Kites

Tiêu đề: [Hiện Đại - Xuất Bản] Báu Vật Của Đời | Mạc Ngô [Hoàn] [In trang]

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:02 AM
Tiêu đề: [Hiện Đại - Xuất Bản] Báu Vật Của Đời | Mạc Ngô [Hoàn]
Tên tác phẩm: Báu vật của đời

Tên tác giả: Mạc Ngô

Thể loại:Tiểu thuyết

Tình trạng sáng tác : đã hoàn thành

Nguồn tác phẩm:http://truongton.net

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:05 AM
Lời giới thiệu.


Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 tại Cao Mật, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

Do Cách mạng Văn hóa, ông phải nghỉ học khi đang học dở tiểu học và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn. Năm 1976, ông nhập ngũ. Năm 1984, trúng tuyển vào khoa văn thuộc Học viện nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Năm 1988, ông lại trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, năm 1991 tốt nghiệp với học vị thạc sĩ.

Hiện ông là sáng tác viên bậc Một của Cục Chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.

Nhà văn Mạc Ngôn từng được thế giới biết đến qua tác phẩm Cao lương đỏ. Bộ phim cùng tên do đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Canne năm 1994.

Truyện dài Báu vật của đời (nguyên tác tiếng Hoa: Phong nhũ phì đồn) được xuất bản vào tháng 9 năm 1995 và ngay trong năm ấy được trao giải thưởng cao nhất về truyện. Tác phẩm này nhanh chóng trở thành một hiện tượng.

Báu vật của đời khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua số phận của các thế hệ trong gia đình Thượng Quan. Từ những số phận khác nhau, lịch sử được tiếp cận dưới nhiều góc độ, tạo nên sức sống, sức thuyết phục nghệ thuật của tác phẩm.

Có nhiều con đường để cảm thụ tác phẩm văn chương, vì vậy trước một hiện trượng văn học xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau âu cũng là điều bình thường, thậm chí còn làm phong phú thêm đời sống văn học. Trên tinh thần đó, chúng tôi xin gởi đến bạn đọc Báu vật của đời của Mạc Ngôn, một trong những tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc hiện đại.


NXB Văn Nghệ TP. HCM
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:07 AM
Chương 1.





1.


Hằng hà sa số thiên thể vận hành như con thoi trôi chảy và mạch lạc trong vũ trụ. Chúng phóng ra những tia màu hồng rực rỡ. Thiên thể này có hình bầu vú, thiên thể khác lại có hình cặp mông. Chúng vận hành có vẻ tùy tiện, nhưng thật ra mỗi ngôi đều có quỹ đạo riêng. Rì rầm, loạt soạt, mỗi ngôi đều có điệu hát riêng của mình. Xiên ngang, đâm dọc, ngôi nào đi theo con đường của ngôi ấy. Ngắm nhìn sự hài hòa vĩ đại ấy, mục sư Malôa nước mắt ràn rua kêu lên:

- Ôi! Thượng Đế chí tôn! Người là tất cả!

Mục sư Malôa nằm bất động trên giường. Ông trông thấy một đạo hồng quang rọi trên bầu vú màu phấn hồng của Đức Mẹ Ma-ria và trên khuôn mặt bầu bĩnh của Chúa Hài Đồng trong tay Đức Mẹ. Mùa hè năm ngoái mái nhà bị dột, bức tranh sơn dầu này bị ố từng đám vì nước mưa, khuôn mặt Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng trở nên ngắn ngủn, đần độn và nanh nọc. Một con nhện treo lơ lửng dưới sợi tơ màu trắng bạc trước cửa sổ, đung đưa mỗi khi có làn gió nhẹ. Sáng báo tin vui, chiều báo phát tài; người đàn bà xinh đẹp, sắc mặt nhợt nhạt ấy đã nói như vậy về nhện sa trước mặt. Mình thì có gì vui? Mình chẳng có gì vui cả! Những thiên thể có hình dáng vú và mông lọt qua trong đầu, ông giơ ngón tay khều dử mắt, nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường, tiếng hạc kêu từ đầm lầy vọng tới, và cả tiếng be be ai oán của con dê sữa. Những con chim sẻ mổ bồm bộp trên giấy dán cửa sổ. Chim khách kêu lảnh lót trên cây bạch dương ngoài sân. Bỗng mục sư tỉnh như sáo. Người phụ nữ với cái bụng to kinh khủng bỗng hiện ra dưới làn ánh sáng, cặp môi khô nẻ mấp máy, hình như đang lẩm bẩm câu gì đó. Cô ta mang thai đã mươi hai tháng, chắc chắn hôm nay sinh nở. Mục sư Malôa chợt hiểu ra ý nghĩa của nhện sa và tiếng kêu của con chim khách. Ông bật dậy, bước xuống giường.

Mục sư Malôa xách chiếc bình gốm màu đen, đi men theo con đường lớn phía sau nhà thờ. Thoạt nhìn, ông đã nhận ra bà Lã, vợ ông thợ rèn Thượng Quan Phúc Lộc, đang dùng chổi vun đất bột trên đường. Tim ông mục sư đập thình thịch, miệng lẩm bẩm:

- Ôi Thượng đế! Người là tất cả!

Ông giơ ngón tay ngượng nghịu làm dấu chữ thập rồi chậm rãi nép vào một góc trong, lặng lẽ quan sát người đàn bà cao lớn và béo đẫy. Bà ta vun đất bột thấm đẫm sương đêm, cẩn thận loại bỏ rác rưởi lẫn trong đó. Người đàn bà đồ sộ này cử chỉ vụng về nhưng sinh lực thì có thừa. Chiếc chổi bện bằng thân lúa mạch vàng óng trong tay bà chỉ như một đồ chơi. Bà bốc đất mịn cho vào sọt, dùng tay nén chặt rồi bê sọt đất đứng lên.

Bà Lã bê sọt đất về đến đầu ngõ thì nghe có tiếng ồn ào phía sau. Ngoảnh lại, bà thấy cánh cổng nhà giàu nhất của thị trấn - nhà Phúc Sinh Đường - mở toang, một đám dàn bà ùa ra. Họ cố ý ăn mặc lôi thôi lếch thếch, mặt bôi đầy nhọ nồi. Ngày thường, phụ nữ nhà Phúc Sinh Đường quần là áo lượt, sao hôm nay lại cải trang như vậy? Từ mảnh sân đối diện, lão xà ích có biệt hiệu là Chim Sẻ Rừng đánh ra một cỗ xe lớn mới tinh, bánh hơi, rèm màu xanh. Xe chưa dùng hẳn, đám phụ nữ đã tranh nhau trèo lên. Lão đánh xe ngồi xổm trước con sư tử đá bị sương đêm làm ướt đẫm, lặng lẽ hút thuốc. Ông chủ Phúc Sinh Đường Tư Mã Đình từ sau cổng vọt ra, tay cầm súng hỏa mai, động tác mạnh và nhẹ nhàng như thanh niên. Lão xà ích vội vã đứng lên nhìn ông chủ. Tư Mã Đình giật chiếc tẩu từ miệng lão xà ích, rít mấy hơi rõ kêu, rồi ngẩng nhìn bầu trời rạng đông đang ửng lên màu phấn hồng, bảo lão xà ích:

- Sẻ Rừng, cho xe đến đầu cầu sông Mực rồi đợi ở đấy ta sẽ đến ngay!

Lão xà ích tay cầm cương, vung roi cho ngựa quay đầu xe. Đám phụ nữ chen chúc trên xe la chí chóe. Lão xà ích vung roi đánh bốp, ngựa bắt đầu chạy nước kiệu. Nhạc ngựa kêu loong chong, một vệt bụi dài cuốn theo xe.

Tư Mã Đình đái một bãi ngay trên mặt đường cái, gừ gừ trong họng nhìn theo chiếc xe ngựa, rồi ôm súng trèo lên đài quan sát. Đài cao ba trượng, dựng bởi chín mươi chín cây gỗ tròn. Đỉnh đài là một mặt bằng nhỏ, cắm ngọn cờ hồng. Sáng sớm trời không gió, ngọn cờ ướt đẫm sương, ủ rũ. Bà Lã nhìn thấy Tư Mã Đình đứng trên đình tháp ngóng về phía tây bắc, cổ vươn dài ra, môi dẩu, y hệt con ngỗng đang uống nước. Một đám sương là là mặt tháp, nuốt chửng Tư Mã Đình rồi lại nhả ra. Rạng đông nhuốm đỏ khuôn mặt hắn. Bà Lã trông thấy khuôn mặt Tư Mã Đình như bị phủ lên một lớp hồ loãng, nhớp nháp và sáng lấp lóa. Hắn giơ khẩu súng bằng hai tay, mặt đỏ như mào gà chọi. Một tiếng động nhỏ vang lên, đó là tiếng lẫy cò đập vào hạt nổ. Hắn đợi với vẻ trang nghiêm. Bà Lã cũng đợi, đợi rất lâu, mặc cho sọt đất trên tay nặng trĩu hai tay tê dại, cổ mỏi nhừ. Tư Mã Đình hạ súng xuống, môi trề ra, y hệt một đứa trẻ đang giận dỗi. Bà Lã nghe thấy hắn chửi câu gì. Hắn chửi khẩu súng:

- Đồ ôn dịch, mày dám không nổ!

Hắn lại giơ súng lên, lẩy cò, một tiếng đập nhẹ, một vệt lửa phụt ra đầu nòng át cả màu đỏ của bình minh, sáng trắng khuôn mặt hắn. Một tiếng nổ đanh xé toạc thôn xóm đang yên tĩnh, lửa đỏ rục phụt lên trời, tạo thành các nàng tiên đứng trên mây, những cánh hoa sặc sỡ bay lả tả. Bà Lã thấy lòng rạo rực. Bà là vợ ông thợ rèn nhưng tay nghề thì bà giỏi hơn chồng một bậc, chỉ cần trông thấy sắt và lửa là máu dồn lên mặt, sôi lên trong huyết quản, cơ bắp nổi lên từng búi, chẳng khác chiếc roi tết bằng gân bò. Thép đen đập trên sắt đỏ, hoa lửa bắn ra tứ phía, mồ hôi ướt đẫm lưng, chảy thành dòng giũa hai vú, mùi tanh tanh của sắt rèn len lỏi khắp chỗ.

Bà Lã trông thấy Tư Mã Đình nhảy dựng lên một cái trên đỉnh tháp. Không khí ẩm ướt ban mai quyện đầy khói và mùi thuốc súng. Tư Mã Đình thét to, báo động cho cả vùng đông bắc Cao Mật:

- Bà con ơi, giặc Nhật sắp đến đấy!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:09 AM
2.



Bà Lã đổ đất lên mặt giường đắp bằng đất đã lột bỏ chiếu và đệm rơm, lo lắng nhìn con dâu là chị Lỗ lúc này đang hai tay bám thành giường, miệng rên rỉ. Bà dùng cả hai tay san đất cho phẳng rồi khẽ bảo con dâu:

- Trèo lên đi!

Trước cái nhìn thương hại của mẹ chồng, chị Lỗ, một phụ nữ vú to mông nẩy, sợ run lên. Tội nghiệp, chị nhìn trộm nét mặt từ bi của mẹ chồng mà đôi môi nhợt nhạt run rẩy, như muốn nói điều gì đó.

Bà Lã nói to:

- Lão Tư Mã lại bị ma ám rồi!

Chị Lỗ nói:

- Mẹ...

Bà Lã phủi sạch đất trên tay, lẩm bẩm:

- Nàng dâu quí hóa của tôi, hãy cố lên! Lần này lại là con gái thì tôi chẳng còn mặt mũi nào bênh vực cho cô được nữa!

Chị Lỗ ứa hai hàng nước mắt, cắn chặt môi dưới, cố súc lê cái bụng nặng nề lên giường, chỗ đã trải đất mịn sau khi lột bỏ chiếu.

- Đẻ nhiều lần rồi, cứ tà tà con ạ!


Bà Lã đặt cuộn băng trắng và chiếc kéo lên giường, cau mày, tỏ vẻ sốt ruột, ông già và bố Lai Đệ đang đỡ đẻ cho con lừa đen ở chái đằng kia.

- Nó đẻ con so, ta phải chăm lo cho nó!

Chị Lỗ gật đầu. Chị nghe thấy một tiếng súng bắn lên trời cao, tiếng sủa hốt hoảng của mấy con chó và tiếng của Tư Mã Đình vẳng lại, đứt quãng: Bà con ơi, chạy mau lên! Chậm là chết hết!. Hình như hưởng ứng lời kêu gọi của Tư Mã Đình, chị cảm thấy một trận quẫy đạp bụng cuộn lên từng cục, đau đến nghẹt thở, mồ hôi rỉ ra lỗ chân lông và tanh như mùi cá. Chị cắn răng, không cho tiếng kêu vọt ra khỏi miệng. Qua màn nuộc mắt mờ ảo, chị nhìn thấy mẹ chồng tóc đen nhánh, đang cắm ba nén hương lên bàn thờ Quan âm. Khói hương lờ lững bay lên rồi lan tỏa ra khắp phòng.

- Đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn Quan Thế âm Bồ Tát! Xin Người cứu giúp chúng con, hãy thương con mà cho con một đứa con trai...

Chị Lỗ đặt hai bàn tay trên cái bụng vồng lên và lạnh ngắt, mắt hướng về bộ mặt bóng loáng của bức tượng Quan âm bằng sứ đặt trên bàn thờ, lẩm bẩm cầu nguyện; một lần nữa, chị lại ứa nước mắt. Chị tụt cái quần đã ướt một mảng, vén cao hết mức chiếc áo ngoài, để lộ bụng và vú ra. Chị bám chặt thành giường, sửa lại tư thế cho đúng với đám đất mẹ chồng rải trên giường. Giữa hai cơn đau quặn, chị dùng các ngón tay chải lại tóe, tựa lưng vào chỗ đệm rơm và chiếu đã được cuốn lên.

Mảnh gương gắn trên bậu cửa soi nghiêng khuôn mặt của chị: Tóc ướt đẫm mồ hôi, con mắt dài u tối, gò mũi cao trăng mịn, chiếc miệng rộng khô nẻ co giật từng đợt. Một tia nắng yếu ớt lọt qua cửa sổ, chiếu chênh chếch lên ngôi chị, chỗ gân xanh ngoằn ngoèo và những nếp nhăn lồi lõm màu trắng, trông dễ sợ. Chị ngắm cái bụng của mình, trong lòng lúc hi vọng, lúc chán nản y hệt bầu trời Cao Mật giữa mùa hè: khi thì mây đen cuồn cuộn, lúc lại xanh trong thăm thẳm. Chị gần như không dám cúi nhìn cái bụng to và cứng đến kỳ lạ của chị. Có lần chị nằm mơ thấy mình chửa toàn là sắt thép. Lần khác, chị lại mơ thấy chửa toàn là cóc. Sắt thép thì chị còn có thể chấp nhận, nhưng cóc thì mỗi khi nghĩ đến là chị nổi da gà. Xin Bồ Tát che chở cho con... Xin tổ tiên phù hộ... Các thần các thánh phù hộ độ trì cho con, hãy tha thứ cho con, giúp con sinh được một cháu trai đủ tai đủ mắt... Con thân yêu của mẹ, con ra đi... Trời cha đất mẹ ơi, thần tiên yêu quái ơi, hãy cứu giúp con.... Chị cầu nguyện, chị van xin, trả lời là từng cơn đau xé ruột.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:10 AM
Chị bám chặt hai tay vào cuộn chiếu sau lưng, mỗi thớ thịt trên người rung lên. Chị mở to mắt, trước mặt là những tia lửa hồng, trong màu hồng của lửa lại có những tia sáng trắng ngoằn ngoèo, co dãn y như những sợi bạc chảy trong lò. Chịu không nổi, một tiếng thét bật ra từ miệng chị vọt qua cửa sổ, trầm bổng trên đường ngang lối tắt hòa quyện với tiếng kêu của Tư Mã Đình rồi xoắn chặt với nhau như một sợi dây thừng, như một con rắn xộc thẳng vào tai ông mục sư Malôa người Thụy Điển. Ông mục sư người cao lớn, bụng phệ, đầu to với những lọn tóc đỏ, lỗ tai có chòm lông trắng. Đang trên thang dẫn tới lầu chuông, ông mục sư chợt sững ngươi, cặp mắt xanh luôn mọng nước đầy quyến rũ và ngơ ngác như con nai lạc đàn, lóe lên mừng rỡ. Ông giơ ngón tay mũm mĩm làm dấu chữ thập, buột miệng nói một câu đặc thổ âm vùng Cao Mật:

- Lạy Chúa toàn năng!...

Ông tiếp tục trèo lên tận đỉnh, lắc vang chiếc chuông han gỉ, vốn treo ở một ngôi chùa. Tiếng chuông não lòng lan tỏa trong sương sớm. Cùng với tiếng chuông, cùng với tiếng cảnh báo quân Nhật sắp đến, là một bãi nước ối chảy ra từ giữa hai chân chị Lỗ. Chị ngửi thấy mùi thịt dê, còn ngửi thấy mùa hoa hòe thơm đậm mà thanh nhã. Cảnh yêu nhau trong rừng hòe năm ngoái cùng với mục sư

Malôa lại hiện rõ trước mặt chị. Chị lưu luyến với hình ảnh quá khứ, không được lâu, mẹ chồng chị giơ cao hai tay đầy máu chạy xộc vào phòng. Chị kinh hoảng nhận ra rằng, trong tay mẹ chồng có một ngôi sao xanh nhỏ xíu.

- Đẻ chưa? - Chị nghe thấy mẹ chồng lớn tiếng hỏi.

Chị lắc đầu, xấu hổ.

Mái đầu mẹ chồng lấp lóa dưới nắng, chị kinh hoảng khi thấy tóc của bà đã bạc trắng.

- Cứ tưởng cô đẻ rồi! - Mẹ chồng nói.


Hai tay mẹ chồng vươn về phía bụng chị. Đó là hai bàn tay thô, to khỏe, móng rắn chắc, ngay cả trên mu bàn tay cũng có những chỗ chai cứng. Chị sợ, muốn thoát khỏi hai bàn tay dính đầy máu lừa của bà mẹ chồng thợ rèn, nhưng chị không còn sức. Hai tay bà ấn trên bụng chị một cách thô bạo, chị cảm thấy như tim ngừng dập, khắp ngươi nổi gai ốc. Chịu không nổi, chị bật lên tiếng rên, không phải vì đau mà vì sợ. Không chút nương nhẹ, hai bàn tay bà mẹ chồng rờ rẫm trên bụng chị rồi lại ấn mạnh, cuối cùng, như người ta thử dưa chín, bà vỗ bộp bộp mấy cái trên bụng chị, tỏ vẻ ảo não như người ta mua phải quả dưa còn xanh. Hai bàn tay rời bụng, rũ xuống dưới ánh nắng, nặng nề và mệt mỏi. Toàn bộ thân thể mẹ chồng như một cái bóng, chỉ có hai bàn tay là thật, đầy uy lực, làm gì cũng được, muốn làm gì thì làm. Chị nghe thấy tiếng mẹ chồng như vọng lại từ xa, mãi tận trong đầm lầy, hòa quyện với mùi bùn và mùi tôm cua:

- Quả chín khắc rụng... đã đến lúc thì ngăn cũng chẳng được hãy kiên nhẫn... đừng sợ ngươi ta cười... chẳng lẽ cô không sợ bảy cô thị mẹt của cô cười cho!

Chị trông thấy một trong hai bàn tay ấy lại uể oải gõ trên bụng chị như gõ một cái trống da dê bị ẩm, phát ra những tiếng đùng **c. Đàn bà bây giờ càng văn minh lại càng yếu ớt. Cái đận tao đẻ bố nó, vừa đẻ vừa khâu đế giày!. Cuối cùng thì bàn tay cũng đã ngừng gõ, thu trở lại trong bóng tối, mờ ảo như móng vuốt chân thú.

Tiếng mẹ chồng cất lên trong bóng tối, mùi thơm của hoa hòe từng đợt ùa vào phòng.

- Bụng cô quá lớn, hoa văn cũng rất lạ, có thể là con trai. Nếu vậy thì phúc cho cô, phúc cho ta, phúc cho nhà Thượng Quan. Bồ Tát linh thiêng, Chúa Trời phù hộ, không có con trai thì suốt đời cô chỉ là nô lệ, đẻ con trai, cô lập tức thành bà chủ nhà. Ta nói vậy cô tin hay không tin thì tùy!...


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:11 AM
Mẹ ơi, con tin, con tin mà! - Chị Lỗ hoàn toàn tin như vậy. Bức tường trước mặt chị vẫn còn vết ố màu nâu. Chị nhìn vết ố đó mà lòng đau quặn. Đó là cách đây ba năm, sau khi sinh đứa con gái thứ bảy, chồng chị là Thọ Hỉ nổi trận lôi đình, cầm cái chày gỗ ném vào đầu chị, máu ở đầu vọt lên tường... Mẹ chồng đặt cái làn bên cạnh chị. Tiếng của bà như ngọn lửa bùng cháy trong đêm, tỏa ra những tia rục rỡ: Nói theo ta - Đứa con trai trong bụng tôi đáng giá ngàn vàng, nói đi!. Trong làn đựng đầy lạc củ. Nét mặt hiền hòa của mẹ chồng, tiếng nói trang nghiêm, nửa là thiên thần, nửa là mẹ. Chị Lỗ rất mực cảm động, vừa khóc vừa nói theo: Trong bụng tôi là con vàng con bạc, là quí tử, con trai tôi là quí tử!.... Mẹ chồng ấn vào tay chị mấy củ lạc, dạy chị nói:

- Lạc, lạc, lạc!....(*)

Chị đón lấy mấy củ lạc, lặp lại y nguyên lời mẹ chồng. Bà Lã ló đầu vào, vờ tỏ ra thương cảm, nói:

- Bồ Tát hiển linh, chúa Trời phù hộ cho nhà Thượng Quan được cả hai niềm vui! Mẹ con Lai Đệ này, con bóc lạc để chờ đẻ nhé, con lừa nhà ta sắp đẻ con so, mẹ không trông nom con được đâu.

Chị Lỗ cảm động nói:

- Mẹ cứ đi Chúa phù hộ cho con lừa nhà ta đẻ thuận!...

Bà Lã lại thở dài, lắc lư ra khỏi phòng.


________________
Chú thích: (*), Sinh đẻ đồng nghĩa với củ lạc. Nói vậy cho dễ đẻ.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:14 AM
3.


Trên bệ cối xay bột ở chái tây để một cây đèn ạ đầy những vết dâu mỡ. ánh đèn vàng vọt, leo lét, kéo theo một sợi khói đen ngoằn ngoèo bay lên. Mùi thơm của đèn dầu trộn với mùi cút đái của lừa. Không khí đầy ô nhiễm. Bên cạnh cối xay là máng cỏ của lừa bằng dá xanh. Con lừa sắp đẻ của nhà Thượng Quan nằm nghiêng giữa cối xay và máng.

Bà Lã bước vào trong chái, mắt chỉ nhìn thấy ngọn đèn, trong bóng tối vọng ra câu hỏi của Phúc Lộc:

- Bà nó này, con trai hay con gái?

Bà Lã bĩu môi về phía chồng, không trả lời. Bà bước qua chỗ con lừa đen. Thọ Hỉ đang ngồi nắn bụng lừa. Bà giận dữ bước tới bên cửa sổ, xé toạc lớp giấy dán màu đen. Mười mấy luồng ánh sáng màu vàng óng dọi qua các ô cửa sổ hình chữ nhật, soi sáng nửa bờ tường đối diện. Bà quay lại chỗ cối xay bột thổi tắt ngọn đèn, mùi dầu thực vật lập tức lan tỏa át hẳn mùi xú uế của gian trái. Khuôn mặt đen nhẻm của Thọ Hỉ sáng lên lấp lánh dưới tia nắng, cặp mắt lươn sáng lên như hai hòn than.

Anh ta rụt rè nhìn mẹ, hỏi nhỏ:

- Mẹ, ta cũng chạy chứ? Nhà Phúc Sinh Đường chạy cả rồi. Bọn Nhật sắp tới!
Bà Lã nhìn con trai như nhìn một thỏi thép bị tôi hỏng, khiến Thọ Hỉ phải đưa mắt nhìn đi nơi khác, mồ hôi rịn lấm tấm trên mặt, vội vã cúi đầu xuống.

- Ai bảo mày là quân Nhật sắp đến? - Bà Lã giận dữ chất vấn con trai.

- Ông chủ Phúc Sinh Đường vừa nổ súng báo hiệu vừa thông báo đấy thôi! - Thọ Hỉ lấy mu bàn tày dính đầy lông lừa lau mồ hôi trên mặt, khẽ lẩm bẩm. So với bàn tay hộ pháp của bà Lã, bàn tay của Thọ Hỉ vừa nhỏ vừa mảnh mai. Anh ta chợt dùng tay, môi chúm chím như trẻ ti sữa mẹ, ngẩng đầu lên, dỏng đôi tai bé tí lắng nghe:

- Bố mẹ ơi, nghe này!

Giọng Tư Mã Đình vẳng đến gian chái, nghe rõ mồn một:

- Các ông các bà ơi, các chú các cô ơi, các anh các chị ơi! Chạy mau đi, trốn mau đi! Hãy lánh đến hoang mạc đông nam. Quân Nhật sắp đến đấy! Nguồn tin chắc chắn đấy, tôi không nói bậy đâu! Bà con ơi, đừng nấn ná nữa, chạy đi, đừng tiếc mấy gian nhà dột nát làm gì! Người còn thì của còn, còn người là còn tất cả. Bà con ơi, chạy mau, kẻo muộn hối không kịp!...

Thọ Hỉ bật dậy, cuống quít vì sợ:

- Bố mẹ nghe thấy chưa? Nhà ta cũng chạy thôi!

- Chạy đi đâu - Bà Lã cằn nhằn - Nhà Phúc Sinh Đường chạy là phải rồi. Còn nhà ta kiếm ăn bằng nghề rèn, thóc vua không thiếu một cân, thuế vua không thiếu một đồng, ai lên làm quan thì nhà mình vẫn là người dân! Bọn Nhật không phải là người sao? Chúng chiếm đông bắc thì cũng vẫn phải dựa vào người dân cày ruộng nộp tô cho chúng. Ông nó này, ông là chủ nhà, tôi nói vậy có đúng không?

Phúc Lộc miệng trễ xuống, để lộ hàm răng to khỏe vàng khè, nét mặt không rõ cười hay khóc. Bà Lã nổi giận nói:

- Tôi hỏi ông, ông nhe răng nhe lợi ra làm gì? Đúng là vô tích sự!

Ông Phúc Lộc nhăn nhó:

- Tôi biết gì mà hỏi! Bà bảo chạy thì tôi chạy, bảo không chạy thì tôi ở lại.

Bà Lã thở dài, nói:



- Phúc hay họa đây? Họa thì có tránh cũng không thoát! Còn đứng đực ra đấy làm gì? Nắn bụng cho con lừa mau!

Thọ Hỉ mấp máy môi, lấy hết can đảm hỏi to, giọng đứt quãng:

- Nó đẻ chưa?

Là đàn ông thì phải phân định công việc cho rõ ràng. Mày hãy biết chăm sóc con lừa, còn chuyện vợ mày thì đừng bận tâm!

- Nhưng nó là vợ của con... Thọ Hỉ cằn nhằn.

- Chẳng ai bảo nó không phải vợ của mày! - Bà Lã nói.

- Con đoán lần này nó đẻ con trai - Thọ Hỉ vừa ấn bụng con lừa, vừa nói.

- Mày là đồ bị thịt - Bà Lã buồn rầu, nói - Cầu Chúa phò hộ cho mày!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:16 AM
Thọ Hỉ còn định nói câu gì đó, nhưng ánh mắt bà Lã khiến anh ta câm miệng. Ông Phúc Lộc nói:

- Mẹ con bà ở dây, dể tôi ra ngoài phố xem sao!

- Ông cứ ở nhà cho tôi - Bà Lã túm lấy vai chồng, lôi đến bên cạnh con lừa, giận dữ:

- Ngoài phố thì có gì để ông xem? Nắn bụng lừa đi, giúp nó đẻ cho nhanh. Bồ tát ơi, Chúa ơi! Tổ tiên nhà Thượng Quan toàn những anh hùng hảo hán, cắn sắt ngậm gang, mà sao lại đẻ ra phường giá áo túi cơm như thế này?

Ông Phúc Lộc cúi xuống bên con lừa, giơ hai cánh tay khẳng khiu như tay con trai, nắn bóp bụng con lừa đang co giật Thọ Hỉ ngồi đối diện với ông, phía bên kia của con lừa. Hai cha con ngoảnh mặt vào nhau, cùng trề môi, cùng nhăn răng, y hệt một cặp không ai tồi tệ hơn ai. Cha nhổm lên thì con cúi xuống, cha cúi xuống thì con nhổm lên, giống chơi trò bập bênh. Theo đà bập bênh, bốn tay cùng vờ vĩnh xoa nắn. Hai cha con đều yếu ớt, nhẹ như bấc, mềm như bông, vờ vịt qua quít cho xong việc. Bà Lã đứng phía sau buồn bã lắc đầu, giơ bàn tay chẳng khác chiếc kìm sắt chộp lấy cổ chồng xách sang một bên, tặc lưỡi:

- Xéo, tránh ra? - Rồi khẽ dúi một cái, Phúc Lộc loạng choạng nhào ra tận góc phòng, phủ phục trên bao tải thức ăn gia súc.

- Đứng dậy! - Bà Lã quát con trai - - Chỉ tổ vướng chân vòng tay người ta, ăn đói nhịn khát gì đâu mà cứ như phủi bụi? Trời ơi, sao số tôi khổ thế này! - Thọ Hỉ như được phóng thích, bật dậy chạy đến chỗ cha. Hai cha con chớp chớp cặp mắt đen, chẳng ra giảo hoạt, chẳng ra ngây dại. Lúc này, tiếng rao của Tư Mã Đình lại ởăng tới, cha con Thọ Hỉ như mót đái, mót ỉa, nhấp nhổm không yên.

Bà Lã quì cả hai gối trước con lừa, hoàn toàn không để ý nền nhà rất bẩn. Nét mặt trang nghiêm, bà xắn tay áo xoa xoa bàn tay thô ráp nghe như cọ gót giày vào nhau. Bà áp một bên má vào bụng lừa, mắt lim dim nghe ngóng. Rồi, bà vuốt ve đầu con lừa, giọng thông cảm:

- Lừa ơi, bằng mọi giá phải đẻ bằng được, đàn bà con gái chúng ta không ai tránh được vượt cạn.

Sau đó, bà khoát chân qua bụng lừa, hai tay đặt song song trên bụng lừa như người ta bào gỗ, rồi dùng sức đẩy miết. Con lừa cất tiếng rên, bốn chân đang co quắp duỗi dài ra, bốn móng rung lên bần bật như gõ vào chiếc trống vô hình. Con lừa vươn dài cổ trong khoảng không, dừng lại một lát rồi nặng nề đổ xuống, phát ra một tiếng bịch.

- Lừa ơi, kiên nhẫn nhé! Ai bảo ta là đàn bà? Cắn răng lại, gắng lên!...

Bà thì thầm với con lừa, hai tay thu lại trước ngực, rồi dồn sức lấy hơi, lại đẩy tiếp. Con lừa quẫy đạp, mũi sủi bọt vàng, đầu quật bình bịch. Phía sau, nước đái và phân lừa bắn tung tóe. Cha con Phúc Lộc sợ hãi bung mặt.

- Bà con ơi, quân kỵ của Nhật đã xuất phát từ huyện lỵ. Tin chuẩn xác đấy, không dựng chuyện đâu! Chạy đi, còn nấn ná là không kịp!...

Cha con nhà Thượng Quan giương mắt nhìn bà Lã đang cúi đầu thở dốc bên con lừa. Mồ hôi ướt đẫm chiếc áo cánh trắng, lộ rõ những đường nét rắn rỏi trên cơ thể bà. Phía duỗi mông lừa là một bãi máu tươi, một chiếc chân lừa xinh xắn ló ra từ âm đạo. Chiếc chân lừa như một sự giả tạo, như có một người nào đó chơi ác, cắm vào.

Bà Lã lại áp bên má co giật dữ dội vào bụng lừa nghe ngóng hồi lâu. Thọ Hỉ thấy sắc mặt của mẹ như một quả hạnh chín nẫu, màu vàng rộm. Lời cảnh báo của Tư Mã Đình cứ lượn đi lượn lại chẳng khác ruồi nhặng đánh hơi thấy mùi tanh, đập vào tường, bám trên thân lừa.

Thọ Hỉ run lên bần bật như cảm thấy tai họa sắp xảy ra. Anh ta định bỏ chạy nhưng lại sợ. Anh ta mang máng hiểu rằng, ra khỏi nhà là rơi vào tay bọn giặc lùn - những tên Nhật nhỏ thó, chân tay ngắn ngủn, mũi củ hành, mắt như lục lạc, ăn gan uống máu người không tanh, và bị chúng ăn thịt luôn, không chừa một mẩu xương. Bây giờ thì chắc chắn chúng đã từng đàn từng lũ trong ngõ nhà mình đuổi bắt đàn bà con trẻ, lại còn biết đánh gót xuống đất, mũi thở phì phì như ngựa chiến. Anh ta liếc sang phía bố để tìm sự an ủi và để lấy lại niềm tin, nhưng chỉ thấy sắc mặt của bố sạm như màu đất. Ông ngồi trên bao tải, hai tay bó gối, đầu và lưng liên tục đập vào tường. Không hiểu sao, Thọ Hỉ thấy sống mũi cay xè, từ hốc mắt ứa ra hai giọt nước mắt đùng **c.

Bà Lã húng hắng ho, chậm rãi ngửng đầu lên. Bà vuốt ve khuôn mặt con lừa, than thở:

- Lừa ơi, mày sao vậy hả? Mày lẩm cẩm rồi, phải là đầu ra trước chứ?...

Nước mắt ứa ra từ cặp mắt đã thất thần của con lừa. Bà Lã dùng tay lau nước mắt cho nó, hắt hơi một cái rõ kêu, rồi quay lại bảo con trai:

- Đi mời ông ba Phàn. Tao đồng ý bỏ ra hai bình rượu và một thủ lợn! Hừm, việc cần thì không thể tiết kiệm. Đi mời đi!

Thọ Hỉ rúm người lại, dưa mắt kinh hoàng nhìn ra ngoài, miệng lắp bắp:

- Ngoài ngõ đầy quân Nhật, toàn là quân Nhật...

Bà Lã điên tiết đứng dậy sang phòng bên mở toang cổng. Làn gió tây nam mang theo mùi thơm của tiểu mạch xuân, xộc vào trong nhà. Ngõ vắng tanh. Một đàn bướm bay chấp chới ngang qua, để lại trong tâm trí Thọ Hỉ ấn tượng rạng rỡ về màu sắc của chúng.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:18 AM
4.


Nhà ông ba Phàn, thú y kiêm bà mụ của súc vật ở tận đầu thôn, phía đông, nơi khởi đầu của vạt đất hoang chạy dài về phía dông nam, sát bờ sông Mực. Sau nhà là con đê cao cao của sông Thuồng Luồng, dài hàng trăm dặm. Bị mẹ thúc ép, Thọ Hỉ phải ra khỏi nhà, sợ đến rủn đầu gối. Anh trông thấy mặt trời sáng lòa phía trên rừng cây, những tấm kính màu của nhà thờ rục rỡ, và trên cùng tầm cao với tháp chuông nhà thờ là đài quan sát, ông chủ Phúc Sinh Đường đang nhảy như con choi choi trên đó, vừa lớn tiếng thông báo quân Nhật sắp vào thôn, giọng đã bắt đầu khản đặc.

Một số người nhàn rỗi đứng khoanh tay, ngẩng mặt lên nhìn. Thọ Hỉ dừng lại ở đầu ngõ, phân vân lựa chọn lối đi đến nhà ba Phàn. Có hai đường đến nhà ba Phàn: một đường qua phố lớn; một đường đi dọc theo con đê. Đi đường đê thì sợ đánh động đàn chó đen nhà họ Tôn. Ngôi nhà cũ kỹ của nhà họ Tôn nằm ở phía bắc của con hẻm, có tiếng vây thấp, mặt trăng sạt lở mấy chỗ nhẵn bóng, thường xuyên có lũ gà đậu ở đó. Chủ nhà họ Tôn là Tôn Đại Cô, chỉ huy năm thằng cháu trai đều câm. Cha mẹ chúng như chưa hề tồn tại trên đời. Chúng trèo qua tương, trèo đi trèo lại thành năm chỗ lõm hình yên ngựa. Chúng ngồi nối đuôi như cưỡi ngựa trên các vết lõm. Tay gậy tay cung, hoặc những thanh kiếm gỗ, chúng giương những cặp mắt đầy lòng trắng, chăm chú dõi theo những người hoặc động vật đi qua ngõ. Chúng tương đối lịch sự đối với người, nhưng tuyệt đối không lịch sự với súc vật, bất kể là trâu bò hay mèo chó, ngan ngỗng hay gà vịt, chỉ cần phát hiện ra là đuổi kỳ cùng. Chúng dẫn theo đàn chó, biến thôn xóm thành bãi săn. Năm ngoái, chúng hè nhau giết chết con la sổng chuồng to bự của nhà Phúc Sinh Đường, lột da xẻo thịt giữa đường phố đông đúc. Mọi người chờ đợi màn kịch sẽ xảy ra: Phúc Sinh Đường là đại gia, có chú bác làm đến Trung đoàn trưởng, trong nhà nuôi cả đội súng ngắn. Ngang nhiên làm thịt la của nhà họ, chẳng khác tự tìm lấy cái chết.

Nhưng ông Hài nhà Phúc Sinh Động là Tư Mã Khố, một con người bắn giỏi như thần, có miếng bớt bằng bàn tay trên mặt - không những không rút súng ra, mà còn thưởng cho năm anh em nhà câm năm đồng bạc trắng.


Từ đó, lũ trẻ câm càng ngạo ngược, súc vật mà gặp chúng, chỉ tiếc không mọc thêm đôi cánh. Khi chúng cưỡi trên tường, năm con chó mục đen tuyền uể oải nằm dưới chân, mắt lim dim như đang mơ ngủ. Lũ trẻ câm nhà ho Tôn cùng đàn chó của chúng đều có thành kiến sâu sắc với Thọ Hỉ ở cùng ngõ. Thọ Hỉ không hiểu vì sao, ở đâu và từ khi nào đắc tội với đám yêu tinh này. Chỉ cần gặp cảnh người trên tường, chó dưới chân là Thọ Hỉ biết mình săp gặp vận đen, mặc dù mỗi lần đi qua, Thọ Hỉ đều mỉm cười với lũ câm, nhưng vẫn không tránh khỏi đàn chó lao như tên bắn, xông ra tập kích, dù chỉ là hù dọa, da thịt không bị đớp miếng nào, nhưng vẫn khiến anh ta bị một phen khiếp hãi, cứ nghĩ đến là lại rùng mình. Thọ Hỉ định đến nhà ông ba Phàn bằng con đường lớn xuyên ngang thị trấn, nhưng theo con đường lớn tất phải đi qua trước cửa nhà thờ, mà lúc này, ở đó có ông mục sư Malôa to lớn, tóc đỏ mắt xanh, đang ngồi xổm vắt sữa dê dưới gốc cây hoa gạo tây với thân cành đầy gai cứng. Hai bàn tay ông đỏ au đầy lông mịn màu vàng vuốt trên bầu vú căng mọng của con dê cái già dưới cằm có ba chòm râu. Những tia sữa màu trắng xanh vọt thành tiếng trong chiếc chậu tráng men han gỉ. Từng đàn từng lũ nhặng xanh đầu đỏ bay vòng quanh mục sư Malôa và con dê. Mùi hăng hắc của cây gạo, mùi gây gây của sữa dê, mùi ngầy ngậy của mục sư, quyện vào nhau và tỏa ra dưới ánh sáng mặt trời, ô nhiễm cả nửa đường phố. Thọ Hỉ không chịu nổi cái nhìn lườm lườm đầy ác cảm của ông mục sư, mặc dù nét mặt ông cố tỏ ra thân thiện với nụ cười thông cảm. Vì là cười mỉm, nên ông mục sư hé môi, để lộ hàm răng trắng lóa, bàn tay hộ pháp bẩn thỉu làm dấu trên bộ ngực đầy lông lá, A men! Khi ấy, Thọ Hỉ chỉ thấy ruột gan lộn tùng phèo, một tình cảm khó tả, khiến Thọ Hỉ cụp đuôi bỏ chạy như chó. Tránh đàn chó dữ của lũ trẻ câm là vì sợ. Tránh mặt mục sư Malôa và con dê của ông ta là vì ghét. Càng đáng giận hơn là vợ Thọ Hỉ có cảm tình đặc biệt với ông tóc đỏ này. Cô ta là tín đồ trung thành của ông. Ông là Thượng đế của cô.

Cân nhắc kỹ, Thọ Hỉ quyết định đi lên phía bắc rồi quặt sang đông đến nhà ông ba Phàn, mặc dầu quang cảnh ở chỗ tháp canh rất hấp dẫn. Ngoại trừ trên tháp canh Tư Mã Đình nhảy nhót như khỉ, trong thôn vẫn bình thường. Thế là tâm trạng sợ Nhật tan biến, Thọ Hỉ phục sát đất khả năng phán đoán của mẹ. Để phòng thân, anh ta nhặt hai cục gạch cầm tay, nghe rõ tiếng lừa rống rất to trên phố và tiếng gọi con của một người đàn bà nào đó.

Đi qua nhà họ Tôn, Thọ Hỉ sung sướng khi thấy trên tường vắng tanh, khống có lũ trẻ câm cưỡi trên những chỗ lõm, đàn gà cũng không, đàn chó cũng không nằm mơ dưới chân tường. Tường nhà họ Tôn vốn rất thấp, những chỗ lõm lại càng thấp, Thọ Hỉ dễ dàng nhìn vào trong sân, thấy ở đó đang diễn ra một cuộc đại tàn sát! Kẻ bị giết là những con gà cao ngạo, kẻ ra tay tàn sát là bà nội của lũ câm, một người đàn bà võ nghệ cao cường, mọi người gọi bà là Tôn Đại Cô. Nghe nói Tôn Đại Cô hồi trẻ có phép khinh công, là một tay cự phách trên chốn giang hồ, sau vì phạm trọng tội, phải hạ mình lấy anh thợ đắp lò họ Tôn. Thọ Hỉ trông thấy trong sân đã có bảy con gà bị giết. Trên nền đất phẳng phiu ngả màu trắng, vương đầy những vòng tròn của vết máu gà. Đó là những con gà giẫy giụa trước khi chết. Lại một con gà nữa bị cắt cổ. Tôn Đại Cô quăng nó ra sân. Con gà nằm xạ, nhảy như choi choi thành một vòng tròn. Năm thằng câm đều cởi trần, ngồi xổm giương mặt nhìn những con gà xoay tròn giẫy chết, thỉnh thoảng lại nhìn bà nội tay cầm con dao sắc lẹm. Nét mặt, cử chỉ của chúng giống nhau đến kinh khủng, ngay cả đến cái đảo mắt hình như đều thống nhất từ một hiệu lệnh. Tôn Đại Cô là người nổi tiếng ở thị trấn, thực ra chỉ là một bà già, mặt mỏng mà đanh. Khuôn mặt bà, sắc thái của bà, tầm cao và phong cách của bà, đều nói lên dĩ vãng, người ta có thể đoán được vẻ đẹp của bà xưa kia. Năm con chó ngồi chụm một chỗ, đầu nghểnh lên, ánh mắt đầy bí hiểm và hoang dại, không ai đoán nổi chúng đang nghĩ gì?

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:19 AM
Quang cảnh trong sân nhà họ Tôn như một trò chơi đầy ma lục, Thọ Hỉ như bị hút chặt, không rời mắt và cũng không muốn bỏ đi. Anh ta quên hết mọi sầu não, quên luôn ca mệnh lệnh của mẹ. Người đàn ông nhỏ thó bốn mươi hai tuổi này, qua đầu tường nhìn vào sân, anh ta cảm thấy ánh mắt sắc lạnh của Tôn Đại Cô nhìn về phía mình như một lưỡi gươm, sắc như nước, mạnh như gió, hầu như có thể phạt rơi đầu mình. Bọn trẻ câm và lũ chó của chúng cũng nhìn ra. Mắt bọn trẻ cũng lóe lên những tia tinh nghịch, chúng đang hồi hộp. Lũ chó ngoẹo đầu, nhe hàm răng sắc nhọn, gầm gừ trong họng, đám lông cứng trên gáy dựng ngược. Năm con chó như năm mũi tên đã đặt trên dây cung, sẵn sàng lao ra bất cứ lúc nào. Thọ Hỉ đã định bỏ chạy, chợt nghe thấy Tôn Đại Cô dặng hắng một tiếng, những nét mặt đang hoan hỉ của lũ câm bỗng ỉu xìu, đàn chó tỏ ra phục tùng, duỗi dài chân trước, nằm bẹp xuống. Thọ Hỉ nghe thấy Tôn Đại Cô hỏi, giọng dịu dàng:

- Thằng cả nhà Thượng Quan đấy hả? Mẹ cháu đang làm gì ở nhà!

Thọ Hỉ không biết nhất thời trả lời câu hỏi của Tôn Đại Cô như thế nào, lời lẽ đã trào lên khóe miệng, nhưng y hệt một tên trộm bị bắt quả tang.

Tôn Đại Cô thản nhiên mỉm cười, không hỏi gì thêm. Bà ta chộp lấy con gà sống cuồng có bộ lông đuôi màu đen pha dỏ với những chiếc lông mịn màng như nhung. Con gà sợ hãi kêu cùng cục. Bà nhổ sạch túm lông đuôi của con gà, bỏ vào cái bị cói. Con gà trống quẫy đạp điên cuồng, cặp móng sắc hất tung từng đám đất. Tôn Đại Cô hỏi:

- Bọn trẻ nhà cháu biết đá cầu lông không? Lông đuôi gà nhổ khi còn sống, làm cầu lông thì khỏi nói! Ôi, lại nhớ ngày nào...

Bà nhìn chằm chằm vào mặt Thọ Hỉ rồi ngừng bặt không nói nữa, chìm trong một trạng thái đờ đẫn. Mắt bà như dính vào một điểm trên tương, như muốn nhìn xuyên qua bức tường. Thọ Hỉ nhìn bà không chớp, không dám thở mạnh. Cuối cùng, bà như một quả bóng xì hơi, ánh mắt sáng rục trở lại dịu dàng, xa vắng. Bà dùng chân chặn lên đôi chân con gà trống, kẹp đôi cánh gà vào hổ khẩu bàn tay trái, ngón cái và ngón trỏ thì kẹp lấy cổ gà. Con gà không động cựa. Bà dùng ngón cái và ngón trỏ vặt lông ở cổ gà, lộ ra một mảng da màu đỏ tía.

Bà cong ngón giữa búng búng chỗ cổ con gà đã vặt lông. Rồi bằng con dao lá liễu sắc như nước, bà nhẹ nhàng khứa một nhát. Những giọt máu đỏ sẫm, giọt to nối tiếp giọt nho phóng ra... Tôn Đại Cô giơ con gà đầy máu lên, chậm rãi đứng dậy nhìn xung quanh như tìm kiếm vật gì ánh nắng rực rỡ khiến bà lim dim mắt. Thọ Hỉ đầu óc quay cuồng. Mùi hoa hòe xộc vào mũi- Này! Thọ Hỉ nghe thấy bà Tôn Đại Cô nói vậy. Con gà sống lộn một vòng trong không khí rồi rơi xuống giữa sân. Thọ Hỉ thở dài nhẹ nhõm, vô tình rời tay khỏi mép tường. Lúc này anh ta mới nhớ tới chuyện phải đi mời ông ba Phàn đến đỡ đẻ. Chính lúc anh ta sắp sửa bỏ đi, thì như có phép lạ, con gà trống xòe hai cánh đỡ lấy thân, đứng lên đầy vẻ bất khuất. Nó đã bị vặt trụi lông đuôi, chiếc phao câu trần trụi cong lên, trông vừa xấu xí vừa quái đản, khiến Thọ Hỉ vô cùng kinh hãi. ở chỗ cổ con gà lồi ra một cục thịt, máu me đầm đìa. Nó không giữ nổi cái mào vĩ đại trên đầu, cái mào trước đây màu đỏ tươi, nay đã xám ngoét. Nhưng nó vẫn gắng ngẩng đầu lên, lên chút nữa, ngừng lại, rồi lại lên nữa, rồi gục xuống. Con gà lắc lư cái đầu chống đít xuống đất, máu sủi bọt ứa ra hai bên mép và ở nhát cắt trên cổ. Mắt nó như hai đốm lửa màu vàng. Tôn Đại Cô có vẻ bồn chồn. Bà ta lấy cỏ khô lau tay, miệng chuyển động như đang nhai, nhưng thực ra bà chẳng ăn gì cả. Đột nhiên, bà nhổ một bãi nước bọt, quát với lũ trẻ câm:

- Cút!

Thọ Hỉ ngã ngồi xuống đất.

Khi anh ta vịn vào tường để đứng lên thì lông gà đã bay lung tung trong sân nhà họ Tôn. Con gà sống cuồng đã bị lũ chó xé tan xác, máu thịt vương vãi khắp sân. Lũ chó dữ như dàn sói, tranh nhau ăn bộ lòng của con gà. Lũ trẻ câm vỗ tay cười ngớ ngẩn. Tôn Đại Cô ngồi trên bậu cửa, hút thuốc bằng tẩu cán dài, vẻ đăm chiêu.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:22 AM
5.



Bảy con gái nhà Thượng Quan: Lai Đệ, Chiêu Đệ, Lãnh Đệ, Tưởng Đệ, Phán Đệ, Niệm Đệ, Cầu Đệ (1) bị cuốn hút bởi một mùi thơm thoang thoảng.

Chúng từ chỗ ngủ ở chái đông ùa ra, chụm đầu nhìn vào trong cửa sổ. Chúng trông thấy mẹ nửa nằm nửa ngồi trên giường, đang bóc lạc như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng mùi thơm thoang thoảng rõ ràng là từ cửa sổ buồng mẹ bay ra. Cô lớn mười tám tuổi Lai Đệ là người đầu tiên hiểu ra mẹ đang làm gì. Cô trông thấy mẹ tóc ướt đẫm mồ hôi, môi dưới bật máu, bụng mẹ co thắt dữ dội và nhặng xanh bay đầy phòng. Tay mẹ bóp nát từng hạt lạc. Lai Đệ nức nở gọi mẹ. Sáu đứa em gái cũng gọi theo. Nước mặt chảy dài trên khuôn mặt bảy đứa. Cầu Đệ, đứa nhỏ nhất thì gào tướng lên, dẫm bành bạch đôi chân lấm tấm những vết đỏ vì bị bọ chó và muỗi đốt lập cập chạy vào buồng mẹ. Lai Đệ chạy theo giữ em lại rồi thuận tay bế nó lên. Cầu Đệ gào khóc, đấm vào mặt chị.

- Em vào với mẹ cơ... Em vào với mẹ cơ!...

Lai Đệ cảm thấy sống mũi cay xè, nước mắt nóng hổi tràn lên má. Cô vỗ nhẹ vào lưng em gái, nựng:

- Em đừng khóc nữa, mẹ sẽ đẻ cho em một em trai thật bụ bẫm, thật trắng trẻo!...

Trong buồng vọng ra tiếng rên yếu ớt và câu nói đứt quãng của chị Lỗ:

- Lai Đệ con bảo các em đi nơi khác! Chúng nó còn nhỏ không hiểu gì, chẳng lẽ con cũng không hiểu sao? Một tiếng động vang lên trong buồng, cùng với tiếng gào to của chị Lỗ. Năm đứa trẻ đứng chen chúc ngoài cửa sổ. Lãnh Đệ mười bốn tuổi khóc thét lên:

- Mẹ ơi, mẹ!

Lai Đệ đặt đứa em xuống, chạy ra ngoài bằng đôi chân đã bó nhưng sau được giải phóng. Ngưỡng cửa mục làm em bị vấp, ngã chúi về phía trước, đè lên chiếc bễ thổi lửa. Chiếc bễ đổ kềnh, làm vỡ vụn chiếc thố men xanh đựng thức ăn cho gà. Lai Đệ hốt hoảng đứng dậy, thấy bà nội đang quì trước bàn thờ Phật. Khói hương tỏa quanh bức tượng Quan âm.

Lai Đệ run bắn lên. Cô dựng lại chiếc bễ, cuống quít nhặt nhạnh những mảnh vỡ, làm như bằng cách đó, chiếc thố có thể lành lại hoặc giảm nhẹ lỗi lầm của mình. Bà nội đứng vụt dậy, to lớn như một con ngựa nòi, thân hình lắc lư, đầu giật giật, miệng tuôn ra hàng tràng những câu khó hiểu. Lai Đệ co rúm người lại theo bản năng, hai tay ôm đầu, chờ đợi. Nhưng bà nội không đánh cô, chỉ xoắn vành tai mỏng và trăng bệch của cô, rồi dúi một cái. Cô ngã lăn ra trên lối đi trải đầy những mảnh ngói vỡ trong sân.

Cô trông thấy bà nội cúi xuống quan sát những mảnh thố vỡ, y hệt con trâu đang chuẩn bị uống nước ở bờ sông. Bà nội nhặt mấy mảnh vỡ trên tay, gõ chúng vào nhau thành những tiếng vui tai. Những vết nhăn sâu và dầy đặc trên khuôn mặt bà nội, hai mép trễ xuống, nếp nhăn hai bên kéo dài xuống tận dưới cằm, khiến cái cằm như một bộ phận khác gắn thêm vào mặt.

Lai Đệ nhân đó quì trên lối đi, vừa khóc vừa nói:

- Bà ơi, bà đánh chết cháu đi!

- Đánh chết mày hả? - Bà Lã mặt buồn rười rượi - Đánh chết mày thì cái thố có lành lại được không? Đây là đồ sứ từ năm Vĩnh Lạc triều Minh, của hồi môn từ đời cụ tổ nhà này, đáng giá một con la chứ ít đâu!

Lai Đệ mặt trắng bệch, xin bà nội tha tội.

- Mày cũng đã đến lúc đi lấy chồng rồi đấy! - Bà Lã thở dài - Sáng tinh mơ, việc thì không làm, chỉ nghịch tinh! Số mẹ mày là cái số nghèo, chết thế nào được?

Lai Đệ ôm mặt khóc.

- Đánh vỡ đồ dùng lại còn kể công chắc? - Bà Lã không bằng lòng, nói - Đừng có ở đấy mà quấy rầy người ta. Dẫn lũ em ăn bám của cô ra sông mò tôm. Không đầy giỏ thì đừng có về nhà!

Lai Đệ vội vàng đứng dậy, bế Cầu Đệ lên, chạy ra cổng.

Như đuổi gà, bà Lã dồn lũ trẻ ra cổng rồi quẳng cho Lãnh Đệ chiếc giỏ cao cổ đan bằng nhành liễu.

Lai Đệ tay trái bế Cầu Đệ, tay phải dắt Niệm Đệ, Niệm Đệ dắt Tưởng Đệ, Tưởng Đệ lôi Phán Đệ. Lãnh Đệ một tay dắt Phán Đệ, tay kia xách giỏ. Bảy đứa con gái nhà Thượng Quan dắt díu nhau, nức nở sùi sụt, men theo con hẻm đầy nắng và lộng gió, đi về phía đê sông Thuồng Luồng.

Khi đi qua nhà Tôn Đại Cô, mùi thơm điếc mũi khiến chúng thèm rỏ rãi. Chúng trông thấy ống Khói nhà họ Tôn cuồn cuộn khói trắng. Năm thằng câm cần cù như những con kiến, chuyển củi vào trong nhà. Đàn chó mục nằm gác bên cổng. Chúng thè cái lưỡi đỏ chót như đang chờ đợi điều gì đó.

Lũ con gái trèo lên con đê cao cao trên sông Thuồng Luồng, quang cảnh nhà họ Tôn thu hẹp trong tầm mắt. Năm thằng câm đã phát hiện ra chị em nhà Thượng Quan. Thằng lớn để ria mép loăn xoăn, mỉm cười với Lai Đệ. Lai Đệ vụt đỏ mặt. Cô nhớ lại cách đây không lâu khi đi lấy nước sông, thằng câm lớn đã quẳng vào thùng nước của cô một quả dưa chuột. Nụ cười mỉm của thằng câm tuy trơ trẽn nhưng không có ác ý. Lần đầu tiên tim cô đập dữ dội, máu dồn lên mặt. Nghiêng mình xuống mặt nước phẳng như guồng, cô thấy mặt mình đỏ ửng. Sau đó cô ăn quả dưa chuột, mùi vị của nó đến bây giờ vẫn không thể quên. Đưa mắt nhìn lên, cô trông thấy lầu chuông rục rỡ của nhà thờ và cái tháp canh được ghép bằng những cây gỗ tròn. Một người dàn ông nhảy nhót trên đó như con khỉ, gào lớn:


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:24 AM
- Bà con ơi, kỵ binh Nhật đã ra khỏi thành!

Một đám người tụ tập dưới chân tháp nhìn lên. Người trên tháp chốc chốc lại cúi xuống, tay bám lan can, hình như để trả lời người đứng dưới. Trả lời xong, nguội đó lại đứng thẳng lên, đi vòng quanh, hai tay chụm lại làm loa, quay ra bốn phía thông báo tình hình quân Nhật sắp sửa kéo đến.

Trên con đường xuyên xã, chợt có một cỗ xe ngựa phi nước đại. Cỗ xe như từ trên trời rơi xuống. Ba con tuấn mã kéo cỗ xe bánh cao su, mười hai vó ngựa băm trên đường như gõ nhịp, cộc cộc cộc cộc, bụi tung lên thành một vệt vàng. Một con màu vàng mơ, một con đỏ như quả táo một con màu trắng **c. Ba con ngựa béo mọng như được nặn bằng sáp, mình ngựa bóng nhẫy, màu lông khi ùn người mê mẩn. Một người đàn ông nhỏ con đứng dạng chân sau dõng xe, trông xa tưởng anh ta ngồi trên mông ngựa. Anh ta vung chiếc roi ngựa có ngù đỏ, miệng quát: Hây hây, roi lia vút vút. Anh bất chợt gò cương, những con ngựa như đứng thẳng lên, xe dừng lại như bị chặn đứng, đám bụi vàng ào lên phía trước, che khuất cả người ngựa và xe. Khi bụi tan đi, Lai Đệ trông thấy đám gia nhân nhà Phúc Sinh Động khuân từng vò rượu, từng bó củi lên xe. Một người đàn ông vạm vỡ đứng trên tam cấp ngoài cổng Phúc Sinh Đường, đang quát tháo. Một vò rượu rớt xuống đất, một tiếng bịch nặng nề vang lên, chiếc nút bằng bong bóng lợn bắn ra, rượu chảy tràn ra đường. Mấy gia nhân lao tới dựng vò rượu lên. Người đàn ông vạm vỡ từ trên bậc tam cấp nhảy xuống, vung roi đánh mấy người kia, chiếc roi uốn lượn như một con rắn dưới ánh năng mặt trời. Mùi rượu theo gió bay tới. Cánh đồng mênh mông, lúa mạch cuồn cuộn từng đợt sóng vàng. Trên đỉnh tháp, người đàn ông lại hét to:

- Chạy đi bà con ơi, chậm là mất mạng đấy!

Rất nhiều người ra khỏi nhà, tíu tít bận rộn như một đàn kiến, và cũng chẳng việc nào ra việc nào như đàn kiến. Người thì di, người chạy, người đứng yên bất động, người chạy đông, người chạy tây, người loay hoay tại chỗ, ngó hết chỗ này ngó chỗ khác. Lúc này, mùi thơm trong nhà họ Tôn càng đậm, làn hơi trắng ra ngoài cổng. Lũ trẻ câm im hơi lặng tiếng, mảnh sân im lìm, chỉ có từng chiếc xương trong nhà quẳng ra, khiến lũ chó mực tranh nhau quyết liệt. Con nào cướp được thì chúi đầu vào xó tường nhai rau ráu. Con nào không cướp được thì đỏ mắt nhìn vào trong nhà, gầm gừ rên rỉ.


Lãnh Đệ kéo tay Lai Đệ nói:

- Chị ơi, về nhà!

Lai Đệ lắc đầu, nói:

- Không được, phải xuống sông bắt tôm đã. Mẹ sinh em bé, cần có canh tôm để ăn.

Chúng dìu nhau xuống chân đê, cả bọn đi thành hàng một, mặt hướng ra sông. Dòng sông in rõ những gương mặt thanh tú của các cô gái nhà Thượng Quan, cô nào cũng sống mũi cao, vành tai đầy đặn và trắng. Đây cũng là đặc trưng rõ nét của chị Lỗ - mẹ chúng. Lai Đệ rút trong túi ra một chiếc lược bằng gỗ hồ đào, lần lượt chải cọng rơm và bụi trên tóc cho từng đứa em, đứa nào đứa ấy kêu oai oái. Cuối cùng, Lai Đệ chải tóc cho mình, tết thành chiếc đuôi sam to tướng, thả sau lưng vừa chấm mông. Cô bỏ chiếc lược vào túi, xắn quần, lộ rõ cặp đùi thon thả, trắng bóc. Tiếp theo, cô tụt giày, đôi giày bằng nhung xanh lục. Các em nhìn đôi bàn chân tàn phế một nửa của chị. Cô bỗng nổi cáu:

- Nhìn cái gì? Có gì mà nhìn? Không mò được tôm, bà già không tha cho chúng ta đâu

Các em gái của cô nhanh chóng tụt giày, xắn quần. Cô út Cầu Đệ còn tụt hẳn quần ra. Cô đứng trên bãi sông được phủ một lớp bùn, ngắm nhưng cụm cỏ nước mềm mại lượn lờ theo dòng chảy. Cá nô giỡn trong đám cỏ. Chim én bay như chạm mặt nước. Cô lội xuống sông, nói to:

- Cầu Đệ ở trên nhặt tôm, tất cả xuống nước!

Các em cô ríu rít lội xuống sông.


Cô cảm thấy, do bó chân, nên gót chân phát triển hơn mức bình thường của cô lún sâu xuống bùn. Những lá cỏ nước mơn trớn bắp chân, khiến cô cảm thấy buồn buồn, một cảm giác khó diễn tả. Cô cúi xuống, hai tay rà sát gốc những cụm cỏ nước và những dấu chân chưa bị bùn lấp đầy. Lũ tôm rất thích nép mình trong những dấu chân này. Một con vật nhỏ nhảy vọt lên giữa hai tay, cô mùng rỡ, con tôm cong cong, dài bằng ngón tay trỏ, trong suốt, đã bị kẹp giữa hai ngón. Con tôm rất linh hoạt, mỗi sợi râu đều rất đẹp. Cô quăng nó lên bờ, Cầu Đệ rất hỉ hả, vừa reo lên ra nhặt con tôm bỏ vào giỏ.

- Chị ơi, em bắt được một con

- Chị ơi, em bắt được rồi!

- Em bắt được rồi!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:28 AM
Cầu Đệ mới hai tuổi, không kham nổi công việc nhặt tôm. Nó bị ngã, ngồi bệt xuống đất mà khóc. Vài con tôm có súc bật khỏe, nhảy xuống sông, lập tức biến mất. Lai Đệ lên bờ xốc em dậy, dắt xuống mép nước, dùng tay rửa bùn trên mông Cầu Đệ. Mỗi lần cô tạt nước, Cầu Đệ lại giật thót một cái, miệng la chí chóe, đôi lúc xen lẫn những câu chửi tục. Lai Đệ phát cho em một cái vào mông, rồi buông ra. Cầu Đệ chạy như bay lên giữa sườn dê bẻ một cái roi, rồi bắt chước một bà già nanh ác, tay cầm roi, mắt vằn lên, lớn tiếng nguyền rủa chị, khiến Lai Đệ không nhịn được chơi.

Các cô gái đã mò đến khúc sông trên, kế cận đầu cầu. Bãi sông sáng lấp lóa. Mấy chục con tôm nhảy tanh tách. Một đứa em kêu lên:

- Chị ơi! nhặt nhanh lên!

Cô xách giỏ lên, mắng Cầu Đệ:

- Con ranh, về nhà sẽ biết tay!

Rồi cô vui vẻ nhặt những con tôm vào giỏ, nhặt liên tục nên không có thì giờ rầu rĩ.

Cô buột miệng hát, khúc hát mà cô cũng không nhớ rõ học được ở đâu:

- Mẹ là mẹ ơi, sao mẹ nỡ dứt tình, gả bán con cho anh hàng dầu?

Rất nhanh, cô đuổi kịp các em. Chúng men theo mép nước gần bờ, vai kề vai, cúi lom khom, chổng mông lên trời, cằm gần như chạm nước, hai tay mở ra, áp sát lại, vừa sục sạo vừa tiến lên. Nước sông trở nên **c ngầu sau lưng chúng. Một số cụm cỏ nước bị dứt lá, nổi lên. Mỗi khi chúng đứng thẳng lên là chắc chắn bắt được một con tôm, lúc thì Phán Đệ, lúc Tưởng Đệ... Năm đứa em hên tục ném tôm cho chị. Lai Đệ chạy đi chạy lại để nhặt tôm: Cầu Đệ bám sau lưng chị.

Thoáng cái, các cô đã tiến sát cây cầu đá bắc qua sông Thuồng Luồng. Lai Đệ gọi các em:

- Lên đi, lên cả đi! Đầy giỏ rồi! Về nhà thôi!


Các em cô còn tiếc rẻ chưa muốn về, dừng lại trên bãi. Ngón tay chúng trắng bệch vì ngâm nước, chân dính đầy phù sa.

- Chị ơi, sao hôm nay nhiều tôm thế!

- Chị ơi, chắc mẹ đã đẻ em bé rồi!

- Chị ơi, giặc Nhật là gì hở chị? Chúng có ăn thịt trẻ con không?

- Chị ơi, nhà anh câm giết gà đề làm gì?

- Chị ơi, sao bà nội cứ mắng bọn em?

- Chị ơi, em mơ thấy trong bụng mẹ có con cá trạch...

Bọn em gái luân phiên hỏi chị. Cô chẳng trả lời đứa nào cả. Cô chăm chú nhìn chiếc cầu đá ánh lên màu xanh xám. Từ trong thôn, cỗ xe ba ngựa kéo lúc nãy, đang chạy lên cầu.

Anh xà ích người thấp bé gò cương cho ba con ngựa dừng lại. Những con ngựa bực bội gõ móng, tiếng gõ sắc gọn, mặt cầu tóe lửa. Mấy người đàn ông đều cởi trần, thắt lưng da to bản, khóa thắt lưng sáng loáng như bằng vàng. Lai Đệ biết bọn họ. Họ là gia nhân của nhà Phúc Sinh Đường. Họ nhảy xuống xe, dỡ các bó cây cao lương xuống trước, rồi sau đó là các vò rượu, tất cả mươi hai vò. Họ ôm lấy cổ ngựa, đẩy lùi cả ngựa lẫn xe xuống chỗ bãi đất trống đầu cầu. Lúc này cô trông thấy nhân vật số hai nhà Phúc Sinh Đường - Tư Mã Khố, cưỡi chiếc xe đạp phóng tới. Đây là chiếc xe đạp đầu tiên xuất hiện trên vùng Cao Mật hẻo lánh, do Đức sản xuất, nhãn hiệu IFA, một nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Ông nội Phúc Lộc của cô vì tò mò, nhân lúc không ai để ý, sờ một cái vào tay nắm, khiến Tư Mã Khố trừng mắt. Đó là chuyện mùa xuân năm ngoái. Tư Mã Khố mặc chiếc áo ngoài bằng lụa tơ tằm, quần vải tây màu trắng, bắp chân quấn xà cạp xanh, đi ủng đế trắng. Hai ống quần rộng phồng lên như bơm đầy hơi. Vạt áo vén lên dắt vào thắt lưng. Thắt lưng bằng lụa trắng, bỏ múi dài múi ngắn. Phần trên người mặc gì thì không nhìn thấy. Vai trái đeo chéo một dây da màu nâu, móc giữ một bao da, miệng bao ló ra mẩu lụa đỏ. Chuông xe kêu reng reng, Tư Mã Khố lướt tới như một trận gió. Hắn nhảy xuống xe, bỏ chiếc mũ cói xuống làm quạt, chỗ bớt ở mặt đỏ như miếng tiết.

Hắn lớn tiếng lệnh cho gia nhân:

- Mau lên, đem củi chất lên mặt cầu, tới rượu vào thiêu chết bọn chó đẻ.

Gia nhân tíu tít ôm các bó củi lên cầu, chỉ một lát đã chất cao đến nửa người. Những con côn trùng sống ký sinh trong củi hốt hoảng bò ra, bay loạn xạ, con thì rơi xuống nhóc, làm mồi cho cá, con thì bị chim én đớp.

- Đổ rượu lên củi! - Tư Mã Khố quát to.

Các gia nhân khiêng những vò rượu lên cầu, mở nút, nghiêng vò tưới trên đống củi. Rượu ngon, mùi thơm ngây ngất trên dòng sông. Những bó củi loạt soạt. Rượu chảy tràn ngang mặt cầu, rớt như mưa xuống lòng sông. Nước chảy róc rách dưới chân cầu. Đổ hết mười hai vò, cả cây cầu như tắm bằng rượu. Những bó cao lương khô đã đổi màu. Mép cầu như treo một bức màn bằng rượu. Chùng hút tàn điếu thuốc, cá con dưới sông đã nổi lên trắng xóa.
Các em của Lai Đệ định xuống sông mò cá. Lai Đệ gằn giọng quát:

- Đừng xuống nữa, theo chị về nhà!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:29 AM
Chuyện lạ trên cầu lôi cuốn các em. Chúng đứng yên. Thật ra, cảnh tượng trên cầu cũng cuốn hút Lai Đệ. Cô kéo các em về, nhưng mắt vẫn không rời cây cầu. Tư Mã Khố đứng trên cầu, vẻ đắc ý, vỗ tay bôm bốp, hai mắt rục sáng: Hắn cười hỉ hả. Hắn khoe khoang với bọn gia nhân:

- Diệu kế này chỉ ta mới có thể nghĩ ra! Mẹ kiếp, chỉ có ta mới nghĩ ra. Bọn nhóc Nhật mau mau đến chịu chết!

Bọn gia đinh phụ họa theo. Một gia đinh hỏi to:

- Thưa ông Hai, bây giờ nổi lửa được chưa?

Tư Mã Khố nói:

- Hượm hẵng, đợi chúng đến hãy đốt!

Bọn gia nhân xúm xít vây quanh Tư Mã Khố, đi về phía đầu cầu.

Cỗ xe của Phúc Sinh Đường cũng trở về thôn.

Trên cầu trở lại yên tĩnh, chi còn tiếng rơi tí tách của rượu xuống mặt nước.

Lai Đệ tay xách giỏ, dẫn các em rẽ nhưng bụi cây lúp xúp mọc đầy sườn đê, trèo lên. Đột nhiên, cô nhìn thấy một khuôn mặt đen nhẻm lấp ló trong bụi cây. Cô hoảng hốt kêu lên, chiếc giỏ trong tay rơi xuống, dập dềnh trên những cành quán mộc rồi lăn đến tận mép nước. Tôm trong giỏ văng ra, nhảy trên bãi như những đốm sáng. Lãnh Đệ chạy theo chiếc giỏ còn các em thì nhặt tôm vương vãi trên cát. Lai Đệ đi thụt lùi về phía bờ sông, mắt không rời khuôn mặt đen. Mặt đen cố nở một nụ cười ra vẻ cáo lỗi, hai hàm răng trắng lóa những tia như vỏ xà cừ. Cô nghe thấy người đó nói nhỏ:

- Em gái dừng sợ, chúng tôi là du kích. Đừng nói gì cả, mau rời khỏi chỗ này!

Lúc này cô mới thấy rõ, trong các bụi cây có đến mấy chục người mặt áo xanh. Mặt đanh lại, mắt mở to, có người cầm súng trường, người cầm lựu đạn, người thì đại đao có tua lụa hồng. Ngụm đàn ông răng trắng mặt den, nét mặt vui vẻ, tay phải cầm khẩu súng lục có ánh thép xanh, tay trái cầm một vật phát ra tiếng kêu tích tắc. Sau này, cô mới biết đó là chiếc đồng hồ bỏ túi. Và chính con người mặt đen đó, cuối cùng đã chui vào chăn của cô.

____________
Chú thích: (1)Tất cả các tên đều tỏ ý mong có em trai.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:37 AM
6.


Ba Phàn rượu ngà ngà, bước vào cổng nhà Thượng Quan với vẻ không bằng lòng. Quân Nhật sắp đánh đến nơi, con lừa nhà cậu chọn thật đúng lúc! Nói thế nào nhỉ? Lừa nhà cậu, nhưng do ngựa của nhà tôi phối giống, bắn súng phải đền đạn. Cậu mặt dạn mày dầy, cứt, cậu có giữ thể diện đâu mà xấu hổ Tôi là tôi nể mặt mẹ cậu. Mẹ cậu với tôi... hà hà... mẹ cậu rèn cho tôi một cái nạo vó ngựa...

Thọ Hỉ mặt đẫm mồ hôi, bước theo sau ba Phàn.

- Ba Phàn! - bà Lã gầm lên - Đồ gấu chó làm gì mà khệnh khạng thế!

Ba Phàn lấy hết can đảm, nói:

- Ba Phàn đã đến đây rồi!

Vừa trông thấy con lừa nằm dưới đất, ba Phàn đã tỉnh rượu quá nửa.

- Chà chà, đến nông nỗi này kia à!

Lão quăng chiếc túi da trên vai xuống, sờ tai, vỗ vỗ bụng con lừa, lại vòng ra phía đuôi, ấn ấn cái chân lừa con thò ra ngoài âm đạo. Lão đứng thẳng lên, lắc đầu buồn bã, nói:

- Muộn rồi, thế là hết! Năm ngoái, khi con trai bác dắt lừa đến phối giống, tôi có nói là, con lừa nhà cậu thuộc loại tép riu, tốt nhất nên cho phối với lừa, nhưng cậu ta không nghe lời khuyên của tôi, cứ nhất định đòi phối với ngựa! Con ngựa giống nhà tôi là giống ngựa Đông Dương thuần chủng, vó của nó còn lớn hơn đầu lừa nhà bà. Nó mà nhảy, lừa nhà bà xụm ngay, chẳng khác gà trống nhảy chim sẻ! Cũng chính là con ngựa giống của tôi được dạy dỗ tốt, nên nó nhắm mắt lại mà phủ con lừa, phải là con ngựa khác thì, cứt! Thế nào? Không đẻ được hả? Con lừa nhà bà không phải là loại đẻ ra la, lừa nhà bà chỉ có thể đẻ ra lừa!...

- Ba Phàn, có im đi không nào! - Bà Lã cắt ngang lời lão

- Xong rồi, nói xong rồi!

Lão vớ lấy cái túi da khoác lên vai, trở lại trạng thái say rượu, dình bỏ ra về. Bà Lã túm lấy cánh tay lão, nói:

- Ba Phàn, bỏ đi như vậy mà được à?

Ba Phàn cười:

- Bà chị ơi, bà chị không nghe thông báo của lão Phúc Sinh Đường sao? Thôn xóm chạy sạch rồi! Lừa hay tôi quan trọng hơn.

Bà Lã nói:

- Ông Ba này, ông sợ tôi để ông thiệt, đúng không? Hai bình rượu ngon, một thủ lợn béo, ông không thiệt! Nhà này tôi là chủ.

Ba Phàn ngó cha con nhà Thượng Quan, cười:

- Tôi biết, chị giữ chân kìm của lò rèn, đàn bà cởi trần quai búa tạ, thì cả Trung Quốc mới có chị là một! Sức ấy mà...

Lão cười ranh mãnh. Bà Lã phát cho lão một cái, nói:

- Đồ ôn dịch! Anh Ba đừng đi. Gì thì cũng là hai sinh mạng! Ngựa giống là con trai của anh, con lừa này là con dâu của anh, con la trong bụng nó là cháu nội anh. Anh trổ tài, nó sống thì cảm ơn anh, thưởng cho anh; nó chết, không trách anh, mà chỉ trách tôi kém phúc!

Ba Phàn đâm ra khó xử, nói:

- Bà chị bắt tôi phải thông gia với lừa ngừa, tôi còn gì để nói nữa? Thử chữa lợn què thành lợn lành xem sao!

- Phải rồi. Anh Ba này, đừng nghe lão Tư Mã điên nói bậy. Bọn Nhật đến nơi khỉ ho cò gáy này làm gì? Vả lại, anh làm là làm việc phúc đức. Ma quỉ cũng tránh người hiền nữa là...?

Ba Phàn mở túi da, lấy ra một lọ chất nước màu xanh, nói:

- Đây là thần được gia truyền, chuyên trị gia súc đẻ khó. Dùng thuốc này mà vẫn không đẻ thì đến Tôn Ngộ Không sống lại cũng đành bó tay! - Các cha - lão gọi cha con Phúc Lộc - Lại dây giúp một tay!

Bà Lã nói:

- Để tôi! Lão ta vụng về lắm!

Ba Phàn nói:

- Nhà Thượng Quan gà mái gáy, gà sống không đẻ trứng!
Phúc Lộc nói:

- Chú Ba, muốn chửi thì cứ chửi thẳng, đừng cạnh khóe làm gì!

Ba Phàn nói:

- Cáu hả?

Bà Lã nói:

- Đừng múa mép nữa. Nói xem làm gì bây giờ?


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:39 AM
Ba Phàn đáp:

- Nâng đầu lừa lên, cho nó uống thuốc!

Bà Lã đứng dạng chân, nín thở, nâng đầu lừa lên. Cái đầu cựa quậy mũi thở phì phì.

- Cao nữa lên! - Ba Phàn nói to.

Bà Lã lại cố nâng cao nữa, mũi bà cũng thở phì phò. Ba Phàn khó chịu nói:
- Cha con ông chết cả rồi hay sao?

Bố con Phúc Lộc sán lại, suýt nữa dẫm phải chân lừa. Bà Lã trừng mắt. Ba Phàn lắc đầu. Cuối cùng cũng nâng được đầu lừa lên cao. Con lừa bập bập cặp môi dầy, nhe răng ra. Ba Phàn dùng cái phễu bằng sừng trâu, rót thuốc vào miệng lừa rồi bảo:

- Xong rồi! Đặt xuống!

Bà Lã thở hồng hộc.

Ba Phàn rờ rẫm nhét thuốc vào tẩu, ngồi xổm đánh diêm châm thuốc, rít một hơi thật sâu. Hai làn khói trắng thở ra từ hai lỗ mũi. Lão nói:

- Bọn Nhật đã chiếm huyện ly, giết Huyện trưởng Trưởng Duy Hán, cưỡng hiếp vợ ông ta!

Bà Lã hỏi:

- Lại là tin từ nhà Tư Mã phải không?

Ba Phàn đáp:


- Không. Người anh em kết nghĩa của tôi nói vậy. Nhà lão ở Cửa Đông.

Bà Lã nói:

- Tin ngoài mười dặm, khó mà đúng sự thật?

Thọ Hỉ nói:

- Gia nhân nhà Tư Mã Khố lên cầu đánh hỏa công, sao lại không thật?

Bà Lã giận dữ nhìn con trai, nói:

- Ra gì cái thá đàn ông như anh! Con thì một đống. Trên cổ anh là quả bí hay cái đầu? Các người thử nghĩ, người Nhật thì cũng cha sinh mẹ đẻ, với ta không thù không oán, vậy chúng làm gì ta? Chạy à, chạy nhanh đến mấy cũng không bằng hòn đạn. Trốn hả, trốn đến bao giờ?

Nghe bà Lã lên lớp, cha con nhà Thượng Quan im thin thít, không dám nói lại một câu. Ba Phàn gõ tẩu cho sạch tàn thuốc, đằng hắng mấy tiếng, nói:

- Bà chị nhìn xa thấy rộng, suy xét đâu ra đấy. Chị nói vậy tôi cũng đỡ lo. Đúng vậy, chạy đi đâu bây giờ? Trốn đi đâu bây giờ? Người thì có thể bỏ chạy, nhưng còn con lừa, con ngựa giống của tôi lừng lững như trái núi thì trốn vào đâu? Trốn mồng một chẳng thoát ngày rằm, mẹ kiếp! Đếch cần, hãy đỡ đẻ cho con lừa đã!

Bà Lã vui vẻ nói:

- Đúng rồi!

Ba Phàn con phắt áo ngoài, xiết chặt thắt lưng, đặng hắng mấy cái, như võ sĩ sắp sửa lên vũ dài. Bà Lã gật đầu lia lịa tỏ vẻ tán thưởng:

- Ông Ba này, phải vậy chứ! Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Con lừa mẹ tròn còn vuông thì tôi biếu thêm một vò rượu nữa, đánh trống khua chiêng cho anh đăng quang.

Ba Phàn nói:

- Bà chị nói gì lạ vậy? Ai bảo con lừa nhà chị lấy giống nhà tôi? Vậy là khoán giống, khoán thu nhập, đã khoán thì khoán đến cùng! Lão đi quanh con lừa một vòng, lay lay cái chân con lừa con, lẩm bẩm:

- Bà thông gia lừa ơi, đây là vượt cạn, là qua Quỉ Môn Quan, bà ráng lên cho lão Ba này mở mày mở mặt!

Lão vỗ vỗ đầu con lừa, gọi to:

- Các cha, đem thừng và đòn gánh ra đây! Xốc nó dậy! Nằm không đẻ được!
Cha con Phúc Lộc nhìn bà Lã. Bà Lã nói cứ làm theo lời ông Ba. Cha con Phúc Lộc lấy thùng và đòn gánh ra. Ba Phàn luồn dây thừng dưới nách con lừa, thắt nút.

- Cậu sang phía bên kia- Ba Phàn bảo Thọ Hỉ.

Ba Phàn thử cái nút cho chắc, bảo Phúc Lộc đứng đòn qua. Từ hai phía, cha con Thọ Hỉ nâng hai đầu đòn. Ba Phàn bảo cúi xuống, đặt đòn gánh lên vai. Cha con Thọ Hi làm theo.

- Được rồi - Ba Phàn nó i- Cứ thế, đừng vội. Tôi bảo đứng lên hãy đứng. Có tí tẹo sức nào thì vận hết ra, thành công hay không là ở lúc này. Con lừa không để vậy được đâu! Bà chị, lại đây phụ tôi một tay, chớ để nó què.

Lão vòng ra phía đuôi con lừa, phủi tay, cầm lấy cây đèn trên cối xay bột, dốc dầu vào lòng bàn tay, xoa đều, rồi thổi phù một cái. Sau đó, lão thủ luồn tay vào cửa mình con lừa. Con lừa quẫy lung tung. Lão cho tay luồn sâu nữa, cổ lão gần chạm cái chân đỏ hỏn của con lừa con. Bà Lã nhìn không chớp, môi run lên. Tốt rồi - Ba Phàn giọng ồm ồm - Các bà, tôi hô một hai ba, đến ba thì đứng thẳng lên, đừng giở quẻ, đúng lúc mà sụm lưng là toi. Tốt, cổ lão chạm vào mông lừa, cánh tay lút sâu vào âm đạo như đang tìm kiếm đồ vật rơi trong đó. Một, hai, ba nào! Cha con nhà Thượng Quan hè lên một tiếng biểu thị một sức mạnh hi hữu, rồi cùng đứng lên. Theo đà đó, con lừa được xoay mình lại, hai chân trước co lên, cổ vươn ra, hai chân sau cũng được xoay lại, gập nếp dưới thân lừa. Cùng với thân con lừa xoay chuyển, Ba Phàn gần như nằm dài dưới đất. Không trông thấy mặt lão, chỉ nghe tiếng lão quát, nâng lên, lên chút nữa. Cha con nhà Thượng Quan cố nhón gót nâng con lừa lên cao hơn. Bà Lã chui xuống dùng lưng đỡ dưới bụng lừa. Con lừa hộc lên một tiếng, đứng dậy. Cùng lúc ấy, một vật to, bóng nhẫy, vọt ra từ cửa mình con lừa, cùng với máu và nước ối dính nhơm nhớp, đầu tiên là rơi vào lòng Ba Phàn, rồi sau đó tưới ra mặt đất.

Ba Phàn móc nhớt rãi cho con lừa con, dùng dao cắt rốn, thắt thành một cái nút, rồi bế còn lừa ra chỗ sạch. Lau nhớt trên mình lừa bằng miếng vải khô. Bà Lã nước mắt lưng tròng, lẩm bẩm:

- Cảm tạ trời đất, cảm ơn Ba Phàn! Cảm tạ trời đất, cảm ơn Ba Phàn.

Con lừa con run rẩy đứng lên lại ngã xuống. Lông nó mượt như tơ, môi đỏ sẫm như cánh hồng nhung. Ba Phàn dìu con lừa dậy, khen:

- Khá đấy, đúng là giống nhà ta, ngựa là của ta, chú nhóc ạ, chú là cháu ta, ta là ông nội của chú (2). Bà chị ơi, nấu cho con dâu tôi một tí cháo. Nó đã cho ta một sinh mạng rồi!

__________
Chú thích: (2) Ngựa phối giống với lừa, đẻ ra la.
(Người dịch).
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:43 AM
7.



Lai Đệ dắt một cô em gái vừa chạy được mấy chục bước chân thì nghe trên trời có tiếng rít như xé vải. Cô ngửng lên xem con chim nào có tiếng kêu quái gở đó. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên sau lưng, ở giữa dòng nước. Tai cô ù đi, mắt nảy đom đóm. Một con cá trê rách bươm văng đến trước mặt, vài vệt máu tươi vuơng trên đầu con cá màu vàng xỉn, cặp râu dài rung rung, ruột vắt lên lưng. Rơi cùng với con cá trê, là một cột nước **c ngầu, nóng hổi hổi, đổ ụp xuống đầu làm cô ướt đẫm. Cô mụ người đi, ngoảnh lại nhìn các em như mơ ngủ, các em cũng đờ đẫn nhìn cô. Cô trông thấy một nắm cỏ nước nhão nhoét như ợ ra từ miệng trâu, bám trên tóc Niệm Đệ. Trên má Tưởng Đệ dính bảy tám vẩy cá màu bạc. Giữa lòng sông, cách các cô mười mấy bước, từng cuộn khói đen là là mặt nước, một cái xoáy khổng lồ, những giọt nước nóng bỏng tung lên trời, lả tả rơi xuống. Một làn khói trắng mỏng lan khắp. Cô ngửi thấy (các em cô cũng ngửi thấy, vì cánh mũi chúng phập phồng) mùi thuốc súng nồng nặc. Cô cố phán đoán tình hình, tuy không rõ ràng, nhưng một cảm giác không an toàn đang len lỏi trong cô. Cô định kêu lên, nhưng nước mắt đã ứa ra. Sao mình lại khóc nhỉ! Cô nghĩ. Cô không khóc, nhưng vì sao lại có nước mắt? Đầu óc rối tinh như mớ bòng bong, tất cả, cây cầu rực sáng, dòng sông sôi sùng sục, những bụi tầm ma dày đặc, những con chim én hốt hoảng, các em gái đứng ngây như phỗng... tất cả quyện vào nhau, mờ mờ ảo ảo. Cô trông thấy đứa em nhỏ nhất nhếch miệng ra, mắt nhắm tịt, hai dòng nước mắt trên má. Trong không trung, tiếng rì rào lan xa như tiếng vỏ đậu khô phơi dưới nắng. Có một bí mật ẩn sau những bụi cây thấp lè tè trên sườn đê, sột soạt, như có đàn thú nhỏ đang ẩn. Những người đàn ông trong bụi cây im hơi lặng tiếng, những cành cây nhỏ vẫn thản nhiên chĩa lên trời, lá tròn như đồng tiền rung rinh. Có đúng là họ đang nấp trong đó không? Họ làm gì ở trong ấy? Cô suy đoán một cách khó khăn, bỗng nghe thấy một giọng như cố kìm lại, từ rất xa vẳng tới:

- Nằm xuống các em ơi! Các em ơi, nằm xuống!...

Cô đưa mắt sục sạo mong tìm ra nơi phát ra tiếng gọi trên, trong đầu như có con cua đang bò, đau buốt đến không chịu nổi. Cô trông thấy một vật đen sì từ trên trời rơi xuống. Lòng sông chỗ gần cầu từ từ dựng lên một cột nước đường kính bằng thân con trâu. Lên cao đến ngang mặt đê, cột nước nở ra rồi trút xuống, trông giống một cây thùy liễu. Tiếp theo, xộc vào mũi cô, là mùi thuốc súng, mùi bùn, mùi tôm cá. Tai cô ù lên, không nghe thấy gì cả, nhưng hình như cô nghe được một tiếng trầm **c lan ra tứ phía.

Lại một vật đen sì nữa rơi xuống lòng sông, một cột nước lại dựng lên. Một mảnh màu xanh, cạnh cuốn lên lởm chởm như răng chó, cắm xuống đất bãi. Cô cúi nhặt, đầu ngón tay bỗng tỏa khói nhẹ, cảm giác đau rát lập tức chạy khắp cơ thể. Đột nhiên cô lại nghe thấy tiếng ồn, hình như cảm giác đau rát là từ trong tai chui ra, đẩy lỗ tai đang bị nút chặt mà chui ra. Nước sông sôi sùng sục, hơi nuộc mịt mù. Tiếng nổ vang rền, lan xa.

Trong sáu chị em thì ba đứa ngoác miệng ra gào, ba đứa kia bịt chặt tai, nằm sấp, mông đít vổng lên, chẳng khác nào chim đà điểu rúc đầu trong cát khi gặp nguy hiểm.

- Em ơi! - Cô lại nghe thấy tiếng gọi rất to từ trong bụi cây - Nằm xuống mau! Nằm xuống, bò lại đây!...

Cô bò trên mặt đất để tìm người vừa gọi. Cuối cùng thì cô đã thấy: trong bụi cây, người đàn ông lạ mặt răng trắng mặt đen đang vẫy cô:

- Bò lại đây mau!

Đầu óc mụ mị của cô bỗng lóe sáng. Cô nghe thấy tiếng ngựa hí, ngoái lại, cô thấy một con ngựa nhỏ màu vàng kim, cái bờm đỏ như lửa dựng ngược, từ phía nam chạy lên đầu cầu. Con ngựa xinh đẹp không đeo rọ mõm, thuộc loại choai choai, chưa đến tuổi trưởng thành, ngạo nước, nhanh nhẹn, đầy sức sống. Đó là con ngựa của nhà Phúc Sinh Đường, con của con ngựa giống Đông Dương nhà Ba Phàn. Ba Phàn yêu con ngựa giống như con. Con ngựa màu vàng kim này chính là cháu đích tôn của lão. Cô biết và rất thích con ngựa choai này, nó thường chạy qua ngõ nhà cô, khiến bọn chó nhà Tôn Đại Cô tức điên lên. Con ngựa chạy đến giữa cầu bỗng dùng lại, hình như đống củi trên cầu chặn mất lối đi và cũng hình như đầu váng mắt hoa vì rượu đổ trên cầu. Nó ngoẹo đầu, chăm chú nhìn đống củi. Nó đang suy nghĩ. Nó nghĩ.
Lại có tiếng rít trên không, ánh chớp lóa mắt nở bung trên cầu, một đám lửa bùng lên một tiếng nổ như từ nơi rất cao rất xa dội lại. Cô trông thấy con ngựa nhỏ bị tan xác, một cái cẳng chín tái, dính đầy lông văng tới bụi tầm ma, một dịch thể vừa cay vừa chua trào lên cổ khiến cô muốn nôn ọe. Cô chợt hiểu ra. Nhìn cái cẳng ngựa, cô nhìn thấy chết chóc. Một nỗi sợ ập đến, cô bủn rủn chân tay, răng va vào nhau lập cập. Cô vụt dậy, lôi các em vào bụi.

Sáu đứa em vây chặt xung quanh cô như sáu tép tỏi bám quanh củ tỏi. Cô nghe thấy cách đây không xa, giọng nói quen thuộc đang gào lên điều gì đó, nhưng đã bị dòng sông sôi ùng ục át mất.

Cô ôm chặt đứa em nhỏ nhất, cảm thấy mặt nó nóng bừng. Mặt sông tạm thời yên tĩnh, khói trắng tan dần. Lại có tiếng rú rít trên trời, kéo theo một vệt sáng, vọt qua con đê Thuồng Luồng nổ trong thôn, tiếng ùng oang vang rền như sấm. Từ trong thôn vẳng lại tiếng phụ nữ la khóc, tiếng đổ vỡ của những vật nặng. Bên kia bờ đê không một bóng người, chỉ trơ trụi một cây hòe cổ thụ.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:48 AM
Phía dưới, dọc theo bờ sông, là một hàng liễu rủ. Những quái vật đáng sợ đó từ đâu mà ra nhỉ? Cô nghĩ. Chà chà! Tiếng kêu làm đứt đoạn dòng suy tưởng của cô. Qua kẽ lá cô nhìn thấy ông Hai nhà Phúc Sinh Động cưỡi xe đạp IFA phóng lên cầu. Ông ta lên cầu làm gì nhỉ? Chắc chăn là vì con ngựa, cô nghĩ. Nhưng Tư Mã Khố tay dắt xe, tay kia cầm bó đuốc cháy rừng rực, rõ ràng không phải vì con ngựa. Con ngựa nhà ông ta xương thịt tung tóe, máu nhuốm đầu cầu, đỏ cả nước sông. Tư Mã Khố vội xuống xe, ném bó đuốc vào đống củi đã tẩm đẫm rượu, ngọn lửa xanh bùng lên và lan ra rất nhanh. Tư Mã Khố quay xe, không kịp nhảy lên, dắt xe chạy trở lại. Đám lửa xanh đuổi theo sau. Tư Mã Khố luôn miệng kêu chà chà, rất kỳ quặc. Một tiếng nổ đanh, chiếc mũ cói rộng vành trên đầu Tư Mã Khố bay vọt lên như một con chim, xoay tròn rồi rơi xuống nước. Ông ta quẳng xe, ngã dúi rồi bò lổm ngổm trên cầu như chó. Tằng tằng tằng, súng nổ ran như pháo tép. Tư Mã Khố miết bụng trên cầu trườn xuống như con thằn lằn, chỉ một thoáng đã mất dạng. Cây cầu cháy đùng đùng, toàn lửa xanh, cao nhất là ngọn lửa ở giữa, không có khói. Mặt sông cũng biến thành màu xanh. Luồng hơi nóng bỏng ập tới nghẹt thở, mũi khô rát, ào ào như gió. Những cành tầm ma ướt sũng như đổ mồ hôi, lá quăn lại, héo quắt Lúc này cô nghe rõ tiếng chùi của Tư Mã Khố:

- Đ. chị thằng Nhật! Mày qua được Lư Câu Kiều, nhưng không qua nổi cái cầu lửa này! Rồi Tư Mã Khố cười lớn:

- Ha ha ha.. ha ha ha.


Tiếng cười chưa dứt, phía đê bên kia sông đã trông thấy những cái đầu lô nhô đội mũ vàng, tiếp đó là nửa người trên và đầu ngựa. Rồi mấy chục người cưỡi những con ngụa cao lớn đứng đây mặt đê. Tuy khoảng cách có đến vài trăm mét, nhưng cô thấy ngựa của bọn Nhật cao lớn chẳng kém con ngựa giống Đông Dương của nhà Ba Phàn. Nhật, giặc Nhật tới rồi. Thế là bọn Nhật đến thật rồi!... Quân kỵ Nhật thúc ngựa xuống dốc đê. Mấy chục con ngựa chen nhau lội xuống dòng sông. Cô nghe thấy bọn chúng quát tháo. Ngựa ùn xuống nước, hí vang. Nước ngập chân ngựa, mấp mé bụng dưới. Quân Nhật ngồi thẳng trên yên, mặt hơi ngửa lên. Mặt nước phản quang trên những khuôn mặt sáng tối lốm đốm, không phân biệt được mắt và mũi. Ngựa vươn cổ như dình phi nước đại nhưng không thể. Chúng lội nước một cách khó nhọc. Sóng vờn dưới bụng ngựa, Lai Đệ có cảm giác đó là những tia lửa nhỏ, khiến chúng càng vươn dài cổ ra, rùng mình liên tục; nửa dưới đuôi thả trong dòng nước. Bọn lính nhấp nhô trên mình ngựa. Chúng dùng cả hai tay giữ dây cương, chân duỗi thẳng trên bàn đạp, triển khai đội hình theo tuyến tán binh. Cô trông thấy con ngựa hồng cao lớn chợt khựng lại giữa sông, dỏng đuôi ị một bãi. Tên lính Nhật sốt ruột, thúc gót giày vào bụng ngựa.Con ngựa vẫn đứng yên, đầu lắc mạnh, hàm thiết kêu lách cách.

- Đánh đi, anh em ơi!

Từ lùm cây bên trái có tiếng hô to, tiếp đó là một tiếng nổ đùng **c như đập mẹt. Rồi tiếng súng rộ lên, to có nhỏ có, lúc thưa, lúc mau. Một cục đen sì bốc khói trắng rơi xuống sông, nổ đánh ầm, dựng lên một cột nước. Tên lính Nhật cưỡi ngựa hồng bóng dưới lên một cái rất kỳ quặc rồi bật ngửa, hai tay chới với, một dòng máu đen vọt ra khỏi ngực bắn lên đầu ngựa, bắn cả xuống mặt nước. Con ngựa hồng chồm lên, lộ hẳn hai vó trước và cái ức to khỏe, bóng loáng. Khi con ngựa hạ vó xuống, nước bắn tung tóe, tên lính Nhật đã nằm ngửa, đầu gối lên mông ngựa. Tên lính ngồi trên lưng con ngựa ô nhào xuống sông. Tên cưỡi trên lưng con màu xám thì gục trên cổ ngựa, hai tay buông thõng, cái đầu đã bay mất mũ ngất ngưỡng, máu rỉ ra từ tai, rớt xuống nước từng giọt. Trên sông cực kỳ hỗn loạn. Những tên khác cúi rạp, chân kẹp chặt bụng ngựa, bắn như đổ đạn vào các lùm cây trên thân đê. Những con ngựa thở phì phì, ướt như chuột lột, xông lên bãi, dưới bụng tong tỏng nước, vó bám đầy bùn đỏ, lông đuôi dài lê thê, lấp lánh như những sợi kim tuyến.

Một con ngựa đốm có ngôi sao trên trán, cùng tên lính Nhật mặt mày nhợt nhạt, xông lên đê. Tên Nhật nhíu mày, răng nghiến chặt, tay trái vỗ mông ngựa, tay phải khua thanh trường kiếm, xông tới bụi tầm ma. Lai Đệ trông rõ mồn một những giọt mồ hôi trên sống mũi hẳn, những soi lông mi rất thô của con ngựa đốm, nghe rõ tiếng thở phì phì từ lỗ mũi con ngựa, ngửi thấy mùi mồ hôi ngựa. Đột nhiên, trán con ngựa bốc khói. Nó cố vùng vẫy bốn vó đã tê dại, những nếp nhăn chạy rùng rùng trên mình. Con ngựa giật giật bốn chân mềm nhũn, tên lính không kịp nhảy ra, ngã xuống bên bụi tầm ma.

Đội kỵ binh Nhật chạy men theo bãi về phía đông, nơi chị em Lai Đệ để giày, gò cương, xông qua những bụi tầm ma lên đê. Cô không trông thấy đội kỵ binh Nhật nữa. Cô trông thấy con ngựa đốm chết trên bãi, đầu đầy máu và bùn, một con mắt màu xanh mở to, đau đớn nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Nửa người tên lính Nhật bị đè dưới bụng ngựa. Hắn nằm sấp, đầu ngoẹo sang một bên, một cánh tay trắng bệch tưởng như không còn một giọt máu, thò xuống nước, làm như đang vớt vật gì đó. Buổi sớm, bãi sông phẳng và bóng loáng bị vó ngựa dẫm nát. Giữa dòng, con ngựa bạch nằm chết, nước sông đẩy cái xác lăn tròn, nhích từng tí một. Khi cái xác ngửa bụng lên, bốn vó với những cái móng to tướng giơ thẳng lên trời khiến người kinh hãi. Chỉ chớp mắt, nước sông **c ngầu, chân ngựa lại chìm xuống nước, rồi lại chổng vó lên trời. Con ngựa hồng, con ngựa đã để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong Lai Đệ, trôi theo dòng nước cùng với thi thể của kỵ sĩ, rất xa vê phía dưới. Lai Đệ nghĩ, rất có thể con ngựa này đi tìm con ngựa giống nhà Ba Phàn. Cô quả quyết con ngựa hồng là ngựa cái, là vợ con ngựa giống của nhà Ba Phàn, vì hoàn cảnh ly tán mà xa nhau.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 09:50 AM
Lửa trên cầu vẫn cháy rừng rực. Đống củi giữa cầu lửa vàng khói trắng cuồn cuộn bốc lên. Cây cầu oằn mình, thở ra những tiếng phì phì, phát ra những lời rên rỉ. Cô thấy chiếc cầu đã biến thành một con rồng lửa, quằn quại, đau đớn, khát vọng bay lên, nhưng cái đuôi hình như đã bị ghìm chặt. Ôi chiếc cầu đáng thương. Không khí sặc mùi thuốc súng, mùi tanh của máu và bùn, đặc quánh. Cô cảm thấy ***g ngực như sắp nổ tung bất cứ lúc nào. Nguy hiểm hơn, những cành tầm ma bị sức nóng làm cho chảy nhựa, chỉ một đốm lửa theo luồng khí nóng dưa tới, là có thể bùng cháy. Cô bế Cầu Đệ, hạ giọng gọi các em, chui ra khỏi bụi tầm ma. Đến mặt đê, cô kiểm lại, các em cô đều đã lên đủ. Đứa nào cũng mặt mày đen nhẻm, chân không giày, mắt nhớn nhác, tai đỏ ửng. Cô kéo các em lăn xuống chân đê, bỏ chạy. Trước mặt là bãi đất hoang, nghe nói xưa kia là nhà của người đàn bà thuộc dân tộc Hồi, nay bị che khuất bởi những bụi tầm ma và cây chó đẻ. Rúc vào một bụi tầm ma, cô cảm thấy chân tay mềm nhũn như nặn bằng bột, chân mỏi dừ. Các em chạy liêu xiêu, luôn miệng gào khóc. Chị em ôm chặt nhau trong bụi tầm ma, các em rúc vào lòng chị. Cô ngẩng lên, lo lắng nhìn ngọn lửa cháy rực trên đê.
Đầu tiên là những người mặc áo xanh mà cô đã từng trông thấy, chui ra khỏi đám lửa chẳng khác những hồn ma. Lửa bén trên người họ. Cô nghe một giọng quen thuộc hét to:

- Nằm xuống mà lăn! Rồi anh ta lăn từ trên đê xuống. Hơn mười quả cầu lửa cùng lăn theo. Lửa tắt, tóc tai đều bốc khói. Những bộ quần áo vốn cùng màu xanh với lá tầm ma hoàn toàn thay đổi màu sắc, và chỉ còn là những mảnh vải đen nhẻm dán chặt trên người họ. Một người không chịu lăn, cháy như một cây đuốc, vừa kêu gào vừa chạy. Bên bụi tầm ma mà bọn Lai Đệ đang nấp, có một hố bùn mọc đầy cỏ dại và cây khoai nước, dọc màu phớt đỏ, lá to bản đầy phấn trắng. Người kia nhảy đại xuống hố. Bùn nước bắn tung tóe, những con nhái nhảy loạn xạ. Những con bướm đang đẻ trứng trên lá khoai nước cất cánh bay vội vã, màu kim nhũ trên cánh sáng lấp lóa như bị mặt trời nung chảy.

Lửa đã tắt trên người, những bùn bám đen nhẻm từ đầu đến chân, một con giun đất bám trên má, không còn phân biệt mắt mũi, cô chỉ còn trông thấy cái miệng của người đó. Anh ta đau quá, kêu to:

- Con đau quá, mẹ ơi!

Một con trạch từ miệng anh ta chui ra rơi xuống bùn rồi rúc luôn xuống đáy, mùi hôi thối kinh niên xông lên.

Những người đã dập tắt lửa thì nằm bò ra đất mà rên rỉ, chửi bới, súng ống gậy gộc đều quẳng trên mặt đất, chỉ riêng người có bộ mặt xương xương đen nhẻm thì vẫn cầm khẩu súng lục. Anh ta kêu lên:

- Anh em ơi, tản ra mau! Bọn Nhật sắp tới!

Những người bị thương hầu như không nghe thấy tiếng anh ta. Họ vẫn phủ phục như cũ. Có hai người run rẩy đứng lên nhưng loạng choạng đi được vài bước, lại ngã lăn ra.

- Anh em ơi! Tản ra mau!

Người kia lại gọi rồi đá vào mông người nằm bên cạnh. Người đó trườn lên mấy bước rồi cố quì dậy, vừa khóc vừa nói:

- Tư lệnh ơi, mắt tôi không trông thấy gì nữa!

Cuối cùng thì cô cũng biết người mặt đen là Tư lệnh. Người đó kêu lên, đau xót:

- Anh em ơi, tôi làm hại anh em rồi!...

Cô trông thấy trên mặt đê cao cao phía đông, mấy chục con ngựa Nhật to lớn chở những tên lính Nhật xếp thành hai trung đội vận động tới như hai dòng nước. Tuy trên đê khói lửa ngất trời, nhưng đội kỵ mã Nhật hàng ngũ tề chỉnh, ngựa cúi đầu chạy nước kiệu, nối đuôi nhau chạy đến ngang tầm ngõ nhà họ Trần thì con ngựa đi đầu rẽ xuống, những con sau bám sát, nhằm bãi trống ngoài đê chạy tới (chỗ này là sân phơi của nhà họ Mã, đất nện, bằng phẳng). Đến đây thì chúng chuyển sang nước đại, chạy theo một hàng dọc. Bọn lính Nhật nhất tề rút kiếm ra, vừa gào thét vừa thúc ngựa xông tớiViên Tư lệnh giơ súng lên bắn bừa một phát. Đầu nòng súng tóa ra một cụm khói nhỏ. Rồi, chân cà nhắc, anh ta loạng choạng chạy tới chỗ chị em La Đệ nấp. Một con ngựa to lớn màu hoàng hạnh lướt qua. Tên lính Nhật trên yên nghiêng người, vung kiếm nhằm vào đầu anh ta mà chém. Anh vội nằm sấp, đầu còn nhưng bả vai bị phạt mất một miếng bằng bàn tay. Miếng thịt văng ra đất co giật chẳng khác con ếch đã bị lột da. Viên Tư lệnh rú lên một tiếng đau đớn, nhổm lên; lộn mấy vòng rồi gục dưới gốc cây dẻ, nằm im như chết. Tên lính Nhật quay ngựa lại, nhằm người thanh niên cao lớn vừa chống đại đao nhổm dậy xông tới. Người thanh niên lộ vẻ kinh hoàng, giơ đao lên chống đỡ một cách yếu ớt, hình như anh ta định chém đầu con ngựa, nhưng con ngựa đã chồm hai vó trước, dùng ức hất ngã anh ta. Tên lính Nhật cúi xuống bổ một nhát, đầu anh ta bị chém làm hai mảnh. óc phọt ra bắn cả lên quần tên Nhật. Chỉ trong chớp mắt, mấy chục người chạy thoát từ trên đê xuống, đã yên nghỉ vĩnh viễn. Bọn lính Nhật cho ngựa dẫm nát thân thể họ.

Lúc này, lại có một toán kỵ binh từ rùng thông phía tây làng phóng tới, theo sau là một đám đông mặc quần áo màu vàng. Hai cánh quân gặp nhau rồi tiến vào thôn theo con đường bắc nam. Đám bộ binh đầu đội mũ sắt, khênh những chiếc nòng pháo đen bóng, ùa vào thôn như một bầy ong.

Đám cháy trên đê đã tắt, chỉ còn những cột khói bốc lên trời. Cô trông thấy trên đê một màu đen như sơn và ngửi thấy mùi thơm của những cây tầm ma bị lửa thiêu. Từng đàn ruồi nhặng như từ trên trời rơi xuống, dậu trên những xác người bị vó ngựa dẫm nát, trên những đám máu đọng, trên các tán lá và cả trên người viên Tư lệnh. Trước mắt cô chỉ toàn ruồi là ruồi.

Mắt mờ đi, mi mắt nặng trĩu, hình như cô nhìn thấy một cảnh tượng quái gở mà cô chưa bao giờ được thấy: những cẳng ngựa đứt lìa nhảy nhót, những đầu ngựa bị dao dâm ngập, những đàn ông trần truồng, hai chân kẹp cái roi nài ngựa, những đầu người lăn lông lốc, vừa lăn vừa kêu cục cục như gà mái đẻ, lại có cả những con cá nhỏ có chân nhảy nhót bên bụi tầm ma. Cô kinh hoảng khi thấy viên Tư lệnh - người mà cô tưởng đã chết, từ từ ngồi dậy, lết bằng hai gối đến chỗ miếng thịt bị chém văng dưới đất, nhặt nó lên gắn vào vết thương, nhưng miếng thịt lại nhảy xuống đất, rúc vào bụi cây. Viên Tư lệnh vồ lấy miếng thịt, quật cho nó chết hẳn, rồi rút một mảnh vải trên người băng vào vết thương.



Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:12 AM
8.



Tiếng ồn ào trong sân khiến chị Lỗ tỉnh lại. Chị tuyệt vọng nhìn cái bụng vẫn căng phồng như cũ và đám máu tươi thấm đẫm nửa bên giường.

Sọt đất mà mẹ chồng đem về đã biến thành bùn nhão trộn bằng máu. Từ trạng thái mông lung, chị chợt tỉnh. Chị trông thấy một con dợi cánh màu phấn hồng bay lượn giữa các cột kèo. Một khuôn mặt xám ngoét hiện dần ra trên tường. Đó là khuôn mặt một đứa bé trai đã chết. Cơn đau xé ruột xé gan đã dịu đi. Chị sững sờ khi nhìn thấy giữa hai đùi là một bàn chân nhỏ xíu với những móng chân sáng loáng. Thế là hết, chị nghĩ, cuộc đời mình đến đây là kết thúc. Nghĩ đến cái chết, chị cảm thấy vô cùng đau khổ. Chị hốt hoảng thấy mình bị nhét vào quan tài bằng ván mỏng, mẹ chồng cau mày, mặt sa sẩm không nói gì, chỉ có bảy đứa con gái vây quanh quan tài mà khóc...

Giọng như lệnh vỡ của mẹ chồng át cả tiếng kêu khóc của bọn con gái. Chị mở mắt, ảo giác tan đi, cửa sổ trông rõ mồn một, sáng rực. Mùi thơm nồng của hoa hòe từng đợt ùa vào phòng, một con ong mật đập vào giấy dán cửa sổ bồm bộp. Ba Phàn, đừng rửa tay vội! Chị nghe tiếng mẹ chồng nói vậy: - Cô con dâu quí hóa của tôi vẫn chưa đẻ được, và cũng mới ra được một chân.

- Bà chị ơi, chị chỉ nói lung tung, miệng như tép nhảy, Ba Phàn tôi là bác sĩ của lừa, ngựa, làm sao có thể đỡ đẻ cho người?

- Người và vật thì có khác gì nhau!

- Bà chị đừng dài dòng văn tự nữa, cho tôi ít nước rửa tay. Bà chị, đừng ngại mất công, phải mời Tôn Đại Cô đến thôi!

Mẹ chồng gầm lên như sấm:

- Chẳng lẽ anh không biết tôi và Tôn Đại Cô không ưa nhau? Năm ngoái mụ ta bắt trộm của tôi một con gà mái tơ.

Ba Phàn nói:

- Tùy bà chị, con dâu chị đẻ chứ có phải vợ tôi đẻ đâu? Bà nội ơi, vợ tôi còn trong bụng mẹ vợ, chưa chào đời. Bà chị đừng quên rượu và thủ lợn nhé! Tôi đã cứu hai sinh mạng của nhà bà chị đấy!

Bộ mặt mẹ chồng trở nên rầu rĩ:

- Ba Phàn, giúp tôi một tí nào, người xưa có câu, làm ơn nên oán, ai tránh được. Vả lại, súng nổ đùng đùng ngoài kia, lỡ gặp bọn Nhật thì sao?

- Đừng nói nữa! - Ba Phàn nói, bán anh em xa mua láng giềng gần. Hôm nay tôi phá lệ. Nói dại, tuy người và súc vật giống nhau, nhưng rốt cuộc sống chết có số của nó...

Chị nghe có tiếng chân lạo xạo tới gần, xen lẫn là tiếng hắt hơi rõ kêu. Chẳng lẽ bố chồng, chồng và lão Ba Phàn mặt trơ trán bóng vào buồng của người đẻ, mục kích thân thể lõa lồ của mình. Chị cảm thấy uất hận và nhục nhã, mắt mờ đi như phủ một lớp sương mù. Chị định ngồi dậy tìm quần áo che thân, nhưng cơ thể chị như lọt xuống hố, không động cựa được chút nào. Trong thôn vọng lại một tiếng nổ lớn, xen kẽ trong đó là tiếng rào rào quen thuộc và đặc sệt như hằng hà sa số những con thú nhỏ đang bò, như rất nhiều hàm răng đang nhai trèo trẹo... Tiếng gì mà nghe quen thuộc thế nhỉ? Chị vắt óc suy nghĩ. Một tia sáng chợt lóe lên rỏi nở bùng trong đầu. Chị trông thấy đàn châu chấu màu vàng xỉn che khuất cả mặt trời ào tới như nước lũ. Chúng ăn sạch lá cây, gặm cả vỏ cây liễu. Tiếng gặm đáng sợ của đàn châu chấu như khoan vào lỗ tai, vào xương tủy. Chị rụng rời: Lại xảy ra dịch châu chấu rồi! Và chị rơi vào một trạng thái tuyệt vọng. Trời ơi! hãy cho tôi chết đi, tôi chịu đựng hết nổi rồi.... Chúa ơi, Đức Mẹ ơi, hãy tưới nhuần mưa móc, hãy cứu vớt linh hồn chúng con!... Trong cơn tuyệt vọng, chị ra sức cầu nguyện, viện dẫn cả đức tối cao của phương Đông lẫn phương Tây, nỗi đau của tâm linh và nhục thể được vợi nhẹ rất nhiều. Chị nghĩ đến ông mục sư tóc đỏ mắt xanh thân thiết như cha anh.

Tại bãi cỏ xuân lần ấy, ông nói rằng ông Trời của Trung Quốc và Đức Chúa của phương Tây là một, như cánh tay với bàn tay, như sen trăng với sen đỏ, như - chị đỏ mặt - chim của trẻ con với cái ấy của người lớn. Ông đứng trong rừng cây hòe, cái ấy cương lên, ngật ngưỡng... Ông vẫy chị, hoa hòe trắng nở rộ, hoa hòe đỏ nở rộ, hoa hòe vàng nở rộ trên cây, từng cụm, từng cụm, những cánh hoa bay lượn, mùi hương nồng khiến người ta say như say rượu. Chị cảm thấy mình đang bay như một cụm mây, như một chiếc lông. Chị vô cùng xúc động trước khuôn mặt tươi tắn vừa trang nghiêm vừa thánh thiện, vừa thân thiện lại vừa hiền từ của ông mục sư. Chị nhắm mắt lại, nước mắt ứa ra theo vết nhăn rơi xuống lỗ tai. Mẹ chồng gần như thì thầm:

- Mẹ con Lai Đệ này! Mày làm sao thế hả? Con ơi, hãy vững vàng lên, con lừa nhà ta đã đẻ một con la xinh xẻo rồi. Con phải đẻ một thằng cu vậy là thỏa mãn lắm rồi! Con ơi, giấu cha giấu mẹ nhưng không giấu được thầy thuốc, đỡ đẻ thì không phân biệt đàn ông đàn bà, ta đã mời ông Ba Phàn đến cho con...
Những lời từ tốn của mẹ chồng khiến chị rất xúc động. Chị mở mắt, ngó khuôn mặt ngăm đen của mẹ chồng, khẽ gật. Mẹ chồng vẫy ra phòng ngoài gọi: Anh Ba, vào đây. Ba Phàn mặt câng câng, làm ra vẻ trang trọng, bước vào. Mắt lão đảo lia lịa, ra điều trông thấy một chuyện đáng sợ, mặt tái đi, không còn một giọt máu.

- Bà chị ơi... Ba Phàn nói nhỏ - xin chị giơ cao đánh sẽ, có giết chết thì Ba Phàn cũng không làm nổi việc này.

Lão vừa nói vừa đi giật lùi, vừa nhìn thấy thân thề chị Lỗ liền vội vàng đưa mắt nhìn chỗ khác. Bước qua ngưỡng cửa, lão **ng phải Thọ Hỉ đang thò đầu ngó vào trong buồng. Lão ngán ngẩm nhìn khuôn mặt gầy guộc của người chồng và vẻ sợ hãi của anh ta. Bà Lã vội đuổi theo Ba Phàn. Chị nghe tiếng bà gọi to:

- Ba Phàn, đồ chó đẻ!

Nhân lúc chồng lại ló đầu nhìn vào, chị cố giơ tay vẫy một câu nói khô khan buột ra từ miệng chị. Chị không tin là mình lại có thể nói như thế.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:14 AM
- Đồ chó đẻ, lại đây!

Chị đã tới mức dửng dưng đối với chồng, không thù không oán, vậy chị còn chửi để làm gì? Chửi là đồ chó đẻ, thực tế là chửi mẹ chồng, mẹ chồng là chó, con chó già! Chó già, chó già đừng cắn bậy, cắn bậy thì sẽ được ăn gậy? Chị nhớ lại câu chuyện xa xưa về chàng rể ngốc và bà mẹ vợ mà chị được nghe cách đây hai mươi năm.

Đó là cái năm mưa nhiều và nóng như đổ lửa, vùng Cao Mật vừa được khai phá, dân cư thưa thớt, bà dì của chị là người sớm nhất đến lập nghiệp. Ông chú dượng họ Vu thân hình cao lớn, người ta tặng cho chú biệt hiệu Vu Hộ pháp, nắm tay của chú to bằng hai vó ngựa gộp lại, một cú đấm chết tươi con la. Chú mê đánh bạc, đầu ngón tay dính đầy những gỉ đồng... Trong cuộc mít tinh phản đối tục bó chân, chị lọt vào mắt xanh của bà Lã...

- Mình gọi tôi hả? Chị trông thấy Thọ Hỉ đứng ở đầu giường, mắt thì nhìn ra cửa sổ, ngượng ngập.

- Mình gọi tôi có việc gì?

Chị nhìn con người đã chung sống với mình hai mươi năm mà hối hận. Hoa hòe ngút tầm mắt, dập dềnh như sóng biển... Chị nói như một hơi thở:

- Đứa này... không phải con anh!

Thọ Hỉ khóc tấm tức:

- Mẹ nó ơi! Mẹ nó đừng chết! Để tôi đi mời Tôn Đại Cô.

- Đừng? - Chị năn nỉ - Anh mời mục sư Malôa hộ tôi!

Ngoài sân, bà Lã lòng như dao cắt lấy ra gói giấy đầu, mở từng lớp để lộ ra đóng bạc trắng. Bà nhón tay cầm đồng tiền lên, khóe miệng run dễ sợ, mắt ngầu đỏ. Nắng dọi trên mái tóc đã bạc trăng. Một làn khói đen từ đâu ùa tới, không khí nóng bỏng. Phía bắc, sông Thuồng Luồng có tiếng ồn ào như chợ vỡ, đạn bay chíu chíu trên trời. Bà Lã nói như khóc:

- Anh Ba, lẽ nào anh thấy người chết mà không cứu? Thật là độc như nọc ong, dã tâm như người tình hụt. Người ta có câu: Có tiền mua tiên cũng được!. Đồng tiền này liền kề da thịt tôi đã hai mươi năm. Tôi biếu nó cho anh, hãy cứu con dâu tôi!

Bà ấn đồng tiền vào tay Ba Phàn. Ba Phàn vội hất ra như **ng phải miếng sắt đỏ. Khuôn mặt bóng nhẫy của lão đẫy mô hôi, má giật giật, mặt méo xệch. Lão vắt túi thuốc lên vai, nói to:

- Bà chị hãy tha cho tôi, tôi van chị đấy!

Ba Phàn chưa chạy ra đến cổng đã thấy Phúc Lộc chạy vào, trên người không mặc áo, giày chỉ còn một chiếc, ngực vấy bẩn đen như đầu bôi trục xe, chẳng khác một vết thương to tướng thối rữa. Lão ở đâu về thế nhỉ? Đồ chết tiệt, bà Lã giận dữ cất tiếng chửi.

- Ông anh, ngoài ấy có chuyện gì thế?

Ba Phàn sốt ruột hỏi. Phúc Lộc không để ý câu chửi của vợ, cũng không trả lời câu hỏi của Ba Phàn. Lão nở một nụ cười rất ngớ ngẩn, trong miệng phát ra những tiếng bập bập chẳng khác gà mổ thóc trong máng. Bà Lã nắm lấy cằm của chồng mà lắc, khiến miệng Phúc Lộc lúc chành ra lúc chúm lại, mép sùi bọt trắng. Lão ho, khạc nhổ rồi cũng trấn tĩnh lại.

- Bố nó, ngoài ấy có chuyện gì hả?

Lão buồn rầu nhìn vợ, nhếch miệng khóc:

- Kỵ binh Nhật đã tràn vào nội đê rồi!

Tiếng vó ngựa nặng nề dội tới người trong sân đứng như trời trồng. Những con chim khách đuôi trắng mình xám bay qua sân. Những tấm kính màu trên lầu chuông nhà thờ vỡ vụn không thành tiếng, những mảnh vỡ lấp lánh. Kính vỡ rồi mới nghe thấy một tiếng nổ đanh, rồi lạo xạo lan xa chẳng khác một cỗ xe chở nặng trên đường. Một luồng khí áp xộc tới, quật ngã Ba Phàn và Phúc Lộc như những cây cao lương gặp bão. Bà Lã bị đẩy lùi dán lưng vào tường. Chiếc ống khói hình nấm trên mái nhà rớt xuống, lăn trên lối đi lát gạch vỡ.
Thọ Hỉ từ trong buồng chạy ra, khóc:

- Mẹ ơi, nó chết mất! Nó sắp chết rồi? Đi mời Tôn Đại Cô chứ mẹ?

Bà Lã nghiêm nghị nhìn con trai:

- Đã chết thì tránh cũng không thoát, không chết thì chết thế nào được?
Nghe bà Lã thuyết giáo, Phúc Lộc tỏ vẻ hiểu mà không hiểu, chỉ nhường cặp mắt mọng nước nhìn vợ. Bà Lã nói:

- Anh Ba Phàn, còn loại thuốc thúc đẻ nào không? Còn thì cho con dâu tôi một lọ, không còn thì lôi thôi to rồi!

Nói rồi, không đợi Ba Phàn trả lời, bà không nhìn một ai, ngẩng cao đầu, ưỡn ngực, oai phong lẫm liệt ra khỏi cổng.



Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:16 AM
9.



Năm 1939, ngày tháng theo âm lịch là Mồng 5 tháng 5, buổi sáng, tại trấn Đại Lan là thị trấn lớn nhất của vùng Cao Mật, bà Lã dẫn kẻ thù của mình là Tôn Đại Cô về nhà, bất chấp đạn bay chíu chíu trên trời, để đỡ đẻ cho con dâu. Khi hai người bước vào cổng nhà bà Lã, cũng là lúc bọn kỵ binh Nhật cho ngựa xéo nát thi thể các đội viên du kích.

Trong sân có chồng bà Lã là Thượng Quan Phúc Lộc và con trai Thọ Hỉ, ngoài ra còn có viên thú y Ba Phàn. Ba Phàn giơ chiếc lọ đựng thứ nước xanh xanh như kể công. Ba người này có mặt từ lúc bà Lã đi mời Tôn Đại Cô, một người mới đến thêm là ông mục sư mắt xanh tóc đỏ Malôa. Ông mặc một áo chùng màu đen, đeo cây thánh giá nặng trước ngực. Ông đứng trước cửa sổ chị Lỗ, cằm dưới nhô ra, mặt ngửa lên trời, cao giọng đọc thánh kinh: chúa Giêsu cao cả của con, xin người hãy ban phước lành, khi đứa con trung thành của Người và cô bạn của nó gặp tai họa, xin Người giơ bàn tay thiêng liêng của Người xoa đầu ban phước cho chúng con, cho chúng con thêm sức mạnh và dũng khí, cho người đàn bà kìa mẹ tròn con vuông, cho con dê kia có sữa, cho con gà đẻ trúng, cho bọn xấu chỉ nhìn thấy một màu đen kịt, súng của chúng bắn không nổ, ngựa của chúng lạc đường sa xuống đầm lầy. Chúa ơi, xin Chúa hãy giáng đòn trừng phạt lên đầu con, cho con được cứu khổ cứu nan mọi sinh linh trên thế gian này.

Ông mục sư nói đặc giọng Cao Mật. Những người đàn ông đứng lặng nghe lời cầu nguyện. Qua nét mặt thấy rõ họ rất xúc động. Tôn Đại Cô cười nhạt bước vào, gạt mục sư Malôa sang một bên. Ông mục sư mở to mắt, thốt lên A men tay làm dấu trước ngực, kết thúc những câu cầu nguyện dài dòng.

Tôn Đại Cô đầu chải bóng loáng, tóc búi gọn gàng sau gáy trâm cài tóc sáng lấp lánh, bên tóc mai cài một cái cặp. Bà mặc chiếc áo ngoài phẳng phiu bằng vải trắng, vạt áo đóng khuy lệch, một khăn tay giắt sau khuy nách, quần màu đen, chân quấn xà cạp nhỏ, chân đi giày màu thanh thiên đế trắng. Toàn thân bà toát lên vẻ thanh nhã, tóc có mùi xà phòng thơm. Bà có cặp lưỡng quyền cao, mũi thẳng, môi mím chặt thành một đường chỉ, cặp mắt sâu mà đẹp, ánh mắt rực sáng. Bà có vẻ tiên phong đạo cốt, so với dáng vẻ luộm thuộm và to đùng của bà Lã, thật khác nhau một trời một vực.

Bà Lã đón lọ nước màu xanh từ tay Ba Phàn đến bên Tôn Đại Cô, nói nhỏ:

- Bà chị, đây là thuốc thúc đẻ của Ba Phàn, có nên cho uống không?

- Chị nhà Thượng Quan! - Tôn Đại Cô đưa ánh mắt sắc lạnh nhìn bà Lã rồi nhìn lướt cánh đàn ông trong sân, tỏ vẻ không bằng lòng - Nhà chị mời ta hay mời Ba Phàn đến đỡ đẻ?

- Bà chị đừng giận, tục ngữ có câu: Có bệnh thì vái tứ phương, ai có sữa người ấy là mẹ mà lại? - Bà Lã nín nhịn tới mức khó tin, nói nhỏ - Tất nhiên là vạn bất đắc dĩ mới dám mời bà chị, nếu không, làm sao tôi dám động vào thần linh?

- Thế nhà chị không bảo ta bắt trộm con gà nhép của nhà chị nữa hả? - Tôn Đại Cô nói - Muốn ta đỡ cho, người khác không được nhúng tay vào!

- Xin vâng, bà chị bảo sao thì làm vậy - Bà Lã nói. Tôn Đại Cô rút trong bọc ra một dải lụa đỏ giắt lên cửa sổ, rồi lừng lững đi vào, đến của buồng, bà dừng lại bảo bà Lã:

- Nhà chị Thượng Quan, vào đây!

Ba Phàn đến bên cửa sổ lấy lại lọ nước màu xanh mà bà Lã để ở đó, đút vào túi thuốc. Rồi cũng không chào từ biệt cha con Phúc Lộc, chạy vù ra cổng.
- A men! - Mục sư Malôa lại làm dấu chữ thập trước ngực rồi nhìn cha con nhà Thượng Quan tỏ vẻ thân thiện.

Trong buồng vang lên tiếng quát tháo của Tôn Đại Cô, tiếp đó vang lên tiếng gào thét của chị Lỗ.

Thọ Hỉ bịt tai ngồi xổm dưới đất, cha là Phúc Lộc thì chắp tay sau đít đi quạnh sân, bước chân gấp gáp, đầu cúi gằm như đang tìm kiếm vật gì đó.

Mục sư Malôa lại nhỏ nhẹ cất lời cầu nguyện như lúc nãy, mắt nhìn lên bầu trời đầy mây. Con la mới sinh chệch choạng từ chái tây đi lại. Lông của nó mượt như nhung. Nó đi ra trong tiếng gào từng đợt của chị Lỗ. Nó dỏng tai lên, đuôi kẹp giữa hai chân, đến bên ang nước dưới gốc cây thạch lựu một cách vất vả, sợ hãi nhìn những người đàn ông ở trong sân. Không ai để ý đến nó. Thọ Hỉ bịt tai mà khóc. Ông Phúc Lộc bận đi vòng quanh sân. Malôa nhắm mắt cầu nguyện. Con lừa vục mõm vào ang nước, uống xong, nó chậm rãi đến chỗ làn lạc củ gác trên đống rơm, há miệng gặm vỏ lạc.

Tôn Đại Cô thò một tay vào âm đạo chị Lỗ, kéo nốt chân kia của đứa bé ra. Người mẹ gào lên và ngất xỉu: Tôn Đại Cô thổi vào mũi chị Lỗ một ít bột màu vàng, rồi hai tay cầm hai chân đứa bé, chờ đợi. Chị Lỗ tỉnh lại, rên rỉ, hắt hơi hên tục, người giật lên từng cơn. Chị cong người lên rồi lại thả phịch xuống. Chỉ đợi có thế, Tôn Đại Cô lôi đứa bé ra. Cái đầu vừa dẹt vừa dài của đứa bé khi ra khỏi bụng mẹ, thì một tiếng ục vang lên, máu tươi bắn đầy chiếc áo trắng của Tôn Đại Cô.

Treo ngược dưới tay Tôn Đại Cô là một bé gái toàn thân tím ngắt.

Bà Lã đấm ngực thùm thụp, cất tiếng gào. Bụng chị Lỗ co giật một cách đáng sợ, máu tươi lại vọt ra giữa hai chân, một đứa nữa tóc màu vàng tuồi ra như cá.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:17 AM
Bà Lã thoắt cái đã nhận ra cái chim bé tí như con nhộng giữa hai chân đứa bé. Bà hục lên một tiếng rồi quì xuống bên giường.

- Tiếc quá, cái thai này đã chết! - Tôn Đại Cô tỏ ý tiếc rẻ.

Bà Lã thấy trời đất quay cuồng, đầu va vào thành giường. Bà vịn vào thành giường đứng dậy một cách khó nhọc, nhìn thoáng một cái sắc mặt xám ngoét của con dâu, rồi rên rỉ đi ra khỏi buồng.

Ngoài sân im lìm như chết. Người con trai phủ phục dưới đất, cổ vươn dài, dòng máu rỉ ra chảy ngoằn ngoèo trên mặt đất, cái đầu ngay ngắn trên cổ giữ nguyên vẻ kinh hoàng trên nét mặt. Người chồng thì đang căn một mảnh ngói vỡ, một tay kẹp dưới bụng, tay kia xoài về phía trước, sau gáy là một vết nút vừa to vừa dài, chất nhầy màu trắng đỏ vương vãi trên lối đi. Mục sư Malôa quì dưới đất, tay làm dấu, tuôn ra hàng tràng những tiếng nước ngoài. Hai con ngựa cao lớn đủ yên cuồng đang nhai những thân cây lạc. Con lừa đen cùng con la mới đẻ co rúm ở một góc tường, đầu con la rúc vào bụng mẹ, cái đuôi ngắn ngủn ngoe nguẩy như rắn. Hai tên lính Nhật mặc binh phục màu vàng, một tên đang dùng khàn tay lau máu trên kiếm, tên kia đang rạch thủng những bao cói **ng lạc. Nhà Thượng Quan năm ngoái trữ được năm tạ lạc củ, đợi năm nay lên giá thì bán. Lạc chảy tung tóe dưới đất, hai con ngựa cúi xuống nhai lạc rau ráu, cái đuôi đồ sộ và đẹp mắt khẽ vung vẩy tỏ vẻ mãn nguyện.

Bà Lã bỗng thấy Trời đất quay cuồng. Bà định chạy đến cứu chồng và con trai, nhưng cơ thể đồ sộ của bà đã đổ ập xuống chẳng khác một bức tường bị sập.

Tôn Đại Cô đi vòng qua người bà Lã, bước những bước vững vàng ra cổng. Tên lính Nhật có cặp mắt rất xa nhau, lông mày rậm và cụt lủn, vứt khăn lau xuống đất, vụng về nhảy tới trước mặt Tôn Đại Cô, giơ thanh kiếm sáng loáng chĩa thẳng vào ngực bà. Tên lính chửi câu gì đó, vẻ mặt man rợ. Bà đứng im nhìn tên lính, thậm chí còn nhếch mép cuối giễu. Bà lui lại một bước, tên lính tiến lên một bước. Bà lui hai bước, hắn tiến hai bước. Thanh kiếm sáng loáng vẫn dí mũi trên ngực bà. Tên lính lấn từng bước, bà không nhẫn nại được nữa, tung một cú đá đẹp mắt đến mức khó tin, trúng cổ tay tên lính. Thanh kiếm văng đi. Tôn Đại Cô tung mình nhảy tới, cho tên lính một bạt tai. Hắn ôm mặt kêu như bị chọc tiết. Tên lính kia vác kiếm xông tới nhằm vào đầu bà mà chém. Bà nhẹ nhàng xoay người lại, chộp lấy cổ tay tên lính bóp mạnh, thanh kiếm rớt xuống đất, tên lính ăn luôn một bạt tai, cái bạt tai tuy có vẻ nhẹ, nhưng nửa mặt tên lính lập tức sưng vù.

Tôn Đại Cô đi thẳng ra cổng, không thèm nhìn lại. Tên lính Nhật giơ súng lên, lẩy cò. Bà dướn người một cái rồi ngã vật xuống.

Quãng trưa, một tốp lính Nhật kéo vào sân nhà Thượng Quan. Bọn lính tìm thấy trong gian chái có một cái sọt dan bằng cành liễu, bèn trút đầy lạc vào sọt rồi khênh ra ngõ cho ngựa ăn. Hai tên lính áp giải mục sư Malôa đi nơi khác. Tên bác sĩ quân y đeo kính gọng sùng đi theo viên chỉ huy bước vào căn buồng chị Lỗ. Tên bác sĩ cau mày, mở túi thuốc, đeo găng, dùng dao mạ kền cắt rốn cho đứa bé. Hắn cầm ngọc thằng bé, phát vào lưng cho đến khi thằng bé khóe oe oe như tiếng mèo kêu, mới đặt xuống. Tiếp đó, hắn xách đứa bé gái lên, lại phát bôm bốp, cho đến khi em bé hơi tỉnh. Tên bác sĩ bôi thuốc dỏ vào rốn cho hai đứa bé và băng lại. Cuối cùng, hắn tiêm cho chị Lỗ hai mũi cầm máu. Trong quá trình tên bác sĩ chữa cho sản phụ và hai đứa bé, tên phóng viên chụp nhiều pô ảnh từ những góc độ khác nhau. Một tháng sau, những tấm ảnh đó được đăng trên báo chí ở Nhật Bản.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:20 AM
Chương 2.



1.


Vâng, tôi và chị Tám từng rơi vào tay viên quân y Nhật, vượt biển, xuất hiện trên báo chí Nhật bản. Sau đó mấy chục năm, các Hồng vệ binh dùng roi mây đánh tôi, tra hỏi: Nói! Quân y Nhật vì sao lại cứu mày? Tôi oan quá, vừa khóc vừa nói: Tôi không rõ, không biết gì hết. Đánh, đánh chết cái ngữ vừa lọt lòng mẹ đã làm Hán gian. Roi quất vun vút, mông đít tôi bật máu tươi. Oan tôi quá, tôi nói, oan cho tôi quá! Lại mấy chục năm sau, viên quân y Nhật đầu bạc phơ cùng ông Chủ nhiệm Kinh tế đối ngoai thị trấn Đại Lan đến gặp tôi, khi ấy tôi năm mươi hai tuổi: ông ta giở ra một tờ báo đã ố vàng cho tôi xem. Trên báo là ảnh hai đứa trẻ xấu xí hết cỡ, còn viên quân y Nhật thì sao mà đẹp, sao mà thanh nhã. Người phiên dịch bảo tôi, tiên sinh Koyoto là triệu phú Nhật Bản đến thị trấn ta để đầu tư. Ông ta nói rằng cách đây hơn năm mươi năm đã từng đến thị trấn này, cứu sống một người mẹ và hai con.

- Chúng tôi đã rà soát bằng nhiều cách, thấy rằng, những người được cứu chính là mẹ con anh.

Đứng trước vị ân nhân này tôi chẳng thấy xúc động chút nào. Tôi nói vẻ lạnh nhạt:

- Xin lỗi, ông nhầm người rồi!

Tôi trông thấy vẻ lúng túng của viên bác sĩ quân y già. Ông ta cúi rạp vái tôi một vái, miệng lí nhí xin lỗi.

- Cút mẹ mày đi - tôi lẩm bẩm trong miệng, rồi quay lại đút mồi cho con yểng biết nói.

Sau khi tiêm thuốc cầm máu, mẹ tôi tỉnh lại, cái nhìn đầu tiên là nhìn tôi - chính xác hơn là nhìn cái chim bé như con nhộng ở giữa hai chân tôi, cặp mắt u tối của mẹ chợt bừng sáng. Mẹ bế tôi lên, áp mặt vào mặt tôi. Mặt tôi đẫm nước mắt của mẹ. Tôi khóc oe oe, miệng tìm vú. Mẹ nhét vú vào miệng tôi. Tôi mút vú thành thạo như đã được huấn luyện trước. Chỉ có mùi tanh của máu, không có sữa. Tôi khóc thét lên. Chi Tám cũng khóc. Mẹ tôi trông thấy chị nhưng không bế chị lên. Mẹ đặt hai chị em nằm kề nhau, rồi bước xuống giường, lảo đảo ra chỗ ang nước, vục đầu mà uống như lừa ngựa. Mẹ đờ đẫn nhìn các xác chết trong sân. Lừa mẹ và la con run rẩy bên vựa lạc. Mẹ thấy đất trời chao đảo. Các chị lếch thếch nhạy về, vây quanh mẹ, chỉ khóc được mấy tiếng rời rạc, rồi vì mệt quá, đều ngất xỉu dưới chân mẹ. ống khói bếp nhà tôi tỏa khói trắng. Mẹ mở hòm của bà nội, lấy ra trứng gà, táo đỏ, đường phèn và một củ sâm đất để dành đã lâu. Nước trong nồi đã sôi, trứng gà nhào lộn trong nước. Mẹ gọi các chị lại ngồi xung quanh một cái chậu, múc thức ăn từ nồi vào chậu rồi bảo: Các con ăn đi! Các chị múc thức ăn ra bát, tranh nhau ăn. Người thì ăn trứng, ăn cả vỏ. Người ăn táo, nuốt chửng cả hột. Mẹ chỉ uống phần nước. Mẹ uống liền ba bát, chậu thức ăn đã cạn tới đáy. Mọi người ngồi yên một lát rồi ôm nhau khóc. Khóc chán, mẹ nói:

- Các con ơi, chúng ta có thêm một em trai và một em gái!

Mẹ cho tôi bú sữa. Tôi mút được một thứ sữa hỗn hợp có vị của táo, đường và trứng gà - một dịch thể vĩ đại và quí giá. Tôi mở mắt, các chị vui vẻ nhìn tôi. Tôi mơ hồ nhìn thấy các chị. Tôi ti cạn dòng sữa trong vú mẹ trong khi chị Tám khóc ngằn ngặt, mắt nhắm nghiền. Tôi nghe thấy mẹ thở dài bế chị lên:

- Con ơi, con là người thừa rồi!

Sáng sớm hôm sau, tiếng thanh la vang lên ngoài ngõ. Ông Cả Tư Mã Đình nhà Phúc Sinh Đường giọng khản đặc, thông báo:

- Bà con ơi, nhà nào có xác chết thì khênh ra!

Mẹ bế tôi và chị Tám đứng trong sân, tấm tức khóc trong họng. Tiếng khóc của mẹ khô khốc, đứt đoạn như những thân cây liễu bị chặt ra từng khúc, đầy cay đắng, không có nước mắt. Các chị vây quanh mẹ, người khóc, người không khóc. Trên mặt các chị cũng không có nước mắt.

Tư Mã Đình xách thanh la bước vào nhà tôi. Đó là một người như quả dưa héo, khó đoán tuổi, vì rằng trên khuôn mặt đầy nếp nhăn là một cái mũi tròn trịa như nấm rơm và cặp mắt sáng và đen như mắt trẻ. Lưng hơi gù có vẻ đã bước sang tuổi già, nhưng hai bàn tay thì vừa trắng vừa mập, lòng bàn tay có năm cái mụn cơm. Hình như để mẹ tôi chú ý, lão đứng cách mẹ chỉ một bước chân, gõ thật mạnh một dùi vào thanh la. Tiếng thanh la khàn khàn, vỡ ra như vết nứt lò phóng xạ, xoáy vào từng mạch máu, từng đường gân thớ thịt. Mẹ ngừng bặt, họng cứng lại, ngưng thở trong một phút, tim cũng ngừng đập, máu không chảy. Thê thảm quá! Tư Mã Đình thở dài. Đôi môi và hai mép lão, gò má lão đều lộ vẻ đau xót và căm phẫn cùng cục, nhưng cái mũi và cặp mắt của lão thì lại lộ vẻ mừng thầm, cho rằng trong cái rủi có cái may. Lão bước đến bên cái xác đông cứng của Phúc Lộc, đứng lặng một lát. Rồi lão lại gần cái xác Thọ Hỉ đầu lìa khỏi cổ, cúi xuống nhìn vào đôi mắt đã mất hết ánh sáng, làm như muốn trao đổi tâm tình với Thọ Hỉ. Miệng lão trễ xuống để rớt một dòng nước bọt, nét mặt lão đần độn và man rợ, hoàn toàn tương phản với vẻ mặt thanh thản của Thọ Hỉ.

- Các người không nghe lời tôi, các người không nghe lời tôi!...

Lão lẩm bẩm trong miệng như trách cứ người đã chết, lại như đang nói một mình. Trở lại trước mặt mẹ, lão nói:

- Chị Thọ Hỉ này, tôi cho người khiêng hai cái xác đi. Thời tiết này, chị thấy đấy!

Lão ngửa mặt nhìn trời. Mẹ cũng ngẩng lên nhìn. Trên đầu là bầu trời màu chì đè nặng đến nghẹt thở, phía đông đỏ như máu bị những cụm mây đen dồn nén.

- Con sư tử đá nhà tôi chảy mồ hôi, mưa ập đến ngay bây giờ. Không đưa họ đi, dầm mưa dãi nắng, chị hiểu chưa?

Mẹ bế tôi quì trước mắt Tư Mã Đình, nói:

- Ông Cả, tôi mẹ góa con côi, xin nhờ vào ông! Các con ơi, lại đây, các con lạy bác đi!

Các chị tôi quì trúc mặt Tư Mã Đình. Lão gõ mấy tiếng thanh la thật to.

- Tổ sư chúng nó! Lão chửi, nước mắt ứa ra - Đây là bọn Sa Nguyệt Lượng gây ra đây! Chúng nó đánh phục kích, bọn Nhật liền nhè vào dân chúng mà trút giận! Này cô em, này các cháu, đứng cả dậy, đừng khóc nữa, tai họa không chỉ có nhà mình. Ai bảo tôi được ủy nhiệm thay chúc Trưởng trấn của Trương Duy Hán làm gì? Huyện trưởng bỏ chạy, Trấn trưởng thì không. Tổ sư nó!

Lão gọi với ra ngoài cổng:

- Ba Câu, Tư Diêu đâu, còn chần chờ gì nữa, chẳng lẽ phải dùng kiệu bát cống rước các anh vào đây hả?


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:33 AM
Ba Câu và Tư Diêu rón rén bước vào sân, theo sau là một đám người vô công rỗi nghề trong thị trấn. Họ đều là tay chân của Trưởng trấn, thuộc đội danh dự và là tùy tùng của Trưởng trấn mỗi khi làm công vụ. Họ là hiện thân của oai phong và quyền lực của Trưởng trấn. Tư Diêu nách cắp quyển sổ mỏng đóng lề bằng dây gai, cài trên tai chiếc bút chì sọc màu. Ba Câu cố sức lật cái xác Phúc Lộc ngửa mặt lên bầu trời mây đen vần vũ. Anh ta dài giọng xướng:

- Thượng Quan Phúc Lộc - đầu bị chém vỡ đôi - chủ hộ.

Tư Diêu nhấm nước bọt giở sổ, lật đi lật lại, tìm hồi lâu mới thấy trang giấy ghi chép về nhà Thượng Quan, rồi gỡ bút chì trên vành tai xuống, chân quì chân không, dùng gối làm bàn viết, đặt quyển sổ lên, thấm bút bằng nước bọt, rồi câu một nét xóa tên Phúc Lộc...

- Thượng Quan Thọ Hỉ - giọng ba Câu đột nhiên trầm hẳn xuống - chết đầu lìa khỏi xác.

Mẹ khóc rống lên. Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:

- Ghi đi, ghi đi, có nghe thấy không?

Nhưng Tư Diêu chỉ khoanh một vòng tròn lên tên Thọ Hỉ, không ghi nguyên nhân vì sao mà chết. Tư Mã Đình giơ dùi thanh la gõ vào đầu Tư Diêu, chửi:

- Đ. mẹ mày, ăn cắp ngày công cả với người chết, mày khinh tao không biết chữ hả?

Tư Diêu xịu mặt:

- Thưa ông, đừng đánh nữa, tôi đã ghi trong lòng rồi, nghìn năm nữa cũng không thể quên.

Tư Mã Đình trợn mắt:

- Sống dai thế! Những một nghìn năm, rùa hay ba ba mà sống lâu thế!
Tư Diêu nói:

- Thưa ông, đây chẳng qua là ví von. Việc lượm xác này của ông...

- Ai lượm cùng với mày!

Tư Mã Đình lại nện Tư Diêu một dùi. Ba Câu đứng bên thân thể bất động của bà Lã, ngoảnh mặt hỏi mẹ:

- Mẹ chồng chị tên họ là gì?

Mẹ lắc đầu. Tư Diêu dùng bút chì gõ gõ vào cuốn sổ, nói:

- Họ Lã...

Ba Câu cúi xuống kiểm tra thân thể bà Lã. Quái lạ, không bị vết thương nào, anh ta lẩm bẩm, rồi túm tóc bà Lã nâng đầu dậy. Từ miệng bà Lã lọt ra một tiếng rên yếu ớt. Ba Câu vội đứng thẳng lên, mắt trợn tròn, đi thụt lùi liền mấy bước, miệng lắp bắp:

- Đâu phải là... xác chết!

Bà Lã từ từ mở mắt, nhìn mà không hẳn nhìn vào chỗ nào như đứa trẻ sơ sinh. Mẹ gào lên:

- Mẹ ơi.

Mẹ bế tôi đến bên bà nội. Đi được hai bước mẹ dùng lại, cảm thấy mẹ chồng rõ ràng là nhìn về phía mình, nhìn vào tôi. Tư Mã Đình nói:

- Cô em, bà bác như vậy là hồi quang phản chiếu, xem ra bác ấy muốn biết con em là trai hay gái?

Cái nhìn của bà nội khiến mẹ tôi rất khó chịu, tôi khóc, nước mắt ràn rụa. Tư Mã Đình bảo:

- Cho bà ấy ngó cháu nội một cái, để bà đi cho yên lòng. Mẹ quì xuống, lết bằng gối đến bên bà nội, giơ tôi lên trước mặt bà, vừa khóc vừa nói:

- Mẹ ơi, con không còn cách nào khác mới ra thế này...

Dưới đít tôi, ánh mắt của bà bỗng lóe lên những tia giận dữ. Bụng bà réo ùng ục rồi xả ra một tràng rắm thối.

- Hỏng rồi, thoát khí rồi, thế là hết!

Tư Mã Đình nói. Mẹ bế tôi đứng dậy, trước c mặt những người đàn ông, mẹ vén áo cho tôi ti sữa. Bầu vú to bự phủ kín mặt, tôi lập tức ngừng khóc. Trưởng trấn Tư Mã Đình tuyên bố:

- Thượng Quan Lã thị, vợ Thượng Quan Phúc Lộc, mẹ đẻ Thượng Quan Thọ Hỉ, vì chồng con dâu tử nạn, nên đứt ruột mà chết! Được rồi, khiêng đi!
Mấy dội viên đội lượm xác vừa giơ móc câu lên thì bà nội từ từ bò dậy như một con rùa già. Nắng dọi trên khuôn mặt phù thũng, xanh như vỏ chanh của bà nội. Bà ngồi dậy tựa lưng vào tường, cười cay độc. Bà ngồi đó, vũng vàng như một quả núi nhỏ.

Tư Mã Đình nói:

- Bà bác ơi, mệnh của bà lớn lắm! Không chết, đừng xóa tên!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:36 AM
Những tùy tùng của Tư Mã Đình, người nào cũng bịt miệng bằng chiếc khăn tẩm rượu để chống lại mùi xác chết. Họ khiêng đến một chiếc cánh cửa trên đỏ còn lưu lại vết tích mờ nhạt của những câu đối, nếu không là Một đêm nối hai năm thì chắc chắn là: Tuyết đầu mùa báo hiệu được mùa. Mỗi người đều mang theo móc câu bằng sắt, họ dùng móc câu lôi xác lên cánh cửa. Bốn kẻ vô công rỗi nghề - giờ đây họ là đội viên Đội lượm xác của cơ quan Trấn, vội vã dùng móc câu móc chân tay Phúc Lộc rồi quẳng lên tấm cửa. Hai người, một trước một sau, khênh ra ngoài cổng. Một cánh tay đã cứng đờ của Phúc Lộc bỏ thõng ngoài mép ván, đung đưa chẳng khác quả lắc của đồng hồ treo tường.

- Kéo bà lão này sang một bên.

Một trong hai người khiêng kêu lên. Hai người khác lại chạy ra. Đó là Tôn Đại Cô, vợ ông thợ đắp lò

- Bà này sao lại chết ở đây?. Người trong ngõ hỏi vậy. Hãy đem bà ta ra xe!
Cảnh tượng ồn ào diễn ra trong ngõ.

Tấm ván cổng đã đặt bên cạnh Thọ Hỉ. Anh ta giữ nguyên tư thế trước khi chết, từ cái lỗ trống hoác chĩa lên trời như kêu gọi trời xanh, phun ra từng đám bọt, y như có một con cua nấp trong đó. Các đội viên do dự, chưa biết giải quyết như thế nào. Một người nói:

- Ôi dào, cứ câu lên đi. Anh ta vừa nói vừa giơ móc câu lên.

Mẹ gào lên:

- Đừng dùng móc câu móc anh ấy!

Mẹ ấn vội tôi vào lòng chị Lai Đệ, vừa kêu gào vừa phủ phục bên xác chồng. Mẹ thử nhặt cái đầu lên, nhưng vừa chạm tay liền rụt lại:

- Thôi nào, bác ơi! Chẳng lẽ bác chắp được đầu vào thân? Bác ra ngoài xe mà xem, có người bị chó xé nát, chỉ còn mỗi một cái chân! Bác giai thế là còn khá.

Vì vướng khăn, nên giọng nói ồm ồm:

- Tránh ra, quay mặt đi, đừng nhìn! Họ lôi mẹ ra một cánh thô bạo, dồn mẹ và các chị vào một chỗ.

Anh ta nhắc:

- Nhắm mắt lại!

Khi mẹ và các chị mở mắt ra, các xác chết trong sân đã được dọn đi.

Chúng tôi đi sau cỗ xe ngựa chất đầy xác chết, trên đường phố đầy bụi. Ba con ngựa rất giống ba con mà buổi sáng hôm ấy chị Lai Đệ đã trông thấy: một con màu hoàng hạnh, một con màu táo hồng, một con màu lam ngọc, ba con ngựa hùng dũng béo tốt là thế, mà nay ủ rũ, xọm hẳn đi. Con hoàng hạnh bị thọt, mỗi bước đi đầu lại gật một cái. Chúng bước đi lặng lẽ, chậm chạp. Lão xà ích tay vịn dóng xe, tay thả lỏng cây roi. Lão có bộ tóc ba chòm, hai bên đen, giữa là một vệt trắng. Lão dẩu mỏ, y hệt một con sẻ rừng. Hai bên đường, những con chó mắt đỏ ngầu, nhìn chăm chằm vào những xác chết trên xe. Đi lẫn trong đám bụi sau xe, là thân nhân của những người bị hại, đi sau cùng là Trưởng trấn Tư Mã Đình cùng Đội danh dự của lão cầm đầu là Ba Câu và Tư Diêu, người vác xẻng, người cầm móc câu. Một người vác cây sào dài, đầu sào có những tua bằng vải đỏ. Tư Mã Đình tay xách thanh la, cứ khoảng mười bước chân lại gõ một tiếng. Và mỗi lần tiếng thanh la dóng lên, các thân nhân lại òa khóc. Họ khóc không tự nhiên, dư âm của thanh la vừa dứt thì tiếng khóc cũng ngừng, hình như không phải vì đau xót, mà là để hoàn thành nhiệm vụ do Trưởng trấn giao cho.

Và cứ như vậy, chúng tôi đi sau xe, khóc dứt quãng từng chặp, qua nhà thờ có gác chuông đổ nát, qua khu vực có cối xay gió mà cách đây năm năm, Tư Mã Đình cùng em trai là Tư Mã Khố lắp đặt thử để xay bột mì. Hơn chục chiếc cối xay gió chỏng chơ chĩa lên trời, cánh quạt kêu kèn kẹt. Chúng tôi bỏ lại sau lưng trụ sở Công ty trồng bông sản lượng cao mà cách đây hơn hai mươi năm một thương gia Nhật tên là Myamoto chủ trì, bỏ lại sân phơi nhà họ Mã cùng với khán đài mà Huyện trưởng Cao Mật Ngưu Đằng Tiêu đã đứng diễn thuyết trong phong trào xóa bỏ tục bó chân. Cuối cùng bỏ lại con đường song song với dòng sông Mực, rẽ vào cánh đồng rộng, bằng phẳng, chạy dài tới vùng đầm lầy. Gió nam ẩm ướt đưa tới mùi cỏ mục. ếch kêu ồm ộp dưới lòng mương và các vũng nước rải rác đây đó. Từng bầy những con gọng vó dầy đặc, làm nước sông thay đổi cả màu sắc. Xe tang vào đến cánh đồng thì tăng tốc độ. Lão xà ích biệt hiệu Sẻ Rừng vung roi thúc ngựa đi nhanh, ngay cả con ngựa đi cà nhắc cũng bị quất một roi. Mặt đường lồi lõm, xe lắc dữ dội, những xác chết trên xe dồn nén, bốc mùi nồng nặc, nước vàng rỉ xuống từ kẽ hở sàn xe. Tiếng khóc đã ngừng hẳn, các thân nhân kéo vạt áo bịt mũi. Tư Mã Đình cùng bọn tùy tùng lách lên vượt trước đoàn xe, khom lưng mà chạy, bỏ lại chúng tôi, bỏ lại mùi hôi thối đến tắt thở lại sau. Mười mấy con chó dại cùng cất tiếng sủa, nhảy như con choi choi trong đám lúa mạch ven đường, nhấp nhô chẳng khác những con hải cẩu lặn hụp trên sóng biển. Ruồi nhặng không chê xác chết. Hôm nay là ngày hội của quạ và diều hâu. Tất cả những con quạ trên vùng Cao Mật rộng lớn đều có mặt, đen kịt bầu trời phía trên xe. Chúng bổ nhào xuống đất, kêu quạ quạ chói tai, tỏ vẻ mừng rỡ. Những con dày dạn, dùng mỏ cứng mổ mắt xác chết, phát ra những tiếng bộp bộp. Sẻ Rừng dùng roi vụt, mỗi lần vụt là chết một con. Vài con ngã xuống đất bị bánh xe nghiền nát. Có khoảng bảy tám con diều hâu bay lượn trên không. Dòng khí lưu phức tạp khiến chúng có lúc sà xuống thấp hơn lũ quạ. Diều hâu cũng thích xác chết. Chúng là loài ăn thịt thối. Nhưng chúng không nhập bọn với lũ quạ mà giữ vẻ cao ngạo vờ vĩnh.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:39 AM
Mặt trời ló ra khỏi tầng mây, cánh đồng tiểu mạch trải đài tít tắp bừng sáng. Gió bắt đầu đổi chiều. Trong quá trình đổi hướng, có một khoảnh khắc lặng gió, sóng lúa đang dồn dập bỗng im lìm như ngủ, hoặc giả như chết. Một tấm thảm màu vàng rộng mênh mông kéo dài đến tận chân trời, phơi dưới nắng. Cơ man nào là râu của những hạt mạch chín, dựng tua tủa như kim, lấp lóa lấp lóa, một biển lấp lóa ngút tầm mắt. Chính lúc đó, cỗ xe rẽ vào con đường chật hẹp của cánh đồng lúa mạch. Xà ích chỉ có thể lội lúa mạch mà di. Hai con ngựa đi đầu không thể song hành, hoặc là con màu hoàng hạnh đi trên đường thì con màu lam ngọc đi trên ruộng, hoặc ngược lại. Hai con ngựa như hai đứa trẻ ngỗ nghịch, lúc thì con nọ huých con kia vào ruộng, lúc thì con kia huých con nọ vào ruộng. Xe đi chậm hẳn lại, lũ quạ càng điên cuồng. Vài chục con ngang nhiên đậu trên xác chết, dựng cánh lên mổ như máy. Lão Sẻ Rừng đuổi không kịp. Lúa mạch năm nay đặc biệt tốt, thân mập, bông nặng trĩu, hạt mẩy. Râu lúa quệt vào bụng ngựa, vào bánh xe cao su, vào thành xe loạt soạt, khiến người ta có cảm giác ngứa ngáy, tiếng quạ kêu cũng không át nổi. Tiếng rì rào của lúa là biển cả. Tiếng kêu của lũ quạ chỉ như một tấm ván trôi trên biển. Trong đám ruộng mạch thi thoảng lại nhô lên cái đầu của lũ chó. Chúng không dám mở to mắt, sợ mù vì râu lúa. Chúng nhờ vào khứu giác mà định hướng cho chuẩn xác.

Sau khi đi vào cánh đồng lúa mạch, đội hình chúng tôi dàn dài ra. Mọi người ngừng kêu gào từ lâu, ngay cả tiếng sụt sịt cũng chấm dứt. Thi thoảng lại có một em nhỏ vấp ngã, người đi bên cạnh bất kể là ai lập tức giơ tay vực dậy. Trong không khí đoàn kết trang nghiêm ấy, trẻ con vấp chảy máu môi cũng không khóc. Cánh đồng mạch êm ả, nhưng trong đó là sự căng thẳng. Đôi khi những con chim cút bị kinh động bởi cỗ xe hoặc lũ chó hoang bay vụt lên, là là một đoạn ngắn rồi lại mất hút trong đám lúa mạch. Rắn mạch tiêu! Mạch tiêu là loại rắn nhỏ, đỏ như lửa, nọc cực độc ở vùng đông bắc Cao Mật. Chúng thường phóng điện trên râu lúa để đùa rỡn. Ngựa trông thấy tia lửa điện trên râu lúa là run lẩy bẩy, gục đầu xuống rãnh ư ử như chó, không dám ngẩng lên. Mặt trời mọi khi khuất một nửa trong mây thì nửa kia ánh nắng cực kỳ gay gắt. Những đám mây khổng lồ vội vã trôi qua trên cánh đồng lúa mạch, những chỗ được nắng vàng rục như lửa. Trong khoảng thời gian để gió đổi chiều, hàng tỉ tỉ cây lúa quấy đảo không khí, lúa đang rì rào, lúa đang thầm thì trao đổi những tin tức đáng sợ.


Thoạt tiên là một làn gió nhẹ từ hướng đông bắc lướt qua cánh đồng. Hình dáng của gió được biểu hiện qua hàng tỉ cây lúa run rẩy. Biển lúa im lìm, xuất hiện một số rãnh nhỏ như khe suối. Làn gió tiếp theo mạnh hơn, chia cắt biển lúa ra từng vệt. Túm vải do trên đầu sào bay phần phật, réo vù vù. Chân trời mạn đông bắc xuất hiện một con kim sà khổng lồ, đỏ như pha máu, tiếng sấm nặng nề vọng tới. Lại một khoảnh khắc yên lặng, những con diều hâu đang bay lượn bỗng sà xuống thấp, rồi mất hút trong đám lúa mạch. Lũ quạ thì bung ra như một quả trái phá, hốt hoảng tìm chỗ cao ẩn nấp, vừa bay vừa kêu. Rồi cơn bão ập tới, sóng lúa quằn quại, từ bắc dồn sang tây, từ tây dồn xuống nam. Sóng dài, sóng ngắn, xô đẩy nhau, dồn ép nhau xoắn lại thành xoáy lúa màu vàng. Biển lúa đang sôi sục. Đàn quạ tan biến. Những hạt mưa lớn, đơn độc, rơi lộp bộp, xen vào đó là những cục đá to bằng hạt hạnh đào. Thoắt cái, trời lạnh thấu xương. Những cục đá rơi rải rác trên những bông lúa mạch, trên mông và tai ngựa, trên bụng người chết và đầu người sống. Vài con quạ bị đá rơi trúng đầu, chết ngay trước mặt chúng tôi.

Mẹ ôm chặt tôi vào lòng, che đầu tôi - cái đầu mong manh dễ vỡ, dưới cặp vú đồ sộ và ấm áp của bà. Mẹ thường đặt chị Tám - người mà từ khi sinh ra đã bị coi là người thừa - trên giường, làm bạn với bà nội nửa ngây nửa dại. Bà nội tự bò vào được chái tây bốc phân lừa để ăn. Các chị tôi cũng học theo người ta, cởi áo quấn lên đầu. Cặp vú rắn chắc, to bằng quả táo của chị Lai Đệ, đã phô vẻ đẹp bằng cách hằn qua ngực áo. Chị không cởi áo như những người khác. Chị hai tay ôm đầu, người ướt đẫm nước mưa, gió dán chặt áo vào người chị.

Lội bộ rất vất vả, cuối cùng chúng tôi cũng tới nghĩa trang. Đây là một khuôn viên mười mẫu đất, xung quanh là ruộng lúa. Trong nghĩa trang có mấy chục ngôi mộ lút trong cỏ dại, những tấm mộ chí bằng gỗ đều mục nát. Tạnh mưa, những đám mây rách bươm vội vã trôi. Qua kẽ mây, da trời xanh ngắt, nắng bỏng rát. Những cục đá chưa tan bốc hơi trong chớp mắt. Những cây lúa bị thương, có cây ngỏng dậy được, có cây nằm xuống vĩnh viễn. Gió lạnh chuyển nhanh sang gió nóng, thay đổi từng phút một.

Chúng tôi tụ tập ở rìa nghĩa trang nhìn Trưởng trấn Tư Mã Đình đi đi lại lại trong đó. Cào cào bay loạn xạ dưới chân lão, bên trong đôi cánh cứng là cặp cánh lụa màu hồng, chẳng khác năm mươi năm sau, bên trong váy của người đẹp là chiếc xi-líp màu hồng. Tư Mã Đình dừng lại bên khóm cúc vàng đầy những bông cúc nhỏ, chân dẫm dẫm mặt đất, nói to:

- Chỗ này, đào chỗ này! Bảy người đàn ông đen nhẻm, uể oải đi tới chỗ đã định, chống xẻng nhìn nhau, nhìn kỹ như để nhớ mặt nhau. Rồi, ánh mắt chuyển sang Tư Mã Đình.

- Các người nhìn gì ta? Tư Mã Đình gầm lên - Đào đi!

Lão quẳng thanh la và dùi ra phía sau. Thanh la rơi xuống đám cỏ mao, một con dế hốt hoảng bỏ chạy. Chiếc dùi rơi vào đám lá cây đuôi chó. Tư Mã Đình giằng lấy một chiếc xẻng, cắm lưỡi xuống đất, đặt chân lên vai xẻng rồi dấn xuống. Lão khó nhọc bẩy tảng đất dầy đặc những rễ cỏ lên, rồi hai tay cầm chắc cán xẻng, trước tiên lão xoay trái 90 độ, sau đó xoay mạnh sang phải 180 độ, tảng đất bay đi rơi bụp xuống bụi bồ công anh như một con gà chết.
Lão trả lại chiếc xẻng cho người kia, vừa thở vừa nói:

- Đào mau lên! Các người có ngửi thấy mùi gì không?

Những người mặt đen cố sức đào, từng tảng đất bay đi dưới đất đã hình thành một cái hố ngày càng sâu.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 10:41 AM
Đã giữa trưa, không khí nóng bỏng. Giữa khoảng trời và đất là một màu sáng trắng, không ai dám ngước nhìn mặt trời. Mùi trên xe càng nồng nặc, dù chúng tôi đã đứng ở đầu gió, nhưng mùi hôi thối vẫn quẩn ngược lại, xáo trộn gan ruột mọi người, chỉ muốn nôn ọe. Lũ quạ lại kéo đến. Chúng như vừa tắm xong, bộ lông sạch tinh, màu xanh đen bóng loáng. Tư Mã Đình nhặt thanh la và cái dùi lên, chạy đến bên cỗ xe, bất chấp mùi hôi thối.

- Bọn súc sinh, xem chúng mày có dám sà xuống không? Ông đập cho nát bét bây giờ! Lão gõ thanh la, nhảy như choi choi, ngẩng lên trời mà chửi. Đàn quạ lượn vòng trên không ở độ cao mười mấy mét phía trên cỗ xe, kêu ầm ĩ, đồng thời vãi cút xuống. Lão Sẻ Rừng vớ lấy chiếc sào có những tua vải đỏ, khua lên trời đuổi đám quạ. Ba con ngựa khép chặt lỗ mũi, cái đầu vốn đã vụng về, vì cúi thấp, càng tỏ ra nặng nề hơn. Đàn quạ từng tốp lao xuống, kêu chói tai. Vài chục con bay quanh đầu Tư Mã Đình và lão Sẻ Rừng, mắt tròn xoe, cánh khỏe và rắn chắc, những cặp vuốt xấu xí bẩn thỉu, ấn tượng về chúng thật khó quên. Hai người dùng tay chiến đấu với lũ quạ. Những cái mỏ cứng mổ lên đầu họ. Họ bèn đánh quạ bằng thanh la, bằng dùi gõ, bằng cây sào có túm vai đỏ.

Những con quạ bị thương rơi xuống bãi cỏ xanh mượt điểm những bông hoa nhỏ màu trắng, cánh xõa ra, loạng choạng trốn vào đám lúa mạch. Nấp trong ruộng mạch là những con chó dại lao đến như tên bắn, xé tan xác con quạ bị thương. Chi trong chóp mắt, trên đám cỏ chỉ còn lại những cái lông quạ. Lũ chó phục trong ruộng lúa và ven rìa nghĩa trang, thè lưỡi đỏ như máu, thở hồng hộc. Lũ quạ chia lực lượng ra làm hai, một số quấy nhiễu Tư Mã Đình và lão Chim Sẻ Rừng, còn số lớn thì tề tựu trên xe kêu quạ quạ, rất sung sướng, rất đáng ghét, cổ như lò xo mỏ như mũi khoan thọc sâu vào các xác chết, ngon tuyệt, bữa tiệc của ma quỉ! Tư Mã Đình và lão Sẻ Rừng mệt đến nỗi nằm thẳng cẳng dưới đất, trên mặt bám một lớp bụi dầy, mồ hôi chảy thành rãnh trên đó, khiến khuôn mặt cực kỳ nhem nhuốc.

Cái hố đã sâu ngập đầu. Chúng tôi chỉ còn trông thấy những chỏm tóc khi ẩn khi hiện và từng xẻng đất nhão màu trắng bay lên. Chúng tôi còn ngửi thấy mùi dìu dịu của đất mới.

Một người đàn ông trèo lên miệng hố đến bên Tư Mã Đình, nói:

- Thưa ông, đã đào tới nước rồi!
Tư Mã Đình hé mắt nhìn anh ta, chậm rãi giơ một cánh tay lên. Anh ta lại nói:

- Ông Trưởng trấn, ông xem, sâu như vậy đủ rồi!

Tư Mã Đình cong ngón tay tróc mặt, anh ta tỏ vẻ không hiểu.

- Đồ khốn! - Tư Mã Đình nói Dựng tao dậy

Anh ta vội cúi xuống kéo Tư Mã Đình ngồi dậy. Lão rên rỉ quài tay đấm lưng. Người kia dìu lão trèo lên ụ đất mới đào.

- Cha mẹ ơi! - Tư Mã Đình kêu lên. - Bọn bay lên hết cả đi, đào nữa thì đến suối vàng mất!

Những người dưới hố tranh nhau leo lên bờ. Vừa lên khỏi mặt đất đã tối tăm mặt mũi vì mùi hôi thối. Tư Mã Đình đá lão xà ích một cái, gọi:

- Dậy đi, vòng xe lại!

Lão xà ích nằm bất động. Tư Mã Đình quát to:

- Ba Câu, Tư Diêu đâu, quẳng thăng cha này xuống hố trước!

Ba Câu đứng lẫn trong đám phu huyệt, dạ lên một tiếng.

- Tư Diêu đâu? Tư Mã Đình hỏi.

- Chuồn rồi! - Ba Câu tức tối chửi.

- Về nhà đập vỡ bát cơm của nó đi!

Tư Mã Đình vừa nói vừa đá lão xà ích một cái nữa, hỏi:

- Chết thật hả?

Lão xà ích ngồi dậy, nét mặt thiểu não nhìn ra cỗ xe ngựa đỗ bên rìa nghĩa trang, trên xe dầy đặc những quạ bay loạn xạ, kêu ầm ĩ. Ba con ngựa phủ phục trên mặt đất giấu mõm trong bụi cỏ, những con quạ đậu đầy lưng. Trên bãi cỏ quanh xe, lũ quạ đang vươn cổ mà nuốt. Hai con quạ đang tranh nhau một khúc ruột, chúng như chơi trò kéo co, con này lui thì buộc con kia phải tiến hoặc ngược lại, có lúc cả hai cùng sững lại trong thế cân bằng. Chúng nhảy tâng tâng trên cỏ, cánh xõa, cổ vươn dài, lông ở cổ xù lên để lộ sắc da mai mái, hai cái cổ như lúc nào cũng có thể bứt ra khỏi thân. Một con chó xộc tới cướp lấy khúc ruột chạy đi, lôi theo hai con quạ lăn lông lốc.

- Thưa ông Trưởng trấn, xin ông mở lòng nhân đức mà tha cho tôi! - Lão xà ích quì xuống lạy Tư Mã Đình.

Tư Mã Đình cầm cục đất ném lũ quạ. Chúng không thèm để ý. Lão đến trước mặt thân nhân những người bị hại, nhìn họ bằng còn mắt thương cảm, nói lí nhí:

- Thế này nhé, các vị nên đi về!



Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 07:56 PM
Các thân nhân sững sờ. Mẹ là người đầu tiên quì xuống, mọi người hùa theo, tiếng khóc dậy đất. Mẹ nói:

- Thưa ông Tư Mã, phải cho họ mồ yên mả đẹp, ông ạ!

Mọi người nhao nhao:

- Xin ông cho yên nghỉ trong lòng đất! ối mẹ ơi. ối cha ơi! ới con ơi là con...

Tư Mã Đình đầu cúi gằm, mồ hôi chảy ròng ròng trên cổ. Lão khoát tay về phía chúng tôi tỏ vẻ bất lực rồi quay lại đám tùy tùng của lão, hạ giọng nói:

- Này các cậu này anh em! Các anh em cáo mượn oai hùm, theo Tư Mã Đình này bắt gà trộm chó, càn quấy đánh lộn, ăn hiếp bà góa, đào mả phơi thây, nghĩa là bao nhiêu chuyện thương luân bại lý! Nuôi quân nghìn ngày, dùng binh một buổi, hôm nay dù có bị quạ mổ lòi mắt, vỡ đầu sứt trán thì Tư Mã Đình cũng quyết đảm đương lấy chuyện này. Chẳng gì cũng là người đứng đầu một thị trấn, tôi xin xung phong! Kẻ nào lười nhác trốn tránh công việc tôi ỉa vào mười tám đời tổ tông nhà hắn! Xong việc, tôi khao các vị một bữa rượu! Dậy mau! - Lão xách tai xà ích lôi dậy - Quay xe đi! Anh em ơi thu vén cho xong, nào!

Lúc này có ba đứa trẻ rẽ lúa trườn đến. Tới gần, mới rõ đó là ba thằng câm của nhà Tôn Đại Cô. Chúng đểu cởi trần, quần cộc cùng màu. Trong tay đứa lớn nhất là thanh dao dài bằng thép dẻo, khi vung lên phát ra tiếng vù vù. Đứa thứ hai thấp hơn, cầm thanh yêu đao, đứa nhỏ nhất vác trên vai một thanh phác đao có cán dài. Chúng trợn mắt, miệng kêu a...a!... Tay làm hiệu tỏ ra vô cùng đau xót. Tư Mã Đình chợt hiểu, vỗ vai từng đứa, bảo:

- Các cháu ơi, bà nội và anh em cháu đều ở trên xe, bác phải chôn cất cho họ. Lũ quạ ác độc, khinh người. Các cháu ơi, bác đã đánh nhau với chúng. Các cháu rõ chưa nào?...

Tư Diêu từ một nơi nào đó chui ra, nói chuyện với lũ trẻ câm bằng những động tác. Nước mắt ứa ra, lửa giận bùng lên, bọn trẻ múa đao xông vào lũ quạ

- Quân láu cá! Tư Mã Đình túm vai Tư Diêu mà lắc -Nãy giờ mày trốn ở đâu?

- Oan cho tôi, thưa ông - Tư Diêu nói - Tôi đi gọi ba anh em chúng nó.

Ba anh em thằng câm leo lên xe. Những thanh đao múa lượn, những mảnh thịt quạ rơi lả tả.

- Đến cả đi! Tư Mã Đình gọi to. Mọi người ùa tới chiến dấu với lũ quạ. Tiếng khóc, tiếng va chạm của gươm đao, tiếng vỗ cánh của những con quạ quyện vào nhau. Mùi tử khí, mùi mồ hôi, mùi máu, mùi bùn, mùi lúa mạch, mùi hoa dại trộn làm một.

Những mảnh thi thể chất đống dưới hố. Mục sư Malôa đứng trên ụ đất mới đào, đọc lời cầu nguyện: Lạy Chúa, hãy cứu vớt những linh hồn đau khổ! Nước mắt ứa ra từ cặp mắt xanh của ông, chảy trên khuôn mặt còn hằn những vết roi thâm tím, rỏ xuống chiếc áo chùng đen rách bươm, rớt xuống cây thánh giá nặng chịch đeo trước ngực.

Trưởng trấn Tư Mã Đình kéo ông mục sư xuống, nói:

- Ông ra kia nghỉ một lát! Ông cũng từ chỗ một chết một sống mà về đấy thôi!

Đám phu huyệt bắt đầu lấp đất. Ông mục sư chệnh choạng đi tới chỗ chúng tôi. Mặt trời đã ngả về tây, bóng ông trải dài trên mặt đất. Mẹ nhìn ông, trái tim mẹ ẩn sau cặp vú đập rộn lên.

Khi ánh nắng mặt trời chuyển sang màu đỏ, thì một nấm mồ lớn đã đắp xong. Theo sự hướng dẫn của Trưởng trấn Tư Mã Đình, thân nhân của những người tử nạn quì lạy trước mồ và khóc vài tiếng cho đúng bổn phận. Mẹ đề nghị họ vái tạ Tư Mã Đình và nhóm phu huyệt để tỏ lòng cảm ơn. Tư Mã Đình gạt đi:

- Thôi, thôi, miễn!

Nhóm phu huyệt ra về trong ráng chiều đỏ rực. Mẹ và các chị rớt lại sau. Mục sư Malôa thân hình cao lớn, ra về sau cùng. Đoàn người đứt quãng, kéo dài đến hơn một dặm, bóng đổ dài trên cánh đồng lúa mạch. Trong sự tĩnh lặng mênh mông của hoàng hôn, vang lên tiếng bước chân, tiếng gió xào xạc trên ngọn lúa, tiếng khóc khan của tôi, tiếng kêu ai oán của con cú vọ sau một ngày ngủ vùi trên cây đâu thân to bằng đầu người, ở chính giữa khu nghĩa trang. Tiếng kêu của con cú làm mọi người bủn rủn. Mẹ dừng bước, quay lại nhìn nấm mồ, nhìn bó huống đang cháy nghi ngút.

Mục sư Malôa cúi xuống bế chị Cầu Đệ, than thở:

- Khổ thân các con!

Ông vừa nói xong, bản dạ khúc của ngàn vạn côn trùng từ bốn phương tám hướng đã ùa tới.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 07:59 PM


2.


Cái hôm tôi và chị Tám vừa tròn trăm ngày đúng vào tết Trung thu. Buổi sáng, mẹ bế tôi và chị Tám đến chỗ mục sư Malôa. Cổng lớn mặt tiền - mặt quay ra đồng, đóng chặt. Cánh cổng viết đầy những câu tục tĩu phỉ báng thần linh. Chúng tôi men theo một lối nhỏ vòng qua sân trước của nhà thờ, khẽ gõ cổng xép nhìn ra cánh đồng. Một con dê gầy nhom buộc bên cổng. Mặt nó rất dài, không thể nhận ra đó là mặt dê, mà phải là mặt con lừa, mặt con lạc đà, mặt bà già! Nó ngẩng đầu lên, đưa cặp mắt u tối nhìn mẹ từ đầu đến chân. Mẹ dùng ngón chân cái dá nhẹ vào cằm dưới của con dê. Nó kêu lên một tràng dài rồi lại cúi xuống ăn cỏ. Trong sân có tiếng động rồi tiếng đặng hắng của ông mục sư. Mẹ dập dập chiếc vòng sắt trên cánh cổng. Trong sân, mục sư cất tiếng hỏi ai? Mẹ trả lời khẽ Tôi đây.

Cánh cửa kẹt lên một tiếng, hé mở. Mẹ bế tôi nghiêng mình lách vào. Mục sư đóng cổng lại, quay sang ôm chầm lấy mẹ con tôi, nói bằng tiếng địa phương chính cống: Cục cưng của tôi đây!

Lúc này, đội quân dùng toàn súng bắn chim mới thành lập do Sa Nguyệt Lượng chỉ huy, đang men theo còn đường mà chúng tôi đã đi hôm chôn cất người chết, để về thôn. Hai bên đường, một bên là cao lương vụ thu gieo trồng trên đất lúa mạch dại trà, một bên là đồng cói kéo dài từ ven sông Mục. Một mùa hè nắng chói chang và mưa dịu ngọt, khiến cây cối hoa màu phát triển như điên. Cao lương thu lá mập, thân to khỏe, tốt bằng đầu người mà vẫn chưa trổ bông. Cói xanh rờn, mặt lá đầy lông tơ. Tuy là giữa thu, nhưng không hề ngửi thấy mùi vị mùa thu trong gió, nhưng bầu trời thì cao vòi vọi và trong vắt, nắng vàng đúng là nắng của mùa thu. Trong không khí có vị tươi mát của cây xanh, vị ngọt của lá lục Đó là mùi vị của cói non và cây cao lương đang thì con gái. Đội ngũ của Sa Nguyệt Lượng có 28 người, đi thành hàng dọc. Tất cả đều cưỡi lừa đen, đặc sản của vùng Khưu Lăng phía nam huyện Ngũ Liên. Chúng to lớn, chân rắn chắc, chạy không nhanh bằng ngựa nhưng sức bền thì tuyệt, có thể chạy đường dài. Sa Nguyệt Lượng chọn lấy 28 con chưa thiến trong số hơn 400 con. Chúng có tiếng rống ồm ồm, sức trẻ bột phát, là chỗ dựa về sức tải của đội. Hai mươi tám con lừa nối đuôi nhau như một dòng chảy. Một làn sương màu sữa trùm lên mặt đường, thân lừa phản quang ánh nắng mặt trời. Khi trông thấy tháp chuông đổ nát của nhà thờ và tháp canh, Sa Nguyệt Lượng đi đầu hàng quân, ghìm cương cho lừa dừng lại. Những con đi sau dồn cả lên. Anh ta ngoái nhìn nét mặt mệt mỏi của các đội viên, hạ lệnh dừng lại nghỉ, tiếp theo là lệnh đi rửa mặt mũi chân tay và tắm cho lừa. Khuôn mặt xương xương, nét mặt nghiêm nghị, Sa Nguyệt Lượng khiển trách nghiêm khắc những đội viên không chịu đi tắm rửa. Anh ta nâng vấn đề tắm rửa cho người và cho lừa lên một tầm cao, nói rằng, các đội du kích chống Nhật mọc lên như nấm, vì vậy Đội súng chim phải áp đảo các đội khác bằng phong cách độc đáo của mình. Điểm đóng quân cuối cùng là địa bàn Cao Mật. Các đội viên đọc đả thông, tất cả đều cởi trần, áo vắt trên lùm cói, tìm chỗ nước nông rửa mặt rửa người. Tất cả đầu cạo trọc, da đầu trắng xanh. Sa Nguyệt Lượng lấy trong xắc cốt một bánh xà phòng, cắt thành nhiều miếng nhỏ chia cho các đội viên. Tắm kỹ vào! Tắm thật sạch! Bản thân Sa Nguyệt Lượng cũng lội xuống nước, cởi trần, vai có một nốt ruồi to tướng, anh ta kỳ sạch ghét trên người, trên cổ. Trong khi người tắm thì những con lừa khoan khoái bút lá cao lương để ăn và gặm mông nhau. Có con đứng lặng như đang trầm tư mặt tưởng, cây gậy thò ra khỏi bìu, chốc chốc lại quật đánh bịch lên bụng. Trong khi những con lừa đi tìm lạc thú cho riêng mình, thì mẹ tôi vùng ra khỏi vòng tay ông mục sư, trách yêu:

- Đồ con lừa! Chết bẹp thằng bé bây giờ!

Mục sư Malôa mỉm cười tỏ vẻ biết lỗi, phô hàm răng trắng lóa. Ông chìa cánh tay vạm vỡ về phía chúng tôi, ngừng một thoáng rồi chìa nốt tay kia. Tôi mút ngón tay chùn chụt. Chị Tám lặng im như phỗng, không khóc cũng không cựa quậy. Chị bị mù bẩm sinh. Mẹ bế tôi bằng một tay, bảo:

- Con nó cười với anh đây này! Rồi tôi nằm gọn trong cánh tay hộ pháp của ông mục sư. Ông cúi sát mặt tôi. Tôi trông thấy tóc đỏ trên đỉnh đầu, râu vàng dưới cằm, mũi khoằm như mũi chim ung và cặp mắt xanh biếc sáng ngời của ông. Chợt lưng tôi đau nhói. Tôi nhả ngón tay ra, khóc ầm lên, nước mắt ràn rụa. Cặp môi ẩm ướt của ông chạm nhẹ trên má tôi. Tôi cảm nhận đượm môi ông đang run rẩy, ngủi thấy mùi hăng hắc ở miệng ông.

Ông trả tôi cho mẹ, ngượng nghịu: Tôi làm nó sợ phải không? Chắc là tôi làm nó sợ! Mẹ trao chị Tám cho ông, đón lấy tôi vỗ nhẹ, đung đưa rồi nựng:

- Nín đi con, ông ấy là ai con biết không? Đừng sợ, ông là người tốt, là cha thân yêu của con!

Lưng vẫn đau buốt, tôi khóc khản cả tiếng. Mẹ vén vạt áo, nhét vú vào miệng tôi. Tôi như chết đuối với được cọc, ngoạm chặt đầu vú ra sức mút. Dòng sữa có mùi thơm của cỏ non chảy vào họng tôi. Lưng vẫn nhức buốt nên tôi lại nhả vú ra, tiếp tục gào khóc. Malôa vặn vẹo hai bàn tay, áy náy không yên. Ông chạy tới chân tường nhổ một cọng cỏ gà rồi ve vẩy trước mặt tôi: Chẳng ăn thua, tôi vẫn khóc dữ. Ông lại chạy tới góc sân ngắt bông hoa hướng dương to bằng mặt trăng viển bởi những cánh màu vàng, huơ lên trước mặt tôi. Lần này thì tôi thích. Trong lúc ông mục sư tất bật chạy tới chạy lui, chị Tám vẫn ngủ yên trong tay ông. Mẹ nói:

- Cưng, cha hái mặt trăng cho con đây này!

Tôi giơ tay ra, sau lưng lại đau buốt.

- Thằng bé làm sao thế nhỉ?

Môi mẹ nhợt nhạt, mặt đầy mồ hôi. Malôa nói:

- Xem có gì chọc vào người nó không?

Malôa giúp mẹ cơi bộ quần áo màu đỏ may cho tôi nhân dịp tôi được một trăm ngày tuổi, phát hiện một chiếc kim cài ở lưng áo, lưng tôi có vết kim đâm, máu vẫn đang rỉ ra. Mẹ vút cái kim đi, vừa khóc vừa nói:

- Khổ thân con tôi? Tôi dáng đánh đòn! Nói rồi, mẹ tự vả vào mặt mình hai cái thật đau. Malôa giữ tay mẹ lại, rồi từ phía sau ôm chặt cả hai mẹ con. Cặp môi mọng của ông thơm lên má lên tóc mẹ, nói nhỏ:

- Không ai trách em, mà nên trách tôi...

Được ông an ủi, mẹ bình tĩnh lại, ngồi xuống ngưỡng cửa phòng ông, nhét vú vào miệng tôi.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:00 PM
Một dòng sữa ngọt làm dịu cổ họng, vết kim châm trên lưng không còn đau nữa. Tôi ngậm một bên vú, tay chụp bầu vú bên kia, lại co một chân lên đạp lung tung để bảo vệ nó. Mẹ cầm chân tôi dằn xuống, nhưng bà vừa bỏ tay ra là tôi lại co chân lên. Mẹ tỏ vẻ nghi ngờ:

- Lúc mặc quần áo cho nó, em đã xem rất kỹ, làm sao lại có kim ở đó? Chắc chắn đây là trò của mụ già. Mụ rất căm hai mẹ con em!

- Mụ có biết chuyện giữa chúng ta không?

Mẹ nói:

- Em đã nói hết với mụ. Chính mụ đã ép em phải nói. Em chịu đựng đủ điều sỉ nhục! Mụ ấy bất nhân lắm!

Mục sư trả chị Tám cho mẹ:

- Cho nó bú mấy! Đều là quà tặng của Thượng đế, em không nên thiên vị quá!
Mẹ đỏ mặt, đón lấy chị Tám, định nhét vú vào miệng chị liền bị tôi đạp một cái vào bụng, chị khóc.

Mẹ nói:

- Hay chửa kìa, cái thằng lỏi, đúng là đồ bá đạo. Anh pha ít sữa dê cho nó vậy!

Ông mục sư cho chị Tám uống no sữa dê rồi đặt chị lên giường. Chị Tám không khóc, không cựa quậy, hiền quá.

Ông mục sư nhìn mớ tóc vàng mềm mại trên đầu tôi, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc. Mẹ hiểu, ngẩng lên hỏi:

- Nhìn gì vậy? Không nhận ra mẹ con em hay sao?

- Không nhận ra. Ông mục sư lắc đầu, mặt nghệch ra - Thằng nhỏ này, ăn tham như chó sói vậy!

Mẹ lườm ông mục sư một cái, nũng nịu:

- Nó giống ai nào?

Ông mục sư càng ngẩn người ra:

- Chẳng lẽ giống tôi? Tôi hồi nhỏ như thế nào cũng chẳng nhớ!

Ông có cái nhìn đắm đuối như mắt thỏ, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa xảy ra cách đây hàng vạn dặm, hai giọt nước mắt ứa ra.

- Anh sao thế - Mẹ ngạc nhiên, hỏi.

Ông cười gượng, giơ ngón tay mập mạp chùi nước mắt.

- Không sao! - Ông nói- Tôi đến Trung Quốc... bao nhiêu năm rồi nhỉ?

Mẹ nói giọng không vui:

- Em lớn lên thì đã thấy anh ở dây. Anh là dân bản địa cũng như em.

Ông nói:

- Không phải, tôi có quốc tịch của tôi, tôi là sứ giả của Thượng đế, tôi còn giữ những giấy tờ có liên quan đến công việc truyền giáo của tôi. Tôi đại diện cho giáo phái Thiên Chúa giáo Thụy Điển!

Mẹ cười:

- Anh Ma này, cô em bảo anh là ông Tây giả, những cái gọi là giấy tờ của anh đều do tay thợ vẽ ở huyện Bình Độ làm hộ.

- Nói bậy.

Ông nhảy dựng lên như chịu không nổi sự sỉ nhục quá lớn, chửi:

- Đ. mẹ thằng Vu Hộ pháp!

Mẹ tỏ ý không vui:

- Anh đừng chửi ông ấy, ông ấy là chú dượng em, có ơn lớn đối với em
Malôa nói:

- Nếu lão không phải là chồng dì em thì tôi đã vặt đứt con c. của lão.
Mẹ cười bảo:

- Một quả đấm của dượng ấy chết tươi một con lừa?

Malôa buồn rầu nói:

- Ngay cả em cũng không tin tôi là người Thụy Điển thì còn mong ai tin?

Ông ngồi xổm, lấy ống điếu và bao đựng thuốc lá ra tọng đầy nõ rồi lặng lẽ hút thuốc. Mẹ thở dài:

- Kìa anh, em tin anh là ông Tây chính cống, được chưa? Anh bực với ai vậy? Người Trung Quốc không ai giống anh, mình đầy lông lá.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:02 PM
Trên mặt Malôa nở một nụ cười như trẻ thơ:

- Rồi cũng có ngày tôi về nước! - Ông nói, vẻ trầm ngâm - Có điều, nếu cho tôi về thật thì tôi cũng không về, trừ phi em đi cùng tôi!

Ông nhìn mẹ. Mẹ nói:

- Anh không đi, em cũng không thể đi, đành yên tâm mà ở đây thôi! Hơn nữa, anh chẳng đã từng nói rằng, chỉ cần là người thì dù là tóc vàng, tóc đỏ hay tóc đen đều là con chiên của Chúa. Có cỏ là có thể giữ được dê. Vùng Cao Mật cỏ nhiều như thế, chẳng lẽ không giữ được anh ở lại?

- Em là cỏ Linh Chi nên tôi mới ở lại, tôi còn đi đâu nữa? Malôa vô cùng xúc động nói.

Mẹ chợt kêu to:

- Đuổi nó đi!

Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:

- Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:

- Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:

- Đuổi con la đi!

Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:

- Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?

Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa **c của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to **ng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh ta. Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:

- Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa-đen của ta oai phong đến mức nào!

Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy nhanh như gió. Ngựa chiếm quán quân về chạy, lừa rất gương mẫu khi hành quân. Người cưỡi ngựa oai phong lẫm hệt, kẻ cưỡi lừa thư thái ung dung. Chỉ một thoáng, họ đã xuất hiện trên đường phố Đại Lan. Lúc này không phải đường phố giữa mùa gặt hái. Giữa mùa gặt, đường phố đầy bụi, chỉ cần một con ngựa chạy qua, bụi che khuất con đường, quang cảnh đúng như chị Lai Đệ từng trông thấy hôm mồng năm tháng năm. Đường phố hiện nay vừa qua một mùa hè mưa rào lèn chặt, mặt đường nhẵn nhụi, chỉ lưu lại một ít vết chân của đoàn lừa. Tất nhiên những tiếng gõ móng thì có. Những con lừa của Sa Nguyệt Lượng biết gõ móng xuống đất như ngựa. Đây là một phát minh của anh ta, giống như hai mươi năm sau, con cháu của Ba Cẩu là Cẩu Giải phóng đóng móng sắt cho bò. Trước tiên, tiếng vó ròn tan thu hút lũ trẻ, sau đó là Tư Diêu, người trông coi tài sản công sở của thị trấn. Anh ta mặc chiếc áo dài đã lỗi thời, chiếc bút chi có sọc vẫn giắt trên vành tai, từ trong nhà chạy ra cản đầu lừa của Sa Nguyệt Lượng, vái chào nhăn nhở:

- Đề nghị ông chỉ huy cho biết đơn vị ông là đơn vị nào? Lưu lại ở đây hay chỉ là qua đường? Ông có điều gì sai bảo tiểu nhân?

Sa Nguyệt Lượng từ trên mình lừa nhảy xuống đất, nói:

- Chúng tôi là Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen, đơn vị biệt kích của Tổng đội kháng Nhật, nhận lệnh cấp trên về đóng quân lâu dài ở trấn này để tổ chúc chống Nhật. Anh thu xếp chỗ ở cho chúng tôi, cái ăn cho lừa, tiếp tế cơm nước cho đội. Thức ăn không cần sang, chỉ trứng gà bánh tráng là được! Những con lừa là chỗ dựa chống Nhật, phải cho chúng ăn uống cho tốt, cỏ khô phải băm nhỏ sàng kỹ, trộn với đậu và cám, nước giếng phải là giếng mới đào, tuyệt đối không được lấy nước **c ở sông Thuồng Luồng cho lừa uống.

- Thưa ông chi huy, những việc lớn như vậy tôi không dám quyết, phải xin ý kiến ông Trưởng trấn, à mà không, ông ấy vừa được quân đội Thiên hoàng bổ nhiệm làm Trưởng An ninh thị trấn.

- Mẹ kiếp! - Sa Nguyệt Lượng sa sầm nét mặt, chửi:

- Làm việc cho Nhật là Hán gian, là chó săn!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:04 PM
Tư Diêu nói:

- Thưa ông chỉ huy, ông Trưởng trấn chúng tôi đâu có thích làm Trưởng An ninh. Nhà ông ruộng tốt hàng trăm khoảnh, lừa ngựa từng đàn, không lo thiếu ăn thiếu mặc, chẳng qua bị ép mà phải làm. Với lại dù sao thì cũng phải có người làm chức ấy, để người khác đảm nhiệm thì chẳng thà để ông Cả nhà chúng tôi làm còn hơn!

- Dẫn tôi đi gặp ông ta! - Sa Nguyệt Lượng nói.

Đội du kích nghỉ lại trước cửa trụ sở. Tư Diêu dẫn Sa Nguyệt Lượng vào nhà Phúc Sinh Đường qua cổng chính. Khuôn viên Phúc Sinh Đường có bảy dãy nhà, mỗi dãy mười lăm gian, sân nọ thông sân kia, cửa sau liền cửa trước, tầng tầng lớp lớp chẳng khác mê cung. Sa Nguyệt Lượng trông thấy Tư Mã Đình giữa lúc lão đang cãi nhau với em trai là Tư Mã Khố, lúc này đang điều trị vết bỏng ở mông. Vết thương làm mủ, rất lâu không lành miệng, Tư Mã Khố chỉ còn mỗi cách là nằm sấp trên giường, chổng mông lên. Tư Mã Khố phóng tay xuống giường ngẩng đầu lên, mắt nẩy lửa:

- Anh đúng là đồ ngu! Ngu khổ ngu sở! Trưởng An ninh là cái chức làm chó săn cho Nhật, làm đầy tớ cho du kích, trở đi mắc núi trở lại mắc sông chứ báu gì! Người khác không làm, sao anh lại nhận?

- Nói như cứt ấy! - Tư Mã Đình thấy mình bị mắng oan thì tủi thân, nói:

- Đồ đốn mạt mới thích cái chúc này! Bọn Nhật chĩa lưỡi lê vào bụng tôi qua ông thông ngôn Mã Kim Long, bảo tôi rằng: Em trai mày là Tư Mã Khố câu kết với tên thổ phỉ Sa Nguyệt Lượng phóng hỏa đốt cầu phục kích quân đội Thiên Hoàng. Lẽ ra phải đốt trụi cái Phúc Sinh Động này, chỉ vì thấy mày là con người thật thà nên bỏ quá cho! Tôi nhận cái chức Trưởng An ninh này một nửa là vì chú.

Tư Mã Khố đuối lý, quay ra chửi vết thương:

- Cái mông đít chết tiệt, bao giờ mới lành đây?

- Đừng sốt ruột! - Tư Mã Đình nói.

Lão quay ra thì trông thấy Sa Nguyệt Lượng đang mỉm cười với lão. Tư Diêu định giới thiệu thì Sa Nguyệt Lượng đã lên tiếng trước:

- Thưa ông Trưởng ban, tôi chính là Sa Nguyệt Lượng!

Tư Mã Đình chưa kịp phản ứng thì Tư Mã Khố đã quay mặt ra:

- Mẹ kiếp, Sa Nguyệt Lượng biệt hiệu Sa Hòa thượng đấy phải không?

- Bỉ nhân hiện giữ chức Đội trưởng Đội du kích Hỏa-mai-lừa-đen! - Sa Nguyệt Lượng nói - Cảm ơn ông Hai châm lửa dốt cầu, phối hợp với nhau như vậy là tuyệt!

- Mẹ kiếp, vẫn còn sống hả? Các anh đánh đấm như con ***!

- Đánh phục kích đấy chức - Sa Nguyệt Lượng nói.

- Phục kích với chả mục kích! Bị chúng nện cho tan tác. Ta mà không đốt cầu thì...

- Tôi có bài thuốc chữa bỏng rất hay, lát nữa sai người mang đến cho ông Hai - Sa Nguyệt Lượng cười tít mắt.

Tư Mã Đình bảo Tư Diêu:

- Mở tiệc chiêu đãi Sa Đội trưởng!

Tư Diêu nhăn nhó:

- Ban An ninh mới thành lập, chưa có đồng nào.

Tư Mã Đình nói:

- Sao chú mày ngu vậy! Quân đội Thiên hoàng đâu phải quân đội của nhà ta! Của 800 hộ dân thị trân này đấy chứ! Đội Hỏa-mai-lừa-đen cũng không phải của riêng ta. Là của chung của toàn thể nhân dân thị trấn đấy chứ! Các gia đình góp gạo góp tiền, khách chung thì mọi người phải tiếp đãi, còn khoản rượu thì ta lo!

Sa Nguyệt Lượng cười:


- Ông Trưởng ban đúng là chẳng mất lòng ai, được cả chì lẫn chài!

Tư Mã Đình nói:

- Chẳng còn cách nào khác, như lão mục sư từng nói: Mình không xuống địa ngục thì ai xuống?...

Mục sư Malôa mở vung, thả những sợi mì vào nước sôi dùng đũa khuấy nhẹ, đậy vung lại, rồi nói với mẹ đang cho củi vào lò:

- Cho lửa to hơn nữa!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:05 PM
Mẹ làm theo, đẩy vào lò từng nắm thân lúa mạch vàng óng. Tôi ngậm đầu vú mẹ, liếc nhìn ngọn lửa rừng rực trong lò, lắng nghe tiếng nổ lép bép của củi, nhớ lại cảnh tượng ban nãy: Họ đặt tôi nằm trên nong, nhưng tôi lật mình nằm sấp để nhìn mẹ đang nhào bột trên bàn, thân thể nhún nhảy, hai bầu vú nhảy tâng tâng trước ngực như vẫy gọi, như trao đổi với tôi những thông tin thần bí. Hai núm vú màu táo đỏ có lúc chụm vào nhau như đang thầm thì điều gì đó còn phần lớn thời gian là nhún nhảy, vừa nhảy vừa phát thành tiếng, chẳng khác đôi chim bồ câu gù gù bên nhau. Tôi giơ tay về phía mẹ, miệng chảy đãi. Đôi vú đột nhiên có vẻ ngượng, bối rối, màu hồng lan nhanh khắp bầu vú. Những giọt mồ hôi đọng lại thành rãnh giữa khe vú. Tôi trông thấy có hai đốm sáng đi động trên bầu vú. Đó là cái nhìn của ông mục sư. Từ cặp mắt xanh thò ra hai cánh tay bé xíu đầy lông lá định cướp miếng ăn của tôi, tôi giận đến nỗi mắt tóe lửa, mở miệng sắp khóc thì sự việc tiếp theo khiến tôi càng điên tiết. Đôi tay bé nhỏ được thu về, nhưng hai bàn tay mũm mĩm của ông thì lại luồn vào ngực mẹ, thân hình cao lớn của ông đứng phía sau, hai bàn tay thô bỉ ấp chặt đôi bồ câu trên ngực mẹ rồi sờ nắn một cách thô bạo, kẹp chặt núm vú vô cùng sống sượng. Ôi, đáng thương cho bầu hồ lô yêu quí của tôi! Đôi bồ câu mềm mại của tôi! Chúng vùng vẫy, chúng co lại, co tới mức không thể nhỏ hơn rồi đột nhiên lại nở phình ra, xù lông xù cánh khát vọng bay lên, bay tới những cánh đồng mênh mông tới trời xanh làm bạn với những đám mây lững lờ trôi, tắm trong làn gió nhẹ, được ánh nắng mơn trớn, rên rỉ trong gió, cười vui dưới nắng, rồi lặng lẽ rơi xuống, rơi xuống một vục thẳm không dáy. Tôi khóc ầm lên, nước mắt làm mờ cả hai mắt, mẹ và Malôa nghiêng ngả, mẹ rên lên.

- Bỏ em ra, đồ con lừa, con nó khóc kia kìa! - Mẹ nói.

Ông mục sư giận dỗi, nói:

- Thằng con lai!

Mẹ bế tôi lên, vội vã lật người tôi lại, vẻ biết lỗi.

- Cung của mẹ, thương cục cưng quá đi thôi!

Vừa nói vừa đẩy bầu vú về phía tôi. Tôi hối hả ngoạm chặt đầu vú, bú chùn chụt. Tôi há to miệng nhưng vẫn sợ còn nhỏ nên há hết cỡ, miệng phồng ra như con hổ mang bành, chỉ tiếc nỗi không thể nuốt chửng, không cho người nào khác xâm phạm bầu vú của tôi.

- Từ từ nào, con trai của mẹ!


Mẹ vỗ nhẹ lên mông tôi. Tôi bú một bên, tay nắm lấy bên vú còn lại. Nó giống hệt con thỏ trắng có con mắt hồng. Tôi nắn nó, cảm thấy tim của nó đập đập. Malôa thở dài:

- Thằng con lai này!

Mẹ nói:

- Anh không được gọi nó là con lai!

Malôa nói:

- Nhưng nó là con lai chính hiệu mà lại!

Mẹ nói:

- Em định bảo anh làm lễ rửa tội cho nó và đặt cho nó một cái tên. Hôm nay nó vừa tròn 100 ngày tuổi.

Malôa vuốt mặt theo thói quen, nói:

- Rửa tội? Tôi quên mất làm lễ rửa tội từ lâu rồi. Tôi làm mì kéo cho em ăn nhé. Cách làm này tôi học ở người đàn bà tộc Hồi đấy!

Mẹ hỏi:

- Anh thân với chị ta đến mức nào?

Malôa nói:

- Không để lại dây mơ rễ má gì cả, trắng tinh!

Mẹ nói:

- Đừng có bịp!

Malôa cười khà khà, vừa kéo vừa lăn cho cục bột mì thành sợi, quật bồm bộp xuống bàn cán rồi lại kéo.

- Nói mau! - Mẹ giục.

Cục bột vừa dẻo vừa tơi, lúc vồng lên như cánh cung, lúc loằng ngoằng như rắn trong hang, bàn tay thô có vẻ vụng về của một người ngoại quốc lại có thể thao tác thành thạo và khéo léo như người Trung Quốc, khiến mẹ vô cùng ngạc nhiên. Ông nói:

- Có lẽ tôi không phải là người Thụy Điển, những chuyện đã qua đều như trong mơ, em nói gì đi!

Mẹ cười nhạt, nói:

- Em hỏi chuyện anh với cái cô mắt có quầng đen, anh đừng có đánh trống lảng!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:08 PM
Malôa dàn mỏng cục bột rồi hai tay hai đầu nâng lên, căng ra rồi chùng lại, khi bỏ tay ra đã thành bó mì sợi to bằng thân cây lúa mạch, vung một cái: chúng xòe ra như đuôi ngựa. Malôa đang biểu diễn kỹ xảo của ông. Mẹ thở dài nói:

- Người đàn bà nào kéo được loại sợi mì như thế này, mới là đàn bà giỏi!
Ông mục sư nói:

- Thôi, mẹ thằng cu đừng nghĩ ngợi lung tung nữa. Nổi lửa lên, tôi nấu mì cho em ăn!

- Ăn xong thì làm gì?. Mẹ hỏi.

- Ăn xong thì làm lễ rửa tội và dặt tên cho thằng con lai!

Mẹ vùng vằng:

- Những đứa con mà anh đẻ với người đàn bà Hồi mới là những thằng lai.

Khi mẹ nói vừa dứt câu này, là lúc Sa Nguyệt Lượng chạm cốc với Tư Mã Đình. Trong bữa rượu, họ thỏa thuận với nhau những việc như sau: Những con lừa của Đội Hỏa-mai-lừa-đen sẽ được tập trung trong nhà thờ để chăm sóc. Các đội viên thì chia ra đến ở với các gia đình. Trụ sở của Đội đóng ở đâu thì Sa Nguyệt Lượng sẽ quyết định sau.

Sa Nguyệt Lượng được Tư Diêu dẫn đường và bốn đội viên bảo vệ, bước vào sân nhà tôi. Thoáng cái anh ta đã nhìn thấy chị Lai Đệ đang chải đầu bên ang nước in những bóng mây trôi qua trên bầu trời. Qua một mùa hè ăn uống no đủ và tương đối phẳng lặng, cơ thể chị thay đổi hẳn. Ngực nhô cao, làn tóc khô rám nay bóng mượt vòng eo nhỏ, mềm mại, mông nở và vổng lên. Trong một trăm ngày, chị đã trút bỏ bộ khung thiếu nữ gầy nhom, trở thành một cô gái đẹp như con bướm màu. Cái mũi dọc dừa của chị là của mẹ, cặp vú thây lẩy và cái mông nở nang cũng thuộc về mẹ. Đối mặt với cô gái trinh trắng trong ang, ánh mắt của chị đầy ưu tư. Bàn tay thon thả đưa chiếc lược gỗ, nhìn bóng mình mà trăm mối tơ vò. Sa Nguyệt Lượng vừa trông thấy chị đã mê tít. Anh ta tuyên bố dứt khoát với Tư Diêu:

- Đây là trụ sở của Đội.
Tư Diêu hỏi:

- Lai Đệ, mẹ cô đâu?

Không đợi Lai Đệ trả lời, Sa Nguyệt Lượng khoát tay bảo Tư Diêu ra về. Anh ta đến bên ang nước nhìn chị, chị cũng nhìn lại anh ta.

- Cô em, cô còn nhận ra tôi không? - Anh ta hỏi. Chị gật đầu, mặt ửng hồng.

Chị quay vào trong nhà. Sau ngày mồng Năm tháng Năm, các chị dọn sang phòng của ông bà nội. Chái phía đông - nơi ở cũ của chị Bảy, được sửa thành nhà kho, chứa ba nghìn cân tiểu mạch. Sa Nguyệt Lượng theo chị tôi vào phòng trông thấy sáu chị của tôi đang ngủ trưa. Anh ta mỉm cười thân thiện, nói:

- Đừng sợ, bọn tôi là du kích chống Nhật, không sát hại dân chúng. Tôi chỉ huy chiến đấu như thế nào, các em cũng đã từng chứng kiến. Trận đó thật bi tráng hào hùng, lưu danh thiên cổ. Rồi sẽ có ngày người ta sẽ sáng tác về tôi.

Chị cúi đầu, tay mân mê đuôi sam, nhớ lại cái hôm mồng Năm tháng Năm không bình thường ấy, người đứng trước mặt chị quần áo rách bươm từng mảnh.

- Em nhỏ, không, em gái ơi ta có duyên với nhau đấy!

Anh ta buông một câu đầy ý tứ rồi đi trở ra sân. Chị theo ra đến cửa, thấy anh ta bước vào gian chái phía đông, lại sang chái phía tây. ở chái tây, anh ta giật mình kinh hãi vì cặp mắt xanh lục của bà Lã, bịt mũi trở lui, lệnh cho các đội viên:

- Dọn đẹp các bao lúa mạch lại, dọn giường cho tôi ở đấy!

Chị Cả tựa cửa, ngắm người đàn ông xương xương, vai lệch một bên, đen nhẻm như cây hòe bị sét đánh.

- Cha em đâu? Anh ta hỏi.

Tư Diêu đứng nép ở góc sân từ tốn trả lời:

- Bố cô ấy bị giặc Nhật, à không, bị quân đội Thiên hoàng sát hại hôm mồng Năm tháng Năm, cùng ông nội cô là Thượng Quan Phúc Lộc.

- Quân đội Thiên hoàng cái cứt! Giặc thì có! Giặc Nhật!

Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi:

- Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này! Ai là chủ gia đình em?

Tư Diêu cướp lời:

- Bà Lã!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:10 PM
Tôi và chị Tám được làm lễ rửa tội trong giáo đường. Cửa sau phòng ngủ của mục sư thông sang giáo đường. Trên tường treo một số tranh đã phai màu vì năm tháng, vẽ những hài đồng trần truồng có cánh, béo mũm mĩm, về sau tôi mới biết đó là những thiên sứ. Tận cùng của phòng nguyện là một cái bục xây bằng gạch, một người đàn ông cởi trần tạc bằng gỗ táo bị đóng đinh trên giá. Do tài nghệ quá kém hoặc do gỗ táo quá rắn, nên cái tượng không giống người chút nào. Sau này tôi mới biết tượng gỗ ấy là Chúa Giêsu, một dại anh hùng, một thiện nhân. Ngoài ra, trong phòng nguyện còn để linh tinh những chiếc ghế băng, bám đầy bụi và phân chim. Mẹ bế tôi và chị Tám bước vào phòng nguyện, hàng đàn chim sẻ hốt hoảng bay loạn xạ đập cả vào cửa kính. Cửa chính của phòng nguyện hướng ra phố. Qua khe cửa, mẹ trông thấy những con lừa đen đi lại như con thoi.

Mục sư Malôa bê ra một chiếc bồn bằng gỗ, nước nóng chiếm lưng bồn, mẩu xơ mướp nổi lềnh phềnh. Hơi nước bay lên, ông mục sư lim dim mắt như một sợi chỉ. Ông còng lưng vì chiếc chậu quá nặng. Ông cố vươn dài cổ ra, hai chân loạng choạng, có lần suýt ngã, nước nóng trong bồn bắn lên mặt, nhưng ông vẫn gượng được. Dù bước đi khó khăn, nhưng cuối cùng ông đã bê được cái chậu lên bục giảng.

Mẹ bế chúng tôi bước tới. Malôa đón lấy tôi thả xuống bồn. Vừa chạm vào nước nóng, hai chân tôi lập tức co lên. Tiếng khóc của tôi vang dội phòng nguyện. Một tổ yến trắng trên đầu xà, những con yến còn năm trong tổ ló đầu ra quan sát chúng tôi bằng cặp mắt đen láy. Bố mẹ chúng bay vào bay ra qua chỗ kính vỡ, con côn trùng kẹp ở mỏ. Malôa trả tôi cho mẹ. Ông lấy tay khuấy nước trong bồn. Chúa Giêsu hiền từ nhìn chúng tôi, chăm chú. Những thiên sứ trên tường đuổi theo bọn chim sẻ, từ xà ngang bay sang cột dọc, từ tường đông bay sang tường tây, từ cầu thang gỗ cong queo đuổi tới gác chuông cũ kỹ, rối từ gác chuông trở lại nghỉ ngơi trên tường. Cái mông trần trụi lấp lánh mồ hôi. Nước trong bồn xoay tròn thành hình phễu. Malôa nhúng tay thử, nói:

- Nước được rồi, thả nó vào!

Tôi bị lột hết quần áo. Mẹ đủ sữa, mà sữa lại tốt, tôi rất bụ bẫm. Nếu như tôi chuyển nét mặt từ nhăn nhó sang giận dữ hoặc nghiêm nghị, nếu như tôi mọc thêm đôi cánh, thì tôi là thiên sứ. Những đứa trẻ trên tường sẽ là anh em tôi. Mẹ thả tôi vào bồn, tôi lập tức nín khóc vì nước ấm làm tôi khoan khoái. Tôi ngồi giữa bồn, tay vỗ nước, miệng reo lên a... a.... Malôa vót cây thánh giá áp lên đỉnh đâu tôi, nói:

- Từ hôm nay, con là đứa còn gần gũi nhất của Chúa, Halilôa!

Ông dùng quả bầu nhỏ múc đầy nước dội lên đỉnh đầu tôi. Mẹ dọc theo như một con vẹt:

- Halilôa!

Tôi tiếp nhận nước thánh, mỉm cười hạnh phúc.

Mẹ vô cùng hân hoan thả chị Tám vào bồn nhẹ nhàng kỳ cọ cho chúng tôi bằng miếng xơ mướp. Ông mục sư dội hết bầu này đến bầu khác lên đầu chúng tôi, mỗi lần dội, tôi lại cười khanh khách. Chị Tám thì khóc ề à mấy tiếng. Tôi túm lấy chị bằng cả hai tay.

Mẹ nói:

- Chưa đứa nào có tên! Anh đặt cho chúng đi!

Malôa bỏ cái gáo bằng quả bầu xuống, nói:

- Đây là chuyện hệ trọng, để tôi nghĩ đã!

Mẹ nói: - Mẹ chồng em có lần bảo, nếu sinh con trai thì đặt tên là Cún, Tám Cún! Bà bảo đặt tên xấu cho con trai thì dễ nuôi!

Malôa lắc đầu lia lịa, nói:

- Không hay, không hay. Cún với Miu, đặt tên vật là trái ý Thượng đế, trái với lời dạy của đức Khổng Tử. Thầy Khổng nói rằng: danh phận không rõ thì nói ai nghe!

Mẹ nói:

- Em nghĩ ra một cái tên, gọi nó là A Men được không?

Malôa cười:

- Không hay. Em đừng nói nữa, để tôi nghĩ.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:12 PM
Ông mục sư đứng lên, tay chắp sau lưng, đi lại thoăn thoắt trong phòng nguyện sặc mùi ẩm mốc. Khi nào ông đi nhanh là lúc óc ông làm việc căng thẳng. Ông điểm lướt những tên người tên hiệu của Trung Quốc và nước ngoài, từ trên trời đến dưới đất, từ cổ chí kim. Mẹ nhìn ông, cười bảo tôi:

- Trông cha con kìa, ông đâu phải là đang tìm một cái tên, mà đang hối hả như nhà có tang!

- Mẹ cất tiếng hát khe khẽ, cầm cái gáo lên dội nước cho tôi và chị Tám.

- Nghĩ ra rồi!

Mục sư Malôa sau hai mươi chín lần đi tới cửa chính đóng chặt rồi lại trở lui, ông dùng lại, kêu lên với chúng tôi.

- Tên là gì? - Mẹ vui mừng hỏi.

Malôa chưa kịp trả lời thì có tiếng đập cửa rất mạnh và có tiếng người ồn ào bên ngoài. Mẹ hốt hoảng đứng lên, tay vẫn cầm chiếc gáo. Malôa nhìn qua khe cửa, khi đó tôi chưa rõ ông nhìn thấy gì, chỉ thấy ông đỏ mặt tía tai, không rõ ông bị xung huyết vì giận dữ hay vì căng thẳng, ông giục mẹ tôi:

- Ra sân sau, mau lên!

Mẹ vứt gáo xuống, bế tôi lên. Chiếc gáo nhảy tâng tâng trên mặt đất như con cóc đực đi tìm cái. Thanh dóng chặn cửa chợt gãy đôi, rớt xuống đất, tiếp theo là cánh cửa bật tung, cái đầu của một đội viên du kích lao vào như một viên đạn, húc giữa ngực ông mục sư. Ông giật lùi đến tận bức tường đối diện, phía dưới các thiên sứ Khi chiếc dóng cửa rơi, tôi bị tuột từ tay mẹ xuống bồn, nước bắn tung tóe và chị Tám thì bị một cú trời giáng.

Năm đội viên Đội Hỏa-mai xông vào, có phần bớt hung hăng khi nhìn thấy quang cảnh trong phòng nguyện. Người húc phải mục sư Malôa xoa xoa đầu, nói:

- Sao thế này, ở đây vẫn có người à? Anh ta nhìn bốn người kia, nói tiếp: - Bảo rằng bỏ hoang đã lâu, nay sao lại có người?

Malôa chặn tay lên ngực đi tới trước mặt các đội viên. Dung mạo của ông đầy vẻ trang nghiêm, các đội viên có vẻ bàng hoàng, lúng túng. Nếu như ông tuôn ra một tràng tiếng tây và giơ tay ra hiệu, có thể các đội viên sẽ lặng lẽ rút lui, mà dù không nói tiếng tây, ông chỉ nói vài câu tiếng Trung Quốc với giọng lơ lớ, các đội viên cũng không dám ngang ngược. Nhưng ông mục sư đáng thương với giọng Cao Mật trăm phần trăm, hỏi các đội viên:

- Người anh em cần gì? Nói xong, ông vái các đội viên một vái.

Trong khi tôi khóc núc nở, chị Tám tuyệt nhiên không khóc tiếng nào - các đội viên Đội Hỏa-mai cười rộ lên.

Họ ngắm nghía ông mục sư từ đầu đến chân như ngắm một con khỉ. Tên đội viên méo miệng còn giật giật túm lông ở lỗ tai ông mục sư.

- Khỉ đột, ha ha, một con khỉ đột! - Một đội viên nói. Những người khác hùa theo - Con khỉ này còn giấu một phụ nữ xinh đẹp nữa chứ!

- Phản đối! Tôi phản đối! - Mục sư Malôa hét to - Tôi là người ngoại quốc.

- Ngoại quốc? Anh em có nghe thấy không? - Người đội viên méo miệng nói: - Người ngoại quốc mà biết nói thổ ngữ Cao Mật? Xem ra con khỉ đột này đã có một thằng con lai. Anh em ơi, dắt lừa vào đi!

Mẹ bế tôi và chị Tám, bước tới kéo tay mục sư Malôa nói:

- Đi thôi! Đừng trêu vào bọn chúng.

Malôa giằng tay ra, một mực xông tới, cố sức đẩy những con lừa ra ngoài cửa. Chúng nhe răng như răng chó gầm ghè với ông mục sư.

- Tránh ra - Một đội viên hích mục sư một cái, quát to.

- Giáo đường là nơi thánh địa, là mảnh đất tinh khiết của Chúa, ai cho các người nhốt lừa? - Mục sư phản đối.


- Thằng tây rởm! - Một đội viên mặt trắng bệch, môi thâm tím nói: - Bà nội tôi từng nói rằng, người này - Anh ta chỉ lên chúa Giêsu bằng gỗ táo - sinh ra trong chuồng ngựa. Lừa và ngựa rất gần gũi, Chúa của anh mắc nợ con ngựa, cầm bằng mắc nợ con lừa, chuồng ngựa có thể làm phòng sản thì tại sao giáo đường không trở thành chuồng lừa?

Anh ta vênh váo vì những lý lẽ của mình, nhìn chằm chằm ông mục sư, cười đắc ý.

Malôa làm dấu trước ngực, khóc:

- Xin Chúa hãy trừng phạt những kẻ ác này, sấm sét hãy giáng xuống đầu chúng rắn độc hãy cắn chết chúng, pháo đạn của Nhật hãy bắn chết chúng!...

- Thằng Hán gian chó chết!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:13 PM
Người đội viên méo miệng đánh ông mục sư một bạt tai. Anh ta định vả vào má nhưng lại trúng cái mũi chim ung của ông mục sư, máu tứa ra, nhỏ từng giọt. Ông mục sư đau đón kêu lên, giơ cao hai tay nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây thập ác:

- Chúa ơi, lạy Chúa toàn năng!...

Các đội viên Đội Hỏa-mai trước hết nhìn Chúa Giêsu đầy bụi và cứt chim rồi nhìn lại khuôn mặt ông mục sư loang lổ những máu. Cuối cùng, họ nhìn mẹ tôi từ đầu đến chân. Mẹ rùng mình, như có giòi bọ trên người. Tên đội viên biết chuyện Chúa Giêsu sinh trong máng cỏ thè lưỡi như lưỡi cóc, liếm cặp môi thâm. Hai mươi tám con lừa ùa vào phòng nguyện, con thì thủng thẳng đi dạo, con thì cọ lưng vào tường gãi ngứa, con thì ỉa đái, có con lại giở trò lưu manh, lại có con gặm vữa trên tường.

- Lạy Chúa tôi!

Mục sư Malôa rú lên, nhưng Chúa của ông vẫn như cũ. Mấy ông du kích giằng chúng tôi khỏi tay mẹ, quẳng vào giữa đám lừa. Mẹ chồm lên như một con sói, nhưng bọn chúng đã chặn mẹ lại và bắt đầu ra tay. Tên méo miệng chộp vú mẹ. Tên môi thâm hích bật tên kia ra, hai tay chộp lấy hai con chim bồ câu trắng của tôi, bầu hồ lô của tôi. Mẹ gào khóc, cào rách mặt tên môi thâm. Tên này cười đểu, xé tan quần áo của mẹ.

Cảnh tượng tiếp theo là nỗi đau âm ỉ suốt đời tôi. Sa Nguyệt Lượng ve vãn chị Cả trong sân nhà tôi, bọn chó má Ba Cẩu trải đệm bằng thân cây mạch ở chái đông. ở nhà thờ năm tên đội viên du kích - toàn thể tổ nuôi lừa, dằn mẹ tôi xuống đất. Tôi và chị Tám khóc khản cả giọng giữa đám lừa. Malôa nhảy dựng lên, vớ lấy thanh dõng cửa bị gãy, vụt một nhát lên đầu một tên du kích. Một tên nhằm vào đùi mục sư nổ súng. Một tiếng đoàng, cả nắm đạn ghém xuyên qua đùi ông mục sư, máu phọt ra. Thanh dóng cửa rớt xuống đất, ông mục sư từ từ khuỵu xuống. Ông ngước nhìn Chúa Giêsu trên đầu toàn cứt chim, lẩm bẩm cầu nguyện. Tiếng Thụy Điển mà ông quên từ lâu, tuôn ra hàng tràng từ miệng ông. Bọn du kích luân phiên làm nhục mẹ tôi. Bọn lừa đen luân phiên ngửi tôi và chị Tám. Tiếng kêu lảnh lói của chúng chọc thủng nóc nhà nguyện, bay lên bầu trời thê lương. Trên khuôn mặt Chúa Giêsu bằng gỗ táo, mồ hôi đọng từng giọt Bọn du kích đã thỏa mãn. Chúng quăng mẹ và chị em tôi ra ngoài đường. Đàn lừa cũng theo nhau xông ra, ngửi ngửi mẹ tôi rồi chạy tán loạn. Khi đám du kích chạy đi bắt lừa, mục sư Malôa lê đôi chân bị thủng lỗ chỗ như tổ ong, trèo lên cái thang bằng gỗ, các bậc nhẵn bóng vì không biết bao nhiêu lần ông trèo trên đó, lên gác chuông. Ông bám gờ cửa sổ, qua lần kính nhìn toàn cảnh thị trấn Đại Lan, thủ phủ của vùng đông bắc Cao Mật mà ông từng sống mấy chục năm, nơi nào cũng lưu vết chân ông: từng dãy nhà tranh vuông vắn, những ngõ to nhỏ màu xám, Những cây xanh trông như cụm khói, dòng sông lấp lánh ôm lấy thôn xóm, mặt hồ phẳng như gương, những đồng cói xanh mượt, những vạt cỏ dại khảm trên mặt đầm, những đầm nước màu dỏ quạch, thiên đường của các loài chim và cánh đồng tít tắp đến tận chân trời trải ra như bức họa, ngọn núi Trâu Nằm màu vàng dỏ, những ghềnh lớn hoa hòe nở rộ... Ông nhìn xuống, thấy chị Lỗ phơi bụng nằm dưới đường như một con cá chết. Một nỗi đau cùng cực bóp chặt trái tim ông, hai dòng lệ ứa ra, mờ cả đôi mắt. Ông lấy ngón tay quệt máu trên đùi, viết lên tường bốn chữ lớn:

KIM ĐỒNG, NGỌC Nữ

Rồi ông kêu to:

- Xin Chúa hãy tha thứ cho con!

Mục sư Malôa nhào ra khỏi gác chuông, như một con chim khổng lồ gãy cánh, rơi cắm đầu xuống đường phố, óc tung tóe khắp mặt đất như bãi cút chim mới ỉa.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:14 PM
3.



Mùa đông năm nay đã tới gần, mẹ mặc chiếc áo bông bọc lụa xanh của bà nội. Chiếc áo được may nhân dịp bà nội sáu mươi tuổi, nhờ một bà con cháu đầy đàn trong thôn, may giúp. Giờ đây nó trở thành áo rét của mẹ. Bà nội đã mất khả năng nói năng, hành động, đánh bạn với lừa ngựa ở chái tây. ở hai vạt trước của chiếc áo bông, mẹ khoét hai lỗ hình tròn để hai vú lộ ra ngoài, tiện cho tôi bú tí bất cứ lúc nào. Cái ngày thu phẫn nộ ấy, đôi vú của mẹ bị chà đạp, nhưng tai họa rồi cũng qua đi, bầu vú chân chính thì không thể bị hủy hoại, giống như có những người trẻ mãi, xanh tươi mãi mãi như cây tùng. Để che gió lạnh, giữ cho vú được ấm, mẹ đính hai miếng vải đỏ trước hai lỗ như rèm che. Phát minh của mẹ trở thành truyền thống, đến nay vẫn thịnh hành ở Cao Mật, có điều, bây giờ hai lỗ thật tròn, vải rèm càng mềm mại, hơn nữa còn thêu một bông hoa trên đó.

Trang phục mùa đông của Kim Đồng là một cái túi rất bền bằng vải bạt, có thể thắt miệng túi lại bằng một sợi dây. Thân túi đính hai quai thật chắc, quàng đuổi cặp vú của mẹ. Khi cho tôi bú, mẹ thót bụng lại, xoay cái túi ra trước ngực. Trong túi, tôi chuyển từ tư thế đứng sang tư thế quì là đầu tôi ngang tầm ngực mẹ, tôi chỉ việc ngoẹo đầu sang trái là ngoạm được đầu vú phải, ngoẹo đầu sang phải là bập được vào đầu vú trái, sang trái sang phải đều gặp nguồn sữa. Nhưng cái túi cũng có điều bất tiện. Tay tôi bị vướng, khiến tôi mất thói quen thường ngày: miệng ngậm bầu này thì một tay bảo vệ bầu kia. Quyền được bú tí của chị Tám đã bị tôi tước đoạt hoàn toàn. Hễ chị sán lại gần là tôi tay cấu chân đạp, khiến chị khóc suốt. Bây giờ chị sống bằng cháo. Thấy vậy, các chị đều rất không bằng lòng. Do vậy, cả một mùa đông dài đặc và khắc nghiệt, tôi luôn luôn nơm nớp lo sợ mỗi khi ti sữa. Khi ngậm vú trái, toàn bộ tinh thần tôi tập trung chú ý bầu vú bên phải, luôn cảm thấy những bàn tay lông lá đột nhiên thò vào lỗ thủng, bắt bầu vú đem đi. Vì lo sợ như vậy, tôi liên tục đổi bên, vừa mút cho chảy sữa ở bầu trái, tôi đã lập tức chuyển sang bầu phải. Mẹ đoán ra tâm trạng tôi, thơm tôi bằng cặp môi lạnh ngắt, nói khẽ:

- Kim Đồng, con cưng của mẹ. Sữa mẹ chỉ dành cho con, không ai cướp được của con!

Mẹ nói vậy khiến tôi đỡ lo nhưng vẫn không thể yên tâm hoàn toàn, tôi vẫn cảm thấy luôn luôn có những bàn tay lông lá rập rình bên vú mẹ.

Một buổi sáng, tuyết rơi nhẹ, mẹ mặc chiếc áo bông có khoét lỗ, địu Kim Đồng cuộn tròn trong cái túi ám áp trên lưng, chỉ huy các chị khuân củ cải vào hầm. Tôi không quan tâm củ cải từ đâu tới mà chỉ để ý hình dáng của chúng. Đầu nhọn, thân phình to đột ngột của chúng khiến tôi nghĩ đến bầu vú. Từ đó, trong ký ức về vú, ngoại trừ những bầu hồ lô bóng loáng, ngoại trừ con chim câu trắng mềm mại, đã có thêm hình ảnh những củ cải đỏ Chúng có màu sắc riêng, thần thái riêng và độ ấm riêng, tất cả đều có hình dáng như bầu vú, đều tượng trưng cho bầu vú trong bất cứ thời tiết nào, hoàn cảnh nào.
Bầu trời hết hùng sáng lại u ám, tuyết nhẹ lúc rơi lúc dừng. Các chị mặc quần áo mỏng, co ro trước gió bấc. Chị Cả chịu trách nhiệm nhặt củ cải từ trong sọt ra, chị Hai và chị Ba chịu trách nhiệm bê đến cửa hầm, chị Tư và chị Năm san đều củ cải trong hầm, chị Sáu và chị Bảy thì không làm gì. Chị Tám không có khả năng lao động, một mình trên giường trầm tư mặc tưởng. Chị Sáu mỗi lần bê bốn củ, chị Bảy mỗi lần bê hai củ. Mẹ và Kim Đồng đi lại trong khoảng từ đống củ cải đến cửa hầm, sai phái, rầy la các chị và than vãn. Những lời ca cám của mẹ, tựu trung xoay quanh trung tâm tư tưởng sau đây: cuộc sống gian truân, phải cố mà làm việc mới có thể vượt qua. Các chị có thái độ tiêu cực khi mẹ ra lệnh, bất mãn khi nghe mẹ than thở. Các chị thờ ở trước những lời than vãn của mẹ. Đến nay tôi vẫn không hiểu vì sao nhà tôi bỗng có nhiều củ cải đến thế! Sau này tôi mới rõ vì sao mẹ tôi dự trữ củ cải nhiều đến như vậy cho mùa đông năm ấy.

Công việc khuân vác sắp kết thúc, mặt đất chỉ còn lại một số củ vặn vẹo như những bầu vú dị dạng. Mẹ khom người quì trước cửa hầm, thò tay xuống lôi chị Tưởng Đệ và Phán Đệ lên. Trong quá trình đó, tôi bị hai lần chổng ngược, từ dưới nách mẹ tôi trông thấy mờ ảo những bông tuyết trắng. Cuối cùng, mẹ bê một cái ang sứt miệng, trong ang chất đầy những bông gòn và vỏ hến, đậy miệng hầm lại. Các chị xếp thành một hàng ngang đứng sát tường áp mái, như đang chờ lệnh mới. Mẹ lại than thở:

- Lấy gì may áo bông cho các con bây giờ?

Chị Ba nói:

- Mua bông, mua vải.

Mẹ nói:

- Chỉ có vậy thì hỏi các con làm gì? Mẹ nói là kiếm đâu ra tiền?

Chị Hai tỏ vẻ không bằng lòng, nói:

- Bán mẹ con con lừa đi!

Mẹ cắt ngang:

- Bán lừa và la đi thì sang xuân cày ruộng bằng gì?

Chị Cả Lai Đệ trước sau giữ thái độ im lặng. Mẹ liếc sang phía chị, chị cúi gằm xuống. Mẹ lo ngại nhìn chị, nói:

- Ngày mai, con và Chiêu Đệ dắt con la ra chợ mà bán?

Chị năm Phán Đệ thét lên, giọng the thé:

- Con la vẫn còn bú sữa mẹ. Sao nhà mình không bán thóc đi! Thóc nhà mình nhiều như thế cơ mà! Mẹ liếc sang chái đông, cửa buồng khép hờ, trên sợi dây thép căng ngang cửa sổ có đôi tất của Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng. Con la lon ton chạy ra sân, nó cùng ngày tháng năm sinh với tôi, cũng như tôi, nó là con đực. Tôi vẫn còn đứng trong túi vải bạt trên lưng mẹ, nó đã cao bằng mẹ nó rồi.

- Vậy đấy, ngày mai bán con la đi! - Mẹ vừa nói vừa đi vào trong buồng. Có tiếng gọi sang sảng từ phía sau lưng chúng tôi:

- Mẹ nuôi ơi!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:18 PM
Sa Nguyệt Lượng mất tăm đã ba ngày, nay trở lại nhà tôi dắt theo con lừa đen của anh ta. Trên lưng lừa là hai bọc to tướng bằng vải hoa căng phồng, tù kẽ hở lộ ra những màu sắc rực rỡ.

- Mẹ nuôi ơi!

Anh ta tỏ vẻ thân thiện. Mẹ quay lại, nhìn khuôn mặt xương xương đen nhẻm với nụ cười ngọng nghịu của anh ta, nói dứt khoát:

- Sa Đội trưởng, tôi đã nói nhiều lần rồi, tôi không phải là mẹ nuôi của anh!

Sa Nguyệt Lượng không nao núng, nói:

- Không phải mẹ nuôi? Còn hơn cả mẹ nuôi nữa kìa! Mẹ nuôi không ưng tôi, nhưng tôi một lòng hiếu thuận với mẹ!

Nói rồi, anh ta gọi hai đội viên du kích vào đỡ hai bọc vải xuống, bảo họ dắt lừa về nhà thờ. Tôi cũng nhìn con lừa đực của Sa Nguyệt Lượng bằng cặp mắt căm giận. Nó hếch mũi lên, ngửi cái mùi tỏa ra từ con lừa cái nhà tôi. Sa Nguyệt Lượng cởi cái bọc, cầm lên một chiếc áo khoác băng lông cáo, giơ ra dưới tuyết. Sức nóng tỏa ra từ chiếc áo khiến những bông tuyết nhẹ tan thành nước cách cái áo một thước.

- Mẹ nuôi ơi! Sa Nguyệt Lượng cầm áo lại gần mẹ. - Mẹ nuôi ơi, đây là chút lòng hiếu thảo của tôi!

Mẹ vội vã né tránh, nhưng không tránh được, kết cục là chiếc áo khoác lên người. Mặt tôi tối sầm, mùi lông cáo và mùi long não khiến tôi nghẹt thở. Khi tôi lại thấy ánh sáng, sân nhà tôi đã trở thành một thế giới động vật: Chị cả Lai Đệ khoác chiếc áo lông tử điêu, cổ quấn khăn lông chồn còn nguyên hai mặt lóng lánh. Chị hai Chiêu Đệ khoác chiếc áo bằng lông điêu thử. Chị ba Lãnh Đệ khoác chiếc áo lông gấu đen. Chị tư Tưởng Đệ khoác chiếc áo da màu vàng rơm. Chị năm Phán Đệ khoác chiếc áo bằng lông sói đốm. Chị sáu Niệm Đệ khoác chiếc áo lông cừu. Chị bảy Cầu Đệ khoác chiếc áo bằng lông thỏ trắng. Chiếc áo khoác lông cáo của mẹ rơi xuống đất. Mẹ quát:

- Cởi hết ra cho tôi, cởi hết ra!

Các chị hầu như không nghe mẹ nói gì, đầu ngọ nguậy trong cổ áo, hai tay vuốt ve thân áo. Qua nét mặt, thấy rõ các chị như mụ đi vì ngạc nhiên và vui sướng, vui sướng trong ngạc nhiên. Mẹ run lên, thều thào:


- Chúng mày điên cả rồi hay sao?

Sa Nguyệt Lượng cầm lên hai chiếc áo khoác nhỏ cuối cùng, dùng tay phủi nhẹ mặt ngoài áo bóng như lụa, nền nâu điểm hoa đen, xúc động nói:

- Mẹ nuôi ơi, đây là da con mèo rừng, cả vùng Cao Mật chỉ có hai con. Cha con lão Cảnh Thuyên phải bỏ ra gần ba năm mới tóm được chúng. Đây là da con mèo rừng đực, đây là da con mèo rừng cái. Các em đã trông thấy con mèo rừng bao giờ chưa?

Anh ta đưa mắt nhìn một lượt các chị, không ai trả lời. Anh ta giảng giải cho các chị như một giáo viên tiểu học: Mèo rùng giống như con mèo nhưng lớn hơn nhiều, giống con báo nhưng nhỏ hơn báo, biết trèo cây, biết bơi, một cú nhảy cao một trượng, có thể bắt chim trên ngọn cây. Loài này chẳng khác yêu tinh. Hai con mèo rừng vùng Cao Mật này sống trong các hang bãi tha ma, bắt được chúng còn khó hon lên trời, nhưng cuối cùng đã tóm được. Mẹ nuôi ơi, hai chiếc áo này tôi tặng hai em Kim Đồng và Ngọc Nữ.

Anh ta vừa nói vừa vắt hai chiếc áo may bằng da con mèo rừng biết trèo cây, biết bơi, nhảy cao một trượng, lên cánh tay mẹ. Rồi cúi nhặt chiếc áo lông cáo đỏ như lửa, rũ bụi, cũng vắt lên tay mẹ, nói một câu khiến người cảm động:

- Mẹ nuôi ơi, hãy nể mặt tôi.

Đêm hôm ấy, mẹ chốt cửa buồng chính, gọi chị Lai Đệ sang buồng chúng tôi. Mẹ đặt tôi và Ngọc Nữ nằm sóng đôi trên đầu giường. Tôi giơ tay cào một cái vào mặt chị Tám. Chị khóc, co người lại một góc. Mẹ không kịp ngó đến chúng tôi. Mẹ quay lại chốt cửa buồng. Chị Cả khoác chiếc áo lông chồn, quấn chiếc khăn lông cáo của chị, dè dặt nhưng ương bướng đứng bên giường. Mẹ gác một chân lên giường, rút chiếc trâm sau gáy khêu bấc đèn. ánh đèn bùng lên. Mẹ ngồi xếp thẻ trên giường hỏi chị Cả, giọng mỉa mai:

- Thưa tiểu thư, tiểu thư ngồi xuống đi, đừng sợ làm bẩn chiếc áo da của tiểu thư!

Mặt chị Cả đỏ ửng, chị chành môi, ngồi xuống chiếc ghế băng cạnh giường. Con cáo của chị vênh cái mõm lên ở giữa ngực chị, hai mắt lấp lánh.

Ngoài sân là thế giới của Sa Nguyệt Lượng. Từ khi anh ta dọn đến ở chái đông nhà tôi, cái cổng lớn không bao giờ khép chặt. Đêm nay, ở chái đông càng ồn ào, ánh đèn măng-sông sáng trắng, xuyên qua giấy dán cửa sổ, soi sáng cả ngoài sân. Tuyết bay trong ánh đỡn. Trong sân, tiếng chân đi nhộn nhịp, cánh cổng kêu ken két, vó ngựa vang lên từng chặp trong ngõ. Trong gian chái vang lên tiếng cười ầm ĩ và thô lỗ. Những trò đố vui, nào là Đào viên kết nghĩa, nào là năm ông trạng nguyên, nào là tám đóa hoa mai, tám chú ngựa... Mùi cá thịt thơm lừng khiến sáu chị tập trung tại cửa sổ buồng phía đông thèm rỏ đãi. Mắt mẹ như tóe lửa, nhìn chị Cả không chớp. Chị Cả ngang ngạnh nhìn lại mẹ, hai luồng mắt gặp nhau, cùng tóe lửa xanh.

- Mày nghĩ như thế nào? Mẹ hỏi.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:21 PM
Chị Cả vuốt những chỗ lông xù ở đuôi khăn lông cáo, hỏi lại:

- Mẹ hỏi gì cơ?

Mẹ nói:

- Đừng có giả vờ!

Chị Cả nói:

- Mẹ, con không hiểu ý mẹ?

Mẹ đổi giọng rầu rĩ, nói:

- Lai Đệ, con có chín chị em, con là lớn, nếu xảy ra chuyện gì thì biết dựa vào ai?

Chị đứng phắt dậy, giọng xúc động chưa bao giờ thấy ở chị:

- Mẹ, mẹ còn muốn gì ở con? Trong trái tim mẹ chỉ có Kim Đồng, còn lũ con gái chúng con không bằng bãi cứt chó!

Mẹ nói:

- Con dùng nghĩ sai về mẹ. Kim Đồng là vàng, các con ít ra cũng là bạc, sao lại có thể không bằng bãi cứt chó? Đêm nay, mẹ con mình có gì cứ nói thẳng với nhau. Cái anh chàng Sa Nguyệt Lượng ấy chẳng khác cáo đến chúc Tết gà, tâm địa chẳng có gì tốt. Nó đang câu con đấy!

Chị Cả cúi đầu, vuốt ve cái đuôi con cáo, nước mắt đột nhiên ứa ra, chị nói:

- Mẹ, lấy được người như vậy là con mãn nguyện lắm rồi!

Mẹ như bị điện giật, nói:

- Lai Đệ, con lấy ai mẹ cũng đồng ý, nhưng đừng lấy Sa Nguyệt Lượng!

Chị Cả hỏi: - Vì sao hả mẹ?

Mẹ nói: - Chẳng vì sao cả!

Chị Cả với giọng day nghiến, không phù hợp chút nào với cái tuổi của chị:

- Tôi làm thân trâu ngựa cho nhà Thượng Quan đủ quá rồi!

Giọng gay gắt của chị khiến mẹ giật thót. Mẹ đưa mắt dò xét nhìn khuôn mặt đỏ gay vì giận của chị, rồi lại nhìn bàn tay nắm chặt đuôi con cáo của chị. Mẹ sờ soạng bên cạnh tôi, vớ được cái chổi quét giường giơ cao lên:

- Mày đổ đốn rồi! Tao thì đánh chết mày!

Mẹ nhảy xuống đất, giơ chổi vụt vào đầu chị Cả, chị giơ đầu ra, không tránh né cũng không chống lại. Tay mẹ dùng lại giữa chừng, khi hạ xuống thì đã mềm nhũn. Mẹ vút cây chổi, ôm vai chị mà khóc:

- Lai Đệ, ta với thằng Lượng không đi cùng đường. Mẹ không muốn nhìn thấy con gái của mẹ nhảy vào lửa!...

Chị Cả cũng nức nở khóc.

Cuối cùng, khóc đã chán, mẹ dùng mu bàn tay lau nước mắt, van nài:

- Lai Đệ, con hứa với mẹ đi, không quan hệ với thằng ấy nữa!

Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết, nói:

- Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp!

Chị liếc nhìn chiếc áo khoác bằng lông cáo và hai chiếc áo bằng da mèo rừng ở trên giường. Mẹ cũng kiên quyết:

- Ngày mai phải cởi hết những thứ ấy ra!

Chị Cả nói:

- Mẹ nỡ lòng nào nhìn các em con bị chết cóng!

Mẹ nói:

- Cái thằng buôn áo lông chết tiệt!

Chị Cả rút then cửa đi thẳng về buồng của chị, không ngoái lại.

Mẹ ủ rũ ngồi xuống mép giường, thở gấp.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 10-7-2012 08:23 PM
Lúc này tiếng chân lạch bạch của Sa Nguyệt Lượng đã tới bên cửa sổ. Lưỡi líu, môi tê dại, anh ta cũng định từ tốn gõ cửa, nhẹ nhàng nói với mẹ về chuyện hôn nhân đại sự, nhưng rượu đã làm tê liệt thần kinh khiến cử chỉ phản lại ý muốn của anh ta. Anh ta gõ mạnh đến nỗi cửa sổ rung lên thủng cả giấy dán, gió lạnh từ sân lọt vào, hơi rượu từ miệng anh ta cũng lọt vào. Với giọng lè nhè dáng ghét đồng thời cũng đáng yêu của thằng say, anh ta gào lên:

- Mẹ ơi!

Mẹ nhổm dậy trên giường, ngớ ra một thoáng rồi kéo tôi lùi xa cửa sổ. Sa Nguyệt Lượng nói:

- Mẹ, chuyện vợ chồng giữa tôi và Lai Đệ thì khi nào tổ chức?... Tôi sốt ruột lắm rồi

Mẹ nghiến rằng, nói:

- Anh Lượng, cóc ghẻ muốn ăn thịt ngỗng trời, có mà năm mơ!

Sa Nguyệt Lượng nói:

- Mẹ nói vậy là thế nào?

Mẹ nói:

- Ta bảo anh nằm mơ!

Sa Nguyệt Lượng chợt tỉnh rượu, nói rành rẽ:

- Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lượng này chưa bao giờ hạ mình xin xỏ ai!

Mẹ nói:

- Ai bảo anh xin mà xin!

Sa Nguyệt Lượng nói: - Mẹ nuôi ơi, Sa Nguyệt Lương này định làm gì là làm bằng được.

Mẹ nói: - Vậy anh hãy giết tôi đi đã.

Sa Nguyệt Lượng cười:

- Tôi định lấy con gái thì làm sao lại giết mẹ vợ.

Mẹ nói:

- Vậy đến mạt kiếp anh cũng không lấy được

Sa Nguyệt Lượng nói:

- Con gái lớn rồi, mẹ cứ ý mình sao được? Mẹ vợ ơi, chúng tôi bỏ đi cho mà xem!

Sa Nguyệt Lượng vừa cười vừa đi tới buồng phía đông, chọc thủng giấy dán cửa sổ, tung nắm kẹo to tướng vào trong, nói to:

- Các dì ơi, có anh rể của các dì đây, ngọt bùi ta sẽ có nhau!...

Đêm ấy Sa Nguyệt Lượng không ngủ, đi lại suốt đêm trong sân, chốc lại ho, chốc lại huýt sáo miệng. Tài nghệ xuất sắc, anh ta nhại được giọng mười mấy loại chim. Ngoài chuyện ho, huýt sáo, anh ta còn hát các tích tuồng cũ và cả những bài ca chống Nhật đang lưu hành, với giọng to hết cỡ. Lúc thì mắng Trần Sĩ Mỹ tại phủ Khai Phong, lúc lại hươi đao chém đầu quân giặc. Để đề phòng người hùng chống Nhật, tình duyên bị ngáng trở xông vào buồng, mẹ chèn cửa bằng cây chống, bễ thổi lửa, rương quần áo, gạch vỡ... Mẹ cho tôi vào túi, địu trên lưng, tay cầm dao phay đi đi lại lại trong nhà, từ buồng tây sang buồng đông. Các chị không ai cởi bỏ áo khoác, ngồi ôm nhau, mồ hôi lấm tấm trên mũi, rồi ngủ thiếp đi trong tiếng ồn đủ loại do Sa Nguyệt Lượng gây ra. Nước dãi của chị Cầu Đệ làm ướt áo lông sói của chị hai Chiêu Đệ. Chị sáu Niệm Đệ như con cừu non, rúc vào chiếc áo lông gấu của chị ba Lãnh Đệ.

Giờ dây nghĩ lại, tôi thấy cuộc đấu với Sa Nguyệt Lượng, mẹ đã thua ngay từ đầu. Sa Nguyệt Lượng dùng lông thú thuần phục các chị tôi, thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi, mẹ tôi mất quần chúng, bị cô lập.

Ngày hôm sau, mẹ địu tôi trên lưng, chạy như bay đến nhà ông Ba Phàn giải thích ngắn gọn: Để trả ơn Tôn Đại Cô đã đỡ đẻ cho, mẹ gả Lai Đệ cho thằng câm lớn, người hùng cầm nhuyễn đao chiến đấu với bầy quạ. Nói dứt khoát ngày thứ nhất chạm ngõ, ngày thứ hai đưa sính lễ, ngày thứ ba làm lễ thành hôn.

Ba Phàn cứ ngẩn ra mà nghe. Mẹ nói:

- Chú ơi, chú đừng căn vặn làm gì, rượu biếu chú, con đã chuẩn bị xong rồi!
Ba Phàn hỏi:

- Làm mối ngược à?

Mẹ bảo:

- Ngược!

Ba Phàn lại hỏi:

- Vì sao phải làm thế?

Mẹ nói:

- Chú ơi! Xin chú đừng hỏi. Chú bảo thằng câm trưa nay đem lễ đến.

Ba Phàn nói:

- Nhà nó có gì đâu?

Mẹ nói:

- Có gì đem nấy.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:14 AM
Chúng tôi chạy về nhà, dọc đường tim mẹ giật thon thót, vô cùng lo lắng. Mẹ linh cảm không sai. Vừa vào sân đã thấy một lô động vật: chồn, gấu đen, sói đốm, cừu, thỏ trắng... đang nhảy múa, chỉ không thấy tử điêu. Tử điêu trên cổ quấn con chồn đang ngồi trên bao lúa mạch ngắm viên đội trưởng du kích. Hắn ngồi lau súng, lau hồ lô trên đệm của hắn.

Mẹ kéo Lai Đệ đứng dậy, lạnh nhạt bảo Sa Nguyệt Lượng:

- Anh đội trưởng, nó đã có chủ rồi! Các anh là đội quân chống Nhật, chắc không dụ dỗ gái có chồng chứ?

Sa Nguyệt Lượng bình tĩnh nói:

- Điều này thì bác khỏi bận tâm.

Mẹ lôi chị Lai Đệ về căn buồng phía đông. Gần trưa, thằng câm lớn xách một con thỏ đến nhà tôi. Hắn mặc chiếc áo chẽn hở cả bụng, tay áo dài đến khuỷu, lộ hai bắp tay vạm vỡ. Cúc áo đứt sạch, hắn khép hai vạt bằng sợi dây thừng. Hắn cúi rạp chào mẹ, nụ cười ngơ ngẩn trên khuôn mặt. Hắn đưa con thỏ cho mẹ bằng cả hai tay. Ba Phàn cùng đến với thằng câm, nói:

- Chị Thọ Hỉ, tôi đã làm như lời chị dặn.

Mẹ bàng hoàng nhìn con thỏ rừng miệng còn dính máu.

- Chú ơi, trưa nay chú ở lại, anh câm cũng ở lại đây.

Mẹ chỉ vào thằng câm nói:

- Củ cải ninh thịt thỏ, coi như lễ đính hôn cho bọn trẻ!

Trong căn buồng phía đông, tiếng khóc của chị Lai Đệ chợt vỡ ra. Lúc đầu khóc ti tỉ như trẻ con, vài phút sau chuyển thành tiếng gào thét, xen lẫn những câu chửi tục kinh khủng. Rồi mươi phút sau chỉ là tiếng gào khan, không có nước mắt.

Chị Lai Đệ ngồi bệt xuống đất bẩn trong buồng, quên phắt đang mặc chiếc áo quí. Mắt chị ráo hoảnh, miệng há ra như một cái giếng cạn, tiếng gào khan từ đó bật ra. Sáu chị khác của tôi cố ghìm giọng nức nở, nước mắt lăn trên áo lông gấu, nhảy trên áo lông chồn, lấp lánh trên áo lông sói, thấm vào áo lông cừu, dây bẩn áo lông thỏ.
Ba Phàn thò đầu vào buồng đông, mắt trợn trùng như gặp ma, môi run bần bật. Ông đi giật lùi ra giữa nhà rồi loạng choạng bỏ chạy.

Thằng câm lớn của nhà họ Tôn đứng giữa nhà tôi ngó ngang ngó dọc, trên khuôn mặt hắn, ngoài nụ cười ngớ ngẩn, còn gợn lên nét suy tư khó bề đoán trước, sự hoang văng như hóa thạch và một nỗi đau tê buốt. Sau này tôi còn chứng kiến vẻ mặt đáng sợ khi hắn nổi giận.

Mẹ lấy sợi dây thép nhỏ xâu miệng con thỏ rồi treo dưới mái hiên. Mẹ coi như không nghe thấy tiếng gầm của chị Cả, coi như không nhìn thấy nét mặt cổ quái của thằng câm. Mẹ cầm con dao gỉ, sút mẻ, lột da con thỏ. Sa Nguyệt Lượng khoác súng từ buồng đông đi ra, mẹ không ngoái lại, nói với giọng lạnh nhạt:

- Anh Đội, đứa lớn nhà tôi hôm nay đính hôn, con thỏ này là ăn lễ hỏi.

Sa Nguyệt Lông cười:

- Lễ hậu hĩ quá nhỉ!

Mẹ cắt phần đầu con thỏ, nói:

- Nó hôm nay đính hôn, mai đưa đồ cưới, ngày kia làm lễ thành thân!

Mẹ quay lại nhìn chằm chằm vào Sa Nguyệt Lượng, nói:

- Đừng quên uống rượu mừng đấy!

Sa Nguyệt Lượng nói: - Quên thế nào được!

Nói xong, hắn khoác súng lên vai, miệng huýt sáo lanh lảnh, bước ra cổng.
Mẹ tiếp tục lột da con thỏ, nhưng không còn hào húng như trước. Mẹ treo con thỏ trên khung cửa, địu tôi đi vào trong nhà. Trên bàn có mấy củ cải to. Mẹ cầm dao đến gần, củ cải không phản ứng gì, năm im chờ đợi. Mẹ quát to:

- Lai Đệ, ân oán cũng thể mẹ con, mày cứ oán tao đi!
Nói xong câu dữ dằn đó, mẹ ôm mặt khóc không thành tiếng, đôi vai run bần bật, nước mắt chảy ràn rụa. Mẹ bắt đầu bổ củ cải. Một nhát bổ xuống, củ cải bửa làm hai, lại một nhát nữa, củ cải bửa làm tư. Bổ liên tiếp, động tác của mẹ ngày càng nhanh, ngày càng điệu nghệ. Củ cải bị băm nhỏ đầy bàn. Mẹ lại giơ cao còn dao lần nữa, nhưng động tác hạ xuống thì cực kỳ nhẹ nhàng. Con dao rời khỏi tay, nằm trên đống củ cải đã băm nhỏ, mùi hăng hắc tỏa ra khắp căn buồng.

Thằng câm giơ ngón tay cái lén tỏ ý khâm phục mẹ, miệng lắp bắp để bổ sung cho động tác. Mẹ kéo vạt áo lau nước mắt, bảo thằng câm:

- Anh về đi!

Thằng câm hoa tay, tung chân đá vào khoảng không. Mẹ cao giọng, chỉ về phía nhà hắn, quát to:

- Anh về đi, tôi bảo anh về đi!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:16 AM
Thằng câm hiểu ra. Hắn làm ngoáo ộp một cái với tôi như trẻ con, hàng ria đen nhánh trên cái môi dầy. Hắn làm bộ rất chuẩn xác động tác trèo cây, mô phỏng động tác tóm được con chim đang quẫy. Hắn cười, chỉ vào tôi, lại chỉ vào trái tim hắn.

Mẹ lại chỉ,về hướng nhà. Hắn ngẩn người, gục gặc đầu ra vẻ hiểu, rồi quì trước mặt mẹ - mẹ vội né sang một bên - hắn hướng về cái bàn để củ cải, dập đầu một cái thật kêu rồi vênh váo bước ra cổng.

Đêm ấy, mẹ mệt mỏi ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy, đếm đủ tám mươi tám con thỏ béo mũm mĩm treo đây trên cây ngô đồng, cây hương xuân và cây hạnh trong sân.

Mẹ vịn khung cửa, từ từ ngồi xuống.

Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lương đối với mẹ. Chị Cả bỏ theo trai, chị Hai, chị Ba, chị Tư là đồng lõa. Sự việc.xảy ra khi đã quá nửa đêm như sau: Khi mẹ mệt mỏi hắt hơi thì chị Năm, chị Sáu chị Bảy đi vào giấc ngủ. Chị Hai nhổm dậy, chân trần, mò mẫm tháo gỡ những chướng ngại vật mà mẹ dựng sau cửa, chị Ba chị Tư kéo hai cánh cửa cho mở ra.

Lúc chiều tối, Sa Nguyệt Lượng đã đổ đầu vào cột cửa, cửa mở không một tiếng kêu. Dưới ánh trăng bàng bạc của nửa đêm về sáng, chị em ôm nhau từ biệt. Sa Nguyệt Lượng nhìn những con thỏ treo trên cây, cười thầm. Ngày thứ ba là ngày thằng câm và chị Cả làm lễ thành hôn. Mẹ bình tĩnh ngồi khâu vá trên giường. Gần trưa, không chờ đợi được nữa, thằng câm mò đến. Hắn dùng điệu bộ và cả nét mặt để đòi người. Mẹ bước ra sân, chỉ sang buồng phía đông, rồi chỉ lên cây treo đầy những còn thỏ đã đông cúng. Mẹ không nói câu nào, nhưng thằng câm hiểu hết.

Vào lúc hoàng hôn, cả nhà tôi đang ngồi trên giường ăn cháo mạch, bỗng có tiếng đập cổng đánh rầm. Chị Hai đút cơm cho bà nội ở chái tây hớt hải chạy vào, gọi:
- Mẹ, hỏng to rồi! Anh em nhà thằng câm đến đấy. Đem theo cả chó. Các chị hoảng sợ. Mẹ ngồi im như một tảng đá, dùng thìa đút cháo mạch cho chị Tám. Khi chị Tám đã no, mẹ bắt đầu nhai củ cải rau ráu. Trông mẹ thảnh thơi như một con thỏ cái có chửa. Tiếng ồn ngoài cổng bỗng lắng xuống. Khoảng hút tàn diếu thuốc, ba bóng đen vọt qua bức tường vây phía nam, nơi mặt tường rất thấp. Ba anh em nhà câm đến rồi Cùng vọt vào sân là ba con chó đen bóng như sơn then. Chúng như ba đạo hắc quang bay vào sân, không một tiếng động. Dưới ráng chiều đỏ rực, ba anh em nhà câm và ba con chó đứng yên trong khoảnh khắc y hệt một nhóm tượng. Thằng câm lớn tay cầm thanh nhuyễn đao Miến Điện ánh thép sắc lạnh. Thằng Hai câm chống thanh yêu đao. Thằng ba câm kéo lê thanh phác đao cán dài có tua đỏ. Trên vai đứa nào cũng khoác một bọc nhỏ bằng vải hoa nền xanh hoa trắng, hình như chúng sắp đi xa. Các chị sợ đến nghẹt thở, còn mẹ thì vẫn thản nhiên như không, húp cháo sùm sụp. Đột nhiên, thằng câm lớn gầm lên một tiếng, Hai câm và Ba câm cũng gầm theo, những con chó cũng lên tiếng sủa. Nước bọt bắn ra từ miệng người và mõm chó như những con trùng nhỏ, lấp lánh trong ánh hoàng hôn. Tiếp đó, thằng câm lớn biểu diễn dao pháp, giống như hôm đánh nhau với dàn quạ trong buổi tang lễ trên cánh đồng lúa mạch. Trong cái buổi hoàng hôn chớm đông xa xăm ấy, ánh đao loang loáng trong sân nhà tôi, ba thằng đàn ông hung hãn như ba con chó săn, liên tiếp nhảy vọt lên, vươn dài thân như tấm thép, chém nát những con thỏ treo trên cành cây. Những con chó của chúng gâu gâu mừng rỡ, lắc lắc cái đầu to bự giăng xé những xác con thỏ, thịt bay tứ tung. Ba thằng câm sát phạt chán chê, đứa nào đứa ấy tỏ vẻ thỏa mãn. Sân nhà tôi trở thành lò sát sinh. Mấy con thỏ chỉ còn cái đầu treo lủng lẳng trên cây như những quả khô. Những thằng câm cùng với mấy con chó diệu võ dương oai mấy vòng quanh sân, rồi cũng như khi đến, chúng vượt tường, mất hút trong màn đêm mờ ảo.

Mẹ bưng bát cháo, cười nhạt. Nụ cười đặc biệt của mẹ khắc sâu trong đầu tôi.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:17 AM
4.



Người phụ nữ già đi bắt đầu từ cặp vú, cặp vú già đi bắt đầu từ đầu vú. Vì chuyện chị Lai Đê bỏ theo trai, hai đầu vú của mẹ vốn dĩ ngỏng lên thì nay rũ xuống như bông kê chín. Đồng thời, màu phấn hồng cũng chuyển sang màu đỏ sậm. Những ngày ấy lượng sữa ít đi, mùi vị cũng kém phần thơm ngọt, trong vị sữa nhàn nhạt có mùi của gỗ mục. May mà cùng với thời gian tâm trạng mẹ có khá hơn, nhất là sau khi mẹ ăn con lươn to bự, đầu vú dần dà lại ngỏng lên, màu đỏ sậm cũng nhạt đi, lượng sữa trở lại như hồi mùa thu, trong sữa đã có nhiều vị sắt, ngoại trừ có vị tanh tanh, chất lượng sữa cao hơn trước. Điều không yên tâm là, lần suy yếu này để lại một nếp hằn giữa đầu và bầu vú như trang giấy bị gập, tuy đã được vuốt phẳng, nhưng nếp gấp không mất đi. Biến cố này là tiếng chuông cảnh tỉnh cho tôi, dựa vào bản năng, có lẽ là trời xui khiến vậy tôi phải thay đổi thái độ đối với bầu vú, phải trân trọng chúng, phải coi chúng như vật dễ vỡ mà nhẹ chân nhẹ tay.

Mùa đông năm nay lạnh kinh khủng. Nhờ có nửa gian buồng lúa mạch và một hầm củ cải, chúng tôi sống yên ổn cho đến khi sang xuân. Trong những ngày rét buốt nhất của mùa đông, tuyết rơi dầy đặc lấp kín cửa ra vào, đè gãy những cành cây trong vườn. Chúng tôi mặc áo lông của Sa Nguyệt Lượng cho, ngồi quây quần xung quanh mẹ, mơ màng trong trạng thái ngủ đông.
Một hôm, mặt trời ló ra, tuyết tan, những cột băng treo dưới mái hiên, những con chim sẻ từ chỗ nấp chui ra, nhảy nhót trên cành đầy tuyết. Chúng tôi bừng tỉnh sau thời kỳ ngủ đông. Chúng tôi đã trải qua nhiều ngày đun tuyết lấy nước, vài trăm lần ăn một món củ cải đun bằng nước tuyết, khiến các chị ớn đến tận cổ. Chị hai Chiêu Đệ là người đầu tiên đề xuất đi lấy nước sông về ăn, vì tuyết năm nay có mùi tanh của máu, nếu không sẽ mắc bệnh mà không biết, ngay cả Kim Đồng chỉ ăn toàn sữa mẹ cũng không thoát. Chị Chiêu Đệ nghiễm nhiên thay thế vị trí của chị cả Lai Đệ. Chiêu Đệ có cặp môi đỏ mọng, giọng nói hơi rè cực kỳ hấp dẫn. Lời chị như mệnh lệnh, vì từ đầu mùa đông đến giờ chị cáng đáng toàn bộ chuyện ăn uống. Mẹ như một con bò cái bị thương, lúc nào cũng nơm nớp, đôi khi lại bao dạn hẳn lên, khoác chiếc áo quí phái lên người, ngồi trên giường sửa sang lại dáng vóc, quan tâm tới lượng và chất của sữa.

- Từ hôm nay trở đi lấy nước sông về mà dùng?

Chị Hai nhìn mẹ, nói bằng một giọng không dễ bác bỏ. Mẹ không phản úng gì. Chị ba Lãnh Đệ cau mày nhận xét cái mùi khó chịu của củ cải nấu bằng nước tuyết. Một lần nữa, chị lại dề xuất chuyện bán con la để lấy tiền mua thịt. Mẹ giễu cợt

- Băng tuyết thế này thì bán con la ở đâu?
Chị Ba nói:

- Vậy chúng ta đi săn thỏ rừng, trời đất này thỏ bị cóng không chạy được.

Mặt me đột nhiên đổi sắc:

- Các con hãy nhớ, cho đến khi chết, đừng để mẹ trông thấy thỏ rừng!
Thật ra, trong mùa đông khắc nghiệt, rất nhiều gia đình đi bắt thỏ về ăn thịt. Những con thỏ béo núc bò lê trong tuyết chứ không chạy, ngay các bà bó chân cũng bắt được. Mùa đông năm ấy là thời kỳ hoàng kim của cáo lông đỏ và cáo cỏ. Do chiến tranh, súng săn bị đủ các loại du kích tịch thu, người trong thôn không còn vũ khí. Cũng do chiến tranh, tình cảm thôn xóm bị tổn thương, nên giữa mùa săn cáo lấy lông, lũ cáo không lo bị giết hại như những năm trước. Trong những đêm dài, chúng thỏa sức vờn nhau trong đầm lầy, cáo cái có chửa nhiều hơn mức bình thường. Những tiếng hú thê thảm của chúng khiến người ta lo ngay ngáy.

Chị Ba và chị Tư khiêng thùng gỗ, chị Hai vác cái choòng ra bờ sông Thuồng Luồng. Qua nhà Tôn Đại Cô, ngó vào trong: mảnh sân hoang vắng, không một chút hơi hướng của con người. Đàn quạ đậu trên tường, cảnh tượng ồn ào trước dây của nhà họ Tôn một đi không trở lại những thằng câm cũng không biết lưu lạc đến phương nào. Các chị lội tuyết đến bắp chân, lần xuống mép nước. Mấy con mèo hoang nấp trong bụi tầm xuân nhìn các chị. Mặt trời chếch hướng đông nam, ánh nắng xiên xiên xuống lòng son, sáng lóa mắt. Băng gần bờ có màu trắng, dẫm lên có tiếng lạo xạo như bánh đa vỡ. Băng ở giữa dòng có màu xanh nhạt, rắn và trơn. Các chị loạng choạng trên băng, chị Tư ngã một cái. Chị Ba kéo chị Tư dậy, cũng ngã luôn. Đòn gánh, thùng gỗ và choòng kêu loảng xoảng trên băng, các chị cười rũ.

Chị Hai chọn chỗ sạch nhất, bắt đầu **c băng. Chiếc choàng to tướng tù thời cụ tổ để lại, nặng nề giáng xuống mặt băng, tiếng **c băng nhọn sắc như xé màng nhĩ, vọng tới tận cửa sổ nhà tôi, giấy dán cửa kêu lục bục. Mẹ vuốt ve mái tóc vàng trên đầu tôi, lông mèo rừng trên người tôi, nói:

- Kim Đồng, Kim Đồng, các chị đi phá băng, **c một lỗ to tướng, khiêng về thùng nước uống, đổ ra nửa thùng cá. Chị Tám khoác áo chẽn bằng lông con mèo rừng ngồi thu lu ở góc giường, mỉm cười vụng về, như một pho tượng Quan âm nhỏ. Chị Hai **c một nhát, mặt băng xuất hiện một điểm trắng bằng hạt hạnh đào. Vài hạt băng bám trên choòng. Chị lại giơ choòng lên, lúc lên thì găng gượng, thả xuống thì lẩy bẩy, mặt băng lại xuất hiện một điểm trắng, cách điểm trắng thứ nhất một thước. Khi mặt băng xuất hiện vài chục điểm trắng, chị Hai đã thở hồng hộc, thở ra từng luồng hơi trắng. Cố giơ cái choòng lên, chị đã kiệt súc ngã gục trên băng, mặt trắng nhợt, đôi môi mọng tím tái, mắt mờ đi, mồ hôi lấm tấm trên mũi.
Giữa lúc các chị tuyệt vọng gom nhặt thùng gỗ và đòn gánh để về nhà, chuẩn bị đun chảy tuyết lấy nước thổi cơm trưa, hơn chục cỗ xe trượt rẽ sương mù chạy như bay trên sông tới chỗ các chị. Vì mặt băng phản chiếu ánh nắng hắt trời, họ lại từ hướng đông nam chạy tới, nên chị Hai cho rằng họ từ trên trời theo tia nắng xuống trần gian. Kim quang chói lọi, nhanh như chớp giật vó ngựa cuồn cuộn, ánh bạc sáng ngời, móng sắt băm trên mặt băng ròn rã. Một mảnh băng bắn vào má chị Hai. Chị ngớ ra, quên cả né tránh. Ngựa lượn một vòng quanh các chị rồi dừng lại. Lúc này, các chị mới thấy rõ các xe trượt đều sơn màu hoàng hạnh phu một lớp dày đầu ngô đồng trông như kính màu. Mỗi cỗ xe có bốn người, đều đội mũ lông chồn. Râu, lông mày, lông mi bám đầy tuyết, miệng mũi phả ra từng làn hơi nóng hổi. Những con ngựa xinh đẹp, cẳng chân đều mọc lông dài. Qua dáng vẻ ung dung của bầy ngựa, chị Hai đoán chúng là giống ngựa Mông Cổ trong truyền thuyết. Một người cao lớn từ trên xe trượt nhảy xuống. Anh ta mặc chiếc áo bằng da dê thuộc không cài khuy, để lộ chiếc trấn thủ bằng da báo, cài sau thắt lưng da to bản,là khẩu súng lục kiểu cối xay và một chiếc búa có cán ngắn.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:18 AM
Chỉ mỗi anh ta không đội mũ lông, nhưng lại dội chiếc mũ ba cạnh bằng nỉ. Hai tai đeo chụp tai chống lạnh bằng da thỏ. Anh ta hỏi:

- Các cô nhà Thượng Quan đấy phải không?

Người này là ông Hai nhà Phúc Sinh Đường.

- Các cô ra đây làm gì? Anh ta hỏi.

Không đợi trả lời, anh ta tự giải đáp:

- à! Đục băng? Công việc này đâu phải của đàn bà con gái!

Anh ta gọi những người trên xe:

- Xuống cả đây! Giúp các cô hàng xóm một tí. Cũng là để ngựa Mông Cổ của ta uống nước!

Mấy chục người trên xe đều xuống. Họ ho, khạc nhổ. Vài người ngồi xổm rút búa ở thắt lưng chém băng chan chát, mảnh băng bay tung tóe. Đã xuất hiện mấy vết nút trắng trên mặt băng. Một người râu quai nón, lấy ngón tay gại gại lưỡi búa, nói:

- Tư Mã đại ca, thế này thì đến đêm cũng không được một lỗ!

Tư Mã Khố ngồi xuống rút búa ra chém thử vài nhát, chửi:

- Mẹ kiếp, rắn như thép ấy!

Râu quai nón nói:

- Đại ca, chúng ta mỗi người đái một bãi, nó sẽ tan!

Tư Mã Khố chửi:

- Nói năng cái con c. gì thế!

Nhưng ngay sau đó, anh ta vui vẻ hắn lên, vỗ mông đánh đét một cái, anh ta nhăn mặt vì vết thương ở mông chưa lành hẳn, nói:
- Có cách rồi! Kỹ sư Khương đâu rồi, lại đây?

Một người dong dỏng cao, có tên là kỹ sư Khương bước tới. Anh ta nhìn Tư Mã Khố không nói gì, nhưng qua nét mặt chừng tỏ anh ta sẵn sàng chờ sai bảo.

- Cái trò của anh có thủng được băng không?

Kỹ sư Thương cười khinh khỉnh, giong the thé như giọng đàn bà, nói:

- Dễ như đập trứng bằng búa đanh?

Tư Mã Khố phấn khởi, nói:

- Vậy thì mau lên, khoét cho tôi tám tám sáu mươi tư cái lỗ, để bà con nông dân được nhờ. Các cô ơi, đừng về vội - Anh ta bảo các chị.

Kỹ sư Thương mở gói vải bạt trên xe trượt thứ ba, lấy ra một khối sắt có hình dáng quả đạn pháo. Rất thành thạo, anh ta rũ tung cuộn ghen bọc vỏ đỏ, lắp một đầu ống ghen vào đầu khối sắt. Anh ta nhìn đồng hồ tròn trên đầu khối sắt. Chiếc kim nhỏ trên đồng hồ lắc lư. Cuối cùng, anh ta đeo găng tay bằng vải bạt, cầm lên một vật tựa khẩu súng hơi, lắp hai đầu ống ghen vào bóp thử, lập tức một luồng khí phụt ra. Trợ thủ của anh ta, một cậu bé quá lắm chỉ mười lăm tuổi, người gầy nhom, quẹt diêm châm vào luồng khí. Ngọn lửa xanh, to bằng con nhộng, lập tức bùng lên, réo ù ù. Anh ta sai cậu bé lại chỗ cỗ xe trượt, điểu chỉnh cái nút trên đầu khối sắt, ngọn lửa xanh lập tức sáng trắng, chói hơn ánh sáng mặt trời. Kỹ sư Khương tay cầm cái gọi là đồ chơi đó, nhìn Tư Mã Khố, chờ đợi.

Tư Mã Khố nheo mắt, đẩy lòng bàn tay ra phía trước, hô to:

- Cắt!

Kỹ sư Thương xịt ngọn lửa xuống mặt băng. Một làn khói trắng bốc lên cao khoảng một thước cùng với tiếng nước rót rách. Cánh tay anh ta điều khiển cổ tay, cổ tay điều khiển súng phun lửa. Súng phun lửa phụt ra ngọn lửa trắng, cắt một đường tròn trên mặt băng. Anh ta ngẩng lên nói:

- Cắt được một lỗ rồi!

Tư Mã Khố chưa tin, cúi xuống nhìn, quả nhiên băng đã bị cắt một tảng bằng cái mâm, nước sông tràn lên từ vết cắt. Kỹ sư Thường dùng lửa cắt thêm hai nhát hình chữ thập, khối băng bị cắt làm tư. Anh ta dùng chân ấn khối băng xuống, nó bị nước sông cuốn đi. Một cái lỗ hiện ra, nước sông tràn lên. Giỏi thật! Tư Mã Khố khen, những người xung quanh cũng nhìn anh kỹ sư bằng con mắt thán phục. Tư Mã Khố nói:

- Cắt tiếp!

Kỹ sư Khương giở tuyệt chiêu ra, cắt mấy chục cái lỗ trên băng dày nửa thước. Có lỗ hình tròn, có lỗ hình vuông, lỗ hình chữ nhật, hình tam giác, hình thang, hình bát giác, hình hoa mai... y hệt một giáo trình hình học. Tư Mã Khố nói:

- Kỹ sư Khương này, đây là chiến công đầu của anh sau khi rời khỏi túp lều tranh. Lên xe, các bạn ơi! Chập tối phải tới cầu sắt! Phải, cho ngựa uống nước ở sông Thuồng Luồng!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:19 AM
Họ lôi ngựa đến mương nước bên hố băng. Nhân khi đó, Tư Mã Khố hỏi chị Hai:

- Cô là thứ hai phải không? Cô về nói lại với mẹ, rằng một ngày nào đó, tôi đập tan cái thằng Sa Nguyệt Lượng chó đẻ ấy! Tôi sẽ cướp lại chị Cả của cô trao trả thằng câm lớn!

- Ông có biết chị em hiện giờ ở đâu không? - Chị Hai mạnh dạn hỏi.

Tư Mã Khố nói:

- Buôn bán thuốc phiện cùng Sa Nguyệt Lượng, mẹ kiếp, bọn Hỏa-mai đốn mạt.

Chị Hai không dám hỏi thêm, chỉ đứng nhìn Tư Mã Khố trèo lên xe trượt. Mười hai cỗ xe thành hàng dọc, lướt như tên bắn về hướng tây, mất hút sau khúc ngoặt của sông Thuồng Luồng.

Các chị mê mẩn trước quang cảnh kỳ lạ đó, phấn chấn đến nỗi quên cả rét, đi xem lần lượt cái lỗ, từ tam giác đến hình trụ, từ hình trụ đến hình vuông, từ hình vuông đến hình chữ nhật. Nước sông từ lỗ tràn lên thấm ướt giày của các chị, chỉ một loáng đã đông lại thành băng. Làn hơi tưới mát của dòng sông ùa lên miệng lỗ khiến lòng dạ lâng lâng. Chị Hai, chị Ba và chị Tư đều rất ngưỡng mộ Tư Mã Khố. Do chị Cả đã nêu gương, trong đầu chị Hai một ý nghĩ thoáng qua: Lấy Tư Mã Khố. Hình như có tiếng ai đó cảnh cáo chị: Tư Mã Khố đã có ba vợ.... Vậy thì chị làm vợ thứ tư? Tất nhiên đó là chuyện về sau này. Chị Tưởng Đệ hốt hoảng kêu:

- Chị ơi, cây thịt kia kìa!

Cái mà chị Tư gọi là cây thịt là con lệch, một loại lươn to bự. Nó vụng về quẫy khúc, từ dưới đáy sông nổi lên. Cái đầu gần giống đầu rắn, to bằng nắm tay, hai mắt tối sầm khiến người ta nghĩ đến sự thâm hiểm của loài rắn. Nó ló đầu sát mặt nước, mũi sủi bong bóng. Chị Hai kêu lên:

- Một con lệch bự!

Và chị vung đòn gánh nhằm đầu con lệch bổ một nhát. Móc sắt ở đầu đòn gánh kêu lanh canh, nước bắn tung tóe. Con lệch chìm xuống nhưng lập tức nổi lên, một bên mắt dập nát. Chị Hai dùng đòn gánh đánh tiếp. Con lệch đuối sức dần, đờ ra. Chị Hai quẳng đòn gánh, tóm lấy đầu con lệch lôi lên. Lên khỏi mặt nước, con lệch đông cứng lại như một cây thịt. Chị Hai bảo chị Ba và chị Tư khiêng thùng nước, còn chị thì tay cầm choòng, tay kéo lê con lệch, mãi mới về đến nhà.
Mẹ dùng cưa cắt bỏ đuôi, chia phần thân làm mười tám khúc. Mỗi khúc khi rơi xuống đất, vang lên một tiếng bịch. Dùng nước sông Thuồng Luồng nấu lệch của sông Thuồng Luồng thơm ngon không thể tả. Từ hôm đó, hai bầu vú mẹ hồi xuân, dù rằng, như trên đã từng nói, vết hằn như nếp gấp tờ giấy vẫn còn.

Và cũng trong cái đêm ăn canh lệch thơm bổ ấy, mẹ thấy trong lòng khoan khoái, gương mặt hiền từ như Đức Mẹ, như Quan âm Bồ Tát. Các chị quây quần xung quanh, nghe mẹ kể chuyện vùng Cao Mật. Đêm xuân ấm áp, nhi nữ tình thương. Gió vi vu trơn theo lòng sông Thuồng Luồng, thổi vào ống khói như thổi sáo. Cây trong vươn rũ băng lắc rắc. Rèm băng dưới mái hiên rớt xuống tảng đá dùng để giặt quần áo vỡ vụn, vang lên một tiếng khô khốc.
Mẹ kể, những năm thời Hàn Phong triều Thanh, vùng này chưa có người đến định cư. Mùa hè, mùa thu, người ta đến đánh cá, hái thuốc, chăn dê cừu. Tại sao gọi là Đại Lan? Vì đây là nơi đàn cừu nghỉ đêm.Những người chăn cừu dùng cành cây quây thành chuồng, nhốt đàn cừu lại, chuồng kiểu ấy, người ta gọi là đại lan. Mùa đông, người ta đến đây săn cáo, chồn, nhưng nghe nói họ đều chết bất đắc kỳ tử, không chết cóng trong tuyết thì cũng mắc những bệnh quái gở. Về sau, cũng không rõ năm nào tháng nào, có một người to khỏe, chân tay vạm vỡ, gan cóc tía. Người ấy chính là Tư Mã Răng-To, ông nội của anh em Tư Mã Đình và Tư Mã Khố. Răng-To là biệt hiệu của ông ta, tên thật thì không ai biết. Biệt hiệu là Răng-To nhưng răng cửa thì không còn chiếc nào, khi nói cứ uôm uôm, phát âm không rõ. Răng-To dựng một túp lều bên bờ sông, sống nhờ ngọn lao cá và khẩu súng săn. Thời bấy giờ cá nhiều vô kể, ngoài sông, trong rạch, trong đầm, nửa là cá, nửa là nước. Mùa hè năm ấy, Răng-To ngồi lao cá bên bờ sông, trông thấy một cái chum lớn từ thượng lưu trôi xuống. Ông giỏi bơi lội, có thể lặn dưới nước bằng thời gian hút tàn điếu thuốc. Ông nhảy xuống sông lôi cái chum vào bờ. Trong chum là một cô gái mù.

Chúng tôi nhìn chăm chăm vào Ngọc Nữ. Chị ngoẹo đầu, dỏng tai nghe, mạch máu trên vành tai rõ mồn một.

Cô gái đó cực kỳ xinh đẹp, nếu không bị mù, thì nên lấy vua, trở thành hoàng hậu. Về sau, cô gái mù sinh được một người con trai thì chết. Răng-To nuôi thằng nhỏ bằng canh cá, đặt tên là Tư Mã Ông, chính là cha đẻ của Tư Mã Đình và Tư Mã Khố bây giờ.
Tiếp theo, mẹ kể về lịch sử di dân đến quê hương đông bắc này, kể về ông thợ rèn - cụ tổ của chúng tôi - và tình thân hữu của cụ với Tư Mã Răng-To; kể về Nghĩa Hòa Quyền khuấy đảo miền đông bắc, kể về trận ác chiến cười nôn ruột ở Bãi-Cát-Dài phía tây thôn, giữa một bên là cụ tổ chúng tôi và Tư Mã Răng-To với một bên là người Đức, cho rằng quân Đức không có đầu gối, chân thẳng đuột không gập lại được. Còn nói quân Đức ưa sạch, rất sợ dính phân vào người, hễ dính phân là nôn oẹ cho đến chết. Lại nói bọn Tây đầu là con chiên. Chiên thì sợ hổ báo lang sói. Thế là hai vị tiên phong trong công cuộc khai phá vùng đông bắc, tụ tập một số bợm rượu, con bạc, du đãng... Tất nhiên họ đều là những kẻ không sợ chết, võ nghệ siêu quần, thành lập đội hổ Lang. Tư mã Răng-To và cụ tổ Thượng Quan Đẩu cùng đội Hổ Lang dụ quân Đức tới Bãi-Cát-Dài, nghĩ rằng chúng sẽ sa lầy vì chân chúng thẳng đuỗn như cây củi. Rồi đội Hổ Lang rung cây để những bọc phân rơi tung tóe lên đầu quân giặc, khiến chúng lợm giọng mà chết. Để chuẩn bị cho trận này, Răng-To và cụ tổ Thông Quan Đẩu bỏ ra một tháng gom nhặt phân người bỏ vào lọ đem đến Bãi-Cát-Dài. Họ đã biến nơi sực nức hương thơm của hoa hòe thành nơi xú uế không thể chịu nổi, khiến hàng ngàn vạn con ong mật bị sặc mùi thối mà chết.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:20 AM
Cũng trong cái đêm tuyệt diệu ấy, chúng tôi mê mẩn với lịch sử đầy hấp dẫn của vùng Cao Mật. Khi chúng tôi đang tưởng tượng ông Răng-To và cụ tổ Thượng Quan Đẩu với trận địa phân của hai vị, thì cháu đích tôn của ông Răng-To là Tư Mã Khố đang ở cách chúng tôi ba mươi dặm, dưới cây cầu đường sắt bắc qua sông Thuồng Luồng, viết trang sử mới cho vùng Cao Mật.
Con đường sắt Giao Đông-Tế Nam này do Đức xây dựng, các anh hùng hào kiệt của đội Hố Lang anh dũng chiến đấu, dùng những chiến thuật chưa từng thấy tự cổ chí kim, kéo dài thời han hoàn thành con đường. Nhưng rốt cuộc cũng không ngăn được con đường xẻ đôi cái bụng mềm mại của vùng Cao Mật, mà nói như Tư Mã Ông thì là: Mẹ kiếp, chẳng khác rạch một nhát dao lên bụng mẹ vợ mình! Con rồng khổng lồ bằng thép nhả khói, trườn qua vùng Cao Mật như dán trên ngực chúng tôi. Giờ đây, con đường này thuộc quyền quân Nhật, chở đi than và bông của chúng tôi, chở đến là vũ khí đạn được mà cuối cùng là để giáng lên đầu chúng tôi. Hành động phá cầu đường sắt của Tư Mã Khố, có thể nói là tiếp tục ý chí của ông nội anh ta, phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương, có điều, thủ đoạn cao cường hơn tổ tiên mà thôi.

Sao Hôm đã ngả về tây, vầng trăng lưỡi liềm gác trên ngọn cây. Gió tây hoành hành trên sông, rít ù ù qua những thanh sắt trên cầu. Đêm ấy lạnh kinh khủng, băng trên sông nứt toác thành từng vệt. Tiếng băng vỡ còn ròn hơn tiếng súng. Cỗ xe trượt của Tư Mã Khố dùng lại chỗ bờ sông dưới chân cầu. Anh ta nhảy xuống trước, cảm thấy mông đau như bị mèo cắn. Trên trời là ánh sao yếu ớt, dưới đất là ánh sáng mờ mờ của dòng sông, khoảng giữa là màn đen giơ tay không nhìn thấy ngón. Tư Mã Khố vỗ tay một cái, xung quanh đáp lại tiếng vỗ tay rời rạc. Đêm đen thần bí khiến họ bị kích động, phấn chấn đến căng thẳng. Sau này người ta hỏi tâm trạng trước khi phá cầu như thế nào, Tư Mã Khố trả lời: Vui lắm, vui như Tết.

Các đội viên nắm tay nhau lần xuống chân cầu. Tư Mã Khố mò mẫm trèo lên trụ, rút búa ở thắt lưng chém một nhát vào dầm cầu. Lưỡi búa tóe lửa, Tư Mã Khố chửi:

- Đ. bà nó, toàn sắt là sắt!

Một ánh sao sa rạch dứt bầu trời, kéo theo một cái đuôi dài, ngọn lửa màu lam tuyệt đẹp khiến trời đất. bùng lên trong khoảnh khắc. Nhân lúc sao đổi ngôi, Tư Mã Khố trông rõ mố cầu bằng bê tông và những thanh sắt ngang dọc. Anh ta gọi:

- Kỹ sư Khương, lên đây!
Mọi người đùn kỹ sư Thương trèo lên mố cầu, tiếp theo là cậu thiếu niên trợ thủ của anh ta. Những cục băng trên cầu nhiều như nấm. Tư Mã Khố giơ tay kéo cậu nhỏ thì bị trượt chân, khi cậu ta gượng lại được trên mố thì Tư Mã Khố rớt xuống đất, máu tóe ra từ chỗ mông bị thương thấm đẫm băng vải.

- ối mẹ ơi! - Anh ta kêu - Đau quá, mẹ ơi!

Các đội viên chạy đến nâng anh ta dậy. Anh ta tiếp tục kêu đau, giọng oang oang lan đi rất xa. Một đội viên khuyên:

- Nhịn đau một tí, đại ca, kẻo lộ mất!

Nghe nói vậy, Tư Mã Khố mới chịu im, người cứ run bần bật, ra lệnh:

- Kỹ sư Khương, cắt mau lên, cắt vài thanh rồi rút. Đ. mẹ thằng Sa Nguyệt Lượng, cho mình thuốc mà càng đắp càng đau?

Một đội viên nói:

- Đại ca bị trúng gian kế rồi!

- Lẽ nào cậu không biết câu có bệnh thì vái tứ phương hay sao? Tư Mã Khố cãi.

Đội viên ấy lại nói:

- Đại ca ráng chịu vậy. Về nhà tôi sẽ chữa cho, bị bỏng thì chỉ mỡ con hoan mới khỏi, bôi đâu khỏi đấy!

Một chùm nửa xanh bùng lên giữa các thanh dầm cầu, sáng chói, mắt chảy nước. Vòm cầu, mố cầu, dầm cầu, các thanh giằng, áo khoác da chó và mũ lông chồn, xe trượt màu vàng, ngựa Mông Cổ, tất cả rõ mồn một, sợi lông rơi trên băng cũng có thể nhìn thấy. Hai người, kỹ sư Phương và cậu giúp việc, leo lên dầm cầu như khỉ, dùng súng phun lửa cắt dầm cầu, khói trắng bốc trên mặt dầm thép, mùi kỳ lạ của thép bị nung chảy lan tỏa mặt sông. Tư Mã Khố ngây ra mà nhìn những tia lửa hồ quang, quên cả chỗ đau ở mông, lửa hàn ăn vào thép như tằm ăn dâu, chỉ một lát, một thanh dầm đã gục xuống, gác chênh chếch trên lớp băng dày.

- Cắt nữa đi! Tư Mã Khố quát to.
Công bằng mà nói, nếu như trước đó tin tức mà họ nhận được là chính xác, thì trận đánh bằng phân và nước tiểu chắc chắn là thắng. Mẹ nói, sau khi thất bại, đội Hổ Lang có mở cuộc điều tra nửa công khai nửa bí mật kéo dài đến nửa năm, thăm dò hàng nghìn người, cuối cùng mới biết đích xác người đầu tiên nhận được cái tin bậy bạ lính Đức không có đầu gối, dính phân là chết, lại chính là Đội trưởng Răng-To, mà người cung cấp tin này lại là Tư Mã Ông, thằng con trai ăn chơi đàng điếm, con của bà mù. Người điều tra lôi Tư Mã Ông ra khỏi chăn của một con điếm, hỏi nguồn tin do ai cung cấp. Hắn nói do Nhất Phẩm Hồng, cô điếm ở Lầu-quên-buôn nói với hắn. Người điều tra hỏi Nhất Phẩm Hồng, cô bảo cô không bao giờ nói như thế. Cô nói, cô đã tiếp tất cả kỹ sư và binh lính Đức trong đội đo đạc, từng bị đầu gối của chúng dằn nát đùi, làm sao có thế cái tin bậy bạ ấy lại từ miệng cô nói ra? Đầu mối đến đây thì bị đứt, các đội viên thoát chết của đội Hổ Lang trở về với nghề cũ của mình, ai đánh cá thì đi đánh cá, ai cày ruộng thì về cày ruộng. Mẹ nói rằng, chồng của dì chúng tôi là Vu-Bàn-Vả khi ấy là một thanh niên cường tráng, tuy không tham gia đội Hổ Lang, nhưng có dự trận đánh phân và nước tiểu, cõng ba vò phân trên cây gậy. Ông kể, khi quân Đức qua cầu, Răng-To bắn về phía chúng một phát hỏa mai, Thượng Quan Đẩu bắn một phát súng săn, rồi dẫn toàn đội rút về Bãi-Cát-Dài. Bọn lính Đức đầu đội mũ đen cắm lông chim năm màu, mình mặc áo màu xanh lục đầy cúc đồng, quần bó ống màu trắng, chân vừa thon vừa dài, khi chạy không co gối, quả nhiên trông như không có đầu gối. Rút đến chân Bãi-Cát-Dài, toàn đội dàn hàng ngang mà chửi, chửi có vần có vè, đều do ông giáo trường tư thục Trần Đằng Giao soạn thảo. Đội Hổ Lang dàn trận chửi, bọn lính Đức nhất loạt quì một chân xuống. Sao bảo bọn Đức không biết quì? Ông chú dượng chúng tôi băn khoăn thầm nghĩ. Mẹ nói, ông chưa hiểu nếp tẻ ra sao, đã thấy những cụm khói trắng tỏa ra từ đầu nòng súng của bọn Đức, tiếp đó là hàng loạt tiếng nổ, vài đội viên của đội Hổ Lang đang chửi bỗng ngã gục, trên người chảy máu. Thấy tình thế bất lọi, Răng-To vội ra lệnh khênh những xác chết về phía sau Bãi-Cát-Dài. Cát lún sâu đến bắp chân, họ đang nghĩ đến chuyện bọn Đức không có đầu gối. Lính Đức rượt theo có thể trông rõ đầu gối to tướng hằn lên trong quần.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:22 AM
Chúng chạy trong cát không vất vả như các đội viên đội Hổ Lang. Các đội viên hoang mang, Răng-To cũng dâm hoảng nhưng nói cứng:

- Đừng sợ, anh em ơi, cát không vùi chúng nó, thì ta đã có chiêu khác!

Đúng khi ấy, bọn Đức vượt được bãi cát, xông vào rừng cây hòe. Cụ tổ nhà mình hô: Giật! Mấy chục đội viên cầm lấy đầu thừng giấu trong cát giật mạnh, những chum lọ đựng cứt đái treo lẫn trong những cụm hoa hòe ào ào trút xuống trên đầu trên người bọn Đức như mua, vài chum buộc không chặt rơi trúng đầu một tên Đức chết tại chỗ. Bọn Đức kêu rầm trời, xách súng bỏ chạy tán loạn. Chú dượng tôi nói, giá như dội Hổ Lang thừa thắng xông lên thì chẳng khác mãnh hổ xông vào đàn dê, tám mươi tên lính Đức chắc chắn không một tên sống sót. Đăng này các ông tướng lại cứ đứng đực ra mà vỗ tay hoan hô, mà cười hể hả, để mặc bọn Đức rút về mé sông. Chúng nhảy ào xuống nước, tắm gội thật sạch cứt đái trên người, rồi nâng súng bắn từng loạt. Một viên đạn xuyên từ miệng ra sau gáy ông Răng-To, ông chết ngay lập tức, không kêu được tiếng nào. Bọn Đức đốt trụi vùng Cao Mật. Viên Thế Khải đem quân đến bắt sống cụ tổ Thượng Quan Đẩu. Để hù dọa mọi người, chúng áp dụng hình phạt cực kỳ thảm khốc đối với cụ tổ dưới cây liễu cổ thụ giữa thôn: đi chân trần trên lưỡi mai nung đỏ. Hôm thi hành án, cả vùng Cao Mật rung động, người đến chứng kiến có cả hàng ngàn, dì chúng tôi cũng có mặt. Dì kể, bọn quan lại cho xếp đá để dặt trên đó mười tám cái lưỡi mai, chất củi ở dưới đốt cho lưỡi mai đỏ lên. Rồi bọn đao phủ dẫn cụ tổ đến, bắt đi trên lưỡi mai đỏ rục bằng chân trần. Bàn chân cụ tổ cháy khét lẹt, khiến dì tôi chóng mặt mấy ngày liền. Dì tôi kể rằng, Thượng Quan Đẩu không hổ danh là thợ rèn, xương đồng da sắt, hình phạt thảm khốc như vậy, tuy có khóc, có gào, nhưng tuyệt nhiên không một lời van xin. Cụ đi lại hai lượt trên lưỡi mai, đôi bàn chân không còn ra hình thù gì nữa... Sau đó, bọn quan lại giết chết cụ tổ, chặt lấy đầu đem đi triển lãm tại thủ phủ Tế Nam.

- Đại ca, hòm hòm rồi đấy - Anh đội viên hứa sẽ dùng mỡ con hoan chữa bỏng cho Tư Mã Khố, bảo với Tư Mã Khố như vậy - chuyến tầu trước lúc trời sáng sắp đến rồi.

Dưới chân cầu đã có hàng chục thanh sắt nằm ngổn ngang, tia lửa tràng xanh vẫn đang hoạt động phía trên.

- Mẹ kiếp! - Tư Mã Khố nói - Chúng tưởng bở! Cậu có đảm bảo cầu sẽ gục không?

- Đại ca, cắt nữa thì tầu chưa đến, cầu đã gục!

- Vậy thì thôi, kỹ sư Khương, kỹ sư Khương, xuống đi! - Tư Mã Khố nói to - Các cậu đỡ hai hảo hán này xuống, thưởng cho mỗi người một chai rượu!
Những tia lửa tắt phụt. Các đội viên đỡ kỹ sư Thương và cậu giúp việc xuống, dìu lại chỗ xe trượt. Trước khi trời sáng, gió ngừng thổi, trời càng lạnh, như cắt da cắt thịt. Những con ngựa Mông Cổ kéo xe trượt, mò mẫm đi trong bóng đêm. Chùng hai dặm, Tư Mã Khố ra lệnh dừng lại. Anh ta nói:

- Vất vả cả một đêm, xem cho đã mắt!

Khi mặt trời vừa ló thì đoàn tầu đến. Khúc sông hừng sáng. Cây cối hai bên bờ lấp lánh ánh vàng, ánh bạc. Chiếc cầu nằm im. Tư Mã Khố luôn xoa tay tỏ vẻ sốt ruột, miệng lẩm bẩm chửi tục. Con tầu đồ sộ oai phong lẫm liệt trườn tới, gần tới cầu kéo một hồi còi vang dội. Đầu tầu nhả khói đen, phụt hơi trắng giữa khoảng cách các bánh, tiếng va đập khiến người rừng mình, rung cả mặt băng trên sông. Các đội viên thấp thỏm nhìn đoàn tầu. Ngựa Mông Cổ cụp tai ra phía sau, áp sát tận bờm. Đoàn tầu ngất ngưởng trườn lên cầu, thô bạo và man rợ. Chiếc cầu vẫn uy nghi, không hề rung chuyển. Trong một thoáng, Tư Mã Khố và các đội viên mặt trắng bệch, nhưng chỉ một giây sau đó, họ đã nhay cỡn trên băng mà hoan hô. Người to miệng nhất là Tu Mã Khố, nhảy lên cao nhất cũng là Tư Mã Khố, mặc dù vết thương ở mông quả thật trầm trọng. Chiếc cầu chỉ trong một giây rụng xuống cùng với tà vẹt, đường ray, đá dăm, bê tông và cái đầu tầu. Đầu tầu dập vào mố cầu, mố cầu đổ theo, sau đó mới nghe một tiếng ầm dinh tai nhúc óc, rồi sau đó mới thấy đất đá, những mẩu tà vẹt, những mẩu sắt cong queo, và những mảnh băng tung lên cao mấy chục trượng, loang loáng trong nắng sớm. Rồi tiếp đó là mấy chục toa chở đầy hàng tông vào nhau, toa rơi xuống sông, toa đổ kềnh bên đường ray, tiếng ầm ầm không dứt bắt đầu từ toa chở thuốc nổ rồi lan sang các toa chở đạn được. Băng trên sông nứt vỡ, nước sông trào lên, trong nước có tôm cá, có cả những con cua mai màu xanh. Một cẳng chân người còn nguyên cả giày ủng văng trúng đầu con ngựa Mông Cổ. Con ngựa bị choáng, hai chân khuỵu xuống mặt băng, ướt đẫm cả một mảng lông. Một bánh tầu nặng dễ hàng tấn văng xuống làm tung lên một cột nước toàn là đất bùn. Những tiếng nổ đanh làm cho Tư Mã Khố ù đặc cả hai tai, anh ta trông thấy lũ ngựa Mông Cổ chạy tán loạn cùng với những cỗ xe trượt chẳng khác những con nhặng bị ngắt đầu, các đội viên hoặc đứng hoặc ngồi, cứ ngẩn ra mà nhìn, có người chảy cả máu tai. Tư Mã Khố gào lên, chính anh ta cũng không nghe thấy tiếng của mình. Các đội viên há miệng, hình như cũng đang kêu lên, nhưng chính họ cũng không nghe thấy tiếng của họ.

Tư Mã Khố rất vất vả mới đưa được chiếc xe trượt của anh ta trở lại chỗ cắt băng hôm qua. Chị Hai dẫn chị Ba, chị Tư lại ra chỗ đó lấy nước bắt cá. Những cái lỗ băng hôm qua, chỉ qua một đêm đã bị lấp kín, băng dày một móng tay. Chị Hai dùng choòng ngắn dập vỡ băng. Đội quân của Tư Mã Khố đã rút hết về đây, những con ngựa Mông Cổ tranh nhau uống nước. Vài phút sau khi uống no, những con ngựa chân lẩy bẩy ngã vật xuống, chỉ lát sau tất cả đều chết. Nước lạnh khiến những lá phổi nở hết cỡ của chúng bị vỡ.
Sáng sớm hôm đó, toàn bộ sinh linh vùng Cao Mật: người, lừa ngựa, trâu bò, gà chó, ngan ngỗng... ngay cả những con rắn đang ngủ đông trong hang, đều cảm nhận được tiếng nổ khủng khiếp từ phía tây nam dội tới. Những con rắn tưởng đó là sấm mùa xuân, tranh nhau bò ra khỏi hang, chết cóng hết ở ngoài đồng. Tư Mã Khố dẫn các đội viên về thôn để chấn chỉnh đội ngũ, chửi họ bằng tất cả những câu tục tĩu nhất của Trung Quốc, nhưng họ chẳng nghe thấy gì cả, còn tưởng rằng đang được biểu dương vì trông thấy nét mặt dương dương tự đắc của anh ta khi chửi. Ba cô vợ của Tư Mã Khố thi nhau đưa ra bài thuốc gia truyền của mình, chữa bỏng và chữa cóng ở mông cho anh chồng chung. Thường là cô vợ cả vừa dán miếng cao lên mông chồng, cô vợ hai đã bê lại một chậu nước thuốc, sắc từ hơn chục vị thuốc quí lột bỏ cao dán, rửa mông sạch sẽ, cô vợ ba đã lập tức đem tới thuốc bột tinh chế từ lá trắc bách diệp, đông thanh căn, trứng gà, râu chuột xù... Liên tục như vậy, khiến cái mông của Tư Mã Khố hết khô lại ướt, hết ướt lại khô, vết thương mới đỡ lên vết thương cũ, đến nỗi Tư Mã Khố phải mặc luôn quần vào, thắt hai thắt lưng, trông thấy bóng ba cô vợ là cầm ngay lấy búa hoặc lên cò súng. Vết thương ở mông chưa khỏi, nhưng thính lực thì đã khôi phục.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:24 AM
Khi tai đã nghe được, thì câu đầu tiên là câu chửi của anh trai:

- Mày là đồ chó chết! Cả thôn sẽ bị tai họa vì mày, cứ đấy mà xem?

Tư Mã Khố giơ bàn tay nhỏ nhắn nhưng mũm mĩm như bàn tay anh trai, nắm lấy cằm Tư Mã Đình. Anh ta nhìn mấy sợi râu trê trên mép anh trai, những sợi râu quăn queo vàng ệch và những vết nứt nẻ trên môi, lắc đầu thương hại:

- Tôi và anh đều là hạt giống của cha, chửi tôi tức là chửi anh, anh cứ chửi đi, chửi cho đã!

Nói xong bỏ tay ra.

Tư Mã Đình cứng họng, nhìn từ sau lưng thân hình to lớn của em trai, lắc đầu tỏ vẻ bất lực. Lão cầm thanh la, bước ra khỏi nhà, lóng ngóng trèo lên tháp canh, ngóng về hướng tây bắc.

Tư Mã Khố dẫn các đội viên trở lại chỗ cầu sắt một lần nữa lôi về những thanh đường ray cong queo, một bánh tầu hỏa còn nguyên sơn đỏ, và một đống đồng nát sắt vụn, bày ra trước cổng chính của giáo đường để khoe với bà con nông dân. Hai bên mép sùi bọt, anh ta kể đi kể lại anh ta đã phá cầu, lật đổ đoàn tàu của quân Nhật như thế nào, mỗi lần kể lại thêm những tình tiết mới, càng kể càng phong phú, càng thú vị, đến nỗi về sau không kém chuyện Phong Thần. Chị hai Chiêu Đệ trở thành thính giả trung thành của anh ta, lúc đầu là thính giả sau trở thành nhân chứng của vũ khí mới, rồi cuối cùng là người tham gia vào việc phá cầu, y như chị cùng Tư Mã Khố trèo lên mố cầu, rồi cùng bị ngã, khi Tư Mã Khố đau ở chỗ mông thì chị cũng cắn răng, như là chị cũng đau ở mông.

Đúng như mẹ nói, đàn ông nhà Tư Mã ai cũng điên điên khùng khùng. Cô gái mù trong chum, xinh đẹp vô cùng nhưng hai mắt thong manh, khi nói không ai hiểu là nói gì, không những không nghe rõ lời, mà cũng không hiểu ý tứ ra sao? Cô không phải là hồ ly tinh hiện hình thì cũng là bệnh tâm thần! Bạn thử nghĩ, con cháu của người đàn bà như vậy, làm sao bình thường được. Mẹ cũng nhận ra nỗi lòng của Chiêu Đệ, dự cảm sẽ tái diễn chuyện như Lai Đệ. Mẹ lo lắng nhìn rất lâu vào ánh mắt háo hức đáng ngại trong con mắt đen láy cùng với cặp môi đỏ mọng như thèm khát của chị. Đâu phải là một cô gái mới mười bảy tuổi? Rõ ràng là một con bò cái tơ đang động đực? Mẹ nói:

- Chiêu Đệ, con gái của mẹ, con đã làm là bao?
Chị mở to cặp mắt, cãi:

- Bằng tuổi con, mẹ đã lấy bố con rồi! Mẹ còn kể, năm mười sáu tuổi, dì đã đẻ sinh đôi, cả hai đứa trẻ đều rất mập.

Đến nước này thì mẹ cũng đành lắc đầu thở dài. Nhưng chị Hai vẫn dấn tới:

- Con biết mẹ đình nói anh ta đã có ba vợ. Con sẽ làm vợ thứ tư. Con biết mẹ định nói anh ta nhiều tuổi hơn mẹ. Con với anh ta không cùng họ, càng không phải đồng tông, chẳng phải cái gì hết!

Mẹ từ bỏ quyền quản chế chị Hai, mặc chị muốn làm gì thì làm. Bề ngoài mẹ tỏ ra bình tĩnh, nhưng qua mùi vị của sữa, tôi biết trong lòng mẹ đang nổi gió. Trong những ngày chị Hai cặp kè với Tư Mã Khố, mẹ cùng sáu chị khác của tôi đào một đường hầm từ hầm củ cải thông ra bên ngoài bức tường phía nam, chỗ có một đống rơm rạ. Đất đào lên, phần thì đổ xuống hố phân, phần thì rải trong chuồng lừa, còn phần lớn thì đổ xuống giếng cạn chỗ cây rơm.
Tết Nguyên đán bình yên trôi qua. Trong đêm nguyên tiêu, mẹ địu tôi trên lưng, dẫn sáu chị ra phố xem đỡn. Trong thôn, nhà nào cũng treo đèn, nhưng đều là đỡn nhỏ, chỉ có nhà Phúc Sinh Đường treo hai chiếc đèn ***g to bằng hai cái ang đựng nước ở hai bên cổng, bên trong là hai cây nến to hơn bắp tay tôi, ánh nến lung linh, đẹp mắt. Chị Hai đi đâu, mẹ cũng không hỏi. Chị đã trở thành chiến sĩ du kích của gia đình tôi, có khi ba ngày không về nhà, có khi về bất chợt. Trong đêm trừ tịch, chúng tôi đang chuẩn bị đốt pháo mừng thần tài, chị khoác chiếc áo choàng đen trở về. Chị cố ý khoe chiếc thắt lưng da ôm chặt vòng eo và khẩu súng lục kiểu cối xay nặng chĩu, sáng ngời ánh thép. Mẹ nói mỉa:

- Không ngờ nhà Thượng Quan lại nảy nòi một con ngựa vía.

Nói rồi mẹ chau mày ủ rũ. Chị Hai lại cười, một nụ cười thiếu nữ, khiến mẹ cảm thấy còn có cơ cứu vãn bước đường sai lầm của chị. Thế là mẹ bảo:

- Chiêu Đệ, mẹ không bằng lòng cho con làm vợ bé Tư Mã Khố!

Chiêu Đệ cười nhạt, cái cười cay độc của đàn bà, niềm hy vọng vừa nhen lên trong mẹ, lập tức tắt ngấm.

Ngày mồng một tết, mẹ đến nhà dì chúc tết, nhắc đến chuyện Lai Đệ và Chiêu Đệ. Dì là một người từng trải. Dì nói:
- Chuyện bọn con gái cứ phải để vậy thôi. Với lại chị có hai con rể như Tư Mã Khố và Sa Nguyệt Lượng thì còn lo nỗi gì? Chúng là hai con đại bàng!

Mẹ nói:

- Cháu chỉ sợ chúng nó không được chết trên giường!

Bà dì nói:

- Chết trên giường phần lớn là đồ bị thịt!

Mẹ còn định ca cẩm, nhưng bà dì sốt ruột, xua tay như đuổi ruồi không cho mẹ nói tiếp. Bà nói:

- Cho dì xem thằng cu nào!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:25 AM
Mẹ bế tôi ra khỏi túi đặt trên giường. Tôi sợ hãi nhìn khuôn mặt nhỏ bé, đầy vết nhăn và cặp mắt xanh tinh tường nằm giữa hai hốc mắt của bà. Lông mày thì không có, trái lại, quanh viền mắt lại đầy những lông mi màu vàng. Bà giơ bàn tay khô khỏng xoa đầu tôi, kéo tai tôi bóp nhẹ mũi tôi, thậm chí thọc tay vào giữa hai dùi sờ chim tôi. Tôi rất ghét cái lối sờ soạng có tính chất hạ nhục ấy, cố bò ra mép giường. Bà túm lấy tôi, quát to:

- Thằng con lai, đứng lên xem nào!

Mẹ nói:

- Dì ơi, nó mới được bảy tháng, đứng lên thế nào được?

Bà nói:

- Tao lúc bảy tháng đã ra ổ gà lấy trứng cho bà ngoại rồi!

- Dì ơi đó là dì, dì không phải con người bình thường!

Bà nói:

- Thằng nhỏ này, ta thấy cũng không phải là người bình thường! Tiếc cái ông Malôa quá!

Mẹ đỏ mặt, rồi tái nhợt. Tôi bò đến bên cửa sổ, bám gờ cửa đứng lên. Bà dì vỗ tay:

- Xem kìa, ta bảo nó đứng dậy là nó đứng dậy. Quay lại đây, thằng con lai.
- Dì ơi, nó tên là Kim Đồng, sao dì cứ gọi là thằng con lai?

- Con lai hay không, chỉ có mẹ nó biết, phải không, cô cháu ruột của ta! Với lại ta thích gọi thằng con lai, thằng nước, thằng súc sinh, thỏ con... đều là gọi yêu. Thằng con lai, lại đây.

Tôi quay lại, hai chân lẩy bẩy, nhìn mẹ nước mắt đầm đìa. - Kim Đồng, con yêu của mẹ! - Mẹ giơ hai tay gọi tôi.

Tôi nhào vào lòng mẹ. Tôi biết đi rồi. Mẹ ôm chặt tôi, lẩm bẩm:
- Con trai tôi biết đi rồi!

Bà dì giọng nghiêm trang, nói:

- Con cái như đàn chim, khi chúng đã biết bay thì có giữ cũng chẳng giữ nổi. Cháu thế nào? Ta nói là họ chết cả rồi, cháu sống ra sao?.

Mẹ nói:

- Cháu sống được.

Bà dì cao giọng, nói:

- Được hay không là ở chỗ khi có chuyện thì phải nghĩ rộng trên trời dưới biển, chí ít cũng phải ngang tầm quả núi, đừng tự mình làm khổ mình. Cháu có hiểu ý ta không?

Mẹ nói:

- Cháu hiểu.

Khi cáo từ ra về, bà dì hỏi:

- Mẹ chồng cháu còn sống không?

Mẹ nói:

- Còn sống, giường cứt chiếu đái trong chuồng lừa!

Bà dì nói:

- Cả đời hung hăng, ai ngờ đến nông nỗi ấy!
Nếu không có buổi trao đổi riêng tư hôm mồng một tết, thì tôi chưa thể bảy tháng đã biết đi, mẹ cũng khó mà vui vẻ dẫn chúng tôi đi xem đèn ngoài phố, chúng tôi chỉ ăn một cái tết nguyên tiêu vô vị, và như vậy lịch sử của gia đình tôi không phải như bây giờ. Người trên đường nườm nượp, nhưng hầu như toàn những khuôn mặt không quen. Một không khí đoàn kết yên vui giữa mọi người. Trẻ con dốt pháo chuột, len lỏi trong đám đông. Chúng tôi dừng lại trước cổng nhà Phúc Sinh Đường, ngắm nhìn hai quả đèn ***g to như hai chum nước treo hai bên cổng. ánh đèn rạng rỡ chiếu sáng tấm biển Phúc Sinh Đường. Cổng nhà Phúc Sinh Đường mở rộng, khoảng sân hun hút đèn nến sáng.trưng, tiếng ồn ào rộ lên từng đợt. Rất đông người tụ tập ngoài cổng, khoanh tay đứng im như đang chờ đợi. Chị Ba vốn lắm lời, hỏi người bên cạnh:

- Bác ơi, sắp phát chẩn hả bác?

Người đó không biết trả lời ra sao, chỉ lắc đầu. Một người đứng phía sau nói:

- Cô bé, làm gì có chuyện phát chẩn? Chị Hai quay lại hỏi:

- Không phải phát chẩn thì có chuyện gì vậy?.

Người kia nói:

- Diễn kịch hiện đại, nghe đâu có nghệ sĩ xuất sắc từ Tế Nam về biểu diễn.
Chị Hai còn định hỏi nữa, nhưng mẹ véo cho chị một cái, nên thôi.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:26 AM
Rồi, bốn người từ bên trong nhà Tư Mã đi ra, trên tay cầm bốn cây sào dài, đầu sào treo bốn vật đen sì, phun lửa chói mắt, sáng như ban ngày, không, sáng hơn ban ngày. Trên tháp chuông cách nhà Tư Mã không xa, đàn bồ câu bay tán loạn, vụt qua vùng sáng rồi mất hút vào màn đêm. Trong đám đông có người xuýt xoa đèn khí. Từ đó, chúng tôi mới biết, ngoài đèn đầu lạc, đèn đầu hỏa, đèn huỳnh quang, còn có đèn khí sáng nhức mắt. Bốn đại hán đen nhẻm chia nhau đứng thành một hình vuông trước cổng chẳng khác bốn cây cột nhà cháy. Trong cổng lại có mấy người khênh ra một tấm chiếu cói cuộn thành hình ống. Họ dặt cuộn chiếu xuống khoảnh đất hình vuông giữa bốn người kia, cơi dây buộc, tấm chiếu tự động mở ra. Họ cúi xuống túm lấy góc chiếu, còn hai chân thì đi chuyển những buộc ngắn mà nhanh. Do nhịp bước nhanh và ánh sáng những cây đèn quá mãnh liệt, nên chúng tôi bị hiện tượng lưu ảnh trong mắt, nhìn người nào cũng có ít nhất là bốn chân, giữa hai chân còn có luồng ánh sáng trong suốt và chằng chịt như mạng nhện, thành thử trông như họ đang giẫy giụa trong một cái mạng nhện khổng lồ. Trải chiếu xong, họ chào khán giả bằng điệu bộ của phường tuồng, mặt người nào cũng hóa trang thành một loại thú: báo, hươu sao, mèo rừng, có người hóa trang thành con hoan, một loại chồn khuôn mặt rằn ri, chuyên ăn vụng đồ cúng trong miếu. Chào xong, họ rút lui theo vũ điệu ương ca, hai bước tiến một bước lùi, vào trong sân nhà Phúc Sinh Đường.

Trong tiếng réo ù ù của đèn khí đốt, chúng tôi im lặng chờ đợi, chiếc chiếu mới tinh cũng đang chờ đợi. Bốn đại hán đen nhẻm, đã biến thành bốn tượng đá, tay giơ cao bốn cây đèn khí đốt. Một hồi não bạt rung lên, chúng tôi vô cùng náo nức, mọi ánh mắt đều nhìn vào trong cổng. Tôi có cảm tưởng chờ đợi đã nửa đời người mới thấy ông chủ Phúc Sinh Đường, Trưởng trấn Đại Lan, đương kim Trưởng An ninh thị trấn Tư Mã Đình với bộ mặt âu sầu bước ra. Lão xách trên tay chiếc thanh la méo mó vì bị gõ hàng tỉ lần, đi vòng quanh sân khấu một cách gượng gạo rồi dừng lại ở giữa chiếu, nói với khán giả:

- Các vị hương đảng, các cụ ông cụ bà, các bác các chú, các anh các chị, các cô các dì và các em! Anh em Tư Mã tôi đánh sập cầu, diệt đoàn tàu, tin thắng trận bay đi muôn ngả! Xa gần đều hỉ hả, quà tặng thư khen chất đầy nhà. Để ăn mừng thắng lợi vĩ đại này, anh em tôi có mời một ban hát về biểu diễn. Họ sắp sửa phấn son trình diện, diễn tích mới để giáo dục chung, ăn tết vui chớ quên chống Nhật, quyết đánh Nhật gìn giữ quê hương! Tư Mã Đình là đấng nam nhi, không chịu làm tay sai cho giặc. ới bà con, người Trung Quốc chúng ta, không bao giờ làm tay sai cho giặc!

Nói xong những lời có vần có vè ấy, Tư Mã Đình cúi chào, xách thanh la chạy vào va phải những người đang đi ra: một cây nhị, một cây sáo ngang, một cây tì bà. Các nhạc công này nách kẹp nhạc cụ, tay cầm ghế đẩu, tiến ra sân khấu.
Các nhạc công ngồi bên cạnh chiếc chiếu, so dây tưng tửng, lấy độ cao của sáo làm chuẩn. Cao thì hạ thấp, thấp thì tăng cao. Thống nhất giữa nhị, sáo và tì bà xong, họ dạo một đoạn tay ba, rồi dừng lại, chờ đợi. Rồi trống, thanh la, não bạt, phách kéo ra, ngồi đối diện với các nhạc công rồi tấu lên một hồi đinh tai nhức óc. Tiếng thanh la nhát gừng, tiếng trống điểm, tì bà, nhị, sáo cùng nổi lên, níu chân chúng tôi lại không cho bỏ đi, giữ hồn chúng tôi lại không cho nghĩ sang chuyện khác. Làn điệu lê thê, ai oán bi lụy, lúc thì nức nở, lúc não nuột. Đó là khúc gì nhỉ? Đó là một làn điệu vùng Cao Mật với giọng rướn cao, tục gọi là đóng cọc vợ. Điệu này mà hát lên là đảo lộn cương thường, nghe điệu này là quên cha quên mẹ. Thế là, cùng với tiếng phách, người nghe chân gõ nhịp, môi mấp máy và con tim thì ***g lên. Sự chờ đợi của chúng tôi căng thẳng như dây cung kéo hết cỡ... Một giọng rướn cao, lúc sắp kết thúc lại tăng lên một cung bậc nữa, vút tận trời xanh. Em là thiếu nữ dịu dàng... này... Trong dư âm của tiếng hát lả lơi, chị Hai Chiêu Đệ đầu cài bông hồng nhưng, mặc áo cài cúc lệch màu xanh sĩ lâm, quần chùng, giày thêu, tay trái khoác làn, tay phải cầm dùi gõ, bước đi như lưu thủy, từ trong cổng lướt ra sân khấu. Chị dừng lại giữa chiếu, ngay dưới ánh đèn, chào khán giả. Không phải lông mày mà là vầng trăng lưỡi liềm, mắt sắc như nước, mũi dọc dừa, cặp môi mọng, đỏ hơn hoa anh đào tháng Năm. Một khoảng im lặng, hàng vạn cặp mắt nhìn không chớp, hàng vạn trái tim ngừng đập, nín thở, rồi tất cả bật ra lời tán thưởng. Tiếp đó, chị Hai nhún chân nghiêng mình đảo một vòng quanh sân khấu, thân hình lả lướt như cây liễu bên hồ, chân bước nhẹ nhàng như rắn mạch tiêu trên ngọn lúa. Tối hôm đó tuy trời không gió, nhưng rất lạnh, chị Hai mặc bộ đồ mỏng, mẹ kinh ngạc khi nhận ra rằng, từ sau ngày ăn thịt con lệch, cơ thể chị Hai rất phát triển, hai trái lê đầy đặn và rất đẹp trước ngực, kế thừa truyền thống vú to mông nây của nhà Thượng Quan. Chị Hai dạo một vòng, hơi thở bình thường, thần sắc không thay đổi, hát tiếp câu thứ hai:.. kết duyên cùng anh hùng Tư Mã Khố. Câu này đều đều, không có đoạn vút lên cao, nhưng tác động thì lại ghê gớm. Khán giả thì thầm hỏi nhau:

- Con nhà ai thế!

- Con gái nhà Thượng Quan đấy!

- Con gái nhà Thượng Quan chẳng phải đã bỏ nhà đi theo đội trưởng Đội Hỏa-Mai rồi sao?

- Đây là đứa thứ hai.

- Làm vợ bé Tư Mã Khố từ hồi nào vậy?

- Đ. mẹ các vị, đây là diễn kịch! - Đ. mẹ các vị, câm mồm!

Chị ba Lãnh Đệ và các chị gào lên để thanh minh cho chị Hai. Đám đông tạm thời im lặng.
Chồng tôi là chuyên gia phá cầu. Tết Đoan dương dùng rượu đánh hỏa công, cầu Thuồng Luồng lửa xanh trùm kín, bọn giặc lùn kêu mẹ khóc cha! Mông bị thương chàng không bỏ cuộc, đêm hôm qua mưa gió đầy trời, chàng lại phá sập đường sắt....

Tiếp theo, chị Hai làm động tác **c băng, giặt giũ quần áo. Chị giả vờ xuýt xoa vì rét, chẳng khác chiếc lá khô còn vương trên cành giữa mùa đông. Khán giả như bị nhập cuộc, người thì xuýt xoa than thở, kẻ lau nước mắt. Đột nhiên, chị Hai đứng vụt dậy nhìn về phương xa...

Hướng tây nam tiếng nổ vang trời, ánh lửa hồng rừng rựectrong đêm, nhất định là chúng tôi đã thắng, lũ giặc lùn đi chầu Diêm vương. Tôi trở về nhanh tay hầm rượu, vặt con gà làm một bát ninh....

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:27 AM
Rồi chị Hai làm bộ thu dọn quần áo, hát tiếp: Ngẩng lên nhìn, gặp một con lang.... Những người khênh chiếu khi nãy mặt vẽ rằn ri, lộn vòng tròn ra sân khấu, vây quanh chị Hai, người cào người cấu, chẳng khác nào bốn con mèo vây quanh một con chuột. Người mặt vẽ sọc như con hoan hát giọng quái gở: đội trưởng Kaxi chính là ta, ta đang tìm cô gái mặt hoa. Nghe nơi đây người đẹp đầy đường, ngước mắt nhìn gặp ngay một ả Nương tử ơi, xin hãy dừng chân, theo ta về cùng nhau hưởng phúc. Liền sau đó, bốn người áp sát chị Hai. Chị Hai cứng người lại thẳng như một khúc gỗ, bốn tên giặc Nhật nâng chị cao quá đầu, đi vòng quanh chiếu. Thanh la não bạt dồn dập như giông bão. Khán giả kích động sán lại gần. Mẹ quát to:

- Để con gái tôi xuống - vừa quát vừa xông lên sân khấu.

Tôi đứng thẳng hai chân trong túi, có cảm giác giống như sau này tôi cưỡi ngựa. Mẹ giơ hai tay như chim ưng sắp vồ con thỏ, ghì chặt hai chân đội trưởng Kaxi. Hắn kêu lên đau đớn rồi bỏ tay ra. Ba tên kia cũng rụt tay về. Chị Hai ngã thẳng cẳng trên chiếu, ba người kia bỏ chạy. Mẹ tôi ngồi lên bụng Kaxi, cào xé mặt anh ta. Chị Hai kéo tay mẹ, lớn tiếng trách:

- Mẹ ơi, đây là diễn kịch, không phải thật!

Có mấy người chạy ra, gỡ Kaxi khỏi tay mẹ. Đội trưởng Kaxi mặt đầy máu, bỏ chạy vào trong cổng. Mẹ thở hồng hộc, vẫn chưa hết giận, nói:

- Dám hà hiếp con gái ta nữa thôi?

Chị Hai nổi cáu:

- Mẹ, kịch hay thế mà mẹ phá đám.

Mẹ bảo:

- Chiêu Đệ, về nhà đi con, con không nên diễn loại kịch này.

Mẹ giơ tay kéo chi Hai Chị gạt tay mẹ ra, rầu rĩ:

- Mẹ đừng bêu xấu con ở chỗ này! Mẹ nói:

- Chính con bêu xấu mẹ! Về nhà!
Chị Hai nói:

- Con không về.

Lúc này Tư Mã Khố hát giọng nam cao bước ra: Đánh sập cầu, ta thúc ngựa trở về.... Anh ta đi ủng, dội mũ lính, tay cầm roi da, xuống ngựa - con tuấn mã tưởng tượng - chân di chuyển, người nhấp nhô như sóng, hai tay giữ dây cương vô hình, làm bộ phi ngựa. Chiêng trống rầm trời, đàn sáo réo rắt, nhất là cây sáo ngang khiến người tâm thần mê mẩn, không phải vì kinh sợ, mà vì sức truyền cảm. Tư Mã Khố mặt đanh lại, hát tiếp: Trên đê chợt nghe tiếng ồn ào, ra roi thúc ngựa đến xem sao?.. Hồ cầm mô phỏng tiếng vó ngựa, cộp cộp... cộp cộp... Lòng như lửa dốt, ngựa ruổi như bay, một bước gộp nửa, ba bước gộp hai... Chiêng trống càng gấp, đánh gót, nhích chân, đại bàng nghiêng cánh, trâu già vận hơi, sư tử hí cầu... Tư Mã Khố biểu diễn toàn bộ những tuyệt kỹ của anh ta, khó mà nghĩ rằng mông đít anh ta đang dán miếng cao nặng nửa cân.

Chị Hai sốt ruột đẩy mẹ ra. Mẹ vẫn chửi sơi sơi nhưng đã lui về chỗ cũ. Ba diễn viên sắm vai lính Nhật lách vào giữa lại định nâng chị Hai lên. Đội trưởng Kaxi đã mất tăm, ba người còn lại đành phải hai người khênh đằng đầu, một người khênh hai chân, mái tóc hoa râm của anh ta kẹp giữa hai chân chị Hai trông thật ngộ, khán giả cười rũ. Cái đầu kẹp giữa hai chân nháy mắt nhíu mày, khán giả càng cười, lại càng nhíu mày nháy mắt. Tư Mã Khố tỏ vẻ không bằng lòng, nhưng vẫn hát tiếp: Chợt nghe tiếng người huyên náo, giặc Nhật kia giở thói ngông cuồng, không kể hiểm nguy ta liều xông tới làm điệu bộ túm tay.

- Dừng ngay! Tư Mã Khố túm tóc trên cái đầu kẹp giữa hai chân chị Hai, quát to. Tiếp đó là cảnh đấu võ, vốn là bốn đấu một, nay chỉ còn ba đấu một. Sau một trận đánh xáp lá cà, Tư Mã Khố đã đánh bại quân Nhật, cứu thoát vợ. Giặc Nhật quì trên chiếu, Tư Mã Khố dắt tay chị Hai trong tiếng nhạc tung bừng phấn khởi đi vào trong cổng. Sau đó bốn người cầm đèn khí đốt đột nhiên sống lại, vác sào chạy vào trong, ánh sáng không còn nữa, trước mắt chúng tôi là màn đêm đen kịt.

Sáng sóm hôm sau, quân Nhật chính cống bao vây thôn. Tiếng súng, tiếng pháo, tiếng ngựa hí lôi chúng tôi ra khỏi giấc ngủ. Mẹ bế tôi dẫn bảy chị xuống hầm, bò một đoạn tối tăm ướt át và lạnh, đến chỗ hầm rộng. Mẹ thắp đèn. ánh đèn vàng vọt, chúng tôi ngồi trên cỏ khô, lắng nghe động tĩnh bên trên. Không rõ thời gian đã trôi đi bao lâu, có tiếng thở phì phò ở đoạn hầm phía trước. Mẹ cầm lấy cái kìm rèn sắt, thổi tắt ngọn đèn trong hốc vách hầm. Trong hầm lập tức tối đen. Tôi khóc, mẹ nhét đầu vú vào miệng tôi. Tôi cảm thấy đầu vú của mẹ lạnh ngắt và cúng, mất hẳn tính đàn hồi, còn có vị vừa mặn vừa đắng.

Tiếng thở ngày càng gần, mẹ giơ cao chiếc kìm. Khi đó tôi nghe rõ tiếng chị Hai đã lạc cả giọng:

- Mẹ ơi, mẹ đừng đánh, con dây mà!...

Mẹ thở ra một hơi, hai tay cầm kìm buông thõng:

- Chiêu Đệ, con làm mẹ sợ chết khiếp - mẹ nói.

- Mẹ thắp đèn lên đi, phía sau còn có người - chị Hai nói.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:36 AM
Mẹ rất vất vả mới thắp được đèn lên. ánh đèn vàng vọt lại chiếu sáng căn hầm. Chúng tôi nhìn chị Hai lấm bùn từ đầu đến chân. Trên má chị có một vết máu, trong tay ôm một cái bọc. - Bọc gì đấy? Mẹ hoảng sợ, hỏi. Miệng chị Hai chợt méo xệch, nước mắt chảy trên khuôn mặt lem luốc:

- Mẹ ơi! chị nức nở, đây là con trai của bà Ba.

Mẹ sững người, nổi điên lên:

- ở đâu thì đem trả về đó!

Chị lết bằng đầu gối, ngửa mặt nhìn mẹ:

- Xin mẹ mở lòng từ bi, anh ấy bị giết cả nhà, chỉ còn mỗi hạt giống này....
Mẹ lật một góc cái bọc, lộ ra khuôn mặt choắt vừa gầy vừa đen của thằng nhỏ nhà Tư Mã. Nó đang ngủ say. Nó thở đều đều, miệng chóp chép như đang bú. Tôi căm thằng nhỏ quá đỗi. Tôi nhả đầu vú ra, gào thật to. Mẹ bịt miệng tôi bằng cái đầu vú càng đắng hơn.

- Mẹ có bằng lòng cho nó ở lại không? - Chị Hai hỏi.

Mẹ nhắm mắt, không trả lời.

Chị Hai dúi thằng nhỏ vào lòng chị Ba, quì xuống lạy mẹ một lạy, vừa khóc vừa nói:

- Mẹ ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người ta. Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ.

Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại, hỏi:

- Mày đi đâu bây giờ?

Chị Hai nói:

- Mẹ ơi, chân anh ấy bị thương, hiện nấp ở chỗ cối xay bột. Con phải đi tìm anh ấy!

Lúc này, bên ngoài vọng lại tiếng chân ngựa và tiếng súng chói tai. Mẹ nghiêng người bịt lấy lối ra hầm củ cải, nói:
- Mẹ đồng ý với con bất cứ điều gì, nhưng không thể để con đến chỗ chết!
Chi Hai nói:

- Mẹ ơi, chân anh ấy máu cứ chảy mãi. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết, thì con sống còn có ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi...

Mẹ kêu trời, nhưng sau đó im bặt.

Chị Hai nói:

- Mẹ, con gái mẹ xin lạy mẹ đây!

Chị quì xuống, dập đầu lạy, ấp mặt vào bắp chân mẹ một thoáng, rồi chị nhắc chân mẹ sang một bên, chui ra ngoài.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:38 AM
5.



Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng Phúc Sinh Đường. Chiếc giá gỗ dựng bằng năm cây sam to và thẳng đuột, trông giống một cây đu. Những cái đầu xâu bằng dây thép, treo dưới cây gỗ bắc ngang. Tuy đã bị lũ quạ, chim sẻ, chim cút mổ hết thịt, nhưng vẫn rất dễ nhận ra đầu nào là đầu của vợ Tư Mã Đình; đầu hai đứa con ngơ ngẩn của Tư Mã Đình; của vợ cả, vợ hai và vợ ba của Tư Mã Khố; chín cái đầu của lũ con trai con gái do ba người vợ của Tư Mã Khố đẻ ra, đầu của bố mẹ bà Ba đến thăm con gái và đầu của hai người em của ông bà. Sau trận cướp phá, thôn xóm sặc mùi chết chóc, những người sống sót thì như hồn ma, ban ngày rúc vào chỗ tối, ban đêm mới dám mò ra. Chị Hai đi biệt, không một mẩu tin. Thằng nhỏ chị để lại cho chúng tôi đã gây biết bao phiền não. Trong những ngày nấp trong hầm tối, vì không nỡ để nó chết đói mẹ buộc phải cho nó bú sữa. Nó ngoác miệng, mở to cặp mắt thô lố, mút chùn chụt bầu vú vốn thuộc về tôi. Nó ăn nhiều kinh khủng, ti đến nỗi hai bầu vú chi còn như hai cái túi da lép, mà vẫn ngoác miệng ra khóc. Nó khóc như tiếng quạ, như tiếng ếch, tiếng cú kêu. Ve ngoài của nó giống chó sói, chó hoang, giống con thỏ rừng. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Khi nó độc chiếm bầu vú của mẹ, tôi chỉ khóc. Khi tôi giành lại bầu vú của mẹ, nó cũng khóc. Khi gào khóc, nó vẫn mở to mắt. Mắt nó như mắt của thằn lằn. Chị Chiêu Đệ chết tiệt đã đem về một tiểu yêu do thằn lằn đẻ ra. Bị hai tầng xâu xé, mặt mẹ bủng ra trên người đã thấy những mầm mống của bệnh tật, chẳng khác những củ cải trải qua một mùa đông dài đặc dưới hầm. Trước tiên là ở hai bầu vú của mẹ. Sữa ngày một ít đi, trong sữa tôi cảm thấy mùi vị của củ cải thối. Cái thằng khốn nạn nhà Tư Mã, lẽ nào mi không cảm thấy mùi vị đáng sợ ấy Của ai thì người ấy tiếc, nhưng tôi không thể tiếc bầu vú của mẹ được nữa. Tôi không bú thì nó bú. Hồ lô của tôi, bồ câu non của tôi, lọ sứ của tôi đã nhăn nheo, thủy phần giảm, gân xanh chằng chịt, đầu vú thâm lại, rũ rượi chúc đầu xuống.
Vì tính mạng của tôi và của thằng khốn nạn, mẹ mạnh dạn đưa các chị tôi ra khỏi hầm, về với trần gian đầy ánh nắng. Lúa mạch ở chái đông không còn một hạt, lừa và la cũng không còn, nồi niêu bát đĩa vỡ nát, tượng Quan âm trên bàn thờ chỉ còn là cái xác không đầu. Mẹ quên không dám áo lông chồn xuống hầm, áo chẽn lông mèo rừng của tôi và chị Tám cũng mất. áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người. Bà nội nằm dưới cái cối xay ở chái tây, ngốn hết hai mươi cân củ cải mẹ để lại, ị ra một đống phân lổn nhổn như đá cuội. Khi mẹ vào cho bà ăn, bà ném những cục phân khô vào người mẹ. Mặt bà nội như củ cải thối, tóc bạc bết lại như sợi thừng, có lọn dựng ngược, lọn thì rũ xuống lưng. Mắt bà nội có màu xanh lục. Mẹ chẳng còn cách nào, chỉ lắc đầu, đặt mấy củ cải trước mặt bà nội. Người Nhật, có lẽ là người Trung Quốc, chỉ để lại cho chúng tôi một phần nhỏ củ cải đã mọc mầm. Mẹ tuyệt vọng quá, bê ra một cái vại chưa bị đập vỡ, trong vại có gói bột thạch tín mà bà nội giấu kỹ. Mẹ đổ thạch tín vào nồi củ cải. Thạch tín tan ra, mặt nồi có váng như đầu, một mùi tanh bay lên. Mẹ dùng môi khuấy đều, múc lên một môi rồi rót xuống nồi: một thứ nước **c lờ chảy qua chỗ môi mẻ, rớt tong tỏng. Hai bên mép mẹ giật giật một cách kỳ quái. Mẹ múc củ cải ra cái bát mẻ, bảo chị Lãnh Đệ:

- Lãnh Đệ, đem bát củ cải vào cho bà nội.

Chị Ba nói:

- Mẹ cho thuốc độc vào củ cải à?.

Mẹ gật.

- Để bà nội trúng độc mà chết hả mẹ? Chị Ba hỏi.

Mẹ nói:

- Cả nhà cùng chết!

Các chị khóc ầm lên, chị Tám mù cũng khóc theo, tiếng khóc mảnh như sợi tơ, như tiếng vo ve của con ong mật. Chị Tám là thê thảm nhất của nỗi thê thảm, đáng thương nhất của sự đáng thương.

- Mẹ ơi, chúng con không muốn chết!
Các chị van xin mẹ. Tôi cũng hùa theo khóc tấm tức:

- Mẹ.. mẹ...

Mẹ nói:

- Khổ thân các con!...

Mẹ khóc òa lên, khóc rất lâu chúng tôi khóc theo. Mẹ hỉ mũi rõ kêu, quẳng cái bát cùng với thạch tín ra sân, nói:

- Không chết nữa! Chết đã không sợ, thì sống không có gì phải sợ cả!

Nói xong, mẹ đứng dậy dẫn chúng tôi ra phố tìm cái ăn. Chúng tôi là những người đầu tiên xuất hiện ngoài đường.

Lúc đầu, khi trông thấy những cái đầu của nhà Tư Mã, các chị còn có vẻ sợ; vài hôm sau, các chị coi như không có gì xảy ra. Thằng khốn nhà Tư Mã mẹ bế đằng trước, đối xứng với tôi ở phía sau lưng. Mẹ có lần chỉ vào những cái đầu treo lủng lẳng đó, khẽ bảo nó:

- Con ơi, hãy nhớ lấy!

Mẹ và các chị ra khỏi thôn, ra đồng đào rễ cỏ rửa sạch, đem về giã nhỏ nấu cháo. Chị Ba rất thông minh, chị tìm ra hang chuột đồng, không những thịt rất thơm, mà còn lấy được lương thực giấu trong hang. Các chị còn đan lưới bằng chỉ gai, bắt những con cá, con tôm gầy đét và thâm sì sau một mùa đông nhịn đói. Một hôm, mẹ thử đút cho tôi một thìa cháo cá, tôi lập tức nhổ ra và cất tiếng khóc. Mẹ đút thìa cháo vào miệng thằng khốn nhà Tư Mã, nó nuốt luôn. Mẹ lại đút cho nó thìa nữa, nó lại nuốt. Mẹ phấn khởi, nói:

- Tốt rồi, thằng oan nghiệt này ăn lấy được rồi!

- Còn con thì sao?

Mẹ nhìn tôi:

- Con cũng đã đến lúc cai sữa rồi!

Tôi kinh hoảng túm chặt bầu vú của mẹ.

Noi gương chúng tôi, những người trong thôn mò ra khỏi nhà. Tai họa khủng khiếp giáng lên đầu lũ chuột đồng, rồi tiếp theo là thỏ, cá tôm, ốc, hến, rắn, nhái. Trên những cánh đồng mênh mông, mọi sinh vật chỉ còn sót lại cóc tía có nhựa độc và loài chim có cánh. Nếu như rau dại không mọc kịp thời, thì quá nửa người dân trong thôn đã chết đói. Sau tết thanh minh, hoa đào rụng cánh, hơi nước lang thang trên mặt ruộng, đất đai đã cựa mình đợi gieo trồng, nhưng chúng tôi không có gia súc, không có hạt giống. Khi nước trong đầm đã đầy, những con nòng nọc béo mẫm bơi dày đặc ven hồ và ao chuôm, dân chúng bắt đầu bỏ quê, tha phương cầu thực. Đến tháng Tư gần như cả thôn bỏ đi hết, nhưng sang tháng Năm, phần lớn lại trở về. Ông Ba Phàn nói, dù sao thì nơi đây còn có rau dại, cỏ dại ăn đỡ đói, những nơi khác, ngay cả rau dại cỏ dại cũng không còn. Đến tháng Sáu có rất nhiều người nơi khác đến đây. Lúc đầu, họ ngủ trong nhà thờ, trong cái sân sâu hun hút của nhà Tư Mã, trong khu vục cối xay bột bỏ hoang. Họ điên khùng như những con chó đói, cướp giật hết thức ăn của chúng tôi. Về sau, ông Ba Phàn tập hợp những người đàn ông trong thôn mở đợt truy đuổi những kẻ ngụ cư. Ông Ba Phàn là lãnh tụ của chúng tôi. Đám ngụ cư cũng cử ra lãnh tụ của chúng. Đó là một thanh niên có cặp lông mày rậm. Anh ta là một tay săn chim cừ khôi, lúc nào cũng có hai cây cung giắt ở thắt lưng, vai đeo chéo một túi vải, trong đó chứa đầy những viên dạn nặn bằng đất sét. Chị Ba khi đào rau dại đã chúng kiến tuyệt kỹ của anh ta: Hai con gà gô đang giao phối trên lưng chừng trời, anh ta rút cây cung, cũng không thèm ngắm, gần như bắn chơi một viên, con gà gô rơi thẳng đứng ngay dưới chân chị Ba. Anh ta cầm con gà gô bước tới chỗ chị Ba. Chị căm thù nhìn anh ta. Ông Ba Phàn đã tuyên truyền rất nhiều về những kẻ ngụ cư, nhen lên mối hận thù của chúng tôi với họ. Anh ta không những không nhặt con gà gô dưới chân chị, mà còn đưa nốt con gà gô trên tay rồi đi luôn, không nói câu nào.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:39 AM
Chị Ba cầm hai con gà gô về nhà, để mẹ ăn phần thịt, các chị và thằng khốn húp xương ninh nhừ, còn xương không thì dành cho bà nội. Bà nhai rôm rốp. Chị Ba giữ bí mật cho riêng mình về chuyện anh chàng ngụ cư cho chị gà gô. Rất nhanh, gà gô biến thành mùi vị thơm ngon của sữa, chảy vào dạ dày tôi. Một bận, nhân lúc tôi ngủ, mẹ thử nhét vú vào miệng thằng khốn Tư Mã, nhưng nó từ chối. Nó lớn lên nhờ rễ cỏ vỏ cây, ăn khỏe kinh khủng, thứ gì đưa vào là hắn ăn tuốt. Đúng là một con lừa, mẹ nói vậy, số mi là số ăn cỏ. Phân của nó thải ra cũng giống như phân lừa, phân ngựa. Hơn thế, mẹ còn cho rằng nó có những hai dạ dày, biết nhai lại. Thường trông thấy cỏ dại ợ ra trong miệng nó. Nó lim dim mắt nhai rào rạo có vẻ rất ngon lành, mép sùi bọt trắng. Nhai kỹ rồi, nó dưới cổ nuốt ục một cái vào bụng.

Dân làng trong thôn mở cuộc chiến với dân ngụ cư. Trước tiên, ông Ba Phàn nói lý với bọn chúng, mời chúng đi khỏi địa phận chúng tôi. Đại biểu dân ngụ cư lại chính là chuyên gia về săn bắt chim, có biệt hiệu là Hàn Chim, người đã tặng chị Ba hai con gà gô. Tay giữ chặt cây cung bắn liên châu, anh ta cũng dùng lý lẽ để bác bỏ, không chút nhân nhượng. Anh ta nói rằng, vùng Cao Mật vốn là đất vô chủ, đất hoang, mọi người đều là dân từ nơi khác đến, các ông ở được, tại sao chúng tôi không được ở? Lời đi tiếng lại, thành ra cãi nhau, cãi hăng quá biến thành xỉa xói, giằng kéo. Trong thôn có một anh chàng hung hăng biệt hiệu là Sáu-bạo-phổi, từ phía sau ông Ba Phàn nhảy vọt ra, nhằm đầu bà mẹ Hàn Chim vụt một gậy sắt. Bà lão vỡ óc, chết tại chỗ. Hàn Chim rú lên một tiếng như con sói bị thương, rút cây cung bắn một phát đạn đôi, vỡ tung hai mắt của Sáu-bạo-phổi. Tiếp theo là một cuộc hỗn chiến. Những người ngụ cư yếu thế. Hàn Chim cõng xác mẹ, vừa đánh vừa rút lui về dưới chân Bãi-Cát-Dài. Hàn Chim đặt xác mẹ xuống, đặt đạn vào đây cung nhằm ông Ba Phàn, nói:

- Lão đầu sỏ kia, không nên cạn tàu ráo máng. Con giun xéo lắm cũng quằn đấy!

Lời chưa dứt, một tiếng phụt, viên đạn xé rách tai trái ông Ba Phàn. Hàn Chim nói:

- Ta nể lão cũng là người Trung Quốc, tha chết cho lão!

Ba Phàn ôm cái tai rách đôi, lẳng lặng rút lui.

Những người ngụ cư dựng lên mấy chục túp lều từ chân Bãi-Cát-Dài, giành lấy chỗ đứng cho mình. Mười mấy năm sau, nơi dây trở thành thôn trang. Lại qua đi mười mấy năm, trở thành một thị trấn phồn hoa, nhà cửa nối liền với trấn Đại Lan, chỉ một khoảng trống là cái đầm lớn và một con đường nhỏ. Những năm 90, Đại Lan trở thành thành phố, thị trấn Bãi-Cát-Dài trở thành khu Loan Tây của thành phố. Khi ấy, nơi đây xây dụng một Trung tâm nuôi chim phương Đông; những giống chim quý đã tuyệt chủng ở nhiều nước, có thể mua được ở đây. Đương nhiên, việc mua bán chim thú quí phải tiến hành bí mật. Người sáng lập Trung tâm Chim là con trai Hàn Chim, có biệt hiệu Hàn Vẹt. Hàn Vẹt giàu lên nhờ nuôi dưỡng, nhân giống và lai tạo giống mới, giống chim vẹt, và được sự trợ giúp của vợ là Cảnh Liên Liên, anh ta vang bóng một thời, sau đó bị ngồi tù
Hàn Chim chôn mẹ trên Bãi-Cát-Dài. Tay xách cung, nói giọng vùng khác, anh ta đi hai vòng trên phố, miệng thì chửi bới, ý tứ như sau:

- Tao bây giờ là thằng độc thân, giết một người hòa vốn, giết hai người lãi một. Mong các người coi như không có chuyện gì xảy ra.

Tấm gương Sáu-bạo-phổi mù cả hai mắt và lão Ba Phàn đứt đôi vành tai sờ sờ ra đấy! Những người trong thôn không ai muốn dằn mặt anh ta. Với lại, chị Ba nói, người ta đã phải trả giá bằng cái chết của bà mẹ rồi.

Từ đó, dân ngụ cư và dân trong thôn chung sống hòa bình với nhau, tuy bằng mặt chẳng bằng lòng. Chị Ba và Hàn Chim hầu như mỗi ngày đều gặp nhau ở nơi lần đầu họ gặp nhau, tặng gà gô cho nhau, lúc đầu làm ra vẻ ngẫu nhiên, sau đó trở thành hẹn ước nơi điền dã, chưa gặp mặt thì chưa về. Hai bàn chân chị Ba đã biến nơi hẹn hò thành một mảnh đất trống trơn, không cỏ nào mọc được. Mỗi lần gặp, Hàn Chim đều không nói gì, chỉ bỏ chim lại rồi đi, lúc thì đôi chim gáy, lúc con vịt trời.

Một bận, anh ta bỏ lại một con chim cực lớn, dễ đến ba mươi cân, chị Ba vất vả lắm mới vác được nó về nhà. Ngay cả ông Ba Phàn là người hiểu rộng biết nhiều cũng không biết nó là chim gì. Tôi chỉ biết rằng thịt nó cực ngon, tất nhiên là tôi cảm nhận mùi vị ấy qua sữa của mẹ.

Ông Ba Phàn cậy vào mối quan hệ thân mật với gia đình tôi, đặc biệt lưu ý mẹ tôi về mối quan hệ giữa chị Ba với Hàn Chim. Những lời ông nói rất kém giá trị, thối tha nữa là khác:

- Cô cháu đâu này, con đĩ nhà mình với thằng bắt chim ấy mà... Hừm, bại hoại luân thường! Mọi người thấy chướng mắt lắm!

Mẹ nói:

- Nhưng nó còn nhỏ mà?

Ông Ba Phàn nói:

- Con gái nhà chị khác con nhà người ta!
Mẹ vặc lại một câu:

- Cái bọn rỗi hơi ấy cho chúng nó xuống địa ngục!

Tuy mẹ cãi lại ông Ba Phàn, nhưng khi chị Ba lễ mễ vác con sếu đầu đỏ về nhà, mẹ đã nói chuyện nghiêm chỉnh với chị:

- Lãnh Đệ! - Mẹ nói - nhà mình không ăn thịt chim của người ta nữa?

Chị Ba nhướng mắt hỏi:

- Sao thế, mẹ? Anh ấy bắt chim còn dễ hơn mình bắt rận ở trên người?

Mẹ nói:

- Dễ mấy cũng là người khác bắt, con không hiểu câu há miệng mắc quai hay sao?

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:40 AM
Chị Ba nói:

- Sau này ta sẽ trả nợ anh ấy?

Mẹ hỏi:

- Lấy gì để trả?

Chị Ba nhẹ như không:

- Con lấy anh ấy.

Mẹ nghiêm sắc mặt:

- Lãnh Đệ, hai chị con đã đủ cho nhà Thượng Quan xấu hổ rồi, đến lượt con, nói gì thì mẹ cũng không chịu đâu?

Chị Ba vùng vằng:

- Mẹ nói hay nhỉ! Nếu không có anh ấy, liệu nó có được như vậy không?

Chị Ba chỉ vào tôi, lại chỉ vào thằng khốn nhà Tư Mã:

- Và cả nó nữa!

Mẹ nhìn khuôn mặt hồng hào của tôi và khuôn mặt hồng hồng của thằng nước nhà Tư Mã, không nói lại được câu nào. Lặng đi một lúc, mẹ nói:

- Lãnh Đệ, từ nay trở đi không thèm ăn thịt chim của nó nữa!

Hôm sau, chị Ba xách về một xâu chim cu ngói, giận dỗi quẳng dưới chân mẹ.
Thấm thoát đã sang tháng Tám, từng đàn chim nhạn từ phương xa bay về, đậu trên vùng đầm phía tây nam thôn tôi. Người trong thôn và dân ngụ cư dùng lưỡi câu, dùng lưới - những phương thức cổ lỗ - để bắt chim nhạn. Lúc đầu bắt được rất nhiều, đến nỗi chỗ nào cũng có lông nhạn, nhưng rồi những con nhạn tinh khôn ra, không đỗ ở những nơi rất sâu trong đầm lầy, ngay cả những con cáo cũng không thể đặt chân tới, khiến những mánh lới của mọi người đều đã tràng xe cát, chỉ có chị Ba mỗi ngày đem về một con nhạn khi còn sống, lúc đã chết, có trời mới biết Hàn Chim làm thế nào để bắt được chúng.
Trước sự thực đó, mẹ đành thỏa hiệp, vì rằng nếu không ăn thịt chim của Hàn Chim cho, chúng tôi sẽ thiếu dinh dưỡng; sẽ như phần lớn số người trong thôn, phù thũng, thở nặng nhọc, hai mắt đỏ như lửa cứ nháy liên tục. Mà nhận chim của Hàn Chim thì chắc chắn là có một con rể chuyên gia về săn bắt chim tiếp theo rể đội trưởng Đội Hỏa mai và rể chuyên gia phá cầu.

Buổi sáng ngày mười sáu tháng Tám, chị Ba lại ra chỗ cũ để lấy chim. Chúng tôi ngồi đợi ở nhà. Mọi người đã ngán ăn thịt nhạn có vị có xanh, hi vọng Hàn Chim đổi khẩu vị, cho chúng tôi loại chim khác. Chúng tôi không dám mơ ước chị Ba lại đem về một con chim cực lớn, thịt thơm ngon như ngày nào, nhưng rất có thể chị đem về đại loại như vịt trời, chim cút, cu gáy, ngỗng trời chăng hạn.

Chị Ba trở về tay không, hai mắt đỏ như hạt đào vì khóc. Mẹ hỏi nguyên do, chị nói:

- Hàn Chim đã bị một bọn mặc quân phục đen, đeo súng trường, cưỡi xe đạp bắt đi rồi... Cùng bị bắt là mười mấy thanh niên trai tráng. Họ bị trói thành một xâu. Hàn Chim cố vùng ra, bắp thịt ở vai gồng lên như những quả bóng nhỏ. Bọn lính dùng báng súng nện vào mông vào lưng, đá vào chân Hàn Chim. Anh ta vằn mắt lên, đỏ quạch như sắp bật máu hoặc sắp tóe lửa. - Các ông bắt tôi vì tội gì - Hàn Chim gào lên. Một tên tiểu đầu mục bốc một nắm bùn ném vào mặt Hàn Chim bịt kín cả hai mắt. anh ta gầm thét như con thú cùng đường. Chị Ba chạy vượt lên gọi to: Anh Hàn Chim... Dừng lại! Chị gọi nữa: - Anh Hàn Chim. Bọn lính nhìn chị, cười đểu cáng. Cuối cùng, chị Ba nói: - Hàn Chim, em đợi anh! Hàn Chim quát to: Cút mẹ cô đi, ai cần cô đợi?

Bữa trưa, nhìn nồi canh rau dại có thể soi gương, chúng tôi - tất nhiên trong đó có mẹ tôi - mới thấm thía tầm quan trọng của Hàn Chim đối với gia đình tôi. Chị Ba nằm sấp trên giường, khóc hai ngày hai đêm. Mẹ dùng mấy chục cách để chị nín nhưng không kết quả.

Sau ngày Hàn Chim bị bắt được ba hôm, chị Ba ngồi dậy, chân trần, chị để hở ngực mà không xấu hổ bước ra sân. Chị trèo lên ngọn cây thạch lựu, sức nặng uốn cành lựu cong như một cây cung. Mẹ vội kéo chị xuống, chị nhanh nhẹn chuyền sang cây ngô đồng, rồi từ cây ngô đồng chuyền sang cây trứng gà, từ cây trứng gà chị nhảy xuống nóc nhà. Chị nhanh nhẹn đến mức khó tin, như mọc thêm đôi cánh. Chị cưỡi trên nóc nhà, hai mắt ngây dại, nụ cười mê hồn nở trên khuôn mặt. Mẹ đứng dưới sân, van vỉ rất đáng thương:

- Lãnh Đệ, con gái yêu của mẹ! Xuống đi con, từ nay mẹ không bắt khoan bắt nhặt con nữa, con muốn làm gì thì làm!
Chị Ba không phản ứng gì, hình như chị đã biến thành chim, không hiểu tiếng người. Mẹ gọi chị Tư, chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, chị Tám và cả thằng nhóc nhà Tư Mã ra sân, bảo các chị cùng gọi chị Ba. Các chị nước mắt ràn rụa, lên tiếng gọi. Chị Ba vẫn thản nhiên như không. Chị nghiêng đầu, gặm gặm vào vai như chim rỉa lông. Đầu chị quay đi, quay lại với một góc khá rộng, cổ linh hoạt như trục xoay, chị không những có thể gặm vào vai, mà có thể cúi xuống gặm hai đầu vú nho nhỏ. Tôi không nghi ngờ rằng chị có thể cúi xuống gặm mông, vào gót chân, hễ muốn là chị có thể tiếp xúc với bất cứ bộ phận nào trên cơ thể.

Trên thực tế, tôi cho rằng, khi chị Ba ngồi trên nóc nhà, chị đã nhập vào thế giới của loài chim, suy nghĩ là suy nghĩ của chim, hành vi là hành vi của chim, thái độ là thái độ của chim. Tôi cho rằng, nếu như mẹ không gọi một số người cương quyết như ông Ba Phàn, lấy máu chó đổ lên đâu chị Ba, chắc chắn chị sẽ mọc thêm đôi cánh tuyệt đẹp, biến thành một con chim đẹp, không là phượng hoàng thì là khổng tước, không là khổng tước thì là gà nấm, dù biến thành chim gì thì chị cũng cất cánh bay cao, đi tìm Hàn Chim của chị. Nhưng cuối cùng lại là một kết quả đáng hổ thẹn và đáng giận: ông Ba Phàn sai Trương Mao Lâm, một thanh niên có thân hình nhỏ bé, linh hoạt, có biệt hiệu là Lâm-khỉ, xách một thùng máu chó, bí mật trèo lên nóc nhà tiếp cận chị Ba từ phía sau rồi đổ úp lên đầu chị. Chị Ba nhảy dựng lên, giang rộng hai tay mang đầy ý niệm về bay lượn nhưng thân thể chị thì lại lăn lông lốc trên mái hiên rồi rơi xuống lối đi đầy gạch vỡ. Đầu chị thủng một lỗ to bằng hạt hạnh, máu chảy nhiều, chị ngất đi.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:41 AM
Mẹ vừa khóc vừa bốc một nắm tro đắp vào lỗ thủng trên đầu chị, rồi cùng với chị Tư chị Năm, rửa sạch máu chó trên người chị, khênh chị vào giường. Lúc chạng vạng tối, chị Ba tỉnh lại. Mẹ rưng rung nước mắt, hỏi:

- Lãnh Đệ, con khỏi hẳn chưa?

Chị nhìn mẹ, có vẻ như gật đầu lại hình như không phải là gật. Nước mắt chị rơi lã chã: Mẹ nói:

- Khổ thân con tôi.

Chị Ba lạnh lùng nói:

- Anh ấy bị bắt sang Nhật rồi, mười tám năm sau mới trở về. Mẹ lập bàn thờ cho con, con là Tiên Chim đấy!

Nghe chị nói vậy, mẹ như sét đánh ngang tai, lòng rối như tơ vò. Mẹ nhìn nét mặt đầy yêu khí của chị Ba, có bao nhiêu diều muốn nói, nhưng rồi mẹ lại thôi. Chỉ trong một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi vùng Cao Mật, từng có sáu người, toàn là nữ, vì tình duyên trắc trở, vì vợ chồng cơm chẳng lành canh chăng ngọt, đã đội bát nhang thờ thần cáo, thần chuột xù, thần rắn, thần hoan mặt rằn ri, thần đợi... sống một cuộc sống bí ẩn, người người kinh sợ. Nay một nàng Tiên Chim xuất hiện trong nhà tôi, mẹ vô cùng rầu ruột, một cảm giác nặng nề, nhưng mẹ chưa khi nào nói nửa chữ không, bởi vì cách đây mười năm đã có bài học xương máu: Cô vợ trẻ của anh chàng lái lừa Viên Kim Tiêu là Phương Kim Chi tư tình với một thanh niên kém tuổi hơn ở khu mộ địa. Người nhà họ Viên đánh chết tươi chàng thanh niên nọ, Phương Kim Chi cũng bị một trận thừa sống thiếu chết. Vừa thẹn vừa giận, cô uống thạch tín nhưng bị lộ, người ta đổ phân vào miệng để cô nôn hết ra, cô được cứu sống. Sau khi tỉnh lại, Phương Kim Chi tự xung là Nàng Tiên Cáo nhập hồn, đòi lập điện thờ. Nhà họ Viên không chịu. Từ đó nhà họ Viên thỉnh thoảng lại cháy nhà, nồi niêu xoong chảo vô cớ bị vỡ nát, cụ cố nhà họ Viên rót rượu uống thì trong be rượu chui ra một con thạch sùng, cụ bà nhà họ Viên hắt hơi văng ra hai chiếc răng cửa từ trong lỗ mũi, nhà họ Viên nấu sủi cảo, khi đổ ra là một chậu cóc chết. Họ Viên đành chịu thua, đặt thần vị Nàng Tiên Cáo, để Phương Kim Chi sống trong tĩnh thất.
Tĩnh thất của Nàng Tiên Chim đặt tại chái đông. Mẹ cùng chị Tư, chị Năm loại trừ tất cả chổi cùn rễ rách của Sa Nguyệt Lượng để lại, quét sạch mạng nhện trên tường, bụi bặm trên xà nhà, dán lại giấy cửa sổ, bày biện hương án ở góc trong phía bắc, thắp ba cây đàn hương còn thừa trên bàn thờ Quan âm Bồ Tát của bà nội. Nhưng còn Nàng Tiên Chim thì hình dáng như thế nào? Mẹ đành hỏi ý kiến của chị Ba. Mẹ quì trước mặt chị, thành tâm rất mục:

- Thưa Cô, thần tượng bày trên hương án thì thỉnh ở đâu?

Chị Ba ngồi ngay ngắn, mắt nhắm, mặt đỏ hồng, hình như đang trải qua một giấc mơ đẹp. Mẹ không dám sống sượng, hỏi lại lần nữa với thái độ chân thành. Chị Ba ngáp một cái thật dài, mắt vẫn nhắm, bằng một giọng lơ lớ nửa tiếng chim nửa tiếng người, nói:

- Ngày mai sẽ có.

Sáng hôm sau, một người ăn xin có khuôn mặt mũi quạ, mắt diều vào nhà tôi. Người ấy tay trái cầm gậy xua chó bằng trúc, tay phải cầm bát tộ mẻ hai chỗ ở miệng, mình lấm lem như từ vũng bùn chui ra hay mọi trải qua một cuộc hành trình vạn dặm ngay ở lỗ tai cũng bám đầy bụi đất. Ông ta không nói nửa câu, lừ lừ đi vào giữa nhà tự nhiên như đi vào nhà mình, mở vung, múc một bát rau dại húp sùm sụp. Ăn xong, vẫn không nói một tiếng, ông ta đưa ánh mắt sắc như dao nhìn như lột da mặt mẹ. Mẹ hơi hoảng, nhưng vẫn làm ra vẻ thản nhiên, nói:

- Thưa ông khách, nhà nghèo chẳng có gì đãi đằng, nếu ông không chê thì xin mời thứ này. Mẹ dưa cho ông một nắm rau dại, ông ta không nhận, liếm cặp môi khô nẻ, nhiều chỗ rớm máu, nói:

- Con rể nhà bà có nhờ tôi đem đến hai vật này! Nói rồi, ông ta cũng không ra ngoài. Chúng tôi nhìn manh áo mỏng rách bươm và lớp da mốc thếch, sần sùi và bẩn thỉu của ông lộ ra qua lỗ thủng trên áo, quả thực không hiểu ông cất hai vật đó ở chỗ nào. Mẹ sốt ruột hỏi:

- Con rể nào.

Mũi diều mắt quạ nói:
- Tôi cũng không rõ anh con rể nào, chỉ biết anh ta câm, biết chữ, biết sử dụng đao, cứu sống tôi một lần, tôi cũng cứu sống anh ta một lần, thế là hòa, chẳng ai nợ ai. Do vậy, trước đây hai phút, tôi còn lưỡng lự, xem có nên trả hai bửu bối cho bà không? Nếu như lúc nãy tôi tự tiện múc cháo ăn, bà tỏ ra khiếm nhã thì tôi lờ đi không trả. Nhưng bà không nói gì, lại còn cho tôi cả mớ rau dại. Tôi đành trả cho bà. Nói rồi ông ta cầm cái bát sứt đặt lên bếp, nói:
- Đây là cái bát sứ men xanh rạn vừng, nó là kỳ lân phượng hoàng trong đồ cổ, là của độc trong thiên hạ. Anh con rể bà không biết giá trị của nó. Anh ta được chia sau một trận vơ vét. Tôi lưu ý bà về giá trị của nó. Còn cái này... - Ông ta tông đầu gậy xuống đất, có tiếng kêu của vật rỗng.

- Có cần dao không? - Mẹ đưa con dao thái rau cho ông ta.

Ông ta đón lấy con dao chẻ đôi cây gậy một bức tranh cuộn tròn rơi ra, bức tranh sơn đầu. Ông ta mở bức tranh, một mùi ẩm mốc xộc lên mũi. Chúng tôi trông thấy chính giữa bức tranh bằng giấy quyến đã ngả màu vàng, vẽ một con chim lớn thì sũng người:. rất giống con chim thịt thơm phức mà có lần chị Ba đã đem về. Con chim trong tranh ngẩng cao đầu cặp mắt to vô cảm nhìn chúng tôi. Ông mũi diều mắt quạ không giải thích gì thêm về bức tranh và con chim. Ông cuộn bức tranh lại, gác nó lên miệng cái bát cổ rồi bước ra khỏi nhà, không ngoái lại. Hai tay ông đã được tự do, vung vẩy vụng về theo mỗi bước đi.

Mẹ như cây tùng, tôi như cây tầm gửi. Năm chị em như năm cây bạch hoa. Thằng nhóc nhà Tư Mã như cây tượng thu nhỏ. Chúng tôi tụm lại thành một nhóm hỗn hợp, đứng lặng trúc cái bát tộ men xanh và bức họa sơn dầu đầy bí ẩn. Nếu không có chị Ba cười khanh khách trên giường, có lẽ chúng tôi đã hóa thành cây.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:42 AM
Lời tiên tri của chị Ba đã ứng nghiệm. Chúng tôi kính cẩn rước chim vào tịnh thất, treo trên hương án. Cái bát cổ sứt miệng có một lai lịch không bình thường như vậy, người trần mắt thịt đâu dám dùng. Mẹ thành tâm dâng cái bát lên hương án, rót đầy nước trong để chim uống. Cái tin nhà tôi được Nàng Tiên Chim nhập vào chị Ba không cánh mà bay khắp vùng Cao Mật và còn lan xa hơn. Người ta nườm nượp đến xin thuốc, xem bói. Nàng Tiên Chim chỉ tiếp mỗi ngày mười người. Chị tự giam mình trong tịnh thất, những người đến cầu Tiên đều quì ngoài cửa sổ. Giọng nửa người nửa chim lọt qua lỗ thủng trên giấy dán cửa sổ, giúp người xem ra khỏi bến Mê, cho phương thuốc chữa bệnh. Những đơn thuốc của chị Ba, không, của Nàng Tiên Chim hết súc lạ lùng. Bài thuốc chữa đau mắt của Tiên như sau: Ong mật một con, dế mèn một cặp, bọ ngựa năm con, giun đất một con, giã nát đắp vào lòng bàn tay. Người bệnh cầm lấy mảnh giấy bay ra từ trong cửa sổ, nhìn qua, nét mặt khinh khỉnh:

- Đúng là Tiên Chim, toàn là những thức ăn của chim.

Anh ta bất mãn ra về. Chúng tôi sợ thay cho chị. Cào cào châu chấu đều là thức ăn của chim, làm sao chữa được bệnh đau mắt? Chính lúc đang nghĩ ngợi miên man như vậy, người bệnh kia chạy trở lại như bay, quì sụp trước cửa sổ, dập đầu lạy như tế sao, luôn miệng khấn:

- Xin Tiên Cô tha tội! Xin Tiên Cô tha tội!

Chị Ba trong buồng cười nhạt. Về sau tôi nghe kể lại rằng, người bệnh lắm điều đó vừa ra khỏi cổng liền bị một con diều hâu từ trên trời lao thẳng xuống đầu, chộp lấy chiếc mũ của ông ta rồi bay mất. Lại có lần một người đàn ông không đứng đắn, giả vờ bị viêm niệu đạo, quì trước cửa sổ xin thuốc. Nàng Tiên Chim hỏi vọng ra:

- Ông bệnh gì?

Anh ta nói:

- Tôi bị bí đái, cứ cương lên!

Trong buồng yên lặng, hình như Tiên Cô đã thăng vì xấu hổ. Người kia ghé mắt qua lỗ thủng, nhòm vào trong buồng. Bỗng anh ta rú lên một tiếng thê thảm: một con rết to bự rơi trúng cổ và đợp cho anh ta một miếng. Thoáng cái, cổ anh ta sưng vù lên, mặt cũng sung, híp cả hai mắt, trông chẳng khác con cá oa oa, đầu người mình cá.
Chuyện về Nàng Tiên Chim giở phép thần thông, trừng phạt bọn lưu manh, khiến những người tử tế thích thú. Tiếng lành đồn xa. Những ngày tiếp theo, những người đến xin thuốc, xem bói, đầu là người vùng xa. Mẹ hỏi thăm, được biết người thì quê Đông Hải, người quê Bắc Hải. Hỏi họ từ đâu mà biết Tiên Cô hiển linh, họ chỉ mở to mắt, không biết trả lời thế nào. Người họ toát ra mùi mặn chát, mẹ bảo đó là mùi của biển. Những người ở xa thì ngủ đêm trong sân nhà tôi, kiên trì đợi đến lượt Nàng Tiên Chim rất ngang, mỗi ngày chỉ tiếp mười bệnh nhân rồi thăng. Khi Tiên Cô đã thăng, chái đông im lìm như chết. Mẹ sai chị Tư thay chị Ba bưng nước vào rồi lại sai chị Năm đem cơm vào thay chị Tư. Cứ luân phiên như vậy khiến những người hành hương hoa cả mắt, không sao đoán nổi Tiên Cô là ai.

Sau thời gian xuất thần, chị Ba trở lại con người bình thường, nhưng cũng không ít những thái độ và cử chỉ khác người. Chị nói rất ít, mắt lim dim, thích ngồi xổm, uống nước lã, hơn nữa, mỗi lần nuốt lại vươn dài cổ ra, điển hình cho loài chim khi uống nước. Chị không ăn lương thực, quả thực chúng tôi cũng không ăn lương thục. Những người đến xin thuốc xem bói đều thuận theo tập tính của loài chim, đem đến nào là cào cào châu chấu, nào là nhộng tằm, sâu đậu, đom đóm, có người còn cung tiến hạt quả gai, quả thông, hạt hướng dương. Chị Ba ăn không hết, mẹ và các chị ăn chỗ còn lại. Các chị rất biết nhường nhịn, có khi chỉ một con nhộng mà cứ đùn đẩy cho nhau. Lượng sữa tiết của mẹ xuống tới múc thấp nhất, nhưng chất lượng sữa thì rất tốt. Trong thời gian đó, mẹ đã mấy lần định cai sữa cho tôi, nhưng tôi khóc dữ quá nên lại thôi.

Để cảm ơn chúng tôi đã cho nước sôi và giúp đỡ trong sinh hoạt, tất nhiên trước hết cảm ơn Nàng Tiên Chim đã giúp họ giải hạn, những người miền biển để lại một bao tải cá khô trước khi ra về. Chúng tôi vô cùng cảm kích, tiễn họ lên tận mặt đê, mới trông thấy trên dòng Thuồng Luồng êm ả có mấy chiếc thuyền đánh cá đang đậu cột buồm cao vút. Trong lịch sử sông Thuồng Luồng chỉ có mấy chiếc thuyền thúng bằng gỗ để dùng khi nước lũ. Nhờ Nàng Tiên Chim, sông Thuồng Luồng có quan hệ trực tiếp với những miền biển rộng lớn. Lúc này là đầu tháng Mười, từng đợt ngắn gió tây bắc thổi mạnh trên sông. Những người miền biển lên thuyền, kéo lên cánh buồm xám vá những miếng to tướng, nhích dần ra giữa dòng, bánh lái khuấy bùn **c ngầu. Từng đàn hải âu màu xám đến theo con thuyền, nay cùng đi. Chúng kêu lên những tiếng lảnh lót, lúc vọt lên cao lúc sà xuống thấp, có con còn biểu diễn bay ngửa hoặc dang cánh lượn vòng. Trong thôn có nhiều người lên mặt đê. Họ lên xem những con thuyền, vô hình trung trở thành những người đưa tiễn. Những cánh buồm căng gió, mái chèo mềm mại, con thuyền xa dần. Họ từ sông Thuồng Luồng rẽ sang sông đào, từ sông đào chuyển sang sông Bạch Mã, từ Bạch Mã ra Bột Hải. Toàn bộ hành trình là hai mươi mốt ngày. Những kiến thức về địa lý này là do Hàn Chim bảo tôi mười tám năm sau. Những người khách phương xa tìm đến vùng Cao Mật, có phần giống như chuyện Trịnh Hòa, Từ Phúc được tái diễn, là trang sử vẻ vang của vùng Cao Mật. Mà tất cả những cái đó là do Nàng Tiên Chim của nhà Thượng Quan mà có. Niềm vinh quang làm vợi nỗi buồn của mẹ, có thể mẹ còn mong xuất hiện Nàng Tiên Thú, Nàng Tiên Cá trong nhà, mà cũng có thể chẳng bao giờ mẹ muốn như thế.
Sau khi những người ngư dân ra đi, lại có một vị khách sang đến. Bà ta đi một chiếc xe du lịch đen bóng, đứng trên bậc lên xuống ở hai bên thành xe là hai đại hán tay cầm súng tiểu liên. Bụi tung mù mịt trên đường làng chào đón khách quí. Khổ thân cho hai đại hán, người bám đầy bụi như con lừa tắm khan ở bãi đất. Chiếc xe dùng lại trước cổng nhà tôi, vệ sĩ mở cửa xe. Một cái đầu đầy trâm ngọc chui ra trước rồi đến cái cổ, rồi một cơ thể béo tốt. Người phụ nữ này từ vóc dáng đến tinh thần, chẳng khác một con ngỗng cái tắm rửa sạch sẽ. Nghiêm chỉnh mà nói, ngỗng cũng thuộc loài chim.

Mặc dù thân thế khác người, nhưng khi gặp Nàng Tiên Chim, bà ta tỏ ra vô cùng cung kính. Tiên Cô chưa bói đã biết, nhìn thấu mọi sự, trước mặt Cô không được giả dối và kiêu ngạo. Bà quì trước cửa sổ, nhắm mắt, lẩm bẩm khấn. Khuôn mặt bà tươi như hoa, không phải người có bệnh, trên người đầy vàng ngọc, không phải đến cầu tài. Loại người như vậy đến cầu gì ở Tiên Cô? Một lát sau, từ lỗ hổng trên cửa sổ bay ra một mảnh giấy trắng. Người đàn bà cầm lên xem, mặt đỏ như mào gà trống. Bà ta để lại vài đồng rồi đi thẳng. Nàng Tiên Chim viết gì trên mảnh giấy? Chỉ có Tiên Cô và người đàn bà kia biết. Những ngày ngựa xe nườm nượp qua đi rất nhanh, bao tải cá khô cũng đã ăn hết. Một mùa đông lạnh giá bắt đầu. Sữa mẹ toàn một vị rễ cỏ và vỏ cây. Ngày mồng Bảy tháng Chạp, nghe tin giáo phái Thần Chiêu hội thuộc Cơ Đốc giáo trên huyện sẽ phát chẩn vào ngày mồng Tám tháng Chạp tại nhà thờ lớn Quan Bắc, mẹ cùng chúng tôi đem theo bát đũa, nhập vào đoàn người đói khát, đi suốt đêm về hướng huyện thành. ở nhà chỉ còn hai người: chị Ba và bà nội, vì một người nửa Người nửa Tiên, còn một người nửa Người nửa Quỉ, nhịn đói nhịn khát giỏi hơn chúng tôi. Mẹ quẳng cho bà nội một bó cỏ khô, nói:

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:43 AM
- Mẹ ơi, nếu chết được thì mẹ chết nhanh đi, mẹ chịu cực cùng chúng con làm gì!

Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi trên con đường dẫn tới huyện lỵ. Cái gọi là con đường chỉ là một lối mòn màu xám được tạo nên bởi những vết chân người và súc vật, không hiểu người đàn bà sang trọng kia cho xe chạy bằng cách nào?. Chúng tôi đi dưới trời sao lạnh. Tôi đứng trong túi trên lưng mẹ, thằng nhóc nhà Tư Mã trên lưng chị Tư, chị Năm cõng chị Tám, chị Sáu chị Bảy tự đi. Vào lúc nửa đêm, trên cánh đồng hoang dã, tiếng trẻ khóc liên miên không dứt. Chị Bảy chị Tám và thằng nhóc nhà Tư Mã cũng khóc. Mẹ lớn tiếng mắng các chị. Nhưng mẹ cũng lại khóc, chị Tư chị Năm chị Sáu đều khóc hết. Các chị loạng choạng gục xuống, mẹ dựng ngược chị này dậy thì chi khác lại gục xuống, kéo được chị kia dậy thì chị này lai đổ xuống. Về sau, mẹ cũng ngồi bệt trên mặt đất băng giá. Chúng tôi chụm lại một chỗ sưởi ám cho nhau. Mẹ xoay tôi ra phía ngực, dùng ngón tay tê cóng quệt mũi cho tôi. Chắc mẹ nghĩ tôi đã bị chết cóng. Tôi dùng hơi thở thoi thóp để báo cho mẹ biết là tôi vẫn còn sống. Mẹ nâng mảnh vải che, nhét đầu vú lạnh như băng vào miệng tôi, tôi tưởng như cục băng đang tan, miệng tôi mất hết cảm giác. Trong bầu vú của mẹ không có gì, tôi cố mút cũng chỉ rỉ ra một chất mảnh như tơ nhện. Rét ơi là rét! Trong giá lạnh, những con người đói khát tưởng tượng ra bao cảnh hấp dẫn: Lửa rừng rực trong lò, gà vịt trong nồi bốc hơi nghi ngút, từng mâm bánh bao, lại còn hoa tươi, lại còn cỏ xanh mượt. Trước mắt tôi lại toàn là những bầu vú đầy nhựa sống như trái hồ lô, tròn trịa như chim bồ câu bé nhỏ, nhẵn nhụi bóng bẩy như bình sứ. Mùi thơm của chúng, vẻ đẹp của chúng, nước cam lồ mà chúng tự động tiết ra rót đầy bụng tôi, thấm đẫm toàn thân tôi, tôi ôm lấy bầu vú, tôi bơi trong dòng sữa... Trên đầu, hàng tỉ tỉ ngôi sao đang xoay vần, xoay mãi, xoay tròn thành những bầu vú Bầu vú Thiên Lang, bầu vú Bắc Đẩu, bầu vú Người Đi Săn, bầu vú Chức Nữ, bầu vú Ngưu Lang, báu vú của Hằng Nga trong vầng trăng, bầu vú của mẹ... Tôi nhả vú mẹ ra, nhìn thấy phía trước không xa, một người giơ ngọn được bằng da dê rách bó lại, nhảy như ngựa đến chỗ chúng tôi. Đó là ông Ba Phàn. Ông cởi trần, hét to, giọng khản đặc, trong mùi khét tức thở của da dê, dưới ánh sáng của ngọn được:

- Bà con ơi, đừng ngồi xuống... Đừng ngồi xuống? Ngồi xuống là chết cóng... Đứng dậy cả đi bà con ơi! Đi tiếp đi, bà con ơi!... Đi tiếp là sống, ngồi lại là chết!...

Lời kêu gọi cảm động của ông Ba Phàn khiến nhiều người cố thoát khỏi sự ấm áp giả tạo dẫn đến tử vong, trở lại cái rét khắc nghiệt nhưng là để sống. Mẹ đứng lên, xoay tôi ra sau lưng, ôm thằng nhỏ đáng thương nhà Tư Mã trước ngực, dắt tay chị Tám, rồi như một con ngựa điên, mẹ đá lia lịa vào chị Tư chị Năm chị Sáu chí Bảy, bắt các chị đứng lên. Chúng tôi đi theo ông Ba Phàn; người đã dùng trái tim mình làm ngọn được soi đường, không phải đi bằng chân, mà là bằng ý thúc, bằng tấm lòng, nhằm hướng huyện lỵ, nhằm nhà thờ lớn Bác Quan, hướng về Âm trạch của Thượng đế, hướng về bát cháo bố thí, đi tới.
Trong cuộc hành trình bi tráng đó, để lại dọc đường mấy chục xác chết, có xác vén áo lên, khuôn mặt ngời ngời hạnh phúc như được ngọn lửa sưởi ấm ***g ngực. Ông Ba Phàn chết giữa lúc vừng hồng vừa ló lên. Chúng tôi được ăn cháo bố thí của Thượng đế. Tôi được ăn qua bầu vú mẹ. Suốt đời tôi không thể quên cảnh húp cháo. Nhà thờ cao to sừng sũng. Lũ quạ đậu trên cây thánh giá. Xe lửa thở phì phò trên đường sắt. Hai cái chảo lớn có thể luộc cả con trâu, bốc hơi nghi ngút. Ông mục sư mặc áo chùng đen đứng bên cầu nguyện. Vài trăm người đói xếp hàng. Người hội viên hội Thần chiêu dùng cái muỗng có cán dài chia cháo, mỗi người một muỗng không kể bát lớn bát bé. Tiếng húp cháo soạn soạt, mùi cháo thơm phức. Bao nhiêu giọt nước mắt rơi xuống bát cháo. Hàng trăm cái lưỡi liếm sạch cháo trong bát. Húp xong một bát lại xếp hàng. Vài bao gạo, vài thùng nước lại đổ vào chảo. Lúc này, qua sữa mẹ, tôi biết rằng, bát cháo từ bi này được nấu bằng gạo tâms, cao lương mốc, đậu ủng và lúa mạch còn nguyên cả trấu.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:45 AM
6.



Sau khi ăn cháo trên huyện, trên đường trở về cái đói càng dữ dội. Người ta không còn sức để chôn những xác chết trên đường, thậm chí không còn tâm trạng nhìn mặt người chết chỉ mỗi xác ông Ba Phàn là ngoại lệ. Trong giờ phút nguy ngập, con người không được người ta ưa lắm này cởi phăng áo da dê làm thành bó đuốc, dùng ánh lửa và lời lẽ thức tỉnh lý trí của chúng tôi. Không thể quên cái ơn cứu mạng. Mẹ dẫn đầu, mọi người kéo cái xác gầy như que củi xuống vệ đường. Nấm mồ được đắp bằng đất vụn.

Về đến nhà, phát hiện đầu tiên của chúng tôi là chị Ba ôm một cái bọc mà vỏ ngoài là cái áo da báo, đi đi lại lại trong sân. Mẹ vịn mép cổng, gần như khuỵu xuống.

Chị Ba bước tới dưa cái bọc cho mẹ. Mẹ hỏi:

- Bọc gì đây? Chị nói bằng tiếng người tương đối chuẩn:

- Cháu bé.

Mẹ ra vẻ hiểu nhưng vẫn hỏi:

- Con ai?

Chị Ba nói:

- Còn ai vào đây nữa!

Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ

Đó là một đứa con gái đen như một cục than, hai con mắt phảng phất mắt gà chọi, cặp môi mỏng dính, hai vành tai to và trắng, rất không hòa hợp với da mặt. Đặc trưng này xác nhận không thể chối cãi nguồn gốc con bé. Nó là con của Sa Nguyệt Lượng với chị Cả, đứa cháu ngoại đầu tiên của gia đình tôi.
Mẹ tỏ ra ghét cay ghét đắng con bé. Nó, trái lại, mỉm cười như con mèo con, đáp lại thái độ của mẹ. Mẹ tức điên lên, quên cả chị Ba có phép thần thông, đạp cho chị Ba một cái vào chân.
Chị Ba ối lên một tiếng ngã chúi về phía trước. Khi chị ngoảnh lại, trên mặt lộ rõ sự tức giận của loài chim. Chị dẩu mỏ ra như sắp mổ, hai tay giơ cao như sắp sửa bay lên. Mẹ không đếm xỉa đến chị là người hay chim, chửi:

- Đồ khốn, ai cho mày nhận con của nó?

Chị Ba ngọ ngoạy đầu, như tìm kiếm sâu bọ trên cây ngô đồng. Mẹ lại chửi:

- Lai Đệ, mày là đồ thối thây không biết xấu hổ! Sa Hòa thượng, mi là đồ thổ phỉ lòng lang dạ sói? Chúng mày chỉ biết đẻ mà không nuôi! Chúng mày tưởng cứ quẳng cho ta là ta nuôi hộ? Có mà nằm mơ? Ta thì quẳng cái đồ con hoang này xuống sông cho ba ba nó ăn, ném ra đường cho chó nó xé xác, quẳng xuống đầm cho quạ nó rỉa. Hãy đợi đấy.

Mẹ bế con bé, miệng cứ lặp đi lặp lại cho ba ba ăn, cho chó xé xác, cho quạ na, vừa chạy như bay trong ngõ, chạy lên đê rồi chạy trở lại đường phố, từ đồng phố chạy trở lại đê... càng chạy càng chậm dần, tiếng gào ngày càng nhỏ như một chiếc máy kéo đã cạn đầu, mẹ ngồi phịch xuống đất, chỗ mục sư Malôa từ gác chuông rơi xuống. Mẹ ngước nhìn gác chuông, miệng lẩm bẩm:

- Người thì chết, người bỏ đi, để tôi chơ vơ một mình, tôi sẽ sống như thế nào, cả một lũ đang há miệng chờ ăn? Chúa ơi, ông trời ơi, xin hãy cho tôi biết, tôi sẽ sống như thế nào?

Tôi khóc, nước mắt rơi trên gáy mẹ. Con bé cũng khóc, nước mắt chảy vào tai. Mẹ dỗ tôi:

- Kim Đồng, con là hòn máu của mẹ, nín đi con.

Mẹ dỗ con bé:

- Tội nghiệp cháu, lẽ ra cháu không nên sinh ra ở đời này! Sữa của ngoại chỉ vừa đủ cho cậu của cháu. Thêm một nữa, cả hai đều chết đói. Không phải ngoại nhẫn tâm mà vì ngoại không còn cách nào khác...

Mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục buộc, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại...

Ba hôm sau, cả nhà tôi gồm chín người xuất hiện ở Chợ Người trong khu vực Chợ Lớn trên huyện. Mẹ địu tôi trên lưng, tay bế con súc sình nhà họ Sa, chị Tư cõng thằng lưu manh nhà họ Tư Mã. Chị Năm cõng chị Tám. Chị Sáu chị Bảy tự đi lấy.
Chúng tôi bới đống rác kiếm ít lá rau thừa để ăn, cố gắng đi cho đến Chợ Người. Mẹ cắm cây cao lương trên gáy chị Năm, chị Sáu, chị Bảy, đợi người đến mua. Trước mặt chúng tôi là những dãy nhà đơn giản bằng gỗ ván, tường và mái quét vôi trắng. Khói bốc cuồn cuộn từ ống khói nhô ra ở đầu thang. Làn khói bay lên không trung thay hình đổi dạng trước làn gió. Chốc chốc lại có những cô gái làm tiền, tóc xõa, hở ngực, môi đỏ chót, mắt ngái ngủ từ trong căn nhà gỗ chạy ra, hoặc bê chậu hoặc xách thùng, đến lấy nước ở giếng lộ thiên, trên giếng đặt ròng rọc, hơi nước nhẹ nhàng bốc lên. Họ kéo ròng rọc bằng hai cánh tay ẻo lả trắng nhợt. Sợi thừng miết trên con lăn rít lên khe khẽ. Khi chiếc thùng thô và nặng lên đến miệng giếng, họ dùng chân đi guốc móc lấy quai thùng rê ngang đặt lên tang giếng lổn nhổn những cục băng có hình bánh bao hoặc bầu vú. Đám phụ nữ bê nước chạy ra chạy vào, tiếng guốc cốp cốp ròn rã: Những bầu vú tỏa ra mùi khét của lưu huỳnh. Qua vai mẹ, tôi nhìn từ xa những người đàn bà kỳ quái đó, nhốn nháo những vú là vú như hoa thuốc phiện trên nương, như đàn bướm trong thung lũng. Họ rất hấp dẫn chị tôi. Tôi nghe chị Tư khẽ hỏi mẹ, nhưng mẹ không trả lời. Chúng tôi đứng trước bức tường cao, dầy và dài. Nó chắn gió tây bắc, chúng tôi cảm thấy dễ chịu. Mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời màu xám nhạt khiến tôi nghĩ tới hình ảnh lá cờ đang bay trên mặt thành. Bên trái bên phải chúng tôi, một số người mặt xanh nanh vàng, đói khát như chúng tôi, đứng co ro, đàn ông và đàn bà, phụ nữ và trẻ con, có đủ. Đàn ông nhăn nheo như cây khô, quá nửa là bị mù, không mù thì toét mắt. Người nào cũng có một đứa nhỏ đứng bên cạnh, hoặc con gái hoặc con trai, thật ra rất khó phân biệt trai hay gái. Chúng đen nhẻm như từ ống khói chui ra, đen như một cục than. Sau gáy đứa nào cũng cắm một nhánh cỏ, phần lớn là cây cao lương với những lá khô vàng khiến người ta nghĩ đến mùa thu, nghĩ đến mùi rơm rạ ngựa nhai trong đêm tối, nghĩ đến tiếng động khiến người và ngựa đều vui thích. Cũng có trường hợp cắm đại một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó, cỏ đuôi lừa: Phụ nữ thì quá nửa như mẹ, con cái vây xung quanh, nhưng không nhiều con như mẹ. Những nhóm trẻ ấy, có nhóm tất cả đều cắm cỏ sau gáy, có nhóm đứa cắm đứa không. Phía trên đầu đám trẻ là những cái đầu nặng nề của những con ngựa to lớn, những con lừa đại, với cặp mắt như những quả lục lạc cặp môi dày dâm đãng mọc tua tủa những lông cứng, hàm rằng đều và khỏe lấp lóa giữa đôi môi, cũng cắm đại lên đầu một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó hoặc đuôi lừa. Chỉ riêng một phụ nữ thì khác. Chị này mặc bộ đồ trắng, sợi dây buộc tóc cũng trắng, mặt trắng nhọt, hốc mắt và môi tím tái. Chị không có trẻ con đứng bên cạnh. Chị đứng một mình dưới chân tường. Chị cầm trên tay - không phải, cài sau gáy - một nhánh cỏ đuôi chó hoàn chỉnh còn nguyên cả lá, tuy lá đã khô, nhưng đó là một nhánh cỏ đẹp, phát dục đầy đủ, lá còn giữ được màu xanh, tuy là xanh héo nhưng vẫn còn sức sống: chùm lông phất phơ mềm mại, vàng rực lên dưới nắng. Rất lâu, ánh mắt tôi như bị hút chặt vào bông cỏ đuôi chó, trái tim tôi như chìm trong cái đẹp thê thảm của bông cỏ đuổi chó, vì rằng tôi trông thấy những núm vú tí xíu trên thân và giữa những kẽ lá của bông có đuôi chó.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:46 AM
Phía dãy nhà quét vôi trắng nhốn nháo, tiếng chửi the thé chói tai, như lưỡi dao rạch vào không khí. Hai cô gái đang ẩu đả ở chỗ giếng nước. Một cô mặc quần màu hồng, một cô mặc quần màu xanh. Cô quần hồng cào vào mặt cô quần xanh. Cô quần xanh thụi cho cô quần hồng một quả vào ngực. Rồi, cả hai đều lùi lại nhìn nhau trong một phút. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi đoán được ánh mắt hai người như thế nào, chắc rất giống cái nhìn của chị cả Lai Đệ và chị hai Chiêu Đệ. Bỗng cả hai xông vào nhau như gà chọi, những thân hình nhấp nhô như chó chạy trong ruộng lúa mạch, tay vung, vú lắc, nước bọt bắn tung tóe, lấp loáng như những con thiêu thân dưới ánh đèn. Cô quần hồng túm được tóc cô quần xanh. Cô quần xanh theo đà ngoạm một miếng vào vai trái cô quần hồng, cô quần hồng cũng ngoạm luôn một miếng vào vai trái cô quần xanh. Hai bên đồng cân đồng lạng, tài sức ngang nhau, quần nhau bên giếng nước. Những cô khác, người thì tựa cửa hút thuốc, người đánh răng súc miệng nhổ bọt phì phì, người lại vỗ tay cười ngặt nghẽo, người phơi tất mỏng dính trên dây thép. Trên phiến đá hình tròn trước dãy nhà, một người đứng thẳng đuỗn, chân đi ủng đen bóng lộn, tay cầm roi mây, vụt trái đánh vút một cái, vụt phải đánh vút một cái. Hắn dùng roi thay đao để luyện đao thuật. Một đám đàn ông từ một rừng cờ phía tây nam đi tới, những người bụng lép vây quanh vài người thấp lùn bụng phệ, nung núc những mỡ. Người bụng phệ cười khùng khục như gà cục tác Tiếng cười quái gở đó cứ ám ảnh tôi, khiến tôi nhớ lại quang cảnh bên giếng nước. Những người bụng phệ cùng đám tùy tùng tiến đến ngôi nhà gỗ ván, tiếng cục tác nghe càng rõ. Người đang luyện đao thuật trên phiến đá nhảy vội xuống, lỉnh vào trong nhà. Một mụ béo lùn tịt lạch bạch chạy ra chỗ giếng nước, bàn chân nhỏ đến nỗi gần như không có, bắp chân cắm thẳng xuống đất. Qua hai cánh tay ngắn ngủn và mập như ngó sen vung vấy, có thể kết luận mụ đang chạy gằn, tốc độ thì như thế nhưng quãng đường đi thì không được bao nhiêu. Có bao nhiêu sức đều dồn cho những cái lắc của cơ thể và co rút của bắp thịt. Khoảng cách chừng một trăm thước, có lẽ hơn, chúng tôi đã nghe rõ tiếng thở của mụ, hơi nước thở ra trùm lên người giống như mụ đang ở trong nhà tắm. Cuối cùng thì mụ cũng đã tới giếng nước.
Tiếng chửi của mụ bị hơi thở làm đứt quãng, không rõ ý, chỉ nghe câu được câu chăng. Chúng tôi đoán mụ là chủ của hai cô đang đánh nhau, mụ đến để gỡ hai cô ra. Nhưng hai cô quyết không nhả miếng cắn, cuộc đấu của diều hâu với chim ưng, vuốt quặp lấy vuốt, khó mà gỡ. Họ đẩy nhau kẻ tiến người lui, kẻ lui người tiến, mấy bận suýt lăn xuống giếng nhưng không lăn vì vướng cái khung treo ròng rọc. Mụ béo đến gỡ họ ra cũng suýt bị rơi xuống giếng, sở dĩ không rơi cũng là nhờ cái khung ròng rọc giữ lại. Mụ nằm sấp trên cái khung, tìm cách đặt chân xuống đất. Chúng tôi trông thấy mụ bị trẹo chân khi nhảy ra dẫm phải cục băng tròn như cái bánh bao, ngã ngồi xuống đất, nghe thấy tiếng nheo nhéo từ miệng mụ phát ra. Chẳng lẽ mụ khóc? Mụ đứng dậy bê lấy chậu nước hắt lên người hai cô kia. Hai cô giật mình la lên rồi buông nhau ra. Cả hai đầu tóc rối bù, cả hai mặt mày xây xước, cả hai quần áo rách toạc, cả hai đều bị thương lốm đốm ở bầu vú. Người nọ nhổ máu của người kia ra, cơn giận vẫn chưa nguôi. Mụ béo lại bê chậu nước khác hắt lên người họ, làn nước uốn mình trong không trung như cánh chim, trong suốt. Mụ mất đà, ngã lần nữa, chiếc chậu sành văng đi, suýt rơi trúng đẩu những người đàn ông bụng phệ. Họ rất quen nhau, đùa bỡn chọc ghẹo sờ soạng cấu véo, cuối cùng cả hai vào trong căn nhà gỗ.

Tôi nghe thấy xung quanh thở dài, mới biết họ đều xem màn kịch bên giếng nước.

Giữa trưa, một cỗ xe ngựa từ hướng đông nam theo đường cái quan đi tới. Ngựa là ngựa trắng, ngẩng cao đầu, một lọn bờm màu bạc rủ trước trán, đôi mắt hiền lành, mũi màu phấn hồng môi đỏ tía, cổ đeo nhạc đồng. Vì vậy khi con ngựa kéo cỗ xe rẽ xuống đường cái quan, chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc ngựa kêu ròn tan. Chúng tôi trông thấy cọc yên - ở đây phải gọi là mỏm yên, dưới cao lên rất quí phái. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cái yên đẹp như thế. Dóng xe cũng không phải thanh dóng bình thường, mà là bọc đồng sáng loáng. Bánh xe cao cao, trục xe mạ kền, mui xe bằng vải trắng sơn nhiều lớp đầu ngô đồng. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cỗ xe sang trọng đến như vậy và nghĩ rằng, nguôi ngồi trên cỗ xe này còn sang trọng hơn người đàn bà ngồi xe du lịch đến gặp Nàng Tiên Chim. Chúng tôi cho rằng người ngồi bên ngoài mui có hàng ria vênh trên môi cũng không phải con người bình thường. Hắn vênh mặt lên, cặp mắt tóe lửa. Hắn thâm trầm hơn Sa Nguyệt Lượng, nghiêm túc hơn Tư Mã Khố, có lẽ Hàn Chim ăn mặc quần áo như hắn mới so được với hắn.

Xe từ từ dừng lại. Bà ta khoác áo lông điêu màu mận chín, cổ quàng khăn lông chồn. Tôi rất mong bà ta chính là Chị cả Lai Đệ. Nhưng bà ta không phải chị Lai Đệ. Đây là một phụ nữ nước ngoài, mũi cao, mắt xanh, tóc bạch kim. Tuổi ư? Chỉ có cha mẹ bà ta mới biết bà ta bao nhiêu tuổi! Xuống xe cùng với bà ta, là một thanh niên tuấn tú, mặc bộ đồng phục học sinh màu xanh, áo khoác bên ngoài cũng màu xanh, tóc đen như mun. Nhìn phong thái anh ta có vẻ là con trai bà kia, nhưng về dung mạo thì anh ta chẳng giống chút nào.
Những người xung quanh chúng tôi tranh nhau ùa tới, làm như định giành lấy bà ngoại quốc, nhưng chưa tới gần họ đã dừng lại, vẻ ngần ngại. Thưa bà, thưa quí bà, bà mua đứa cháu của tôi! Thưa bà, thưa bà lớn, xin bà hãy nhìn thằng con tôi, nó trung thành hơn con chó, việc gì cũng làm được... Đàn ông và đàn bà rụt rè rao bán con cái với người đàn bà ngoại quốc. Riêng mẹ vẫn đứng yên tại chỗ. Mắt mẹ như dại đi, nhìn chăm chằm chiếc áo lông điêu và chiếc khăn quàng lông cáo. Rõ ràng mẹ đang nhớ chị Lai Đệ. Mẹ đang bế đứa con gái của chị, trong lòng ngổn ngang, nước mắt lã chã. Bà đầm quí phái dùng khăn tay nửa che nửa bịt miệng, đi một vòng chợ người, người bà sực núc mùi nước hoa, khiến tôi và thằng lỏi nhà Tư Mã hắt hơi liên tục. Bà ta ngồi xổm trước ông lão mù, ngắm nghía con nhỏ cháu lão. Nó nhiều nhất cũng chỉ lên bốn. Nó khiếp đảm vì con cáo trên cổ bà ta, hai tay ôm chặt chân ông lão. Cặp mắt hốt hoảng của con bé khiến tôi nhớ mãi. Ông lão mù đã đánh hơi thấy quí nhân, giơ tay ra phía trước, nói:

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:47 AM
- Thưa bà, thưa bà, xin bà hãy cứu cháu, ở với lão thì nó chết mất, thưa bà, lão một xu cũng không lấy, thưa bà...

Bà đầm đứng dậy, xì xô câu gì đó với người thanh niên mặc đồng phục học sinh, anh ta cao giọng hỏi ông lão:

- Lão là thế nào với con bé?

Ông già mù nói:

- Lão là ông nó, người ông vô dụng, người ông chết tiệt!...

Người thanh niên lại hỏi:

- Cha mẹ nó đâu?

Ông lão mù nói:

- Chết rồi, chết cả rồi. Người đáng chết thì chẳng chết, người không đáng chết thì lại chết, thưa ông, xin ông làm ơn đem cháu đi, lão không lấy xu nào đâu, chỉ xin ông cho cháu con đường sống!...

Người thanh niên quay sang xì xồ với bà đầm, bà đầm gật đầu, người thanh niên cúi xuống định kéo tay con bé, nhưng khi bàn tay vừa chạm vai thì con bé cắn ngay một miếng vào cổ tay anh ta. Anh ta rú lên, nhảy lùi lại. Bà đầm trọn mắt nhún vai, rồi dùng chiếc khăn tay bịt miệng, băng cổ tay cho anh ta.
Với tâm trạng không rõ là sợ hay là mừng, chúng tôi chờ như đến một nghìn năm, bà ngoại quốc vàng ngọc đầy người, nước hoa điếc mũi cùng với người thanh mến bị thương ở cổ tay, rốt cuộc đã dừng trước gia đình tôi. Và, sau lưng chúng tôi, ông lão mù đang vung gậy trúc đánh đứa cháu gái cắn nó. Con bé nhanh nhẹn chơi trò ú tim với ông nó, khiến cây gậy lúc thì vụt xuống đất, lúc vụt vào tường.

- Mi là cái số ăn mày! - Ông lão mù than thở.
Tôi hít lấy hít để mùi nước hoa, từ mùi hoa hòe nhận ra mùi hoa hồng, rồi từ mùi hoa hồng nhận ra mùi thoang thoảng của hoa cúc. Nhưng làm tôi mê mẩn chính là mùi tỏa ra từ cặp vú của bà ta, cái mùi hăng hăng khiến tôi lợm giọng, nhưng tôi vẫn hếch mũi hít lấy hít để. Không còn khăn tay, miệng bà lộ rõ hoàn toàn, một cái miệng rộng như của chị Lai Đệ, với đôi môi mọng như của chị Lai Đệ. Môi to son, mũi có những điểm tương đồng như mũi của các con gái nhà Thượng Quan: mũi dọc dừa. Chỗ không giống nhau là chóp mũi con gái nhà Thượng Quan có hình củ hành, ngây thơ mà dáng yêu, còn chóp mũi của người đàn bà ngoại quốc này thì khoằm xuống như mỏ diều, một loài chim ăn thịt. Trán ngắn, mỗi khi nhường mắt lên, trên trán hằn sâu những nếp nhăn. Tôi biết mọi người đang chăm chú nhìn người đàn bà ngoại quốc, nhưng tôi có thể tự hào mà nói rằng, không ai quan sát tinh tế hơn tôi, không ai thu hoạch nhiều hơn tôi. ánh mắt tôi xuyên qua lớp lông dày trên cơ thể bà ta, nhìn thấy cặp vú to bằng vú mẹ tôi mà vẻ đẹp của chúng khiến tôi quên cả đói rét.

- Vì sao bà phải bán con? - Người thanh niên giơ cánh tay quấn băng, chỉ vào các chị của tôi có cài cọng cỏ sau gáy

Mẹ không trả lời câu hỏi của anh ta. Chẳng lẽ trả lời một câu hỏi ngu xuẩn như vậy. Anh ta ngoảnh lại xì xồ với người đàn bà ngoại quốc, có thể là bà chủ cũng có thể là không của anh ta. Bà ta chú ý ngay chiếc áo lông điêu ủ cho con gái Lai Đệ. Bà ta sờ mặt áo, bắt gặp cặp mắt man dại và u sầu của con bé, bà ta vội quay đi.

Tôi rất muốn mẹ cho bà ta đứa con gái của Lai Đệ.

Chúng tôi cũng không lấy một xu, còn tặng thêm bà ta chiếc áo lông điêu. Tôi ghét con bé. Nó không có lý gì để ăn chia sữa mẹ với tôi. Ngay cả chị Tám cũng không đủ tư cách ăn chia, huống hồ nó! Hai bầu vú của chị Lai Đệ để làm gì? Sa Nguyệt Lương nhả đầu vú chị Lai Đệ, nhố máu cục ra, súc miệng bằng nước lã. Anh ta nói:

- Phải vậy thôi! Em bị chốc vú!

Chị Lai Đệ nước mắt ràn rụa, hỏi:

- Anh Lượng, chúng mình như con thỏ bị chó săn dồn đuổi, bao giờ mới kết thúc những chuyện này?

Sa Nguyệt Lượng ngồi hút thuốc, suy nghĩ rất lung nét mặt trở nên hung hãn, nói:

- Mẹ kiếp, ai có sữa người ấy là mẹ. Hãy chạy theo Nhật, hay thì ở dở thì xéo!
Bà ngoại quốc ngắm nghía các chị tôi một lượt, đầu tiên là chị Năm, chị Sáu, vì sau gáy có cắm cỏ, sau đó xem chị Tư, chị Bảy, chị Tám không có cỏ sau gáy, không thèm ngó thằng mất dạy nhà Tư Mã. Hình như bà có vẻ thích tôi. Tôi cho rằng ưu thế của tôi là cái đầu tóc vàng mềm mại. Cách thức xem xét của họ cũng rất lạ. Người thanh niên ra lệnh cho các chị tôi lần lượt thực hiện các động tác sau: cúi đầu, cúi gập người, hất chân, tay nọ nắm tay kia rồi giơ cao quá đầu, dưa hai vai ra trúc, ra sau, há to miệng kêu a...a..., cười một tiếng, đi vài bước, chạy vài bước. Các chị ngoan ngoãn thực hiện mệnh lệnh của anh ta. Bà ngoại quốc nhìn chăm chú, lúc gật gật, lúc lại lắc đầu. Cuối cùng bà chỉ vào chị Bảy, xì xồ với người thanh niên.

Người thanh niên chỉ vào bà ngoại quốc, bảo mẹ:

- Đây là bá tước phu nhân Roxtov, bà là một nhà từ thiện lớn. Bà muốn nhận một bé gái Trung Quốc làm con nuôi. Ưng đứa này, phúc cho gia đình bác!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:48 AM
Mẹ bỗng ứa nước mắt, chuyển con bé của Lai Đệ cho chị Tư, đang tay ôm lấy đầu chị Bảy:

- Bảy ơi, Cầu Đệ ơi, con yêu của mẹ, con gặp may rồi!

Nước mắt mẹ tôi như mưa xuống đầu chị Bảy. Chị sụt sịt khóc:

- Mẹ ơi, con không đi với bà đâu, người bà ấy khó ngửi lắm...

Mẹ nói:

- Con ngốc nghếch của mẹ, người ta thơm đấy con ạ!

Người thanh niên sốt ruột, nói:

- Thôi bác bàn chuyện giá cả đi!

Mẹ nói:

- Thưa ông, được làm con nuôi của bà đây thì chuột sa chĩnh gạo, tôi không lấy tiền đâu... Chỉ xin đối xử tốt với cháu!

Anh thanh niên dịch lại cho bà ngoại quốc nghe, bà ngọng nghịu nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Không, vẫn cứ cho tiền.

Mẹ hỏi: - Thưa ông, ông hỏi bà phu nhân xem có thể nhận một đứa nữa không? Cho chúng có chị có em!

Người thanh niên dịch lại. Phu nhân Roxtov dứt khoát lắc đầu.

Người thanh niêndúi vào tay mẹ hơn chục tờ tiền giấy màu phấn hồng, rồi vẫy vẫy người đánh xe. Người đánh xe chạy tới, cúi chào anh thanh niên.

Người đánh xe bế chị Bảy ra xa. Lúc này chị mới khóc òa lên và giơ cánh tay khẳng khiu về phía mẹ. Các chị khóc òa theo, ngay cả thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng nhếch miệng òa lên một tiếng, lát sau lại òa tiếng nữa. Người đánh xe đùn chị Bảy vào trong xe. Bà ngoại quốc cũng vào theo, lúc người thanh niên sắp lên xe, mẹ đuổi kịp, kéo tay anh ta, hỏi:
- Thưa ông, phu nhân ở đâu?

Anh ta trả lời lạnh nhạt:

- Cáp Nhĩ Tân.

Xe chạy lên đường cái quan, mất hút rất nhanh sau khu rừng. Nhưng tiếng gào khóc của chị Bảy, tiếng leng keng của nhạc ngựa, mùi hương trên vú của Bá tước phu nhân đọng mãi trong ký ức tôi.

Mẹ đã biến thành tượng đất, tay vẫn giơ cao nắm tiền, tôi cũng biến thành một bộ phận của tượng.

Đêm ấy chúng tôi không ngủ ngoài đường mà trọ trong một quán trọ. Mẹ sai chị Tư chạy đi mua hơn chục cái bánh mì. Chị lại mua về bốn mươi cái bánh bao, một gói thịt thủ lợn. Mẹ giận, nói:

- Con Tư, đây là tiền bán em mày đấy!

Chị Tư vừa khóc vừa nói:

- Mẹ, để các em ăn một bữa cho no, mẹ cũng phải ăn một bữa ho.

Mẹ vừa khóc vừa nói:

- Tưởng Đệ, mẹ làm sao nuốt nổi bánh này, thịt này...

Chị Tư nói:

- Mẹ không ăn gì thì Kim Đồng chết mất!

Lời khuyên của chị Tư rất có kết quả, mẹ kìm nước mắt ăn lấy được chỗ bánh bao và thịt để có sữa cho tôi, và cũng là có sữa cho con gái chị Lai Đệ và Sa Nguyệt Lượng, cái đồ cường đạo ấy, tối tối dùng bữa với bọn Nhật!

Mẹ ốm rồi.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:49 AM
Mẹ nóng như lò than, đến nỗi Kim Đồng không lúc nào rời lưng mẹ cũng phải bỏ cuộc. Chúng tôi ngồi vậy quanh mẹ, chỉ biết giương mắt nhìn nhau. Mẹ nhắm mắt, bọt rãi trong suốt đùn ra hai bên mép, mẹ lắp bắp những câu ghê người, lúc thì gào toáng lên, lúc lại lẩm bẩm một mình. Có lúc nói oang oang phấn khởi, lúc lại đau xót kể lể. Thượng đế, Đức Mẹ đồng trinh, thiên sứ, ma quỉ, Thượng Quan Thọ Hỉ, mục sư Malôa, ông Ba Phàn, Tư Vu, dì lớn, cậu Hai, ông ngoại, bà ngoại... ma quỉ Trung Quốc và thần linh nước ngoài, người còn sống và người đã chết, những chuyện chúng tôi biết và những chuyện chúng tôi chưa biết, tuôn ra như suối từ miệng mẹ, lắc lư, uốn éo, làm diệu làm bộ, biến ảo trước mắt chúng tôi.

Tìm hiểu những câu nói mê của mẹ chồng khác tìm hiểu vũ trụ, ghi lại những điều nói mê của mẹ thì cầm bằng ghi lại toàn bộ lịch sử vùng Cao Mật.

Chủ quán, một người đàn ông trung niên da bèo nhèo, mặt đầy nốt ruồi, bị đánh thức vì tiếng rên la của mẹ. Ông ta vào buồng, sờ trán mẹ, lập tức rụt tay lại, nói:

- Đi mời thầy thuốc mau, khéo chết mất!

Ông nhìn chúng tôi hỏi chị Tư:

- Cô là chị Cả phải không?

Chị Tư gật đầu, ông hỏi:

- Tại sao không mời thầy thuốc? Này, sao cô không nói gì thế!

Chị Tư khóc òa lên, quì sụp trước mặt chủ quán, nói:

- Bác ơi, bác cứu mẹ cháu với?

Ông chủ quán nói:

- Tôi hỏi cô nhé, cô có bao nhiêu tiền?

Chị Tư lục túi mẹ, lấy ra mấy tờ tiền giấy đưa cho ông chủ quán:

- Bác ơi, đây là tiền bán em Bảy cháu?

Chủ quán cầm tiền, nói:
- Cô đi theo tôi. Đi mời thầy thuốc? -

Tiêu hết số tiền bán chị Bảy, mẹ mới mở được mắt. Mẹ mở mắt rồi, mẹ mở được mắt rồi? Chúng tôi rưng rung nước mắt, reo ầm lên. Mẹ giơ tay sờ mặt từng đứa.

- Mẹ, mẹ, mẹ, mẹ?... - chúng tôi gọi.

- Bà ngoại ơi, bà ngoại!...

Thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng lắp bắp.

- Nó đâu? Nó... Mẹ chìa một tay ra, hỏi.

Chị Tư bế con bé được bọc trong cái áo lông điêu tới trước mặt để mẹ xoa đầu nó. Khi mẹ xoa đầu, nó nhắm mắt lại. Hai giọt nước mắt của mẹ ứa ra.
Ông chủ quán với bộ mặt rầu rĩ bước vào, bảo chị Tư:

Này cô, không phải tôi nhẫn tâm, nhà tôi cũng nhiều miệng ăn! Mười mấy ngày nay, nào tiền trọ, tiền cơm, tiền đầu đèn...

Chị Tư nói:

- Bác ơi, bác là ân nhân của gia đình cháu. Cháu nhất định sẽ trả bác đầy đủ, chỉ xin bác đừng đuổi mẹ cháu đi, mẹ cháu!...

Buổi sáng ngày Mười tám tháng Hai năm Một nghìn chín trăm bốn mươi mốt, Thượng Quan Tưởng Đệ đưa cho mẹ vừa khỏi bệnh một xấp tiền. Chị nói:

- Mẹ, con đã trả đủ nợ của bác chủ quán, chỗ này là tiền thừa...

Mẹ ngạc nhiên, hỏi: - Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?

Chị Tư cười như mếu, nói:

- Mẹ cho các em về đi, nơi này không phải là nhà của ta!...

Mặt mẹ trắng nhợt, túm tay chị Tư, hỏi:
- Tưởng Đệ, cho mẹ biết...

Chị Tư nói:

- Mẹ, con đã bán mình rồi, bác chủ quán giúp con mặc cả đến nửa ngày trời...

Mụ chủ chứa kiểm tra toàn thân chị Tư như kiểm tra gia súc, nói:

- Gầy quá.

Ông chủ quán nói:

- Bà chủ ơi, chỉ một bao gạo là béo lên ngay đấy mà! Mụ chủ giơ lên hai ngón tay, nói:

- Hai trăm đồng! Tôi làm phúc để lấy đức!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:51 AM
Chủ quán nói:

- Bà chủ ơi, cô này có mẹ đang đau nặng, lại còn một đàn em, trả thêm cho cô ấy đi!

Bà chủ nói:

- Thời buổi này làm việc thiện khó quá!

Chủ quán nài nỉ, chị Tư quì sụp xuống. Bà chủ nói:

- Thôi được, tôi hay thương người, thêm một trăm nữa, kịch giá rồi đấy.

Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà. Khi ấy, chúng tôi nghe một giọng khàn khàn ngoài cửa:

- Đi nào cô bé. Ta không có nhiều thì giờ đợi cô đâu!

Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy. Rồi chị đứng dậy xoa đầu chị Năm, vuốt má chị Sáu, kéo tai chị Tám, vội vàng nâng cằm tôi thơm một cái. Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết.

- Kim Đồng ơi, Kim Đồng - chị nói - em lớn mau lên, lớn nhanh lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!

Nói xong, chị nhìn quanh căn buồng, yết hầu nhô ra ở cổ như cổ gà. Chị bung miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không thấy nữa.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:52 AM
7.



Chúng tôi cho rằng, về đến nhà là trông thấy thi thể của chị Lãnh Đệ và bà nội, nhưng quang cảnh trước mắt hoàn toàn khác với dự đoán.

Trong sân cực kỳ ồn ào. Hai người đàn ông đầu cạo trọc, ngồi tựa lưng vào tường của gian chính, căm cúi vá quần áo đường khâu rất thành thạo. Hai người nữa, ngồi liền kề hai người vá quần áo, cũng đầu cạo trọc bóng loáng, cũng thái độ nghiêm chỉnh như thế, lúi húi lau hai khẩu súng đen bóng. Lại còn hai người nữa, một người đứng dưới cây ngô đồng, tay cầm lưỡi lê sáng loáng, người kia ngồi trên ghế đẩu, đầu cúi xuống, trên đầu đầy bọt xà phòng. Người cầm lưỡi lê nhún chân, liếc lưỡi lê vào quần mấy cái, rồi một tay giữ lấy cái đầu đầy xà phòng, tay kia giơ lưỡi lê ướm thử như tìm vị trí mở đầu. Rồi anh ta đặt lưỡi lê vào giữa đỉnh đầu, cạo một nhát từ đỉnh xuống gáy. Một mảng tóc đẫm bọt xà phòng rơi xuống, một mảng da đầu trắng hếu lộ ra. Còn một người nữa, tay cầm chiếc búa có cán dài ở chỗ nhà tôi vẫn cất lạc, trước mặt anh ta là một gốc cây du. Sau lưng là một đống củi đã bổ. Anh ta dạng chân, giơ cao chiếc búa, dừng lại trên không một thoáng rồi bổ mạnh xuống cùng với tiếng hự thốt ra từ miệng. Lưỡi búa cắm ngập vào gốc cây. Anh ta dùng một chân chặn gốc cây cố súc rút lum búa, lùi lại hai bước, chuẩn bị tư thế, nhổ nước bọt vào lòng bàn tay rồi lại giơ búa lên. Cái gốc cây du nút toác một mảnh gỗ văng ra như vỏ đạn pháo, bắn trúng ngực Phán Đệ khiến chị hét toáng lên. Những người đang may vá và lau súng đều ngẩng đầu lên. Những người cạo đầu và bổ củi đều quay lại. Người ngồi cạo đầu ngẩng đầu lên nhưng bị người cạo đầu hộ dùng tay ấn xuống.

- Đừng cựa? - anh ta nói.

Người bổ củi nói:

- Ăn mày đến kìa! ăn mày đến kìa? Anh Trường ơi, những người đi ăn xin đây này!

Một người mặc tạp dề trắng, đội mũ xám, mặt đầy vết nhăn từ trong nhà chạy ra. Tay áo anh ta xắn rất cao, tay dính đầy bột, vẻ thân thiện:

- Chào bác Bác đi cửa khác mà xin, bộ đội chúng tôi ăn theo định suất, không bớt ra để cho được!

Mẹ điềm nhiên nói: - Đây là nhà của tôi!
Những người trong sân đứng ngẩn ra. Người đầy bọt xà phòng trên đầu nhảy dựng lên, kéo vạt áo lau những vết bẩn trên mặt, ú a ú ớ với chúng tôi. Anh ta là Tôn câm, con cả nhà họ Tôn.

Tôn câm chạy đến trước mặt chúng tôi, miệng ú ớ, tay làm hiệu rất nhiều điều mà chúng tôi không hiểu. Chúng tôi ngượng ngập nhìn khuôn mặt thô kệch như đẽo bằng rìu, trong lòng vẩn lên một nỗi lo. Tôn câm chớp chớp con người màu vàng xỉn, cằm dưới bạnh ra, miệng lập bập liên hồi. Anh ta chạy vào chái phía đông, cầm chiếc bát sứ men xanh và bức họa con chim ra khoe với chúng tôi. Người cạo đầu cho anh ta, cầm lưỡi lê đi tới, vỗ vai Tôn câm hỏi:

- Tôn câm, anh quen họ hả? Tôn câm đặt chiếc bát xuống, cầm mẩu củi viết nguệch ngoạc trên mặt đất hàng chữ xiên xẹo, thiếu cả nét:

- Bà ấy là mẹ vợ tôi!

- Thì ra bác đã trở về!

Người cạo đầu nhiệt tình nói:

- Chúng tôi là tiểu đội Năm, trung đội Một, đại đội phá đường sắt. Tôi là tiểu đội trưởng, họ Vương. Đại đội tôi về chỉnh quân ở đây, chiếm dụng nhà của bác, thật không phải quá. Con rể bác, chính ủy chúng tôi đã đặt cho một cái tên: Tôn Bất Ngôn. Anh là một chiến sĩ giỏi, anh dũng chiến dấu không sợ chết, là tấm gương cho chúng tôi học tập. Bác ơi, chúng tôi dọn khỏi buồng chính ngay bây giờ. Lão Lã, Tiểu Đỗ, Triệu Đại Ngưu, Tôn Bất Ngôn, Tần Tiểu Thất, dọn đồ đạc mau, để cho bác thu xếp giường chiếu!

Binh lính bỏ dở việc đang làm, đi vào gian chính. Họ đeo trên lưng những chiếc chăn gập vuông vức, quấn xà cạp vào chân, xỏ giày - loại giày vải đế nhiều lớp, khoác súng trường lên vai, cổ đeo mìn, xếp hàng ngay ngắn ngoài sân. Tiểu đội trưởng nói với mẹ:

- Mời bác vào nhà. Mọi người đợi ở đây, tôi đi thỉnh thị chính ủy.

Các chiến sĩ rất có kỷ luật, ngay cả anh chàng Tôn câm mà bây giờ gọi là Tôn Bất Ngôn cũng đứng thẳng đơ như một cây thông. Tiểu đội trưởng xách súng chạy đi. Chúng tôi vào trong nhà. Trong chảo đã bắc thêm hai ngăn bằng tre và cây sậy. Củi trong lò cháy rừng rục. Nước trong chảo sôi ùng ục, hơi nước bốc lên mờ mịt. Chúng tôi ngủi thấy mùi thơm của bánh bao. Bác cấp dưỡng gật đầu chào mẹ với vẻ biết lỗi. Bác rất hiền. Bác cho củi vào lò.
- Tha lỗi cho chúng tôi về việc đã tự tiện cải tạo cái bếp.

Bác chỉ cái rãnh sâu trước cửa lò, nói:

- Hàng chục cái quạt cũng không bằng một cái rãnh này! Ngọn lửa phần phật, chỉ e trôn chảo bị nung chảy.

Chị Lãnh Đệ mặt đỏ hồng ngồi trên ngưỡng cửa, mắt lim dim, chăm chú nhìn hơi nước phụt qua kẽ nắp cuồn cuộn bay lên, càng nhìn càng thấy đẹp

- Lãnh Đệ! - Mẹ thử gọi.

- Chị Ba ơi, chị Ba! - Chị Năm, chị Sáu gọi.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:53 AM
Chị Lãnh Đệ thờ ở nhìn chúng tôi, làm như chưa hề quen nhau, chưa hề có đợt xa nhau vừa rồi.

Mẹ nhìn căn buồng thu dọn sạch sẽ, cảm thấy áy náy, lại kéo chúng tôi ra sân.

Tôn câm đứng trong hàng, nhăn mặt làm trò với chúng tôi. Thằng nhóc Tư Mã mạnh dạn sờ chân quấn xà cạp cứng như gỗ của các chú lính.

Tiểu đội trưởng dẫn về một người đàn ông tuổi trung niên, giới thiệu với mẹ:
- Thưa bác, đây là chính ủy Tưởng.

Chính ủy có khuôn mặt trắng trẻo, không để râu, thân hình tầm thước, thắt lưng da to bản, túi ngực cài chiếc bút máy. Ông lịch sự gật đầu chào chúng tôi, lấy trong xắc cốt một nắm kẹo xanh đỏ, nói:

- Các cháu ăn kẹo đi.

Rồi ông chia kẹo cho chúng tôi, con bé bọc trong áo lông điêu cũng được chia hai cái do mẹ nhận hộ. Đây là lần đầu tiên tôi được biết mùi vị của kẹo. Chính ủy nói:

- Bác ơi, xin bác cho tiểu đội này ở nhờ hai chái đông và tây?

Mẹ gật đầu, đờ đẫn.

Chính ủy vén tay áo xem đồng hồ, hỏi to:

- Lão Trương, bánh bao được chưa?

Lão Trương chạy ra:

- Chín rồi ạ.

Chính ủy nói:

- Anh lấy bánh cho các cháu ăn. Cứ để các cháu ăn thỏa thích.

- Lát nữa tôi bảo Tư vụ trưởng bổ sung mức ăn cho các anh.

Lão Trương dạ luôn miệng.
Chính ủy bảo mẹ:

- Đại đội trưởng của chúng tôi muốn gặp bác. Mời bác đi cùng tôi.

Mẹ định trao con bé cho chị Năm. Chính ủy giơ tay ngăn lại, nói:

- Không, bác cứ bế cháu bé đi.

Chúng tôi, thực ra là chỉ mẹ tôi, đi theo chính ủy. Mẹ địu tôi trên lưng, bế con bé đằng trước, đi dọc theo ngõ ra phố, đến nhà Phúc Sinh Đường. Hai lính gác vội đứng nghiêm, bồng súng chào. Chúng tôi đi qua các phòng thông nhau, cuối cùng vào đến đại sảnh, chính giữa bày bàn bát tiên màu huyết dụ, trên bàn bày hai đĩa lớn, một đĩa là thịt gà rừng, đĩa kia là thịt thỏ rừng, một làn đầy bánh bao. Một người râu quai nón tươi cười ra đón, nó:

- Xin chào, xin chào!

Chính ủy giới thiệu:

- Thưa bác, đây là đại đội trưởng Lỗ!

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Nghe nói bác cũng họ Lỗ. Năm trăm năm trước chúng ta là một nhà!

Mẹ hỏi:

- Thưa quan lớn, chúng tôi phạm tội gì?

Đại đội trưởng ngớ ra, cuối sảng khoái, bảo mẹ:

- Bác hiểu lầm rồi? Mời bác đến đây chăng có ý gì khác. Mười năm trước, tôi và Sa Nguyệt Lượng là bạn nối khố. Sa Nguyệt Lượng là con rể bác. Vì vậy nghe tin bác trở về, cho đặt tiệc tây trần mời bác.

Mẹ nói:
- Anh ta không phải con rể tôi.

Chính ủy nói:

- Bác giấu làm gì? Bác đang bế con của Sa Nguyệt Lượng đấy thôi!

Mẹ nói:

- Đây là cháu tôi.

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Hãy ăn đã. Xem chừng bà cháu đói cả rồi.

Mẹ nói:

- Thưa quan lớn, chúng tôi về đây?

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Bác đừng vội đi, Sa Nguyệt Lượng có nhờ tôi giúp anh ta trong việc nuôi cháu bé. Anh ta biết bác có khó khăn. Cô Đường đâu rồi?
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:54 AM
Một nữ binh xinh đẹp nhanh nhẹn bước ra.

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Bế lấy em bé cho bác, để bác xơi cơm!

Cô nữ binh bước tới trước mặt mẹ, giơ hai tay ra. Mẹ kiên quyết:

- Đây không phải con gái Sa Nguyệt Lượng. Đây là cháu tôi!

Chúng tôi đi trở lại các phòng thông nhau, ra phố, rẽ vào ngõ trở về nhà.
Liên tiếp mấy ngày sau, cô nữ binh có tên là Đường nhiều lần đem thực phẩm, quần áo đến nhà tôi. Những thùng bánh bích qui, mà mỗi cái bánh là một hình con vật: chó, mèo, hổ..., sữa bột đựng trong bình thủy tinh, mật ong trong suốt đựng trong vò sành. Quần áo bằng tơ lụa, vải bông viền dăng ten, mũ bằng lông thỏ còn nguyên cả hai tai dài dài. Những thứ này cô nói, đều là của đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng gửi cho cháu gái. Cô chỉ vào con bé mẹ đang bế:

- Đương nhiên, em bé trai có thể cùng ăn - cô lại chỉ vào tôi nói vậy.

Mẹ thản nhiên nhìn cô Đường quá nhiệt tình, mặt hồng hào như quả táo, mắt như hai hạt hạnh. Mẹ nói:

- Cô đem những thứ này đi. Chúng tôi con nhà nghèo, không xài được của tốt đến thế!

Mẹ cầm hai đầu vú, một đầu nhét vào miệng tôi, một đầu nhét vào miệng con gái Sa Nguyệt Lượng. Nó đắc ý rên hừ hừ, tôi căm giận rên lên hừ hừ. Nó đập tay vào đầu tôi, tôi đạp cho nó một cái vào mông, nó ề à khóc. Tôi còn loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc dai dẳng, mảnh như sợi tơ của chị Ngọc Nữ, tiếng khóc mà mặt trời và mặt trăng đều lắng nghe vì nó ngọt hơn ánh nắng và thơm như ánh trăng.

Cô Đường nói rằng, chính ủy Tưởng đã đặt cho cô bé một cái tên. Ông ta là trí thức, tốt nghiệp đại học Triều Dương Bắc Bình, văn hay vẽ giỏi, rất giỏi tiếng Anh. Tên là Sa Tảo Hoa được đấy chứ!

- Bác ơi, bác đừng nghi ngại gì hết. Đại đội trưởng Lỗ là con người tốt. Nếu các ông ấy định cướp con bé thì dễ như trở bàn tay.

Cô Đường lấy trong bọc ra chiếc bình sữa bằng thủy tinh trên miệng có núm cao su màu vàng nhạt. Cô đổ mật ong và sữa bột màu trắng vào cái bát, đổ nước sôi vào, khuấy đều. Tôi đã có lần ngửi thấy mùi sữa này, đó là mùi ở vú bà ngoại quốc hôm bà đem chị Tưởng Đệ đi. Cô đổ sữa vào bình, nói với mẹ:
- Bác đừng cho nó bú chung với em trai, bác sẽ kiệt sức mất! Để cháu cho nó ti chai. Cô vừa nói vừa bế lấy Sa Tảo Hoa. Sa Tảo Hoa mút dài vú mẹ như cái dây cung của Hàn Chim. Cuối cùng núm vú tuột ra, co lại từ từ y hệt con đỉa bị nước đái, rất lâu mới trở lại hình dáng cũ. Tôi đau khổ là vì bầu vú, tôi căm giận Sa Tảo Hoa cũng là vì bầu vú. Nhưng con tiểu yêu này đã ti như điên, uống ừng ực từ cái bầu vú giả, ti ngon lành nhưng tôi không thèm. Một lần nữa, bầu vú của mẹ lại thuộc về tôi. Đã lâu tôi chưa bao giờ ngủ yên và ngủ ngon đến thế. Giấc mơ đã thay cho cái miệng của tôi, đắm đuối và hạnh phúc, toàn một mùi thơm của sữa! Tôi ngủ liền một mạch ba ngày.

Do vậy, tôi vô cùng cảm kích cô Đường. Hai bầu vú đội ngực áo quân phục khiến tôi cảm thấy cô vô cùng khả ái, tuy rằng vú của cô là loại vú bánh dầy, nhưng hình dáng vẫn là vú. Cho Tảo Hoa ăn xong, cô Đường mở cái bọc bằng áo lông điêu, một mùi khai như mùi lông chồn xông lên. Tôi nhìn thấy là da Sa Tảo Hoa trắng như sữa. Không ngờ con bé mặt đen như than mà da lại trắng đến thế. Cô Đường mặc quần áo, đội mũ, trang điểm cho Sa Tảo Hoa thành một cô bé xinh xắn. Cô Đường gạt cái áo lông điêu sang một bên, hai tay xốc nách Sa Tảo Hoa tung lên trời rồi đón lấy. Sa Tảo Hoa cười khanh khách. Thật không ngờ, tôi cảm thấy cô cháu ngoại này cũng có phần đáng yêu.

Cơ thể mẹ căng lên, chuẩn bị tư thế cướp lại Sa Tảo Hoa bất cứ lúc nào. Cô Đường trao trả Sa Tảo Hoa cho mẹ, nói:

- Bác ơi, Tư lệnh Sa mà nhìn thấy con bé thì chắc là vui lắm.

- Tư lệnh Sa? Mẹ ngỡ ngàng nhìn cô Đường.

- Bác ơi, bác chưa biết đấy thôi. Con rể bác bây giờ là Tư lệnh cảnh vệ thành phố Bột Hải, hơn ba trăm người dưới quyền, có cả một chiếc xe Jeep Mỹ! - Cô Đường nói.

(đoạn đánh dấu dưới đây, không ăn nhập với bất kỳ tình tiết nào trong bài, có thể người dịch đã bỏ sót một đoạn dài hoặc nhà xuất bản có lỗi khi in- LENA)

Sa Nguyệt Lượng xé vụn bức thư, gầm lên:

- Lỗ-đại-bác, Tưởng-bốn-mắt, dùng tưởng bở!

Sứ giả của đại đội bộc phá từ tốn nói:
- Thưa ông Tư lệnh, thiên kim tiểu thư của ông, chúng tôi rất mến! Giam giữ con tin, vậy bản lãnh ở đâu?

Sa Nguyệt Lượng nói:

- Bảo Lỗ-tướng có giỏi thì đem quân đến đánh Bột Hải?

Sứ giả nói:

- Ông Tư lệnh không nên quên quá khứ vẻ vang của mình?

Sa Nguyệt Lượng nói:

- Ta đây thích đánh Nhật thì đánh, thích hàng Nhật thì hàng, thằng nào dám làm gì ta, còn lảm nhảm thì chớ trách!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:56 AM
Cô Đường lôi ra chiếc lược nhựa đỏ, chải đầu cho chị Năm, chị Sáu. Khi chải đầu cho chị Sáu, chị Năm nhìn cô với vẻ say mê. ánh mắt chị Năm như chiếc lược, chải tù đầu xuống chân, rồi chải từ chân lên đầu cô Đường. Khi cô Đường chải đầu cho chị Năm, thì trên mặt trên cổ chị Sáu nổi da gà. Chải xong, cô Đường ra về. Chị Năm bảo mẹ:

- Mẹ, con muốn đi bộ đội?

Hai hôm sau, chị Năm mặc quân phục, công tác chủ yếu của chị là cùng cô Đường thay tã lót và cho Sa Tảo Hoa bú sữa.

Đây là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời tôi, như bài hát lưu hành lúc bấy giờ. Em ơi buồn làm chi, Hãy cùng đồng chí ra đi, Rau cải thìa nấu cùng thịt lợn, Chảo bốc hơi đầy ắp màn thầu.... Rau cải thìa nấu với thịt lợn không thường xuyên, màn thầu trắng cũng không thường xuyên, nhưng củ cải om cá khô thì lúc nào cũng có, bánh bột ngô to bự thì lúc nào cũng có. Hạn hán không thể chết đói, đói không đến lính tráng!

Mẹ than thở:

- Tưởng Đệ ơi, Cầu Đệ ơi, các con tội nghiệp của mẹ...

Mẹ rơi nước mắt khi nghe tiếng hát của chị Năm và tiếng cười vui vẻ của chị Sáu. Trong thời gian này, sữa của mẹ đặc biệt tốt và nhiều, Kim Đồng từ trong túi vải nhảy ra ngoài, đã đi được hai mươi bước, đi được năm mươi bước, đi được một trăm bước, không bò nữa. Miệng tôi cũng không ngượng ngập nữa, chửi người như ranh. Khi Tôn câm nắm lấy chim, tôi chửi liền:

- Đ. mẹ mày!

Chị Sáu theo học lớp xóa nạn mù chữ, hát: Mười tám, chị đi bộ đội, đi bộ đội vẻ vang biết mấy! Cắt đánh soạt vứt bỏ đuổi sam, chải lật tóc rẽ thành hai mái? Canh gác tuần tra khắp nẻo đường. Hán gian đặc vụ chạy té đái.
Lớp học đặt trong nhà thờ. Những ghế băng được sửa chữa ngay ngắn, những đống phân lừa được dọn sạch. Thiên sứ có cánh đã bay đi. Tượng Chúa Giêsu bằng gỗ táo đã bị lấy cắp. Trên tường treo bảng đen, trên bảng viết chữ trắng. Cô Đường gõ thước lên bảng cồm cộp, chống... Nhật... chống... Nhật. Các bà phụ nữ vừa cho con bú vừa khâu đế giày hoặc bện thừng. Chống Nhật... chống Nhật.... Tôi nhảy cà chớn giữa các bà phụ nữ, len lỏi giữa bầy vú đủ các loại. Chị Năm nhảy lên bục, nói:

- Nhân dân là nước, bộ đội con em của dân là cá, đúng không nào?

- Đúng. - Cá sợ nhất gì nào?...

- Cá sợ gì nhỉ? Cá sợ lưỡi câu? Cá sợ chim bói cá? Cá sợ rắn nước?...

- Cá sợ lưới! Đúng rồi, cá sợ nhất là lưới? Sau gáy các bà các chị là cái gì vậy?

- Là cái búi tó.

- Trên búi tó có gì vậy?

- Là cái lưới.

Đám phụ nữ chợt tỉnh ngộ, mặt đỏ ửng, ghé tai nhau thì thào, cười rúc rích. Cắt phăng mái tóc, vút bỏ lưới, bảo vệ đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng, bảo vệ đội bộc phá do hai người chỉ huy.

- Ai xung phong nào?

Chị Phán Đệ giơ cao cái kéo, còn dùng những ngón tay búp măng mở đóng kéo xoành xoạch như hàm con cá mập đang đói. Cô Đường nói:

- Thử nghĩ coi, các bà các bác, các cô các dì, các chị các em thử nghĩ coi, phụ nữ chúng ta bị ba ngàn năm áp bức, giờ đây đã đến lúc vùng lên! Hồ Tần Liên, chị cho biết, tên ma men Nhiếp-Nửa-Hũ chồng chị, còn dám đánh chị nữa không?

Một nữ thanh niên mặt vàng như nghệ bế con đứng dậy ngó nữ binh Đường và nữ binh Thượng Quan hiên ngang trên bục, rồi vội vàng cúi xuống, nói:
- Không đánh nữa.

Nữ binh Đường vỗ tay:

- Các bà các chị nghe rõ chưa, ngay cả Nhiếp-Nửa-Hũ cũng không dám đánh vợ nữa. Hội Phụ nữ cứu quốc là nhà của phụ nữ chúng ta, giải trừ những nỗi bất bình cho chúng ta. Hỡi chị em phụ nữ, cuộc sống bình đẳng hạnh phúc của ta hiện nay do đâu mà có? Từ trên trời rơi xuống chăng? Từ dưới đất đùn lên chăng? Không phải, quyết không phải. Nguyên nhân đích thực chỉ có một: Đó là từ khi đội bộc phá về đây xây dựng căn cứ địa vững chắc như tường đông vách sắt ở thị trấn Đại Lan, ở Cao Mật. Chúng ta đã tự lực cánh sinh, phấn đấu gian khổ để cải thiện cuộc sống, nhất là cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta không mê tín kiểu phong kiến, nhưng chúng ta phải gỡ bỏ mọi trói buộc, không chỉ vì đội bộc phá mà vì bản thân chúng ta. Chị em phụ nữ, hãy cắt tóc ngắn, vút bỏ lưới bọc tóc, nhất loạt để tóc rẽ ngôi!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:57 AM
- Mẹ, mẹ xung phong đi! Chị Phán Đệ đưa kéo cho mẹ.

- Phải rồi, bà chị Thượng Quan cắt tóc ngắn thì chúng tôi cũng cắt tóc ngắn. Đám phụ nữ đồng thanh kêu lên.

- Mẹ ơi, mẹ xung phong đi, cho con gái mẹ mở mày mở mặt! - Chị Năm nói.

Mẹ đảo mắt, đưa đầu về phía chị, nói:

- Cắt đi, Phán Đệ! Miễn là có lợi cho đại đội bộc phá thì đừng nói cắt bím tóc, ngay cả chặt đứt hai ngón tay, mẹ cũng dám chặt.

Chị Năm gỡ búi tóc của mẹ ra. Một cuộn lớn tóc đen thả dần trên cổ trên lưng mẹ như một dòng suối. Mẹ có những nét giống hoàn toàn Đức mẹ Ma ria trên tường, nghiêm trang, u sầu, lặng lẽ, dâng hiến với vẻ cam chịu và tự nguyện. Đó chính là tôn giáo, một đứa trẻ bụ bẫm hồng hào sinh trong máng cỏ. Ngôi nhà thờ mà tôi từng chịu lễ rửa tội có mùi phân vừa mục, cảnh tượng tôi nằm trong bồn nước cùng chị Tám lại hiện ra trước mắt. Đức mẹ chưa bao giờ giấu cặp vú, còn vú của mẹ tôi thì lại nửa che nửa đậy.

- Phán Đệ, cắt đi con, còn chần chừ gì nữa? Mẹ nói.

Thế là chị Năm mở rộng lưỡi kéo ngoạm vào suối tóc của mẹ. Soạt soạt, bím tóc rơi xuống. Mẹ ngẩng đầu lên, tóc mẹ trở thành hai mái chấm đái tai, cái cổ thon dài của mẹ hoàn toàn lộ rõ. Đột nhiên mất đi sức nặng của mái tóc dày, đầu mẹ trở nên linh hoạt, có phần nhanh nhẹn như Tiên Chim, thoắt ngoảnh sang bên này, thoắt ngoảnh sang bên kia. Mặt mẹ đỏ bừng, nữ binh Đường lấy ra chiếc gương nhỏ hình tròn đưa tới trước mặt để mẹ soi, nhưng mẹ ngượng, quay mặt đi, chiếc gương đưa theo, mẹ thẹn thùng khi nhìn thấy mái tóc của mình trong gương thu nhỏ đến chục lần mái đầu cũ. Mẹ lại vội quay mặt đi.

- Đẹp không bác? - Cô Đường hỏi.

- Xấu chết đi được! - Mẹ trả lời khẽ.

- Ngay cả bác Thượng Quan còn cắt tóc ngắn, các vị còn chần chờ gì nữa? - Nữ binh Đường nói to.
Cắt đi vậy thì cắt đi. Cắt đi cho hợp thời. Mỗi khi thay đổi triều đại là lại thay đổi đầu tóc. Triều Thanh, nam giới đều để bím. Cách mạng của ông Tôn Trung Sơn, trước tiên là cắt phăng cái bím. Tóc ngắn rẽ ngôi là sản phẩm của thời đại. Sản phẩm thời đại chính là mốt, mốt chính là cái đẹp. Cắt hộ tôi. Soạt soạt. Tiếng than. Tiếng tặc lưỡi. Tôi cúi xuống nhặt lên một lọn tóc. Tóc rải rác trên mặt đất, đen có, vàng có, thô có, mảnh có. Thô thì vừa cứng vừa đen, mảnh thì vừa mềm vừa vàng. Tóc đầy dưới đất, nhưng chỉ tóc mẹ tôi là đẹp nhất. Tóc mẹ tôi là một loại tóc tiết ra dầu.

Những ngày ấy vui nổ trời, ầm ĩ hơn những ngày Tư Mã Khố triển lãm chiến lợi phẩm đánh cầu đường sắt. Đại đội đường sắt là nơi tập trung nhân tài, hát hay, múa giỏi, thổi tiêu thổi sáo, chơi đàn, có tất. Tất cả những bức tường trong thôn đều kẻ khẩu hiệu chữ to. Mỗi sáng, đều có bốn thiếu sinh quân trèo lên vọng gác, ngoảnh về phía mặt trời mà luyện kèn báo thức. Lúc đầu thổi như bò rống, dần dà nghe như chó sủa óc ách, cuối cùng nghe khúc chiết, lên bổng xuống trầm, làn diệu hẳn hoi. Các tiểu binh hít đầy ***g ngực, ngửa mặt, cổ vươn dài, phồng miệng lấy hơi. Kèn vàng chóe, dải lụa điều, vừa oai phong vừa đẹp mắt. Trong số bốn lính kèn, một chú đẹp trai nhất tên là Mã Đồng, miệng chúm chím, má lúm đồng tiền, hai vành tai tròn trịa. Chú nhanh nhẹn hoạt bát, môi ngọt như bôi mật ong. Chú triển khai một đợt nhận hơn hai mươi mẹ nuôi. Những bà mẹ nuôi ấy trông thấy chú là cặp vú rung động, chỉ hiềm nỗi không thể nhét núm vú vào miệng chú để chú cắn chú xé. Mã Đồng từng đến nhà tôi, truyền đạt mệnh lệnh gì đó cho tiểu đội trưởng. Hôm ấy tôi đang ngồi xổm dưới gốc cây thạch lựu xem đàn kiến trèo lên cây. Vì tò mò, chú cũng ngồi xuống xem. Chú còn chăm chú hơn tôi, giết kiến thành thạo hơn tôi, chú còn dẫn tôi đến đái vào tổ kiến. Trên đầu chúng tôi là cây lựu nở đầy hoa như những ngọn lửa. Lúc này là tiết đương xuân, tháng Tư, trời xanh xanh, mây trắng như bông, én lượn từng đàn trong gió nam lười nhác.

Mẹ linh cảm rằng, con trai mà đẹp và linh hoạt như Mã Đồng thì đa phần là chết yểu, Thượng đế ban phát cho nó nhiều quá, nó chiếm hết những thuận lợi của giống người, khó có thể đạt tới một kết cục thọ tỉ Nam sơn con cháu đầy đàn. Quả như lời mẹ đoán, một đêm, trời đã về khuya, sao dày đặc, ngoài phố bỗng có tiếng kêu của một thiếu niên:

- Xin đại đội trưởng Lỗ, chính ủy Thắng tha cho cháu lần này... Nhà cháu ba đời độc đinh, ông bà cháu chỉ có mỗi mình cháu là cháu nội, bố mẹ cháu chỉ có mình cháu là con... Cháu bị bắn chết thì gia đình cháu tuyệt tự?.. Mẹ Tôn ơi, mẹ Lý ơi, mẹ Thôi ơi, các mẹ nuôi ơi, ra xin cho cố!... Mẹ Thôi ơi, mẹ là chỗ giao tình với đại đội trưởng, mẹ hãy cứu con!...
Mã Đồng vừa kêu gào vừa đi ra khỏi thôn. Một tiếng nổ rất đanh, rồi tất cả yên lặng. Chú lính kèn đẹp như tiên đồng từ đó mất tăm. Mẹ nuôi nhiều như thế mà vẫn không thoát chết. Tội của chú là lấy trộm đạn đem bán.

Hôm sau, trên đường phố xuất hiện một cỗ quan tài màu đỏ son, một cỗ xe ngựa. Một đám binh sĩ khiêng quan tài lên xe. Cỗ quan tài rất nặng, dày năm tấc bằng gỗ bách, phủ chín lần véc ni, lót chín lần vải lót, ngâm nước mười năm không thấm, súng trường 3.8 bắn không thủng, chôn dưới đất nghìn năm không mục. Mười mấy bình sĩ nâng đáy quan tài, một tiểu đội trưởng hô khẩu lệnh, mới lẩy bẩy nâng lên khỏi mặt đất đưa lên xe. Quan tài lên xe rồi, một không khí căng thẳng trùm lên đại đội bộ, binh sĩ chạy ra chạy vào như mắc cửi, người nào người ấy nét mặt căng thẳng. Sau đó, một ông già râu bạc cưỡi lừa đi đến. Ông già xuống lừa, đến bên cỗ quan tài, vịn vào áo quan mà khóc rống lên, nước mắt chảy như suối, ướt đầm cả chòm râu. Đó là ông nội của Mã Đồng, đỗ cử nhân đời Thanh, trình độ văn hóa rất cao.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:58 AM
Đại đội trưởng Lỗ và chính ủy Tưởng bước tới, ngượng nghịu đứng bên cạnh ông già. Ông già khóc chán, quay lại nhìn như nuốt chủng Lỗ và Tưởng. Tưởng nói:

- Thưa cụ Mã, cụ đọc làu kinh thư, hiểu sâu đạo nghĩa. Chúng toi đành gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.

Lỗ tiếp lời:

- Gạt nước mắt mà tử hình Mã Đồng.

Ông già nhổ bãi nước bọt đầy máu vào mặt Lỗ, nói:

- Mèo ăn vụng miếng mỡ thì giết, hổ bắt cả con lợn thì tha? Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối!

Ông già ngửa mặt cả cười rồi bỏ đi, con lừa cúi đầu đi theo, cỗ xe chở quan tài đi sau con lừa, lặng lẽ. Tiếng xà ích quát ngựa nghe như tiếng ve sầu, như tiếng chuông bị bịt miệng không cho ngân. Sự kiện Mã Đồng như một trận động đất, làm lưng lay nền móng của đại đội bộc phá. Cái cảm giác giả tạo về hạnh phúc bị tiêu tan, tiếng súng hành quyết Mã Đồng bảo chúng tôi rằng, thời buổi loạn lạc, tính mạng con người như con sâu cái kiến! Sự kiện Mã Đồng thoạt nghe có vẻ biết cách rèn quân, chấp pháp nghiêm minh, nhưng nó lại phát sinh tiêu cực trong nội bộ đại đội bộc phá. Mấy ngày nay có đến mười mấy binh sĩ say rượu, có những vụ ẩu đả, tiểu đội ở nhà tôi đã bộc lộ dần tâm trạng bất mãn. Tiểu đội trưởng Vương nói công khai:

- Mã Đồng chẳng qua chỉ là vật hi sinh! Nó là thằng bé con, làm sao biết bán trộm đạn? Ông nội người ta là cử nhân, ruộng tốt nghìn khoảnh, lừa ngựa hàng đàn, thiếu gì mấy đồng tiền còm? Theo tôi, nó chết là vì hai trâu húc nhau dập đầu con muỗi. Chả trách lão cử nhân nói: Chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối?

Tiểu đội trưởng nói câu này vào giữa trưa thì buổi chiều chính ủy Tưởng dẫn hai vệ binh đến nhà tôi. Chính ủy mặt sa sầm, nói:

- Vương Mộc Căn, lên đại đội bộ với tôi!

Vương Mộc Căn tròn mắt nhìn các chiến sĩ của mình, chửi:

- Đ. mẹ thằng chó chết nào bán đứng ông?

Các binh sĩ nhìn nhau mặt tái nhợt, duy chỉ có Tôn Bất Ngôn là cười khanh khách đi tới trước mặt chính ủy, hoa chân múa tay kể lại chuyện Sa Nguyệt Lượng cướp vợ của mình.

Chính ủy nói:

- Tôn Bất Ngôn, chỉ định anh làm quyền tiểu đội trưởng.

Tôn Bất Ngôn ngoẹo đầu nhìn miệng chính ủy. Chính ủy túm tay anh ta, rút bút máy viết mấy chữ to tướng. Tôn Bất Ngôn ngoẹo bàn tay lại, ngây người ra nhìn, con người vàng sáng rục, hoa chân múa tay mùng rỡ. Vương Mộc Căn cười nhạt nói:

- Cứ những trò này còn tiếp diễn, thằng câm sẽ mở miệng nói được.

Chính ủy vẫy tay, hai vệ binh hùng hổ tiến đến, áp sát hai bên Vương Mộc Căn. Vương Mộc Căn nói to:

- Các người ăn cháo đá bát, không còn nhớ khi ta đánh đoàn tầu bọc thép nữa rồi!

Chính ủy không thèm đếm xỉa những lời quát tháo của Vương Mộc Căn, vỗ vai Tôn câm. Tôn câm được sủng ái giật mình, đứng nghiêm chào chính ủy. Từ ngoài ngõ vọng lại tiếng gầm của Vương Mộc Căn:

- Trêu vào ông, ông sẽ cài mìn dưới gối chúng mày!
Công việc đầu tiên của Tôn câm sau khi được đề bạt làm tiểu đội trưởng là đòi mẹ tôi trả người. Lúc này, mẹ tôi đang nghiền lưu huỳnh cho đội bộc phá ở chỗ cối xay bột, nơi Tư Mã Khố ẩn nấp khi bị thương. Cách cối xay khoảng trăm thước, chị Phán Đệ trông nom mấy phụ nữ dùng búa nhỏ đập sắt vụn. Cách chỗ chị Phán Đệ khoảng trăm thước, viên kỹ sư của đại đội bộc phá chỉ huy bốn đội viên khỏe mạnh thụt cái bễ to tướng, đẩy gió vào lò nung. Bên cạnh họ, các khuôn đã vùi trong cát. Mẹ bịt miệng bằng chiếc khăn mặt, đi vòng quanh cối cùng với con lừa nhỏ. Mùi lưu huỳnh cay xé mũi, nước mắt mẹ chảy ròng ròng. Con lừa hắt hơi liên tục. Tôi và thằng con trai Tư Mã Khố ngồi trên bụi nhân trần, chị Phán Đệ giám sát chúng tôi nghiêm ngặt theo lời dặn của mẹ, không cho chúng tôi lại gần cái cối xay. Tôn câm khoác trên vai khẩu súng trường thô kệch do Hán Dương sản xuất, tay cầm thanh đao của báu gia truyền, khệnh khạng bước tới chỗ cối xay. Chúng tôi thấy hắn chặn con lừa lại, giơ đao chém vút một cái vào không khí ngay trước mặt mẹ. Mẹ dừng lại sau con lừa, nhìn hắn không chớp. Hắn chìa bàn tay có chữ ra, cười hô hố. Mẹ gật gật tỏ ý chúc mừng hắn. Tiếp đó, nét mặt hắn thay đổi nhiều kiểu, mẹ lắc đầu quầy quậy, hình như không chấp thuận yêu cầu gì đó của hắn. Hắn vung tay đấm một quả vào đầu con lừa. Con lừa từ từ khuỵu hai chân trước rồi gục xuống. Mẹ quát to: Đồ súc sinh? Hắn cười, miệng méo xệch rồi khệnh khạng bỏ đi. Phía bên kia, cửa đáy đã chọc thủng, dòng thép sáng chói chảy vào khuôn, từng cụm hoa lửa bắn tung tóe. Mẹ nắm hai tai con lừa giúp nó đứng dậy. Rồi mẹ bước tới chỗ chúng tôi, bỏ khăn bịt miệng vàng khè ra, vén áo nhét đầu vú bị lưu huỳnh hun trắng nhợt vào miệng tôi. Tôi đang phân vân xem có nên nhả đầu vú đắng ngắt ra không thì mẹ đẩy tôi ra, mạnh đến nỗi suýt nữa tôi bị gãy răng cửa mới mọc. Tôi nghĩ đầu vú mẹ đau kinh khủng, nhưng không phải, mẹ hoàn toàn không quan tâm tới đầu vú, mà chạy như bay về nhà, chiếc khăn mặt phất phơ theo nhịp chạy. Tôi hình dung bầu vú đầy bột lưu huỳnh của mẹ cọ xát dữ dội sau lần vải thô. Mẹ như mụ đi trong một cảm giác quái gở. Nếu là hạnh phúc thì đây là thứ hạnh phúc trong đau khổ tột cùng nên mẹ mới điên lên như vậy.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 09:59 AM
Băn khoăn của tôi được giải đáp ngay lập tức.

- Lãnh Đệ ơi, Lãnh Đệ! Con ở đâu? - Mẹ gọi to, từ gian chính chạy sang gian chái.

Bà nội từ trong nhà bò ra, phục trên lối ngoài sân, đầu ngỏng lên như con ếch ộp. Chái tây của bà nội đã bị các binh sĩ chiếm. ở đó, năm chú lính chụm đầu vào nhau bên bàn xay, đang xem một cuốn sách cũ đóng bằng giấy lề. Họ ngẩng lên, ngạc nhiên nhìn chúng tôi. Súng treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà, đen xỉn, tròn tròn như những trứng nhện khổng lồ.

- Tôn câm đâu rồi? - Mẹ hỏi.

Các binh sĩ lắc đầu. Mẹ chạy vào chái đông. Bức tranh Nàng Tiên Chim để trên mặt bàn gãy chân, chặn bằng miếng bánh bao ăn dở và nửa củ hành đại, lá xanh biếc. Cái bát men xanh cũng ở trên bàn, trong bát có một nhúm xương, không rõ là xương chim hay xương thú. Khẩu súng của Tôn Câm treo trên tường, địa lôi treo dưới xà nhà.

Mẹ đứng giữa sân, gào lên một cách tuyệt vọng. Các binh sĩ từ gian chái chạy ra, dồn dập hỏi mẹ đã xảy ra chuyện gì.

Tôn câm từ dưới hầm củ cải chui lên, người bám đầy đất và mốc trắng, nét mặt hắn mệt mỏi nhưng đầy vẻ thỏa mãn.

Mẹ dậm chân, gào lên:

- Tôi lú lẫn mất rồi!

ở đoạn cuối hầm ngầm trong nhà, chỗ đống cỏ mục, thằng câm đã cưỡng dâm chị ba Lãnh Đệ.

Chúng tôi lôi chị dưới hầm lên đặt nằm trên giường. Mẹ vừa khóc vừa lấy khăn bám đầy bụi lưu huỳnh, thấm nước trong chậu, lau rửa từng li từng tí trên người chị. Nước mắt mẹ rơi trên mình chị, trên những vệt răng ở vú nhưng chị lại nở một nụ cười mê hồn, ánh mắt rạng rỡ đầy quyến rũ.

Chị Năm nghe tin chạy về, trố mắt nhìn chị Ba. Chị chẳng nói chẳng rằng chạy ra sân, móc quả lựu đạn ở thắt lưng, giật nụ xòe ném vào chái đông. Quả lựu đạn bị thối, không nổ.
Nơi xử bắn thằng câm cũng chính là nơi xử bắn Mã Đồng: bên bờ hố nước bẩn đầy rác rưởi, giữa hố mọc đầy cỏ bô, ở phía nam của thôn. Thằng câm bị trói theo kiểu trói trọng phạm ngay bên hố nước, mấy chục binh sĩ tay xách súng đứng thành hàng ngang, chính ủy diễn giải bằng lời lẽ hùng hồn trước quần chúng. Diễn thuyết xong, các binh sĩ lên cơ bẩm, đẩy đạn lên nòng... Chính ủy đích thân hô khẩu lệnh. Khi những viên đạn sắp sửa bay khỏi nòng thì chị Lãnh Đệ quần áo trắng tinh, phiêu diêu đi tới nhẹ nhàng như một Nàng Tiên. Nàng Tiên Chim đến rồi? Có người kêu lên. Mọi người lập tức nhớ lại thân thế kỳ lạ và những sự tích thần kỳ của Tiên Chim, quên bẵng thằng câm. Đây là giờ phút đẹp đẽ nhất trong cuộc đời Tiên Chim, chị nhảy múa trước mặt mọi người như một con tiên hạc, khuôn mặt tươi tắn như bông sen hồng, sen bạch. Thân hình cân xứng, cặp môi mọng đầy quyến rũ. Chị vừa múa vừa tiến lại gần thằng câm rồi đột nhiên dừng lại nghiêng đầu ngắm khuôn mặt hắn. Thằng câm nở một nụ cười ngơ ngẩn. Chị đưa tay vuốt nhe mái tóc dày như thảm, véo nhẹ cái mũi củ hành của thằng câm. Cuối cùng, chị công khai nắm lấy bộ sậu giữa hai chân, cái bộ sậu đã gây oan nghiệt, rồi nghiêng đầu nhìn quần chúng mà cười khúc khích. Đám phụ nữ vội quay mặt đi, đám đàn ông thì nhìn mê mẩn, nhếch mép cười hóm hỉnh. Chính ủy húng hắng ho, rất không tự nhiên, ra lệnh:

- Lôi cô ta ra! Thi hành lệnh xử bắn!

Thằng câm ngửa mặt lên, kêu ú ớ, hình như muốn kháng nghị.

Nàng Tiên Chim ta, y vẫn nắm cái của ấy, cặp môi mọng đầy vẻ ham muốn, phản ánh một dục vọng lành mạnh, tự nhiên. Không ai muốn chấp hành mệnh lệnh của chính ủy.

Chính ủy hỏi to:

- Cô kia, hắn cuồng dâm cô hay cô thuận tình?

Nàng Tiên Chim không trả lời.

Chính ủy lại hỏi:

- Cô có thích hắn không?

Nàng Tiên Chim vẫn không trả lời.

Chính ủy tìm mẹ trong đám đông, vẻ khó xử:
- Bác xem nên thế nào!... Theo tôi nghĩ, hay là cho chúng nó lấy nhau cho xong. Tôn Bất Ngôn tuy có sai lầm, nhưng không đáng tội chết, đó là điều chắc chắn!

Mẹ không nói gì, rẽ đám đông đi về. Mẹ bước rất chậm, vẻ nặng nhọc như cõng trên lưng một tấm bia. Mọi người nhìn theo, khi thấy mẹ kêu gào, mới không để ý nữa.

- Cởi trói cho anh ta. - Chính ủy mệt mỏi buông ra câu này, rồi bỏ đi.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:01 AM
8.



Hôm ấy là ngày mồng Bảy tháng Bảy âm lịch, Ngưu Lang và Chúc Nữ gặp nhau. Trong nhà ngột ngạt, muỗi nhiều tới mức có thể quơ được cả nắm. Mẹ trải chiếu dưới gốc cây thạch lựu; lúc đầu chúng tôi ngồi, sau đó là nằm trên chiếu nghe mẹ thủ thỉ kể chuyện. Lúc chạng vạng tối, trời mưa nhẹ. Mẹ bảo đó là nước mắt Chúc Nữ. Không khí ẩm ướt, gió mát thổi đến từng cơn. Dưới gốc cây lựu, những chiếc lá lấp lánh. ở trong chái dông và chái tây, các binh sĩ thắp những ngọn nến tự tạo. Muỗi cắn, mẹ xua chúng bằng lá bồ đề. Ngày hôm nay, tất cả chim khách đều bay lên trời xanh, tầng tầng lớp lớp, cắn đuôi nhau, bắc nhịp cầu Ô Thức trên sông Ngân phong ba cuồn cuộn. Chúc Nữ và Ngưu Lang qua cầu Ô Thức đến với nhau, mưa và móc là những giọt lệ nhớ thương của họ. Trong lời thủ thỉ của mẹ, tôi và Niệm Đệ, thằng nhỏ nhà Tư Mã, ngước nhìn bầu trời đầy sao. Chị Tám tuy bị mù nhưng cũng ngẩng mặt nhìn trời, mắt chị còn sáng hơn sao. Ngoài ngõ vang lên tiếng chân nặng nề của những người đổi gác trở về. Cánh đồng xa xa, ếch nhái đang hợp xướng. Trên dàn biển đậu chân tường, chim Thợ Dệt cất tiếng hỏi: - Chiu chiu chiu... chiu chiu. Trong màn đêm mờ ảo, một số chim lớn nặng nề bay qua, chúng tôi lờ mờ trông thấy bóng trắng của chúng và tiếng vỗ cánh rào rào. Những con dơi kêu chít chít, những giọt nước trên cành rơi tí tách. Sa Tảo Hoa nằm trong lòng mẹ, ngáy đều đều. Chái đông vang lên tiếng kêu như mèo của Lãnh Đệ, cái bóng đồ sộ của thằng câm lắc lư trước ánh đèn. Hai người đã lấy nhau. Chính ủy Tưởng là người làm mối. Tịnh thất thờ Nàng Tiên Chim trở thành phòng cô đâu với những cuộc truy hoan. Nàng Tiên Chim thường xuyên mình trần chạy ra sân. Thằng câm đeo trên hai núm vú chị hai quả lục lạc nhỏ, khi chạy kêu loong chong. Một binh sĩ nhìn trộm vú chị, suýt bị thằng câm đánh gãy cổ. Khuya rối, vào nhà ngủ đi, mẹ nói.

- Trong nhà nóng, lắm muỗi, cho chúng con ngủ ở đây. Chị Sáu nói.

Mẹ bảo, không được nhiễm sương là ốm, với lại, trên trời có...

Chúng tôi hình như nghe thấy có tiếng người đang trao đổi, bông hoa đẹp quá, hái đi! Lúc về hãy hái. Đó là tiếng của những con nhện thành tinh, chuyên cưỡng dâm những bông cúc vàng.
Chúng tôi nằm trên giường, không tài nào ngủ được. Điều kỳ lạ là chị Tám lại ngủ rất ngon lành, khóe miệng có một tia nước bọt trong suốt và thơm lựng. Cây ngải hun muỗi bốc khói cay cay. Cây nến trên cửa sổ của các binh sĩ chiếu sáng cửa sổ chúng tôi, cảnh vật trong sân mờ ảo. Những con cá biển chị Lai Đệ gửi cho đã ươn, đang bốc mùi trong nhà xí. Chị còn gửi cho bao nhiêu của cải, vải vóc tơ lụa, đồ dạc, đồ chơi, nhưng bị đại đội bộc phá tịch thu tất. Then cửa buồng chính kêu khẽ.

- Ai đấy? - mẹ quát, thuận tay vớ con dao thái rau.

Không một chút động tĩnh. Có lẽ chúng tôi nghe lầm. Mẹ đặt con dao vào chỗ cũ. Cây ngải hun muỗi khẽ lóe lên những tia sáng ngắn ngay dưới chân giường.

Một bóng đen gầy gầy đột nhiên đứng ngay ở đầu giường. Mẹ kinh hoảng kêu lên. Chị Sáu cũng hoảng hốt kêu lên. Bóng đen chồm lên giường bịt miệng mẹ. Mẹ sờ soạng tìm con dao định chém thì bóng đen nói:

- Mẹ, con là Lai Đệ.

Con dao rơi xuống chiếu. Chị Cả về rồi! Chị Cả quì trên giường, khóc nức nở. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn khuôn mặt lờ mờ của chị. Tôi trông thấy có những gì lấp lánh trên đó.

- Lai Đệ, đúng là con đấy ư? Con là ma chăng? Con là ma mẹ cũng không sợ, để mẹ xem mặt con một tí.

Mẹ tìm bao diêm trên đầu giường. Chị Cả giữ tay mẹ lại, hạ thấp giọng, nói:

- Mẹ đừng thắp đèn.

- Lai Đệ, con nhẫn tâm lắm, những năm qua con với thằng Lượng đi những đâu? Con làm khổ mẹ quá!

- Mẹ ơi, chuyện dài lắm. Chị Cả nói:

- Con gái con- Mẹ trao Sa Tảo Hoa đang ngủ say cho chị, nói: - Thế mà cũng là mẹ, đẻ mà không nuôi, không bằng con vật.... Vì nó mà em Tư và em Bảy...
- Mẹ ơi. Ân tình của mẹ thể nào cũng có lúc con đền đáp, cả em Tư và em Bảy nữa

Lúc này chị Sáu bước tới gọi:

- Chị Cả?

Chị Cả ngửng lên, vỗ vỗ chị Sáu, nói:

- Em Sáu. Còn Kim Đồng đâu, Ngọc Nữ đâu? Kim Đồng Ngọc Nữ còn nhớ chị không.

Mẹ nói:

- Nếu không có đại đội bộc phá thì cả nhà ta chết từ lâu rồi!

Chị Cả nói:

- Mẹ ạ, lão Tưởng và thằng tha Lỗ không phải con người!

Mẹ nói:

- Người ta không đối xử tệ với mình thì nói gì cũng phải có lương tâm chứ?

Chị Cả nói:

- Mẹ, đó là âm mưu của họ, họ viết thư cho anh Lượng ép phải đầu hàng, nếu không, sẽ bắt con gái của con làm con tin.

Mẹ hỏi:

- Lại có chuyện ấy hả? Họ đánh nhau thì việc gì đến con bé?
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:02 AM
Chị Cả nói:

- Mẹ ơi, con về lần này là để cứu cháu. Mẹ ạ, con có đem theo mười mấy người, chúng con đi ngay bây giờ, để cho bọn thằng Lỗ mừng hụt! Mẹ ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được báo đáp sau này. Con đi đây!

Chị Cả chưa nói dứt câu, mẹ đã giằng lại bé Tảo Hoa, giận dữ nói:

- Lai Đệ, mày đừng đánh lừa tao. Trước kia mày quẳng con mày cho tao như quẳng một con chó. Tao không quản nguy hiểm nuôi nó đến bây giờ. Khá nhỉ, lại về đây ăn sẵn! Nào là đội trưởng Lỗ, chính ủy Tưởng, mày bịa ra tất! Mày muốn làm mẹ rồi hả? Đú đởn với thằng Lượng đủ rồi hả?

- Mẹ, anh ấy bây giờ là Lữ trưởng bộ đội liên hiệp Thiên hoàng, cai quản cả nghìn người?

- Tao không cần nó có bao nhiêu người, tao cũng chăng cần chức Trưởng của nó! - Mẹ nói - Mày bảo nó đến mà bế đi. Mày bảo nó, những con thỏ mà nó treo trên cây, tao vẫn để đó.

- Mẹ ơi, đây là chuyện lớn, liên quan đến hàng ngàn vạn người, mẹ đừng lẩm cẩm!

- Tao lẩm cẩm cả đời người rồi, ngàn vạn người tao cũng thây kệ! Tao chỉ biết con Hoa là do tao nuôi, tao chẳng cho ai hết!

Chị Cả vồ lấy Tảo Hoa nhảy xuống giường chạy ra ngoài.

Mẹ quát:

- Đồ mất dạy, dám cướp hả?

Tảo Hoa òa khóc.

Mẹ nhảy xuống giường, đuổi theo.

Ngoài sân rộ lên những tiếng súng, cảnh hỗn loạn trên nóc nhà, có người rú lên thê thảm rồi lăn xuống sân.
Một bàn chân dẫm thủng nóc nhà chúng tôi, đất rơi xuống rào rào cùng với những ánh sao.

Trong sân cực kỳ hỗn loạn tiếng súng, tiếng gươm chạm nhau, tiếng quát tháo của đám binh sĩ:

- Không cho chúng nó thoát?

Binh lính của đại đội bộc phá cầm trong tay mười mấy cây được tẩm dầu chạy tới, trong sân sáng như ban ngày. Ngoài ngõ, sau nhà đều có tiếng đàn ông. Sau nhà có tiếng người thét:

- Trói nó lại, xem nó còn chạy nữa không?

Đại đội trưởng Lỗ bước vào sân, nói với chị Lai Đệ lúc này đang bế Tảo Hoa đứng nép vào chân tường:

- Bà Sa, bà làm vậy có đẹp không?

Sa Tảo Hoa khóc to.

Mẹ bước ra sân.

Chúng tôi bám cửa sổ nhìn ra ngoài.

Một người đàn ông nằm bên lối đi, trên người thủng lỗ chỗ, máu chảy thành vũng rồi bò ra tứ phía như rắn. Mùi máu tanh lợm, nóng hôi hổi. Mùi dầu hỏa xộc lên mũi. Máu vẫn chảy ra từ các vết đạn, sủi bọt. Anh ta chưa chết hẳn, một chân vẫn co giật. Miệng cạp đất, cổ vổng lên, không trông thấy mặt anh ta. Lá cây như dát vàng. Thằng câm tay cầm đao, vừa ú ớ vừa ra hiệu với Lỗ đại đội trưởng. Tiên Chim chạy ra, rõ khéo, khoác chiếc áo rõ ràng là áo của thằng câm, vạt áo dài đến đầu gối, cặp vú nửa kín nửa hở. Đôi chân thon dài, trắng muốt. Người chắc lẳn, bắp chân trắng mịn. Miệng hé mở, mắt lim dim, lúc nhìn cây đuốc này, lúc nhìn cây đuốc khác. Một tốp binh sĩ dẫn về ba người mặc quân phục xanh, một ngoi bị thương ở tay, máu đang chảy, mặt tái nhợt. Một người chân khập khiễng, một người bị trói vít đầu xuống. Anh ta cố súc ngẩng đầu lên, nhưng một bàn tay khỏe ấn đầu anh ta xuống. Chính ủy Tưởng cũng tới, trong tay cầm chiếc đèn pin có buộc dải lụa dỏ.
Mẹ nhón gót chạy ra vì không kịp đi giày. Mùn giun đùn lên từng đống trên mặt đất. Không hề sợ, mẹ mặt đối mặt với đại đội trưởng Lỗ:

- Có chuyện gì vậy?

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Chuyện này không liên quan gì đến bác!

Chính ủy Tưởng làm một động tác thừa là dùng miếng vải đỏ che mặt đèn pin. Anh ta chiếu đèn vào mặt Lai Đệ.

Lai Đệ thân hình mảnh đẻ như một cây bạch dương. Mẹ đi tới trước mặt chị Cả giằng lấy bé Hoa. Bé Hoa. Ôm chầm lấy bà ngoại. Mẹ dỗ nó:

- Cháu ngoan, đừng sợ, có ngoại đây!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:03 AM
Bé Hoa khóc nhỏ dần, rồi chỉ còn tiếng sụt sịt. Cánh tay chị Cả vẫn giữ nguyên tư thế bế con cứng nhắc, trông rất xấu. Mặt chị trắng bệch, hai mắt ngây dại. Chị mặc bộ quần áo xanh kiểu đàn ông, đôi vú đã trưởng thành nhô cao, không dẹt như vú mẹ.

- Bà Lượng, chúng tôi đối xử với vợ chồng bà có thể nói là chí nhân chí nghĩa? Không theo chúng tôi cũng chẳng ép, nhưng không nên đầu hàng bọn Nhật? - Đại đội trưởng Lỗ nói.

Chị Cả cười nhạt:

- Đó là chuyện của các ông, đừng nói với bọn đàn bà chúng tôi.

Chính ủy Tưởng nói:

- Nghe nói bà Lượng là tham mưu cấp cao của ông Lượng?

Chị Cả nói:

- Tôi chỉ biết đòi lại con gái tôi. Các ông có giỏi thì chơi nhau bằng gươm bằng súng. Đem trẻ con ra làm những trò mèo, không phải là bậc trượng phu?

Chính ủy Tiếng nói:

- Bà sai rồi! Chúng tôi đối với tiểu thư có thể nói cực kỳ chu đáo, có bà cụ làm chứng, có các em gái bà làm chứng, có đất dày làm chứng, có trời cao làm chứng! Bản chất của chúng tôi là yêu trẻ, vì trẻ, tất cả hành động của chúng tôi đều vì mục đích đó. Chúng tôi không muốn một cô bé xinh đẹp như thế này mà lại có bố mẹ là Hán gian!

Chị Cả nói:

- Ông đừng nhiều lời nữa. Tôi đã rơi vào tay các ông, muốn làm gì thì làm!

Thằng câm xông ra. Dưới ánh sáng của mười mấy cây đuốc, hắn cao to hung hãn lạ thường. Da đen thui như bôi một lớp mỡ con hoan. Ôà... Ôà... mắt hắn như mắt chó sói, mũi lợn, tai khỉ, mặt hung dữ như mặt hổ hắn vừa gào lên a... a... vừa giơ cánh tay hộ pháp lên lắc lắc nắm đấm, chạy một vòng tròn trước mặt mọi người. Hắn đá cái xác nằm trên lối đi và lần lượt đấm đá ba tù binh, mỗi người một đấm, vừa đấm vừa kêu ố ố. Quả đấm cuối cùng, người tù binh cố ngẩng đầu, ngã lăn ra bất tỉnh. Chính ủy Tưởng ngăn hắn lại, khiển trách:
- Tôn Bất Ngôn, không được đánh tù binh.

Thằng câm nhếch miệng cười, chỉ vào chị Lai Đệ, lại chỉ vào ngực hắn. Hắn đi tới trước mặt chị, tay trái bóp vai chị, tay phải làm điệu bộ với mọi người. Chị Ba nhìn đăm đăm ngọn lửa luôn thay hình đổi dạng. Chị Cả giơ tay trái tát đánh bốp vào má phải thằng câm. Hắn buông tay, ngơ ngác xoa má, hình như không hiểu cú đánh từ đâu tới. Chị Cả lại giơ tay phải tát đánh bốp vào má trái thằng câm, cái tát vừa nhanh vừa mạnh. Hắn loạng choạng lùi lại. Do lực phản hồi của cú tát, chị Cả cũng thoái lui một bước. Chị Cả dựng ngược mày liễu, trợn tròn đôi mắt phượng, nghiến rằng nghiến lợi, chửi:

- Đồ súc sinh, mày hủy hoại em gái tao!

Đại đội trưởng Lỗ bảo:

- Giải nó đi! Con nữ tặc, hung hăng khiếp!

Vài binh sĩ tiến đến kẹp chặt cánh tay chị Cả. Chị nói to:

- Mẹ lú lẫn rồi. Con Ba là chim phượng hoàng, thế mà mẹ gả cho thằng Câm!
Một binh sĩ thở hồng hộc chạy vào, báo cáo:

- Báo cáo đại đội trưởng, báo cáo chính ủy, đại đội nhân mã của Sa Nguyệt Lượng đã vào trấn Sa Lĩnh!

Đại đội trưởng Lỗ nói:

- Mọi người không được rối lên. Các trung đội trưởng chú ý, hành động theo kế hoạch đã bàn, gài tất cả số mìn hiện có.

Chính ủy Tưởng nói:

- Để đảm bảo an toàn cho bác và lũ trẻ, bác đến đại đội bộ với chúng tôi!
Mẹ lắc đầu, nói:

- Không, có chết cũng chết ở nhà?

Chính ủy Tưởng khoát tay, một tốp lính kèm chặt mẹ, tốp khác ùa vào trong nhà. Mẹ gào to:
- Chúa ơi, xin Chúa chứng giám!

Cả nhà tôi bị giam trong phòng xép nhà Tư Mã. Trước cửa có lính gác. Bên cạnh là đại sảnh, đèn khí sáng trung, người nói ầm ĩ. Bên ngoài thôn, tiếng súng nổ như ngô rang.

Chính ủy Tưởng xách chiếc đèn bão, chụp đèn bằng thủy tinh. Khói trong đèn bốc lên cuồn cuộn, khiến anh ta phải nheo mắt lại. Anh ta để đèn lên bàn, nhìn chúng tôi từ đầu đến chân, nói:

- Đứng làm gì nhỉ, ngồi xuống cả đi!

Anh ta chỉ những ghế tựa bằng gỗ hoa lê bày xung quanh chân tường, nói:
- Chàng rể thứ hai nhà bác ra vẻ đấy!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:04 AM
Anh ta ngồi xuống chiếc ghế tựa, hai tay ôm gối, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt châm biếm. Chị Cả ngồi phịch xuống ghế, đối diện với anh ta qua chiếc bàn. Chị bĩu môi, nói:

- Thưa ông chính ủy, ông bắt tôi thì dễ nhưng thả tôi thì khó đấy!

Chính ủy Tưởng cười:

- Khó khăn lắm mới mời được bà đến đây, sao lại thả?

Chị Cả nói:

- Mẹ cứ ngồi đây, xem họ dám làm gì chúng ta?

- Chúng tôi quả thật không định làm gì các vị. - Chính ủy Tưởng nói: - Mời bác ngồi!

Mẹ bế Sa Tảo Hoa, ngồi xuống chiếc ghế ở xó nhà. Tôi và chị Tám cầm vạt áo mẹ đứng bên ghế. Công tử nhà Tư Mã thì ngoẹo đầu trên vai chị Sáu. Chị Sáu buồn ngủ đến nỗi người cứ lắc lư.

Mẹ kéo tay chị ngồi xuống ghế. Chính ủy Tưởng móc ra một điếu thuốc lá, gõ gõ đầu thuốc lên móng tay cái rồi lục lọi các túi rõ ràng là tìm diêm. Không thấy! Chị Cả cười nhạt, trong cái rủi có cái may. Anh ta đến bên chiếc đèn, miệng ngậm điếu thuốc, châm phía trên ngọn lửa. Anh ta nheo mắt, hít bập bập. Ngọn lửa kéo dài trong chụp. Đầu điếu thuốc đỏ lên rồi bắt cháy. Anh ta ngẩng lên, gỡ điếu thuốc trên miệng, ngậm miệng lại rồi tuôn khói ra hai lỗ mũi. Bên ngoài thôn vọng lại tiếng mìn nổ cửa kính rung leng keng, những đốm lửa nhảy múa trên không. Tiếng gào khóc, tiếng quát tháo lúc gần lúc xa, lúc rõ mồn một. Chính ủy Tưởng mỉm cười với thái độ khiêu khích, nhìn chị Lai Đệ.
Chị Lai Đệ như ngồi phải gai, nhấp nhổm trên ghế, đến nỗi cái ghế kêu kèn kẹt. Mặt chị trắng nhợt, hai tay bám thành ghế run bần bật.

- Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! - Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp - Tiếc mấy chục con ngựa quá!

- Các ông... đừng tưởng bở!

Chị Cả vịn ghế đứng dậy. Một loạt tiếng nổ dữ dội hơn, ấn chị ngồi xuống. Chính ủy Tưởng đứng lên, thanh thản gõ gõ tấm ngăn bằng ván gỗ giữa phòng xép với dại sảnh, làm như nói một mình:
- Toàn là thông dầu, ngôi nhà này dùng hết bao nhiêu gỗ? Anh ta ngước nhìn chị Cả, hỏi: - Bà đoán xem, dùng hết bao nhiêu gỗ: dầm xà, cửa ra vào, cửa sổ, sàn, ván thung, bàn ghế.

Chị Cả nhấp nhổm không yên. Phải cả một cánh rừng chứ chả chơi! Chính ủy Tưởng xót xa, làm như cánh rừng bị chặt quang đang trải ra trước mắt anh ta. Sớm muộn phải thanh toán chuyện này! - Nét mặt rầu rầu, rồi quên phắt cánh rừng bị tàn phá, anh ta đi tới trước mặt chị Cả, đứng dạng chân thành hình chữ A, tay phải chống nạnh, khuỷu tay gập lại thành một góc nhọn. - Tất nhiên, chúng tôi cho rằng Sa Nguyệt Lượng có khác với những kẻ cam tâm làm Hán gian. Ông ta có một lịch sử chống Nhật rất vẻ vang. Nếu ông ta quyết tâm sưa chữa sai lầm, chúng tôi vui lòng gọi ông ta là đồng chí. Bà Lượng này, lát nữa chúng tôi bắt được ông ấy, bà nên khuyên răn ông ấy một tí!

Chị Cả ngồi nhũn ra trên ghế, rít lên:

- Các ông không thể bắt được anh ấy! Tưởng bở! Xe Jeep Mỹ nhanh hơn ngựa của các ông!

- Mong rằng như thế.

Chính ủy Tưởng nói. Anh ta bỏ tay xuống, hai chân cũng đổi thế đứng. Anh ta rút một điếu thuốc dưa cho Lai Đệ. Lai Đệ co người lại theo bản năng, chính ủy Tuởng đưa dấn theo. Lai Đệ vênh mặt quan sát nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của chính ủy Tưởng. Chị rụt rè giơ tay ra, bàn tay có những ngón ám khói thuốc, dùng hai ngón tay kẹp điếu thuốc. Chính ủy Tưởng vẩy tàn điếu thuốc trên tay, thổi phù một cái cho nó đỏ lên, rồi đưa tới trước mặt chị Cả. Chị Cả lại vênh mặt lên, chính ủy Tưởng vẫn mỉm cười. Chị Cả vội ngậm điếu thuốc, dướn về phía thuốc, châm lửa ở đầu diếu thuốc trên tay chính ủy Tưởng. Tôi nghe rõ tiếng bập môi của chị. Mẹ thẫn thờ nhìn bức tường, chị Sáu và cậu ấm nhà Tư Mã nửa thức nửa ngủ, Sa Tảo Hoa không động cựa. Khói thuốc tỏa ra trên mặt chị Cả. Chị ngửa mặt, người ngả về phía sau, tay buông thõng. Ngón tay kẹp điếu thuốc ướtnhèm y hệt con cá trạch lôi ra khỏi nước. Lứa ở đầu điếu thuốc bén rất nhanh về phía môi chị. Đầu tóc rối bù, những nếp nhăn hằn hai bên mép, mắt thâm quầng. Nụ cười tắt dần trên môi chính ủy Tưởng như giọt nước cạn dần trên tấm thép nóng, từ xung quanh cạn vào giữa, cuối cùng còn như một mũi kim, lóe lên một cái rồi biến mất. Anh ta quẳng mẩu thuốc đã bén sát ngón tay, dùng chân đi cho tắt hẳn, rồi bước những bước dài, đi ra.

Có tiếng hét to từ phòng khách bên cạnh vọng lại:

- Nhất định phải bắt sống Sa Nguyệt Lượng, dù hắn rúc vào hang chuột cũng phải đào mà lôi ra!

Tiếp theo là tiếng đèn pin dằn mạnh xuống bàn.
Mẹ ái ngại nhìn chị Cả đang ngồi nhũn ra trên ghế như bị rút hết xương, buộc tới cầm lấy những ngón tay ám khói thuốc của chị, lắc đầu. Chị Cả tụt từ trên ghế xuống, quì trước mặt mẹ, miệng lập bập như đang mút vú, những tiếng kêu kỳ quặc tuôn ra, lúc đầu tôi tưởng chị cười, nhưng ngay lập tức tôi biết là chị khóc. Chị quệt nước mắt nước mũi vào chân mẹ. Chị nói:

- Mẹ ơi, không có lúc nào là con không nhớ mẹ, nhớ các em...

Mẹ hỏi:

- Hối hận rồi ư?

Chị Cả do dự một thoáng, lắc đầu. Mẹ nói:

- Vậy là tốt, làm gì thì cũng do Chúa sắp dặt, hối hận là trái ý Chúa!

Mẹ trao Sa Tảo Hoa cho chị, nói:

- Ngắm nó một lúc đi!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:08 AM

Chị Cả vuốt nhẹ khuôn mặt đen nhẻm của con bé, nói:

- Mẹ, nếu họ xử bắn con thì mẹ nuôi cháu cho con.

Mẹ nói:

Họ không bắn chết con thì mẹ vẫn nuôi con bé!

Chị Cả định trao lại bé Hoa cho mẹ, mẹ bảo:

- Hãy bế nó một tí, mẹ còn cho Kim Đồng ti sữa.

Mẹ bước tới bên ghế, vén áo lên. Tôi quì trên ghế ti vú mẹ. Mẹ nâng tà áo, khom lưng xuống, nói:

- Bình tâm mà xét, tay Lượng không phải đồ tồi, chỉ riêng chuyện những con thỏ treo trên cây, mẹ cũng phải nhận anh ta là con rể. Nhưng anh ta không làm nên trò trống gì đâu, chỉ chuyện mấy con thỏ, mẹ biết anh ta không làm nên trò trống gì. Gộp cả hai đứa cũng không địch nổi lão Tưởng. Lão là loại thâm hiểm, mát nước thối đá.

Nhớ lại khi trước, những con thỏ treo đầy các cây trong vươn khiến mẹ tức điên lên. Vậy mà trong khoảnh khắc, chính những con thỏ đó lại là lý do để mẹ nhận Sa Nguyệt Lượng là con rể. Và cũng vẫn những con thỏ đó, là cơ sở để mẹ đoán chắc Sa Nguyệt Lượng sẽ thua chính ủy Tưởng.

Vào lúc tranh tối tranh sáng trước bình minh, một đàn chim thước đi bắc cầu trên sông Ngân trở về đậu trên nóc nhà, kêu chiêm chiếp vì mệt mỏi. Lũ chim thước làm tôi thúc giấc. Tôi nhìn thấy mẹ bồng Sa Tảo Hoa ngồi trên ghế, còn tôi thì ngồi trên đầu gối lạnh ngắt của chị Lai Đệ Chị ôm chặt eo tôi bằng hai cánh tay thanh mảnh của chị. Chị Sáu và công tử nhà Tư Mã ngủ gối đầu lên nhau. Chị Tám ngồi tựa bên mẹ như cũ. Cặp mắt mẹ vô cảm, hai mép trễ xuống chúng tỏ đã quá mệt mỏi.
Chính ủy Tưởng bước vào đưa mắt nhìn chúng tôi, nói:

- Bà Lượng, có đi thăm ông Lượng một chút không?

Chị Cả đẩy tôi ra, đứng phắt dậy, giọng khản di:

- Ông nói láo?

Chính ủy Tưởng chau mày, nói:

- Láo hả? Vì sao tôi phải nói láo kia chứ? - Anh ta bước tới bên bàn, cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Những tia nắng lập tức ùa vào phòng. Anh ta ngả tay ra, lễ phép - chưa hẳn là lễ phép mời. - Xin mời, vẫn chỉ một câu thôi, chúng tôi không muốn bịt chặt tất cả các ngả đường. Nếu ông Lượng quay lại thì có thể cho ông giữ chức đại đội phó đại đội bộc phá.

Chị Cả bước ra như một cái máy, ra đến cửa, chị quay lại nhìn mẹ. Chính ủy Tưởng nói:

- Bác có thể đi cùng, cả các em bé nữa.

Chúng tôi đi qua rất nhiều lần cửa nhà Tư Mã, qua những sân trong mà sân nào cũng giống sân nào. Đi qua năm lớp sân, chúng tôi nhìn thấy ở sân chính có nhiều thương binh, cô Đường đang băng bó cho một thương binh bị thương ở chân. Chị Năm Phán Đệ đang phụ với cô Đường. Chị chăm chú đến nỗi không phát hiện ra chúng tôi. Mẹ nói nhỏ với chị Cả:

- Đó là em Năm của con.

Chị Cả liếc nhìn chị Năm. Chính ủy Tưởng nói:

- Chúng tôi đã phải trả giá quá đắt! Sân trong thứ sáu có kê một bộ ván trên đặt cái xác, che mặt bằng miếng vải trắng. Chính ủy Tưởng nói:

- Đại đội trưởng Lỗ của chúng tôi đã anh dũng hi sinh, tổn thất không thể lường được.

Anh ta lật miệng vải, chúng tôi trông thấy một khuôn mặt chữ điền, râu quai nón, đầy máu. Anh ta nói:
- Các chiến sĩ chỉ muốn lột da Sa Nguyệt Lượng, nhưng chính sách không cho phép. Bà Lượng này, sự chân thành của chúng tôi có lẽ trời đất quỉ thần cũng phải cảm động chứ nhỉ? Qua sân trong thứ bảy, vòng qua một bức tường làm bình phong, chúng tôi đã đứng ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, trên bậc tam cấp.

Trên đường phố, những binh sĩ của đại đội bộc phá chạy đi chạy lại như kiến vỡ tổ. Mặt người nào người ấy lấm đầy bụi đất. Mười mấy binh sĩ dắt mười mấy con ngựa dọc theo phố đi từ dông sang tây. Có mấy binh sĩ chỉ huy mấy chục người dân, dùng dây thùng kéo một chiếc xe Jeep đi ngược lại từ tây sang đông. Hai tốp gặp nhau ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, hai người có vẻ như tiểu đầu mục cùng chạy lên, cùng đứng nghiêm, cùng giơ tay chào, cùng báo cáo lên chính ủy. Một người báo cáo thu được mười ba con ngựa. Một người báo cáo tịch thu được một chiếc xe Jeep, đáng tiếc là bị vỡ két nước, đành cho trâu kéo về. Chính ủy Tưởng nhiệt liệt biểu dương họ. Trong khi biểu dương, các binh sĩ đứng ưỡn ngực, mắt sáng lên.

Chính ủy Tưởng dẫn chúng tôi đến cổng nhà thờ. Hai bên cổng có mười sáu binh sĩ bồng súng đứng gác. Tưởng giơ tay, đám lính gác đứng nghiêm, bồng súng chào. Đám phụ nữ trẻ con chúng tôi nghiễm nhiên trở thành những vị tướng đi quan sát chiến trường.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:10 AM
Có khoảng sáu mươi tù binh quân phục xanh chen chúc ở góc dông nam trong sân nhà thờ, trên đầu họ là những tấm liếp bị hư hỏng vì nước mưa, mọc đầy nấm. Trước mặt họ là bốn binh sĩ xếp hàng ngang, tay cầm tiểu liên, tay trái nắm băng đạn cong cong như sừng trâu, tay phải dặt trên báng súng bóng mịn như đùi phụ nữ, ngón tay trỏ ***g vào lẫy cò như chiến lưỡi vịt. Họ quay lưng về phía chúng tôi. Sau lưng họ là một đống thắt lưng bằng da bò trông như những con rắn chết. Các tù binh muốn đi lại, phải hai tay giữ cạp quần.
Một nét cười thoáng qua trên nét mặt chính ủy Tưởng. Anh ta húng hắng ho, có lẽ để gây sự chú ý. Các tù binh uể oải ngẩng đầu nhìn chúng tôi. ánh mắt họ chợt lóe lên, có người chớp một cái, người hai cái, người ba cái, người bốn năm cái, người nhiều nhất không quá chín cái Những ánh mắt lạ lùng đó là do sự có mặt của chị Lai Đệ, nếu như chị đúng như lời chính ủy Tưởng, là một nửa của Sa Nguyệt Lượng trong công tác chỉ huy bộ đội. Không rõ do một tình cảm nào đó chi phối, chị Cả đỏ hoe mắt, mặt trắng nhợt, đầu cúi gập xuống ngực. Những tù binh này khiến tôi phảng phất nhớ lại những con lừa đen của đội Hỏa-mai. Họ tụ tập trong nhà thờ này, và cũng thích cái góc này. Hai mươi tám con lừa ghép thành mười bốn cặp, con nọ gặm yêu mông con kia, chăm sóc cho nhau, yêu mến lẫn nhau, giúp đỡ lân nhau. Một đội lừa đoàn kết thân mật đã bị diệt ở nơi nào? Ai đã diệt đội lừa? Bị diệt ở núi Tai Ngựa bởi đội du kích của Tư Mã Khố, hay ở gò Khuỷu Tay bởi đội Tiện Y Nhật Bản? Trong cái ngày thiêng liêng làm lễ rửa tội cho tôi, mẹ bị cưỡng hiếp. Chúng là những tên lính quân phục xanh của đội Hỏa-mai, là kẻ thù của tôi. Giờ đây, nhân danh Cha, Con và thánh thần, phải trừng phạt chúng, A men!
Chính ủy Tưởng dọn giọng, nói:

- Các anh em lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, đã đói chưa?

Các tù binh lại ngẩng lên, có người định trả lời nhưng không dám, có người không thèm trả lời. Một vệ binh đứng bên cạnh chính ủy Tưởng nói:

- Các ông trẻ, điếc cả rồi hay sao? Chính ủy đại đội hỏi các người đấy!

- Không được mắng người ta!

Chính ủy Tưởng khiển trách nghiêm khắc anh vệ binh. Anh vệ binh đỏ mặt, cúi đầu xuống. Tưởng nói:

- Các anh em, biết anh em vừa đói vừa khát, người nào mắc bệnh dạ dầy chắc đang đau hoa cả mắt, lạnh cả sống lưng. Hãy kiên nhẫn, cơm sắp có rồi. ở đây điều kiện thiếu thốn, chẳng có gì ngon, tạm nấu nồi cháo đậu xanh để anh em ăn cho đỡ đói, đỡ khát. Buổi trưa chúng ta ăn màn thầu bằng bột mì trắng, rau phỉ xào thịt ngựa.
Các tù binh tỏ vẻ vui mừng, vài người còn mạnh dạn nói chuyện riêng với nhau.

Chính ủy Tưởng nói:

- Ngựa chết nhiều lắm, toàn là ngựa tốt, rất tiếc, các anh đã sa vào bãi mìn của chúng tôi! Lát nữa thịt ngựa mà các anh ăn, rất có thể là con ngựa mình cưỡi. Nói rằng lừa ngựa là quân tử, những dù sao vẫn là lừa ngựa, các bạn cứ ăn thỏa thích, con người là chúa tể mà lại!

Đang nói chuyện ngựa thì hai người lính già khênh một thùng to từ ngoài cổng đi vào, vừa đi vừa hò nhường đường. Hai chú lính trẻ bê hai chồng bát to tướng cao đến tận cằm, chệnh choạng bước theo sau.

- Cháo đây, cháo đây? Người lính già hét to, làm như có ai cản đường không bằng. Chú lính trẻ ôm chồng bát trước bụng, loay hoay tìm chỗ đặt xuống. Hai người lính già cùng nhún thấp xuống, khi cái thùng chạm đất thì họ cũng vừa vặn ngồi xổm. Hai chú lính trẻ vẫn giữ cho thân ở tư thế thẳng đuỗn đồng thời khuỵu hai chân, đặt chồng bát xuống nền nhà, rồi loạng choạng đứng dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt.

Chính ủy Tưởng cầm lấy chiếc môi lớn bằng gỗ, khuấy cháo cho đều, hỏi người lính già:

- Cho đường đỏ chưa?

Người lính già nói:

- Báo cáo chính ủy, không kiếm được đường đỏ, phải lấy đường trắng của nhà họ Tào. Bà cụ nhà họ Tào tiếc của, cứ ôm chặt cái hũ, không bỏ tay ra...

- Được, chia cháo đi - Chính úy vừa nói vừa đặt cái môi xuống, rồi như chợt nhớ ra, quay lại sốt sắng hỏi chúng tôi: - Nên chăng mỗi người làm một bát?

Chị Cả lạnh nhạt:

- Ông chính ủy mời chúng tôi đến đây, chắc không phải đến để ăn cháo?

Mẹ nói:
- Sao lại không ăn? Bác Trưởng, cho mẹ con chúng tôi mấy bát!

Chị Cả nói:

- Mẹ cẩn thận thuốc độc!

Chính ủy Tưởng cười lớn, nói:

- Bà Lượng tưởng tượng phong phú quá đấy?

Anh ta múc một môi đầy giơ lên rồi từ từ rót xuống để mọi người thấy cháo ngon như thế nào. Mùi thơm tỏa ra xung quanh. Anh ta đặt cái môi xuống, nói:

- Cháo này đã bỏ vào hai gói thạch tín, hai gói thuốc chuột, ăn vào bụng, đi năm bước đứt ruột đứt gan, đi bảy bước thất khiếu chảy máu, có ai dám ăn không nào?

Mẹ bước tới cầm bát lên, dùng ống tay áo lau sạch bụi đất, rồi cầm môi múc đầy bát cháo, đưa cho chị Cả. Chị Cả không cầm. Mẹ nói:

- Vậy mẹ ăn bát này.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:11 AM
Mẹ thổi phù phù, húp thử một ít, rồi húp nhiều hon. Mẹ múc ba bát nữa, đưa cho chị Sáu chị Tám và cậu ấm nhà Tư Mã.

Các tù binh nói:

- Múc cho chúng tôi, múc cho chúng tôi, độc hay không độc cũng xin ba bát.

Hai lính già cầm môi, hai lính trẻ đưa bát, bát nọ tiếp bát kia. Những chú lính cầm súng đứng dạt sang một bên, chênh chếch với chúng tôi. Chúng tôi nhìn được mắt họ. Mắt họ chỉ nhìn đám tù binh. Cái tù binh đứng cả dậy, tự động xếp thành hàng, một tay giữ quần, một tay buông thõng, đợi đến lượt. Người nào đã có bát cháo trong tay thì hết sức thận trọng, sợ ngón tay bị bỏng. Các tù binh, người nọ tiếp người kia, tay giữ quần, tay bê bát cháo đi vòng xuống phía sau, ngồi xuống, bê cháo bằng cả hai tay, vừa thổi vòng quanh vừa húp. Người nào có kinh nghiệm thì húp từng người nhỏ, húp người to là bỏng miệng. Cậu ấm nhà Tư Mã chưa có kinh nghiệm, húp ngay một người to, nhổ ra không được, nuốt vào không trôi, bỏng đến nỗi nước mắt ràn rụa. Một tù binh khi đưa tay ra nhận bát cháo, khẽ gọi:

- Chú dượng ơi!

Người lính già cầm môi ngẩng lên nhìn.

- Chú dượng không nhận ra cháu sao? Cháu là Xương đây mà!

Người lính già đập cái môi vào mu bàn tay chú tù binh, mắng:

- Ai là chú dượng của mày? Lầm rồi! Ta không có thằng cháu nào làm Hán gian, mặc quân phục xanh cả!

Tù binh Xương ái một tiếng, bát cháo đổ ụp xuống bàn chân, anh ta lại ái một tiếng nữa, vội bỏ tay giữ quần để xoa chân bị bỏng, cái quần tụt xuống đến đầu gối, để lộ chiếc quần lót đen bẩn, anh ta lại ối một tiếng, hai tay xốc quần lên. Khi anh ta đứng thẳng người lên, hai mắt đã mọng nước.

- Lão Trương, phải có kỷ luật chứ - Chính ủy Tưởng nổi giận - Ai cho phép lão đánh tù binh? Báo cho quân pháp, phạt giam ba ngày bây giờ?

Lão Trương lầu bầu:
- Nó dám bảo tôi là chú dượng nó!...

Chính ủy Tưởng nói:

- Lão đúng là chú dượng nó, úp mở mà làm gì?

Động viên nó tham gia đội bộc phá của ta! Chú em, bỏng ra sao? Lát nữa y tá đến, bôi tí thuốc mỡ 202 là khỏi. Cho chú ta bát khác, thêm ít đậu vào! Chú lính rủi ro được bát cháo ưu đãi, tập tễnh lui về phía sau. Những người khác nhích lên.

Giờ đây, tất cả tù binh đều đang ăn cháo, tiếng húp soạn soạt vang lên đây đó. Hai người lính già và hai chú lính trẻ tạm thời không có việc làm. Chú lính trẻ liếm môi, chú kia nhìn chúng tôi chằm chằm. Bác lính già dùng môi vét đáy thùng vì không biết làm gì, còn bác kia thì lấy túi thuốc và tẩu ra định hút thuốc. Tôi lợm giọng đẩy bát cháo ra. Cái miệng của tôi không quen với bất cứ thứ gì, trừ bầu vú của mẹ.

Chị Cả hừ lên một tiếng bằng giọng mũi, chính ủy Tưởng nhìn chị, nét mặt chị cũng biểu lộ sự khinh miệt cực dộ. Chị nói:

- Tôi cũng nên húp một bát chứ nhỉ?

Chính ủy Tưởng nói:

- Nên quá đi chứ, bà nhìn lại khuôn mặt bà xem, như một quả cà héo! Lão Trương, múc cho bà Lượng một bát, đặc đặc vào!

Chị Cả nói:

- Tôi thích loãng.

Chính ủy Tưởng nói:

- Loãng đấy!

Chị Cả bê bát cháo, húp một ngụm, nói:

- Có đường thật, chính ủy Tưởng, tôi khuyên ông cũng nên húp một bát, ông nói nhiều thế chắc khô cả cổ?
Chính ủy Tưởng nắn nắn cổ họng, nói:

- Đúng là hơi khát. lão Trương, cho tôi một bát, loãng thôi nhé!

Chính ủy Tưởng bưng bát cháo, cùng chị Cả thảo luận về các loại đậu. Anh ta kể rằng, ở quê anh ta có giống đậu xanh, đun sôi lên là nhuyễn thành bột, không như đậu xanh ở đây, phải ninh đủ hai tiếng đồng hồ mới nhuyễn. Hết chuyện đậu xanh lại bàn sang đậu vàng. Con người này như một chuyên gia về đậu. Hết tất cả các loại đậu chính ủy Tưởng chuyển sang bàn về lạc, nhưng vừa chuyển đê tài, chị Cả quăng cái bát xuống đất, hỏi:

- Anh Tưởng, anh chơi cái trò gì vậy?

Tưởng mỉm cười, nói:

- Bà Lượng, bà đa nghi quá! Ông nhà chắc sốt ruột vì chờ đợi rồi!

- Anh ấy ở đâu? - Chị Cả hỏi mỉa.

Tưởng nói:

- Tất nhiên là ở nơi mà các vị không thể quên!

Trước cổng nhà tôi, lính đứng gác còn nhiều hơn ở nhà thờ.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:12 AM
Ngay ở của vào chái đông còn một trạm gác nữa. Người trực gác là Tôn Bất Ngôn. Hắn ngồi trên khúc gỗ tròn dưới chân tường đùa nghịch thanh đao trong tay, Tiên Chim ngồi vắt vẻo trên chạc cây đào, tay cầm quả dưa chuột gặm từng tí một.

- Vào đi - Chính ủy Tưởng bảo chị Cả - Cố gắng khuyên ông ta, chúng tôi mong rằng, ông ta sẽ trở về với chính nghĩa.

Chị Cả bước vào trong chái đông, rú lên một tiếng. Chúng tôi chạy ùa vào: Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:13 AM
9.



Tôi trườn từ trên giường xuống, chưa mở mắt đã sà vào ngực mẹ, thô bạo lật áo mẹ lên, hai tay chộp lấy hai bầu vú, há miệng ngoạm một đầu vú. Một cảm giác cay xè lưỡi lan khắp miệng, nước mắt tôi ứa ra. Tôi nhả đầu vú ra ngửa mặt lên, vừa tủi thân vừa nghi hoặc. Mẹ vỗ nhẹ đầu tôi, cười tỏ vẻ hối lỗi, nói:

- Kim Đồng, con lên bảy rồi, là một trang hảo hán rồi, phải cai sữa thôi?

Lời mẹ chưa dứt, Kim Đồng đã nghe thấy tiếng cười ròn tan của chị Tám.

Mắt tối sầm, tôi ngã chổng bốn vó lên trời. Tôi tuyệt vọng khi thấy rằng, bầu vú với hai núm vú bôi ớt chẳng khác đôi chim câu mắt hồng đã vỗ cánh bay đi. Để giúp tôi cai sữa, mẹ bôi đủ các thứ lên núm vú: gừng sống, tỏi sống, nhớt cá; thậm chí cứt gà, lần này lại thêm tương ớt. Lần cai sữa nào mẹ cũng thất bại vì động tác giả chết của Kim Đồng. Tôi nằm trên mặt đất đợi mẹ đi rửa đầu vú như mọi lần. Cơn ác mộng hồi đêm hiện rõ mồn một trước mắt: Mẹ xẻo vú vút xuống đất, nói:

- Ti đi, mày ti nữa di? Một con mèo đen ngoạm bầu vú chạy mất. Mẹ dựng tôi dậy, ấn tôi ngồi xuống bên bàn ăn. Mẹ nghiêm mặt nói:

- Nói gì thì nói, con phải cai sữa. Chẳng lẽ con muốn mẹ chỉ còn như que củi, hả Kim Đồng?

Cậu cả nhà Tư Mã, Sa Tảo Hoa, chị Tám ngồi xung quanh bàn ăn miến. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt khinh miệt. Bà nội cười nhạt trên đống tro bên cạnh bếp. Người bà gầy đét, da nhăn nheo như giấy bản, tróc ra từng mảng. Cậu ấm nhà Tư Mã giơ cao một sợi miến loằng ngoằng trước mặt tôi. Sợi miến như con giun chui vào miệng hắn. Tôi thấy lợm giọng.

Mẹ đặt lên bàn một bát miến bốc hơi nghi ngút, đưa cho tôi đôi đũa, nói:

- Ăn đi, nếm thử tài nghệ của chị.

Chị Sáu đang cho bà nội ăn bên bếp lò. Chị ngoẹo đầu nhìn tôi bằng ánh mắt thù địch, nói:

- Lớn rồi mà còn bú tí, đồ đốn mạt?

Tôi ném bát miến vào người chị Sáu.
Chị nhảy dụng lên, trên người đầy những sợi miến như những con giun. Chị giận dữ nói:

- Mẹ nuông chiều nó quá đấy.

Mẹ đứng phía sau cho tôi một bạt tai.

Tôi chồm lên người chị Sáu, hai tay chộp chính xác hai bầu vú của chị. Tôi nghe thấy bầu vú chị kêu chiếp chiếp chẳng khác gà con bị chuột cống ngoạm lấy cánh.

Chị Sáu vùng dậy, cúi gập ngoi vì đau. Tôi ra sức cấu véo, khuôn mặt hơi gầy của chị đổi thành màu vàng, chị vừa khóc vừa gọi:

- Mẹ, mẹ ơi, mẹ xem thằng Kim Đồng!

Mẹ bọp cho tôi một cái vào sau gáy, giận dữ mắng:

- Thằng súc sinh!

Tôi ngã lăn ra, ngất đi.

Tôi tỉnh dậy, đầu như muốn vỡ ra. Cậu ấm nhà Tư Mã vẫn điềm nhiên biểu diễn trò ăn miến bay. Sa Tảo Hoa ngẩng khuôn mặt dính đầy sợi miến do áp mặt vào gờ bát, sợ hãi nhìn tôi, đồng thời cũng để tôi cảm thấy rằng nó rất kính nể tôi. Chị Sáu bị thương ở vú, đang ngồi khóc trên ngưỡng cửa. Bà nội nhìn tôi, thâm hiểm. Bà Lã nét mặt đầy tức giận, cúi xuống xem những sợi miến rơi trên mặt đất.

- Đồ lộn giống, mày tưởng kiếm được bát miến dễ nắm phải không?

Bà bốc một nắm sợi miến dưới đất, bịt mũi tôi lại cho há miệng ra, rồi nhét nắm miến vào miệng tôi. Mày nuốt đi hộ tao, nuốt đi. Xương tủy tao bị mày hút cạn rồi, cái đồ oan nghiệt này!

Tôi nôn ọe, vùng ra khỏi tay bà, chạy ra vườn. Ngoài sân, chị Lai Đệ vẫn cái áo chùng đen bốn năm chưa cởi, đang gò lưng mài con dao găm. Chị nhìn tôi cười cười tỏ vẻ thân thiện, đột nhiên chị đổi sắc mặt, nghiến rằng nói:

- Lần này ta phải thịt nó bằng được. Con dao trong tay tôi sắc như nước, tôi phải cho nó biết giết người thì phải đền mạng!
Tôi trong lòng không vui nên không bắt chuyện với chị. Mọi người cho rằng chị bị bệnh tâm thần. Tôi biết chị giả điên nhưng không hiểu vì sao chi lại giả điên.

Một bận, trong gian chái chị ở, chị ngồi vắt vẻo trên cối xay bột, thả hai chân khuất trong chiếc áo chùng đen, kể lại những ngày chị cùng Sa Nguyệt Lượng chu du khắp thiên hạ, nếm đủ phú quí vinh hoa, chứng kiến bao chuyện kỳ thú. Chị từng có một chiếc hộp biết hát, có một ống kính kéo được vật ở xa lại gần, khi ấy tôi cho rằng chị nói những chuyện điên khùng nhưng ngay sau đó tôi được trông thấy cái hộp biết hát. Đó là chiếc hộp chị Phán Đệ đem về. Chị là con cưng của đại đội bộc phá, béo quay ra, giống một con ngựa đang mang thai.

Chị để cái đồ chơi có gắn chiếc loa màu vàng lên giường, đắc ý gọi chúng tôi:

- Lại đây, cho các em mở rộng tầm mắt!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:15 AM
Chị bỏ miếng vải che màu đỏ ra. Đây là tất cả bí mật của chiếc hộp. Chị quay cái tay quay một chập, quay xong, chị nở một nụ cười bí ẩn, nói:

- Nghe nhé, người ngoại quốc đang cười. Tiếng người chợt vang lên trong hộp khiến chúng tôi giật thót, tiếng cười của người ngoại quốc không khác tiếng cười của ma quỉ!

- Đem đi, đem ngay đi! Mẹ quát to - Đem cái hộp ma quỉ ấy đi!

Chị Phán Đệ nói:

- Mẹ lạc hậu quá, đây là máy quay đĩa, không phải hộp ma quỉ?

Bên ngoài cửa sổ, chị Lai Đệ giọng lạnh như tiền:

- Kim mòn rồi, phải thay kim mới.

- Thưa bà Lượng! - Chị Năm hỏi mỉa - Bà khoác lác cái gì vậy?

- Cái trò này tôi đã chơi chán rồi! - Chị Cả giọng khinh miệt - Tôi đã đái vào cái loa, không tin cô ngửi xem.

Chị Năm ghé lại gần cái loa ngăn ngăn. Chị nhăn mặt. Chị không cho chúng tôi biết chị ngửi thấy mùi gì. Tôi tò mò ghé mũi ngửi, một mùi tanh như mùi cá biển xộc vào mũi. Chị Năm gạt tôi sang một bên.

- Con yêu tinh - chị Năm hằn học nói - Lẽ ra phải xử bắn chị, nhưng tôi đã xin cho chị thoát.

- Lẽ ra tôi có thể giết hắn, nhưng cô đã ngăn cản tôi!- Chị Cả nói - Các người xem, nó đâu còn là cô gái trinh trắng nữa! Hai cái vú của nó, thằng cha Tưởng đã biến thành hai nắm bã củ cải rồi?

- Đồ Hán gian chó chết! Con Hán gian! - Chị Năm cố ý lấy cánh tay che cặp vú mướp, chửi - Con vợ thối tha của thằng Hán gian chó chết!

- Chúng mày cút hết đi cho tao! - Bà Lã giận điên lên, nói - Cút hết đi, chết hết đi! Đừng để tao thấy mặt chúng mày nữa!
Tôi đâm ra kính nể chị Lai Đệ. Chị dám đái vào cái loa quí hiếm đến như thế. Cái ống nhòm có thể kéo vật ở xa lại gần thì cũng khẳng định là có thực. Đó là ống nhòm, người chỉ huy nào cũng có một cái đeo trước ngực. Chị Lai Đệ ngồi thoải mái trên máng cỏ đã trải lên một lớp cỏ khô, thân mật nói với tôi:

- Thằng ngốc! -

- Em không ngốc, em chẳng ngốc tí nào! - Tôi thanh minh.

- Chị cho rằng em rất ngốc?

Đột nhiên chị vén áo dài lên, giơ cả hai chân lên cao, bảo tôi:

- Em nhìn vào mà xem!

Một tia nắng soi rõ chân, bụng và cặp vú như hai con lợn sữa tí hon của chị.

- Rúc vào - chị mỉm cười bảo - Rúc vào mà bú tí! Mẹ cho con gái chị ti sữa mẹ, chị cho em ti sữa chị?

Tôi rụt rè nhích lại gần máng, chị ưỡn người ra như con cá chép lúc vọt lên mặt nước, hai tay nắm hai vai tôi, thả vạt áo xuống cho trùm lên đầu tôi. Trước mắt tôi là một màu đen, tôi dò dẫm trong bóng tối đó, vừa tò mò vừa sốt ruột, lại có vẻ bí ẩn, thú vị. Tôi ngửi thấy cái mùi giống như ở miệng loa máy quay đĩa. Chỗ này, chỗ này, tiếng nói của chị nghe như rất xa.

- Chú ngốc!

Chị nhét núm vú vào miệng tôi.

- Ti đi thằng chó con! Chú dứt khoát không phải giống nhà Thượng Quan, chú là đồ con lai.

Đất bụi đắng ngắt bám trên đầu vú chị tan trong miệng tôi. Nách chị tỏa ra một mùi chua chua. Tôi cảm thấy sắp chết ngạt đến nơi, nhưng hai tay chí vít đầu tôi, người chị, dướn thẳng như muốn nhét cả bầu vú to bự và rắn chắc vào miệng tôi. Tôi chịu không thấu, cắn vào đầu vú chị. Chị đứng bật dậy, tôi chui ra khỏi áo dài, nằm co duỗi chân chị, chờ đợi một cú đá hoặc hai cú đá của chị. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt vừa đen vừa gầy của chị. Hai bầu vú co giật dữ dội bên trong chiếc áo dài, như hai con chim mái đập đập đôi cánh xinh xinh sau trận giao phối.
Tôi cảm thấy vô cùng ân hận, lấy ngón tay gại gại vào mu bàn tay của chị. Chị giơ tay xoa gáy tôi, nói khẽ:

- Em yêu, đừng nói chuyện này với ai nhé!

Tôi thành thật gật đầu.

Chị nói:

- Chị nói riêng với em chuyện này, anh rể em báo mộng cho chị, nói rằng anh ấy chưa chết, hồn vía anh ấy nhập vào một người đàn ông tóc vàng da trắng.
Tôi đi trong ngõ, trong đầu luôn nghĩ đến mối quan hệ bí mật giữa tôi và chị Lai Đệ. Năm đội viên của đại đội bộc phá chạy trên phố như những thằng điên, mặt mày rạng rỡ. Một anh béo trong khi chạy còn thụi tôi một quả, hét to:

- Thằng nhóc, bọn Nhật đầu hàng rồi! Mau về nhà cho mẹ mày biết, bọn Nhật đầu hàng rồi, kháng chiến thắng lợi rồi!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:16 AM
Tôi trông thấy từng đám binh sĩ nhảy múa trên đường phố, trong đó có lẫn mấy người dân. Nhật đầu hàng, Kim Đồng mất bầu vú? Thượng Quan Lai Đệ vui lòng cho tôi ti sữa của chị, nhưng vú chị không có sữa, đầu vú ghét bám đầy. Nghĩ tới đây tôi cảm thấy thất vọng ghê gớm. Thằng câm chồng chị Ba kéo chị chạy những bước dài từ đầu ngõ phía bắc chạy xuống. Hắn và tiểu đội của hắn bị mẹ đuổi khỏi nhà tôi sau vụ Sa Nguyệt Lượng chết. Hắn dẫn tiểu đội chuyển về ở trong ngôi nhà của hắn, Tiên Chim cũng đi theo hắn. Tuy đã dọn đi, nhưng tiếng rên la không biết xấu hổ của Tiên Chim cứ đêm đêm từ nhà thằng câm vọng ra, luồn theo ngõ phố ngoằn ngoèo đập vào tai tôi. Giờ đây hắn kéo chị cùng ra phố.

Chị phưỡn bụng ngồi trên cánh tay hắn, trên mình mặc một áo dài trắng, kích thước y hệt cái áo dài đen của chị Cả, chỉ khác ở màu sắc. Thế là từ cái áo dài của Tiên Chim tôi nghĩ tới cái áo dài của chị Lai Đệ, từ cái áo dài của chị Lai Đệ tôi nghĩ tới hai bầu vú của chị, từ bầu vú của chị tôi nghĩ tới bầu vú của Tiên Chim. Bầu vú của Tiên Chim là loại tốt nhất trong hàng loạt những bầu vú của nhà Thượng Quan, gọn ghẽ và lanh lợi, núm vú sống động như cái miệng con nhím và hơi vểnh lên. Bầu vú Tiên Chim thước loại cao cấp, vậy vú của chị Cả có huộc loại cao cấp không? Tôi không thề trả lời dứt khoát, bỏi vì từ khi tôi hành động có ý thức đến nay, tôi thấy cái đẹp của vú là một phạm trù rất rộng, không thể tùy tiện mà nói rằng vú nào xấu vú nào đẹp. Con nhím có khi cũng đẹp, lợn sữa cũng có khi đẹp. Thằng câm đặt chị Tiên Chim xuống trước mặt tôi, miệng kêu ồ... à...

Hắn giơ nắm đấm to như vó ngựa huơ huơ một cách thân thiện trước mặt tôi. Tôi hiểu ồ... à... của hắn đồng nghĩa với Nhật đầu hàng rồi!. Hắn lao ra đường phố chính như một con trâu rừng.

Tiên Chim ngoẹo đầu nhìn tôi. Bụng chị to đến phát khiếp, y hệt bụng con nhện khổng lồ.

- Em là chim cưu hay chim nhạn. - Chị hỏi tôi với giọng nhỏ nhẹ, và cũng khó nói là chị hỏi tôi.

- Con chim của em bay mất rồi! Chim của em bay rồi!

Chị bối rối thật sự. Chị đang rộng hai tay, bàn chân trần dí dí những cục đất dưới chân, miệng kêu chíp chíp chạy ra phố. Chị chạy rất nhanh, chăng lẽ bụng to không gây trở ngại gì sao? Nếu không vướng cái bụng to, chắc chị chạy đến lúc nào đó là bay lên trời. Nghĩ rằng mang thai ảnh hưởng đến tốc độ khi chạy là một ý nghĩ chủ quan, trên thực tế, khi đàn sói chạy hết tốc lực, bị tụt lại không phải là những con sói có chửa. Trong đàn chim bay cấp tập, dứt khoát có những con mái mang trứng. Tiên Chim như một con đà điểu khỏe mạnh, thoáng cái đã nhập vào đám người trên phố.
Chị Năm từ trên phố chạy về nhà. Bụng chị cũng tròn căng, quân phục đầy mồ hôi, vú ướt đẫm. Khi chạy, chị tỏ ra nặng nề, không như Tiên Chim. Tiên Chim vung tay khi chạy, chị Năm hai tay ôm bụng mà chạy. Chị Năm thở phì phò như con ngựa cái kéo xe lên dốc. Trong số chị em nhà Thượng Quan, chị Năm có thân hình đấy đà cao lớn hơn cả, hai bầu vú ngạo nghễ như được bơm đầy hơi, vỗ kêu bồm bộp. Chị Cả trùm mạng đen, mặc áo dài đen, vào một đêm tối trời giơ bàn tay không thấy ngón, chị từ con mương bò vào sân nhà Tư Mã. Chị lần theo mùi chưa chưa áp sát căn phòng đèn sáng trưng. Cái sân lát đá xanh mọc đầy rêu trơn, tim chị như muôn nhảy khỏi ***g ngực, bàn tay cầm dao tê dại, miệng tanh như ăn phải nhớt cá. Qua khe cửa, chị Cả chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng, đồng thời cũng khiến chị tâm thần rung động: một cây bạch lạp đang nhỏ những giọt lệ bằng sáp, ánh nên lắc lư, bóng người thấp thoáng.

Mặt đất lát gạch men xanh vút bừa bãi quân phục màu xám của Thượng Quan Phán Đệ và chính ủy Tưởng, một chiếc tất bằng vải thô vắt ngang miệng thùng nước. Phán Đệ trần truồng, phục trên người Tưởng Lập Nhân: Chị Cả xô cửa xông vào nhưng sững lại khi trông thấy cái mông vổng lên của cô em và những hạt mồ hôi lấp lánh khoảng giữa sống lưng. Kẻ thù mà chị định giết, được che kín. Chị giơ dao quát to:

- Tao thì giết chúng mày? Tao thì giết chúng mày! Phán Đệ lăn xuống đất. Tưởng Lập Nhân vớ lấy cái chăn chụp lên người chị Cả, đè chị xuống. Hắn giật khăn trùm trên mặt chị, cười:

- Tôi đoán ngay là bà!

Chị Năm đứng ngoài cổng lớn, gào lên:

- Bọn Nhật đầu hàng rồi!

Khi chạy trở ra phố, chị kéo tôi theo, bàn tay chị mồ hôi nhơm nhớp, mùi chưa loét. Từ mùi chua ấy, tôi nhận ra mùi thuốc lá. Thuốc lá là mùi của Lỗ Lập Nhân. Để kỷ niệm đại đội trưởng Lỗ anh dũng hy sinh trong trận tiêu diệt Lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, Tưởng Lập Nhân đổi họ thành họ Lỗ. Cái mùi của Lỗ Lập Nhân tỏa ra trên phố qua mồ hôi chị Năm.
Đại đội bộc phá nhảy múa trên đường phố, nhiều người nước mắt ràn rụa. Người ta cố ý hích vào nhau, đấm vào vai nhau. Có người trèo lên tháp chuông chênh vênh, kéo chuông ầm ĩ. Người đổ ra đồng ngày càng nhiều, người xách thanh la, người dắt theo con dê sữa, có người bê cả một gói thịt còn tươi nguyên, gói bằng lá sen. Một phụ nữ đeo những quả lục lạc trên núm vú khiến mọi người đặc biệt chú ý. Chị ta nhảy một điệu quái gở, khiến bầu vú nhảy tưng tung, lục lạc rộ lên những âm thanh ròn rã. Bụi bay lên dưới chân, họng khản đặc. Tiên Chim ngó nghiêng trong đám đông. Thằng câm giơ nắm đấm thụi tất cả những ai đến gần hắn. Sau đó, một đám binh sĩ khênh Lỗ Lập Nhân như khênh một khúc gỗ từ trong sân nhà Tư Mã đi ra. Các binh sĩ tung hắn lên trời, ngang tầm ngọn cây, đón lấy rồi lại tung lên.

- Ôi, ố, ối! - Chị Năm ôm bụng, chảy nước mắt, gào lên: - Lập Nhân ơi, Lập Nhân - Chị định len vào đám binh sĩ, nhưng bị những cái mông đầy chai cứng của họ hất ra...

Cuộc vui như điên khiến mặt trời chạy nhanh hơn. Ông đã xuống sát mặt đất, tựa vào ngọn cây trên Bãi-Cát-Dài mà thư giãn, toàn thân một màu hồng, khắp người bọt nước, nhễ nhại mồ hôi, hơi nóng hùng hục, chẳng khác một ông già vừa ngồi thở vừa ngắm đám người trên đường phố.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:17 AM
Đầu tiên là một người ngã gục trong đám bụi, tiếp theo là cả một mảng người ngã xuống. Đám bụi bay lên rồi từ từ rơi xuống mặt, xuống tay, trên quần áo đẫm mồ hôi. Trong nắng chiều đỏ như máu, những người đàn ông nằm thẳng cẳng như những xác chết. Trời nhập nhoạng tối, làn gió mát từ đầm cói thổi tới, những tiếng va dập danh gọn của đoàn tàu chạy qua cầu. Mọi người lắng nghe, có lẽ chỉ mình tôi lắng nghe, kháng chiến thắng lợi rồi, nhưng Kim Đồng đã bị bầu vú vút bỏ. Tôi nghĩ đến cái chết, tôi muốn nhảy xuống giếng, tôi muốn nhảy xuống sông!

Trong đám người, một phụ nữ áo dài trắng từ từ ngồi dậy. Người ấy quì trên mặt đất, lôi ra một, rồi hai vật cùng màu với cái áo dài của chị ta, cùng với màu trên đường phố. Hai vật cất tiếng khóc như cá nhân ngư. Chị ba Tiên Chim trong cuộc vui mừng kháng chiến thắng lọi, đã đẻ sinh đôi hai con trai.

Tiên Chim và những đứa con của chị khiến người ta tạm thời quên đi những điều phiền muộn, tôi nhẹ nhàng nhích tới gần để xem mặt hai đứa cháu gọi bằng cậu. Tôi lách qua những cẳng chân của đàn ông, bước qua những cái đầu dưới đất, cuối cùng, trông thấy hai đứa da màu vàng đất, những vết nhăn đầy trên mặt, trên người, đầu trọc lốc như quả bầu be. Chúng ngoác miệng ra khóc trông phát khiếp, tôi có cảm giác trên người chúng sẽ mọc đầy vảy như vảy cá. Tôi lùi lại, vô ý dẫm phải cánh tay một người đàn ông. Người này hừ lên một tiếng, không đánh cũng không chửi tôi. Anh ta từ từ ngồi dậy, rồi từ từ đứng lên, vuốt đất bụi trên mặt, tôi biết anh ta là ai. Là Lỗ lập Nhân, chồng chị Năm. Lỗ Lập Nhân tìm ai vậy? Tìm chị Năm tôi. Chị Năm nặng nhọc ngồi dậy trong đống cỏ khô, nhào vào lòng Lỗ Lập Nhân, ôm đầu anh ta mà vò tóc. Thắng lợi rồi, thắng lợi rồi, cả hai cứ nói lảm nhảm, vuốt ve nhau. Đặt tên con là Thắng Lợi, chị Năm nói.

Lúc này, mặt trời đã mỏi mệt đi ngủ, mặt trăng tỏa ánh sáng trong suốt, đẹp như người quả phụ thiếu máu. Lỗ Lập Nhân định dìu chị Năm đi về. Chính khi đó, chồng chị Hai là Tư Mã Khố dẫn đại đội biệt động của anh ta tiến vào thôn.
Đại đội biệt động của Tư Mã Khố có ba trung đội trực thuộc. Trung đội một là trung đội kỵ mã, có sáu mươi tư con ngựa lai giữa giống ngựa I-li với ngựa Mông Cổ, các chiến sĩ nhất loạt trang bị súng trường Mỹ, loại súng nhỏ nhắn, bắn liên thanh. Trung đội hai là trung đội xe đạp, có sáu mươi tư chiếc xe đạp nhãn hiệu lạc đà, trang bị loại tiểu liên Đức bắn hai mươi phát, có kính ngắm. Trung đội ba là trung đội la, gồm sáu mươi tư con la khỏe mạnh, chạy nhanh như gió. Ngoài ra, còn có một tiểu đội đặc biệt gồm mười ba con lạc đà, chuyên việc sửa chữa, thồ dụng cụ và phụ tùng sửa chữa xe đạp, súng ống và chuyên chở đạn được, chở Tu Mã Khô, Thượng Quan Chiêu Đệ và hai con gái của họ: Tư Mã Thượng và Tư Mã Hoàng; chở một người Mỹ tên là Bác-bít. Con lạc đà cuối cùng chở Tư Mã Đình, mốc thếch như con khỉ đột. Lão mặc quần nhà binh, áo sơ mi lụa màu ngó sen, nét mặt rầu rĩ, hình như trong lòng có điều không vui.

Bác-bít có cặp mắt dịu dàng, mái tóc bạch kim mềm mại, đôi môi nhỏ, mình mặc áo da màu đỏ, quần vải bò có đến mười mấy cái túi to nhỏ, chân đi ủng bằng da thuộc mềm nhũn. Anh ta ăn mặc khác người như vậy, ngồi ngất ngưởng trên lưng con lạc đà đực cùng Tư Mã Khố, Tư Mã Đình đi vào thôn.

Trung đội kỵ binh của Tư Mã Khố ào tới như một cơn lốc Tiểu đội một sáu con ngựa đen tuyền, trên lưng sáu con ngựa ô này là sáu thanh niên tuấn tú, mặc quân phục màu da cam, cúc đồng sáng loáng trước ngực và trên tay áo, ủng đi ngựa cao cổ, bóng loáng, súng đeo trước bụng bóng loáng, mũ sắt trên đầu cũng bóng loáng, cái mông con ngựa cũng bóng loáng. Khi gần đền đám người năm ngổn ngang, đội kỵ mã đi chậm lại, những con ngựa đi đầu ngẩng đầu lên, chuyển sang chạy nước kiệu. Sáu lính kỵ chĩa súng lên trời, bắn một loạt đạn vào khoảng không mênh mang, những vỏ đạn sáng trưng bắn ra tứ phía. Súng nổ khiến tai điếc đặc, lá cây rụng ào ào. Lỗ Lập Nhân và Thượng Quan Phán Đệ giật mình, vội buông nhau ra. Lỗ Lập Nhân quát:

- Các anh thuộc đơn vị nào?

Một kỵ binh đáp:

- Ông già ở bộ phận nào vậy?

Lời chưa dứt, một tràng tiểu liên quét ngang ngay trên đầu Lỗ Lập Nhân. Anh ta luống cuống nằm xoài xuống đất, nhưng lập tức nhảy đứng lên, quát to:

- Tôi là đại đội trưởng kiêm chính ủy đại đội bộc phá, tôi cần gặp chỉ huy của các anh!
Tiếng nói của Lỗ Lập Nhân bị chìm trong hàng loạt tiểu liên bắn chỉ thiên. Các đội viên đội bộc phá nháo nhào ngồi dậy, **ng nhau ngã dúi dụi. Đội kỵ mã cho ngựa chồm lên, đường phố hỗn loạn nên đội hình của họ cũng hỗn loạn. Loại ngựa lai này thấp bé, linh hoạt, như một lũ mèo đực nhanh nhẹn và ngổ ngáo, hích ngã những người không kịp né tránh hoặc năm dưới đất vừa vùng dậy. Tiểu đội một vừa qua, tiểu đội hai ập tới, những người trên đường phố bị kỵ binh dồn đuổi, hích ngã, muốn chạy mà chạy không thoát.

Mọi người chưa hiểu sự thể ra sao, thì trung đội Lừa hàng ngũ tề chỉnh, các binh sĩ cầm ngang súng, vênh váo chẳng khác những con lừa. ở đầu phố đằng kia, trung đội kỵ binh chỉnh đốn hàng ngũ, rồi quay lại, hình thành hai mũi giáp công, mọi người bị dồn vón cục ở giữa, có người định chạy vào ngõ, nhưng lập tức bị trung đội ba, những binh sĩ cưỡi xe đạp nhãn hiệu lạc đà, mặc tiện y hoa đỏ tía, súng tiểu liên băng đạn cối, ngăn lại. Họ xả súng ngay trước mặt những người chạy trốn, đất bụi mù mịt, mọi người hốt hoảng chạy trở lại đường phố. Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan binh lính đại đội bộc phá bị dồn tới trước cổng nhà Phúc Sinh Đường. Vì sao họ không lợi dụng khu dinh cơ kín cổng cao tầng và những lô cốt ngầm, lô cốt nổi của nhà Phúc Sinh Đường để tổ chức chống cự. Vì rằng Tư Mã Khố đã cho điệp viên trà trộn vào hàng ngũ đội bộc phá, nhân lúc hỗn loạn đã đóng chặt cổng lớn cổng bé nhà Phúc Sinh Đường, hơn nữa, còn gài hàng loạt mìn trước cổng.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:19 AM
Theo lệnh, các binh sĩ nhất loạt nhảy xuống lừa, dàn sang hai bên để chừa một lối đi. Đây là dấu hiệu một nhân vật quan trọng sắp xuất hiện. Các binh sĩ của đại đội bộc phá nhìn con đường. Những người dân rủi ro bị kẹt giữa đám lính cũng nhìn con đường. Tôi mờ mờ cảm thấy rằng, nhân vật quan trọng đó chắc chắn có liên quan đến nhà Thượng Quan.

Mặt trời đã chìm một nửa dưới Bãi-Cát-Dài, chỉ còn lại một quầng đỏ làm nền cho bầu không khí bi thảm. Những con quạ bay vụt lên từ nóc lều những người ngụ cư. Vài con đợi thỏa sức biểu diễn kỹ thuật phi hành trên không trung. Khoảnh khắc yên lặng là dấu hiệu của nhân vật quan trọng đã tới.

Thắng lợi? Thắng lợi!

Lính kỵ và lính lừa hô to. Nhân vật quan trọng đã tới. Nhân vật quan trọng từ phía tây đi tới, trên mình con lạc đà. Trên đầu con lạc đà có ngù dỏ.

Tư Mã Khố mặc quân phục xanh bằng dạ cao cấp, đầu đội chiếc mũ mà chúng tôi gọi đùa là mũ trôn lừa, ngực đeo hai huân chương vàng chóe to bằng vó ngựa, lưng thắt một đai dạn, sườn bên phải đeo khẩu Xanhtêchiên. Con lạc đà vươn dài cổ rồng, rung cặp môi ngựa dâm đãng, dựng hai tai chó nhọn hoắt, lim dim cặp mắt hổ lông mi rậm, giơ ngược những móng guốc như móng trâu, ve vẩy đuôi rắn dài và mảnh, co rúm mông dê gầy guộc, bước những bước dài giữa hai hàng quân. Lạc đà như con thuyền nhấp nhô, Tư Mã Khố như một thủy thủ. Hắn duỗi thẳng hai chân, ngực ưỡn ra, người hơi ngả ra sau, giơ tay đeo găng trắng lên sát vành mũ trôn lừa, khuôn mặt dài màu đồng điếu rắn câng, những nốt ruồi trên má đỏ như lá phong uống no sương. Khuôn mặt hắn như tạc bằng gỗ dàn hương, quang đầu ba lớp để chống mục chống ẩm. Bọn lính kỵ và lính lừa bồng súng hoan hô.

Đi sau lạc đà của Tư Mã Khố là lạc đà của Tư Mã Khố phu nhân: Thượng Quan Chiêu Đệ. Mấy năm không gặp, nét mặt Chiêu Đệ chẳng đổi khác là bao, vẫn thanh tú và dịu dàng. Chị khoác chiếc áo gió bằng lụa trắng, bên trong là chiếc áo chẽn bằng đoạn màu vàng, quần lụa hồng, chân đi giày da nhỏ màu vàng cực kỳ tinh xảo. Hai cổ tay đeo hai vòng ngọc bích, trừ hai ngón tay cái, tám ngón khác đeo tám nhẫn vàng. Hai dái tai đeo hai hạt nho xanh biếc, sau này tôi mới biết đó là ngọc phỉ thúy. Không nên quên hai cháu ngoại cao quí của tôi. Lạc đà của chúng đi ngay sau lạc đà của Chiêu Đệ. Giữa hai bướu có một sợi dây thừng to buộc chặt hai giỏ có hình dáng như chiếc ghế dựa, ngồi bên trái đầu cài đầy hoa là Tư Mã Thượng, ngồi bên phải hoa cài đầy đầu là Tư Mã Hoàng.
Tiếp theo là Bác-bít, anh chàng người Mỹ. Cũng khó như đoán tuổi chim én, không thể đoán được tuổi anh chàng người Mỹ này. Nhưng cặp mắt mèo xanh biếc của anh ta vô cùng linh hoạt khiến tôi cảm thấy anh ta rất trẻ, rất giống chú gà trống choai vừa đạp mái. Tóc anh ta mới bóng mượt làm sao! Anh ta ngồi trên lưng lạc đà, người lắc lư theo nhịp, nhưng dù lắc lư đến mấy, thân của anh ta vẫn thẳng đuỗn, y hệt pho tượng gỗ buộc chặt vào cái phao thả trên sông. Cái biệt tài ấy của anh ta khiến tôi có ấn tượng sâu sắc, nghĩ mãi mà không hiểu. Sau này, khi tôi được biết Bác-bít là phi công của không lực Mỹ, tôi mới hiểu anh ta giữ thói quen ngồi trên buồng lái khi ngồi trên lưng lạc đà. Anh ta không nghĩ rằng ngồi trên lưng con lạc đà, mà ngồi trong máy bay khu trục nhãn hiệu lạc đà, bị rớt xuống một phố chính của thủ phủ vùng Cao Mật.

Đi sau cùng là Tư Mã Đình, tuy có vinh dự là thành viên của gia đình Tư Mã, nhưng ông ta rũ như táu lá héo, không phấn khởi chút nào. Con lừa của ông ta cũng xấu mã, thọt một chân.

Lỗ Lập Nhân cố làm ra vẻ chững chạc. Anh ta tới trước con lừa của Tư Mã Khố, ngạo nghễ giơ tay chào, nói to:

- Chi đội trưởng Tư Mã, hoan nghênh quí bộ đội đến thăm căn cứ địa của chúng tôi, trong cái ngày cả nước tưng bùng này!

Tư Mã Khố cười ngặt nghẽo, thiếu nước ngã lăn xuống đất.

- Ha ha ha...

Hắn vỗ vỗ đám lông trên bướu lạc đà, nói với đám lính và dân phố đứng trước và sau hắn:

- Các người có nghe hắn phun cút phun đái những gì chưa? Đồ giòi bọ! Căn cứ địa nào? Thăm ai? Thằng lạc đà nội địa kia, đây là nhà của ông, đây là đất thấm máu của ông! Đường phố này đã thấm máu của mẹ ông khi đẻ ông! Chúng mày là đồ giòi bọ, hút no máu vùng Cao Mật, bây giờ là lúc phải cuốn xéo. Chuồn về cái hang thỏ của chúng mày, trả lại nhà cho ông!

Hắn nói rất hăng, lời lẽ đốp chát, nói một câu, vỗ vào bướu lạc đà một cái. Mỗi cái vỗ, cổ con lạc đà lại giật lên.

Mỗi cái vỗ, các binh sĩ của hắn lại gầm lên một tiếng. Mỗi cái vỗ, mặt Lỗ Lập Nhân lại tái thêm một ít. Cuối cùng, con lạc đà bị kích thích, rúm người lại, một chất nhầy như cháo, thối hoắc, từ hai lỗ mũi nó phun thẳng vào mặt Lỗ Lập Nhân.
- Tôi phản đối! - Lỗ Lập Nhân chùi mặt, giận điên lên - Tôi cực lực phản đối. Tôi sẽ kiện lên cấp cao nhất!

- ở đây ông là cấp cao nhất! Ông tuyên bố, hạn trong nửa giờ phải cút khỏi thị trấn Đại Lan, quá hạn, ông sẽ sát giới!

Lỗ Lập Nhân lạnh lùng nói:

- Rồi sẽ có ngày gậy ông đập lưng ông!

Tư Mã Khố không thèm đếm xỉa câu nói của Lỗ Lập Nhân, lớn tiếng ra lệnh cho bộ hạ:

- Tiễn quân bạn ra khỏi địa giới!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:20 AM
Trung đội kỵ binh và trung đội lừa ken thành đội hình dày đặc, dồn các binh sĩ đại đội bộc phá vào ngõ nhà tôi. Hai bên đường dọc theo ngõ, cách vài thước lại có một lính tiện y cầm súng. Một số lính tiện y khác đứng trên nóc nhà, giám sát từ trên cao.

Sau nửa giờ, phần lớn đội viên của đại đội bộc phá bò lên bờ bên kia sông Thuồng Luồng, ướt như chuột lột. ánh trăng lạnh lẽo chiếu trên mặt họ. Một số ít đội viên lợi dụng lúc nhốn nháo chui vào những bụi rậm trên đê hoặc bơi xuôi dòng xuống phía dưới rồi lên bờ ở quãng không người, vắt nước trên quần áo, chạy suốt đêm về quê.

Mấy trăm đội viên đội bộc phá ướt lướt thướt trên bờ đê. Họ nhìn nhau, có người chảy nước mắt, có người mừng thầm. Lỗ Lập Nhân thấy bộ đội của mình đã bị giải giáp hoàn toàn, quay ngoắt lại định đâm đầu xuống sông, nhưng bị bộ hạ ôm chặt. Anh ta im lặng hồi lâu, chợt ngẩng đầu hét to với những người thị trấn Đại Lan đang ồn ào bên kia sông:

- Tư Mã Khố, Tư Mã Khố, hãy đợi đấy, có ngày ta sẽ trở lại! Quê hương Cao Mật là của chúng tao, không phải của chúng mày? Bây giờ tạm thời là của chúng mày, nhưng cuối cùng là của chúng tao!

Hãy để Lỗ Lập Nhân liếm láp vết thương của anh ta, tôi phải trở về với những vấn đề của mình. Giữa nhảy xuống sông tự tử hay nhảy xuống giếng tôi chọn nhảy xuống sông, vì tôi nghe nói nhảy sông thì có thể trôi theo dòng nước mà ra biển. Thời Tiên Chim trổ phép thần thông, trên sông từng có những chiếc thuyền lớn hai cột buồm ngược dòng tới nơi này.

Tôi mục kích cảnh tượng các binh sĩ của Lỗ Lập Nhân tranh nhau bơi qua sông Thuồng Luồng dưới ánh trăng lạnh lẽo. Phì phà phì phèo, hết bò lại lăn, nhốn nháo nhộn nhạo, mặt sông sùi bọt. Người của Chi đội Tư Mã không tiếc đạn, bắn như vãi trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bộc phá thì chắc chắn không sót một mống, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật dọa dẫm, không bắn chết ai. Vài năm sau, khi đại đội bộc phá biên chế lại thành trung đoàn độc lập trở lại Cao Mật, ai cũng bất nhẫn trước cảnh những binh sĩ và sĩ quan của Chi đội Tư Mã bị bắn chết.

Tôi lội chầm chậm ra chỗ sâu hơn, mặt sông trở lại êm đềm; hàng vạn tia sáng nhảy múa. Những bụi cỏ nước quẩn chân tôi, những con cá nhỏ đớp nhẹ đầu gối tôi. Tôi thử bước thêm mấy bước, nước sông ngang bụng, tôi cảm thấy ruột thắt lại, cái đói không chịu nổi đã hành hạ tôi. Thế là bầu vú đáng yêu đáng kính và đẹp vô cùng của mẹ đột nhiên hiện ra trong đầu tôi. Nhưng mẹ đã bôi ớt ở đầu vú, mẹ đã nhiều lần nhắc tôi:
- Con lên bảy rồi, phải cai sữa!

Vì sao tôi phải sống đến lên bảy nhỉ? Vì sao tôi không chết khi lên bảy? Tôi cảm thấy nước mắt chảy vào miệng. Vậy hãy để cho tôi chết, tôi không muốn để cho những thứ ô uế làm bẩn miệng tôi. Tôi mạnh dạn tiến thêm mấy bước nữa, nước đã ngập đến vai, cơ thể tôi đã cảm thấy lực xung kích của dòng nước ngầm. Tôi cố đứng vững hai chân chống lại sức đẩy của nước. Một cái xoáy lớn ngay trước mặt tôi, dụ tôi tiến lên. Tôi sợ. Tôi cảm thấy bùn dưới chân lở từng mảng, người tôi lún sâu hơn ngoài ý muốn, tiến lên, tiến vào cái xoáy nước đó. Tôi cố sức lùi lại và gào tướng lên! Lúc này tôi nghe thấy tiếng gọi thất thanh của mẹ:

- Kim Đồng, Kim Đồng! Con oi, con ở đâu?

Cùng với tiếng gọi của mẹ, tôi còn nghe thấy tiếng bơi của chị Sáu Niệm Đệ, chị Cả Lai Đệ và một giọng the thé vừa quen vừa lạ, tôi đoán đó là chị Chiêu Đệ tay đầy nhẫn vàng.

Khi tỉnh lại, đập vào mắt tôi đầu tiên là bầu vú căng tròn của mẹ, núm vú nhãi con mắt hiền từ, dịu dàng nhìn tôi, còn một bầu thì đang trong miệng tôi, nó chủ động mơn trớn đầu lưỡi tôi, hàm rằng tôi, sữa chảy vào họng tôi như những tia suối nhỏ. Tôi ngửi thấy mùi thơm sực núc từ bầu vú của mẹ. Về sau tôi mới biết mẹ dùng xà phòng thơm Hoa Hồng do chị Chiêu Đệ tặng rửa sạch ớt trên vú và xịt nước hoa giữa hai khe vú.

Trong nhà đèn được sáng trưng, trên giá nến cao cao có mấy cây nến đỏ. Tôi trông thấy nhiêu người đứng ngồi xung quanh mẹ. Ông anh rể Tư Mã Khố đang khoe với mẹ bửu bối của anh ta: chiếc bật lửa chỉ cần ấn một cái là tia lửa vọt ra. Cậu ấm Tư Mã đứng cách một quãng xa nhìn bố, thái độ lạnh nhạt, chẳng tỏ vẻ thân thiện chút nào.

Mẹ thở dài nói:

- Tôi phải trả nó cho anh chị, tội nghiệp thằng bé, đến nay vẫn chưa có tên.
Tư Mã Khố nói: - Bố là Khố (nhà kho) thì con là Lương (lương thực) đặt tên cho nó là Tư Mã Lương.

Mẹ nói:

- Nghe rõ chưa, cháu tên là Tư Mã Lương. Tư Mã Lương nhìn bố một thoáng, vẫn với thái độ lạnh nhạt.

Tư Mã Khố nói:
- Thằng nhóc, y hệt bố hồi nhỏ. Nhạc mẫu, xin cảm ơn nhạc mẫu đã giữ gìn cho nhà Tư Mã một người nối dõi. Từ nay, nhạc mẫu cứ mà hưởng phúc Cao Mật là giang sơn của ta rồi!

Mẹ không hiểu đầu đuôi ra sao, lắc đầu bảo Chiêu Đệ:

- Con định báo hiếu mẹ thì cho mẹ vài tạ kê, mẹ sợ đói lắm rồi!

Tối hôm sau, Tư Mã Khố tổ chức lễ mừng công, một là mừng kháng chiến thắng lợi, hai là mừng anh ta trở về nhà. Họ nối cả một xe pháo tép thành một dây pháo, quấn một vòng quanh tám cây hòe, lại nghiền nát trên hai chục cái chảo gang, đào lấy số thuốc nổ mà đại đội bộc phá chôn giấu, làm một quả pháo hoa lớn. Dây pháo nổ đúng một nửa đêm, vặt trụi cả cành lẫn lá tám cây hòe. Pháo hoa với những tia lửa lộng lẫy, chiếu sáng cả một khoảng trời. Họ giết mấy chục con lợn, vài con trâu, đào lên hơn chục hũ rượu. Thịt nhím bày đầy những mâm đặt trên bàn ngoài đường, bên cạnh để mấy con dao nhọn, ai thích ăn thì cứ việc xẻo thịt mà ăn, ngay cả cắt tai lợn quẳng cho chó cũng không ai can thiệp! Các hũ rượu đặt bên bàn thịt, miệng hũ treo gáo sắt, ai thích uống thì uống, tắm bằng rượu cũng không ai phản đối? Hôm ấy là ngày hội của những kẻ đói khát. Con trai cả nhà họ Trương là Trương Tiền Nhi chết vì bội thực ở trên phố. Khi mọi người đến lượm xác anh ta, rượu và thịt ứa ra ở miệng và mũi.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:21 AM
Chương 3.


1.


Hơn mười ngày sau khi đại đội bộc phá bị đuổi khỏi thôn trấn, một buổi tối, chị Phán Đệ dúi đứa trẻ bọc trong chiếc áo quân phục cũ vào lòng mẹ. Chị nói:

- Mẹ, cho mẹ đấy!

Chị Phán Đệ ướt lướt thướt, bộ quần áo mỏng dính chặt trên người, cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Mái tóc chị bốc hơi ngùn ngụt, tỏa mùi men rượu. Núm vú đỏ hồng phập phồng sau lần áo lót. Tôi rất muốn xông tới ngoạm vào bầu vú chị, vuốt ve bầu vú chị, nhưng không dám. Chị Phán Đệ tính nết dữ dằn, hơi tí là bạt tai. Chị không hiền như chị Cả. Bạt tai thì bạt, tôi phải sờ được vú chị. Tôi nấp sau cây lê, cắn chặt môi dưới chờ đợi.

- Đứng lại! - Mẹ quát to - Quay lại tao bảo!

Chị Phán Đệ giương to mắt nhìn mẹ, nói:

- Mẹ, đều là con gái của mẹ, mẹ nuôi hộ các chị ấy, thì cũng phải nuôi hộ con.

- Tao nợ nần gì mày? - Mẹ giận dữ gào lên - Chúng mày đẻ xong là quẳng về đây, con chó nó cũng không thế?

- Mẹ ơi - Khi chúng con gặp vận, mẹ đều được thơm lây. Giờ đây gặp hạn ngay cả con của con cũng không được nhờ vả chút gì hay sao? Mẹ ơi, phải công bằng chứ!

Từ trong bóng tối, tiếng cười của chị Cả vọng ra, nghe ơn lạnh xương sống. Chị thản nhiên nói:

- Em Năm, hãy bảo cái thằng Tưởng là có ngày chị sẽ giết nó?
- Chị Cả - Phán Đệ nói - Chị vui mừng hơi sóm đấy! Thằng chồng Hán gian Sa Nguyệt Lượng của chị có chết cũng chưa hết tội. Tôi khuyên chị hãy cụp đuôi lại, dùng có ***g lên, nếu không, chẳng ai cứu nổi chị!

- Đừng cãi nhau nữa! - Mẹ thét to.

Mặt trăng muộn đỏ quạch, trườn lên nóc nhà, soi rõ những người đàn bà trong sân, mặt nhuốm đỏ như bôi máu. Mẹ buồn bã lắc đầu, vừa khóc núc nở vừa nói:

- Tao không hiểu tiền oan nghiệp chướng gì mà đẻ ra những của nợ này!... Chúng mày cút đi, đi cho khuất mắt tao!

Lai Đệ như một bóng ma màu xanh chạy vào chái tây, và cứ lảm nhảm một mình trong đó như đang nói chuyện với Sa Nguyệt Lượng. Chị Lãnh Đệ như mộng du từ ngoài đầm trở về, trong tay một xâu ếch kêu ộp oạp. Chị trèo qua tường phía nam, vào trong sân.

- Trông kìa! - Mẹ lầu bầu - Đứa thì điên, đứa thì dở người! Thế này thì làm sao mà sống được?

Mẹ cúi xuống, đặt đứa con chị Năm dưới đất rồi đi vào trong nhà. Đứa bé khóc oe oe, mẹ không thèm ngoảnh lại. Mẹ đá thằng Tư Mã Lương đang đứng bên cửa, phát đánh bốp vào đầu Sa Tảo Hoa.

- Chúng mày là những của nợ? Sao không chết cả đi!

Rủa xong, mẹ đi vào buồng ngủ, đóng cửa đánh sầm, tôi nghe thấy tiếng đồ đạc loảng xoảng. Và cuối cùng là một tiếng bịch nặng nề như bao lương thực bị rớt, tôi đoán rằng đó là tiếng bà Lã nằm vật trên giường sau khi trút hết cơn điên. Tôi không trông thấy cái dáng mẹ nằm trên giường, nhưng hai tay dang rộng, bàn tay xương xầu tấy đỏ, đầy những vết nứt nẻ. Bên tay trái là đứa con của Lãnh Đệ rất có thể bị câm, bên tay phải là hai đứa con xinh đẹp điên điên khùng khùng của chị Chiêu Đệ. ánh trăng chiếu trên đôi môi nhọt nhạt của mẹ, đôi vú mệt mỏi nằm bẹp trên xương ngực. Bên cạnh mẹ, chỗ đứa con gái nhà Tư Mã, vốn là chỗ của tôi, nhưng giờ đây bà Lã nằm dạng hai chân, nên chỗ đó đã bị lấn chiếm.

Ngoài sân, trên lối đi còn thấp hơn cả hai bên, đứa con bọc trong chiếc áo quân phục cũ của chị Phán Đệ, khóe ngằn ngặt. Không ai hỏi một câu. Mẹ đẻ ra nó là Phán Đệ hùng hổ nói qua cửa sổ buồng mẹ:

- Mẹ phải nuôi nó hộ con, con và Lỗ Lập Nhân sớm muộn sẽ trở về!
Mẹ đấm xuống chiếu, gầm lên:

- Nuôi hộ mày hả? Tao thì vứt nó, cái đứa con hoang của mày ấy, xuống sông cho ba ba nó ăn quẳng xuống giếng cho ếch nhái nó đớp, quẳng vào chuồng phân cho giòi bọ nó **c!

- Tùy mẹ - Chị Phán Đệ nói - Dù sao nó là con của con, mà con lại là con của mẹ, suy cho cùng, mẹ vẫn có trách nhiệm!

Nói xong, Phán Đệ toàn thân run bắn, cúi nhìn đứa con trên lối đi rồi loạng choạng chạy ra cổng. Khi chạy qua chái tây thông với gian giữa, chị vấp phải ngưỡng cửa ngã chúi. Cái vấp đau nhưng chị lồm cồm bò dậy, hai tay ôm chặt cặp vú bị thương, chửi vọng vào chái tây:

- Đồ đĩ, hãy đợi đấy?

Lai Đệ trong chái tây cuối khúc khích. Trong bóng tối, tôi đưa tay sờ vú chị, chị nhổ nước bọt vào mặt tôi rồi bỏ đi. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi thấy mẹ đang huấn luyện con dê trắng cho con chị Phán Đệ nằm ngửa trong cái sọt mà bú.

Những buổi sáng mùa xuân năm một nghìn chín trăm bốn mươi sáu, quang cảnh trong sân nhà Thượng Quan náo nức chết cười. Mặt trời chưa lên, ánh sáng ban mai bàng bạc. Lúc này thôn xóm còn đang ngủ, chim én còn đang nói mê trong tổ, những con dế còn đang gảy đàn trong hang ấm sau bếp, trâu bò nhai lại bên máng cỏ, Tư Mã Khố đang ngáy trong nách chị Hai... thì mẹ đã thức dậy, rên rỉ xoa bóp những ngón tay đau nhức rồi mò mẫm tìm áo khoác, vất vả gập cánh tay tê dại cài khuy nách. Xong xuôi, mẹ ngáp dài, xoa mặt, mở mắt, thò chân xuống giường tìm giày. Tìm thấy giày, mẹ xuống giường, người lắc lư, lại ngáp một cái nữa, cúi xuống kéo gót giày để xỏ chân vào, ngồi xuống ghế đẩu, đưa mắt nhìn một lượt những khuôn mặt chúng sinh. Rồi mẹ ra sân lấy gáo múc nước từ ang vào chậu. òa, một gáo, òa, hai gáo, mỗi lần đều bốn gáo, đôi khi năm gáo. Rồi mẹ bê chậu nước đến chuồng, cho dê uống nước. Năm con dê cái, ba đen hai trắng, mặt dài ngoẵng, sừng cong như lưỡi liềm, cằm dài có râu dài. Chúng chụm đầu vào nhau, uống nước soàm soạp trong chậu. Mẹ cầm chổi vun phân dê lại rồi quét hết vào chuồng, xúc đất ngoài ngõ trải đều lên, lấy lược gỗ chải lông cho lũ dê. Trở lại lấy nước rửa thật sạch vú cho từng con. Lũ dê khoan khoái kêu be be. Lúc này, mặt trời đã nhô lên đỉnh núi, ánh hồng và ánh đỏ đuổi sạch màu bàng bạc của sớm mai. Mẹ trở vào nhà cọ chảo, đổ nước vào, lớn tiếng gọi:

- Niệm Đệ, Niệm Đệ, dậy đi!

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:22 AM
Mẹ đổ kê và đậu xanh vào chảo, khuấy đều, cuối cùng bỏ thêm một nắm đậu vàng, lại khuấy. Đậy nắp chảo, cho củi vào lò, đánh diêm, mùi lưu huỳnh, bà nội mắt trắng đã ngồi trong nói, mẹ than thở. Lách tách, cây đậu đang cháy, mùi thơm xộc vào mũi. Tạch, một hạt đậu còn sót, nổ trong ngọn lửa.

- Niệm Đệ đã dậy chưa?

Tư Mã Lương mắt nhắm mắt mở từ căn buồng phía đông đi ra sân, ra nhà xí ống khói tỏa khói xanh. Niệm Đệ đang ở sân, thùng chạm nhau lịch kịch, chị sắp ra sông lấy nước. Be, dê kêu? Oa, Lỗ Thắng Lợi khóc! Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng thì thầm. Hai con trai của Tiên Chim ậm ọe. Tiên Chim lười nhác đi ra cổng. Lai Đệ chải đầu bên cửa sổ. Đàn ngựa hí vang trong ngõ, đó là đám kỵ binh cho ngựa ra sông uống nước. Đàn la đi ngang qua ngõ, chúng ra sông uống nước trở về. Chuông xe đạp kính cong, trung đội xe đạp đang luyện tập. Mẹ sai Tư Mã Lương:

- Cháu đun bếp cho bà!

- Kim Đồng, dậy đi, dậy ra sông rửa mặt!

Mẹ bê năm cái sọt đan bằng nhành liễu như hình cái ghế ra, đặt năm đứa trẻ xuống ghế, ở tư thế nằm ngửa. Mẹ ra lệnh cho Sa Tảo Hoa:

- Thả đàn dê ra!

Sa Tảo Hoa chạy con cón, hai chân khẳng khiu, tóc rối bù, mắt mọng vì ngái ngủ, bước vào chuồng dê. Lũ dê lắc sừng tỏ vẻ thân thiện, thè lưỡi liếm đất bám trên gối nó.

Nó nắm tay đấm yêu lên đầu con dê, mắng:

- Đồ cộc đuôi!

Nó tháo bỏ thùng chạc ở cổ dê, vỗ tai dê, nói:

- Đi ra, mày là của Lỗ Thắng Lợi!
Con dê của Lỗ Thắng Lợi vui vẻ vẫy đuôi nhanh nhẹn gõ móng, chạy ào đến bên sọt của Lỗ Thắng Lợi. Thắng Lợi nằm chổng bốn vó lên trời, chờ đợi. Con dê dạng hai chân sau, bước lùi mấy bước để bầu vú sát mặt con bé. Đầu vú dê tìm miệng con bé, miệng con bé tìm đầu vú dê, động tác thuần thục, chuẩn xác. Núm vú con dê to và dài là thế, mà Lỗ Thắng Lợi đớp gọn trong miệng, y hệt một con cá quả tham ăn. Con dê của thằng Câm anh, của thằng Câm em, của Tư Mã Phượng, của Tư Mã Hoàng lần lượt đến bên chủ của mình, cùng một động tác như nhau tiếp cận miệng lũ trẻ, thành thạo và lặng lẽ. ánh nắng vàng óng trùm lên khung cảnh cho trẻ bú đầy xúc động. Lũ dê cong lưng? lim dim mắt, râu dưới cằm rung rung.

- Bà ơi, nước sôi... rồi? - Tư Mã Lương nói.

- Để sôi một lúc nữa mẹ đang rửa mặt ngoài sân.

Lửa liếm nhanh đáy chảo. Cái bếp này đã được bác cấp dưỡng của đại đội bộc phá cải tạo lại. Tư Mã Lương chỉ mặc quần đùi, cởi trần. Nó rất gầy, cặp mắt u sầu. Niệm Đệ gánh nước về, thùng nước nhún nhẩy theo đòn gánh. Chị đang để lại tóc, đã dài chấm lưng, đầu bím buộc dây ni lông theo thời thượng. Lũ dê nhất loạt đổi bên vú cho lũ trẻ.

- Ăn cơm thôi! - Mẹ bảo.

Sa Tảo Hoa ngả bàn, Tư Mã Lương lấy đũa bát. Mẹ múc cháo, một bát hai bát ba bát bốn bát năm bát sáu bát bảy bát. Sa Tảo Hoa và Ngọc Nữ lấy ghế ngồi. Niệm Đệ bón cháo cho bà Lã. Lai Đệ và Lãnh Đệ cầm bát của mình đi tới tự múc mỗi người một bát. Mẹ không nhìn nhưng lầu bầu:

- Khi ăn thì chẳng điên chút nào!

Hai chị bê cháo ra vườn ăn. Niệm Đệ nói:

- Nghe nói trung đoàn mười bảy thuộc trung đội tám sắp đánh đến đây!

- Ăn đi - mẹ ngắt lời chị.

Tôi quì trước mặt mẹ để ti sữa. Mẹ bị vướng phải quay mặt sang bên để ăn cháo.

- Mẹ nuông chiều nó quá đấy, nó định bú cho đến khi lấy vợ chắc? - Niệm Đệ nói.
- Có người bú tí mẹ đến lúc lấy vợ đấy- Mẹ nói - Đó là bố Bảo Tài ở ngõ Tây, bú tí mẹ đến lúc lấy vợ.

Tôi đổi bên vú.

- Kim Đồng, mẹ cũng rộng lượng cho đến ngày còn đủ sữa cho con!

- Mẹ đã nếm trải đủ mùi gian khổ, vậy mà sữa mẹ vẫn nhiều? - Khi nào quả thật không đủ sẽ kiếm cho nó một con dê - Chị Niệm Đệ nói.

- Niệm Đệ em hận chị!

- Cơm xong, đi chăn dê, kiếm ít hành dạ và rau săng, làm bữa trưa.

Mẹ dặn dò xong, bữa sáng kết thúc.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:23 AM
Lỗ Thắng Lợi nhích từng tí trên bãi cỏ, mông lết trên cỏ mịn như nhung. Mục tiêu của nó là con dê trắng đang đỏng đảnh bút từng ngọn cỏ non, khuôn mặt dài được rửa sạch bằng sương sớm có những nét ngạo mạn của tiểu thư quí tộc. Thời đại nhốn nháo, bãi cỏ im lìm. Những đóa hoa muôn màu điểm xuyết đây đó, bãi cỏ thật là đẹp, mùi thơm làm ta mê man. Chúng tôi chạy đã thấm mệt, nằm bò xung quanh chị Niệm Đệ. Tư Mã Lương nhai nhánh cỏ trong miệng, nhựa cỏ xanh dính hai bên mép. Mắt nó đồng tử màu vàng, lóe lên những tia trắng **c. Dáng dấp và động tác nhai cỏ khiến nó trở thành con cào cào khổng lồ. Cào cào cũng ăn cỏ, khi nhai cỏ, cũng ứa nước xanh ở mép. Sa Tảo Hoa đang quan sát một con kiến kềnh. Con kiến đứng trên ngọn cỏ mao, đang phân vân tìm lối xuống. Mũi tôi chạm phải một cụm hoa nhỏ xíu màu vàng, mùi thơm của nó khiến tôi chỉ muốn hắt hơi, quả nhiên tôi đã hắt xì hơi rõ to. Chị Niệm Đệ nằm ngửa mặt, ở giữa chúng tôi, bị cái hắt hơi của tôi làm giật mình. Chị trố mắt liếc xéo tôi, tỏ ra không bằng lòng, bĩu môi, nhíu mũi, rồi lại nhắm mắt. ánh nắng mặt trời khiến chị hết sức khoan khoái. Hai gò má hơi cao, trắng mịn, không một nếp nhăn, lông mi dầy, môi trên mọc đầy lông tơ, cằm hơi dô một cách nghịch ngợm, vành tai chỉ có ở các cô gái nhà Thượng Quan, tròn đầy và trắng trẻo. Chị mặc chiếc áo ngoài bằng đoạn trắng của chị Chiêu Đệ cho, áo khép hai vạt đính khuy uyên ương là mốt thịnh hành đương thời, bím tóc to bằng con lệch thả trước ngực. Điều cần nhắc đến là cạp vú của chị. Vú chị không lớn nhưng chỉ nhìn cũng biết chúng rắn câng không nhão không xệ, vì vậy tuy cô chủ của chúng ở tư thế nằm ngửa mà chúng vẫn nhọn hoắt, trắng mịn giữa khe hở của hai vạt áo. Tôi bỗng nảy ra một ý muốn khó cưỡng lại, đó là lấy cọng cỏ chọc vú chị nhưng không dám. Chị Niệm Đệ xưa nay vẫn mặt trăng mặt trời với tôi, chị ghét cay ghét đắng chuyện tôi vẫn còn bú tí, chòng ghẹo chị thì chẳng khác sờ mông cọp. Tôi đấu tranh tư tưởng quyết liệt. Đứa nhai cỏ vẫn nhai cỏ, đứa chơi với kiến vẫn chơi với kiến, đứa bò lết vẫn bò lết. Con dê trắng như mụ quí tộc, con dê đen như bà quả phụ. Chúng ăn không ngon miệng vì thức ăn nhiều, không biết nên ăn món nào, cỏ nhiều không biết nên ăn cỏ nào. Hắt xì! Thì ra dê cũng biết hắt hơi, mà lại hắt hơi rõ kêu. Bầu sữa của chúng đã đầy. Trời đã gần trưa, tôi ngắt một cọng cỏ đuổi chó, quyết tâm sờ mông hổ. Không ai để ý đến tôi. Tôi khẽ buồn cọng cỏ vào giữa khe áo do vú đội lên. Trong tai tôi có tiếng ong ong, cảm thấy tim đập như con thỏ nhảy trong ngực. Cọng cỏ đã chạm vào lần da. Chị không phản ứng gì, chẳng lẽ chị đang ngủ? Ngủ thì sao lại không có tiếng ngáy? Tôi xoay xoay cọng cỏ, chị giơ tay gãi ngực, không mở mắt ra.

Chắc chị cho rằng có con kiến bò giữa khe vú. Tôi chọc cọng cỏ sâu hơn nữa và ngoáy. Chị đập tay trên ngực đanh bốp một cái, bàn tay chạm cọng cỏ của tôi, chị rút nó ra. Chị nhìn cọng cỏ, trở mình ngồi dậy nhìn tôi, mặt đỏ bùng. Tôi ngoác miệng cười với chị.

- Đồ đốn mạt - chị mắng - Mẹ làm hư mày rồi?
Chị dúi đầu tôi xuống cỏ, phát hai cái vào mông tôi. - Mẹ nuông chiều mày nhưng tao thì không - Chị trợn mắt quát - Đời mày rồi cũng chết treo dưới vú mẹ...

Tư Mã Lương hốt hoảng nhả cọng cỏ ra. Sa Tảo Hoa thôi không quan sát lũ kiến. Chúng nhìn tôi, không hiểu có chuyện gì xảy ra, đồng thời lại nhìn chị Niệm Đệ. Tôi khóc lên hai tiếng, hoàn toàn chỉ là hình thức vì tôi đã vớ bở. Chị đứng lên, dùng đầu hất bím tóc ra sau lưng vẻ ngạo nghễ. Lỗ Thắng Lợi đã bò đến bên con dê của nó, nhưng con dê không chịu, cứ né tránh, ngay cả lúc nó đã túm được núm vú, con dê quay lại húc con bé ngã lăn ra. Nó khóc như tiếng dê, không hiểu là khóc hay là gọi. Tư Mã Lương thì cắm cổ bỏ chạy làm kinh động những con cào cào có cánh trong màu hồng và mấy con chim chích màu vàng nhạt. Sa Tảo Hoa ngắt những bông tú cầu mịn như nhung. Tôi ngượng nghịu đứng lên, đi theo chị Niệm Đệ, đấm thùm thụp vào mông chị, vừa ăn vạ:

- Đấy nhé, chị đánh em, chị dám đánh em.

Mông chị rắn chắc, tôi đấm mà thấy đau những ngón tay. Chị mất hết kiên nhẫn, quay lại nhe răng trợn mắt, gầm gừ như chó sói. Tôi sợ toát mồ hôi, chợt hiểu rằng, mặt người và mặt thú chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Chị túm tóc tôi đẩy một cái thật mạnh, tôi ngã ngửa trên bãi cỏ. Chị tóm lấy sừng con dê trắng, con dê chỉ chống cự lấy lệ. Lỗ Thắng Lợi nhanh nhẹn bò tới nằm ngửa dưới bụng con dê, cố ngóc đầu lên để ngậm đúng đầu vú, hai chân cũng đạp ngược dần lên bụng con dê. Chị Niệm Đệ vuốt ve cái tai của con dê, nó vẫy đuôi tỏ ý thuần phục. Tôi đói bụng, trong lòng buồn rũ. Tôi hiểu ra rằng, những ngày sống dựa vào mẹ không còn lâu nữa, phải tìm ra một loại thức ăn cho mình. Tôi lập tức nghĩ đến những sợi miến ngoằn ngoèo như những con giun mà lợm giọng chỉ muốn nôn ọe, và tôi đã ọe khan hai tiếng. Chị Niệm Đệ ngẩng lên nghi ngờ nhìn tôi:

- Mày sao thế hả? - chị hỏi bằng một giọng ngán ngẩm.

Tôi xua tay, tỏ ý không thể trả lời chị. Tôi lại nôn khan mấy tiếng nữa. Chị rời con dê, bảo tôi:

- Kim Đồng, lớn lên rồi em sẽ như thế nào?

Tôi nhất thời không hiểu ý tứ trong câu nói của chị. Chị nói:

- Chị thấy em nên thử ăn sữa dê xem sao?
Tôi nhìn Lỗ Thắng Lợi đang mút vú dê chùn chụt, trong bụng có phần suy nghĩ.

- Em định để mẹ chết à? - Chị lắc vai tôi, hỏi - Em có biết cái gì biến thành sữa không? Sữa tức là máu! Em đang hút máu của mẹ! Nghe lời chị, ti sữa dê đi!

Tôi nhìn chị, gật đầu gượng gạo. Chị túm lấy con dê đen của thằng câm lớn, bảo tôi:

- Lại đây, mau lên? Chị vỗ vỗ lưng con dê cho nó đứng yên - Lại đây!

Chị nhìn tôi bằng ánh mắt khích lệ. Tôi do dự, tiến lên một bước rồi lùi lại hai bước. Lại đây, chui vào bụng dê, học cách nó chui ấy!

Tôi nằm ngửa tì gót xuống cỏ đầy người trườn đi.

- Câm lớn, câm lớn, lùi mấy bước nào - Chị Niệm Đệ vừa nói vừa đẩy lùi con dê đen.

Tôi nhìn thấy bầu trời Cao Mật trong vắt, những con chim nhỏ màu vàng kim bay trong nàng, lượn vòng, cất tiếng hót vui tai. Nhưng tầm nhìn của tôi lập tức bị che khuất, bầu vú màu phấn hồng của con dê đã treo lủng lẳng trên mặt tôi. Hai đầu vú to như hai con đại trùng đung đưa tìm miệng tôi. Chúng chạm vào môi tôi, sự cọ xát khiến môi tôi tê tê như chạm vào một dòng điện nhỏ, tôi mê đi trong một cảm giác sung sướng. Trước kia tôi cứ cho rằng đáu vú của dê rất mềm, không co giãn, mềm như bông, ngậm trong miệng lập tức biến thành hồ nhão. Giờ đây tôi mới biết chúng rất cứng, cứng mà dẻo, sức co dãn vào loại ưu việt, chẳng kém vú mẹ tôi chút nào. Trong khi va chạm, tôi cảm thấy một làn hơi ấm thấm ướt môi tôi, sữa có mùi gây gây khiến tôi không thích, nhưng trong cái mùi gây đó có mùi thơm, mùi thơm của hoa dại trộn lẫn mùi nhựa cây mọc trên đồng cỏ. Tôi mềm lòng, hé mở hàm răng cắn chặt, dòng sữa dê tia thẳng vào họng tôi, nhảy múa trong vòm miệng, tôi tức thở nhả đầu vú ra, nhưng đầu vú khác lập tức thay thế, sữa của nó tia càng mạnh hơn...

Con dê ve vẩy đuôi, rời tôi một cách thanh thản. Tôi ứa nước mắt. Mùi gây gây phảng phất trên mặt, tôi buồn nôn. Miệng thơm mùi cỏ và hoa dại, tôi không nôn nữa. Chị Sáu kéo tôi đứng dậy, bế tôi xoay một vòng. Tôi trông thấy khuôn mặt chị nổi lên những đốm đỏ vì vui sướng.

Mắt chị đen láy như hòn cuội vừa vớt dưới nước lên. Chị xúc động nói:

- Thằng ngốc, em được cứu rồi!...
- Mẹ ơi, mẹ! chị Sáu phấn khởi gọi to - Kim Đồng ăn được sữa dê rồi! Kim Đồng ăn được sữa dê rồi!

Trong nhà vọng ra tiếng chát bụp.

Mẹ vút chiếc chày cán bột dính đầy máu tươi lên mép lò há miệng thở hồng hộc, bộ ngực đồ sộ phập phồng dữ dội.

Bà Lã nằm sõng sượt trên đống cho cạnh bếp, đầu vỡ toác chẳng khác cái hột đào bị dập vỡ.

Chị Tám Ngọc Nữ ngồi co rúm ở cửa bếp, tai chị bị mất một mẩu như bị chuột gặm, chỗ rách không gọn, máu nhỏ từng giọt, nhuộm đỏ má và ngực chị. Chị khóc ti tỉ, cặp mắt thong manh mọng nước.

- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội rồi! - chị Sáu kinh hoảng kêu lên.

Mẹ đưa tay rờ vết nút trên đầu bà nội, rồi như bị điện giật mẹ ngồi phịch xuống đất.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:24 AM
2.



Chúng tôi với tư cách là khách mời đặc biệt leo lên đèo Trâu Nằm, xem Tư lệnh Tư Mã Khố và thanh niên Mỹ Bác-bít biểu diễn kỹ thuật bay. Hôm ấy có gió dông nam, nắng đẹp. Tôi cưỡi la chung với chị Lai Đệ. Chị Chiêu Đệ thì cưỡi chung với Tư Mã Lương. Tôi ngồi phía trước, chị Lai Đệ vòng tay ôm ngực tôi Chị Chiêu Đệ ngồi trước, Tư Mã Lương chỉ níu dưới nách áo chị, không sao ôm vòng cái bụng to tướng đang mang thai cửa chị. Đội ngũ chúng tôi men theo đuôi, leo dần lên sống lưng núi Trâu Nằm mọc đầy cỏ lau sắc cạnh và cây bồ công anh nở hoa vàng. Những con la chở chúng tôi tỏ ra nhẹ nhõm.

Tư Mã Khố và Bác-bít cưỡi ngựa vượt lên trước chúng tôi. Hai người tỏ ra vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khố còn giơ nắm tay lên huơ huơ với chúng tôi. Trên đỉnh núi có một tốp người mặc quần áo vàng hét lên gì đó với những người ở dưới. Tư Mã Khố giơ cái roi ngắn vụt cho con ngựa lai liền hai roi, con ngựa từng bước trèo lên đèo. Ngựa của Bác-bít theo sau. Bác-bít ngồi trên lưng ngựa rất giống tư thế ngồi trên lưng lạc đà, dù lắc lư đến mấy, phần thân của anh ta vẫn thẳng đơ. Hai chân dài ngoẵng, bàn đạp gần như sát mặt đất, con ngựa kẹp giữa hai chân trông vừa thương hại vừa buồn cười, vậy mà nó chạy rất nhanh.

- Chúng mình cũng phải nhanh lên! - Chị Hai nói.

Chị dùng gót chân thúc vào bụng con la. Chị là thủ lĩnh của đoàn khách, đường đường là Tư lệnh phu nhân, ai dám không tôn trọng? Đám đại biểu dân chúng, những nhân vật nổi tiếng của địa phương đi phía sau, tuy thở phì phò nhưng không một ai ca thán. Con la của tôi và chị Lai Đệ theo sát con la của chị Chiêu Đệ và Tư Mã Lương, cặp vú lẩn sau lần áo choàng đen cọ vào lưng tôi, khiến tôi nhớ lại trò chơi vỡ lòng bên máng cỏ, tôi cảm thấy rất vui.

Lên tới đỉnh núi, gió mạnh hơn. Lá cờ do hướng gió bay phần phật, dải cờ màu đỏ múa lượn trong gió như cái đuôi con gà gấm. Hơn chục lính khuân vác các thứ trên lưng lạc đà xuống. Những con lạc đà mặt mày đau khổ, đuôi và khuỷu chân dính phân lỏng. Cỏ vùng Cao Mật vỗ béo những con la của chi đội Tư Mã Khố, vỗ béo bò dê của dân trong vùng, nhưng lại làm khổ những con lạc đà Chúng không quen thủy thổ, gầy lõ đít, chân như que củi, cái bướu trên lưng rắn chắc là thế mà nay nhăn nheo, xẹp lại như cái túi vải.

Bọn lính trải rộng một tấm thảm cực lớn trên mặt đất. Tư Mã Khố ra lệnh:
- Dìu bà đến đây? Bọn lính dìu Chiêu Đệ với cái bụng to tướng, bế Tư Mã Lương, rồi đỡ Lai Đệ, cậu Kim Đồng, dì Ngọc Nữ xuống đất. Chúng tôi là khách quí đuợc ngồi trên thảm, còn những người khác thì đứng đằng sau. Tiên Chim cứ thập thò đằng sau, chị Hai giơ tay vẫy, chị giấu mặt sau lưng Tư Mã Đình. Tư Mã Đình bị đau răng, tay ôm má sưng vù. Chỗ chúng tôi ngồi tương đương với đầu trâu, phía trước là mặt. Con trâu này cố ý rúc đầu vào ngực, mặt nó là vách đá cheo leo, ở độ cao năm trăm thước so với mặt biển. Gió lướt trên đầu thổi về hướng thôn trấn, những đám mây mỏng như sương lơ lửng trên bầu trời. Tôi tìm ngôi nhà của tôi nhưng lại tìm thấy khối nhà bảy lớp sân của nhà Tư Mã. Tháp chuông nhà thờ, vọng gác kết cấu gỗ trông nhỏ bé như đồ chơi. Cánh đồng, dòng sông, ao đầm, vạt cỏ, những vạt cỏ khảm gương là những ao chuôm. Có một đàn ngựa chỉ to bằng con dê, một đàn la chỉ to bằng con chó, cả hai đàn đều là gia súc của nhà Tư Mã. Có sáu con dê chỉ to bằng con thỏ, đó là đàn dê nhà tôi. Con dê trắng to nhất trong đàn là con dê của tôi, con dê mà theo lời yêu cầu của mẹ, chị Hai cử phó quan phụ trách quân nhu của anh rể, phó quan quân nhu cử người đi Kỳ Mông mua về. Đúng bên con dê trắng của tôi là một bé gái, đầu nó bé hơn quả bóng nhỏ bằng da. Nhưng tôi biết đó không phải cô gái nhỏ, mà là một cô gái lớn, đầu cô ta lớn hơn quả bóng da. Đó là chị Niệm Đệ. Hôm nay chị chăn dê rất xa. Chị đi xa thế không phải vì lũ dê, mà vì chị. Chị cũng muốn xem biểu diễn. Tư Mã Khố và Bác-bít đã xuống ngựa từ lâu. Hai con ngựa đang đi lại thung dung trên đầu trâu, tìm ăn cỏ linh lăng hoa tía. Bác-bít đến bên bờ vục nhìn xuống hình như đang ước lượng độ cao, một thái độ trang nghiêm hiện trên khuôn mặt trẻ thơ của anh ta. Anh ta hết cúi nhìn vực thẳm, lại ngẩng lên nhìn trời. Trời xanh ngắt, không còn gì phải tính toán chi li nữa. Anh ta lim dim mắt, giơ một tay lên hình như để ước lượng sức gió. Tôi cho anh ta làm như vậy là thừa, cờ bay phấn phật, áo bị thổi phồng lên, diều hâu bị lật cánh xoay như chong chóng, vậy thì còn giơ tay làm gì? Trong khi Bác-bít làm như vậy, Tư Mã Khố đi theo anh ta từng bước chân và cứ tự nhiên lặp lại những động tác của anh ta. Nét mặt Tư Mã Khố cũng rất căng thẳng, nhưng tôi cảm thấy anh ta chỉ làm ra vẻ thế thôi.

- Được rồi? - Bác-bít giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!

- Được rồi - Tư Mã Khố giọng cứng nhắc - Nào, bắt đầu!

Các binh sĩ khênh hai cái bọc đến, mở một cái ra. Đó là một tấm lụa rộng mênh mông, phía dưới là những dây màu trắng.
Bác-bít chỉ huy bọn lính buộc dây vào ngực vào mông Tư Mã Khố. Buộc xong, anh ta kéo những sợi dây xem đã chắc chưa. Tiếp theo, anh ta mở tấm lụa ra, bảo đám lính cầm lấy hai góc. Gió thốc tới, tấm lụa hình chữ nhật loạt soạt căng phồng lên. Các binh sĩ bỏ tay ra, tấm vải phồng lên như một cánh buồm hình cánh cung, kéo căng tất cả những sợi đây, kéo theo Tư Mã Khố. Tư Mã Khố muốn đứng lên nhưng không đứng được, lăn lông lốc như một con lừa đang tắm khan. Bác-bít chạy đến sau lưng anh ta, túm lấy sợi thùng ở sau lưng, bảo:

- Giữ chặt sợi dây này, đây là dây điều khiển.

Tư Mã Khố như chợt tỉnh, cất giọng chửi:

- Tiên sư nhà mi, Bác-bít, định hại ông hả?...

Chị Hai chồm dậy đuổi theo Tư Mã Khố. Mới chạy được vài bước, Tư Mã Khố đã lăn xuống mép vực, tiếng chửi cũng ngừng bặt. Bác-bít gào to:

- Kéo sợi dây bên trái, kéo đi, đồ ngu!

Chúng tôi chạy ra mép vục, cả chị Tám cũng chạy theo. Chị bước đi loạng choạng, chị Cả vội giữ lại. Tấm lụa đã biến thành một đám mây trắng như bông, lắc lư, bồng bềnh trôi đi. Tư Mã Khố ở phía dưới, giãy giụa như con cá mắc câu. Bác-bít gọi với theo:

- Giữ cho ổn định, đồ ngu! Chú ý động tác tiếp đất.

Đám mây trắng bay theo chiều gió, vừa bay vừa hạ độ cao, cuối cùng hạ xuống bãi cỏ xa tít, màu trắng lóa mắt trùm lên cỏ xanh.

Chúng tôi há hốc miệng, nín thở, mắt dõi theo mảng màu trắng cho đến khi nó tiếp đất mới thở ra một hơi. Nhưng tiếng khóc của chị Hai khiến chúng tôi lúng túng. Sao chị lại khóc? Chắc hẳn chị không vì vui mà khóc, mà vì buồn. Tôi nghĩ ngay đến chuyện Tư Mã Khố bị ngã chết. Thế là mọi người chú mục vào mảng trắng trên bãi cỏ, mong chuyện thần kỳ xảy ra. Chuyện thần kỳ đã xảy ra thật: Mảng trắng động đậy, nhô cao, một vật đen chui ra, đứng dậy. Anh ta khua cả hai tay về phía chúng tôi, tiếng reo vọng lên đình núi, chúng tôi đồng thanh hoan hô.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:25 AM
Bác-bít đỏ mặt, chóp mũi bóng lộn như thoa một lớp đầu. Anh ta tự buộc dây cho mình, cõng cái bọc trắng lên lưng, đứng lên co giãn hai cánh tay, chậm rãi lùi lại. Chúng tôi đều nhìn vào anh ta. Anh ta không thèm nhìn ai, mặt vác lên nhìn về phía trước. Anh ta đi giật lùi đến mười mấy bước thì dừng lại, nhắm mắt, môi run run, chắc là cầu nguyện. Cầu nguyện xong, anh ta mở mắt, cất bước chạy, khi chạy ngang qua chỗ tôi, anh ta duớn người lên một cái rồi như một mũi tên lao vào khoảng không. Trong một thoáng, tôi có cảm giác không phải anh ta rơi xuống, mà là vách đá dâng lên, đồng cỏ dâng lên. Đột nhiên một đóa hoa trắng nở bung ra, lần đầu tiên tôi trông thấy một đóa hoa lớn đến như thế nở giữa trời xanh và đồng cỏ. Chúng tôi vỗ tay hoan hô. Bông hoa từ từ trôi, bên dưới là Bác-bít bình ổn như một quả cân bằng sắt. Rất nhanh, quả cân tiếp đất, rơi đúng chỗ đàn dê nhà tôi. Đàn dê chạy tán loạn. Quả cân chỉ di chuyển một đoạn ngắn, bông hoa trắng đã xẹp lại, chỉ còn như một cái phao khổng lồ, trùm lên người Bác-bít, đồng thời trùm luôn cả Niệm Đệ. Niệm Đệ hoảng hốt kêu lên, trước mắt chỉ là một màu trắng, chị trông thấy nụ cười nở bừng trên khuôn mặt hồng hào của Bác-bít. Đúng là thiên thần giáng thế Chị nghĩ. Chị ngước nhìn anh ta, trong lòng rộn lên niềm kính phục và ngưỡng mộ.

Mọi người đều chạy đến bên bờ vực nhìn xuống.

- Hôm nay mới được chứng kiến chuyện lạ như thế này? - Ông chủ hiệu nhà đòn Hoàng Thiên Phúc nói - Thiên thần, lão sống đã bảy mươi tuổi, giờ mới được xem thiên thần giáng thế!

Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:

- Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện!

Những người có vai vế trong trấn đứng xung quanh thầy giáo Tần và ông chủ nhà đòn đều ca ngợi Tư Mã Khố băng những lời lẽ khác nhau, tán thưởng kỳ tích vừa được chứng kiến.

- Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu? - Thầy Tần cao giọng át cả những lời bàn tán, tỏ ra thầy có mối quan hệ đặc biệt với nhà Tư Mã- Ông ấy bỏ hai con cóc vào trong cái bô đi tiểu của tôi. Còn nữa, ông ấy sửa lại lời thánh hiền. Thánh nhân nói: Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính dễ gần, thói dễ xa, nếu không dạy, thiện tiêu ma. Ông ấy sửa lại ra sao, cái vị không đoán nổi đâu. Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó...Ha ha ha...

Thầy Tần cười ha hả, vênh váo nhìn mọi người xung quanh.
Giữa khi ấy, một tiếng kêu thất thanh vang lên, tiếng kêu như tiếng chó con sục tìm vú mẹ, càng giống tiếng kêu của con hải âu năm xưa theo đoàn thuyền đến bãi sông Thuồng Luồng. Thầy giáo Tần sững người nụ cười vụt tắt, vẻ vênh váo cũng tan biến. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía có tiếng kêu. Đó là chị ba Lãnh Đệ, nhưng những nét đặc trung của chị Ba không còn nữa. Giờ đây chị đã nhập vào trạng thái Tiên Chim, mũi khoằm xuống, con người chuyển sang màu vàng, cổ rụt giữa hai vai, tóc biến thành lông mao, hai tay biến thành hai cánh. Chị giương hai cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống vực. Tư Mã Đình giơ tay túm lấy chị nhưng không trúng, chỉ giữ lại được một mẩu vạt áo. Khi chúng tôi chợt tỉnh, thì đã thấy chị bay - tôi thích nói là chị bay, mà không nói là rơi. Đám cỏ dưới vực tung lên một làn bụi nhỏ.

Chị Hai khóc đầu tiên. Tôi không thoải mái khi nghe chị khóc. Tiên Chim ba xuống vực là chuyện bình thường, sao lại khóc? Tiếp theo, chị Cả, con người điên điên khùng khùng, coi trời bằng vung, cũng khóc, thậm chí chị Tám không hề nhìn thấy gì, không hiểu đầu đuôi ra sao, nhưng bằng vào sự mẫn cảm, cũng khóc òa lên. Chị Tám khóc, kèm theo những lời như trong cơn mê sảng, những lời cầu xin cho chị được khóc cho đã. Về sau, chị nói với tôi, chị nghe rõ tiếng rơi rất gọn của chị Ba, còn tôi khi ấy chỉ nhìn thấy những giọt nước mắt tuôn ra như suối của chị. Đám người đang ồn ào, bỗng tất cả ngây ra như phỗng, mặt băng giá, mắt như có màng bao phủ. Chị Hai gọi đám lính dắt la lại, không cần ai giúp, chị ôm cái cổ vừa ngắn vừa thô của con la, trèo lên, dùng gót chân thúc cho nó chạy. Tư Mã Lương chạy theo được hai bước thì một binh sĩ xốc nách nó đặt lên lưng con ngựa của Tư Mã Khố.

Chúng tôi như một đám lính thất trận thất thểu xuống núi. Lúc này, Bác-bit còn đang bận làm gì đó với chị Niệm Đệ dưới đám mây trắng? Trên đường xuống núi, tôi vắt óc tưởng tượng ra cảnh tượng Bác-bit và chị Niệm Đệ dưới cái dù. Tôi mường tượng Bác-bit quì bên chị, tay cầm nhánh cỏ đuôi chó với những túm lông, cà vào vú chị như trước đây tôi đã từng làm. Còn chị thì nằm đuổi thăng, mắt nhắm, miệng rên lên khoan khoái như con chó cái gãi ngứa. Trông kìa, hai chân chị giơ lên, cái đuôi quệt trái quệt phải trên cỏ, chị đã dâng hiến cho thằng cha Bác-bit trời đánh? Vậy mà cách đây không lâu, tôi lấy cọng cỏ chọc chị, chị gần như đánh dập đít tôi. Nghĩ tới đây, trong lòng tôi đầy uất hận, cũng không hoàn toàn là uất hận, mà là một tình cảm ngang trái như những ngọn lửa đốt cháy tim tôi.

- Đồ chó cái! - tôi chửi, đồng thời hai tay xiết chặt như đang bóp cổ chị.

Chị Lai Đệ ngoảnh lại, hỏi:
- Em làm sao thế!

Vì vội xuống núi, đám lính đặt tôi lên sau lưng chị. Tôi ôm chặt hai bầu vú lạnh ngắt của chị, áp mặt vào tấm lưng gầy guộc của chị, miệng lẩm bẩm:

- Bác-bit, Bác-bit, tên giặc Mỹ Bác-bit, hắn đã phủ lên người chị Sáu rồi! Chúng tôi đi một vòng dài lê thê mới đến chỗ thảm cỏ Tư Mã Khố và Bác-bit đã tháo gỡ xong dây nhợ trên người. Cả hai đầu cúi gằm, trước mặt là bãi cỏ xanh mượt và dầy. Chị Ba như khảm trên đám cỏ, nằm ngửa, mình lún trong bùn. Xung quanh chị, bùn bắn tung tóe cùng với những khóm cỏ bật rễ. Dáng dấp của loài chim không còn thấy trên khuôn mặt chị. Mắt mở hé, nét mặt bình thản, phảng phất nụ cười, hai tia mắt hồi quang như xuyên vào ngực tôi. Sắc mặt chị trắng bợt, trán và môi bôi một lớp phấn trắng. Máu rỉ ra từ lỗ mũi, lỗ tai và hai bên mép. Một con kiến càng màu đỏ hốt hoảng chạy trên mặt chị. Đây là nơi những người chăn súc vật rất ít đến, cỏ hoa mặc sức mọc, ong bướm không sợ người, mùi mục rữa vấn vương đây đó. Trước mặt mười mấy thước là vách đá dựng đứng màu nâu, chân lõm vào thành một đầm nước đen kịt. Những giọt nước từ vách đá rơi xuống tí tách.

Chị Hai chồm tới, quì bên chị Ba, gọi:

- Em Ba, em Ba, em Ba!
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:27 AM
Chị luồn tay dưới đầu chị Ba định nâng dậy, nhưng cổ chị Ba như biết co giãn vươn dài ra, chẳng khác con thiên nga đã chết. Chị Hai lập tức để đầu chị Ba lại chỗ cũ, kéo tay, nhưng tay chị Ba dàn hồi như cao su Chị Hai khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:

- Em Ba ơi, em Ba, em như thế này mà đi hay sao?

Chị Cả không khóc, cũng không gào. Chị quì bên chị Ba, ngẩng nhìn mọi người xung quanh, nhìn mà không nhìn vào đâu. Tôi nghe chị thở dài, thấy chị quài tay sang bên ngắt một bông tú cầu to bằng quả trứng gà, cầm bông hoa lau máu trên mắt, mũi, tai cho chị Ba.

Lau xong, chị đưa bông hoa lên mũi ngửi rồi lại ngửi, tôi trông thấy một nét cười quái đản lẽ ra không nên có trên mặt chị, còn ánh mắt thì chỉ người nào đang chìm đắm trong một tâm thức nào đó mới có ánh mắt như thế. Tôi mơ hồ cảm thấy rằng, qua bông hoa tú cầu đỏ tía, tinh thần siêu phàm thoát tục của chị Ba đã chuyền sang chị Lai Đệ.

Tôi để ý nhất chị Sáu. Chị rẽ đám dông, chậm rãi bước tới bên thi thể chị Ba. Chị không quì cũng không khóc, chỉ im lặng cúi đầu, hai tay vặn bím tóc, mặt hết đỏ lại trắng nhợt, y như chị đã làm điều sai trái gì đó. Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kỳ sung mãn, tóc đen nhánh, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. Chị mặc chiếc áo dài bằng lụa trắng của chị Chiêu Đệ cho, chiếc áo mở kích rất cao, lộ ra cặp dùi thon dài. Chị đi chân đất, bắp chân có những vết xước do cỏ lau để lại, vạt sau còn in dấu vết của cỏ non và hoa dại bị đổ nát, xanh có, đỏ có...

Sự suy nghĩ của tôi chợt nhảy sang cái dù đã trùm lên chị và Bác-bit, nhánh cỏ đuôi chó, cái đuôi cỏ đầy lông tơ... Mắt tôi như mắt ruồi trâu, dính vào ngực chị. Hai núm vú như hai hạt anh dào nhô lên sau lần áo. Tôi ứa nước miếng, tôi khao khát được nâng bầu vú lên để ngậm miệng vào đấy. Tôi khao khát được quì trước những bầu vú đẹp đẽ trên đời này, được làm đứa con trung thành của chúng...Chính giữa chỗ nổi cộm trên áo còn lưu một vết ố như nước bọt của chó. Trong lòng tôi cuộn đau, hình dung sống động đến nỗi như phơi bày trước mắt cái cảnh Bác-bit cắn xé bầu vú chị Sáu, cặp mắt xanh biếc của hắn ngước nhìn lên cằm chị, còn chị thì vuốt ve mái tóc bạch kim của hắn. Chính bàn tay đã từng phát vào mông tôi đau điếng, mà tôi chỉ mới chọc khẽ nhánh cỏ vào ngực chị, còn hắn thì đang cắn chị. Nỗi đau không chính đáng khiến tôi tê liệt trước cái chết của chị Ba, cảm thấy rối bời trước tiếng khóc của chị Hai. Tiếng khóc của chị Tám như tiếng của đất trời, khiến người ta nhớ lại vẻ đẹp mê hồn của chị Ba khi còn sống, những hành vi khác người quỉ khóc thần sầu của chị. Bác-bit tiến lên mấy bước, tôi nhìn càng rõ đôi môi của hắn đỏ mọng khiến tôi không ưa chút nào, và khuôn mặt hồng hào, trên má phủ một lớp lông tơ. Những sợi lông mi trắng, cái mũi cao, cái cổ dài đều khiến tôi không thích. Hắn ngả hai tay làm như định cho chúng tôi thứ gì đó nói:
- Rất tiếc rất tiếc, đây là điều tôi không thể ngờ!...

Hắn nói một tràng tiếng Tây mà chúng tôi không thể hiểu, rồi lại nói mấy câu tiếng Trung Quốc:

- Đây là chứng hoang tưởng, cô ta tưởng mình là chim nhưng cô ta không phải là chim!...

Những người đứng bên bắt đầu bàn tán. Tôi đoán họ chỉ xoay quanh mối quan hệ giữa Tiên Chim và Hàn Chim, có lẽ còn bàn đôi câu về Tôn Bất Ngôn hoặc đề cập đến hai đứa con trai. Tôi không thích nghe từng câu, mà cũng không sao nghe được từng câu, tai tôi có tiếng vo ve, mấy con ong đất đang bay, chúng có tổ cực lớn trên vách đá, phía dưới tổ có một con sơn miêu ngồi chồm hổm, trước mặt nó là con chuột chũi hai chân trước phát triển quá cỡ, béo mập, hai mắt ti hí rất gần nhau. Quách Phúc là ông thầy cúng của thôn, biết lên đồng, biết trừ tà, hai mắt ti hí gần sát nhau, có biệt hiệu là Chuột Chũi. Ông ta bước ra khỏi đám đông, nói:

- Thưa ông trẻ, người thì đã chết rồi, có khóc cũng không sống lại được! Trời nóng nực nên khênh về ngay để nhập liệm, chôn cất cô ấy mồ yên mả đẹp.
Không hiểu dây mơ rễ má ra sao mà ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tôi không rõ, và cũng không ai biết vì sao ông ta gọi Tư Mã Khố bằng ông trẻ? Tư Mã Khố gật đầu, xoa xoa tay, nói:

- Mẹ kiếp, mất cả hứng!

Chuột Chũi đứng phía sau chị Hai, đảo cặp mắt ti hí, giọng làm ra vẻ rầu rĩ:

- Bà trẻ, người chết thì đã chết, còn phải nghĩ đến người sống. Bà trẻ đang bụng mang dạ chửa, khóc lóc quá, ốm ra đấy thì nguy. Với lại bà dì đâu phải người thường! Dứt khoát bà không phải người thường, bà vốn là Tiên của các loài chim, vì ăn bàn đào của Tây vương mẫu bị đày xuống trần, giờ đây niên hạn đã hết, bà lại trở về cõi tiên. Mọi người thử nghĩ coi, ai cũng thấy bà rơi xuống vục nhẹ nhàng như không, yên ngủ cùng trời đất, người trần mắt thịt làm sao ung dung thanh thản như thế!

Chuột Chũi nói những chuyện trên trời dưới đất, vực chị Hai đứng dậy.

Chị Hai núc nở:
- Em Ba, em chết thảm quá!

- Thôi, thôi - Tư Mã Khố sốt ruột xua tay về phía chị Hai - Đừng khóc nữa. Người như cô ấy, sống chịu tội sống, chết thành Tiên.

Chị Hai nói:

- Tại anh cả, bày ra cái thí nghiệm người bay.

Tư Mã Khố nói:

- Tôi chẳng đã bay rồi đấy sao? Chuyện tày trời này, phụ nữ các người không hiểu được! Tham mưu Mã, khiêng cô ấy về, mua quan tài khâm liệm cho cô ấy. Phó quan Lưu, cuộn dù đem lên núi, ta và cố vấn Bác-bit phải bay lần nữa.

Chuột Chũi xốc chị Hai dậy, oai vệ bảo mọi người:

- Tất cả giúp một tay!

Chị Cả vẫn quì mà ngửi bông hoa dính máu chị Ba. Chuột Chũi nói:

-Thưa bà Cả, bà đừng nên đau xót quá, bà Ba trở về cõi Tiên, ta phải vui mới phải.

Chuột Chũi chưa nói hết câu, chị Cả đã ngẩng lên mỉm cười bí hiểm nhìn ông ta. Ông ta lúng búng trong miệng không dám nói tiếp, vội vã lẫn vào đám dông. Chị Cả giơ cao bông tú cầu vừa cười vừa đứng lên, bước qua thi thể Tiên Chim, đăm đăm nhìn Bác-bit, cặp mông uốn éo sau lần áo dài đen, thái độ nôn nóng chẳng khác người ta mót đi tiểu. Chị tiến lên, vứt bông tú cầm trong tay, ôm choàng lấy cổ Bác-bit, ép sát vào người hắn, miệng lảm nhảm như nói mê sảng:

- Chết rồi?... đau xót quá!

Bác-bit gỡ mãi mới thoát khỏi vòng tay chị, mặt đầy mồ hôi, tiếng tây xen lẫn tiếng địa phương:

- Không... không nên... người mà tôi yêu không phải cô!...

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:35 AM
Chị Cả mắt đỏ như mắt chó điên, miệng lảm nhảm những lời dâm đãng, chồm tới định ôm Bác-bit. Hắn né, né mãi rồi nấp sau lưng chị Sáu. Chị Sáu trở thành cái bình phong mà chị không muốn. Chị Sáu cứ xoay tròn chẳng khác con cún định rũ bỏ cái lục lạc mà lũ trẻ tinh nghịch buộc vào đuôi nó, chạy quanh đến nỗi mắt tôi nảy đom đóm, chỉ thấy những cái mông vổng lên, những bộ ngực ưỡn ra, những cái gáy trắng mịn, những bộ mặt đầy mồ hôi, những cẳng chân vụng về. Tôi đầu váng mắt hoa, tâm trí rối bời. Tiếng quát tháo của chị Cả, tiếng kêu của chị Sáu, tiếng thở của Bác-bit, những cặp mắt ngây dại của đám đông. Thái độ cười cợt của bọn lính, những cái miệng há ra, những cái cằm rung rung. Đàn dê thủng thẳng đi về nhà, đi đầu là con dê của tôi với bầu sữa lặc lè. Đàn ngựa, đàn la bóng mượt. Những con chim kêu thất thanh lượn vòng trên đầu chúng tôi, chắc chắn có trứng hoặc chim non trong đám cỏ. Cỏ mục. Những bông hoa dại bị xéo gãy cổ. Cuối cùng, chị Hai túm được áo chị Cả. Chị Cả cố giằng ra, hai tay vươn về phía Bác-bit, miệng tuôn ra những câu còn hạ lưu hơn. Chiếc áo dài đen bị rách toạc, lộ ra mảng vai và lưng. Chị Hai vọt tới trước mặt, đánh chị Cả một bạt tai. Chị Cả không giằng ra nữa, nước bọt sùi hai bên mép, mắt đờ đẫn. Chị Hai tát liên hồi, ngày càng mạnh. Chị Cả đổ máu mũi, đầu gục xuống như bông hướng dương, ngã sóng soài trên cỏ.

Chị Hai mệt mỏi ngồi thở trên bãi cỏ rất lâu. Tiếng thở chuyển thành tiếng khóc, hai tay vỗ đầu gối như đánh nhịp cho tiếng khóe của chị.

Tư Mã Khố không giấu được niềm vui trên khuôn mặt. Mắt anh ta nhìn như đóng đinh vào mảng lưng để lộ của chị Cả, thở dồn dập, hai tay cà vào quần làm như tay bị dính chất keo rửa không sạch.


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 11-7-2012 10:59 AM
3.



Lúc chạng vạng tối, tiệc rượu được cử hành sau hôn lễ, trong nhà thờ. Hơn chục bóng đèn treo dưới xà nhà, gian đại sảnh sáng như ban ngày.

Trong khu vườn nhỏ của mặt trước giáo đường, máy nổ đang chạy xình xịch, dòng điện bí ẩn phát ra từ cỗ máy chảy qua dây điện tới bóng đèn, phát ra ánh sáng dụ dỗ bọn thiêu thân. Những con thiêu thân chạm phải bóng đèn là bị chết cháy, rơi xuống đầu các sĩ quan của Chi đội Tư Mã và các nhân sĩ hương nhân của thị trấn. Tư Mã Khố mặc quân phục, mặt bóng loáng, từ ghế chủ tọa đứng dậy, đăng hắng mấy tiếng, nói to:

- Thưa anh em, thưa các vị hương thân. Hôm nay tổ chức bữa tiệc rượu này mừng lễ thành hôn của ông bạn tôn quí Bác-bit kết duyên cùng cô em Niệm Đệ của tôi. Đây là niềm vui lớn, đề nghị mọi người vỗ tay hoan nghênh.

Đám đông nhiệt liệt vỗ tay. Ngồi bên cạnh Tư Mã Khố là anh chàng thanh niên Mỹ Bác-bit mặc lễ phục trắng, túi ngực cài hoa đỏ, mặt tươi cười. Tóc hắn được thoa một lớp đầu lạc, bóng lộn như có con chó vừa thè lưỡi liếm vào đấy. Bên cạnh Bác-bit là chị Niệm Đệ. Chị mặc bộ váy màu trắng, hở cổ để lộ quá nửa cặp vú. Nước bọt tứa ra trong miệng tôi. Nhưng tôi phát hiện môi chị Tám khô như vỏ củ hành. Lúc ban ngày, lúc cử hành hôn lễ, tôi và Tư Mã Lương nâng gấu váy sau của chị Niệm Đệ như nâng cái đuôi của con gà rừng. Trên đầu chị cài hai bông nguyệt quế, mặt thoa phấn. Phấn son cũng không giấu được vẻ đắc ý và niềm vui trên mặt chị. Chị chẳng ra sao cả, Tiên Chim chết chưa nguội thây, chị đã cưới ngay người Mỹ.

Tôi rất buồn, mặc dù Bác-bit tặng tôi con dao nhọn có chuôi nhựa, nhưng tôi buồn. Đèn điện là đồ tồi, ánh sáng xuyên qua váy, nhìn rõ hai núm vú hồng hồng của chị, trở thành mục tiêu của mọi người. Tôi biết, cánh đàn ông đều nhìn vào đấy, vậy mà chúng không biết, cứ rung rinh hoài. Tôi muốn chửi, nhưng chửi ai bậy giờ? Chửi thằng khốn Bác-bit? Đêm nay chúng sẽ bị thằng khốn chiếm làm của riêng. Bàn tay nhơm nhớp mồ hôi của tôi mân mê con dao nhọn trong túi. Giả dụ tôi xông lên rạch phăng váy, cắt lấy hai bầu vú thì sự thể sẽ ra sao nhỉ? Tư Mã Khố còn mải diễn thuyết nữa không? Bác-bit còn tỏ ra xúc động nữa không? Chị Niệm Đệ còn cảm thấy hạnh phúc nữa không? Tôi sẽ giấu hai bầu vú đi, nhưng giấu ở đâu? Không ổn, lũ chuột sẽ ăn mất. Giấu ở hốc tường, lũ chuột sẽ tha đi, giấu trên chạc cây, lũ cú vọ sẽ mổ mất...

Có người khẽ chọc vào sườn tôi. Đó là Tư Mã Lương. Hắn mặc lễ phục màu trắng, tay nâng bó hoa dại rất to, tặng chị Niệm Đệ. Hắn ăn mặc y hệt tôi. Hắn bảo:
- Cậu ngồi xuống đi, chỉ mỗi cậu là đứng!

Tôi nặng nề ngồi xuống ghế băng, nhớ lại mình đứng dậy từ lúc nào và vì sao mà đứng dậy. Sa Tảo Hoa cũng mặc rất đẹp. Nó tặng chị Niệm Đệ một bó hoa dại rất to. Nhân lúc mọi người đang lắng nghe Tư Mã Khố diễn thuyết, lúc mọi người đang chú mục vào ngực chị Niệm Đệ, lúc mọi người đang ngửi mùi rượu thịt, Sa Tảo Hoa liền giơ tay nhón lấy một miếng thịt rồi giả vờ lau nước mũi, nó đút vội miếng thịt vào miệng.

Tư Mã Khố tiếp tục diễn thuyết. Anh ta nâng cốc rượu, thứ rượu vang mua tận Đại Trạch đem về, màu hồng lên trong cốc pha lê, nâng hồi lâu mà không cảm thấy mỏi. Anh ta nói:

- Ông Bác-bit là từ trên trời rơi xuống, trời rơi xuống một ông Bác-bit? Về thuật phi hành của ông, các vị đều đã được mục kích. Ông làm cho đèn phát sáng, như trên đầu chúng ta đây...

Anh ta chỉ các bóng đèn điện trên xà nhà, đám đông tạm thời rời mắt khỏi cặp vú tròn trặn đầy ma lực của chị Niệm Đệ, nhìn bóng điện sáng chói:

- Đây là diện, lấy cắp từ chỗ ông Thiên Lôi. Chi đội du kích của chúng tôi từ khi có Bác-bit, có thể nói thuận buồm xuôi gió. Bác-bit có phúc tướng, nhiều tài nghệ tuyệt vời, lát nữa ông sẽ mở rộng tầm mắt cho các vị...

Anh ta quay lại chỉ lên cái bục, xưa kia là bục giảng của mục sư Malôa, sau đó là bục giảng của cô Đường những khi lên lớp cho các nữ du kích chống Nhật, phía sau cái bục là bức tường có căng một tấm phông bằng vải trắng. Chúng tôi cảm thấy lóa mắt, không dám nhìn lâu.

- Với vị thiên tài này, chúng tôi quyết không nhả. Sau khi kháng chiến thắng lợi, chúng tôi hết sức nhiệt tình giữ Bác-bit ở lại, đây cũng là lý do vì sao tôi chủ trương gả cô em vợ đẹp hơn Tiên cho Bác-bit. Giờ đây, tôi đề nghị, để chúc mừng hạnh phúc của ông Bác-bit và cô Niệm Đệ, mọi người hãy cạn chén!...

Mọi người ào ào đứng dậy chạm cốc, ngửa cổ uống cạn.

Niệm Đệ giơ bàn tay đeo nhẫn cầm cốc rượu lên, chạm cốc với Bác-bit, rồi với Tư Mã Khố, với Chiêu Đệ. Chiêu Đệ vừa sinh con, chưa lại người, mặt nhợt nhạt, hai bên má nổi quầng đỏ. Tư Mã Khố nói:

- Cô đâu chú rể phải uống cho ra trò, đề nghị giao bôi!
Rồi hướng dẫn Bác-bit và Niệm Đệ ngoắc tay nhau mà uống hết chén rượu. Mọi người vỗ tay vui vẻ. Tiếp đó là cười nói ầm ĩ, những đôi đũa múa may, những cái miệng nhai ngấu nghiến, những giọng lè nhè, mỡ bóng nhẫy trên môi trên má. Bàn chúng tôi có tôi, Tư Mã Lương, Sa Tảo Hoa, chị Tám và mấy tiểu yêu không rõ từ đâu tới. Ngoại trừ tôi, tất cả đều ăn. Tôi không ăn, chỉ quan sát. Sa Tảo Hoa là người đầu tiên bỏ đũa, tay trái vớ lấy cái đùi gà, tay phải nhón luôn cái móng lợn, ngoạm một miếng đùi gà lại một miếng móng lợn. Tôi phát hiện ra rằng, để tập trung tinh lực, lúc nhai chúng nhắm mắt lại như chị Tám. Chị Tám hai má đỏ hây, môi mọng, còn đẹp hơn cô đâu. Nhưng tôi thấy buồn khi thấy lũ trẻ tranh nhau ăn thịt, tức là ăn xác động vật.

Chị Sáu lấy Bác-bit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói:

- Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé!

Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa. Thái độ im lặng khiến mẹ như tàu lá héo, mẹ không hỏi gì đến chuyện hôn nhân của chị Sáu, khiến chị phấp phỏng mất mấy hôm.

Lúc này tiệc rượu chuyển sang trạng thái tự nhiên, không còn chuyện bắt mối làm quen giữa bàn nọ với bàn kia, mà bàn nào biết bàn ấy, mỗi bàn là một trung tâm, rượu chảy như suối, thức ăn hết món nọ tiếp món kia, những người phục vụ mặc áo trắng chạy gằn từ bàn này sang bàn khác, cao giọng xướng tên món ăn: Đầu sư tử xào đây, chim câu rán đây, gà tần đây...
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 12-7-2012 07:57 AM
Mâm chúng tôi toàn những kiện tướng ăn bốc.

- Chân giò đây!

Một đĩa thịt giò vừa đặt xuống bàn, những bàn tay đẫy mỡ nhất tề vươn tới. Bỏng thì thổi phù phù như rắn hổ mang, nhưng không ai chịu bỏ cuộc, lại nhón tiếp. Miếng thịt rơi ra bàn, lập tức có người nhặt lên bỏ vào miệng nuốt đánh ực không chậm trễ, ứa cả nước mắt. Trong khoảnh khắc, da hết đằng da, thịt hết đằng thịt, trên đĩa chỉ còn lại vài cái xương. Cũng lại giành nhau xương để gặm sụn. Người không giành được thì ngẩn ngơ mút ngón tay. Bụng chúng căng như quả bóng, hai chân lẻo khoẻo buông thõng dưới ghế một cách thảm hại. Chúng ợ hơi, bụng lục ục như mèo gừ. Món cá quế đây, một người phục vụ bụng to chân ngắn, mặc áo đuôi tôm trắng bong, bê chiếc mâm gỗ, trên mâm là một đĩa sứ, trong đĩa sứ là một con cá lớn rán vàng. Hàng chục người phục vụ cao bằng nhau, cùng mặt áo đuôi tôm, cùng bê mâm gỗ, cùng những đĩa sứ, cùng những con cá to rán vàng, trông chẳng khác một dãy cột điện. Người phục vụ đặt đĩa cá lên bàn của chúng tôi, nháy mắt với tôi. Tôi cảm thấy người này hơi quen. Cái miệng méo, một mắt nhắm một mắt mở, mũi đầy những nếp nhăn. Cái kiểu nháy mắt này mình đã thấy ở đâu nhỉ? Phải chăng trong tiệc cưới của Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ ở đại đội bộc phá.

Con cá quế trong đĩa với những nhát khía đầy mình, rưới đầy nước sốt màu da cam, con mắt mờ **c ẩn dưới đám lá hành xanh mơn mởn, cái đuôi hình tam giác thò ra ngoài đĩa một cách thảm hại như đang run rẩy. Những ngón tay nhờn mỡ lại thò ra. Tôi không đành lòng nhìn cảnh xâu xé con cá quế, quay mặt đi.

Bác-bit và chị Niệm Đệ từ bàn chủ tọa đứng dậy, trong tay mỗi người là một cái ly chân cao đầy rượu vang đỏ, tay không cầm ly thì khoác vào nhau. Họ trông thật trang nhã, dịu dàng tiến lại bàn chúng tôi. Những ánh mắt đều dán vào con cá quế, khổ thân con cá, nó đã bị xâu xé hết một bên, lộ ra những xương dăm màu xanh nhạt. Nửa còn lại của con cá bị xâu xé chỉ trong chớp mắt. Trước mặt mỗi đứa là một mảng thịt của con cá, chẳng ra hình thù gì, bốc hơi nghi ngút. Bọn trẻ tham lam như những con cá nhỏ, lùa hết vào miệng rồi mới bắt đầu nhai. Trên đĩa chỉ còn lại cái đầu cá to sụ, một cái đuôi thanh tú, mỏng tanh, khoảng giữa là bộ xương vẫn dính liền các đốt. Chiếc khăn bàn trắng tinh đầy vết bẩn, chỉ có góc của tôi là còn sạch, một cốc rượu vang vẫn đặt ngay ngắn ở chính giữa.

- Các bạn nhỏ thân mến - Bác-bit chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, thái độ thân mật - Cùng cạn chén nào!

Vợ anh ta cũng chìa cốc rượu đến trước mặt tôi, bàn tay chị ngón cong ngón thẳng như một đóa hoa lan, chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên đóa hoa đó. Phần vú lộ ra có màu men sứ. Tim tôi đập thình thịch.
Bọn trẻ ngồi cùng bàn với tôi miệng nhét đầy cá, rối rít đứng lên. Má, mũi, thậm chí trên trán nhoe nhoét mỡ. Tư Mã Lương ngồi bên tôi vội vàng nuốt chủng miếng cá, kéo góc khăn bàn lên lau miệng. Hai bàn tay tôi trắng và thon, bộ lễ phục của tôi không một vết bẩn, mái tóc tôi vàng rực. Dạ dày tôi chưa bao giờ tiêu hóa xác chết, răng tôi chưa bao giờ nhai rau cỏ. Những ngón tay nhờn mỡ lóng ngóng câm cốc rượu chạm vào cốc rượu của Bác-bit. Chỉ có tôi đứng bên bàn mê mẩn nhìn cặp vú của chị Niêm Đệ. Hai tay tôi bám chặt mép bàn, cố gắng kìm chế để từ bỏ ý nghĩ - sờ vú chị.

Bác-bit ngạc nhiên nhìn tôi:

- Sao cậu không ăn không uống gì cả?

Chị Niệm Đệ tạm thời không làm bộ làm tịch, trở về với thái độ chị Sáu hàng ngày. Chị đưa bàn tay rảnh rỗi xoa gáy tôi, nói với anh chồng mới toanh:

- Em trai của em một nửa là thần tiên, nó không ăn mặn!

Mùi nước hoa sực nức trên người chị Sáu khiến tôi tâm thần rối loạn, tay tôi đã phản lại ý chí của tôi. Tôi chộp vào ngực chị. Cái áo lụa của chị sao mà trơn thế!

Chị Sáu kinh hoảng kêu lên, hắt ly rượu vào mặt tôi. Chị Sáu mặt đỏ như gấc. Chị vuốt lại chỗ áo bị tôi làm nhàu, khẽ mắng:

- Đồ khốn!

Rượu vang chảy trên mặt tôi, trước mắt tôi là một màu hồng trong suốt. Cặp vú chị Sáu như hai quả khí cầu màu hồng ngay trước mắt tôi, chính xác hơn là hiện ra trong óc tôi.

Tôi né tránh bàn tay hộ pháp của Bác-bit, căm hờn nhìn khuôn mặt vừa hài hước vừa xấu xa của hắn. Nỗi đau khổ trong lòng tôi không thể nói bằng lời. Cặp vú của chị Sáu, trắng mịn, được chế tác bằng ngọc thạch, bảo bối bậc nhất của thế gian, đêm nay sẽ rơi vào tay tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn sờ nắn, mặc cho hắn vầy vò. Bầu vú của chị Sáu, trắng như cục bột, chứa đầy mật ngọt, đi khắp chân trời góc biển không tìm đâu ra của quí như thế, đêm nay sẽ rơi vào miệng tên quỉ Mỹ, mặc cho hắn ngậm, mặc cho hắn mút, hắn sẽ ti cạn sữa, bầu vú chị chỉ còn là cái túi da lép kẹp. Hơn nữa, điều mà tôi không thể nén giận được, là chị Sáu lại rất tự nguyện. Này, chị Niệm Đệ, tôi lấy cọng cỏ chọc chị một cái, chị đét tôi hai cái; tôi sờ vú chị một cái, chị hắt rượu đầy mặt tôi! Vậy mà Bác-bit sờ chị, cắn chị thì chị lại tiếp nhận một cách vui vẻ! Vậy còn gì là công bằng trên đời này! Các vị là đồ bần tiện, sao không hiểu nỗi khổ tâm của tôi? Trên đời này, không ai hiểu bầu vú, yêu bầu vú, biết bảo vệ bầu vú như tôi! Vậy mà các người coi nó như một thứ giẻ rách. Tôi khóc vì tủi thân.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 12-7-2012 08:00 AM
Bác-bit nhún vai, làm xấu trên mặt một cái, khoác tay chị Niệm Đệ sang bàn khác. Người phục vụ bê đến một tô canh nổi lềnh bềnh trứng rán thái chỉ, còn có thứ gì đó mảnh như sợi tóc. Bọn trẻ cùng mâm học tập bàn bên, dùng thìa múc canh. Chúng ra sức múc phần đặc, làm canh bắn tung tóe. Chúng đưa thìa canh lên miệng, vừa thổi vừa húp từng tí một. Tư Mã Lương huých tôi một cái, bảo:

- Cậu ăn một chút đi, ngon lắm, không kém gì sữa dê!

- Không - tôi nói - tao không ăn!

- Vậy cậu ngồi xuống đi, họ đang nhìn cậu đấy! Nó lại nói.

Tôi nhìn ra xung quanh như khiêu khích, chẳng có ai nhìn tôi, Tư Mã Lương thông báo sai. Tôi trông thấy giữa các bàn đều có hơi nước bốc lên, đến gần bóng đèn thì biến thành sương mù và tan đi, bóng người mờ ảo, mùi rượu khiến tôi choáng váng. Vợ chồng Bác-bit đã trở về bàn chủ tọa. Tôi trông thấy chị Niệm Đệ ghé sát tai chị Chiêu Đệ nói gì đó. Nói gì nhỉ? Liệu có liên quan đến tôi không? Chiêu Đệ gật đầu, Niệm Đệ không ghé sát Chiêu Đệ nữa, trở lại trạng thái nghiêm trang như cũ. Chị múc một thìa canh đưa lên miệng nếm thử, rồi khoan khoái húp tiếp. Niệm Đệ mới kết bạn với Bác-bit chưa đầy một tháng mà đã như một người khác, ra vẻ dài các. Cách đây một tháng, chị còn húp cháo oàm oạp, vậy mà thay đổi nhanh thế!

Tôi nghĩ mãi mà chưa có câu trả lời. Người phục vụ đem món ăn chính đến, có sủi cảo có mì sợi loằng ngoằng như con giun đã làm tan biến cái thú ẩm thực của tôi, còn có bánh mì trắng điểm những chấm xanh đỏ. Tôi đã ngán khi phải miêu tả mọi người ăn uống ra sao, cảm thấy buồn buồn, bụng đói. Chắc là mẹ sốt ruột lắm, lại còn con dê của tôi nữa. Hỏi vì sao tôi không bỏ về, tôi định về thì không ai ngăn được, vì chỗ tôi ngồi rất gần cổng chính của nhà thờ. Nhưng vì Tư Mã Khố đã tuyên bố, tiệc xong, Bác-bit sẽ giới thiệu để mọi người biết thế nào là văn minh vật chất và văn hóa của phương Tây. Tôi biết anh ta định chiếu phim, nghe nói là những hình người biết nói, biết cử động. Đó là lời chị Hai khi mời mẹ đến dự tiệc cưới. Mẹ lại nói rằng, cách đây hai mươi năm, mẹ đã từng xem người Đức đem nó đến chiếu để quảng cáo cho phân hóa học, một loại bột trắng dựng trong bao tải xác rắn, nghe nói bón ruộng có thể tăng sản lượng lương thực nhưng không ai tin. Mùa màng là phải nhờ vào phân chuồng. Người Đức cho không phân hóa học, nhân dân đem nó đổ xuống hồ ao. Mùa hè năm ấy, sen trong hồ mọc như điên, vừa mập vừa dày đặc, nhưng hoa thì lại không có, hoặc rất ít. Rất may là dân chúng không bị lừa, người Đức đến đây định hại ta, phân hóa học chẳng qua chỉ là thứ thuốc độc, chỉ tốt lá, không ra hoa, tất nhiên làm gì có hạt.
Tiệc cưới rồi cũng kết thúc. Những người phục vụ khênh những cái sọt tới, nhặt nhạnh ào ào bát đũa mâm chén cho vào sọt. Bưng đổ đi là những mảnh vỡ. Hơn chục binh sĩ nhanh nhẹn cũng phụ giúp cuộn tròn các khăn bàn rồi đem đi. Những người phục vụ trải khăn bàn mới, bày lên rượu vang và dưa hấu, dưa chuột, lê. Lại có cà phê Braxin thơm một mùi thơm kỳ lạ mà màu sắc thì như nước nâu, hết hồ nọ đến bình kia, đếm không xuể; hết cốc nọ đến cốc kia, tính không hết. Khách khứa đã ăn no, lại ngồi xuống, dẩu môi ra mà nếm, mà thử, do dự một thoáng, rồi uống cà phê như uống thuốc bắc, nhíu mày nhăn mặt, từng người từng người, từng cốc từng cốc. Các binh sĩ khiêng đến một chiếc bàn, trên đặt cỗ máy phủ vuông vải đỏ.

Tư Mã Khố vỗ tay nói:

- Buổi chiếu phim sắp bắt đầu, anh em, hãy hoan nghênh ông Bác-bit cho chúng ta xem một môn tuyệt kỹ.

Bác-bit đứng dậy trong tiếng vỗ tay, cúi chào cử tọa rồi bước đến bên chiếc bàn kéo vuông vải ra: một cỗ máy kỳ lạ, gớm ghiếc lồ lộ trước mặt mọi người. Những ngón tay của Bác-bit thoăn thoắt trên những bánh răng lớn, bánh răng con. Bụng cỗ máy phát ra những tiếng rào rào, một luồng ánh sáng sắc như dao đột nhiên rọi thẳng lên mặt tường phía tây của nhà thờ. Mọi người vỗ tay rào rào, tiếp theo là tiếng dịch ghế ầm ầm. luồng ánh sáng trắng ấy như gắn chặt trên khuôn mặt Chúa Giêsu tạc bằng gỗ táo, khiến bức tượng thiêng liêng không còn rõ mặt mũi, chỗ hốc mắt mọc cây cỏ linh chi nhỏ xíu. Bác-bit là tín đồ trung thành đạo Cơ đốc, đòi bằng được làm lễ cưới ở nhà thờ. Ban ngày, cỏ linh chi mọc trên hốc mắt Chúa chúng kiến cuộc nhân duyên giữa Bác-bit và Niệm Đệ, ban đêm dùng linh quang của dòng điện soi mắt Chúa, khiến cỏ linh chi bốc khói trắng. Luồng ánh sáng đi chuyển xuống dưới, từ mặt xuống ngực, từ ngực xuống bụng, từ bụng xuống chỗ kín mà người Trung Quốc tạc thành một cái lá sen, cho xuống đến các đầu ngón chân. Cuối cùng, luồng sáng rọi vào chiếc phông trắng hình chữ nhật có viền đen, chui vào trong viền, dán ra một chút rồi đứng yên. Lúc này, tôi nghe tiếng máy chạy như tiếng giọt gianh khi trời mưa. Tắt đèn! Bác-bit nói to.

Một tiếng tách, các bóng đèn tắt phụt, chúng tôi đột nhiên chìm trong bóng tối, nhưng luồng sáng phát ra từ cỗ máy của Bác-bit càng sáng hơn, càng trắng hơn. Từng đám côn trùng bay trong luồng sáng đó. Một con thiêu thân bay chập choạng, trên màn ảnh, hình ảnh của nó lập tức được phóng to lên nhiều lần. Thấy đám đông hoan hô, tôi cũng buột miệng hùa theo. Đúng là tôi được xem diện ảnh rồi. Lúc này, một cái đầu nhô lên trong cột ánh sáng, đó là đầu của Tư Mã Khố. Hai vành tai anh ta trông rõ từng tia máu. Anh ta quay mặt về phía nguồn sáng nên mặt như bẹt lại, trắng nhợt như tờ giây nến. Trên màn ảnh hiện lên cái đầu mỏng dính của anh ta. Lại một trận vỗ tay, tôi cũng vỗ theo.
- Ngồi xuống, ngồi xuống! Bác-bit bực bội quát. Lúc đó, một bàn tay ló ra trong luồng sáng, cái đầu Tư Mã Khố chìm xuống. Trên tường có những tiếng lụp búp, màn ảnh nhấp nhoáng những chấm đen như là đang nổ súng. Âm nhạc vọt ra từ hai cái hộp hai bên màn ảnh, hơi giống tiếng nhị, tiếng sáo; không phải, âm thanh này bèn bẹt, dài lê thê, chẳng khác những sợi miến tòi ra từ khung vắt miến sợi.

Từng hàng chữ, to có, nhỏ có, chạy trên màn ảnh từ trên xuống dưới. Chúng tôi vỗ tay. Người ta có câu: Nước chảy về chỗ thấp. Nhưng những chữ Tây này thì ngược lại từ thấp chảy lên cao, chúng chảy ra ngoài màn hình, lên tường rồi mất hút trong bóng tối. Ngày mai, nếu phá bức trong của nhà thờ, liệu có thể moi được những chữ ấy ra không nhỉ? Tôi đang nghĩ vớ vẩn như vậy thì trên màn ảnh xuất hiện một dòng sông nước chảy ào ào, bờ sông có cây, trên cây có chim, những con chim đang nhảy nhót, kêu chiêm chiếp. Tôi há hốc miệng, ngây như phỗng quên cả vỗ tay. Sau đó xuất hiện một người đeo súng, áo mở phanh để lộ bộ ngực vạm vỡ mọc đầy lông.

Tác giả: onlypooh    Thời gian: 12-7-2012 08:01 AM
Anh ta ngậm điếu thuốc ở miệng, điếu thuốc đang tỏa khói, tất nhiên mũi anh ta phà khói thuốc ra, trời ạ, kỳ lạ thật! Một con gấu chó từ trong rừng chui ra, chạy tới vồ anh ta. Trong nhà thờ vang lên tiếng kêu thét của phụ nữ và tiếng lên cò súng rôm rốp. Một người xuất hiện trong cột ánh sáng, lại là Tư Mã Khố. Anh ta rút súng bắn con gấu chó. Nó rách nát phía trên lưng người trên màn ảnh.

- Ngồi xuống, ngồi xuống! Đồ ngu, đây là phim? Bác-bit thét to.

Sau khi Tư Mã Khố ngồi xuống, con gấu chó đã chết trên màn ảnh, máu chảy đỏ lòm trên ngực, người đi săn ngồi bên cạnh con gấu, đang nạp đạn vào súng.

- Mẹ kiếp, bắn giỏi thật! - Tư Mã Khố kêu to.

Người đi săn trên màn ảnh ngẩng đầu lên, nói một câu gì đó mà tôi nghe không hiểu, rồi anh ta cười một tiếng tỏ vẻ khinh miệt. Anh ta hất súng lên vai, đút ngón tay vào miệng huýt lên một tiếng chói tai, tiếng huýt đội lại từ các bức tường nhà thờ. Một cỗ xe ngựa men theo con đường đất dọc bờ sông chạy tới, người đánh xe rất ngổ ngáo nhưng hơi đần. Cái tay vịn trông quen quá, hình như đã trông thấy ở đâu. Một người đàn bà đứng trên thùng xe, tóc dài bay bay nhưng không rõ màu tóc, khuôn mặt rộng, lưỡng quyền cao, cặp mắt tuyệt đẹp, lông mi cong cong và cứng như râu mèo, miệng rất rộng, môi mọng. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này rất phóng đãng. Hai bầu vú nhảy tưng tung như hai con thỏ bị tóm đuôi. Chị ta phóng thẳng xe về phía tôi. Tôi bàng hoàng, môi tê tê, hai bàn tay đầy mồ hôi. Tôi đứng vụt dậy, nhưng lập tức có một bàn tay ấn đầu tôi xuống buộc tôi ngồi xuống ghế. Ngoảnh nhìn lại, đó là một người lạ, miệng mở to. Sau lưng anh ta chật ních những người là người, bịt kín cả cổng chính. Có vài người gần như đánh đu trên khung cửa. Ngoài đường tiếng người ồn ào, có rất nhiều người đang lách vào trong.
Người phụ nữ dùng xe, bám dóng xe nhảy xuống. Chị ta vén váy, để lộ bắp chân tường ngần, gọi to, chắc chắn là gọi người đàn ông kia. Gọi, chạy. Quả nhiên là gọi người đàn ông. Anh ta bỏ mặc con gấu, vứt súng, chạy về phía người phụ nữ. Mặt, mắt, miệng, răng trắng, ngực phập phồng của người phụ nữ. Mặt, lông mày rậm, mắt diều hâu, râu quai nón xanh biếc, vết sẹo bóng loáng cắt đôi lông mày và trán người đàn ông. Lại khuôn mặt người phụ nữ, lại khuôn mặt người đàn ông. Bàn chân đã đá tung giày đi của người phụ nữ. Sau đó, người phụ nữ nhào vào lòng người đàn ông. Vú chị ta bị ép bẹp. Miệng người đàn ông bịt chặt miệng người phu nữ. Rồi, miệng chị ở ngoài, miệng anh ở trong, rồi lại đôi chỗ. Hừ hừ, đó là tiếng rên của người phụ nữ. Lại còn tay của chị ta, ôm cổ ôm eo thì không nói làm gì, lại còn sờ soạng lẫn nhau, cuối cùng, hai người lăn lông lốc trên thảm cỏ xanh, lúc thì nam ở trên, lúc thì nữ ở trên, cứ thế mà lăn, được một dặm thì không lăn nữa. Bàn tay lông lá của người đàn ông thọc vào ngực áo của người đàn bà, chụp lấy một bên vú. Tôi thấy trong lòng đau nhói, những giọt nước cay xè ứa ra khỏi mắt tôi. Một tia sáng trắng, trên màn ảnh không thấy gì nữa. Tách một cái, đèn điện bật sáng, mọi người thở hồng hộc. Trong nhà thờ đầy ắp người, ngay cả trên cái bàn trước mặt tôi, cũng ngồi đầy những trẻ con cởi truồng. Bác-bit đứng bên cỗ máy như một vị thần. Bánh xe vẫn còn chạy, cuối cùng, xạch một tiếng, dùng hẳn. Tư Mã Khố nhảy dựng lên, cười lớn:

- Đ. bà nó, chưa đã, chưa đã, chiếu lại!


Tác giả: onlypooh    Thời gian: 12-7-2012 08:02 AM
4.



Tối ngày thứ tư, địa điểm chiếu phim chuyển đến chỗ sân phơi rộng lớn của nhà Tư Mã. Toàn thể sĩ quan, binh lính Chi đội Tư Mã và gia quyến của Tư lệnh đều ngồi ở vị trí danh dự, vị trí vàng. Những nhân vật tai mắt của thị trấn ở vị trí bạc, dân chúng thì đứng ở vị trí đồng hoặc sắt. Phía bên kia của màn ảnh dựng rất cao là đầm sen. Sau đầm sen, những người già yếu hoặc tàn tật đứng ngồi lố nhố. Họ xem phim trên mặt sau của màn hình, xem luôn cả những người xem phim.

Đây là một ngày lịch sử của Cao Mật. Nhớ lại, đó là một ngày không bình thường. Buổi trưa, không khí ngột ngạt, mặt trời đen lại, cá trên sông ngửa bụng lên, chim trên trời rơi thẳng đứng. Chú lính dựng cột chiếu phim bị trúng thử, ôm bụng lăn lộn dưới đất, nôn mật xanh mật vàng, đó là điều không bình thường. Hơn chục con rắn cạp nia rồng rắn kéo qua phố, đó là điều không bình thường. Những con giang trong đầm bay lên đậu trên cây đầu thôn, hết đàn nọ đến đàn kia, gãy cả cành, những đôi cánh vỗ, những cái cổ như cổ rắn, những cặp chân dài thẳng đuỗn, đó là điều không bình thường. Người khỏe nhất trong thôn là Trung Đại Đởm bê mười mấy cái trục lúa bằng đá quẳng xuống đầm, đó là điều không bình thường. Khoảng giữa chiều, một toán người lấm lem từ nơi khác tới. Họ ngồi trên đê Thuồng Luồng ăn một thứ bánh mỏng như giấy cùng với củ cải. Hỏi họ đến đây để làm gì, họ nói họ đến xem phim, hỏi họ làm sao biết có chiếu phim, họ nói tiếng lành đồn xa, đó là điều không bình thường! Mẹ phá bỏ thường lệ, kể một chuyện cười về chàng rể ngốc cho chúng tôi nghe, đó là điều không bình thường! Nước sông Thuồng Luồng đỏ như máu, đó là điều không bình thường! Lúc hoàng hôn, muỗi tập trung thành đàn như một đám mây trên sân đập lúa, đó là điều không bình thường. Lúc chạng vạng tối, ráng chiều đỏ như lửa, biến ảo thiên hình vạn trạng, đó là điều không bình thường? Những đóa hoa sen nở muộn trong đầm hiện lên như những linh vật trên trời, đó là điều không bình thường! Sữa của con dê của tôi có mùi tanh, đó là điều không bình thường!

Buổi chiều, ăn sữa xong, tôi cùng Tư Mã Lương chạy như bay đến sân phơi. Phim đã choán hết tâm trí tôi. Chúng tôi chạy ngược nắng chiều, mặt nhuốm đỏ. Những phụ nữ tay xách ghế, tay bế con, những ông già chống gậy, đều là những mục tiêu để chúng tôi vượt. Ông mù Từ Tiên Nhi có giọng hát rè rè vô cùng cảm động, sinh sống bằng nghề hát rong, tay chống cây gậy dài, lệch người mà đi rất nhanh. Bà chủ hiệu dầu ăn, người đàn bà chỉ có một vú, hỏi ông ta:

- Ông mù, đi đâu mà tất bật thế!

Ông mù đáp:

- Tôi mù, chị cũng mù sao?
Ông già Đỗ Bạch Kiểm làm nghề đánh cá, quanh năm mặc áo tơi, tay xách chiếc đôn bện bằng cỏ bồ, nói xen vào:

- Ông mù, ông thì xem phim gì?

Ông mù cả giận, chửi:

- Lão mặt trắng kia, sao dám bảo ta mù, ta nhắm mắt nhìn nhân tình thế thái đấy chứ!

Ông vung gậy quật đánh vút một cái, suýt nện gãy cẳng chân khẳng khiu của ông lão đánh cá. Ông Đỗ định quật lại một đòn, nhưng Phương-Nửa-Mặt - bị gấu liếm mất nửa mặt khi đào sâm ở núi Trường Bạch, can:

- Ông Đỗ, ông đánh nhau với ông mù chẳng hóa ra quên mất mình là ai hay sao? Là hàng xóm, tắt lửa tối đèn có nhau, bỏ qua cho nhau những chuyện vặt ở núi Trường Bạch, chưa nói đến gặp một người cùng làng, ngay cả cùng huyện cũng đã sướng lắm rồi!

Đủ các loại người kéo về sân phơi nhà Tư Mã. Hãy nghe, bên bàn ăn của các gia đình đều nói về sự nghiệp của Tư Mã Khố, trong câu chuyện của các bà các cô đều nói đến chị em nhà Thượng Quan. Chúng tôi phơi phới như cánh én, tinh thần lâng lâng, chỉ muốn phim cứ chiếu mãi.

Phía trước cỗ máy của Bác-bit là chỗ của tôi và Tư Mã Lương. Khi chúng tôi ngồi vào chỗ của mình, ráng chiều đỏ rực vẫn chưa tắt hẳn, gió đêm lành lạnh đem tới mùi tanh. Trước mặt chúng tôi còn một khoảng trống đã được khoanh lại bằng vạch vôi. Anh chàng đánh thuê Lung Hán Quốc, tay cầm cây gậy bằng gỗ ngô đồng, đuổi những người dân tràn vào vạch vôi. Miệng sặc sụa hơi rượu, kẽ răng còn dính thức ăn, mắt giương như mắt bọ ngựa, thẳng tay vụt bay chiếc nơ đỏ trên đầu cô mắt hiếng từng có quan hệ xác thịt với tay phó quan quản trị của Chi đội. Cô mặc chiếc áo lót bằng lụa của viên phó quan tặng, miệng vẫn còn mùi khói thuốc lá của viên phó quan. Cô ta vừa phủi vừa cúi nhặt chiếc nơ, thuận tay bốc một nắm cát ném giữa mặt Lưng Hán Quốc. Hán Quốc quẳng cây gậy, nhổ đất cát trong miệng ra, vừa lấy tay dụi mắt vừa chửi:

- Con hiếng, đồ giẻ rách! Tao thì đ. con gái của mẹ mày! Tao thì đ. em gái của thằng anh mày?

Triệu Giáp làm nghề bán vỏ bếp lò vốn nhanh miệng, nói khẽ:

- Lung Hán Quốc, sao anh cứ quanh co thế! Anh đ. thẳng cô hiếng không được sao?
Triệu Giáp nói chưa dứt lời, một chiếc ghế đẩu bằng gỗ hòe đã quật vào vai anh ta. Triệu Giáp kêu ối một tiếng, quay lại. Người đánh anh ta là thằng Gật, anh trai của cô hiếng. Anh ta mặt mày vàng võ, tóc rẽ giữa, đường ngôi thẳng tắp, bóng như một vết sẹo. Anh ta mặc chiếc áo ngoài màu tàn thuốc, rộng thùng thình. Tóc chải đầu bóng, mắt lươn.

- Anh ta tằng tịu với cô em ruột- Tư Mã Lương khẽ bảo tôi như vậy.

Tù đâu mà Tư Mã Lương biết được điều bí mật ấy?

- Cậu ạ bố cháu bảo ngày mai tử hình viên phó quan quản trị tài vụ - Tư Mã Lương nói khẽ.

- Vậy thằng Gật có bị bắn không? - Tôi hỏi khẽ.
Tác giả: onlypooh    Thời gian: 12-7-2012 08:04 AM
Thằng Gật từng chửi tôi là đồ con lai, tôi thù anh ta. Tư Mã Lương nói:

- Để cháu nói với bố cháu, bắn bỏ cái đồ ấy đi!

- Phải, bắn bỏ cái đồ ấy đi - tôi nói cho hả giận.

Lung Hán Quốc hai mắt ướt nhèm, vung gậy loạn xạ vì không trông thấy gì. Triệu Giáp giằng lấy chiếc ghế đẩu trong tay thằng Gật quẳng ra xa.

- Đ. em gái mày! - Anh ta chửi thẳng.

Thằng Gật giơ những móng tay như vuốt chim ưng chộp lấy cổ họng Triệu Giáp. Triệu Giáp túm lấy tóc thằng Gật. Hai người quần nhau dịch dần ra chỗ trống mà Chi đội Tư Mã để chừa ra, không ai khuyên giải được. Cô hiếng nhảy ra, định xông vào giúp anh trai, nhưng mấy lần đều đấm nhầm vào lưng thằng Gật. Cô hiếng chộp đúng thời cơ, như một con dơi lướt tới sau lưng Triệu Giáp, luồn tay dưới háng túm lấy hạ bộ của anh ta. Quan Lưu Tinh, một tay biết võ, lớn tiếng khen:

- Giỏi! Đó là miếng trẩy đào dưới lá.

Triệu Giáp rú lên, gập người lại như con tôm, chân tay mềm nhũn, mặt vàng ệnh trong cảnh nhập nhoạng tối. Cô hiếng dùng sức vặn một cái, hùng hổ:

- Định đ. kia mà, bà đang đợi mày đấy?

Triệu Giáp mềm nhũn, ngã lăn ra. Lung Hán Quốc vớ lấy cây gậy, rồi như một tướng tiên phong mở đường, bất kể trắng đen, bất kể hoàng thân quốc thích, vụt tất, rủi ai người ấy bị. Gậy vung tới tấp, già khóc trẻ kêu, người ở vòng ngoài thì len vào trong để xem, người ở trong thì chạy thoát thân ra ngoài, nhất thời người như nước lũ, dồn thành đống, vón thành cục, anh dẫm lên tôi, tôi thúc vào anh. Tôi đặc biệt chú ý khi cô hiếng bị một gậy vào mông, cô ta vội rúc vào đám đông, liền bị những người đánh hôi, những người ngứa mắt nện cho một trận tơi bời, kêu oai oái.

Đoàng, một tiếng súng nổ. Người nổ súng là Tư Mã Khố. Anh ta mặc áo choàng đen, một vệ sĩ theo sau, nối tiếp là Bác-bit và Chiêu Đệ, Niệm Đệ, giận dữ bước vào.
- Yên lặng - Một vệ sĩ hét lên - Mất trật tự thì không chiếu nữa?

Mọi người nháo nhác rồi im. Tư Mã Khố dẫn người của anh ta vào chỗ ngồi. Bầu trời chuyển sang màu tím, sắp tối mịt. Vầng trăng như lưỡi liềm, ánh sáng ảm đạm, phía tây nam có một ngôi sao rất sáng nằm trong chỗ khuyết của vầng trăng. Trung đội kỵ mã, trung đội lừa, trung đội tiện y đều đến đủ, xếp hàng đôi, ôm súng hoặc khoác súng, ngó nghiêng đám phụ nữ. Một đàn lang sói rồng rắn kéo vào. Mây đen nuốt chửng trăng sao, bóng tối trùm lên mặt đất. Côn trùng kêu thê thảm trên cây, nước cuồn cuộn trên sông.

- Phát điện! - Tư Mã Khố ở phía trúc bên trái tôi, ra lệnh. Anh ta bật lửa châm thuốc. Châm xong, vẩy một cái thật mạnh, tắt ngọn lửa.

Máy phát đặt ở ngôi nhà bỏ hoang của người đàn bà Hồi. Vài bóng đen lay dông. Một ánh đèn pin. Cuối cùng, máy nổ. Thoạt đầu, nổ to rồi nổ nhỏ, sau nổ đều. Một bóng điện phía sau đầu tôi phát sáng. Chà chà, quần chúng xúc động kêu lên. Tôi trông thấy những người phía trước đều ngoái lại nhìn ánh điện, những cặp mắt lóe sáng.

Cũng như đêm thứ nhất, một luồng ánh sáng tìm màn hình, những con thiêu thân va dập vào nhau trong cột sáng, bóng chúng to lên rất nhiều trên màn hình, các binh sĩ và dân chúng ngạc nhiên thán phục. Chỗ khác nhau so với đêm thứ nhất rất nhiều: Tư Mã Khố không nhảy dựng lên để ánh sáng xuyên qua vành tai trong suốt. Bốn bên bóng tối càng dày đặc thì ánh sáng càng chói lọi. Không khí ẩm ướt, hơi nước từ cánh đồng pha vào mặt. Gió rì rào trên ngọn cây. Tiếng chim ăn đêm lia ngang trên bầu Trời. Tiếng cá búng nước lóc bóc. Còn nữa, tiếng hắt hơi của những con lừa dưới chân đê, đó là những người ở rất xa đến. Tiếng chó sủa trong ngõ sâu. Chớp màu xanh lục ở phương nam như một tấm rèm, tiếng sấm nặng nề vọng tới sau khi tia chớp đã tắt. Chuyến tàu hỏa chở đầy pháo đạn chạy ầm ầm qua cầu Thuồng Luồng, tiếng bánh sắt đập vào đường ray hòa quyện với tiếng máy chiếu phim. Điều khác biệt lớn nhất là tôi không còn hứng thú với những hình ảnh trên màn hình. Buổi chiều, Tư Mã Lương nói nhỏ với tôi:

- Cậu này, bố cháu vừa mua một phim mói từ Thanh Đảo về, toàn là phụ nữ trần truồng.

- Bịa? - tôi nói.

- Thật mà, chú Đỗ nói vậy, đội trưởng đội Tiện y cưỡi mô tô đi lấy, lát nữa là đem về.
Kết quả là bịp, Tư Mã Lương nói không đúng. Tôi véo đùi hắn.

- Cháu không bịp cậu đâu, có lẽ chiếu phim cũ trước phim mới sau. Ta hãy đợi xem!

Tôi đã biết con gấu bị đạn như thế nào, cũng đã biết người đi săn và cô gái lăn lộn như thế nào, chỉ cần nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra tất cả. Thế là tôi đưa mắt dò xét tình hình phía trước và những người xung quanh.

Chiêu Đệ sau khi đẻ xong còn yếu, chị mặc chiếc áo khoác bằng dạ xanh hoa trắng, ngồi ghế thái sư màu tía dành riêng eho chị. Bên trái là Tư lệnh Tư Mã Khố, anh ta cũng ngồi ghế thái sư, áo khoác ngoài vắt trên thành ghế. Bên trái anh ta là Niệm Đệ, ngồi trên chiếc ghế mây. Chị mặc váy trắng không phải chiếc váy có đuôi dài. Chiếc này này cổ cao, dán chặt vào người. Thoạt tiên chị ngồi thẳng, cổ cũng duỗi thẳng. Cái đầu to của Tư Mã Khố ngoảnh sang bên phải làm như ngẫu nhiên, nói thầm gì đó vào tai Chiêu Đệ. Khi người đi săn trên màn hình hút thuốc, chị Chiêu Đệ đã mỏi cổ, lưng cũng mỏi, người chị lún sâu trong ghế, tôi thoáng thấy viên ngọc phỉ thúy long lanh trên đầu chị, thoáng ngửi thấy mùi long não trên quần áo chị, nghe rõ tiếng thở đều đều của chị.





Chào mừng ghé thăm Kites (https://forum.kites.vn/) Powered by Discuz! X3