|
Chapter 2 – The door to outer space
Giữa tháng 4, thời tiết bắt đầu nóng dần lên. Cứ chiều về đến nhà, việc đầu tiên tôi làm là mở cánh cửa kính thông ra sân để gió lùa vào nhà, thổi bay không khí tù đọng.
Ở trên cao cũng thích, mở cửa thoải mái mà không lo ruồi nhặng lao vào trong và ít bụi nữa. Tuy không phải là người ở dơ, nhưng tôi chưa bao giờ tìm thấy hứng thú trong việc kéo lê chiếc máy hút bụi quanh nhà thế nên ở đâu càng lâu phải dọn dẹp, càng tốt. Bây giờ tôi cũng thấy ở một mình thì ít phải dọn dẹp hơn. Lúc trước ở cùng với Min Soo, suốt ngày tôi thấy phát kinh lên vì những đôi tất dúm dó và bốc mùi mà nó nhồi ở bất kỳ góc nào trong nhà. Nghĩ đến đứa con của nó, tôi lại tự hỏi không biết tính xấu đó có di truyền không nhỉ?
Ngày mới về Hàn Quốc, tôi ở nhờ nhà một người họ hàng xa lắc xa lơ đến nỗi tôi không biết phải tả lại mối quan hệ đó thế nào. Nhưng vì lúc đó Hàn Quốc có quá nhiều điều mới mẻ, hay ho mà tôi muốn khám phá nên tôi ở ngoài đường nhiều hơn ở nhà khiến người họ hàng của tôi không hài lòng. Sau hai tháng tôi dọn ra ngoài. Tôi đã ở rất nhiều kiểu nhà vòng quanh Seoul này, từ khu ổ chuột đến các biệt thự sang trọng tuỳ vào túi tiền và sự quen biết ở từng thời điểm. Sau một năm đầu chán cảnh nay đây, mai đó, và đã có được một nhóm bạn thân thiết, tôi quyết định ở chung nhà với Min Soo. Ngoài những đôi tất bốc mùi, Min Soo là người rất dễ tính. Tôi đi sớm, về muộn, nó chẳng bao giờ thắc mắc. Tôi ‘cầm nhầm’ bữa trưa mà nó vừa kỳ cạch chuẩn bị tối hôm trước, nó chẳng hề cằn nhằn. Tôi nghe nhạc to điếc tai, nó cũng không ý kiến gì. Tuy nói sống chung nhưng mọi thứ vẫn theo ý của tôi. Vì vậy tôi thấy hơi tội lỗi khi chẳng thấy nhớ nhung gì thằng bạn sau khi dọn đến nhà mới.
Ở trên cao cũng yên tĩnh nữa. Tiếng ô tô dưới đường chỉ nghe rì rì bé tí. Tiếng ồn duy nhất là tiếng nhạc từ bên nhà của em. Tôi thấy em chỉ nghe hai loại nhạc, một là nhạc rock, hai là classic và new age instrumental. Có lần em hỏi tôi có thấy phiền khi em bật nhạc to không và thật may là tôi cũng rất thích hai loại tiếng ồn này nên không thấy khó chịu gì. Tôi thích nhạc và đã nghe thì muốn bật hết cỡ để có thể nghe hết các loại nhạc cụ và âm điệu. Nhưng vì chưa tìm mua được một dàn âm thanh ưng ý cho nhà mới nên mỗi lần thấy em bật nhạc tôi lại ra sân ngồi nghe ké. Có hôm em chỉ nghe new age, có hôm lại lựa toàn classic, có hôm thấy một loạt các bài rock ballad, có hôm lại rung cả tường với punk, có hôm thì loạn cào cào đang yên ả bỗng đập uỳnh uỳnh.
Hôm nay, tôi vừa định ra sân ngồi nghe đĩa của Kings of Leon mà em vừa bật lên thì có tiếng chuông cửa. Ai có nhu cầu bấm chuông nhà tôi thế nhỉ?
…
Thêm một ngày cuối tuần, khi tôi đang lúi húi lau chùi các phòng thì chuông cửa kêu kính coong. Một người đàn ông trung niên trong bộ đồng phục xanh tím than thêu logo của toà nhà trên ngực, đưa cho tôi một tờ giấy toàn tiếng Hàn Quốc, và nói thêm một tràng dài. Khi thấy tôi cười ngô nghê rồi xoay ngang, xoay dọc tờ giấy, ông vỗ trán nhận ra tôi chả hiểu mô tê gì. Người đàn ông giơ tay kêu tôi chờ rồi bấm chuông nhà Philip.
Hoá ra toà nhà sắp sửa sang gì đó trên sân thượng và muốn thông báo cho chúng tôi biết là sẽ có thể có tiếng ồn trong vòng 1,2 tuần tới.
‘Ông ấy nói họ sẽ hạn chế tối đa và không làm vào buổi tối,’ Philip phiên dịch cho tôi hiểu.
Người đàn ông xem chừng chưa yên tâm, vẫy tôi và Philip đi theo mình. Ông dẫn chúng tôi ra phía hành lang gần lỗ vứt rác, nói thêm vài câu gì nữa.
‘Các người thợ sửa chữa sẽ không đi thang máy đằng kia,’ Philip vừa dịch lại vừa chỉ ra cái thang máy mà chúng tôi hay đi. ‘Họ sẽ dùng thang đưa hàng riêng của toà nhà, và đi thẳng lên sân thượng theo lối này,’ Philip chỉ vào cánh cửa đằng sau lưng người đàn ông.
Khi thấy tôi có vẻ thủng thông tin, người đàn ông gật đầu lia lịa cảm ơn Philip rồi vội vàng quay ra bấm mã số trên cánh cửa lên sân thượng mà không hề biết tôi đang nhìn chòng chọc vào ngón tay bấm số của mình.
…
...
Suốt hai tuần liền tôi kiên nhẫn đợi những người thợ sửa chữa kết thúc công việc của mình. Tối hôm qua khi đi vứt rác tôi đã thấy những tấm bạt lót từ thang máy đưa hàng đến cửa lên sân thượng đã được gỡ bỏ. Điều đó chứng tỏ họ đã làm xong công việc của mình. Vậy nên tối nay, sau khi tắm táp xong, tôi mở tủ lạnh lấy một chai bia rồi bắt đầu cuộc thám hiểm của mình.
7308. Tôi vừa bấm mã số đã nhìn lỏm được của người đàn ông hôm trước, vừa liếc ngang dọc đề phòng. Tạch. Tiếng khoá cửa bật mở làm tôi búng tay khoái trá. Tôi mở cửa, thò đầu vào nhìn hàng cầu thang dẫn lên sân thượng. Shit! Tôi thất vọng khi thấy ngay trên cầu thang có thêm một cánh cửa nữa. Nhưng chai bia lạnh trong tay khiến tôi tiến lại gần cánh cửa thứ hai, gõ đại mã số duy nhất mà tôi biết. Tạch. Khoá cửa bật mở. Cool! Gook lucks on my side today. Tôi mở cánh cửa thứ hai và bước ra sân thượng.
Chai bia suýt nữa rớt khỏi tay khi tôi nhìn thấy ngay giữa sân thượng, trên một bục xi măng, em đã ngồi vắt vẻo ở đó từ khi nào, hai chân đong đưa, mặt ngửa nhìn trời, môi chu lên như đang huýt sáo, mỗi tội tôi chả nghe ra tiếng nhạc.
…
Akakakaka… Tôi có riêng một cái sân thượng cho mình để nhìn trời, nhìn mây, nhìn trăng, nhìn sao và nhìn ra sông Hàn. Khi chọn căn hộ này, tôi đã lên kế hoạch đi bộ dọc sông Hàn vào cuối tuần. Nhưng để ra đến sông Hàn, tôi phải băng qua một vườn hoa và một con đường với 6 làn xe. Còn cái sân thượng này chỉ cách nhà tôi đúng một dãy hành lang và 12 bậc thang. Tôi sung sướng đi vài vòng xem xét khắp nơi, rồi lựa một cái bục, nhảy lên ngồi. Trời Seoul đầu hè, sao đã khá nhiều, trăng hôm nay chưa đầy nhưng sáng trong. Khi nào trăng tròn hẳn tôi sẽ phải kiểm tra xem có cây đa và chú cuội giống như ở Việt Nam không.
‘Fly me to the moon and let me play among those stars. Let me see what spring is like on Jupiter and Mars…’
Đang chu môi huýt sáo theo bài nhạc ưa thích, tôi nhận ra có ai đó đang đứng lù lù phía cửa ra cầu thang. Theo phản xạ, tôi nhảy phụp khỏi bục, tìm chỗ trốn.
…
Tôi phì cười khi thấy em hốt hoảng nhảy khỏi cái bục, nhìn dáo dác xung quanh, chắc định tìm chỗ nấp. Nhưng khi nhận ra tôi, em liền nhe răng cười và trong nháy mắt đã lấy lại bình tĩnh, lại leo bục ngồi.
‘May I?’ tôi lịch sự chỉ tay đến chỗ cạnh em, hỏi.
‘Make yourself at home,’ em cũng làm bộ lịch sự đưa tay ra mời.
Tôi mở nắp chai bia rồi giơ sang phía em. Em lắc đầu từ chối. Tôi tu một ngụm rồi thở dài. Em ngạc nhiên nhìn sang.
‘Tôi đã tưởng mình là Sir Edmund Hillary cơ đấy,’ tôi nói.
Em phá lên cười.
‘Đừng lo. Anh vẫn là người đầu tiên lên đây với một chai bia,’ em an ủi.
Tôi nheo mắt nhìn cô gái đang ngồi cạnh mình. Chắc em nghĩ tôi vẫn chưa hài lòng nên hào phóng nói tiếp,
‘And it’s alright to carve your name next to mine.’
Rồi em đưa tay vẽ lên không khí. ‘The first Vietnamese female explorer, Izzy and the first Korean male explorer, Philip and the first beer bottle,…’ em ngó sang chai bia của tôi, ‘…Heiniken have found and claimed their righst to this building top at … well… whatever time now from today’
Tôi giơ tay lên, đập tay với em.
‘Vietnamese?’ tôi hạ chai bia đang nâng lên nửa chừng.
‘Vietnamese,’em đáp lại, mắt lại nhìn lên trời, không thèm để ý đến vẻ mặt ngạc nhiên của tôi.
“But your English…’
‘Aussie,’ em đoán được thắc mắc của tôi nên trả lời luôn.
Thảo nào. Người ta nhận xét người Australia nói tiếng Anh như một kẻ lười nhưng tôi lại thấy giọng của em ngộ ngộ, nhẹ như gió lướt trên câu chữ.
…
Khi Philip ngồi xuống bên cạnh tôi, tuy gió đêm đang thổi lồng lộng trên sân thượng, tôi vẫn cảm thấy một làn hơi ấm toả ra từ Philip rồi chạm vào cánh tay tôi đang chống trên bục xi măng. Một cảm giác vui vẻ theo làn hơi ấm đó tràn sang tôi khiến tôi nói nhiều hơn dự tính. Ngay sau đó, tôi lập tức điều chỉnh, không nói nữa và hướng sự quan tâm trở lại trăng và sao. Nhưng hình như Philip không lấy đó làm phiền, co chân lên ôm gối, im lặng uống bia và nhìn ngáo ngơ lên trời cùng tôi. Điều đó lại làm tôi mỉm cười trong lòng. Tôi rất ghét đàn ông nói nhiều.
Tôi chẳng nhớ là hai chúng tôi đã ngồi bao lâu trên sân thượng, chỉ nhớ đến lúc mắt tôi díp lại thì Philip cũng ngáp sái quai hàm. Chúng tôi cùng đi xuống, vừa đi vừa nghe ngóng xem có ai vô tình lên kiểm tra vào giờ này không, rồi uể oải chào tạm biệt nhau trước cửa nhà.
…
...
Từ hôm đó, sân thượng trở thành đỉnh Everest của tôi và em. Sân thượng không có đèn nhưng vì mùa hè trời ban đêm rất trong và có trăng, cộng thêm ánh sáng từ những tấm biển quảng cáo ở những toà nhà cao tầng xung quanh vừa đủ để tôi và em có thể nhìn thấy mặt nhau, nhưng không quá sáng để làm mất đi sự mờ ảo của bóng tối. Sau vài lần đầu vẫn còn cảnh giác vì sợ có người lên kiểm tra bất chợt nhưng tuyệt nhiên không thấy ai, tôi và em chả còn e ngại gì nữa. Sân thượng rất rộng, nhưng ba bề đều nhìn sang các toà nhà lân cận vì thế điểm đắc địa cuối cùng được cả tôi và em lựa chọn chính là cái bục xi măng mà tôi nhìn thấy em ngồi vắt vẻo trên đó vào lần đầu tiên vì ngồi đấy sẽ có thể nhìn hết tầm mắt ra quang cảnh đằng trước
Tối nay em không ngồi mà đứng kiễng chân trên cái bục, hai mắt nheo lại cố xem có thể nhìn được bao xa trong màn đêm. ‘Chính ra họ phải lắp CCTV theo dõi chứ nhỉ?’
Tôi không hiểu nên hỏi lại: ‘Theo dõi cái gì?’
‘Theo dõi xem ai lên sân thượng,’ em giải thích.
‘Vậy để mai tôi kiến nghị với toà nhà nhé.’
Em ngồi thụp xuống cạnh tôi, giọng rất nghiêm trọng: ‘Nhỡ xảy ra trộm cắp hay giết người thì sao?’
Tôi cũng gật gù đồng tình. ‘Ừ nhỉ. Sao lại tắc trách thế. Đúng là phải kiến nghị lắp CCTV ngay lập tức. Một camera ở hành lang chĩa thẳng về phía cánh cửa, thêm một cái chĩa thẳng đến cái bục này.’
Tôi và em nhìn nhau rồi phá lên cười. Tôi thấy ở sảnh toà nhà và trong garage có lắp rất nhiều camera, trong thang máy cũng có một cái nhưng không hiểu sao dọc hành lang lại không thấy có. Dù vì bất kỳ lý do dớ dẩn nào mà toà nhà không lắp camera ở tầng 19 cũng không làm tôi bất bình trong trường hợp này.
‘Cô có gì vui à?’ tôi hỏi khi thấy em ngồi đong đưa chân, cười một mình.
‘Anh là hàng xóm đầu tiên của tôi đấy. Hàng xóm theo nghĩa có nói chuyện thường xuyên.’
‘Lúc đầu tôi cũng thấy cô khó gần nhưng vì chẳng còn lựa chọn nào khác. Giống như con mực này vậy. Chắc do ngày xưa chưa có chewing gum nên người ta mới nhai thứ cao su từ biển này,’ vừa nói tôi vừa trệu trạo nhai nửa con khô mực mà em nướng sẵn từ dưới nhà. Từ khi về Hàn Quốc, tôi bắt đầu tập ăn những thứ quá cứng, quá dai, quá xương xẩu và thậm chí tưởng như chẳng ăn được.
‘Anh đã bao giờ ăn mực tươi mới bắt từ biển lên chưa?’ em mơ màng hỏi. ‘Mực vừa câu được, bỏ luôn vào nồi nước sôi, nhưng đừng để lâu quá, chỉ vừa đủ để hơn săn lại là vớt lên luôn rồi chấm với tương ớt, ăn nóng. Woah! Sau đó anh sẽ chẳng còn muốn ăn những con mực chết nhớt, nằm thẳng đuột, tái nhợt trên khay đá ngoài chợ nữa.’
‘Ăn món mực đó ở đâu?’
‘Halong Bay. North of Vietnam. Thuê một cái thuyền, đi loanh quanh trong vịnh, thỉnh thoảng ghé vào một trại nuôi hải sản ngay trên biển. Họ có đủ các loại tôm, cua, ốc, bề bề, mực và sò. Tôm thì hấp nước dừa. Cua có thể rang muối. Ốc và sò thì nướng than …’
Tôi chưa nghe đến các món đó bao giờ nhưng nghe giọng kể hào hứng của em, tôi nuốt nước bọt vì thèm. Đấy cũng là lần đầu tiên tôi phát hiện ra niềm đam mê ăn uống của em. Mỗi khi động đến con gì, hay cây gì, hay loại quả gì có thể chế biến thành món ăn được là em đã có sẵn trong đầu vài loại công thức. Và cách em tả món ăn đó sẽ khiến người nghe muốn được thưởng thức ngay lập tức.
‘Có chứ,’ em cao giọng trả lời khi tôi hỏi thế có gì mà em không ăn không. ‘Tôi không ăn thịt chó, thịt mèo, thịt chuột, các loại sâu bọ và côn trùng, cá voi và các loại động vật hoang dã.’
‘Động vật hoang dã thì cũng là động vật giống con gà, con vịt. Chỉ khác một con được người nuôi, một con sống ngoài tự nhiên.’ Tôi cố tình thách thức để xem em phản ứng thế nào.
‘Tổ tiên của chúng ta rất thông minh, đã lựa chọn ra cho chúng ta 5 loại thịt ngon nhất là lợn, bò, cừu, gà và vịt. Tôi đã hỏi những người đã ăn thịt gấu, thịt voi hay mấy con chui rúc trong rừng là họ thấy mùi vị thế nào. Tất cả bọn họ đều nói ăn là vì tò mò chứ đâu thấy ngon lành tuyệt vời gì đâu. Để ăn được hàng ngày vẫn phải là lợn, bò, cừu, gà và vịt.’ Nói đến mỗi tên một loài vật em lại giơ một ngón tay lên minh hoạ.
Tôi vẫn không buông tha. ‘Còn cá voi?’
‘Anh đã xem cảnh người Nhật đánh bắt cá voi chưa? Họ dùng một lưỡi câu khổng lồ bắn vào con vật rồi kéo lê nó đi hàng trăm km trên biển. Con cá voi rống lên, giãy dụa và để lại một vệt máu loang theo dòng nước. Nó đau đớn chết dần, chết mòn vì mất máu.’
Tôi đã thấy cảnh đó trên CNN một lần. Đúng là khiến người xem nhăn mặt, quay đi. Tôi cũng không bao giờ có ý định ăn thịt cá voi. |
|