh lơ – cái này có thể làm quà cho bé Ida –, món thứ hai là xẻng nướng bánh mì có cán dài dùng để đưa bánh mì vào lò nướng và món thứ ba là một bình cứu hỏa đã cũ gỉ mà khắp làng Lönneberga bói không ra ai thèm trả dù chỉ mười xu. Emil trả hẳn hai mươi lăm xu và mua được.

Ôi, cứu với, thực ra mình đâu có muốn mua cái của nợ đó, Emil nghĩ. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi, và giờ đây dù muốn hay không nó đã có một bình cứu hỏa.

Rồi chú Alfred đi tới. Chú nhìn cái bình và phá lên cười.

- Ông chủ bình cứu hỏa Emil Svensson, – chú nói. – Mà sao cháu lại mua thứ quái dị này để làm gì?

- Thì đề phòng sét đánh hoặc cháy nhà………. – Emil đáp. Và đúng giây phút đó sét đã đánh xuống – ít ra thì thoạt tiên Emil cũng tưởng thế, nhưng hóa ra chỉ là bố túm lấy cổ áo Emil mà lắc lấy lắc để, khiến mái tóc bông của nó bay tung lên.

- Đồ mất dạy, con tha lôi cái quái quỷ gì vậy!! – Bố quát lên.

Bố đang ung dung dạo gót quanh dãy chuồng trại và đã nhắm được con bò cái để mua, thì cô Lina hớt hải chạy đến.

- Ông chủ, ông chủ, thằng Emil đang ở đây, lại còn mua bao nhiêu là bình cứu hỏa! Nó được phép mua hả ông?

Bố đâu biết Emil có tiền riêng. Bố cứ tưởng chính mình sẽ phải trả tiền những món mà Emil đã trả giá, cho nên chẳng có gì lạ khi mặt bố tái dại, toàn thân run bắn, lúc bố nghe mách về những chiếc bình cứu hỏa.

- Bỏ con ra! Con tự trả tiền!– Emil gào lên.

Cuối cùng nó cũng giải thích được với bố là mình đã làm giàu như thế nào – đơn giản thôi, vì nó đã đứng mở cổng rào ở Katthult. Bố Emil thừa nhận Emil đã rất khôn ngoan, nhưng ông thấy nó ít khôn ngoan hơn nhiều khi quẳng tiền ra để rước cái bình cứu hỏa cũ mèm ấy.

- Mặc dù vậy bố không muốn biết tý gì về những vụ làm ăn điên rồ như thế, – ông nghiêm khắc nói. Rồi ông đòi xem tất cả những thứ đã đấu giá mà Emil mua được, và ông đã rất đau lòng khi trông thấy một cái hộp bằng nhung cũ rích không còn có thể dùng vào việc gì, một cái xẻng nướng bánh mì, thứ mà ở trang trại Katthult có sẵn một cái tốt gấp vạn – tóm lại toàn là những vụ làm ăn điên rồ! Cố nhiên tệ hại nhất vẫn là cái bình cứu hỏa.

- Nhớ điều bố nói này! Chỉ nên mua thứ gì tuyệt đối cần thiết! – Bố Emil bảo.

Chắc chắn bố có lý, nhưng làm sao biết được thứ gì là cần thiết? Ví dụ nước chanh có cần thiết không? Cần thiết chứ, Emil tin chắc vậy. Nó đi lang thang có phần buồn bã, sau khi bị bố cạo cho một trận như thế. Trong tâm trạng ấy, nó nhìn thấy một quầy bán bia và nước chanh giữa những bụi tử đinh hương. Những người ở trang trại Backhorva luôn có chút máu kinh doanh, nên họ đã khuân từ nhà máy bia ở thị trấn Vimmerby về những thùng bia và nước chanh đầy phè để bán cho đám người dự phiên đấu giá giải khát.

Cả đời Emil mới được uống nước chanh có mỗi một lần, và nó sung sướng vì đã phát hiện ra ở đây có nước chanh, hơn nữa chính nó lại đang rủng rỉnh tiền trong túi. Hãy thử tưởng tượng, sao hai điều may mắn lại có thể đến cùng một lúc như thế cơ chứ!

Emil gọi và uống một lèo ba cốc nước chanh liền. Nhưng rồi sầm sét lại giáng xuống. Bố đột nhiên lại xuất hiện. Bố túm lấy cổ áo Emil mà lắc khiến nước chanh ộc cả vào mũi nó.

- Đồ mất dạy, tưởng mới kiếm được tí tiền thì cứ đứng đây mà nốc nước chanh hả!

Nhưng Emil đã nổi điên và cự lại.

- Thôi đi, con cáu tiết rồi đấy! – Nó hét. – Nếu con không có tiền thì con không thể uống nước chanh, còn khi con có tiền thì con không được phép uống nước chanh! Vậy thì – quỷ tha ma bắt – bố nói xem khi nào con mới được uống nước chanh đây?

Bố Emil nghiêm khắc nhìn nó.

- Con lại đáng vào ngồi trong xưởng mộc rồi đấy!

Ông chỉ nói thế, rồi lại mất hút về phía chuồng ngựa. Còn Emil đứng chưng hửng ở đó mà xấu hổ. Nó tự biết mình đã quá đáng như thế nào. Nổi cáu với bố chưa đủ, điều tồi tệ nhất nó lại còn nói “quỷ tha ma bắt”, và đó gần như một lời rủa. Mà ở Katthult không ai được phép rủa cả. Bố Emil là người ngoan đạo bậc nhất, theo như tôi biết. Emil xấu hổ trong nhiều phút, nhưng rồi nó lại mua một cốc nước chanh đem cho chú Alfred. Hai chú cháu cùng ngồi bên tường kho chứa củi của trang trại Katthult tán chuyện, trong khi chú Alfred uống nước chanh. Suốt đời chú chưa bao giờ được uống thứ gì ngon hơn thế, chú bảo.

- Chú có thấy cô Lina đâu không ạ? – Emil hỏi.

Chú Alfred chỉ ngón tay cái về phía cô Lina. Cô đang ngồi trên cỏ xanh, tựa lưng vào hàng rào, ngồi bên cạnh cô là gã nông dân đến từ trang trại Krakstorp, kẻ từng quất roi về phía Emil. Có thể thấy là cô Lina đã quên tiệt những lời nhắc nhờ mà cô được nghe ở nhà, vì cô cứ ngúng nga ngúng nguẩy và cười khúc kha khúc khích, như cô vẫn làm như thế khi tiếp xúc với mọi người. Nhưng cũng có thể nhận thấy gã nông dân chủ trang trại Krakstorp thích những trò õng ẹo của cô. Thấy vậy, Emil khoái chí lắm.

- Chú Alfred, chú thử tưởng tượng nếu bọn mình gả được cô Lina cho cái ông ở trang trại Krakstorp kia! – Nó cười đầy hy vọng. – Khi ấy biết đâu chú có thể thoát được cô ấy!

Chẳng là cô Lina đã chọn chú Alfred làm chú rể và cô cũng muốn cưới chú, mặc dù chú Alfred luôn luôn ra sức chống đỡ. Từ lâu chú Alfred và Emil vẫn lo tìm cách giải phóng cho chú Alfred khỏi cô Lina, thế nên bây giờ hai chú cháu phấn khởi nghĩ rằng biết đâu họ chẳng xúi được gã chủ trang trại Krakstorp nọ lấy cô Lina! Cố nhiên gã đã già, ngấp nghé tuổi năm mươi rồi, và trên đầu không còn lấy một sợi tóc, nhưng gã lại có một trang trại nhỏ và chắc chắn cô Lina cũng muốn trở thành bà chủ trang trại Krakstorp.

- Tụi mình phải canh không cho ai quấy rầy họ, – Emil nói.

Nó biết là cô Lina còn phải khúc khích cười và ngả ngớn hồi lâu nữa thì gã chủ trang trại Krakstorp mới đánh rơi lý trí và cắn câu thực sự.

Phía sau, chỗ dãy chuồng gia súc, người ta đã bắt đầu đấu giá. Chú Alfred và Emil đi tới đó xem.

Bố Emil đã mua được một con lợn nái sắp đẻ với giá hời, nhưng khi đấu giá bò sữa thì lại gặp chuyện bực mình. Một bác nông dân đến từ trang trại Bastefall muốn mua cả đàn bảy con bò sữa, thế nên bố Alfred buộc phải trả tám mươi đồng cho con mà bố đã chọn. Bố khẽ thở dài khi rút hầu bao trả món tiền kinh khủng đó. Sau đấy thì bố nhẵn túi, chẳng còn tiền tậu thêm vài con gà. Bác nông dân chủ trang trại Bastefall  được mua nốt đàn gà theo giá mà bác đưa ra, riêng một con gà mái là bác ta không muốn mua.

- Tôi biết làm gì với một con gà mái què chứ? – Bác ta cười. – Các người vặn cổ nó bỏ vào nồi được rồi đấy.

Con gà mái mà bác nông dân chủ trang trại Bastefall chỉ muốn quẳng vào nồi từng bị què một cẳng chân, sau đó cẳng đó đã lành lại, nhưng bị vẹo. Một thằng bé người nhà trang trại Bastefall đứng cạnh Emil bỗng nói.

- Ông này quá ngu nếu không mua con Lotta Què. Nó là con gà mắn đẻ nhất nhà tôi, tôi biết rất rõ!

Thế là Emil hét toáng lên:

- Cháu trả con Lotta Què hai mươi lăm xu!

Mọi người cười ồ. Tất cả mọi người, trừ bố Emil, đương nhiên rồi. Bố xồng xộc chạy tới túm cổ áo Emil.

- Đồ mất dạy, trong có một ngày trời mà con định làm bao nhiêu vụ làm ăn điên rồ nữa đây hả? Con sẽ phải trả giá cho cái của nợ này hai ngày liền ngồi dưới xưởng mộc đấy, rõ chưa?

Nhưng việc đã rồi. Emil đã nói hai mươi lăm xu thì nó phải giữa lời. Giờ đây Lotta Què  là con gà của nó, mặc bố nghĩ thế nào thì nghĩ.

- Dù sao bây giờ cháu cũng có hai con vật là của cháu. – Emil bảo chú Alfred. – Một con ngựa và một con gà mái!

- Phải, một con ngựa và một con gá mái què, – chú Alfred nói và bật cười, nhưng vô cùng thân thiện như chú vốn thế.

Người ta bỏ con Lotta vào một cái lồng rồi Emil xếp cái lồng vào đống của cải của nó bên cạnh kho chứa củi: chiếc bình cứu hỏa, cái xẻng nướng bánh mì và chiếc hộp nhung, con Lukas cũng buộc ở đấy. Emil ngắm nghĩa tài sản của mình, nó rất hài lòng.

Nhưng nãy giờ cô Lina và gã chủ trang trại Krakstorp thế nào rồi nhỉ? Emil và chú Alfred đi một vòng để thám thính, và hài lòng khẳng định rằng cô Lina đang rất ổn. Gã chủ trang trại đã ôm lấy cô, còn cô vừa cười vừa ngả ngớn còn tệ hơn bất kỳ lúc nào trước kia. Chốc chốc cô lại dúi vào vào gã một cái khiến gã bật ngã vào hàng rào.

- Ông ta có vẻ cũng thích đấy, – Emil nói. – Nếu như cô ấy đừng dúi ông ta mạnh như thế!

Tóm lại Emil và chú Alfred vô cùng đắc ý với cung cách làm duyên dáng của cô Lina. Nhưng còn một kẻ khác không hề đắc ý với thái độ của cô, đó là gã Bullte đến từ Bo. Gã này thích gây lộn và nghiện rượu vào loại tệ hại nhất làng Lönneberga, và tại những phiên đấu giá bao giờ cũng xảy ra những vụ ẩu đả kinh hồn chủ yếu là do tội của gã. Trong phần lớn trường hợp, gã luôn là người gây sự. Bạn phải biết rằng trước kia đầy tớ nhà nông phải quanh năm đầu tắt mặt tối, làm việc quần quật mà hầu như chẳng bao giờ được ló mặt tới chỗ nào vui vẻ. Vì vậy mà đối với anh ta một phiên đấu giá là cả một cuộc vui khổng lồ, và anh ta rất muốn đánh nhau. Nếu không đánh nhau, anh ta còn biết làm gì với bao nhiêu sức lực bỗng cuồn cuộn dâng lên trong cơ thể, khi anh ta hòa mình trong đám đông và nhất là sau khi đã nốc vài ly rượu đầy. Phải, tiếc rằng không phải mọi người đều uống nước chanh. Chí ít thì không phải gã Bullte đến từ Bo.

Lúc này gã trông thấy cô Lina đang ngồi với gã chủ trang trại Krakstorp mà ve vãn nhau. Gã bèn lên tiếng:

- Cô nàng không biết xấu hổ sao, Lina? Cô định làm gì với một lão già hói đầu vô tích sự như thế! Dễ thường cô không hiểu là lão quá già so với cô hả?

Các cuộc ẩu đả thường vẫn bắt đầu như thế.

Emil và chú Alfred đứng đó, trông thấy gã chủ trang trại Krakstorp nổi giận, buông cô Lina ra như thế nào. Lại còn thế nữa, sao cái gã Bullte đến từ Bo lại cứ mò đến đây để phá hỏng tất cả những gì hay ho mà chú Alfred và Emil đã tưởng tượng ra?

- Cứ ngồi yên đấy, vì Chúa, ông hãy cứ ngồi yên đấy đi! – Emil sợ hãi kêu lên với chủ trang trại Krakstorp. – Cứ để gã Bullte cho cháu, cháu xử lý được!

Đoạn nó cầm cái xẻng nướng bánh mỳ phang thật lực vào mông gã Bullte. Nhưng lẽ ra nó chẳng nên làm thế, vì gã Bullte quay phắt người lại và túm lấy Emil. Gã tức đến nỗi lác xệch cả mắt, còn Emil thì lủng lẳng trên hai bàn hộ pháp của lão, nghĩ bụng giờ tận số của mình đã điểm. Thế là chú Alfred bỗng gầm lên:  

- Để thằng bé yên, nếu không mày sẽ phải bọc nắm xương của mày trong khăn tay mà đem về nhà đấy! Tao sẽ lo việc ấy cho mày!

Chú Alfred cũng rất khỏe và không từ một cuộc ẩu đả nào. Chưa đầy hai giây sau, chú và Bullte đã lăn xả vào nhau đấm đá huỳnh huỵch.

Và dường như tất cả mọi người chỉ đợi có thế.

Tụi mình sắp bắt đầu một trận quần nhau tơi bời chứ hả? Nhiều chú đầy tớ đã hỏi nhau trước đó, và giờ đây họ chạy tới từ khắp ngả và muốn tham chiến.

Nhưng cô Lina đã bắt đầu hét lên.

- Họ đánh nhau vì tôi, – cô hét. – Ôi, đúng là một bi kịch!

- Chừng nào cháu còn cầm cái xẻng này, ở đây sẽ không có bi kịch, – Emil an ủi.

Lúc này đám đầy tớ nằm chồng chất lên nhau thành một đống tướng, chân tay khua loạn lên như cua khua càng: họ giằng xé, gào thét, cấu cắn, đấm đá và chửi rủa nhau loạn xị ngậu. Nằm tận dưới cùng là chú Alfred và gã Bullte, gã Bullte, gã chủ trang trại Krakstorp và một vài người nữa.

Emil sợ họ sẽ nghiền chú Alfred của nó nát nhừ ra mất, thế là nó vừa chạy vòng quanh vừa xọc lấy xọc để cái xẻng nướng bánh mì vào đám đầy tớ, hòng tìm cách lôi được chú Alfred ra. Việc Emil làm như giống như một cuộc chơi thử lòng kiên nhẫn. Nhưng nó không thành công, và hễ nó đứng chỗ nào là y như rằng có một bàn tay giận dữ thò ra định túm lấy nó lôi vào cuộc chiến.

Nhưng Emil không muốn thế. Nó bèn nhảy lên lưng con Lukas và đi nước kiệu quanh những kẻ đánh nhau. Trông Emil ngồi trên lưng ngựa, tốc bay trong gió, tay giơ cao chiếc xẻng nướng bánh mì, thật chẳng khác gì một hiệp sĩ dương cao ngọn giáo xông vào trận mạc.

Emil cứ thế chạy vòng quanh đống đầy tớ chất chồng lên nhau và dùng xẻng xọc lấy xọc để vào bất kỳ chỗ nào có thể. Lúc này nó càng hăng hơn, và ít nhất cũng lột bớt được lớp đầy tớ nằm trên cùng, nhưng lập tức lại có những kẻ mới chạy đến và lao mình vào, thành thử Emil có cật lực xọc xẻng đến đâu cũng không giải cứu được chú Alfred.

Tất cả đám phụ nữ có mặt đều gào khóc thảm thiết, còn bố Emil và những bác nông dân biết điều khác, – những người quá tốt, không bao giờ đánh nhau – thì chỉ đứng nhìn và khuyên can với vẻ bất lực:

- Dừng lại đi, các chú! Sẽ còn nhiều phiên đấu giá nữa cơ mà! Phải để dành tí tiết cho những phiên sau nữa chứ!

Nhưng những chú đầy tớ đang trong cơn hăng nên chẳng nghe thấy gì. Họ chỉ muốn đánh nhau, đánh nhau và đánh nhau. Emil bèn quăng cái xẻng đi.

- Cô Lina, giờ cô phải giúp cháu, chứ đừng chỉ biết đứng đấy mà khóc lóc, – nó nói. – Suy cho cùng thì người đang nằm tít bên dưới là chú rể của cô đấy.



Tác giả: blue.smile    Thời gian: 11-9-2011 03:44 PM
Tôi đã nói là Emil rất tinh ranh mà. Đoán xem nó sẽ làm gì! Nó có sẵn một bình cứu hỏa và nước thì đầy dưới giếng. Emil phân công cô Lina bơm, còn nó lo cầm vòi xịt – thế là nước phụt ra, thật là may.

Cả đống đầy tớ rùng lên như nấc cụt khi dòng nước mạnh đầu tiên xịt cục mạnh vào chính giữa họ. Và, bạn muốn tin tôi hay không thì tùy, Emil chỉ cần xịt vài phút là cuộc ẩu đả ngủm dần rồi tắt hẳn. Các chú đầy tớ lần lượt ngóc những gương mặt sửng sốt và sưng vù lên khỏi đống người và lần lượt tất cả đều lồm cồm đứng dậy.

Bạn hãy nhớ lấy, nếu có lúc nào bạn sa vào cuộc đánh lộn và muốn chấm dứt nó, thì nước lạnh hiệu nghiệm hơn là xẻng nướng bánh mì! Đứng quên đấy nhé!

Các chú đầy tớ không hề tức giận với Emil. Bây giờ họ đã trút được khỏi người tất cả những hung hăng và chắc chắn đều cho rằng cuộc ẩu đả lần này chấm dứt ở đây là vừa.

- Hơn nữa tuần sau lại có phiên đấu giá ở trang trại Knashult rồi, – gã Bullte nói và nhét một ít rêu vào hai lỗ mũi để cầm máu.
Thế là Emil tìm đến ông chủ trang trại Krakstorp, người cũng đang có mặt ở đây và đã chứng kiến trận đánh nhau, và bán lại cho ông bình cứu hỏa với giá năm mươi xu.

- Thế là cháu đã lãi hai mươi lăm xu, – Emil bảo chú Alfred, và vào giây phút ấy chú Alfred hiểu rằng lớn lên Emil sẽ trở thành một doanh nhân giỏi giang.

Lúc này phiên đấu giá đã kết thúc. Tất cả mọi người gom những thứ lỉnh kỉnh mà mình đã mua được lên đường về nhà. Bố Emil cũng muốn ra về với con bò sữa và con lợn nái của ông. Con lợn nái được cho lên cỗ xe sữa. Con Lotta Què cũng được đi cùng, mặc dù bố Emil cứ bực bội lườm nó nằm trong lồng. Con bò Rölla sẽ lẽo đẽo đi sau xe, ấy là bố dự tính thế. Nhưng không ai chịu hỏi xem con Rölla xem nó nghĩ sao về chuyện đó!

Chắc bạn đã từng nghe về những con bò mộng bị điên rồi. Nhưng bạn có biết chút gì về những con bò cái điên không? Không ư? Vậy tôi muốn nói với bạn rằng ngay đến những con bò mộng điên khùng nhất cũng run tứ túc và ù té chạy trốn, một khi có con bò cái nào nổi điên thực sự.

Cả đời mình, con bò cái Rölla vốn là một con vật thân thiện nhất, hiền lành nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra. Nhưng giờ đây, khi chú Alfred và cô Lina định lùa nó lên đường về trang trại Katthult, thì nó bỗng giằng ra và rống lên một tiếng như vọng từ dưới mồ, khiến tất cả mọi người ở Backhorva giật mình kinh ngạc. Có thể con bò đã chứng kiến đám đầy tớ đánh lộn và nghĩ rằng đã là phiên đấu giá thì cứ làm cho loạn một thể. Chỉ biết lúc này nó nhảy chồm lung tung, điên khùng và hung dữ, nên ai mom men lại gần nó sẽ thiệt hại như bỡn. Chú Alfred thử mom men đầu tiên, rồi đến bố Emil, nhưng con Rölla trừng trừng nhìn họ bằng cặp mắt đỏ ngầu vì điên giận, hai sừng chúi về phía trước với tiếng rống trầm đục khiến cả chú Alfred và bố Emil phải chạy như thỏ để thoát thân. Có những người khác nữa đến giúp, nhưng Rölla không muốn thấy bất kỳ ai trước chuồng của nó – nó muốn được ở một mình.

- Đúng là bi kịch! – Cô Lina nói khi trông thấy các ông chủ trang trại Backhorva, Krakstorp, Bastefall, Knashult và cả gã Bullte bỏ chạy thục mạng, con Rölla rượt theo sau.

Cuối cùng ngay bố Emil cũng phát điên, ông hét lên:

- Tôi đã bỏ ra những tám mươi đồng để mua con bò này! Dẫu vậy, hãy mang một khẩu súng ra đây, nó sẽ bị bắn bỏ! B
ố run rẩy vì tiếc của khi hét lên như thế, lên như thế, nhưng chẳng ai thích thú gì một con bò điên, bố hiểu và những người khác cũng hiểu như vậy. Ông chủ trang trại Backhorva đem ra khẩu súng đã nạp đạn của mình, ấn vào tay bố Emil.

- Tốt hơn là anh hãy tự làm đi! – ông nói.

Nhưng Emil đã kêu lên:

- Đợi tý đã!

Tôi đã nói Emil là một thằng bé tinh khôn mà. Lúc này nó đã đi đến trước mặt ông và nói:

- Nếu bây giờ bố muốn bắn chết nó, thì bố cũng có thể tặng nó cho con lắm chứ!

- Con định làm gì với con bò điên? – Bố Emil hỏi. – Dùng nó để săn sư tử chắc?

Nhưng bố biết em có tay chăm súc vật, vì vậy mà bố bảo: nếu Emil đưa được con Rölla về nhà thì con bò sẽ mãi mãi là của nó, cho dù con bò có điên khùng tới cỡ nào.

Thế là Emil đến chỗ ông chủ trang trại Bastefall, người đã mua sáu con bò kia và bảo ông ta:

- Ông sẽ trả cháu bao nhiêu, nếu cháu lùa giúp ông đàn bò về đến trang trại Katthult ạ?

Trang trại Bastefall nằm ở tít cuối đầu bên kia làng, và lùa sáu con bò về đấy đâu có vui thú gì. Ông chủ trang trại biết thế, nên nhanh chóng thò tay vào túi quần rút ra đồng hai mươi lăm xu.

- Đây cầm lấy, – ông nói. – Bắt đầu đi!

Đoán xem Emil làm gì! Nó chạy ngang qua con bò Rölla, vào chuồng tháo dây thả những con bò kia ra. Khi Emil lùa đàn bò này đi ngang qua con Rölla, con bò đang rống bỗng im bặt, cụp mắt xuống và rõ ràng xấu hổ về những cử chỉ xấu xa của mình trước đó. Nhưng một con bò cái tội nghiệp biết làm gì đây khi nó phải rời xa khu chuồng cũ của mình và đơn côi đứng đó, thiếu vắng những con bò cái khác mà nó đã quen sống cùng? Nó sẽ tức giận và buồn bã! Chỉ có Emil hiểu điều đó.

Giờ đây con Rölla vội vã nhập bọn, cùng đàn bò lên đường. Mọi người cười hể hả bình luận:
- Cái thằng bé của trang trại Katthult này thật ra chả ngốc tý nào!

Chú Alfred cũng cười.

- Ông chủ gia súc Emil Svensson, – chú nói. – Giờ thì cháu đã có một con ngựa, một con gà mái què và một con bò cái điên. Không còn gì mà cháu muốn có nữa chứ?

- Có đấy, từ từ rồi cháu sẽ còn muốn có nữa, – Emil bình thản đáp.

Mẹ Emil đứng bên cửa sổ của trang trại Katthult ngóng trông những người thân yêu của mình trở về từ phiên bán đấu giá. Bà trố mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy đoàn lữ hành đông đúc xuất hiện trên đường ngoài kia. Trước hết là cỗ xe chở sữa, trên có bố Emil, chú Alfred, cô Lina, con lợn nái và con Lotta Què đang phấn khởi cục tác trước quả trứng nó mới đẻ, rồi đến bảy con bò sữa nối đuôi nhau thành một hàng dài, cuối cùng là Emil trên lưng con Lukas, tay lăm lăm cầm cái xẻng nướng bánh mì canh chừng để không con bò nào đi chệch hướng.

Mẹ Emil chạy ra đón, bé Ida chạy theo sau.

- Những bảy con bò! – Mẹ kêu lên với bố. – Ai đã hóa điên rồi đây, mình hay em?

- Con bò chứ ai! – Bố làu bàu. Nhưng bố còn phải làu bàu một hồi nữa thì mẹ mới thủng đầu đuôi câu chuyện. Thế là mẹ âu yếm nhìn Emil.

- Chúa phù hộ cho con, Emil! Nhưng làm thế nào mà con biết được cái xẻng nướng bánh mì của nhà ta vừa mới bị hỏng lúc mẹ định đưa bánh cho vào lò nướng?

Đến đây mẹ rú lên khi nhìn thấy mũi của chú Emil sưng to gấp đôi bình thường.

- Trời đất ơi, cậu đã ở đâu với cái mũi của cậu vậy hả? – Mẹ hỏi.

- Ở phiên đấu giá ở Backhorva ạ, – chú Alfred đáp.

- Tuần sau cháu sẽ lại vác nó đi Knashult.

Cô Lina ủ rũ và bực dọc xuống xe. Với cô, thế là hết khúc khích cả ngả ngớn.

- Trông cô cau có thế, – mẹ nói. - Cô làm sao vậy?

- Đau răng, – cô Lina đáp gọn lỏn. Gã chủ trang trại Krakstorp cứ liên tục mời cô ăn kẹo, vì vậy mà cái răng hàm bị sâu của cô bây giờ mới đau tợn, đau đến tưởng vỡ cả đầu ra.

Nhưng đau răng hay không thì cô vẫn phải ra đồng cỏ – nơi chăn thả đàn bò của trang trại Katthult – và vắt sữa bò ngay, kẻo quá giờ vắt sữa từ lâu rồi.

Cũng đã quá giờ vắt sữa đối với con Rölla và đám bạn đến từ phiên đấu giá của nó. Cả lũ đang kêu ầm ĩ để nhắc người ta nhớ đến điều đó.

- Nếu ông chủ trang trại Bastefall không có mặt ở đây để vắt sữa cho mấy con bò già của ông ấy, thì đó chẳng phải lỗi tại con. – Emil tuyên bố và bắt đầu tự tay vắt sữa. Đầu tiên là con Rölla rồi đến sáu con kia. Emil vắt được cả thảy ba chục lít sữa và mẹ nó đem cất xuống tầng hầm, định khi có thời gian sẽ làm pho mát. Quả nhiên sau này qua tay mẹ, chỗ sữa đó trở thành cái bánh pho mát to đùng, ngon tuyệt, dành riêng cho Emil, khiến nó vui sướng một thời gian dài. Nhưng còn quả trứng mà con Lotta Què đẻ trên đường về nhà thì Emil đem luộc ngay và bưng lên trước mặt bố, trong khi bố hơi cáu kỉnh ngồi bên bàn ăn chờ bữa tối.

- Trứng của con Lotta Què đấy bố ạ, –Emil nói.

Đoạn nó đặt thêm trước mặt bố một cốc sữa tươi vừa mới vắt.

- Còn sữa này là của con Rölla.

Bố im lặng ăn uống, trong khi mẹ đưa tất cả số bánh mì bà đã nặn vào lò nướng.

Còn cô Lina áp một củ khoai tây nóng rực vào chỗ răng đau, thế là cái răng còn đau hơn gấp bảy lần, đúng ý cô Lina.

- Phải, cho mày nếm mùi đau, – cô Lina nói với cái răng. – Mày đã xấu chơi thì tao cũng biết chơi xấu.

Chú Alfred cười.

- Cái nhà ông ở Krakstorp tốt ghê đấy chứ, cho cô em bao nhiêu là kẹo, – chú nói. – Em nên cưới ông ta đi, Lina ạ.

Thế là cô Lina thở phì phì giận dữ.

- Cái lão già đi còn không vững ấy ư! Lão đã năm mươi tuổi, trong khi em mới hai mươi lăm! Anh tưởng em muốn cưới một người gấp đôi tuổi mình chắc?

- Thì có sao đâu, – Emil hăng hái xen vào. – Chẳng làm sao cả!

- Phải, đấy là cậu nghĩ thế, – cô Lina nói. – Bây giờ thì còn tạm được, nhưng cậu thử tưởng tượng xem, khi tôi năm mươi tuổi thì lão ta đã một trăm tuổi. Úi giời, khi đó tha hồ mà hầu lão ta!

- Cô tính toán đúng như trí khôn của cô, cô Lina ạ, – mẹ Emil nói và đóng sập cánh cửa lò sau khi cho chiếc bánh mì cuối cùng vào lò. – Quả là một cái xẻng nướng bánh tuyệt vời, Emil ạ, – sau đó mẹ bình luận.

Khi bố Emil đã ăn hết quả trứng và uống hết cốc sữa, Emil bèn bảo:

- Thôi, bây giờ con xuống xưởng mộc đây!

Bố lẩm bẩm gì đó, đại khái là nói chung hôm nay hầu như Emil có làm gì nên tội đâu mà ngồi trong xưởng mộc.

Nhưng Emil nói:

- Không, không, đã nói là làm!

Rồi một mình, lặng lẽ và đầy phẩm giá, nó đi ra khỏi bếp, xuống xưởng mộc, ngồi đẽo hình nhân thứ một trăm hai mươi chín của mình.

Trong khi đó con Lotta Què đã yên vị trên thanh tre trong chuồng gà và con Rölla hài lòng tung tăng cùng đàn bò của trang trại Katthult trên bãi cỏ. Trước đấy ông chủ trang trại Bastefall đã đến đón sáu con bò của mình. Ông và bố Emil còn chuyện trò khá lâu về phiên đấu giá và tất cả những gì đã diễn ra ở đấy. Vì vậy mà phải một lúc lâu nữa bố Emil mới có thể đón nó ra khỏi xưởng mộc.
Ông chủ trang trại Bastefall vừa ra về thì bố Emil đã chạy xuống xưởng mộc. Khi đến gần, ông thấy bé Ida đang ngồi trên một chiếc ghế dài trước cửa sổ xưởng mộc, tai ôm khư khư cái hộp nhung gắn những vỏ ốc, như thế đó là vật đẹp đẽ nhất nó từng nhận được trong đời. Mà cũng đúng thế thật. Nhưng bố Emil lại càu nhàu:

- Mua bán điên rồ! Một cái hộp nhung cũ rích!

Bé Ida không biết bố đang đi đến. Vì vậy nó không lặng im mà tiếp tục ngoan ngoãn và dễ bảo mà nhắc lại những lời mà Emil từ trong xưởng mộc thì thầm mớm ra cho nó. Bố Emil giận tái mặt, khi ông – kẻ ngoan đạo nhất trần đời – nghe con gái nhỏ nói những lời tồi tệ chưa từng được thốt ra ở trang trại Katthult, những lời dù qua giọng trong trẻo, thỏ thẻ của bé Ida cũng không hề êm tai hơn.

- Im ngay, Ida! – Bố Emil quát. Đoạn ông thò tay qua cửa sổ túm lấy cổ áo Emil.

- Đồ mất dạy, con dạy em rủa đấy à?

- Con có làm thế đâu, – Emil đáp. – Con chỉ nói Ida là không bao giờ được nói “quỷ tha ma bắt”, rồi con lại nhét cho nó một lô những từ khác, để nó nhớ và tránh xa nó ra như tránh lửa vậy.

Phải, giờ thì bạn đã biết Emil đã làm gì vào ngày 12 tháng Sáu. Cho dù không phải mọi sự đều đặc biệt tốt đẹp, người ta vẫn cứ phải thừa nhận là hôm đó Emil đã có những vụ làm ăn khôn ngoan. Bạn thử hình dung cùng một lúc Emil đã kiếm được bao nhiêu là thứ: một con bò tốt sữa, một con gà cực mắn đẻ, một cái xẻng nướng banh mì siêu tốt, ngoài ra thêm bao nhiêu là sữa tươi, đủ để làm cái bánh pho mát to ngon tuyệt!

Thứ duy nhất khiến bố có thể càu nhàu là chiếc hộp nhung chẳng có ích gì trên đời, nhưng lại được bé Ida thích mê. Cô bé cất vào đó cái đê khâu tay, cái kéo và một quyển bài hát xinh xinh mà nó được phát ở trường mẫu giáo, một mảnh thủy tinh màu xanh lơ rất đẹp và chiếc nơ đỏ của nó. Lúc bé Ida nhận chiếc hộp này thì thấy bên trong đựng một xấp thư cũ, bèn bèn vứt ngay xuống đất. Nhưng sau đó, vào tối thứ Bảy, khi Emil được tha khỏi xưởng mộc và bước vào bếp thì thấy những lá thư nằm ngổn ngang trong xó bếp, nó liền nhặt lên.

Chú Alfred cầm vỉ ruồi đi loanh quanh, ra sức đập ruồi, vì cô Lina muốn chí ít sẽ không có ruồi vào ngày Chủ nhật. Emil chìa cho chú xem những lá thư.

- Cái gì rồi cũng có ích hết, – Emil nói. –Nếu có lúc nào cháu phải gửi thư đi đâu, thì cháu đã có cả đống thư viết sẵn.

Nằm trên cùng là một lá thư gửi từ Mỹ về, và khi Emil nhìn thấy là thư, nó khẽ huýt sáo.

- Xem này, chú Alfred, đây nhất định là thư của chú Adrian rồi!

Chú Adrian là con trai đầu của ông chủ trang trại Backhorva đã sang Mỹ từ lâu lắm và suốt thời gian ấy chỉ duy nhất một lần viết thư về nhà. Cả làng Lönneberga đều biết thế và ai cũng tức giận với chú Adrian, vì họ thấy thương ông bố bà mẹ tội nghiệp của chú. Nhưng chú Adrian đã viết gì khi gửi thư về thì không ai biết, người ở trang trại Backhorva giữ kín.

- Nhưng bây giờ sẽ biết được, – Emil nói.

Cái thằng bé giỏi giang này đã tự học đọc những chữ cái in và chữ cái viết. Nó giở thư ra và đọc to cho chú Alfred nghe. Đọc nhanh thôi, vì thư ngắn ngủn. Trong thư viết:

“Con đã chông thấy một con ghấu. Gủi địa trỉ cho pố mẹ. Gút bai lần nài.”

Lá thư này sẽ chẳng có ích lợi gì cho cháu, – Emil nói. Nhưng nó đã lầm to.

Rồi trời tối. Ngày thứ Bảy, 12 tháng Sáu, sắp kết thúc. Màn đêm buông xuống trang trại Katthult, đem đến yên tĩnh và thanh bình cho tất cả mọi người và vật sống nơi đây. Tất cả, trừ cô Lina đang đau răng. Cô nằm thức trên chiếc ghế gấp dài trong bếp mà rên rỉ và than thở, trong khi đêm ngắn tháng Sáu đến rồi lại đi, và một ngày mới bắt đầu.
Một ngày mới trong cuộc đời Emil. Đó là

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 11-9-2011 03:48 PM
Chủ nhật ngày 13 tháng Sáu,
ngày Emil ba lần can đảm thử nhổ răng hàm cho cô Lina, và sau đó bôi xanh lè cả mặt bé Ida


Dù là ngày thường hay Chủ nhật thì cũng đều phải vắt sữa bò. Đúng năm giờ sáng chiếc đồng hồ báo thức rung chuông inh ỏi và cô Lina bò ra khỏi giường, hoàn toàn suy sụp vì đau răng. Cô liếc nhìn vào tấm gương treo trên chiếc tủ ngăn rồi kêu lên một tiếng chói tai. Ôi lạy Chúa, trông cô mới khiếp làm sao! Má phải của cô sưng phồng lên chẳng khác gì một chiếc bánh mì nở hết cỡ vì quá tay cho bột nở. Không, thế này thì kinh quá! Cô Lina òa lên khóc.

Giờ đây cô có thể khiến người khác động lòng thương xót, vì đúng hôm nay cả làng sẽ đến trang trại Katthult để dùng cà phê sau lễ nhà thờ.

- Mình không thể chường cái mặt này ra được, nếu như hai bên má mình trông không đều nhau, - cô Lina lẩm bẩm rồi vừa thổn thức vừa rời bếp đi vắt sữa.

Nhưng cô chẳng cần lo nghĩ lâu về hai bên má không cân nhau của cô, vì đúng lúc cô ngồi xuống chiếc ghế vắt sữa thì một con ong vò vẽ bay đến và đốt vào má trái cô. Bây giờ người ta nghĩ hẳn cô sẽ hài lòng, vì má trái cô sưng lên nhanh chóng và phồng tướng y như má phải. Đúng, giờ thì cô đã toại nguyện rồi nhé, hai má đều tròn căng, ấy vậy mà cô lại còn khóc dữ hơn trước.

Lúc cô Lina bước vào bếp thì mọi người đã ngồi quanh bàn điểm tâm. Tôi có thể nói với bạn rằng tất cả đều trố mắt lên khi đột nhiên trông thấy một cái gì đó căng phồng, húp híp và đỏ tấy lù lù xuất hiện trên ngưỡng cửa. Đây mà là cô Lina sao! Trông cô đáng thương đến phát khóc, vì vậy mà Emil thật không tử tế khi nó lại cười. Nó vừa đưa cốc sữa lên miệng chực uống thì cô Lina bước vào, và khi nó ngước mắt qua miệng cốc thủy tinh nhìn cô thì nó phì cười mạnh đến nỗi sữa bắn qua bàn, bay vào chiếc áo gilê diện của bố. Có cả tiếng chú Alfred khe khẽ cười, phải, cô Lina quả thật khiến người ta thương xót!

Mẹ Emil nghiêm khắc nhìn Emil và chú Alfred, nói rằng ở đây thật sự chẳng có gì đáng cười cả. Nhưng trong lúc chùi khô áo cho bố, mẹ ngó cô Lina thêm lần nữa và có thể thấy mẹ đã hiểu tại sao Emil lại cười đến phì cả sữa ra như thế. Nhưng tất nhiên mẹ thương cô Lina.

- Khổ thân, - mẹ nói, - trông cô rất tệ và không thể để dân làng thấy cô trong bộ dạng này được. Emil, con chạy đến chỗ bà Krôsa-Maja nhờ bà ấy đến đây giúp chúng ta bưng cà phê ra mời khách!

Dân làng Lônneberga ai cũng thích dự tiệc cà phê sau lễ nhà thờ cả, và chắc chắn ở khắp các trang trại người ta đều phấn khởi khi nhận bức thư của mẹ Emil, trong đó bà viết:

Thưa các Ông các Bà, nếu các vị muốn đến nhà chúng tôi dùng cà phê sau lễ nhà thờ Chủ nhật này, chúng tôi hân hạnh kính mời.
Alma và Anton Svensson
Katthult Lônneberga


Đã đến giờ đi lễ nhà thờ. Bố mẹ Emil lên đường, vì tất nhiên trước hết họ phải đến nhà thờ dự lễ đã, sau đó mới có thể nói đến tiệc cà phê.

Còn Emil ngoan ngoãn đến chỗ bà Krôsa-Maja với lời nhắn của mẹ. Buổi sáng rất đẹp, và nó vui vẻ huýt sáo khi rẽ vào con đường mòn dẫn đến túp lều của bà Krôsa-Maja. Bà ấy sống trong một túp lều cũ trong rừng.

Nếu bạn đã từng có mặt trong một khu rừng tại vùng Smland vào một sớm Chủ nhật tháng Sáu, thì bạn sẽ lập tức nhớ lại tất cả: bạn nghe tiếng chim cu gáy gọi, tiếng chim sáo hót và cảm thấy những chiếc lá thông nhọn dưới đôi chân trần của bạn sao mà mềm mại và ánh mặt trời ấm áp mơn man trên gáy bạn mới dễ chịu làm sao. Bạn đi đến đó và thích hít mùi nhựa thông tỏa ra từ các loài thông trong rừng, bạn thấy hoa dâu rừng nở trên những khoảnh rừng thưa mới trắng làm sao. Emil cũng có cảm giác y như thế và vậy nên nó chẳng vội vàng gì, nhưng cuối cùng nó cũng tới được túp lều của bà Krôsa-Maja, túp lều bé xíu, xám xịt và vẹo vọ gần như ẩn mình sau những thân cây.

Bà Krôsa-Maja ngồi trong lều đọc tờ “Nhật báo Smland”, bà đang vừa hoảng sợ vừa hài lòng về điều gì đó mới đọc được trên báo.

- Dịch thương hàn đã đến Jôenkôeping, - bà nói trước khi chào Emil, và gí tờ báo trước mũi Emil để nó tận mắt trông thấy. Rất đúng, báo đăng hai nông dân ở Jôenkôeping đã bị mắc bệnh thương hàn nặng, và bà Krôsa-Maja gật đầu vẻ hài lòng.

- Thương hàn là một căn bệnh khủng khiếp, - bà nói. - Và nó sắp lan đến làng Lônneberga chúng ta, tin ta đi!

- Sao lại thế ạ? Làm sao nó lan đến tận đây được ạ? - Emil hỏi.

- Trong khi cháu vẫn còn đứng đây thì nó đã như hạt cây bồ công anh bay khắp vùng Smland rồi, - bà Krôsa-Maja nói. - Hàng kí hạt thương hàn ấy chứ. Và cầu Chúa che chở cho những ai ở đúng nơi mà chúng nảy mầm!

- Bệnh ấy như thế nào hả bà? Đại khái giống như dịch hạch phải không ạ? - Emil hỏi.

Bà Krôsa-Maja từng kể về dịch hạch. Bà biết tất cả các loại dịch bệnh, và dịch hạch là một thứ gì rất khủng khiếp, bà đã bảo vậy. Ngày xưa dịch hạch đã giết chết gần như tất cả người dân vùng Smland - nếu thương hàn cũng kinh khủng như thế thì sợ quá!

Bà Krôsa-Maja nghĩ ngợi giây lát.

- Ừ, nó cũng tương tự như dịch hạch, - bà hài lòng nói. - Ta không biết đích xác, nhưng ta nghĩ người mắc phải trước hết sẽ xanh lè cả mặt mũi, sau đó thì chết. Phải, thương hàn là một căn bệnh tệ hại, ôi chao, ôi chao!

Nhưng rồi bà cũng nghe chuyện cô Lina đau răng và nỗi khổ vì hai cái má sưng vù của cô, lại nhè đúng vào ngày có tiệc cà phê nữa. Thế là bà hứa sẽ cố gắng đến Katthult thật nhanh.

Emil trở về nhà và thấy cô Lina đang ngồi trên bậc thang dẫn vào bếp mà than vãn chuyện đau răng. Chú Alfred và bé Ida hoàn toàn bất lực đứng cạnh cô.

- Chắc em phải tìm đến lão Pelle-Răng thôi, - chú Alfred khuyên.

Lão Pelle-Răng là thợ rèn ở làng Lônneberga, chuyên nhổ răng đau cho dân làng bằng cái kìm to tướng, kinh khủng của lão.
- Lão đòi bao nhiêu khi nhổ một cái răng? - cô Lina hỏi trong tiếng nấc nghẹn ngào.

- Năm mươi xu một giờ, - chú Alfred đáp và cô Lina rùng mình khi nghĩ đến việc nhổ răng sẽ có thể kéo dài bao lâu và tốn bao nhiêu tiền.

Nhưng Emil suy nghĩ rất kỹ càng rồi bảo:

- Cháu nghĩ cháu có thể nhổ răng cho cô rẻ hơn và cũng nhanh hơn. Cháu biết phải làm thế nào!

Đoạn nó giải thích cho cô Lina, chú Alfred và bé Ida.

- Cháu chỉ cần hai thứ: con Lukas và một sợi chỉ vừa dài vừa chắc. Cháu sẽ buộc một đầu sợi chỉ vào cái răng của cô, cô Lina ạ, còn đầu kia buộc vào phía sau thắt lưng của cháu. Rồi cháu cưỡi con Lukas phi nước đại, thế là “plupp!” - cái răng của cô văng ra!

- “Plupp,” thôi, xin kiếu! - cô Lina phẫn nộ nói. - Đừng có nói chuyện phi nước đại với tôi!

Nhưng đúng lúc đó một cơn đau khủng khiếp nổi lên trong cái răng sâu, còn ghê gớm hơn ban nãy nữa, khiến cô Lina thay đổi ý kiến. Cô thở dài đánh sượt.

- Thôi thì cứ thử xem. Chúa sẽ an ủi kẻ khốn khổ nhất đời là tôi đây, - cô nói và đi lấy chỉ.

Rồi Emil bắt tay vào việc như nó đã nói. Nó dắt con Lukas ra trước bậc tam cấp ở cửa bếp, và sau khi đã buộc xong sợi chỉ như kế hoạch, nó trèo lên lưng ngựa. Cô Lina tội nghiệp đã bị buộc răng đứng sau đuôi con ngựa, vừa khóc rống lên vừa than vãn. Bé Ida rùng mình. Nhưng chú Alfred lại hài lòng bảo:

- Bây giờ chúng ta chỉ cần chờ nghe tiếng “Plupp” nữa thôi!

Emil đã thúc ngựa phi nước đại.

- Ôi, sắp rồi đấy! - bé Ida thốt lên.

Nhưng chẳng thấy tiếng “Plupp” nào cả. Vì nếu ở đây có ai cũng phi nước đại, thì đó là cô Lina. Cô sợ kinh khủng cái tiếng “Plupp” sẽ đến khi sợi chỉ đủ sức căng. Vì vậy mà cô chạy bán sống bán chết, nhanh ngang con Lukas. Mặc Emil ngoái lại gào lên là cô hãy đứng lại, cô Lina cứ chạy và sợi chỉ cứ chùng, nên làm sao có tiếng “Plupp” được.

Nhưng một khi Emil đã định giúp cô Lina thoát khỏi cái răng đau, thì nó quyết làm bằng được. Vì vậy mà nó tăng hết tốc lực phi thẳng ngựa đến hàng rào trước mặt và thúc cho con Lukas nhảy vọt qua rào. Cô Lina chạy đằng sau, sợ cuống cuồng đến phát điên, và nhìn kìa, cô cũng phi qua rào! Bé Ida đứng đó chứng kiến và sẽ không bao giờ quên được cái khoảnh khắc đó. Suốt đời cô bé vẫn sẽ nhớ cô Lina - hai má sưng phồng, ánh mắt hoảng loạn, một sợi chỉ lòng thòng ở miệng - đã bay qua hàng rào như thế nào và đã hét lên ra sao:

- Dừng lại! Dừng lại! Tôi chẳng thiết gì “Plupp” nữa!

Sau đó cô Lina xấu hổ vì đã làm hỏng mọi chuyện, nhưng đã muộn. Giờ đây cô lại ngồi trên bậc tam cấp ở cửa bếp, vẫn với cái răng đau, và ê chề trong thất bại.

Nhưng Emil không đầu hàng.

- Cháu phải nghĩ ra cách nào khác mới được, - nó nói.

- Ừ, nhưng là cách nào đừng nhanh quá nhé, - cô Lina cầu khẩn. - Cái răng khốn khổ này đâu có cần phải “plupp” một phát văng ra luôn. Cậu có thể làm cách nào từ từ vặn nó ra chẳng hạn!

Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Emil biết nó phải làm gì.

Cô Lina phải ngồi bệt dưới gốc cây lê to, còn Emil trói chặt cô vào thân cây với một sợi thừng chắc, trong khi bé Ida và chú Alfred tò mò đứng xem.

- Bây giờ thì đố cô chạy nhanh được nữa, - Emil nói. Rồi nó cầm sợi chỉ vẫn thò ra từ miệng cô Lina và kéo đến bàn quay đá mài, nơi chú Alfred vẫn mài lưỡi hái còn bố thì mài lưỡi rìu và dao. Emil buộc chặt sợi chỉ vào tay quay của bàn đá mài, sau đó nó chỉ cần ra tay nữa là ổn.

- Sẽ không phải là tiếng “Plupp” quá nhanh nữa, mà cái răng sẽ chỉ bị vặn ra từ từ với tiếng “Drrr” thôi, đúng ý cô nhé, - Emil nói.

Bé Ida rùng mình, cô Lina than khóc, rồi Emil bắt đầu quay tay quay. Sợi chỉ ban đầu nằm chùng dưới đất dần ngắn lại và mỗi lúc một căng dần. Sợi chỉ càng căng, cô Lina càng sợ. Nhưng cô không thể bỏ chạy.

- Sắp bắt đầu có tiếng “Drrrr” đấy, - bé Ida nói. Nhưng cô Lina đã hét lên:

- Dừng lại! Tôi không muốn!

Rồi nghĩ sao làm vậy, cô Lina nhanh như chớp móc trong túi tạp dề ra một cái kéo và cắt phăng sợi chỉ.

Sau đấy cô lại xấu hổ và buồn bã. Cô muốn thoát cái răng đau lắm chứ. Toàn bộ câu chuyện thật đáng thất vọng. Emil, chú Alfred và bé Ida nói chung không hài lòng. Emil nói:

- Cô cứ việc giữ lấy cái răng đau của cô! Cháu đã làm tất cả những gì có thể!

Nhưng cô Lina lại bảo nếu Emil muốn thử một lần duy nhất nữa thôi, thì - thề có trời đất chứng giám - nhất định cô sẽ không cho phép mình làm điều ngu ngốc nào khác nữa.

- Vì bây giờ phải nhổ cái răng đi thôi, cho dù tôi có phải chết, - cô nói. - Đưa thêm chỉ cho tôi nào!

Emil đã sẵn sàng cho cuộc thử nghiệm mới. Chú Alfred và bé Ida rạng rỡ mặt mày khi nghe Emil đồng ý.

- Dù sao cháu nghĩ làm thật nhanh vẫn là cách hay nhất, - Emil nói. - Nhưng phải làm cách nào để cô không thể lại bỏ lỡ cơ hội, dù cô có sợ đến đâu.

Và láu lỉnh như Emil vốn thế, nó lại có ngay một kế hoạch mới.

- Chúng ta sẽ đưa cô lên nóc chuồng bò, rồi cô nhảy từ trên đó xuống đống cỏ, khi cô còn đang rơi thì cái răng đã - “Plupp” - văng ra rồi!

- Plupp, - bé Ida nhắc lại và rùng mình.

Mặc dù đã hứa hẹn đủ thứ, giờ cô Lina lại cưỡng lại và không muốn lên mái nhà.

- Chỉ cậu mới nghĩ ra được những trò dã man như thế thôi, Emil ạ, - cô nói và cứ ương bướng ngồi lì trên bậc tam cấp.
Nhưng cái răng đau như điên, nên rốt cuộc cô đành thở dài não nuột đứng lên.

- Nào thì thử vậy, cho dù tôi sẽ phải chết.

Chú Alfred nhanh nhẹn bắc một cái thang lên nóc chuồng bò, rồi Emil leo lên. Tay cầm đầu sợi chỉ, Emil dắt cô Lina như dắt chó, còn cô thì ngoan ngoãn leo sau nó, cho dù cô vẫn tiếp tục rên rẩm.

Emil cầm theo một chiếc búa và một cái đinh sáu phân. Đóng xong cái đinh vào đỉnh nóc, nó buộc thật chắc sợi chỉ của cô Lina vào đấy, thế là tất cả đã sẵn sàng.

- Cô nhảy đi, - Emil giục.

Cô Lina đáng thương ngồi cưỡi trên sống nóc nhà, mắt trân trối ngó xuống dưới và than khóc đến xé lòng. Cô nhìn thấy dưới kia chú Alfred và bé Ida đang ngửa mặt lên, chờ đợi cô như một mẩu thiên thạch từ trên trời rơi xuống đống cỏ. Tiếng than khóc của cô Lina nghe càng tuyệt vọng hơn.

- Tôi không dám... quả là... tôi không dám đâu!

- Được, nếu cô cứ muốn giữ lấy cái răng đau của cô, thì tùy cô... cháu thế nào cũng xong, - Emil nói.

Thế là cô Lina khóc rống lên khiến cả làng Lônneberga đều nghe thấy. Rồi cô run rẩy đứng lên và cứ thế đứng thẳng người, sát mép ngoài đỉnh nóc. Cả người cô cứ đu đưa hết ra phía trước lại về phía sau, trông cứ như một cây tùng trong gió bão. Bé Ida vội bịt mắt lại, không dám nhìn.

- Hu hu, hu hu! - cô Lina nức nở.

Giả sử trong mồm không có một cái răng nào, thì việc nhảy từ nóc chuồng bò xuống cũng đủ đáng sợ lắm rồi, đằng này cô Lina lại biết rằng trong lúc mình nhảy cái răng sẽ văng ra với một tiếng “Plupp” kinh khủng, điều đó vượt quá sức chịu đựng của một con người.

- Nhảy đi, Lina! - chú Alfred lớn tiếng giục. - Nhảy đi nào!

Cô Lina rên lên và nhắm mắt lại.

- Cháu sẽ giúp cô, - Emil nói, ân cần như nó vốn thế. Nó chỉ việc chọc nhẹ ngón tay chỏ vào lưng cô Lina một cái là cô lập tức rú lên và rơi khỏi nóc nhà.

Người ta có nghe một tiếng “Plupp” khe khẽ, nhưng đấy là tiếng cái đinh sáu phân bật khỏi đỉnh nóc nhà.

Cô Lina nằm trên đống cỏ, cái răng đau vẫn nguyên trong mồm, còn ở đầu kia sợi chỉ lủng lẳng cái đinh sáu phân. Thế là cô nổi cáu với Emil.

- Cậu chỉ giỏi bày những trò quỷ quái và điên rồ thôi, còn khi cần nhổ răng thì rõ là đồ vô tích sự!

Cô Lina tức giận thế mà lại hay cho cô, vì trong cơn thịnh nộ cô phăm phăm đi thẳng đến chỗ lão Pelle-Răng. Lão thợ rèn dùng chiếc kìm kinh khủng của lão kẹp vào răng cô Lina và - “Plupp” - lão nhổ nó ra. Cô Lina giận dữ ném cái răng vào đống phân nhà lão, rồi quày quả bỏ về nhà.

Giờ không ai được nghĩ rằng trong lúc đó Emil chỉ biết ngồi không. Chú Alfred nằm xuống bãi cỏ dưới cây lê đánh một giấc, nên lúc này Emil không thể chơi đùa với chú được. Vì vậy nó cùng bé Ida đi vào buồng ngủ, nghĩ rằng hai đứa có thể chơi với nhau một lúc trong khi chờ bố mẹ đi lễ nhà thờ về và tiệc cà phê bắt đầu.

- Chúng mình chơi trò giả vờ anh làm ông bác sĩ ở Mariannelund, còn em là đứa bé bị ốm đến chữa bệnh đi! - Emil rủ.

Bé Ida bằng lòng ngay. Cô bé cởi quần áo ngoài, lên giường nằm, còn Emil khám họng, nghe tim phổi, y như ông bác sĩ ở Mariannelund.

- Cháu bị bệnh gì thế ạ? - bé Ida hỏi.

Emil nghĩ ngợi, rồi chợt chẩn đoán ra bệnh.

- Cháu bị bệnh thương hàn, - nó nói. - Đó là một căn bệnh kinh khủng.

Nhưng nó bỗng sực nhớ bà Krôsa-Maja bảo rằng hình như mặt người mắc bệnh thương hàn bị xanh lè ra. Vốn rất quy củ trong những việc như thế này, Emil lập tức tìm kiếm thứ gì có thể giúp nó làm cho bé Ida có đúng sắc mặt của người bệnh. Trên nóc tủ ngăn thấp có lọ mực mà mẹ Emil vẫn cần đến khi bà ghi chép những trò nghịch tinh của Emil hoặc viết những lá thư mời dự tiệc cà phê. Ngoài ra tờ giấy mà mẹ nháp thư mời vẫn còn nằm trên nóc tủ. Emil đánh vần dòng chữ “trân trọng kính mời” mà cứ thán phục sao mẹ viết giỏi và hay thế, lịch sự thế. Khác hẳn cái chú Adrian vừa thoát mù chữ, lại đi viết là “chông thấy một con ghấu”.

Bây giờ mẹ không cần bản nháp này nữa, thế nên Emil vo viên tờ giấy lại và đút vào lọ mực. Khi viên giấy đã hút đầy mực, nó bèn moi ra, kẹp giữa hai đầu ngón tay và tới gần bé Ida.

- Ida, giờ em sẽ biết thương hàn là thế nào, - Emil bảo, còn bé Ida thích thú cười khúc khích.

- Nhắm chặt mắt vào, kẻo mực rây vào mắt, - Emil ra lệnh, rồi bôi xanh lè khắp mặt bé Ida. Nhưng vốn thận trọng, nó không bôi sát vào mắt em, mà giữ nguyên màu da ở chỗ đó, thành thử nơi mắt bé Ida nổi bật hai cái lỗ tròn màu trắng to tướng. Hai cái lỗ trắng đó trên nền xanh khiến bé Ida có vẻ ngoài ốm đau đáng sợ đến nỗi Emil cũng phát hốt - trông cô bé gần giống một con khỉ ma nhỏ mà Emil từng thấy trong một bức ảnh in trong cuốn “Cuộc sống của loài vật” ở chỗ ông mục sư.
- Hú, bà Krôsa-Maja nói đúng thật, thương hàn là một căn bệnh khủng khiếp! - Emil nói.

Đúng lúc ấy bà Krôsa-Maja hấp tấp từ trong rừng ra và gặp cô Lina vừa đi nhổ răng về ở chỗ hàng rào của trang trại Katthult.
- Cô sao rồi? - bà Krôsa-Maja quan tâm hỏi. - Cái răng vẫn còn đau hở?

- Tôi biết đâu được đấy, - cô Lina nói.

- Cô không biết ư? Ý cô muốn nói gì?

- Tôi không biết, vì cái đồ nỡm ấy đang nằm trong đống phân nhà lão Pelle-Răng. Nhưng tôi mong là nó cứ nằm đấy mà chịu những cơn đau hành hạ đến phát khóc.

Cô Lina hớn hở, nãy giờ má cô đã bớt sưng nhiều. Cô đi đến gốc cây lê để khoe chú Alfred chỗ răng hổng. Còn bà Krôsa-Maja tiếp tục đi vào bếp để sửa soạn cho bữa tiệc cà phê. Bà nghe tiếng bọn trẻ trong buồng ngủ và rất muốn ghé vào chào cô bé Ida mà bà yêu quý.

Nhưng khi trông thấy đứa bé yêu quý nằm trên giường với bộ mặt xanh lè dễ sợ nổi bật trên chiếc gối trắng tinh thì bà la toáng lên:

- Ối trời đất ơi...

- Thương hàn đấy ạ, - Emil khẽ cười nói.

Đúng lúc đó có tiếng bánh xe lăn lọc cọc ngoài đường. Đó là mọi người từ lễ nhà thờ về: bố Emil, mẹ Emil và cả đám khách mời, dẫn đầu là ông mục sư. Sau khi tháo bỏ yên cương ở chuồng ngựa, họ kéo nhau lên nhà trên trong lòng hoan hỉ vì sắp được uống cà phê. Nhưng bà Krôsa-Maja đứng trên bậc tam cấp mà gào với giọng chói tai:

- Đi khỏi đây! Đi khỏi đây ngay! Trang trại này có dịch thương hàn!

Tất cả mọi người giật mình, sửng sốt và sợ hãi dừng lại. Nhưng mẹ Emil hỏi:

- Bà nói gì thế? Ai bị thương hàn ở đây?

Đột nhiên bé Ida xuất hiện sau lưng bà Krôsa-Maja trong chiếc áo ngủ, mặt bôi mực xanh lè với hai hốc mắt màu trắng.

- Con ạ, - Ida nói và khúc khích cười thích thú.

Tất cả phá lên cười, tất cả - trừ bố Emil. Ông quát to, đai giọng:

- Thằng Emil đâu rồi?

Nhưng Emil đã biến mất. Suốt tiệc cà phê nó không hề ló mặt ra.

Sau khi tiệc tàn, ông mục sư vào bếp để an ủi bà Krôsa-Maja lúc bấy giờ đang ngồi đó, vừa tức giận vừa buồn thỉu buồn thiu vì hóa ra không phải dịch thương hàn thật. Khi ông mục sư đã an ủi xong thì xảy ra một chuyện lạ: ánh mắt ông vô tình bắt gặp chồng thư của Emil nằm vạ vật trên một cái ghế.

Ông mục sư reo lên một tiếng hoan hỉ và cầm vội bức thư chú Adrian gửi từ Mỹ về.

- Không, không lẽ nào chính các con lại đang có con tem mà cha bấy lâu nay đã nhọc công tìm kiếm!
Chẳng là ông mục sư sưu tầm tem nên biết giá trị của những con tem hiếm. Lúc này ông không chút đắn đo trả ngay con tem dán trên bì thư của chú Adrian bốn mươi đồng.

Khi nghe đến con số đó, bố Emil nghẹn cả thở. Thử tưởng tượng có người lại muốn trả cho cái mẩu giấy rách bé tí tẹo ấy những bốn mươi đồng! Bố lắc đầu như thể bất bình. Phải, tất nhiên thằng bé Emil lại gặp may! Giờ đây rõ ràng cái hộp nhung cũ cũng lại là một vụ làm ăn thành công, thậm chí thành công nhất trong các vụ làm ăn mà Emil đã làm ở phiên đấu giá!

- Với bốn mươi đồng thì tôi đã có thể mua được nửa con bò đấy, thưa cha, - bố Emil nói, hơi có ý trách móc ông mục sư.

Đến nước này thì Emil không thể trốn mãi trong cái hòm gỗ được nữa. Nó nhấc nắp hòm lên và tò mò thò đầu ra.

- Nếu bố mua một nửa con bò, - nó lên tiếng, - thì bố sẽ mua nửa trước biết kêu ò ò, hay nửa sau có cái đuôi ve vẩy, hả bố?
- Xuống xưởng mộc ngay, Emil! - Bố đáp.

Thế là Emil đi. Nhưng trước đó nó còn nhận từ tay ông mục sư bốn tờ bạc mười đồng đẹp đẽ. Hôm sau Emil cưỡi ngựa đến trang trại Backhorva để trao lại bức thư của chú Adrian và đưa thêm cho gia đình họ một nửa số tiền. Sau đó nó cưỡi ngựa ra về trong tiếng chúc phúc của chủ nhà và bắt đầu bận rộn với những trò nghịch ngợm mới.

- Con nghĩ là con nên đi thăm thêm vài phiên đấu giá nữa, - Emil nói với bố khi về đến nhà. - Bố cũng nghĩ thế chứ?

Bố nó làu bàu gì đó đáp lại, nhưng không ai hiểu ông nói gì.

Nhưng như đã kể, suốt tối Chủ nhật - sau tiệc cà phê - Emil ngồi trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm ba mươi của nó và sực nhớ hôm nay là Chủ nhật. Vào ngày này người ta không được dùng dao để cắt, đấy sẽ là một tội lỗi khủng khiếp. Hình như người ta cũng không được nhổ răng hay bôi xanh mặt người khác. Emil đặt con hình nhân lên giá gỗ, cạnh các hình nhân khác.

Nó cứ thế ngồi trên cái thớt gỗ lớn trong khi bên ngoài cửa sổ xưởng mộc màn đêm đang buông xuống, và suy nghĩ về những tội lỗi của mình. Cuối cùng Emil chắp hai tay lại và cầu nguyện:

“Lạy Chúa kính yêu, Chúa hãy phù hộ để cháu thôi nghịch! Hân hạnh kính mời Emil Svensson – Katthult – Lônneberga.”


Tác giả: blue.smile    Thời gian: 13-9-2011 04:50 PM
Thứ Ba, ngày mồng 10 tháng Tám,
ngày Emil bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn và sau đó gây chuyện kinh khủng đến nỗi hầu như không ai muốn nhắc chuyện đó nữa


Thật ra bố Emil có thể khiến người khác hơi thương hại một chút. Trong khi thằng con hết thành công từ vụ làm ăn điên rồ này đến vụ làm ăn điên rồ khác thì ông bố lại phải trở về nhà từ phiên đấu giá với độc một lèo mười một chú lợn con – điều mà không ai ngờ – rồi cắn chết luôn mười con. Thỉnh thoảng vẫn có những con lợn nái cắn chết con mình như thế. Chú lợn con thứ mười một lẽ ra cũng đã về chầu trời, nếu Emil không ra tay cứu kịp. Chẳng là đang nửa đêm thì Emil bị đau bụng nên phải ra sau nhà. Khi đi ngang chuồng lợn, nó nghe tiếng một con lợn con kêu cứu. Emil mở toang cửa chuồng và xộc vào đúng vào giây cuối cùng, và cũng trong chính giây cuối cùng ấy, nó giật con lợn con từ con lợn mẹ hung ác. Phải, đó đúng là một con lợn nái độc ác, nhưng liền đó con lợn này mắc một căn bệnh lạ và ba ngày sau thì chết. Thế là bố Emil, ông bố tội nghiệp, còn trơ lại một chú lợn con đáng thương duy nhất. Đó là tất cả những gì ông còn giữ lại được từ phiên đấu giá ở Backhorva! Thế nên không có gì lạ khi thấy ông ủ dột.

- Ở trang trại Backhorva mọi con vật đều thảm hại và quặt quẹo, – buổi tối trước khi đi ngủ bố bảo mẹ. – Có một lời nguyền nào đấy ám vào gia súc của họ, có thể thấy rất rõ điều đó.

Emil nằm trên chiếc giường kê ở cuối phòng nghe thấy, lập tức thò đầu ra khỏi mép giường.

- Con có thể nhận nuôi con lợn, – nó nói. – Con không quan tâm đến chuyện nó bị nguyền rủa.

Nhưng bố không muốn nghe.

- Lúc nào con cũng muốn có hết thứ này đến thứ khác, – ông chua chát nói. – Thế còn bố? Bố không bao giờ có một thứ gì à?

Thế là Emil im lặng và khá lâu sau không nhắc chuyện con lợn nữa. Mà con lợn này đúng là quặt quẹo khác thường. Nó gày gò, xanh rớt và chẳng có mấy sức sống. Chắc chắn lời nguyền đã cướp đi sức lực của nó, Emil nghĩ vậy và thấy thật kinh khủng khi có kẻ nỡ đang tâm làm hại một chú lợn con vốn chưa bao giờ làm điều ác cho ai như thế.

Mẹ cũng nghĩ như Emil.

- Đứa trẻ đáng thương, – mẹ nói.

Cô Lina quý các con vật, đặc biệt là chú lợn con này.

- Nhóc Lợn đáng thương, – cô nói. – Chắc nó sắp chết đến nơi.

Và lẽ ra nó đã chết chắc, nếu như Emil không bế nó vào bếp và lấy một chiếc chăn mềm lót ổ cho nó trong một cái giỏ. Emil cho con lợn bú sữa bình và chăm sóc nó hệt một người mẹ.

Chú Alfred vào bếp, thấy Emil đang cố đút cho con vật nhỏ bé ăn, liền hỏi:

- Con lợn làm sao vậy?

- Nó bị nguyền rủa và chẳng chịu ăn, – Emil đáp.

- Ra vậy, nhưng tại sao nó cau có thế? – Chú Alfred lại hỏi.

Emil bèn giải thích rằng con lợn nhỏ không cau có mà chỉ yếu ơt và khốn khổ, vì một lời nguyền đã ám vào nó.

- Nhưng cháu sẽ chiến thắng lời nguyền đó, – nó khẳng định. – Cháu sẽ giữ con lợn này sống bằng được, cháu quyết thế rồi.

Và đúng là Emil làm được thật! Chẳng bao lâu sau con lợn trở nên tươi tỉnh, dễ thương, tròn trĩnh và hồng hào, đúng như những chú lợn con cần phải thế.

- Tôi thật sự tin rằng Nhóc Lợn nhà ta đã thoát chết, – cô Lina nói. Cô gọi nó là “Nhóc Lợn”, và chừng nào còn sống con lợn vẫn giữ cái tên đấy.

- Phải, đúng là cu cậu đã thoát chết, – bố Emil nói. – Con đã làm tốt lắm, Emil!

Emil rất vui khi được bố khen. Nó thận trọng nói:

- Con phải cứu sống con lợn mấy lần nữa thì mới có được nó, hả bố?

Nhưng bố chỉ “hừm” một tiếng và sa sầm nét mặt, khiến Emil im bặt và khá lâu sau không dám nhắc chuyện chú lợn con nữa. Bây giờ Nhóc Lợn phải quay về chuồng, nhưng nó không thích ở đó lắm. Nó chỉ thích nhất là được lẽo đẽo theo chân Emil như một con cún và Emil cũng để nó chạy rông hầu như suốt cả ngày.

- Nhất định nó tưởng anh là mẹ nó, – bé Ida nói. Mà có lẽ nó tưởng thế thật, vì hễ Nhóc Lợn nhìn thấy Emil là nó reo lên eng éc và chạy theo Emil. Nhóc Lợn thích quấn quít bên Emil và khoái nhất là được Emil gãi lưng, gì chứ việc này thì Emil làm không biết mệt.

- Anh rất mát tay gãi lưng cho lợn, – Emil bảo bé Ida. Nó ngồi trên ghế xích đu dưới cây anh đào và gãi lưng cho Nhóc Lợn vừa lâu vừa kỹ, còn Nhóc Lợn vừa đứng lim dim mắt và kêu lên khe khẽ để thể hiện sự khoan khoái của mình.

Những ngày hè đến rồi đi, những trái anh đào dần chín trên đầu. Nhóc Lợn đang đứng cho Emil gãi lưng. Chốc chốc Emil lại hái một vốc cây anh đào và cho Nhóc Lợn ăn, vì Nhóc Lợn rất thích anh đào. Và thích Emil. Phải, mỗi lúc nó càng thấm thía cuộc đời của một con lợn mới tuyệt làm sao, nếu may mắn được số phận run rủi đến một nơi có cậu chủ như Emil.

Emil càng ngày càng quý Nhóc Lợn. Một hôm đang ngồi trên xích đu gãi lưng cho Nhóc Lợn, Emil bỗng nghĩ xem nó yêu quý Nhóc Lợn đến mức nào và ngoài ra nó còn yêu quý những ai nữa.

Đầu tiên là chú Alfred, Emil nghĩ, rồi đến con Lukas, rồi đến bé Ida, liền sau đó là Nhóc Lợn….. nhưng, ồ – mình quên mất mẹ! Tất nhiên là mẹ…..rồi đến chú Alfred, con Lukas, bé Ida và Nhóc Lợn.

Emil nhướn cao lông mày, suy nghĩ rất lung.

Rồi sau đấy còn có bố và cô Lina, nó nghĩ. Ồ phải, có những ngày mình yêu bố, nhưng có những ngày lại không. Còn cô Lina – mình chẳng biết mình có quý cô ấy không nữa………….. cô ấy có thể chạy đua với mình như con mèo chẳng hạn.

Tất nhiên dường như không ngày nào là Emil không bày trò nghịch ngợm và nó cũng chăm chỉ giam mình trong xưởng mộc – các cuốn vở màu xanh ghi chép thời ấy cho thấy như vậy. Nhưng lúc này đang giữa vụ gặt nên mẹ Emil quá bận rộn, thi thoảng chỉ ghi vội mấy chữ “Emil trong xưởng mộc” mà không kể rõ lý do.

Bây giờ lần nào phải xuống xưởng mộc Emil cũng mang theo Nhóc Lợn, vì thời gian sẽ trôi nhanh hơn khi có con lợn nhỏ yêu quý ở bên. Emil không thể lúc nào cũng đẽo hình nhân bằng gỗ. Thay vào đó, Emil dạy cho Nhóc Lợn đủ thứ trò mà hẳn có nằm mơ cũng không một ai trong khắp làng Lönneberga này tin nổi một con lơn bình thường ở Smăland lại có thể học được. Emil giữ bí mật tuyệt đối khi làm việc này, còn Nhóc Lợn thì rất dễ dạy và hài lòng với mọi việc,đặc biệt là hễ học xong một trò mới, thế nào nó cũng được Emil thưởng cho một món ăn khoái khẩu. Chẳng là Emil có một kho dự trữ gồm bánh mỳ sấy, bánh quy, anh đào khô và rất nhiều món khác ăn được cất trong một cái hộp sắt bí mật giấu sau bàn bào trong xưởng mộc. Vì Emil không bao giờ biết khi nào mình lại bị nhốt vào đây và không muốn mình phải chịu đói một cách không cần thiết.

- Chỉ một chút tinh khôn và một ít anh đào kho là có thể dạy cho con lợn gần như mọi thứ, – Emil tuyên bố với chú Alfred và bé Ida vào một tối thứ Bảy nọ, khi nó trình diễn cho họ xem những tiết mục bí mật của Nhóc Lợn mà cho tới nay chưa có ai làm được. Việc này diễn ra trong bụi tử đinh hương và đó là một khoảnh khắc vĩ đại đối với cả hai, với Emil và với cả Nhóc Lợn. Chú Alfred và bé Ida ngồi trên chiếc ghế băng và cứ trợn tròn mắt vì ngạc nhiên trước những khả năng không ngờ của Nhóc Lợn. Một con lợn như nó không thể có đến lần thứ hai. Nhóc Lợn có thể ngồi ngoan ngoãn như một con chó khi Emil ra lệnh: “Nằm chết nào!” Nó còn giơ cả chân trước bên phải lên cảm ơn sau khi được thưởng anh đào khô.

Bé Ida thích chí vỗ tay.

- Nó còn biết trò gì nữa không ạ? – Cô bé háo hức hỏi.

Thế là Emil lệnh: “Phi nước đại!” Chưa dứt lời. Nhóc Lợn đã cắm cổ chạy theo hình vòng tròn trong bụi tử đinh hương. Và khi Emil cứ chốc chốc lại hô: “Nhảy!” là Nhóc Lợn lập tức co cẳng nhảy tưng lên trong không trung, sau đó lại co cẳng chạy tiếp, xem ra rất hài lòng với bản thân.

- Ôi nó mới đáng yêu làm sao! – Bé Ida thốt lên. Mà quả thật Nhóc Lợn rất đáng yêu khi nó nhảy tưng lên giữa đám cây.

- Suy cho cùng một con lợn làm được như thế là phi tự nhiên, – chú Alfred nói.

Nhưng Emil rất tự hào vào sung sướng. Khắp làng Lönneberga và cả vùng Smăland này làm gì có con lợn nào như nó, chắc chắn là như vậy.

Dần dần Emil còn dạy Nhóc Lợn nhảy dây nữa. Bạn đã thấy một con lợn nhảy dây bao giờ chưa? Chưa, bạn chưa thấy, và bố Emil cũng chưa. Nhưng một ngày nọ, khi đi xuống chuồng lợn, bố Emil bắt gặp Emil và bé Ida đang đứng cầm hai đầu của sợi dây cương ngựa cũ và quay đều. Nhóc Lợn ở giữa nhảy tưng tưng qua dây, mỗi khi sợi dây hạ xuống. Nhóc Lợn nhảy hăng đến nỗi cát tung lên quanh những cái móng của nó.

- Nhảy dây khiến nó rất thú vị, – bé Ida nói, nhưng bố không cần đâu.

- Lơn không cần vui, – bố nói. – Chúng cần trở thành món đùi lợn muối cho Giáng sinh. Nhưng cứ nhảy như thế này thì nó sẽ gày như một con chó săn và bố không muốn thế.

Lời bố nói như dao cứa vào lòng Emil. Món đùi lợn muối làm từ Nhóc Lợn ư –chưa bao giờ Emil nghĩ đến chuyện đấy!

Nhưng bây giờ thì nó nghĩ. Và nó tự hỏi phải chăng đây là những ngày mà nó cảm thấy không yêu bố lắm.

Đó là ngày thứ Ba, mồng 10 tháng Tám    , ngày mà Emil không yêu bố lắm. Đó là buổi sáng sớm của một ngày hè nắng ấm, khi Nhóc Lợn con nhảy dây trước chuồng và bố Emil nói đến món đùi lợn muối Giáng sinh. Sau đó bố biến mất, vì hôm nay trang trại Katthult bắt đầu thu hoạch lúa mạch đen, và bố sẽ phải ở ngoài ruộng lúa mạch đến tối mịt.

- Nhóc Lợn ơi, điều tốt nhất mà mày có thể làm là hãy gày gò như một con chó săn, như thế may ra mày sẽ thoát, – Emil nói khi bố nó đã bỏ đi, – nếu không thì ….. mày không biết bố tao đâu.

Suốt ngày Emil cứ quanh quẩn và lo lắng cho Nhóc Lợn của nó, thành thử nó chỉ bày một vài trò nghịch ngợm nho nhỏ hầu như không ai nhận thấy. Nó đặt bé Ida vào một cái cái máng cũ vốn đựng nước cho bò và ngựa, chơi trò giả vờ đó là một con thuyền trên biển. Sau đó nó bơm nước đầy máng, giả vờ thuyền bị thủng và đang trong cơn nguy nan vì bị ngập nước. Bé Ida ướt sũng từ đầu đến chân và thấy trò này rất vui. Sau đó Emil dùng cung tên bắn vào liễn kem tươi mà mẹ đặt trên bậu cửa sổ kho thực phẩm để làm mát. Nó chỉ xem xem liệu mình có bắn trúng được không, chứ đâu ngờ cái liễn sẽ bị vỡ, nhưng cái liễn lại vỡ toang. Thế là Emil lấy làm mừng vì bố đang ở tít ngoài ruộng lúa mạch. Mẹ chỉ bắt nó ngồi một lúc trong trong xưởng mộc, phần vì mẹ thương nó, phần vì mẹ cần nó mang giúp cà phê cho những người đang thu hoạch ngoài đồng. Trước kia dân làng Lönneberga và dân vùng Smăland thích uống cà phê khi đang làm đồng và ở trang trại nào cũng vậy, bao giờ cũng là đám trẻ con mang cà phê ra đồng.

Quả thật chúng là những tiếp phẩm viên xinh đẹp và dễ thương, những đứa trẻ ở Smăland này, khi chúng xách những chiếc giỏ đi xuyên rừng, qua các cánh đồng cỏ, đi trên những con đường mong ngoằn ngoèo kết thúc ở một thửa ruộng khô cằn sỏi đá chất đống mà mới nhìn đã đủ phát khóc. Tất nhiên lũ trẻ ở Smăland không khóc, vì xen giữa đám sỏi đã mọc lên những trái dâu rừng, mà dâu rừng thì chúng rất thích.

Ngày hôm đó Emil và bé Ida được cử mang cà phê ra đồng. Hai anh em lên đường từ sớm, cùng cẩn thận khiêng  cái giỏ và đi khá nhanh. Nhưng Emil có thói không bao giờ thích đi đường thẳng mà cứ tìm những con đường ngoằn ngoèo dẫn đến những nơi mà nó có cái để ngó nghiêng. Mà Emil đã đi đâu thì bé Ida theo đó. Hôm nay Emil chọn con đường dẫn xuống đầm lầy. Ở đó rất sẵn ếch và quả nhiên nó đã bắt được một con. Emil rất muốn quan sát con ếch kỹ hơn, ngoài ra nó nghĩ biết đâu con ếch muốn thay đổi không khí một chút thay vì suốt ngày phải ngồi trong đầm lầy. Thế là nó bỏ con ếch vào trong giỏ cà phê và đóng nắp giỏ lại. Bây giờ con ếch đã được an toàn.

- Anh còn biết nó bò vào đâu được nữa? – Emil nói khi bé Ida hỏi liệu bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn như thế có tốt hay không. – Hai túi quần anh đều bị thủng. Hơn nữa anh cũng chỉ giữ nó một lúc thôi. Chốc nữa nó lại có thể trở về đầm lầy được rồi.
Emil đúng là một thằng bé biết lẽ phải.

Trên ruộng lúa mạch đen, bố và chú Alfred đang gặt bằng lưỡi hái, cô Lina và bà Krösa–Maja theo sau, lượm lúa bó thành bó. Ngày trước người ta vẫn làm như thế đấy.

Khi Emil và bé Ida cuối cùng cũng xuất hiện, chúng không được bố chào đón như những tiếp phẩm viên xinh đep dễ thương mà chúng còn bị ăn mắng vì đến muộn. Đã đến giờ uống cà phê mà cà phê phải có mặt đúng giờ đến từng phút.

- Vâng, nhưng bây giờ chúng ta làm một ngụm cũng hay, – chú Alfred nói với dụng ý tốt, muốn đánh lạc hướng bố Emil.
Và nếu bạn đã từng có mặt quanh ấm cà phê trên cánh đồng ở vùng Smăland vào một ngày ấm áp tháng Tám, thì bạn biết cái cảm giác sung sướng khi được ngồi quây quần bên một đống sỏi đá chan hòa ánh mặt trời mà trò chuyện, nhâm nhi tách cà phê, ăn bánh mỳ bơ và thư giãn. Nhưng bố Emil vẫn còn đang bực mình và không bớt bực mình khi ông giằng lấy cái giỏ và mở nắp ra. Là vì con ếch nhảy trúng vào người ông, chui tọt vào bên trong lần áo mà ông đã phanh khuy ngực ra vì nóng bức. Những bàn chân nhỏ của con ếch lạnh ngắt khiến bố Emil thấy ghê tởm. Ông khua tay loạn để đẩy nó đi, nhưng không may lại gạt trúng ấm cà phê khiến ấm cà phê lật nhào. Nhưng Emil đã rất nhanh tay dựng cái ấm dậy, thành thử chỉ bị đổ một ít. Không thấy con ếch đâu nữa. Quá sợ hãi, con ếch đã rúc xuống dưới quần bố Emil, và khi nhận thấy thế, bố Emil như hóa dại. Bố nhảy dựng lên, chân đá tứ tung để rũ bỏ con ếch khỏi ống quần, nhưng đáng tiếc ấm cà phê lại một lần nữa vướng cẳng bố. Một cú đá, thế là cái ấm lại lật nhào, nếu không có Emil nhanh tay dựng cái ấm, thì hẳn họ đã có một giờ uống cà phê không có cà phê rồi, mà như thế thì buồn phải biết.

Quả là con ếch không thích cứ ở mãi một chỗ. Nó tụt ra khỏi ông quần bố và Emil bắt lấy nó. Nhưng bố Emil vẫn còn tức giận. Bố cứ nghĩ con ếch là một trong những trò nghịch ngợm thường xuyên của Emil, nhưng thật ra đâu phải thế. Emil nghĩ cô Lina sẽ là người mở nắp giỏ và cô sẽ vui sướng khi trông thấy trong giỏ có một chú ếch nhỏ đáng yêu. Tôi nhắc tất cả điều này là để bạn hiểu rằng cuộc sống với Emil không phải lúc nào cũng dễ dàng, và đôi khi nó phải chịu tội cho những trò nghịch vốn không phải là trò nghịch. Mà bố Emil nghĩ sao chứ, liệu Emil có thể bỏ con ếch vào đâu được đây, khi mà cả hai túi quần của nó đầy những lỗ thủng?

Cô Lina vẫn hay luôn mồm nhận xét về Emil: “Nó lúc nào cũng chỉ bầy trò quậy phá, cái thằng nhóc này! Thật tôi chưa từng thấy thằng quỷ con nào như nó. Mà giả sử không phải chính nó bày trò, thì cũng vẫn có đủ chuyện không hay xảy ra với nó!”
“Vẫn có đủ chuyện không hay xảy ra với nó,” cô Lina đã nói những lời chí lý! Những lời này được chứng thực qua sự việc sẽ còn xảy ra trong ngày hôm ấy.

Người ta hầu như không thể kể về việc đã xảy ra với Emil. Việc này tệ hại tới mức cả làng Lönneberga mãi sau này hễ nhớ lại vẫn còn thở dài và ca thán. Mà tất cả đã xảy ra chỉ vì mẹ Emil là một bà nội trợ quá đảm đang mà đúng năm nay trang trại Katthult lại bội thu anh đào. Thế thì Emil đâu có lỗi về tất cả chuyện đó, không, nó không có lỗi, ấy vậy mà chuyện vẫn cứ xảy ra.

Mẹ Emil vô địch về các khoản muối ô mai, làm nước quả, nấu mứt và sấy khô bảo quản tất cả những gì kiếm được trong rừng hoặc mọc trong vườn nhà. Mẹ hái về nào quả việt quất đỏ, việt quất tím, rồi phúc bồn tử, càng nhiều càng tốt. Mẹ làm món táo nấu nhừ, lê tẩm gừng, rồi thạch phúc bồn tử, mứt dâu, nước anh đào, và lo trữ các loại quả khô cho các món súp rau quả ngon lành mà mẹ sẽ nấu trong suốt mùa đông. Trong lò lớn trong bếp mẹ sấy táo, lê và anh đào, rồi để chúng vào những cái bao bằng vải gai trắng, sau đó sẽ treo những bao quả khô này dưới trần kho trữ thực phẩm. Phải, được thấy kho trữ thực phẩm của mẹ là cả một niềm vui.

Đang giữa mùa thu hoạch anh đào thì bà Petrell sang trọng từ thị trấn Vimmerby đến thăm trang trại Katthult và mẹ Emil có ca cẩm một chút với bà về quá ư nhiều anh đào chín đến nỗi mẹ sắp không biết phải làm gì với chúng.

- Cô nên làm rượu vang anh đào đi, – bà Petrell khuyên.

- Không, Chúa che chở để tôi không làm việc đó, – mẹ Emil nói.

Mẹ không muốn nghe về rượu vang anh đào. Trang trại Katthult là một chốn không rượu chè. Bố Emil không bao giờ nhấp môi những đồ uống nồng hơi men, thậm chí cả bia cũng không. Tuy nhiên, nếu ở các phiên chợ hoặc đâu đó có ai mời thì bố khó lòng từ chối. Bố biết làm sao được nếu có ai mời bố uống bia, một hoặc hai chai gì đó! Bố có thể nhẩm tính rất nhanh là hai chai bia giá những ba mươi xu. Chỉ còn mỗi cách là uống cho dù có thích hay không. Nhưng rượu vang anh đào thì bố sẽ không đời nào đụng đến. Mẹ biết rõ và cũng bảo với bà Petrell như thế. Nhưng bà Petrell cứ cho rằng ở trang trại Katthult không ai uống rượu vang đi nữa, thì vẫn còn những người khác không phản đối một li vang nhỏ. Bản thân bà ta cũng vô cùng muốn có vài chai vang anh đào, vậy tại sao mẹ Emil lại không lặng lẽ ủ anh đào trong một cái vò lớn để lên men và cất cài vò đó tại một góc khuất dưới hầm để khoai tây nhỉ! Qua thời gian ủ men, bà Petrell sẽ đến để lấy rượu vang và trả tiền hậu hĩnh, bà ta nói.

Mẹ Emil luôn khó lòng nói lời từ chối, một khi có ai đề nghị mẹ việc gì. Thêm nữa, như đã nói, mẹ là một phụ nữ rất đảm đang, không nỡ để lãng phí bất cứ thứ gì. Anh đào khô thì mẹ đã trữ thừa mức cần thiết rồi. Đột nhiên, chính mẹ cũng không thật hiểu tại sao, mẹ hứa với bà Petrell là sẽ làm rượun vang cho bà ta. Nhưng mẹ Emil không phải là người thích giữ bí mật, bèn kể lại với bố Emil. Thoạt tiên bố cũng càu nhàu, nhưng cuối cùng lại bảo:

- Thôi nếu thích thì mình cứ làm! Nhưng mà bà ta bảo sao, bà ta định trả mình bao nhiêu tiền.

Bà Petrell không nói rõ là bao nhiêu. Nhưng lúc này, sau khi vò vang anh đào của bà ta đã đứng nhiều tuần dưới hầm khoai tây và lên men, thì đúng vào ngày tháng Tám này mẹ Emil cho rằng rượu vang đã ngấu. Đã đến lúc rót vào chai. Mẹ nghĩ tranh thủ lúc bố đang thu hoạch lúa ngoài đồng mà làm việc này là thích hợp. Như vậy sẽ khuất mắt bố, và bố sẽ không cần phải cảm thấy mình có tội và sa đọa khi để rượu vang trong nhà.

Chẳng mấy chỗc mẹ đã rót được mười hai chai vang, xếp thành dãy ngay ngắn trên bàn bếp. Mẹ định cho chúng vào một cái giỏ rồi đem xuống cất vào góc hầm khoai tây, để không ai phải bực mình khi trông thấy nó, và bà Petrell có thể đến lấy bất kỳ lúc nào bà ta muốn.

Những quả anh đào đã thành bã sau khi lên men tiết ra rượu được bỏ trong một cái xô đặt trước cửa bếp, khi Emil cùng bé Ida xách giỏ từ cánh đồng lúa mạch quay về.

- Emil, con hãy đem cái xô anh đào này vùi vào đống rác hộ mẹ, – mẹ Emil sai.

Vốn nghe lời, Emil ngoan ngoãn đi liền. Đống rác nằm ngay phía sau chuồng lợn, còn Nhóc Lợn thì đang chạy loăng quăng trong chuồng. Thấy Emil, nó lập tức kêu lên eng éc. Emil cần hiểu rằng nó cần ra khỏi đây để quanh quẩn bên Emil.

- Được thôi, nếu mày muốn ra ngoài….– Emil nói và đặt cái xô xuống đất. Emil vừa mở cánh cửa chuồng ra thi Nhóc Lợn đã ủn ỉn xông ra, sục ngay mõm vào cái xô, vì tưởng Emil đem thức ăn đến cho mình. Mãi tận lúc này Emil mới suy nghĩ lời mẹ dặn là nó cần phải vùi chỗ anh đào này vào đống rác. Lạ thật đấy chứ, bình thường ở trang trại Katthult người ta không bao giờ vùi vào đống rác thứ gì ăn được cả. Trong khi chỗ anh đào này rõ ràng là rất ngon. Nhóc Lợn đã kịp chén một ít rồi. Emil cho rằng sở dĩ mẹ muốn vùi chỗ anh đào này vào đống rác là vị mẹ không muốn bố trông thấy chúng khi bố trông thấy chúng khi bố từ ngoài đồng về.

Nhưng nếu thế thì để Nhóc Lợn chén cũng được chứ sao, Emil nghĩ. Vì Nhóc Lợn rất mê anh đào!

Có vẻ Nhóc Lợn đặc biệt thích những trái anh đào này. Nó vừa sung sướng kêu ụt ịt vừa sục lấy sục để trong cái xô khiến mồm nó đỏ loe cả nước anh đào. Để giúp con lợn ăn dễ dàng hơn, Emil bèn đổ anh đào ra đất. Thế là con gà trống chạy tới tham gia phá cỗ. Nhóc Lợn có giận dữ lườm cho một cái thật ghê, nhưng vẫn để con gà trống thả sức mổ anh đào. Nhưng rồi lũ gà mái cũng kéo đến, dẫn đầu là con Lotta Què, chúng muốn xem gà trống vừa kiếm được miếng mồi gì mà ngon thế. Nhưng chúng chẳng hòng xơ múi gì, vì vừa chúc mỏ xuống chúng đã bị Nhóc Lợn và gà trống xua đuổi không chút xót thương. Có thể nhận thấy là anh đào rất ngon, nên cả con gà trống và Nhóc Lợn chỉ muốn giữ cho riêng mình.

Emil ngồi ngay bên cạnh, trên đít cái xô úp sấp. Nó đang thổi một cọng cỏ và chả nghĩ ngợi gì. Chợt nó sửng sốt thấy con gà trống lăn quay ra đất. Con gà thậm chí nhiều lần thử gượng đứng dậy, nhưng không xong. Hễ cứ gần đứng lên được thì nó lại ngã chúi xuống đất, cuối cùng nằm im thin thít. Lũ gà mãi lúc này bị xua đổi bu thành một đám cạnh đó, nhìn con gà trống đang làm gì lạ quá, rồi kêu lên cùng cục đầy lo lắng. Điều đó chọc tức con gà trống đang nằm dưới đất, khiến nó trợn mắt giận dữ nhìn lại. Chẳng lẽ nó không có quyền nằm và lảo đảo ở mọi nơi nó muốn và theo cách nó thích hay sao?

Emil không hiểu con gà trống bị làm sao, nhưng thấy thương nó, bèn chạy lại đỡ nó đứng dậy. Con gà trống đứng một chốc, cứ đảo người sang hai bên như thể xem xem hai chân nó có đứng vững được không. Nhưng rồi như thể nó đã hóa ngộ, bỗng hăng tiết cất tiếng gáy và vừa đập cánh phành phạch vừa xông thẳng vào đám gà mái. Thế là lũ gà mái cuống cuồng tìm cách chạy thoát thân vì chúng thấy rõ anh gà trống của chúng đã phát điên. Emil trông thấy hết và mải bối rối theo dõi hành vi hung hãn của con gà trống đến nỗi quên biến Nhóc Lợn. Nhân đang nói chuyện phát điên – nếu ở đây có kẻ nào bỗng hóa dại thì đó chính là Nhóc Lợn. Nhóc Lợn cũng muốn góp mặt vào cuộc truy đuổi những con gà mái nên lúc này vừa kêu eng éc đến chói cả tai vừa nhảy chồm chồm theo sau con gà trống. Mỗi lúc Emil lại càng thêm ngạc nhiên, no chẳng hiểu gì cả. Nhóc Lợn kêu to và dữ tợn trong lúc chạy hùng hục, trông cứ như là thích thú lắm. Có điều chân cẳng nó có điều gì đó không ổn, Emil nhận thấy thế. Chúng cứ xiêu xiêu vẹo vẹo như đứng không vững. Và chắc chắn Nhóc Lợn cũng đã ngã quay lơ, nếu như mỗi lần suýt đổ xuống nó không nhảy cẫng lên như Emil đã dạy nó. Những cú nhảy giúp nó lấy lại thăng bằng.

Những con gà mái thật đáng thương. Chúng chưa từng chứng kiến một con lợn cư xử như vậy bao giờ, thế là chúng co cẳng chạy trối chết. Những tiếng kêu quang quác của chúng nghe sao thảm thiết. Lũ gà mái khốn khổ! Anh chàng gà trống của chúng hóa dại chưa đủ tệ hay sao, mà còn thêm con lợn điên mắt cứ trợn trừng trợn trạo nhảy những bước dài đuổi theo chúng. Thật quá sức chịu đựng.


Tác giả: blue.smile    Thời gian: 13-9-2011 04:51 PM

Phải, đúng là quá sức chịu đựng! Người ta có thể chết vì sợ hãi, Emil biết thế, và nó bỗng nhìn thấy các con gà mái lần lượt ngã lăn ra và nằm im bất động. Trên cỏ la liệt xác gà, chúng nằm đó im lìm và trắng toát – một cảnh tượng rùng rợn. Emil tuyệt vọng và bật khóc. Mẹ sẽ nói gì khi trông thấy đàn gà mái của mẹ ra nông nỗi này? Lotta Què, con mái yêu của Emil cũng nằm đó, một đống lù lù màu trắng chết chóc. Vừa khóc, Emil vừa bế nó lên. Lotta Què tội nghiệp, thế là hết đời nó, cũng hết luôn bao nhiêu quả trứng tròn của nó! Emil chỉ còn mỗi một việc phải làm: ấy là tiến hành càng nhanh càng tốt một đám tang trọng thể cho Lotta Què. Emil hình dung trên bia mộ của con gà sẽ phải có dòng chữ: “Nơi đây yên nghỉ Lotta Què. Đã tạ thế vì quá khiếp sợ Nhóc Lợn”.

Emil thật sự bất bình với Nhóc Lợn và muốn nhốt nó lại vào chuồng, không bao giờ thả ra nữa. Nhưng trong khi đó Lotta Què phải nằm tạm trong kho củi đã. Emil cẩn thận bế xác con gà trên hai tay và đặt nó xuống cái thớt gỗ lớn. Bây giờ nó có thể nghỉ ngơi đợi giờ an táng con Lotta Què đáng thương!

Từ xưởng mộc đi ra Emil nhìn thấy con gà trống và Nhóc Lợn đã kéo nhau quay lại chỗ anh đào. Những gã trai mới quân tử gớm! Đầu tiên là đuổi lũ gà mái đến chết, rồi lại thản nhiên tiếp tục đánh chén, cứ như không có chuyện gì xảy ra! Ít nhất thì con gà trống cũng phải lịch sự tỏ ra đôi chút buồn bã, khi mà chỉ trong thoáng chốc nó đã mất đi tất cả các cô vợ của mình! Nhưng rõ ràng nó bình thản đón nhận chuyện này.

Nhưng bữa tiệc anh đào không được rôm rả lắm nữa. Vì đột nhiên con gà trống lại ngã lăn quay ra, ngay sau đó đến lượt Nhóc Lợn. Emil tức giận cả hai con đến nỗi chẳng thèm quan tâm xem chúng sống hay chết, và hơn nữa nó có thể thấy chúng đâu có chết giống lũ gà mái. Con gà trống thở khò khè yếu ớt, hai cẳng hơi giật giật, còn Nhóc Lợn hẳn đang ngủ gật vì chốc chốc lại cố mở mắt ra và trong bụng nó có tiếng kêu lục sục.

Vẫn còn khá nhiều anh đào nằm lăn lóc trên cỏ nên Emil nếm thử một quả. Vị của nó không hẳn giống một quả anh đào, nhưng thật ra ngon đáo để. Sao mẹ lại có thể nghĩ tới việc đem vui đi những trái cây thơm ngon thế này nhỉ?

Ồ, phải rồi, nó phải đi tìm mẹ để kể cho mẹ nghe về nỗi bất hạnh của lũ gà mái mới được! Nhưng nó không thấy hứng thú lắm. Không cần kể ngay. Emil tư lự chén thêm vài quả anh đào… lại thêm vài quả nữa…. Không, nó không muốn tìm mẹ kể ngay bây giờ!

Trong khi đó mẹ Emil đã vào bếp chuẩn bị xong bữa ăn tối cho đám thợ gặt của mẹ. Lúc này tất cả bọn họ đã về đến nhà: bố Emil, chú Alfred, cô Lina và bà Krösa–Maja. Ai nấy đều mệt mỏi và đói bụng sau một ngày dài vất vả. Cả nhà ngồi vào xung quanh bàn, nhưng ghế của Emil vẫn trống, và mẹ sực nhớ suốt nãy giờ, đã khá lâu, mẹ không còn trông thấy Emil.

- Lina, cô chạy ra xem Emil có ở chỗ Nhóc Lợn không, – mẹ nói.

Cô Lina đi ra và vắng mặt rất lâu. Cuối cùng khi quay vào, cô cố tình dừng lại trên ngưỡng cửa, đợi tất cả hướng ánh mắt vào mình. Cái điều kinh khủng cô sắp kể ra đây phải được tất cả nghe cùng một lúc.

- Cô làm sao vậy? Sao cô cứ đứng đực ra đấy thế? Có chuyện gì xảy ra sao? – Mẹ Emil nói.

Cô Lina mỉm cươi bâng quơ.

- Có chuyện gì xảy ra không ấy ư? Phải, cháu không biết nên nói thế nào…… Nhưng dù sao đàn gà mái cũng chết sạch rồi! Còn con gà trống thì say rượu! Nhóc Lợn cũng say rượu! Còn cậu Emil thì….

- Emil thì làm sao! – Mẹ Emil lo lắng hỏi dồn.

- Emil! – Cô Lina thở dài đánh sượt. – Emil cũng say rượu.

Thế là ở trang trại Katthult có một buổi tối mà người ta hầu như không biết nên mô tả ra sao nữa!

Bố Emil nhảy đùng đùng gào thét, mẹ khóc, bé Ida khóc, cô Lina cũng khóc cùng cho có bầu có bạn, bà Krösa–Maja thì than trời, hết ối lại á và không còn thời gian để ăn nữa. Bà phải lập tức chạy đi loan báo cho tất cả, từng người, từng người một:
- Ối trời, ối trời! Khốn khổ cho cặp vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult! Emil, cái thằng bé tội nợ ấy, đã nốc rượu say bí tỉ và đập chết cả đàn gà mái nhà họ rồi, ối trời ơi là trời!

Chú Alfred là người duy nhất vẫn tỉnh táo. Khi cô Lina quay vào với cái tin khủng khiếp của cô, chú đã cùng mọi người chạy ra ngoài và tìm thấy Emil đang nằm trên cỏ cạnh Nhóc Lợn và con gà trống. Phải, cô Lina nói đúng, quả là Emil đã say quá rồi. Nó nằm tựa vào Nhóc Lợn, hai con mắt đảo tròng. Rõ là nó đang rất xỉn. Mẹ Emil khóc trong tuyệt vọng khi thấy đứa con trai bất hạnh, đáng thương của mình và muốn đưa ngay nó vào buồng ngủ. Nhưng chú Alfred, vốn có kinh nghiệm trong những tình huống như thế này, bèn bảo:

- Để cháu ở lại ngoài này có không khí trong lành sẽ tốt hơn!

Thế là suốt buổi tối chú Alfred cứ ngồi trên bậc tam cấp trước lán đầy tớ, tay ôm Emil. Chú giúp Emil khi nó nôn và vỗ về an ủi khi nó khóc. Vì đôi lúc Emil lại tỉnh dậy và khóc về sự tồi tệ của mình. Nó đã nghe nói mình bị say rượu, có điều không tự lý giải nổi tại sao lại xảy ra chuyện ấy. Emil đâu biết những trái anh đào mà người ta dùng làm rượu phải lên men trong thời gian khá lâu, cuối cùng đã thấm đẫm cái thứ rượu khiến người ta say. Cũng chính bởi vậy mà mẹ đã dặn Emil phải vùi chúng vào đống rác. Nhưng thay vì nghe lời mẹ, nó lại ăn chúng, nó, con gà trống và Nhóc Lợn. Thế nên bây giờ nó mới nằm rũ trong tay chú Alfred như một thứ đồ bỏ đi.

Emil nằm thế khá lâu. Mặt trời lặn, trời tối dần, vầng trăng nhô lên phía trên trang trại Katthult, nhưng chú Alfred vẫn ngồi đó bế Emil trên tay.

- Cháu thấy trong người thế nào, Emil? – chú Alfred hỏi khi thấy Emil hơi động đậy.

- Dạ, cháu vẫn sống, – Emil đáp với giọng yếu ớt, rồi nó thì thào: – Nếu cháu chết thì con Lukas sẽ là của chú, chú Alfred ạ.
- Cháu không chết đâu, – chú Alfred khẳng định.

Không, Emil không chết, cả Nhóc Lợn và con gà trống cũng không chết. Đàn gà mái cũng không chết, đó mới là điều kỳ lạ nhất. Chẳng là mẹ Emil trong lúc mải lo lắng đã bảo bé Ida đi lấy một giỏ củi. Bé Ida vừa đi vừa khóc, vì đây đúng là một tối buồn, nó càng khóc dữ hơn khi bước vào kho củi trông thấy xác cn Lotta Què nằm trên cái thớt gỗ.

- Lotta Què tội nghiệp, – bé Ida nói. Nó thò bàn tay bé nhỏ ra vuốt ve con Lotta Què. Và, thử tưởng tượng xem, con Lotta Què bỗng hồi sinh! Con gà mở mắt ra và vừa đập cánh phành phạch nhảy khỏi cái thớt vừa bất bình kêu lên quang quác, đoạn tức giận cà nhắc cà nhót đi ra khỏi cửa. Bé Ida sững sờ đến ngây người, không biết nên hiểu thế nào nữa. Hay đôi bàn tay mình có phép lạ, có thể làm người chết sống lại?

Vì quá lo lắng cho Emil nên không ai hơi sức đâu để ý đến lũ gà mái. Chúng vẫn nằm la liệt trên cỏ. Nhưng giờ đây Ida đi đến, lần lượt vuốt ve từng con. Con nào cũng vùng dậy và tràn đầy sức sống. Phải, thật ra chúng không chết, mà chỉ bất tỉnh vì quá khiếp sợ khi bị Nhóc Lợn đuổi theo – giống gà mái đôi khi vẫn thế.

Nhưng bé Ida tự hào quay vào bếp, nơi bố và mẹ đang ngồi lo lắng khóc lóc. Giờ đây bé Ida cũng có tin sốt dẻo để thông báo.
- Bố mẹ ơi, con đã đánh thức mấy con gà chết sống lại rồi! – Nó tự hào khoe.

Ngay hôm sau, con gà trống. Nhóc Lợn và Emil đã phần nào lại sức. Tuy nhiên suốt ba ngày con gà trống không gáy được. Nó cũng có thử một đôi lần, nhưng từ cổ họng nó không phát ra tiếng “Ò ó o o!” mà là một tiếng khào khào kinh khủng đến nỗi chính nó cũng thấy sượng sùng. Mỗi lần con gà trống gáy không thành, là lũ gà mái lại nhìn nó đầy trách móc, thế là cu cậu xấu hổ lẩn vào một bụi cây.

Nhóc Lợn không xấu hổ, nhưng Emil thì có vẻ ngường ngượng cả ngày, đã thế lại còn bị cô Lina chọc tức.

- Say xỉn rồi nằm lăn ra đó với một con lợn, hay ho gớm! Cả hai người, cậu và Nhóc Lợn, là đồ lợn nát rượu, từ nay tôi sẽ gọi các người như thế đấy!

- Tôi nghĩ cô nên thôi đi! – Chú Alfred nói và quắc mắt nhìn cô Lina thế là cô im.

Nhưng câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đó. Chập tối có ba quý ông danh giá đi vào cổng vườn trang trại Katthult, đó là ba vị đến đến từ hội cầu thiện làng Lönneberga. Phải, hẳn bạn không biết hội cầu thiện là gì, nhưng tôi có thể nói cho bạn rằng thuở d đó hội này rất cần thiết cho làng Lönneberga và cả cùng Smăland. Những người cầu thiện nỗ lực kiềm chế nạn nghiện rượu kinh khủng thời đó vốn đã khiến nhiều người trở nên bất bạnh và giờ vẫn tiếp tục làm bao người phải khốn khổ.

Những lời kêu than của bà Krösa–Maja về thói nghiện rượu của Emil đã buộc hội cầu thiện phải can thiệp. Và giờ đây họ nói rằng sẽ rất tốt nếu Emil đến dự buổi sinh hoạt tối ở nhà cầu thiện và tại đó nó sẽ được cải hóa để trở về với cuộc sống không nghiện ngập. Mẹ Emil tức muốn nổ ruột, bèn kể lại câu chuyện Emil đã ăn anh đào ra sao. Nhưng dẫu vậy cả ba ông cầu thiện vẫn tỏ ra hết sức lo lắng và một ông nói:

- Vâng, nhưng người ta đã thấy trước rồi cháu Emil sẽ đi tới đâu. Sẽ không hại gì nếu tối nay chúng ta cho cháu một lời cảnh cáo.

Thế là bố Emil nhất trí. Tuy ông chẳng vui vẻ gì. Có dễ chịu gì đâu khi phải đưng chường mặt ra trước biết bao nhiêu là người và phải xấu hổ về thằng con trai mình. Nhưng có lẽ cũng cần làm thế để đưa Emil về con đường không nghiện ngập.

- Để tôi đi với nó, – bố rầu rĩ lẩm bẩm.

- Không, nếu con phải đến đó, thì em sẽ đi cùng nó, – mẹ Emil nói và trở nên thật kiên quyết. – Em mới là người đã làm ra thứ rượu vang khốn nạn đó, còn mình, Anton, mình không nên hứng chịu hậu quả. Chỉ có em mới cần bài giảng về cai nghiện này. Ngoài ra em có thể dắt Emil theo, nếu mọi người cho đó là cần thiết!

Tối đến Emil phải mặc bộ lễ phục Chủ nhật vào. Nó còn đội cả “mú” nữa. Emil không phản đối chuyện bị đem ra cải hóa. Được ở chỗ đông người biết đâu sẽ lại vui lắm ấy chứ.

Nhóc Lợn cũng nghĩ thế. Khi Emil cùng mẹ lên đường, Nhóc Lợn chạy theo, ý chừng muốn đi cùng. Nhưng Emil bảo: “Nằm chết nào!”, thế là Nhóc Lợn ngoan ngoãn nằm xuống giữa đường và cứ thế nằm im, nhưng nó còn ngó theo Emil mãi.

Tối ấy nhà cầu thiện đông kín người, tôi có thể nói như vậy. Cả làng Lönneberga muốn có mặt để chứng kiến Emil được cải hóa bỏ thói nghiện rượu. Phía trên diễn đàn, dàn đồng ca của hội cầu thiện đã ở tư thế sẵn sàng, Emil vừa bước vào cửa là họ gân cổ lên hát.

“Anh bạn trẻ, anh đã cầm cái cốc đựng đầy rượu, ấy là chất độc……”

- Thằng bé đã không cầm cái cốc nào hết, – mẹ Emil tức giận nói, nhưng chỉ Emil nghe thấy.

Khi bài hát kết thúc, một người đàn ông đi lên bục, nói rất lâu và nghiêm túc về Emil, cuối cùng ông ta hỏi Emil có muốn thề suốt đời sẽ cai rượu hay không.

- Cháu thề cũng được thôi ạ, – Emil đáp.

Đúng lúc ấy người ta nghe tiếng ụt ịt khe khẽ bên cánh cửa, rồi Nhóc Lợn chạy vào. Nó đã lặng lẽ đi theo Emil và bây giờ đã đến đây. Khi trông thấy Emil ngồi ở hàng ghế trên cùng, nó sung sướng chạy đến với cậu chủ. Phòng họp trở nên nhộn nhạo. Chưa bao giờ có con lợn nào xuất hiện trong nhà cầu thiện cả, và giờ đây những người cầu thiện không muốn có nó. Họ cho rằng việc một con lợn có mặt không say rượu.

- Nhóc Lợn, lời thế này có hiệu lực với cả mày nữa đấy, – Emil nói sau khi đã đọc xong lời thề. Sau này tất cả dân làng Lönneberga đều bảo rằng ngoài Emil ra, chưa từng có một ai đọc lời thề cai rượu cùng với một con lợn cả.

- Nhưng cái thằng bé ở trang trại Katthult cũng kỳ lạ thật đấy, – họ bình phẩm.

Khi Emil trở về nhà và đi vào bếp với Nhóc Lợn lẵng nhẵng theo sau, thì bố đang ngồi trơ trơ một mình bên ngọn đèn dầu, và Emil nhận thấy bố đã khóc. Cả đời Emil chưa bao giờ thấy bố khóc, nên chuyện đó khiến nó không vui tý nào. Nhưng rồi bố nói ra một điều khiến Emil rất vui.

- Nghe này Emil, – bố nắm chặt cánh tay Emil và nhìn thẳng vào mắt nó mà bảo, – Emil, nếu con hứa với bố suốt đời con sẽ không uống rượu, thì cái con lợn hư đốn đó sẽ là của con…. Ngoài ra bố không thể nghĩ cái lớp thịt bọc xương ấy lại ngon được, nhất là sau khi nó cứ nhảy dông dổng suốt ngày, và lại còn say rượu nữa.

Emil sướng nhảy cẫng lên. Nó thề thêm một lần nữa là suốt đời sẽ không uống rượu. Và nó cũng giữ lời. Cả làng Lönneberga và khắp vùng Smăland xưa nay chưa từng thấy một vị chủ tịch nào tuyệt đối không động tới một giọt rượu nào như Emil, có lẽ vì thế mà việc hồi còn nhỏ, vào một ngày mùa hạ, Emil đã ăn những trái anh đào đã lên men lại là điều hay.

Tối đó Emil còn thức khá lâu trò chuyện với bé Ida.

- Bây giờ anh đã có một con ngựa, một con bò, một con lợn và một con gà, – nó nói.

- Chính em đã đánh thức con gà đang chết sống lại, – bé Ida nhắc cho anh nhớ. Thế là Emil cảm ơn em về việc đó.

Sáng hôm sau Emil thức dậy sớm, nghe tiếng chú Alfred và cô Lina đang uống cà phế và trò chuyện trong bếp. Nó bèn nhảy ngay khỏi giường vì phải khoe chú Alfred là bố đã tặng Nhóc Lợn cho nó.

- Ông chủ gia súc Emil Svensson, – chú Alfred cười nói. Nhưng cô Lina vác mặt lên và cất giọng hát một bài hát chế giễu mà cô vừa nghĩ ra trong khi vắt sữa bò. Cô hát:

“Nhưng mẹ dắt nó đến nhà cầu thiện,
nó trở thành người từ con lợn nghiện.
Giờ nó đã thề sẽ hết say sưa,
và được con lợn – chính nó ngày xưa!”


Không thể tưởng tượng nổi bài hát nào ngu xuẩn như thế. “Giờ nó đã thề sẽ hết say sưa,và được con lợn – chính nó ngày xưa!” Ngu ngốc tới mức đó thì chỉ có cô Lina mới nghĩ ra nổi. Chính cô cũng chẳng hiểu mình hát gì nữa.

Rồi đã đến giờ chú Alfred và cô Lina phải cùng bố và bà Krösa–Maja ra ruộng lúa mạch đen.

Mẹ Emil ở nhà một mình với lũ trẻ. Mẹ rất hài lòng, vì hôm nay bà Petrell định đến lấy những chai vang anh đào của bà ta và mẹ Emil không muốn bố Emil có mặt lúc đó.

Mong cho những chai rượu mau mau được mang đi khỏi nhà mình, mẹ Emil nghĩ vậy khi đang làm bếp. Bà Petrell có thể đến bất kỳ lúc nào. Chắc là sắp nghe tiếng xe ngựa của bà ta lăn ngoài đường rồi. Nhưng lạ quá, thứ mẹ Emil nghe thấy lúc này là một tiếng động hoàn toàn khác vọng sang từ hầm để khoai tây, nghe như tiếng thủy tinh vỡ.

Mẹ Emil ngó qua cửa sổ và thấy Emil tay lăm lăm thanh sắt chọc lò, trước mặt nó là những chai rượu vang xếp thành dãy. Emil lần lượt quật thanh sắt vào từng chai một, khiến mảnh vỡ văng tứ tung và rượu chảy tràn ra sân. Mẹ Emil mở tung cửa sổ, thét lên:

- Con làm cái quái gì vậy, Emil?

- Con đang giúp người khác cai rượu. Con nghĩ mình sẽ bắt đầu từ bà Petrell!

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 13-9-2011 04:53 PM
Một số ngày trong cuộc đời Emil,
những ngày mà nó vừa bày đủ trò nghịch ngợm, vừa làm được nhiều việc tốt.



Câu chuyện rượu vang tai tiếng này khá lâu sau dân làng Lönneberga vẫn còn nhớ. Nhưng mẹ Emil thì chỉ muốn quên càng nhanh càng tốt. Trong cuốn vở màu xanh bà không đả động một chữ tới những gì đã xảy ra xung quanh Emil trong cái ngày mồng 10 tháng Tám bất hạnh đó. Hẳn chúng quá khủng khiếp, nên bà chẳng nỡ lòng ghi lại. Nhưng ngày 11 tháng Tám bà có ghi vào sổ một dòng, mà nếu chưa được nghe trước câu chuyện vừa kể ban nãy, thì khi đọc nó người ta không tránh khỏi giật mình.

“Chúa che chở cho con và thằng bé này, nhưng ít nhất hôm nay nó cũng không say rượu”. Mẹ Emil viết như thế đấy. Không thêm một từ nào nữa. Vì vậy người ta sẽ nghĩ gì đây? Hẳn người ta sẽ nghĩ ngay rằng Emil rất hiếm khi tỉnh rượu. Tôi thật sự cho rằng lẽ ra mẹ Emil phải kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nhưng, như đã nói, bà không nỡ lòng nào làm thế.

Ngày 15 tháng Tám cũng có một đoạn ghi chép. Mẹ Emil viết như sau:

“Đêm qua Emil và Alfred ra ngoài bắt tôm. Hai chú cháu bắt được ba mươi bá tá tôm càng. Nhưng sau đó thì, ôi, khốn khổ chồng tôi….”

Ba mươi ba tá – bạn đã nghe thấy thế bao giờ chưa? Đó là vô số những con tôm. Hãy tự tính đi, bạn sẽ biết có bao nhiêu con tất cả. Emil đã có một đêm vui vẻ, tôi có thể nói với bạn như vậy. Và nếu bạn đã từng bắt tôm dưới một cái hồ nhỏ ở vùng Smăland trong một đêm tháng Tám tối tăm, thì bạn sẽ hiểu vì sao. Thì bạn sẽ biết bắt tôm vui như thế nào, bạn sẽ bị ướt sũng cả người ra sao, và có cảm giác kỳ lạ thế nào. Úi, trời tối om, rừng thì đen sì bao quanh hồ, tất cả im ắng, chỉ nghe tiếng chân bì bõm lội nước ven hồ.

Nếu có một ngọn đuốc như của chú Alfred và Emil, người ta sẽ trông thấy những con tôm càng to màu đen bò lổm ngổm quanh những viên đá dưới lòng hồ. Thế là chỉ cần lấy tay tóm lưng từng con bỏ vào giỏ.

Khi Emil và chú Alfred đi về nhà vào lúc rạng sáng, hai chú cháu đã bắt được nhiều tôm đến mức vác lặc lè tưởng chừng vác không nổi, nhưng Emil vẫn huýt sáo vào hát vang đường.

Bố sẽ tha hồ ngạc nhiên đây, nó nghĩ. Emil muốn cho bố thấy mình giỏi thế nào, mặc dù nó hay bị thất bại. Bây giờ nó muốn bố sẽ trông thấy tất cả số tôm càng này khi bố vừa tỉnh giấc. Vì thế mà Emil đã lấy cái chậu đồng to tướng mà bé Ida và nó thường ngồi vào tắm mỗi tối thứ Bảy và trút hết tôm vào đấy. Sau đó nó đặt cái chậu trong buồng ngủ, ngay cạnh bố.
Sẽ có tiếng reo hò to sung sướng khi tất cả mọi người thức dậy và trông thấy những con tôm của mình đây, Emil khấp khởi nghĩ. Rồi mệt mỏi nhưng sung sướng, nó trèo lên giường và ngủ thiếp đi.

Trong buồng ngủ rất im ắng. Chỉ nghe tiếng ngáy khe khẽ của bố Emil. Ngoài ra là tiếng rộp roạp của đám tôm càng đang lổm nhổm bò trên lưng nhau, như vẫn thường thấy ở giống này.

Sáng nào bố Emil cũng dậy rất sớm, hôm nay cũng vậy. Chuông đồng hồ treo trên tường buồng ngủ vừa điểm năm tiếng là ông lập tức tốc chăn ngồi dậy, thả hai chân xuống đất, và ngồi như thế một lúc cho tỉnh hẳn. Ông vươn vai, ngáp dài, thò tay gãi đầu và ngọ nguậy một chút các ngón chân. Ngón chân cái bên phải của ông hơi bị cứng kể từ ngày bị kẹp trong cái bẫy chuột mà Emil cài, nên sáng nào ông cũng phải luyện cho nó mềm. Nhưng đang ngọ ngoạy ngón chân thì bố Emil bỗng rống lên một tiếng, khiến mẹ Emil và bé Ida hoảng hốt giật mình thức dậy. Họ cứ tưởng chí ít bố cũng đã bị sát hại. Nhưng đó chỉ là một con tôm càng đã cắp trúng ngón cái đã từng bị tôm càng cắp, thì bạn cũng sẽ biết nó dễ chịu ngang như khi bị kẹp bẫy chuột, mà mới chỉ bị đau ít hơn thế thì khối người đã rú lên rồi. Tôm càng là loài dã thú ương bướng, đã cắp ai thì cứ cố sống cố chết mà cắp, mỗi lúc càng chặt hơn. Cho nên không có gì lạ khi bố rống lên! Ngoài ra ngay mẹ và bé Ida cũng hét toáng lên khi trông thấy hàng trăm con tôm càng bò lổm nhổm trên sàn nhà. Phải, phải, tiếng hò reo sung sướng như thế đã là quá đủ.

- Emil! – Bố hét tưởng đến rách cả phổi. Thứ nhất, bố đang điên tiết, và thứ hai, bố cần một cái kìm để rứt con tôm ra, nên muốn sai Emil chạy đi lấy kìm. Nhưng Emil ngủ say đến nỗi không có tiếng reo hò nào đánh thức được nó. Thế là bố Emil đành tự nhảy lò cò xuống bếp để lấy cái kìm trong thùng đồ nghề ra. Nhìn bố nhảy lò cò với con tôm càng vẫn ngoan cố đeo lủng lẳng trên ngón chân cái, bé Ida đau lòng – nó tiếc cho anh Emil không được chứng kiến cảnh đó.

- Dậy mau, anh Emil! – Bé Ida gọi to. – Dậy đi! Rồi anh sẽ thấy cái này vui cực!

Nhưng nó lập tức im bặt vì bố vừa ném cho nó cái nhìn rầu rĩ, và có thể thấy bố không có cái gì vui ở đây. Trong khi đó mẹ bò loanh quanh dưới sàn nhà nhặt tôm. Sau hai tiếng đồng hồ mẹ mới bắt được hết. Mãi đến gần trưa Emil mới tỉnh giấc, liền ngửi thấy mùi tôm luộc thơm ngào ngạt từ bếp bay vào, thế là nó vui sướng nhảy ngay dậy.

Trang trại Katthult được ăn tôm liền ba ngày, – thật là hạnh phúc! Ngoài ra Emil moi được bao nhiêu thịt đuôi tôm từ trong vỏ cứng, và đem bán cho bà vợ ông mục sư với giá hai mươi lăm xu một cân. Số tiền thu về Emil chia đều cho chú Alfred. Vốn lúc nào cũng cháy túi, chú Alfred cho rằng Emil luôn có những ý tưởng đáng nể.

- Emil, cháu rất nhanh nhạy trong làm ăn đấy, – chú nhận xét, và chú nói chí lý. Emil đã bỏ vào con lợn đất của nó năm mươi đồng, số tiền mà nó kiếm ra bằng nhiều cách khác nhau.

Suốt một thời gian dài Emil suy nghĩ nát óc về một vụ làm ăn lớn thực sự. Nó định bán tất cả các hình nhân bằng gỗ cho bà Petrell, vì bà ta đã đã tỏ ra vô cùng thích thú khi nhìn thấy chúng. May mà vụ bán chác đó không thành. Thế là các hình nhân gỗ tiếp tục được đứng trên cái giá trong xưởng mộc và đến nay vẫn còn đứng đó. Bà Petrell thực sự muốn mua khẩu súng gỗ của Emil để tặng cho một thằng bé hư đốn mà bà ta quen, nhưng rồi vụ này cũng chẳng thành.

Chắc chắn rồi, tự Emil cũng biết nó quá lớn để tiếp tục chơi với khẩu súng gỗ, nhưng bán khẩu “sún” đi thì nó lại không muốn. Thay vì bán, nó đóng đinh khẩu súng gỗ lên tường xưởng mộc và viết lên đấy dòng chữ bằng chì đỏ:

“KỶ VẬT CỦA CHÚ ALFRED”

Chú Alfred cười khi trông thấy thế, nhưng rõ ràng chú hài lòng. Cái “mú” thì Emil giữ dùng thường xuyên, nó không thể thiếu “mú” được. Lần đầu tiên cắp sách đến trường nó cũng đội “mú” lên đầu. Phải, đã đến lúc Emil đi học và cả làng Lönneberga nín thở.

Cô Lina không mấy tin tưởng về việc đi học của Emil.

- Chắc chắn nó sẽ đạp đổ cả trường học và đốt cả cô giáo nữa ấy chứ, – cô nói, nhưng mẹ Emil đã nghiêm khắc nhìn cô.
- Emil là một thằng bé tốt bụng, – bà nói. – Mới đây nó đã suýt đốt cháy vợ ôn mục sư thật, nhưng vì thế nó đã phải phạt trong xưởng mộc rồi. Có gì đâu mà cô cứ phải đay đi đay lại như thế.

Đó là ngày 17 tháng Tám, ngày Emil vì bà vợ ông mục sư mà phải ngồi trong xưởng mộc. Chẳng là hôm đó bà này đến trang trại Katthult để lấy một mẫu dệt mới của mẹ Emil. Bà được mời dùng cà phê ngoài vườn, giữa những bụi tử đinh hương, cũng là chỗ bà muốn xem mẫu dệt đó. Vì mắt kém, nên bà lấy trong xắc tay một cái kính lúp. Emil chưa bao giờ trông thấy kính lúp cả, nên rất háo hức muốn xem.

- Cháu cứ cầm lấy mà chơi, – bà vợ ông mục sư nói, tính tình bà vốn đơn giản.

Hẳn bà không biết rằng với bất kỳ vật gì Emil cũng có thể bày trò nghịch dại, và với một cái kính lúp thì càng không khó. Chỉ lát sau Emil đã biết có thể dùng kính lúp làm “kính đốt”. Khi mặt trời rọi vào kính lúp, mọi tia nắng tụ vào một điểm và hun nóng lên. Emil nhìn quanh vật gì dễ cháy, vật gì có thể bùng lên thành lửa. Bà vợ ông mục sư đang ngồi yên chỗ và cứ luôn mồm nói chuyện với mẹ Emil. Khi nói, đầu bà vẫn chẳng hề động đậy. Những cái lông đà điểu bông xù cắm trên cái mũ điệu đà của bà trông khá dễ bén lửa. Thế là Emil thử liền – thì phải thử mới biết được chứ, nếu không làm sao học được cái gì trên đời này, nó nghĩ vậy.

Kết quả cuộc thử nghiệm của Emil được mô tả trong cuốn vở màu xanh như sau:

“Bỗng khói bắt đầu mù mịt quẩn quanh bà mục sư, phải, nhưng lửa không bén vào những chiếc lông đà điểu mà chỉ bốc khói. Thế mà mình cứ tưởng giờ Emil sẽ ngoan hơn sau khi nó đã gia nhập hội cầu thiện. Ôi, giá được thế thì tốt biết bao! Vậy là ông hội viên cầu thiện phải ngồi nốt ngày hôm ấy trong xưởng mộc. Phải, phải, chuyện là thế.”

Ngày 25 tháng Tám Emil đến trường. Nếu dân làng Lönneberga tưởng rằng ở trường Emil sẽ còn mỗi nước chui đầu xuốn đất mà trốn, thì họ lầm to. Hẳn cô giáo là người đầu tiên đã linh cảm thấy cậu học trò ngồi trên cái ghế ngay sát cửa sổ lớp kia chính là vị chủ tịch hội đồng xã tương lai. Và ngạc nhiên chưa: Emil trở thành trò giỏi nhất lớp! Đọc thì Emil biết sẵn từ khi mới đến trường, viết cũng biết chút ít, còn làm tính thì nó nhanh hơn tất cả những đứa bạn khác. Tất nhiên Emil vẫn bày trò nghịch ngợm, nhưng không quá sức chịu đựng của cô giáo. Ồ phải, có lần nó đã hôn vào đúng môi cô. Về việc này dân làng Lönneberga còn kháo nhau mãi.

Chuyện xảy ra như sau: Emil lên bảng làm một phép tính cộng với những con số thật sự khó. Khi nó ra đáp số, cô giáo bèn bảo:

- Tốt rồi, Emil, em có thể về chỗ ngồi. Emil làm theo.

Khi đi ngang qua cô giáo đang ngồi trên bục giảng, nó liền hôn cô một cái chính giữa môi. Cô giáo chưa bao giờ gặp phải chuyện như thế, bèn đỏ mặt và ấp úng hỏi:

- Emil, tại sao…. tại sao…. em lại làm thế?

- Chắc em làm thế vì lòng tốt của em ạ, – Emil đáp, và câu trả này sau đó đã gần như trở thành một câu thành ngữ ở làng Lönneberga.

- Em làm thế vì lòng tốt của em, cái thằng bé ở trang trại Katthult lại nói thế khi nó hôn cô giáo cơ đấy, – dân làng thời ấy thường kháo nhau, và biết đâu bây giờ họ vẫn nhắc chuyện đó, tôi đoán thế.

Trong giờ giải lao sau đó, có một cậu trong đám trò lớn đi đến và muốn chọc tức Emil.

- Mày đã hôn cô giáo cơ đấy, – hắn nói và cười mỉa mai.

- Vâng, anh muốn em làm lại không? – Emil hỏi.

Nhưng nó nói vậy thôi. Chuyện chỉ xảy ra duy nhất một lần, và không khi nào lặp lại nữa. Và cô giáo cũng không hề giận Emil về cái hôn đó, không giận tý nào.

Emil còn làm nhiều việc khác vì lòng tốt của mình. Trong giờ giải lao nó chạy đến trại tế bần, đọc cho cụ Stolle–Jocke và các cụ nghe tờ “Bưu điện Smăland”. Vậy nên đừng nghĩ rằng Emil không có lòng tốt.

Ít nhất thì các cụ ở trại tế bần cũng cho rằng thời khắc đẹp nhất trong ngày là lúc Emil đến và tất cả bọn họ – cụ Stolle–Jocke, cụ Johann– Một Xu, cụ Kalle–Carô và cụ Ulla– Tiên Đoán Tai Ương cùng cả thảy các cụ khác – đều vui sướng khi Emil xuất hiện. Có thể cụ Stolle–Jocke không nghe rõ tất cả những gì Emil đọc, vì khi Emil đọc tin ngày thứ Bảy tới ở khách sạn thành phố sẽ có một vũ hội lớn, thì cụ Stolle–Jocke lại chắp hai bàn tay vào nhau mà nói đầy ái ngại:

- Amen, amen, phải phải điều, đó ắt sẽ xảy ra!

Nhưng cái chính là cụ Stolle–Jocke và các cụ già nghèo thích được ngồi nghe Emil đọc. Mỗi mụ Maduskan là không thích. Hễ Emil tới là mụ lên ngay căn phòng áp mái và khóa trái cửa buồng lại, ở tịt trong đó, bởi mụ đã từng sa xuống cái bẫy sói mà Emil đào và không sao quên được vụ đó.

Có thể bây giờ bạn sẽ không yên tâm và nghĩ rằng đi học rồi Emil sẽ chẳng còn thời gian mà bày trò nghịch ngợm nữa.
Bạn đừng lo! Vào cái thời Emil còn nhỏ, trẻ con cứ cách một ngày mới phải đi học một lần, bạn thấy chúng sướng chưa!
- Dạo này cháu thế nào? – Một ngày nọ cụ Stolle–Jocke hỏi khi nó đến đọc báo cho các cụ nghe.

Emil nghĩ ngợi giây lát, rồi nó trả lời trung thành với sự thật:

- Cháu cứ nghịch một hôm, lại đến trường một hôm ạ.

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 15-9-2011 05:06 PM
Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười một,
ngày diễn ra cuộc vấn đáp về tín ngưỡng ở trang trại Katthult và Emil nhốt bố nó trong buồng Trisse


Ở trang trại Katthult, làng Lönneberga cùng khắp vùng Smăland, ban ngày trời mỗi lúc một xám xịt hơn, tối tăm hơn. Tiết thu ngày càng rõ.

- Úi, mưa lạnh thế chứ! – cô Lina kêu ca khi hàng ngày cứ năm giờ sáng là cô phải mò mẫm trong bóng tối xuống chuồng bò. Tất nhiên cô có xách theo chiếc đèn dầu nhưng ngọn đèn cháy bập bùng trông đến cô độc và nhỏ nhoi giữa những cái màu xám xịt ấy. Suốt mùa thu chỉ một màu xám xịt, tựa một ngày dài duy nhất đằng đẵng và xám xịt. Chỉ thi thoảng một vài bữa tiệc và cuộc vấn đáp về tín ngưỡng mới lại lóe lên như những đốm sáng khiêm tốn và nhỏ nhoi trong bóng tối.

Hẳn như tôi có thể đoán, bạn không biết gì về cuộc vấn đáp về tín ngưỡng. Nhưng thời đó mọi người ít nhiều đều phải viết những gì ghi trong kinh thánh và sách giáo lý đại cương. Vì vậy mà thỉnh thoảng ông mục sư phải tiến hành một cuộc vấn đáp để nắm được mọi người biết đến đâu. Không riêng gì bọn trẻ con, những đứa mà đằng nào người ta cũng quen hành hạ bằng một lô câu hỏi, mà tất cả mọi người trong giáo xứ, già trẻ lớn bé đều có thể bị hỏi.

Những cuộc vấn đáp này lần lượt diễn ra ở tất cả các trang trại của làng Lönneberga, và nếu bản thân cuộc vấn đáp chẳng có gì vui, thì bữa tiệc sau đó lại thật vui. Ai trong giáo sứ cũng có quyền tham dự, kể cả các cụ ở trại tế bần. Những cụ nào còn đủ sức lê chân đến đó, đều góp mặt đủ. Là bởi sau mỗi cuộc vấn đáp, mọi người thỏa sức chè chén đến vỡ bụng thì thôi, và phần đông mọi người cho rằng đây là một phong tục tốt đẹp.

Vào một ngày trong tháng Mười một sẽ diễn ra một cuộc vấn đáp về tín ngưỡng tại trang trại Katthult. Điều này khiến ai nấy đều hân hoan, đặc biệt là cô Lina, vì cô rất khoái các cuộc vấn đáp như thế.

- Vâng, mặc dù cháu không thích tất cả các câu hỏi ấy, – cô nói. – Đôi lúc cháu chẳng biết phải trả lời như thế nào.

Và chắc chắn cô Lina không đặc biệt thuộc kinh thánh rồi. Ông mục sư cũng biết vậy, nên thường đặt cho cô những câu hỏi rất dễ, vì ông vốn là người thân thiện. Sau khi ông mục sư đã kể rất lâu và rất kỹ về Adam và Eva, những người từng sống trên vườn địa đàng và sau đó là hai người đầu tiên có mặt dưới trái đất, thì tất nhiên ông đinh ninh rằng tất cả mọi người, thậm chí cả cô Lina, đã nắm được nội dung cả câu chuyện. Và vì bây giờ đến lượt cô Lina, nên ông rất ân cần hỏi cô:

- Nào, Lina, vậy tổ tiên chúng ta tên là gì? – Thor và Freya ạ, – cô Lina liền đáp không chút đắn đo, làm mẹ Emil đỏ mặt vì tức giận trước câu trả lời ngu ngốc đó. Thor và Freya là hai vị thánh già mà cách đây trên cả ngàn năm người Thụy Điển – khi còn chưa biết tý gì về kinh thánh – đã từng tin vào.

- Cô vẫn cứ là một kẻ ngoại đạo, – sau này mẹ bảo cô Lina, nhưng cô chống chế:

- Tại họ cứ trộn nháo nhào đủ thứ vào nhau như thế! Sao cháu lại phải là người sắp xếp lại tất cả cơ chứ!

Nhưng bao giờ ông mục sư cũng khoan dung trong các cuộc vấn đáp. Ông lờ đi, coi như cô Lina không trả lời sai, mà tiếp tục kể Đức Chúa đã tạo ra trái đất và tạo ra tất cả những con người sống trên trái đất như thế nào, và sự sáng tạo của Người mời tuyệt vời làm sao.

- Này Lina, con đúng là một tạo vật kỳ diệu của Chúa, – ông mục sư khẳng định và hỏi cô Lina xem liệu cô đã bao giờ suy nghĩ về chuyện đó chưa và liệu cô có tin rằng việc Chúa đã tạo ra cô là một cái gì đặc biệt hay không.

Cô Lina bèn đáp rằng cô có tin như thế, nhưng rồi cô bỗng nghĩ lại.

- Vâng, tất nhiên ạ, nhưng làm ra còn chắc chẳng có gì là đặc biệt. Trừ tất cả những đường xoắn ở hai vành tai của con, con nghĩ là gom chúng lại với nhau như thế nhất định là một công việc khó chịu lắm!

Thế là mẹ Emil lại đỏ mặt, vì bà có cảm giác cả trang trại Katthult này bị ô danh vì câu trả lời thậm ngu ngốc đó của cô Lina. Đã thế ở tít góc đằng xa, nơi Emil đang ngồi, lại vang lên tiếng cười lanh lảnh trong thoáng chốc. Bà mẹ đáng thương, bà biết trong các cuộc vấn đáp về tín ngưỡng không ai được phép cười. Mẹ Emil ngồi đó mà vô cùng xấu hổ, bà chỉ cảm thấy nhẹ nhõm trở lại khi cuộc vấn đáp cuối cùng kết thúc và người ta có thể bắt đầu với bữa tiệc.

Mẹ Emil chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn và ngon lành như xưa nay mẹ vẫn làm mỗi khi đãi khách, mặc dù bố Emil tìm cách ngăn mẹ.

- Ở đây hẳn kinh thánh và sách giáo lý đại cương mới là quan trọng. Thế mà mình lại cứ lan man sang thịt băm viên với cái bánh pho mát!

- Cái gì cũng có thời điểm của nó, – mẹ Emil đáp. – Sách giáo lý đại cương có thời điểm của sách giáo lý đại cương, bánh phô mát có thời điểm của bánh phô mát.

Phải, đã đến giờ của bánh phô mát, và tất cả mọi người đã tham gia cuộc vấn đáp tín ngưỡng ở trang trại Katthult đều ăn thật ngon lành và cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Emil cũng ăn một miếng tướng bánh pho mát, phết thêm cả mứt nhừ và kem tươi. Đúng lúc nó vừa ăn hết thì mẹ đến bảo:

- Này Emil, chóng ngoan, chạy xuống đóng cửa chuồng gà cho mẹ đi!

Cả ngày đàn gà được thả rông. Tối đến phải nhốt chúng lại kẻo ban đêm cáo mò vào vồ mất.

Lúc này trời đã sắp tối, lại mưa nữa, nhưng Emil vẫn thấy dễ chịu khi được ra ngoài một lát, thoát khỏi không khí ngột ngạt trong nhà với những tiếng nói cười huyên náo và bánh trái. Gần như cả đàn gà yên vị trong chuồng, còn mỗi con Lotta Què và vài con nữa đã ăn no căng diều đang loăng quăng ngoài trời mưa. Nhưng Emil lùa chúng vào chuồng và cài then cẩn thận. Bây giờ con cáo cứ việc đến nếu muốn. Cạnh chuồng gà là chuồng lợn. Emil ghé qua ngó Nhóc Lợn và hứa tối nay sẽ khao Nhóc Lợn một bữa ra trò.

- Khi nào bọn người tham ăn ấy đã ních no căng bụng, thì vẫn thừa một ít ở đĩa, – Emil nói, và Nhóc Lợn ủn ỉn đầy hy vọng.

- Tao sẽ sớm quay lại, –Emil hứa, đoạn cũng kéo then cài chắc chắn.

Phía sau chuồng lợn là nhà tiêu, như cách người xưa vẫn gọi. Có thể bạn sẽ cho rằng từ này không được lịch sự lắm, nhưng bạn phải biết chú Alfred gọi như thế nào cơ. Chú Alfred gọi thẳng toẹt là chuồng…….. mà thôi, tôi không cần phải dạy cho bạn từ này. Nhưng nhà tiêu ở trang trại Katthult cũng có cái tên sang trọng hơn. Nó được gọi là “buồng Trisse”, theo tên của bác Trisse, đầy tớ từ thời ông nội Emil còn làm chủ trang trại, chính bác ta đã dựng lên căn nhà nhỏ không thể thiếu được này.

Emil đã cài then chuồng gà, cài then chuồng lợn, và vì đang tiện thể cài then, nó cài luôn then bên ngoài cửa buồng Trisse. Lẽ ra nó phải nghĩ đến chuyện nhỡ đâu có ai đang ngồi trong đó, vì then bên ngoài cửa không cài. Nhưng Emil vốn có bao giờ suy nghĩ chuyện gì cho thấu đáo đâu. Loáng cái nó đã cài chặt then cửa và vừa tưng tưng nhảy chân sáo bỏ đi vừa hát nghêu ngao:

“Mình đã cài then, đã cài then tất tần tật!”

Đang ngồi trong buồng Trisse, bố Emil nghe tiếng hát hoan hỉ của ông con mà giật mình lo sợ, vội cuống cuồng đứng dậy và thử lay cánh cửa.

- Biết ngay mà! Cánh cửa không thể được cài then chắc hơn thế nữa. Thế là ông gầm lên:

- Emil! Nhưng Emil đã nhảy chân sáo rời khỏi đó và gân cổ hát bài “Mình đã cài then” to đến nỗi nó hầu như chẳng nghe thấy gì.

Ông bố tội nghiệp, ông tức giận đến nghẹn thở. Thật là quá quắt! Làm cách nào thoát ra được đây? Ông đập cửa như hóa rồ, vừa đấm vừa xô rầm rầm. Nhưng ích gì? Cuối cùng ông bắt đầu co chân đạp. Ông đạp hăng đến nỗi tưởng dập các ngón chân, thế nhưng cái nhà bác Trisse ngày xưa đã làm cánh cửa quá tốt và chắc chắn nên nó không hề bị suy suyển. Mỗi lúc bố Emil càng điên tiết. Ông bắt đầu thọc tay vào túi tìm con dao nhíp. Ông nghĩ ít nhất ông cũng sẽ khoét được một cái lỗ nho nhỏ, đủ để thò mũi dao nhíp ra và đẩy cái then lên. Nhưng con dao nhíp lại để trong túi quần mặc hàng ngày, mà hôm nay ông lại diện bộ cánh Chủ nhật. Bố Emil đứng đó một lúc, giận sôi người. Không, ông không chửi rủa, vì ông vốn rất mực ngoan đạo, nhưng ông rít lên mắng Emil và mắng cả bác đầy tớ Trisse vì nỗi ngày đó bác ta không chịu lắp trong căn buồng này một cái cửa sổ cho ra hồn, mà chỉ để mỗi một ô thông gió bé tí tẹo ở phía trên cửa ra vào. Bố Emil tức giận ngó lên ô thông gió quá hẹp đó và đạp thêm mấy cú thật mạnh vào cánh cửa. Đoạn ông ngồi xuống chờ đợi.

Trong buồng Trisse không có quá ba chỗ ngồi, ông bèn ngồi phịch xuống một chỗ. Ông cứ ngồi thế mà nghiến răng trèo trẹo, sốt ruột sốt gan chờ xem rốt cuộc sẽ có ai đó mò xuống, do có nhu cầu giải quyết bức xúc trong buồng Trisse.

Khốn nạn cho kẻ nào đó ló mặt đầu tiên, ta sẽ giết chết tươi, ông tự nhủ. Bố Emil nghĩ thế thật không công bằng và không được tử tế cho lắm, nhưng cũng phải thông cảm là ông đang cực kỳ tức giận.

Bóng tối phủ xuống buồng Trisse. Bố Emil cứ thế ngồi đợi, đợi mãi – nhưng chẳng có ai mò xuống. Ông nghe tiếng mưa rào rào trên mái, một tiếng động không hề an ủi mà còn làm ông mỗi lúc càng thêm tức giận. Không thể nào, trong khi ông phải ngồi đơn độc trong bóng tối nơi này, thì tất cả những kẻ khác lại ngồi quây quần vui vẻ dưới ánh đèn trong kia và thả sức đánh chén trên túi tiền của ông. Không, giờ phải chấm dứt chuyện này! Ra khỏi đây, ông phải ra khỏi đây bằng mọi giá! Cho dù phải chui người qua lỗ thông gió!

- Vì mình đang tức điên lên đây, – ông nói to và nhổm dậy khỏi chỗ ngồi.

Trong buồng Trisse có một thùng đựng báo cũ. Bố Emil dựng đứng cái thùng, rồi trèo lên. Phải, cái thùng đủ cao. Cho tới lúc này tất cả đều ổn, vì ông dễ dàng mở cánh cửa lỗ thông gió và thò đầu ra xem có ai quanh đấy để kêu cứu không.

Chẳng có ai, thay vào đó ông lại bị nước mưa xối xả tuôn thẳng xuống gáy. Bao nhiêu nước mưa cứ thế tràn qua cổ áo xuống người ông. Nhưng giờ đây không gì có thể phanh nổi bố Emil nữa. Dù một trận đại hồng thủy có trút xuống đầu ông lúc này – ông vẫn phải thoát ra khỏi đây cho kỳ được!

Gắng hết sức, ông lách được hai cánh tay và vai ra khỏi lỗ thông hơi, rồi ông cố toài người ra từng tí từng tí một.

Khi người ta thực sự tức giận thì sẽ vượt qua được tất, ông nghĩ. Nhưng đúng lúc đó ông đột nhiên bị mắc kẹt! Thậm chí mắc kẹt hoàn toàn! Ông cố tới mức tím bầm cả mặt mũi, vừa đạp mạnh hai chân ông vừa vung tay loạn xạ, rồi kết quả là cái thùng gỗ đổ bật ra đất, khiến hai chân ông không còn điểm tựa, cứ chới với hết đu ra trước lại đạp ra sau – khốn khổ thân ông!

Một người sùng đạo bậc nhất sẽ làm gì khi nửa thân trước phơi dưới trời mưa và nửa thân sau thì treo trong nhà tiêu? Ông sẽ kêu cứu chăng? Không, ông không kêu cứu! Không đời nào, vì ông quá biết dân làng Lönneberga. Ông biết chính xách nếu chuyện này đến tai dân làng thì họ sẽ cười ông thối mũi, và sẽ không chịu dừng lại, chừng nào còn có dù chỉ một người sống sót ở làng Lönneberga, và nói chung ở cả vùng Smăland. Ông không kêu cứu!

Trong lúc đó, sau khi vui vẻ và hài lòng trở lại bữa tiệc. Emil đã gắng hết sức mua vui cho bé Ida. Cô bé thấy cuộc vấn đáp thật là buồn tẻ, vì vậy Emil kéo em ra hành lang, nơi hai anh em thử sờ chân vào những đôi giày của khách. Những đôi giày to có nhỏ có xếp thành dãy ngay ngắn ở đó, và bé Ida cười khúc khích khi Emil vừa kéo lê đôi giày to tướng của ông mục sư vừa nói năng y như ông mục sư, nào là “cũng vì lẽ đó”, nào là “hơn thế nữa”. Kết quả là những chiếc giày nằm vung vãi trong hành lang. Nhưng vốn là đứa trẻ ngăn nắp. Emil bèn xếp chúng thành một đống thù lù như trái núi ngay chính giữa hành lang.
Rồi Emil sực nhớ ra đã hứa sẽ mang đồ ăn ngon ra cho Nhóc Lợn. Nó lượn một vòng trong bếp, vét một số đồ ăn còn thừa vào trong liễn, đoạn tay bưng lên, tay xách đèn dầu, nó đội mưa đi ra màn đêm để đem niềm vui đến cho con lợn nhỏ của mình.

Và rồi – ồ, tôi phát run khi nghĩ đến điều này! – rồi Emil trông thấy bố! Bố cũng nhìn thấy Emil! Ôi, ôi, ôi, sao lại có thể xảy ra tất cả những chuyện này được!

- Gọi chú Alfred ngay! – Bố Emil rít lên. – Bảo chú ấy đem ra đây một cân thuốc nổ, ta sẽ cho nổ tung cả cái buồng Trisse này lên trời!

Emil chạy đi và chú Alfred tới. Chú không mang theo thuốc nổ – hẳn bố Emil tức giận quá dọa thế thôi – , nhưng đem ra một cái cưa. Vâng, phải cưa cánh cửa để cứu bố Emil thôi, ngoài ra chẳng còn cách nào khác.

Trong khi chú Alfred cưa thì Emil đứng trên một cái thang nhỏ và chu đáo giương ô che mưa cho ông bố đáng thương của mình. Chắc bạn hiểu rằng Emil chẳng sung sướng gì khi phải đứng trên thang như thế. Suốt thời gian đó bố cứ tức giận đùng đùng dưới cái ô và dọa sẽ xử lý Emil chừng nào thoát được khỏi đây. Bố cũng không hề biết ơn Emil vì nó đã chu đáo che ô cho bố. Che bây giờ phỏng còn ích lợi gì chứ, một khi bố đã ướt sũng từ ngoài vào trong và thế nào cũng bị cảm lạnh, thậm chí hoàn toàn chắc chắn rằng bố sẽ bị viêm phổi!

Nhưng Emil bảo:

- Không, bố cảm lạnh thế nào được. Cái chính là giữ được hai bàn chân khô!

Chú Alfred cũng nghĩ vậy.

- Đúng vậy, cái chính là giữ hai bàn chân khô.

Và tất nhiên hai bàn chân bố vẫn khô, điều mà bố không thể chối cãi, nhưng còn lâu bố mới chịu hài lòng vì thế. Emil run sợ trước giây phút bố được tự do.

Chú Alfred cưa hăng đến nỗi hạt cưa văng tung tóe, còn Emil sẵn sàng ù té quyền. Đúng lúc chú Alfred cưa xong và bố Emil rơi phịch xuống đất, thì Emil quăng chiếc ô đi và co giò chạy thục mạng xuống xưởng mộc. Một tích tắc trước khi bố tóm được Emil, nó kịp lao vụt xuống xưởng mộc và chốt cửa lại.

Tất cả bọn họ – kể cả vợ chồng ông mục sư – cùng ngồi xổm xuống và lần tìm giày của mình suốt hai giờ đồng hồ. Cuối cùng họ nói khá là bực bội câu “cảm ơn” và “chào tạm biệt”, rồi biến vào trong màn mưa.

Họ không thể nói lời “chào tạm biệt” Emil, vì nó đang ngồi trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm tám mươi tư của mình.

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 16-9-2011 05:22 PM
Chủ nhật, 18 tháng Mười hai,
ngày Emil có một hành động anh hùng, khiến cả làng Lönneberga hoan hô và tha thứ cũng như quên hết những trò nghịch ngợm của nó


Sắp tới lễ Giáng sinh. Một tối nọi mọi người ở trang trại Katthult ngồi quây quần trong bếp, ai làm việc người nấy. Mẹ Emil quay guồng kéo sợi, bố Emil vá giày, cô Lina chải bông, Emil và chú Emil đẽo những chiếc răng mới cho cái cào bằng gỗ, còn bé Ida chơi trò bò ngón tay đầy thích thú trên lưng cô Lina. Nó cứ lì lợm tiếp tục chơi trò này, mặc dù cô Lina bị quấy rối trong lúc cô đang làm việc.

- Nhưng phải là lưng của ai có máu buồn mới được, – bé Ida nói, thế thì nó chọn cô Lina là đúng rồi.

Bé Ida vừa cho hai ngón tay bé nhỏ từ từ bò lên cao dọc theo lưng cô Lina, vừa đọc mấy câu vè của trò chơi:

“Bố yêu ơi, mẹ yêu ơi
hãy đổ muối và bột cho tôi,
tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi,
nó sẽ kêu eng éc điếc tai tôi.”


Cứ đến câu “eng éc” là bé Ida lại ngoáy ngoáy ngón tay trỏ vào sườn cô Lina, khiến lần nào cô Lina, khiến lần nào cô cũng kêu ầm ĩ và cười với Ida với vẻ hết sức hài lòng.

Bố Emil ngồi đó và nghe câu “tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi”. Hẳn câu đó gợi cho ông suy nghĩ, nên ông đột nhiên nói ra một điều khủng khiếp.

- Đúng, sắp Giáng sinh rồi. Đã tới lúc mổ thịt con lợn của con rồi đấy, Emil.

Emil buông rơi con dao đẽo gỗ trên tay, trân trối nhìn bố.

- Mổ thịt Nhóc Lợn ấy ạ! Không đời nào! – nó nói. – Đó là con lợn của con, Nhóc Lợn của con, bố quên rồi à?

Tất nhiên bố Emil không quên. Nhưng ông nói rằng khắp vùng Smăland này chưa có ai nghe câu chuyện nuôi lợn như nuôi chó cưng cả, là một nông dân sành sỏi lẽ ra Emil phải biết người ta chăn nuôi và vỗ béo lợn cốt để mổ thịt chứ.

- Con không biết điều đó sao? – bố Emil ngạc nhiên hỏi.

Phải, tất nhiên Emil biết điều đó, nhưng thoạt đầu nó không biết trả lời thế nào. Rồi nó bỗng nảy ra một ý hay.

- Đúng, con là một nông dân sành sỏi tới mức biết rằng một số con lợn giống được phép tiếp tục sống, để con gây giống. Và chính là con định nuôi Nhóc Lợn thành lợn giống đấy chứ.

Emil biết điều mà có lẽ bạn chưa biết, là lợn giống chính là một con lợn sẽ trở thành bố của rất nhiều lợn con. Đấy là phao cứu sinh cho Nhóc Lợn, Emil nghĩ, vì Emil đâu có ngốc. Rồi nó sẽ kiếm được cho Nhóc Lợn một con lợn nái, và cho dù con lợn nái ấy còn bé, thì nó vẫn giải thích cho bố rằng Nhóc Lợn và vợ Nhóc Lợn rồi dây sẽ sinh được hàng đàn lợn con suốt ngày quấn quít quanh chúng.

- Nghe được đấy, – bố Emil nói. – Nhưng chắc chắn ở trang trại Katthult này sẽ có một kỳ Giáng sinh chỉ toàn rau dưa.

Không đùi lợn muối, không dồi tiết, không gì hết!

“Hãy đưa bột đưa muối cho tôi
Tôi muốn nấu ngay cái món dồi.”


Bé Ida tiếp tục đọc, nhưng Emil đã quát lên:

- Im mồm, dồi diếc gì! Emil biết món dồi tiết đâu chỉ cần bột và muối, mà còn cần lòng lợn và tiết canh nữa.

Nhưng nhất định không phải là lòng và tiết của Nhóc Lợn! Không, chừng nào Emil còn sống thì đừng ai hòng đến Nhóc Lợn!

Trong bếp im lặng hồi lâu, một sự im lặng nặng nề. Bỗng chú Alfred văng một câu chửi thề. Con dao đẽo gỗ sắc lẻm cắt vào ngón tay cái của chú khiến máu chảy ra ròng ròng.

- Chú chửi thề thì có đỡ hơn đâu, – bố Emil nghiêm khắc nói. – Tôi không muốn nghe chửi thề trong ngôi nhà của mình.
Mẹ Emil lấy một miếng vải lanh sạch quấn quanh ngón tay cái của chú Alfred.

Rồi chú Emil đẽo tiếp. Đây là một công việc nên làm trong mùa đông, vì mọi cái cào đều cần được thay răng mới cho những răng đã hỏng, và công việc sửa chữa này phải xong trước mùa xuân.

-– Như đã nói….. Giáng sinh năm nay ở Katthult sẽ chỉ ăn toàn rau dưa thôi, – bố Emil nói, mắt rầu rĩ nhìn đăm đăm ra phía trước.

Tối ấy Emil nằm thao thức mãi, sáng ra nó đập vỡ con lợn đất và lấy từ chỗ tiền tiết kiệm ba mươi lăm đồng. Đoạn nó thắng con Lukas vào một cỗ xe trượt và đi đến trang trại Bastefall. Ở đó họ nuôi nhiều lợn, và Emil chở về một con lượn béo tròn rất đẹp mã, thả vào chuồng với Nhóc Lợn. Xong đâu đấy nó tìm bố và nói:

- Nào, bây giờ trong chuồng nhà mình đã có hai con lợn rồi. Bố giết thịt một con đi! Nhưng bố chớ có thịt nhầm đấy, kẻo lại trách con không đe trước!

Cơn thịnh nộ khủng khiếp đang chế ngự Emil đôi khi khiến nó không cần biết người mà nó đang nói chuyện là bố mình nữa. Ý nghĩ chỉ có thể mua được cuộc sống cho Nhóc Lợn bằng cách giết một con lợn khác, khiến Emil cảm thấy bàng hoàng. Nhưng nó không còn cách lựa chọn nào khác, và cũng biết rõ ràng nó sẽ chẳng yên thân được với bố, người không chịu hiểu rằng trên đời này có một người có thể coi một con lợn như chó cưng.

Hai ngày liền Emil không bén mảng đến chuồng lợn, mà để cô Lina mang thức ăn cho cả hai con lợn. Tinh mơ ngày thứ ba, nó chợt thức giấc, cho dù bên ngoài trời vẫn tối đen như mực. Nó nghe tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Tiếng kêu thống thiết, chói tai, nhưng đột nhiên im bặt.

Emil phà hơi vào ô kính cửa sổ bị đóng băng bên ngoài, để tạo một lỗ con nhòm ra. Nó thấy ánh đèn đầu phía chuồng lợn và những bóng đen đi đi lại lại. Giờ con lợn đã chết, nó biết thế. Giờ cô Lina đang đứng đấy mà quấy chỗ tiết đang ộc ra từ cổ con lợn. Bố và chú Alfred sắp dội nước sôi để cạo lông và xả thịt. Bà Krösa–Maja sẽ đến để cùng cô Lina làm sạch bộ lòng. Và thế là chấm dứt cuộc đời con lợn mà Emil đã mua về từ trang trại Bastefall.

“Tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi, nó sẽ kêu eng éc điếc tai tôi,” Emil lẩm bẩm, đoạn lại chui lên giường nằm khóc hồi lâu.

Nhưng con người là thế: Emil cũng vậy thôi. Chiều ấy nó ngồi trong chuồng một lát với Nhóc Lợn và vừa gãi lưng cho Nhóc Lợn vừa nói đầy suy tư.

- Nhóc Lợn ơi, mày vẫn sống! Cho dù trên thế gian này có chuyện gì xảy ra chăng nữa, thì mày, mày cứ vẫn sống!

Rồi Emil định bụng sẽ cố quên con lợn của trang trại Bastefall. Nhưng hôm sau, khi bà Krösa–Maja và cô Lina chăm chỉ ngồi trong bếp thái mỡ lợn, còn mẹ thì nhào thịt xay nhuyễn làm xúc xích, luộc dồi và ướp đùi lợn vào nước muối và khi cô Lina hát “Gió thổi từ biển vào sao mà lạnh” còn bà Krösa–Maja kể chuyện con ma không đầu ở nhà mục sư, thì Emil lại cảm thấy sao mà khoan khoái. Nó không còn nhớ đến con lợn xấu số của trang trại Bastefall, mà chỉ còn khấp khởi nghĩ đến chuyện lễ Giáng sinh sắp đến rồi và thật tuyệt biết bao khi cuối cùng tuyết cũng đã bắt đầu rơi.

- Tuyết rơi rồi, nhiều tuyết ghê, nhiều tuyết ghê! – Bé Ida reo lên.

Và tuyết rơi mới dữ dội làm sao. Suốt ngày tuyết rơi, mỗi lúc một dày, đã thế lại còn gió mạnh. Tuyết xoáy mù mịt khiến trong nhà nhìn ra hầu như không còn thấy nổi khu chuồng trại.

- Phải, bây giờ gió đang góp thành bão, sẽ có bão tuyết mất thôi, – bà Krösa–Maja nói. – Làm sao tôi về nhà được đây.

- Đêm nay bà cứ ngủ lại, – mẹ Emil bảo. – Bà có thể ngủ chung với cô Lina trên chiếc ghế dài dưới bếp.

- Được, nhưng hãy biết điều mà nằm yên như con lợn chết đấy! Đừng quên là tôi có máu buồn, – cô Lina nói.

Trong bữa ăn tối chú Alfred than phiền về ngón tay cái của chú. Chú kêu đau. Mẹ Emil bèn tháo băng ra xem xem tại sao ngón tay vẫn chưa lành.

Trông không đẹp mắt tí nào. Vết thương tấy đỏ và mưng mủ, từ ngón tay cái có những vệt đỏ chạy dài lên quá cổ tay. Mắt bà Krösa–Maja bắt đầu sáng lên.

- Nhiễm trùng máu rồi, – bà nói. – Bệnh này nguy đấy.

Mẹ Emil đi lấy lọ cồn, xoa khắp bàn tay và cánh tay chú Alfred rồi băng lại.

- Nếu đến mai vẫn không đỡ, thì cậu phải đến ông bác sĩ ở Mariannelund thôi, – mẹ nói.

Đêm đó tuyết và gió bão quần khắp vùng Smăland, không ai nhớ nổi đã có khi nào thời tiết tệ hại tới mức đó chưa. Sáng hôm sau, khi những người ở trang trại Katthult ngủ dậy, thì thấy cả trang trại bị phủ kín bởi một lớp tuyết dày trải rộng. Và bão tuyết vẫn lồng lộn, dữ tợn tới mức người ta hầu như không thể ló đầu ra khỏi nhà, còn gió thì hú thành tiếng trong ống khói – ui chao, thật đúng là chưa từng thấy!

- Hôm nay anh Alfred cứ gọi là xúc tuyết suốt ngày nhá, – cô Lina nói. – Mà cứ để mặc như thế cũng được, vì xúc sao cho xuể.

Nhưng ngày hôm đó chú Alfred không xúc xẻng tuyết nào cả. Khi đến bữa ăn sáng, chỗ của chú ở trong bếp trống không, mà cũng chẳng thấy chú dặn ai cái gì. Emil đâm ra lo lắng. Nó chụp cái “mú” lên đầu, khoác chiếc áo vải len dày, vớ lấy cái xẻng xúc tuyết gác cạnh cửa bếp, đoạn xúc tuyết dọn cho mình một con đường đi sang lán đầy tớ nằm sát vách xưởng mộc.

Cô Lina ngó qua cửa sổ bếp dõi theo Emil, rồi gật gù vẻ hài lòng.

- Cái thằng Emil khôn thế chứ, lo dọn sẵn tuyết để có thể chạy cho nhanh xuống xưởng mộc. Ai mà biết được lúc nào nó sẽ bất chợt phải chạy xuống đấy.

Cô Lina ngu ngốc, cô không hiểu rằng Emil đang trên đường đến với chú Alfred.

Trong buồng đầy tớ lạnh ngắt khi Emil bước vào. Chú Alfred đã không đốt sưởi. Chú nằm trên giường và không muốn dậy. Chú cũng chẳng muốn ăn. Chú bảo chú chú không đói. Thế là Emil càng lo lắng tợn. Chú Alfred mà đã không biết đói thì có nghĩa là bệnh của chú trầm trọng.

Emil chất củi vào lò sưởi và châm lửa, sau đó nó chạy đi gọi mẹ. Mẹ Emil đến, tất cả những người khác cũng đến, bố Emil, cô Lina, bà Krösa–Maja và bé Ida, vì ai cũng lo lắng cho chú Alfred.

Chú Alfred tội nghiệp nằm nhắm mắt ở đó. Người nóng như hòn than, nhưng chú vẫn rét run. Các vết đỏ nơi tay chú đã lan lên đến tận nách, trông rất đáng sợ.

Bà Krösa–Maja hăng hái gật gù.

- Nếu những vết đỏ này chạy vào tim thì coi như xong, cậu ấy sẽ chết.

- Bà im đi, – mẹ Emil bảo. Nhưng bắt bà Krösa–Maja im miệng đâu có dễ.

Riêng ở làng Lönneberga không thôi bà đã biết tới ít nhất là nửa tá người chết vì nhiễm trùng máu và bà bèn liệt kê tên tuổi của họ ra. – Nhưng không phải vì thế mà chúng ta chịu bó tay với cậu Alfred, – bà nói.

Bà nghĩ có lẽ sẽ cứu được chú Alfred, nếu đúng nửa đêm đem một lọn tóc và một đầu vạt áo của chú ra chôn về phía bắc tòa nhà chính và đọc một câu rủa kiểu như thần chú. Bà biết một câu như thế này:

“Ba cộng ba! Cái gì đến từ quỷ Sa tăng, cút ngay về với quỷ Sa tăng! Thế là hòa – ba cộng ba!” Nhưng bố Emil bảo rằng câu rủa mà chú Alfred văng ra khi chú cắt vào ngón tay cái cũng đã đủ lắm rồi. Còn nếu bây giờ phải chôn cái gì ở phía bắc ngôi nhà trong thời tiết như thế này, thì bà Krösa–Maja cứ việc tự đi mà làm.

Bà Krösa–Maja tư lự lắc đầu:

- Phải, phải, đành cứ để sự việc diễn ra như nó phải thế thôi, ôi chao, ôi chao!

Emil nổi điên.

- Chuyện nhảm nhí của đàn bà!

Bà Krösa–Maja rụt đầu lại.

- Hiểu chứ, Emil bé bỏng, cậu ấy sẽ khỏe lại, tất nhiên cậu ấy sẽ khỏe lại!

Và để cho chắc chắn, bà vuốt ve chú Alfred và thề thốt rõ to.

- Chắc chắn cậu sẽ khỏe lại, cậu Alfred, tôi hiểu lắm chứ!

Nhưng sau đó bà lại nhìn ra cửa buồng ngủ và khẽ lẩm bẩm:

- Nhưng có điều tôi không hiểu. Họ sẽ làm cách nào mà khiêng quan tài lọt qua ô cửa hẹp kia được nhỉ!

Nghe vậy, Emil liền òa lên khóc. Nó sợ hãi giật gấu áo bố.

- Mình phải đưa chú Alfred đến chỗ bác sĩ ở Mariannelund như mẹ nói, đi bố!

Tác giả: blue.smile    Thời gian: 16-9-2011 05:24 PM
Thế là bố mẹ nhìn nhau rất lạ. Họ biết việc này hoàn toàn không thể. Không, đơn giản là không thể nghĩ đến chuyện tới Mariannelund ngay hôm nay. Nhưng thật khó nói thẳng điều đó với Emil khi thằng bé ủ rũ đứng đó. Tất nhiên bố mẹ Emil cũng muốn giúp chú Alfred. Có điều họ không biết bằng cách nào, và vì vậy cũng không biết phải trả lời Emil ra sao. Bố Emil chẳng nói chẳng rằng rời căn buồng, nhưng Emil không chịu đầu hàng. Nó lẵng nhẵng theo sát gót bố và vừa van nài, vừa khóc lóc, dọa dẫm, như thể mất trí. Nhưng, bạn thử tưởng tượng xem, lần này bố Emil lại không nổi giận, mà chỉ nói rất khẽ:

- Không thể được, Emil ạ, tự con biết là không thể được mà!

Cô Lina ngồi trong bếp vừa khóc nức nở vừa thổn thức:

- Thế cháu cứ nghĩ sang xuân chúng cháu sẽ cưới nhau cơ đấy! Thôi, thế là xong! Bây giờ anh Alfred đã hết đời. Còn cháu, cháu ngồi đây ôm bốn khăn trải giường với cả tá khăn tay! Phải, thật là quá đáng!

Rốt cuộc lúc này Emil mới thực sự hiểu tình cảnh bi đát của mình. Không có sự giúp đỡ nào cả. Thế là nó quay lại lán đầy tớ và ngồi suốt một ngày bên chú Alfred, đó là ngày dài nhất trong đời Emil.

Chú Alfred nằm đó, ngủ li bì. Thi thoảng chú mới mở mắt nhìn lên và lần nào cũng nói:

- Cháu đấy à, Emil!

Emil nhìn tuyết quay cuồng ngoài cửa sổ mà căm hờn trào dâng hừng hực, tới mức tưởng như đủ sức hun tan tất cả tuyết ở làng Lönneberga và khắp vùng Smăland này. Nhưng chắc chắn cả thế gian sẽ chìm trong tuyết mất thôi, nó nghĩ, vì tuyết trút xuống ngày càng dày đặc.

Ngày mùa đông ngắn ngủi, cho dù có vẻ dài đối với một kẻ đang nóng lòng ngồi đây như Emil. Trời đã nhập nhoạng, sắp tối đến nơi.

- Cháu đấy à, Emil! – Chú Alfred lại nói, nhưng lúc này chú nói khó khăn hơn.

Mẹ Emil bưng canh thịt đến và khéo dỗ Emil lắm nó mới chịu ăn. Mẹ cũng thử dỗ chú Alfred, nhưng chú không muốn ăn. Thế là mẹ thở dài và lại đi ra.

Khi đã khuya, cô Lina đến bảo đã đến giờ Emil phải đi ngủ rồi.

Đừng hòng, chớ có ai tưởng sẽ bắt được nó rời nơi này.

- Cháu sẽ ngủ dưới sàn nhà, cạnh chú Alfred, – Emil nói, và không thay đổi quyết định.

Emil lôi ra một tấm nệm cũ và một tấm chăn dùng đắp cho ngựa, với nó thế là đủ. Nhưng nó không sao ngủ được. Nó nằm thao thức, nhìn lửa trong lò sưởi lụi dần và nghe tiếng đồng hồ báo thức của chú Alfred kêu tích tắc, nhưng nó cũng nghe chú Alfred thở gấp như thế nào và thỉnh thoảng chú lại rên lên khe khẽ ra sao. Hẳn thỉnh thoảng Emil có chợp mắt đi một lát, nhưng lần nào nó cũng giật mình choàng tỉnh dậy. Nỗi lo sợ cho chú Alfred bót nghẹt trái tim Emil, và đêm càng trôi đi, nó càng cảm thấy tất cả là sai lầm và sắp trở nên quá muộn, vĩnh viễn quá muộn.

Sau đó quãng bốn giờ sáng, thì Emil biết mình phải làm gì. Bằng mọi giá, nó phải đưa bằng được chú Alfred đến ông bác sĩ ở Mariannelund, cho dù cả hai – nó và chú Alfred – có bỏ mạng dọc đường chăng nữa.

- Chú không được cứ nằm trên giường mà chờ chết như thế, chú Alfred, chú không được phép!

Emil không nói to ra điều đó, mà chỉ nghĩ. Nhưng nó nghĩ rất kiên quyết. Và nó bắt tay vào hành động ngay. Nó phải rời khỏi đây trước khi có ai thức dậy và ngăn cản nó. Cho tới khi cô Lina dậy đi vắt sữa bò. Emil còn một tiếng đồng hồ nữa, và tất cả sẽ phải diễn ra trong một tiếng đồng hồ ấy.

Không ai biết Emil đã làm thế nào và trong tiếng đồng hồ ấy nó đã lao động cật lực ra sao. Phải lôi cỗ xe trượt ra khỏi nhà để xe, phải dắt con Lukas ra khỏi chuồng, thắng con ngựa vào xe, rồi phải đưa được chú Alfred đáng thương cứ lảo đảo và tựa vào Emil nặng trĩu. Cuối cùng, khi Emil dìu được chú đến bên cỗ xe trượt, thì chú liền ngã chúi đầu vào xe và nằm thượt ra như chết rồi.

Emil đắp kín cho chú Alfred đến nỗi chú chỉ còn thò ra tí đỉnh mũi. Sau đó nó ngồi trên ghế xà ích, kéo dây cương và thúc con Lukas chạy nước kiệu. Nhưng con Lukas ngoảnh đầu lại và nhìn Emil, vẻ ngờ vực. Họa có điên mới lên đường giữa trời mù trắng tuyết này! Chẳng lẽ Emil không không hiểu điều đó?

- Bây giờ tao là người quyết định, – Emil nói, – mày chỉ việc vâng lời thôi!

Trong bếp đã lên đèn, cô Lina đã dậy. Đúng vào phút chót Emil mới cùng con Lukas và cỗ xe trượt băng qua cổng trang trại Katthult và rẽ vào con đường trong tuyết và gió.

Úi, bão tuyết đang ở trên đâu Emil! Tuyết táp ngang tai nó, bám dính vào mắt nó khiến nó chẳng còn trông thấy gì, mà nó thì đang muốn ít nhất phải trông thấy con đường. Emil đưa bàn tay đi găng lên quệt mặt, nhưng vẫn không nhìn thấy đường, mặc dù nó có mang theo trên xe trượt những hai chiếc đèn bão. Không có đường nào cả, chỉ có tuyết. Nhưng con Lukas đã đến Mariannelund nhiều lần. Có thể sâu thẳm trong trí nhớ loài ngựa của nó, nó biết đại khái con đường sẽ chạy như thế nào. Lukas lại rất dẻo dai và ngoan cường, đích thực là một con ngựa mà người ta dám cùng xông pha trong bão tuyết! Họ cứ thế từ từ tiến lên. Sau mỗi lần cỗ xe bị sa lầy trong tuyết, là lại có một cú giật mạnh. Chốc chốc Emil lại phải xuống xe, lấy xẻng xúc bớt tuyết. Emil khỏe như một con bò mộng và đêm đó nó đã xúc cơ man là tuyết, khiến nó không bao giờ quên.

- Người ta sẽ trở nên mạnh mẽ khi buộc phải thế, – Emil bảo con Lukas.

Chắc chắn rồi, Emil rất khỏe và trong những dặm đường đầu tiên mọi việc khá suôn sẻ, nhưng càng về sau càng khó khăn, phải, rồi mọi việc trở nên thật sự tệ hại cho Emil. Lúc này nó đã thấm mệt, cái xẻng mỗi lúc như càng nặng hơn trên tay nó, nó không còn có thể xúc hùng hục như ban nãy nữa. Emil rét run, tuyết chui vào ủng khiến các ngón chân nó tê cứng lại, các ngón tay đau buốt vì lạnh, tai cũng cóng, mặc dù nó đã quấn quanh mũ một chiếc khăn len, để gió khỏi thổi bay mất tai. Tất cả cộng lại quả thật tệ hại và Emil dần dần đánh mất dũng khí. Bố đúng là có lý khi nói:

- Không thể được. Emil ạ, tự con biết là không thể được mà!

Lukas cũng đuối sức dần. Mỗi lúc con ngựa càng khó nhọc hơn khi phải lôi cỗ xe bị sa lầy trong tuyết. Cuối cùng xảy ra điều mà Emil lo sợ suốt nãy giờ. Cỗ xe bỗng sụt nghiêng đi, và Emil biết cả bọn đang sa xuống rãnh. Phải, họ đang ở dưới rãnh và mắc kẹt ở đó. Dù con Lukas ra sức kéo, còn Emil thì thì cố hết sức mà đùn đẩy chảy cả máu mũi, vẫn chẳng ích lợi gì. Cỗ xe vẫn đứng lì tại chỗ.

Thế là Emil nổi cơn tức giận, nó tức điên lên với tuyết, với cỗ xe, với cái rãnh và nói chung với tất cả tình cảnh khốn khổ này, tới mức nó gần như mất trí. Emil rú lên một tiếng ghê rợn, nghe như tiếng rú nguyên thủy. Con Lukas giật mình sợ hãi và có lẽ cả chú Alfred cũng thế, nếu chú còn sống. Emil tự nghe cũng phát hoảng và đang hú bỗng im bặt.

- Chú còn sống đấy chứ, chú Alfred? – nó sợ hãi hỏi.

- Không, chắc chú chết rồi, – chú Alfred đáp với giọng khàn khàn kỳ dị và đáng sợ. Và thế là cơn tức giận bay biến khỏi Emil, chỉ nỗi buồn còn lại. Nó cảm thấy đơn độc. Cho dù chú Alfred còn nằm trong xe sau lưng nó kia, nó vẫn hoàn toàn đơn độc và chẳng có ai giúp đỡ. Lúc này nó không còn biết phải làm gì. Nó chỉ ước gì cho được nằm vùi trong tuyết để ngủ và quên hết sự đời.

Nhưng gần đâu đây có một trang trại….. Chính là cái trang trại mà Emil đặt cho cái tên là trang trại Bánh Rán. Và đột nhiên Emil trông thấy một ánh lửa, một tia hy vọng lóe lên trong nó.

- Để cháu đi gọi người tới giúp, chú Alfred, – nó nói. Nhưng chú Alfred không trả lời. Emil vội lên đường. Nó vất vả vượt qua những hố những đụn tuyết lồi lõm, để rồi rốt cuộc, khi nó đến được cửa chuồng bò thì trông nó giống như một hình nhân đắp bằng tuyết hơn bất cứ thứ gì khác.

Chính ông chủ trang trại Bánh Rán đang ở trong chuồng bò. Ông ta khá kinh ngạc khi trông thấy thằng bé của trang trại Katthult đứng trên ngưỡng cửa, người phủ đầy tuyết, máu mũi choe choét, nước mắt đầm đìa. Phải, Emil đã khóc, nó không thể làm khác, nó biết lôi được ông chủ trang trại Bánh Rán ra trời tuyết giữa lúc này thật chẳng dễ dàng gì. Ông ta thật khó chịu, cái ông nông dân này, nhưng hẳn ông ta nhận thấy mình không thể không giúp đỡ. Thế là ông mang theo ngựa, những sợi chão và mấy cái chăn cũ và lôi được cỗ xe trượt lên khỏi cái rãnh, mặc dù suốt thời gian đó ông ta rất bực tức và cứ càu nhàu luôn mồm.

Giá cái ông chủ trang trại Bánh Rán là người tử tế hơn một chút thì chắc ông ta đã tìm cách tiếp tục giúp Emil đến tận Mariannelund. Nhưng ông ta không làm thế, nên Emil và con Lukas đành tiếp tục cuộc hành trình tuyệt vọng và không chút an ủi xuyên qua bão tuyết của mình. Chúng cũng chẳng còn có thể làm gì hơn. Tất nhiên cả hai cứ liên tục gắng thêm chút nữa, thêm chút nữa, nhưng chúng đã quá kiệt sức nên chỉ nhích được tý một như rùa bò. Cuối cùng thì Emil đành đầu hàng. Nó không thể cố nổi nữa. Nó thậm chí không còn đủ sức nhấc cái xẻng lên.

- Cháu chịu rồi, chú Alfred, – Emil nói và òa khóc. Chỉ còn vài cây số nữa là đến Mariannelund, vì vậy nên thật đau khổ khi phải đầu hàng chính vào lúc đã gần tới đích.

Không nghe chú Alfred ư hữ gì. Chắc chú ấy chết rồi, Emil nghĩ. Con Lukas cúi đầu đứng đó, trông như thể đang xấu hổ. Con ngựa cũng đã kiệt sức.

Emil trèo lên ghế xà ích. Nó cứ ngồi đó mà khóc khe khẽ, tuyết phủ kín người nó và nó không động đậy. Bây giờ tất cả thế là hết, tuyết cứ việc rơi bao nhiêu cũng mặc, nó không quan tâm nữa. Emil nhắm mắt lại, muốn ngủ. Nó có thể ngồi ngủ ngay trên ghê xà ích này, dưới trời tuyết mịt mù này, nếu được thế thì hay quá, nó nghĩ.

Nhưng thật ra không có tuyết lẫn mùa đông. Thật ra đang mùa hè đấy chứ. Emil cảm thấy như thế, vì nó đang cùng chú Alfred tắm dưới hồ ở trang trại Katthult. Và chú Alfred muốn dậy Emil bơi. Chú Alfred ngốc nghếch, chẳng lẽ chú không biết Emil đã biết bơi hay sao? Chính chú đã dạy cho nó cách đây nhiều năm, chú quên rồi sao? Emil phải cho chú biết nó bơi giỏi thế nào mới được. Thế rồi hai chú cháu cứ bơi cùng nhau…………. Thế rồi hai chú cháu cứ bơi cùng nhau, bơi cùng nhau mãi, càng lúc càng bơi ra xa và vẫy vùng dưới nước mới tuyệt làm sao! Emil bảo: “Hai chú cháu mình, chú Alfred!”, rồi chờ đợi chú Alfred trả lời như xưa nay vẫn thế: “Đúng, hai chú cháu mình, Emil, phải như thế chứ!” Nhưng thay vì vậy nó lại nghe tiếng chuông. Không thể thế được! Khi đang bơi giữa hồ thì làm gì có tiếng chuông nào. E

mil khó nhọc dứt mình ra khỏi giấc mơ, khó nhọc mở mắt. Và kia nó trông thấy một chiếc xe ủi tuyết! Giữa màn tuyết quay cuồng nhô ra chiếc xe ủi tuyết. Phải, đúng là chiếc xe ủi tuyết đến từ Mariannelund. Bác tài lái chiếc xe cứ trố mắt nhìn Emil, như thể bác ta đã trông thấy một con ma, chứ không phải thằng bé mình phủ đầy tuyết đến từ trang trại Lönneberga của làng Lönneberga vậy.

- Đường từ đây đến Mariannelund thông rồi hả bác? – Emil hồi hộp hỏi.

- Ừ, bác tài đáp lớn, – nếu cháu nhanh nhanh lên. Nửa giờ nữa chắc chắn sẽ lại đầy tuyết đấy.

Nhưng nửa giờ nữa là đủ với Emil.

Phòng chờ chỗ bác sĩ đông kín người khi Emil mở toang cánh cửa. Đúng lúc ông bác sĩ thò đầu ra từ phòng khám, xem ai sẽ là người tiếp theo. Nhưng Emil đã la lên:

- Chú Alfred đang nằm trên xe trượt ngoài kia và đang hấp hối!

Ông bác sĩ không phải kẻ ngốc. Ông lập tức lôi theo vài người đàn ông đang ngồi trong phòng chờ ra chỗ xe trượt và khiêng chú Alfred vào, đặt chú nằm lên bàn mổ. Vừa lướt mắt nhìn chú Alfred, ông bác sĩ đã kêu lên.

- Mọi người về nhà cả đi! Giờ tôi bận việc khác rồi.

Emil đã tưởng chỉ cần chú Alfred đến được chỗ ông bác sĩ là chú sẽ khỏe lại tức thì. Nhưng lúc này, khi nhìn thấy ông bác sĩ lắc đầu na ná như bà Krösa–Maja, Emil phát hoảng. Ngộ nhỡ không có cách gì cứu nổi chú Alfred nữa – ngộ nhỡ tất cả đều vẫn quá muộn? Emil cảm thấy đau đớn hơn là nó hình dung. Vừa khóc nức nở, nó vừa nghẹn ngào van xin ông bác sĩ:

- Cháu xin biếu ông con ngựa của cháu, nếu ông chữa khỏi cho chú ấy….và cả con lợn của cháu nữa. Chỉ cần ông chữa khỏi cho chú ấy! Ông tin ông sẽ làm được chứ ạ?

Ông bác sĩ nhìn Emil hồi lâu.

- Ta sẽ làm tất cả những gì có thể, nhưng ta không hứa gì hết!

Chú Alfred cứ nằm đó, không chút biểu hiện của sự sống. Nhưng đột nhiên chú mở mắt và ngỡ ngàng nhìn Emil.

- Cháu đấy à, Emil! – chú nói.

- Đúng, Emil đấy, – ông bác sĩ đáp.– Nhưng bây giờ tốt hơn là để thằng bé đi ra ngoài một lúc, vì tôi phải mổ cho cậu, Alfred ạ.
Có thể đọc được nỗi sợ hãi trong mắt chú Alfred, vì xưa nay các ông bác sĩ và chuyện mổ xẻ rất xa lạ với chú.

- Cháu nghĩ là chú ấy hơi sợ, – Emil nói. – Có lẽ tốt nhất là cháu nên ở lại bên chú ấy.

Ông bác sĩ gật đầu.

- Ừ, cháu đã đưa được cậu ấy đến đây, thì chắc cháu cũng sẽ vượt qua được chuyện này.

Thế là Emil cầm lấy bàn tay lành lặn của chú Alfred mà nắm thật chặt, trong khi ông bác sĩ mổ bàn tay bên kia. Chú Alfred không kêu một tiếng nào. Chú không rên la, cũng không khóc – chỉ có Emil là khóc một chút, nhưng khóc khẽ tới mức không ai nghe thấy.

Một ngày trước ngày Chúa Giáng sinh Emil mới cùng chú Alfred trở về nhà. Lúc bấy giờ cả làng Lönneberga đều biết đến hành động anh hùng vĩ đại của Emil và ai nấy đều tung hô nó.

- Cái thằng bé ở trang trại Katthult đó tôi đã luôn luôn quý mến mà, – tất cả cùng nói. – Tôi không hiểu nổi tại sao một số người lại cứ luôn ca cẩm về nó! Trên đời này làm gì có thằng bé nào không nghịch ngợm một chút cơ chứ!

Ngoài ra Emil còn cầm về cho bố mẹ một bức thư của ông bác sĩ. Trong thư có đoạn viết: “Ông bà có một cậu con trai mà ông bà có thể tự hào”. Còn mẹ Emil thì ghi vào cuốn vở màu xanh: “Lạy Chúa, trái tim người mẹ tội nghiệp của con, trái tim từng bao lần tuyệt vọng khi nghĩ về Emil, giờ mới được an ủi làm sao! Và con sẽ có cách để cả làng cả xã này biết về việc làm tốt đẹp của thằng bé!”

Nhưng mà ôi chao, những người ở trang trại Katthult đã trải qua những ngày đầy lo âu. Vào cái buổi sáng kinh khủng đó, khi họ phát hiện ra Emil và chú Alfred đều biến mất, thì bố Emil phát hoảng tới mức lên cơn đau bụng và phải vào giường nằm. Ông cứ ngỡ suốt đời này sẽ chẳng còn được trông thấy Emil.

Nhưng rồi tin tốt lành từ Mariannelund đã làm ông bình tâm lại. Tuy vậy cho tới lúc Emil trở về và chạy ào vào buồng ngủ để báo cho bố là mình đã lại ở nhà, thì ông vẫn còn đau bụng.

Bố Emil nhìn Emil, hai mắt ông sáng lấp lánh.

- Emil, con là một cậu bé tốt, – ông nói, và Emil sung sướng tới mức tim nó như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Đây đúng là một trong những ngày mà Emil cảm thấy yêu bố.

Mẹ Emil đứng bên cạnh, phấn khích vì tự hào.

- Phải, Emil của chúng ta thật là ngoan, – mẹ nói và vuốt ve mái tóc bồng bềnh của Emil.

Bố Emil chườm bụng bằng một cái vung nồi nóng, khiến cơn đau giảm đi rõ rệt. Nhưng cái vung đã nguội ngắt và cần được làm cho nóng lại.

- Để con, con làm được, – Emil hăng hái kêu lên, – bây giờ con đã quen chăm sóc người ốm rồi.

Bố Emil gật đầu công nhận.

- Còn mình, mình có thể mang cho tôi một li nước quả ép, – bố bảo mẹ. Phải, lúc này ông ấy cảm thấy mình đúng là sung sướng, khi cứ việc nằm một chỗ và chẳng cần phải lo lắng gì!

Nhưng mẹ Emil còn bận chút việc khác, một lúc sau bà mới ep xong nước quả, và đúng lúc vừa rót nước quả vào li, bà nghe một tiếng rú ghê hồn vọng ra từ buồng ngủ. Đó là bố Emil rú. Không chần chừ một giây, mẹ Emil chạy vào buồng ngủ, và ngay khoảnh khắc đó cái vung nồi bay vèo về phía bà. Bà kịp nhảy né sang bên, nhưng trong cơn hoảng sợ bà đánh rơi li nước quả xuống cái vung dưới sàn nhà, khiến nước bốc hơi xèo xèo.

- Con trai bất hạnh của mẹ, con đã nướng cái vung nóng tới mức nào vậy? – Mẹ hỏi Emil lúc đó đứng ngơ ngác như trời chồng.

Té ra trong lúc Emil đang nướng nóng cái vung trong bếp thì bố Emil đã thiếp đi. Khi quay vào buồng ngủ, thấy bố đang ngủ ngon lành, tất nhiên Emil không muốn đánh thức bố dậy, nên đã cẩn thận luồn cái vung vào dưới chăn, để lên bụng bố. Phải, cố nhiên là thật đen đủi khi cái vung lại quá nóng.

Mẹ Emil làm mọi cách để bố bình tĩnh trở lại.  

- Vâng, vâng, vâng, em sẽ đem ngay kem bôi bỏng lên cho mình đây, – mẹ nói.

Nhưng bố Emil vùng dậy khỏi giường. Ông không đủ tự tin để tiếp tục ốm, một khi Emil đã ở nhà, ông nói, hơn nữa ông cũng muốn chào chú Alfred.

Chú Alfred ngồi trong bếp, trông khá xanh xao với một cánh tay quấn băng, nhưng vẻ mặt hồ hởi và hài lòng. Cô Lina thì cứ tíu tít lăng xăng quanh chú. Cô và bà Krösa–Maja đang dở tay đánh các đồ đồng. Cho tới ngày Giáng sinh tất cả nồi niêu xoong chảo đều phải sạch sẽ và bóng lộn. Nhưng cô Lina không sao đứng yên được. Tay cầm giẻ, tay cầm cái liễn đựng bánh bằng đồng, cô cứ chạy quanh chú Alfred và phởn phơ như thể cô vừa bất ngờ tìm thấy một mỏ vàng trong bếp vậy. Nãy giờ bé Ida cũng không rời mắt khỏi chú Alfred. Nó nhìn chú chăm chú và nghiêm nghị đến mức có cảm giác nó không biết chắc có đúng chú Alfred vừa về đến nhà là chú Alfred trước đây không.

Bà Krösa–Maja được dịp nói một thôi một hồi về chứng nhiễm trùng máu, nói hăng tới mức sùi cả bọt mép. Chú Alfred nên lấy làm mừng vì đã thoát hiểm, bà nói.

- Nhưng cậu cũng đừng có mà tự mãn thái quá, vì cậu thấy đấy, nhiễm trùng máu là căn bệnh cực kỳ tệ hại và nó vẫn còn ở trong cơ thể, còn lâu mới hết. Cho nên ngay một người đã khỏi bệnh thì rất lâu sau vẫn có thể bị lại, thật đấy, đúng là như thế đấy.

Tối đó ở trang trại Katthult thật là vui vẻ đầm ấm. Mẹ Emil khao món xúc xích mẹ mới làm, thế là thành một bữa tiệc xúc xích thực thụ. Cả nhà ngồi quây quần với tâm trạng cực kỳ vui vẻ và hạnh phúc trong gian bếp đầy không khí Giáng sinh: Emil, bố, mẹ, cô Lina, bé Ida, chú Alfred và bà Krösa–Maja. Phải, đó là một tiệc Giáng sinh nho nhỏ đích thực với những ngọn nến lung linh trên bàn ăn và đủ các thức kèm theo. Sau đó phải kể đến món xúc xích ngon tuyệt mới được chiên ròn, vàng rộm, ăn cùng với nước xốt phúc bồn tử. Chú Alfred ăn đặc biệt nhiều, cho dù với chú, phải ăn bằng một tay cũng hơi khó. Cô Lina nhìn chú đầy âu yếm và cô bỗng sực nhớ một chuyện trọng đại.

- Phải rồi, anh Alfred, bây giờ anh không bị nhiễm trùng máu nữa! Vậy sang xuân chúng mình cưới nhau, anh nhá?

Chú Alfred hoảng tới mức giật thót cả người, đánh rơi bao nhiêu nước xốt phúc bồn tử xuống quần.

- Tôi không hứa, – chú nói. – Tôi vẫn còn một ngón tay cái, và ai dám bảo đảm rằng tôi lại không bị nhiễm trùng máu lần nữa với ngón tay cái còn lại?

- Nhưng khi đó thì chú Alfred ơi, cháu sẽ đem chú ra chôn ở phía Bắc tòa nhà chính, – Emil nói. – Cháu sẽ làm thế, vì cháu sẽ không tha lôi chú đến Mariannelund thêm một lần nữa đâu.

Bà Krösa–Maja tức giận lườm Emil.

- Phải, người ta có thể mang tất cả mọi chuyện ra mà đùa cợt, tôi biết rồi, – bà tự ái nói.

Lúc này, khi mọi người ngồi thoải mái trong ánh nến Giáng sinh và không khí có phần hơi long trọng, mẹ Emil mới rút bức thư từ trong túi tạp dề ra và đọc to những gì ông bác sĩ đã nói về Emil. Nếu tất cả mọi người nghe thêm một lần nữa thì cũng có hại gì đâu, bà nghĩ.

Khi bà đọc xong, không ai nói gì. Không khí trở nên im lặng vì những lời lẽ vô cùng tốt đẹp và ý nghĩa của bức thư. Cuối cùng bé Ida lên tiếng:

- Thư nói về anh đấy, anh Emil!

Nhưng Emil thấy ngượng nghịu và chẳng biết nên quay sang ai nữa. Tất cả mọi người đều nhìn nó và nó thì không thích thế, nên cứ ương bướng nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Nhưng nhìn ra cửa sổ cũng chẳng vui vẻ gì cho lắm, vì nó thấy tuyết lại rơi, và nó biết rõ sáng sớm mai ai sẽ phải xúc tuyết. Thế là Emil lại lấy xúc xích ăn. Khi ăn, nó cứ cụp mắt xuống và chỉ ngước lên liếc nhanh đúng một lần, xem mọi người có còn nhìn mình nữa không. Ít nhất thì mẹ Emil vẫn đang nhìn nó. Mẹ không thể rời mắt khỏi thằng con yêu quý. Trông thằng bé sao mà đáng yêu với đôi má hồng hào, mái tóc bồng bềnh và đôi mắt xanh dịu dàng, phải, trông nó như một thiên thần bé nhỏ trong lễ Giáng sinh, mẹ nghĩ.

Hơn nữa bây giờ mẹ lại có trong tay khẳng định của ông bác sĩ bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi, rằng mẹ có quyền tự hào về con trai mình.

- Lạ thật, – mẹ nói. – Đôi lúc nhìn Emil, em lại cứ nghĩ rồi ra nó sẽ làm nên lắm.

Bố Emil ngờ vực nhìn mẹ.

- Làm nên cái gì chứ? – ông ngạc nhiên hỏi.

- Chà, em làm sao biết được? Có lẽ……….. nó sẽ làm chủ tịch hội đồng xã, hoặc chức gì na ná như thế.

Thế là cô Lina phá lên cười:

- Không có lẽ nào người ta cần một chủ tịch hội đồng xã chuyên bày trò nghịch ngợm!

Mẹ Emil nghiêm khắc nhìn cô, nhưng không nói gì mà chỉ bực bội khẽ khoát tay ra hiệu mời cả nhà tiếp tục dùng xúch xích. Emil lấy thêm một ít xúc xích vào đĩa và trong khi từ tốn rót nước xốt phúc bồn tử lên xúc xích nó suy nghĩ về điều mẹ vừa nói. Nếu sau này nó có trở thành chủ tịch hội đồng xã thật – thì có lẽ cũng chẳng đến nỗi nào! Thì cũng phải có ai đó làm chủ tịch hội đồng xã chứ.

Rồi nó lại trăn trở về điều cô Lina nói. Nếu nó trở thành chủ tịch hội đồng xã chuyên bày trò nghịch ngợm….. thì nó có thể nghĩ ra trò gì đây? Emil rót cốc sữa vào cốc của mình và tiếp tục trăn trở………. trò nghịch ngợm của chủ tịch hội đồng xã chắc phải hơn hẳn, hơn xa những trò nghịch ngợm thông thường khác rồi, không thể dễ dàng nghĩ ra như trở bàn tay được. Emil đưa cốc sữa lên mồm định uống, nhưng đúng khoảnh khắc đó nó lại nghĩ ra một trò nghịch ngợm hết ý. Nó bèn phì một cái rõ mạnh, khiến sữa – như mọi khi – lại bắn qua bàn văng hết vào người bố.

Mặc dù vậy bố Emil không bực tức lắm. Ai lại đi mắng mỏ một người đã được ông bác sĩ ca ngợi hết lời như thế, hơn nữa người đó lại vừa có được một hành động anh hùng đến vậy, bố Emil chỉ chùi sữa đi và hơi làu bàu:

- Đó, dù sao cũng rõ ngay là ai đã trở về cái nhà này!

- Mình không được nói năng như thế chứ, – mẹ Emil nói đầy trách móc.

Bố Emil bèn im lặng và đắm chìm trong suy nghĩ về thằng con trai và tương lai của nó.

- Chuyện Emil sẽ trở thành chủ tịch hội đồng xã thì tôi nghi ngờ, – cuối cùng ông nói. – Nhưng chắc chắn rồi ra nó có thể trở thành một gã trai đàng hoàng tử tế, nếu nó vẫn sống và khỏe mạnh và nếu Chúa muốn vậy.

Mẹ Emil gật đầu tán thành.

- Phải, phải, nếu Chúa muốn vậy!

- Và nếu anh Emil muốn vậy, – bé Ida thêm vào.

Emil mỉm cười hiền lành.

- Để rồi xem, – nó nói, – để rồi xem!

Thế rồi trời tối, và đêm đó tất cả mọi người đều ngủ trong an lành, còn tuyết thì cứ rơi trên trang trại Katthult, khắp làng Lönneberga và khắp vùng Smăland.

Ồ không, không đâu! Bạn không cần phải sợ, ông bác sĩ không lấy đi của Emil con Lukas và Nhóc Lợn đâu!


THE END





Chào mừng ghé thăm Kites (https://forum.kites.vn/) Powered by Discuz! X3