|
Chương 92
Tôi đã có một phát kiến thực vật học đặc biệt. Nhiều người sẽ không tin đoạn sắp kể này. Nhưng tôi vẫn phải kể, vì nó là một phần của cả câu chuyện và nó đã thực sự xảy ra với tôi.
Tôi đã nằm nghiêng một bên. Lúc đó khoảng một hai giờ trưa gì đó vào một ngày im ắng, nắng và gió nhẹ. Tôi vừa ngủ một giấc ngắn, một giấc ngủ lãng toẹt chẳng yên mà cũng chẳng có mộng mị gì. Tôi xoay người đổi bên, gắng làm nhẹ nhàng để khỏi mất sức. Tôi mở mắt.
Tôi nhìn thấy cây cối ở gần. Tôi không phản ứng gì, tin chắc đó chỉ là ảo giác và chỉ vài cái chớp mắt nó sẽ tan đi.
Những cái cây vẫn còn đó. Và thực tế là chúng đã mọc lên thành cả một khu rừng. Chúng là một phần của một hòn đảo thấp trên mặt biển. Tôi nhỏm dậy, tiếp tục không tin vào mắt mình. Nhưng thật phấn khích khi có một ảo giác chất lượng như thế, những cái cây thật đẹp. Không giống bất kì thứ cây nào tôi đã từng thấy. Chúng có một thứ vỏ nhạt màu, những nhánh xoè đều đặn và cành lá thật xum xuê. Lá của chúng xanh biếc đến loá mắt, một màu xanh rực rỡ như ngọc đến nỗi cây cỏ nhiệt đới vào mùa ở bên cạnh chúng cũng chỉ thành màu ô lưu xỉn mà thôi.
Tôi nhìn xuống. Và vừa thoả mãn vừa bất mãn với những gì tôi thấy. Hòn đảo không có đất. Mà đám cây cũng không mọc trên mặt nước. Chúng mọc trên cái gì đó có vẻ như là một khối tảo mộc dày đặc, cũng xanh biếc như cành lá của chúng. Ai đã từng nghe chuyện đảo không có đất? Với cây cối mọc trên thảo mộc thuần túy? Tôi thấy thoả mãn vì hiện tượng địa lí ấy đã khẳng định tôi đúng, rằng hòn đảo chỉ là một huyễn hoặc, một trò đùa của trí khôn. Cũng chính hiện tượng đó làm tôi bất mãn bởi một hòn đảo, bất kì hòn đảo nào, dù lạ đến đâu, đáng nhẽ cũng phải cho người ta bước lên mới phải.
Vì đám cây vẫn sừng sững ở đó, nên tôi vẫn tiếp tục nhìn. Màu xanh của lá cây, toàn những xanh da trời và nước biển, giống như một thứ âm nhạc trong mắt tôi. Xanh lá cây là một màu đáng yêu. Đó là màu của đạo Hồi. Đó là màu tôi ưa thích nhất.
Nước ròng nhẹ nhàng đẩy chiếc xuồng vào gần ảo ảnh của tôi hơn. Bờ đảo không thể gọi là bờ được. Không cát, không sỏi, không có sóng vỗ dào dạt, vì những con sóng lan vào đó cứ thế tan biến đi trong cái xôm xốp của hòn đảo. Từ một đỉnh gò trong đảo cách mép nước chừng ba trăm thước, hòn đảo thoải dần xuống biển, và chừng bốn mươi thước dưới mặt nước,nó đột ngột hẫng xuống và biến mất vào những tầng sâu của Thái Bình Dương, chắc chắn là một thềm lục địa nhỏ nhất được con người biết đến.
Tôi đã đang quen dần với ảo giác. Để chúng khỏi biến đi, tôi tránh không làm cái gì căng thẳng. Khi chiếc xuồng chạm phải hòn đảo, tôi ngồi im không cử động, chỉ tiếp tục mơ. Chất tạo nên hòn đảo này có vẻ là một khối rong biển hình ống đan dệt chằng chịt rất chặt với nhau. Những cây rong chỉ to không quá hai ngón tay. Thật là kì diệu.
Mấy phút trôi qua, tôi bò lên mép xuồng. Cuốn cẩm nang đã viết: "Hãy tìm kiếm cây xanh". Phải rồi, cây xanh đây chứ đâu. Quả thực, đó là một thiên đàng xanh biếc. Một thứ xanh lá cây chói lọi hơn cả các loại phẩm nhuộm thức ăn và đèn nêon. Một thứ xanh lá cây khiến người ta phát say lên được. Cẩm nang cũng viết: "Chỉ có đặt chân lên được rồi mới chắc rằng ta đã lên đất liền." Phải làm theo mới được. Hòn đảo gần có thể đặt chân lên được rồi. Muốn biết chắc - để rồi thất vọng – hay không cần biết chắc, đó là vấn đề.
Tôi quyết định cần phải biết chắc. Tôi nhìn quanh xem có cá mập không. Không có. Tôi quay người nằm sấp, rồi bám chắc lấy tấm bạt, rồi từ từ thò một chân xuống. Bàn chân tôi thò xuống nước biển. Mát lạnh. Hòn đảo nằm sâu hơn chút nữa, sáng long lanh dưới nước. Tôi duỗi người. Tôi chờ đợi cái bong bóng ảo giác của mình sẽ vỡ tan bất kì lúc nào.
Nó không vỡ. Bàn chân tôi ngập xuống nước trong vắt và bị cản lại bởi cái gì đó vừa mềm dẻo vừa chắc chắn. Tôi đè người xuống tí nữa. Ảo giác vẫn không biến đi. Tôi đứng hẳn lên một cái chân đó. Mà vẫn không chìm. Mà tôi vẫn không tin.
Cuối cùng, tôi biết chắc mình đã ở trên đảo lại nhờ vào thính giác. Nó xộc vào mũi tôi, tràn đầy và tươi mát, choáng ngợp: mùi cây cỏ. Tôi há hốc mồm. Sau hàng tháng trời chỉ ngửi mùi của những thứ đã bị nước biển tẩy đến thếch thác, cái mùi cây cỏ hữu cơ nồng nàn làm tôi say ngất. Đó là lúc tôi tin mình đang đứng trên đảo, và thứ duy nhất bị chìm nghỉm là trí khôn của chính tôi; tôi không còn nghĩ ngợi mạch lạc được nữa. Chân tôi bắt đầu run lên.
"Lạy chúa! Lạy chúa!" Tôi rền rĩ.
Tôi ngã ra khỏi xuống.
Cú choáng kết hợp bởi đất rắn chắc dưới chân và nước biển mát lạnh đã cho tôi đủ sức đứng lên và bước vào trong hòn đảo. tôi líu lo những lời cảm tạ Thượng đế không đầu không đuôi và ngã vật xuống.
Nhưng tôi không thể nằm im. Lòng tôi quá hưng phấn. Tôi muốn đứng dậy. máu như chạy ào ra khỏi đầu tôi. Mặt đất lắc mạnh. Tôi quáng mắt đến chóng mặt. Tôi tưởng mình sắp ngất. Tôi trấn tĩnh lại. Chỉ còn đủ sức thở dốc. Thế mà tôi vẫn ngồi dậy được.
"Richard Parker! Đất liền! đất liền! đất liền! chúng ta sống rồi!" Tôi hét to.
Mùi cây cỏ nồng nặc khác thường. còn màu xanh, nó tươi mát và mượt mà đến mức mà sức khoẻ và cảm giác thư giãn như đang thực sự tràn vào cơ thể tôi qua hai con mắt.
Thứ rong biển tròn lạ lùng và đan nhau chằng chịt này là loại gì vậy? Nó có ăn được không? Nó có vẻ là một loại tảo biển, nhưng rất chắc, cứng hơn nhiều loại tảo thông thường. cảm giác về nó khi ở trên tay vừa ướt vừa có vẻ giòn giòn. Tôi kéo thử. Những sợi rong đó đứt ra không mấy khó khăn. Nhìn đoạn rong đứt rời, thấy nó cấu tạo bằng hai lớp vỏ tròn đồng tâm: lớp ngoài ướt và hơi nham nhám, xanh rực, còn lớp trong lơ lửng ở quãng giữa lớp ngoài và lõi. Cái ống trong màu trắng. cái ống ngoài có màu xanh lá cây giảm dần từ ngoài vào trong. Tôi đưa một sợi lên mũi. Ngoài hương vị thảo mộc, nó còn có một mùi trung tính. Tôi liếm. Tim tôi rộn lên. Sợi tảo sũng toàn nước ngọt.
Tôi ngoạm lấy nó. Răng miệng tôi phát choáng. Cái lõi mặn chát, nhưng lớp ống bên ngoài thì không những ăn được, mà còn ngon tuyệt trần. lưỡi tôi bắt đầu rung lên như thể nó là một ngón tay đang giở từng trang cuốn từ điển để tìm một từ đã bị quên lãng từ lâu. Nó đây rồi. Tôi nhắm nghiền mắt và khoái trá nghe thấy từ đó: ngọt ngào. Không phải theo nghĩa ngon lành mà thôi, mà còn theo nghĩa có chất đường thực sự. Rùa với cá là nhiều thứ, nhưng chúng không bao giờ có đường. Sợi tảo có một vị nhè nhẹ còn khoan khoái hơn cả vị siro làm từ nhựa cây thích ở Canada. Cái gần nhất tôi có thể so sánh với nó là vị ngọt của hạt dẻ nước.
Nước ngọt ứa ra ào ạt qua lần khô quánh trong miệng tôi. Khoan khoái quơ tay ầm ĩ, tôi dứt những bó tảo xung quanh mình. Lần lõi và lần vỏ của chúng tách ra được dễ dàng. Tôi bắt đầu tọng những đoạn vỏ ngoài vào mồm. Tôi tọng bằng cả hai tay, nhồi nhét và bắt cái miệng làm việc khoẻ và nhanh hơn rất nhiều so với suốt một thời gian dài. Tôi dứt tảo ăn cho đến lúc xung quanh tôi chỉ còn là một cái hào nước.
Một cái cây đứng đơn độc cách tôi chừng sáu mươi thước. nó là cái cây duy nhất mọc bên dưới rặng đồi trông có vẻ còn rất xa. Tôi nói là rặng đồi hoặc gò. Chứ đó có thể gây nhiều hiểu nhầm về độ dốc của đảo. Tôi đã nói rằng đây là hòn đảo thấp trên biển. Nó dốc thoai thoải từ biển lên, cho đến chỗ cao nhất khoảng mười lăm hai mươi thước gì đó. Nhưng trong tình trạng của tôi lúc bấy giờ, độ cao sừng sững như một quả núi. Cái cây kia như có vẻ mời chào tôi, tôi để ý đến khoảng bóng râm của nó. Tôi lại cố đứng dậy. Tôi loay hoay vào được một tư thế ngồi xổm, nhưng khi định đứng lên, đầu tôi quay cuồng và tôi không thể giữ được thăng bằng. Ngay cả nếu không ngã, thì hai chân tôi cũng chẳng còn tí sức lực nào. Nhưng tôi quyết chí phải tiến tới. Tôi bò, lê lết, lổm ngổm về phía cái cây.
Tôi biết mình sẽ không bao giờ biết được một niềm vui nào lớn lao hơn lúc tôi đã bò vào được chỗ bóng mát râm của cái cây và nghe thấy âm thanh khô giòn của gió trong đám lá xào xạc trên đầu. Cái cây không to và cao như những cái cây khác sâu hơn trong đảo, và có thể do phải chịu nhiều mưa gió hơn vì mọc ở phía bên này của rặng đồi, nó hơi tả tơi một chút và cành lá không được tròn trịa đầy đặn như chúng bạn. Nhưng nó là một cái cây và một cái cây là cái gì đó đầy ân điển để cho ta nhìn ngắm sau một thời gian dài lạc lõng cô đơn trên biển cả. tôi hát lời ngợi ca sự vinh hiển của cái cây, ngợi ca sự chắc chắn của nó, sự tinh khiết không vội vàng và vẻ đẹp từ tốn của nó. Chao ôi, giá mà tôi được như nó, bắt rễ xuống đất nhưng tất cả tay tôi lại dâng lên để ngợi ca Thượng đế! Tôi khóc.
Trong lúc lòng tôi vui mừng ngợi ca đức Allah, tâm trí tôi bắt đầu thu thập thông tin về những việc làm của Người. Cái cây đúng là mọc lên trực tiếp từ đám tảo, như tôi đã nhìn thấy thế từ lúc còn trên xuồng. Không có một dấu vết gì của đất. Hoặc giả có đất ở rất sâu bên dưới, nếu không thì loài cây này là một ví dụ kí sinh khác thường. Thân nó to ngang với thân người. vỏ có màu xanh lá cây xám, mỏng và mướt, mềm đến mức có thể lấy móng tay vạch vào nó dễ dàng. Những cái lá hình tim to và rộng bản, có một đầu nhọn. Ngọn cây có dạng tròn đều đáng yêu của một cây xoài, nhưng nó không phải xoài. Tôi nghĩ nó có mùi giống như sen, nhưng không phải sen. Cũng không phải chàm. Không phải bất kì một cây gì mà tôi đã thấy từ trước. Chỉ biết nó thật đẹp, thật xanh, thật xum xuê.
Nghe tiếng gầm gừ, tôi quay lại. Richard Parker đang quan sát tôi từ trên xuồng. Nó cũng đang nhìn hòn đảo. có vẻ như nó muốn lên bờ nhưng còn sợ. cuối cùng, sau nhiều gầm gừ và đi đi lại lại, nó nhảy khỏi xuồng. Tôi đưa cái còi lên miệng nhưng nó không hề có ý định tấn công. Chỉ giữ thăng bằng thôi cũng đã khó rồi; nó loạng choạng chẳng khác gì tôi. Nó bò sát người xuống đất, tứ chi run rẩy, như một con hổ mới đẻ. Tránh tôi một quãng xa, nó đi lên gò và biến mất vào phía kia của hòn đảo.
Suốt cả ngày hôm đó tôi chỉ ăn, nghỉ, cố đứng dậy, và nói chung là tắm mình trong vui sướng. Tôi thấy buồn nôn mỗi khi cố sức nhiều quá. Và tôi vẫn cảm thấy mặt đất đang chuyển dịch dưới chân và như sắp ngã, ngay khi đứng im tại chỗ.
Đến cuối buổi chiều, tôi bắt đầu lo đến Richard Parker. Hoàn cảnh đã thay đổi, lãnh thổ đã thay đổi, không biết nó sẽ xử với tôi ra sao khi gặp lại.
Miễn cưỡng, và hoàn toàn là vì an toàn, tôi bò trở lại xuồng. Cho dù Richard Parker có chiếm lĩnh cả hòn đảo, thì phần mũi và mui xuồng vẫn là lãnh thổ của tôi. Tôi tìm cái gì có thể dùng để neo xuồng lại. Rõ ràng chỉ có đám tảo dày ở đảo, không có gì khác. Cuối cùng, tôi giải quyết việc neo xuồng bằng cách cắm sâu cán một cái trèo vào đám tảo rồi buộc dây xuồng vào cái chèo.
Tôi bò lên mui bạt. Kiệt sức. Cơ thể tôi rã rời vì phải tiếp nhận quá nhiều đồ ăn và vì căng thẳng thần kinh do đột ngột thay đổi hoàn cảnh. Đến cuối ngày, tôi lơ mơ nghe thấy tiếng Richard Parker gầm lên xa xa, rồi ngủ thiếp đi.
Tôi thức dậy trong đêm với một cảm giác khó chịu là lạ ở bụng dưới. Tôi nghĩ đó là chuột rút, hoặc giả đã bị ngộ độc tảo. Tôi nghe tiếng động và nhìn ra. Richard Parker đã ở trên xuồng. Nó đã về trong lúc tôi đang ngủ. Nó đang meo meo và liếm láp các bàn chân. Tôi không hiểu sao nó lại quay về, nhung cũng không nghĩ thêm về chuyện đó, cơn co thắt bụng bắt đầu khó chịu hẳn lên. Tôi đau quặn, gập người, run lẩy bẩy, rồi một quá trình tự nhiên nhưng đã bị quên lãng từ lâu, đột ngột và tự động diễn ra: Tôi phóng uế. Rất đau đớn. nhưng sau đó tôi chìm vào một giấc ngủ sâu và sảng khoái chưa từng có kể từ cái đêm trước khi tàu đắm.
Khi tỉnh dậy buổi sáng hôm sau, tôi thấy khoẻ hơn nhiều. Tôi hăng hái bò đến cái cây đơn độc. Mắt tôi lại một lần nữa ngấu nghiến nó, còn bụng thì ngấu nghiến các sợi tảo. Tôi chén một bữa điểm tâm no nê đến mức đào hẳn một lỗ tướng.
Một lần nữa, Richard Parker chần chừ hàng mấy tiếng đồng hồ trước khi nhảy ra khỏi xuồng. Đến lúc nó nhảy ra đã gần hết buổi sáng, thì vừa mới vào đến bờ nó lại nhảy trở lại, gần như ngã hẳn xuống nước và có vẻ rất căng thẳng. Nó thở phì phì và giương vuốt cáo lên không. Lạ thật. Tôi không thể hiểu nó đang làm thế vì lí do gì. Rồi tình trạng bồn chồn ấy cũng qua đi, có vẻ tự tin hơn hôm trước, nó lại biến mất qua bên kia rặng đồi.
Hôm ấy, dựa vào cái cây, tôi đã đứng được lên. Tôi chóng mặt. Cách duy nhất làm cho mặt đất dưới chân tôi không chuyển động nữa là nhắm tịt hai mắt và bám chặt vào cái cây. Tôi chống tay đẩy người ra và thử bước đi, nhưng lập tức ngã xuống. Chưa nhấc được chân thì mặt đất đã như nhào vào tôi. Nhưng không sao. Hòn đảo được bao phủ bởi một tầng dày đặc cành rong đan dệt với nhau là một chỗ lí tưởng để tập đi. Ngã kiểu gì cũng không đau.
Ngày tiếp theo, sau một đêm ngủ yên trên xuồng – Richard Parker cũng quay về xuồng đêm đó – tôi đã có thể bước được. Ngã lên ngã xuống hàng chục lần, tôi vẫn bước tới được chỗ cái cây. Tôi cảm thấy sức lực mình tăng lên hàng giờ. Dùng cái lao móc, tôi khều xuống một cành cây và bứt một ít lá. Chúng mềm và không có sáp, nhưng có vị đắng, Richard Parker vẫn ở tịt trong ổ của nó trên xuồng – nó đã quen chỗ và vì thế vẫn trở về xuồng hằng đêm.
Tối hôm đó, khi mặt trời đang lặn thì tôi thấy nó quay về. Tôi đã buộc xuồng vào cọc chèo, và đang ở mũi xuồng, kiểm tra mối nối đó. Nó thình lình xuất hiện. Lúc đầu tôi không nhận ra. Con thú hoành tráng đang vọt ra từ rặng đồi và chạy hết tốc lực kia không thể là con hổ tơi tả và ù lì vẫn tháp tùng tôi trong suốt thời gian qua. Nhưng đúng là nó. Đúng là Richard Parker và nó đang lao về phía tôi. Trông nó đầy chủ ý. Cái cổ hùng mạnh của nó vươn lên, đầu chúi xuống. Những bắp thịt và cả bộ da của nó rung lên với mỗi bước chân. Nghe rõ tiếng tấm thân nặng trịch của nó chạy như gõ trống trên mặt đất.
Tôi đã đọc thấy có hai nỗi sợ mà ta không thể khắc phục được: Cái sợ đến thót người khi thình lình nghe thấy tiếng động lạ, là cái sợ của cảm giác chóng mặt lúc mọi thứ quay cuồng xung quanh. Tôi muốn thêm vào một nỗi sợ thứ ba: Phải đột ngột đối mặt với một kẻ sát nhân quen biết.
Tôi lục lọi cuống cuồng tìm cái còi. Khi nó chỉ còn cách xuồng khoảng chục thước, tôi lấy hết sức bình sinh thổi vào cái còi. Một âm thanh ré lên xuyên thủng không gian.
Nó đã có tác dụng như ý. Richard Parker khựng lại. Nhưng rõ ràng nó vẫn muốn tiếp tục tiến tới. Tôi thổi lần thứ hai. Nó bắt đầu quay cuồng và nhấp nhổm tại chỗ trong một điệu bộ rất giống một con hươu, gầm gào dữ dội. Tôi thổi hồi còi thứ ba, lông trên người nó dựng đứng cả lên. Móng vuốt nó giương ra hết cỡ. Nó đang hết sức kích động. Tôi đã sợ rằng bức tường phòng thủ của những tiếng còi sẽ sắp sụp đổ và nó sẽ tấn công tôi.
Nhưng Richard Parker lại làm một việc bất ngờ: nó nhảy ào xuống biển. Tôi kinh ngạc lặng người. Chính điều tôi nghĩ nó không bao giờ làm thì nó lại làm, và làm một cách quả quyết đầy sức mạnh. Nó hăng hái đập chân bơi về phía đuôi xuồng. Tôi định thổi còi nữa nhưng lại thôi, rồi mở nắp tủ lên ngồi xuống, rút về vị trí thánh địa trong lãnh thổ của mình.
Nó vươn người nhảy lên đuôi xuồng, nước từ người nó chảy xuống ào ào, và làm đuôi xuồng chìm hẳn xuống. Nó lấy thăng bằng đứng trên mạn xuồng và mặt ghế đuôi một lúc, dò xét tôi. Tim tôi xỉu đi. Tôi tưởng mình sẽ không đủ sức thổi thêm một hồi còi nữa. Tôi ngây người nhìn nó. Nó tuồn người như nước chảy xuống sàn xuồng và biến mất dưới tấm bạt. Tôi có thể nhìn thấy vài chỗ trên thân thể nó qua mép cái nắp tủ. Tôi nhảy ào lên trên nóc bạt, khuất mắt nó – nhưng ở ngay trên nó. Tôi cảm thấy một ước muốn mãnh liệt được mọc cánh và bay đi.
Tôi bình tĩnh lại. Cố tự nhắc mình rằng tôi đã ở cùng một con hổ sống ngay bên dưới mình một thời gian rất dài rồi.
Khi hơi thở chậm lại tôi ngủ thiếp đi Có lúc trong đêm đó, tôi đã thức dậy và quên cả nỗi sợ hãi, nhìn xuống chỗ nó. Nó đang nằm mơ, run rẩy và gầm gừ trong giấc ngủ. Nó đã mơ ầm ĩ như vậy và làm tôi thức giấc.
Buổi sáng như thường lệ, nó lại đi lên rặng đồi.
Tôi quyết định ngay khi thấy khoẻ sẽ phải đi thám hiểm hòn đảo. Nó có vẻ khá rộng, nếu chỉ nhìn vào đường bờ biển của nó, trài dài sang hai phía trái phải, chỉ hơi vòng vòng một chút, chứng tỏ đảo có bề rộng khá lớn. Suốt ngày, tôi đi bộ – và ngã lên ngã xuống – từ bờ đến cái cây và ngược lại, với ý định tập cho chân khoẻ lại. Lần nào ngã tôi cũng tranh thủ ăn một bữa tảo no nê.
Khi Richard Parker quay về vào cuối ngày, hơi sớm hơn hôm trước một chút, tôi đã đang có ý chờ nó. Tôi ngồi im và không thổi còi. Nó đến mép nước, rồi bằng một cú nhảy rất khoẻ vọt lên thẳng mạn xuồng. Nó vào luôn chỗ của mình và không xâm phạm gì đến lãnh thổ của tôi, chỉ làm cho xuồng nghiêng hẳn sang một bên. Nó đã khoẻ mạnh trở lại một cách đáng sợ.
Sáng hôm sau, tôi đợi cho Richard Parker đi trước một lúc lâu rồi mới bắt đầu đi thám hiểm đảo. Tôi đi lên rặng đồi, đến đỉnh một cách dễ dàng, từng bước một chắc chắn, mặc dù vẫn còn ngượng nghịu. Nếu hai chân tôi yếu hơn, chắc chúng đã khuỵu xuống trước quan cảnh mà tôi nhìn thấy khi vừa lên tới đỉnh đồi.
Tôi sẽ nói các chi tiết trước. Tôi thấy toàn bộ hòn đảo được bao phủ dưới các lớp tảo chứ không phải chỉ ở mép đảo. Tôi thấy một bình nguyên rộng lớn xanh rì với một khu rừng lá biếc ở giữa. Tôi thấy khắp xung quanh rừng đó hàng trăm hồ nước nhỏ và những cây cối mọc đều đặn ở giữa chúng. Toàn bộ cảnh trí gây một ấn tượng không thể nhầm lẫn được rằng tất cả đều theo một thiết kế mạch lạc.
Nhưng ấn tượng mạnh mẽ nhất là những con chồn biển. Thoạt nhìn, tôi ước tính một cách khiêm tốn phải có đến hàng trăm nghìn con. Chúng phủ đầy mặt đất. Và khi tôi xuất hiện thì dường như tất cả chúng đều quay lại nhìn tôi, kinh ngạc, như bầy gà trong sân trại, và đứng hết cả lên.
Chúng tôi không có con chồn biển nào trong vườn thú. Nhưng tôi đã đọc hết về chúng. Chúng có trong sách vở và văn chương. Chồn biển là một động vật có vú nhỏ bé ở Nam Phi, có huyết thống với loài chồn mongoose ăn chuột, chim, và cả rắn hổ mang ở Ấn Độ. Nói cách khác, chồn biển là một loài động vật ăn thịt, dài ba mươi phân và nặng độ một kí lô khi trưởng thành, thon thả, với một cái mõm nhọn hoắt, cặp mắt phía trước mặt, chân ngắn, bàn chân có bốn ngón với những cái móng dài không rút vào được, và một cái đuôi dài hai mươi phân. Lông có màu nâu nhạt hoặc xám và có những dải đen màu nâu sẫm trên lưng, còn chóp đuôi, tai, và hai cái vòng tròn xung quanh mắt thì đen tuyền. Một con vật linh hoạt và rất tinh mắt, có thói quen sống bầy đàn và hoạt động vào ban ngày, săn mồi trong tầm địa phương của mình và ăn được cả bọ cạp. Khi nó quan sát, con chồn biển có đặc điểm đứng thẳng, kiễng trên đầu ngón của hai chân sau dùng chóp đuôi như một cái chân thứ ba để giữ thăng bằng như một kiểu cái chân máy ảnh. Thường một bầy chồn biển hay đứng chụm với nhau và cùng nhìn về một phía, như một đám người đang cùng chờ xe buýt. Vẻ mặt nghiêm trang và kiểu buông thõng hai chân trước ngực làm chúng trông giống một lũ trẻ đang cố tình làm dáng chụp ảnh, hoặc một nhóm bệnh nhân trong phòng khám đã cởi hết quần áo đang kín đáo cố che đậy bộ phận sinh dục của mình.
Đó là quang cảnh đập ngay lập tức vào mắt tôi khi tôi lên đến đỉnh đồi. Hàng trăm nghìn con chồn biển – hơn nữa, phải hàng triệu – cùng lúc đứng lên quay nhìn tôi như thể cùng đồng thanh, "Vâng, có chuyện gì vậy thưa ngài?". Cũng phải nói ngay rằng loài chồn biển lúc đứng thẳng lên chỉ cao ba bốn mươi phân, nên cái làm tôi kinh ngạc không phải là chiều cao mà là số lượng bạt ngàn vô biên của chúng. Tôi đứng sững tại chỗ. Nếu tôi làm cho hàng triệu con chồn biển kia hoảng sợ, chảnh tượng sẽ hỗn loạn không thể tả được. Nhưng chúng chỉ chú ý đến tôi một lát mà thôi. Chỉ sau vài giây, chúng đã quay lại công việc mà chúng đang mải mê trước khi tôi xuất hiện, tức là gậm nhấm những sợi tảo hoặc nhìn chăm chăm xuống mặt nước hồ. Nhìn ngần ấy sinh linh cùng cúi xuống một lúc như thế khiến tôi nhớ lại cảnh cầu nguyện trong thánh đường Hồi giáo.
Những con vật này có vẻ không biết sợ. Khi tôi từ đỉnh đồi đi xuống, không con nào chạy trốn hoặc tỏ vẻ căng thẳng vì sự có mặt của tôi. Nếu muốn tôi đã có thể vuốt ve và bế một con lên. Nhưng tôi không làm gì chúng. Tôi chỉ cứ thế bước vào giữa đám chồn biển đông đúc nhất trên thế giới, một trong những trải nghiệm lạ lùng và kì diệu nhất trong đời tôi. Có một âm thanh không dứt tràn ngập trong không trung. Đó là tiếng chí choé, chiêm chiếp, rin rít và cắn sủa nhặng xị của chúng.
Đông như vậy và kích động từng bầy lớn như vậy theo từng lúc làm cho âm thanh của chúng giống như tiếng động của một bầy chim, có những lúc rào rào ầm ĩ xung quanh tôi, rồi lại đột ngột im ắng, trong khi lại có một có đám khác ồn ĩ lên ở đằng xa.
Liệu có phải chúng không sợ tôi vì tôi phải sợ chúng không? Câu hỏi đó vụt lên trong óc tôi. Nhưng câu trả lời – rằng chúng vô hại – cũng lập tức rõ ràng. Để đi đến cái hồ mà chúng đứng dày đặc xung quanh, tôi phải lấy chân đẩy nhè nhẹ chúng ra hai bên để lấy lối đi. Chúng không lấy thế làm phiền mà ngoan ngoãn nhường đường cho tôi đi như một đám đông tốt bụng. Tôi nhìn xuống hồ, những bộ lông mềm mại và ấm áp cọ liên tục vào hai mắt cá chân của tôi.
Cái hồ nào cũng có hình tròn và gần như cùng một cỡ – xấp xỉ mười hai mét đường kính. Tôi tưởng chúng nông nhưng thấy nước trong và rất sâu, dường như vô đáy là khác. Và cho tới hết tầm mắt, tôi vẫn chỉ thấy các sợi tảo xanh sâu tít dưới khắp xung quanh bờ hồ. Rõ ràng lớp tảo bao phủ là rất dày.
Không thấy có gì có thể làm cho bọn chồn biển chăm chú xuống hồ đến thế, tôi đã định thôi không tìm hiểu nữa thì ỏ một cái hồ bên cạnh bỗng rộ lên tiếng sủa và kêu choe choé của chúng. Những con chồn biển đang nhảy choi choi trong một trạng thái như mê dại. Thình lình, hàng trăm con một lúc, chúng nhảy thẳng xuống hồ. Những con trên bờ chen chúc xô đẩy nhau để được ra mép nước. Một cơn điên tập thể. Ngay cả những con bé tí cũng chen ra mặt hồ, mặc kệ bố mẹ chúng cản lại. Tôi nhìn mà không thể tin vào mắt mình. Đây không phải loài chồn bình thường của sa mạc Kalahari. Chồn Kalahari không hành xử kiểu ếch nhái như thế này. Loài chồn biển này chắc chắn là một chi nhánh đặc biệt có lối sống khác hẳn.
Tôi bước ra gần hồ, chân đi chập chững, vừa đúng lúc những con chồn biển đang bơi – đúng là đang bơi thật – và mang vào bờ hàng chục con cá, mà không phải là cá nhỏ. Một số là dorado hẳn ngoi. Chúng to hơn hẳn khiến bọn chồn biển như một lũ tí hon. Không biết bọn chúng làm sao có thể bắt được những con cá lớn như thế.
Khi những con chồn biển kéo hẳn những con cá lên bờ, tôi nhận ra một điều lạ: con cá nào cũng đều đã chết, không con nào còn sống. Và vừa mới chết. Những con chồn đang bắt những con cá chết mà không phải chúng giết.
Tôi quỳ xuống ven hồ, đẩy nhiều con chồn biển đang nháo nhào và ướt nhoét sang hai bên, tôi nhúng tay xuống hồ, nước mát lạnh hơn tôi tưởng. Có một dòng chảy đưa nước lạnh từ dưới sâu lên mặt hồ. Tôi chụm tay múc nước và đưa lên miệng, tôi nhấp một ít.
Đó là nước ngọt. Thảo nào mà cá chết – vì lẽ tất nhiên là cá nước mặn sẽ chết khi rơi vào vùng nước ngọt. Nhưng bọn cá biển kia làm gì mà rơi vào những hồ nước ngọt này? Và bằng đường nào?
Tôi sang một cái hồ khác, chen chân qua đám chồn biển. Cũng là nước ngọt. Một cái hồ khác nữa. Cũng thế. Và cũng vậy ở một hồ nữa.
Tất cả chúng đều là hồ nước ngọt. Ngần ấy nước ngọt ở đâu ra? Rõ rồi: chỉ ở loài tảo này mà ra thôi. Chúng đã tự nhiên và liên tục khử muối trong nước biển, vì thế mà lõi chúng mặn và vỏ ngoài ứ đầy nước ngọt. Tôi không hỏi sao cây tảo làm thế, làm thế nào và muối kia biến đi đâu. Đầu óc tôi không thắc mắc những chuyện như vậy nữa. Tôi chỉ cười toáng lên và nhảy tùm xuống hồ. Nổi lên mặt hồ không dễ. Tôi vẫn còn rất yếu, và có quá ít mỡ trên người. Sau một thời gian dài như vậy ngoài biển khơi, da tôi đã như một tấm da bò và tóc tôi dài thượt, rối bù và bóng nhẫy như một túm giẻ đập ruồi. Linh hồn tôi cũng như thể đã bị muối ăn mòn. Cho nên, trước mặt hàng nghìn con chồn biển, tôi ngâm mình thật lâu, để cho nước ngọt làm tan đi mọi tinh thể muối đã đọng lại trên người.
Bọn chồn biển quay lại nhìn ra chỗ khác. Chúng làm động tác đó đều tăm tắp như thể chỉ có một con, tất cả chúng đều quay về một hướng trong cũng một thời điểm, rất chính xác. Tôi lên bờ xem có chuyện gì. Đó là Richard Parker. Nó khẳng định điều tôi đã nghĩ, rằng những con chồn biển này đã qua nhiều thế hệ không bị săn bắt ăn thịt nên chúng đã mất hết cả bản năng chạy trốn và không biết sợ hãi là gì. Richard Parker đi qua giữa trùng điệp chồn biển, đi đến đâu giết đến đấy, không thương tiếc mảy may, máu ròng ròng trên miệng, còn chúng, kề môi áp má với con hổ ấy, thì cứ nhảy chồm chồm lên tại chỗ như thể đang kêu, "Đến lượt tôi! Nào! Đến lượt tôi!". Tôi sẽ còn thấy cảnh tượng ấy nhiều lần nữa. Không có gì có thể làm cho bọn chồn xao nhãng khỏi cuộc sống nhỏ bé của chúng với công việc rình ngó ven hồ và gặm nhấm tảo. Richard Parker cố rướn người ngạo nghễ trước khi nào xuống chúng với một tiếng gầm như sấm dậy hay nằm ngủ phục một cách bất cần ngay cạnh chúng, thì cũng thế mà thôi. Chúng chẳng bận tâm.
Richard Parker giết nhiều hơn cần thiết. Nó giết những con chồn biển mà nó không ăn. Trong thế giới động vật, nhu cầu giết nhiều hơn nhu cầu ăn. Sau bao nhiêu lâu không bắt mồi rồi đột nhiên có ngần ấy con mồi để bắt – bản năng săn mồi bị kiềm chế của nó đã trỗi dậy mãnh liệt để trả thù.
Nó còn ở xa tôi. Không có gì nguy hiểm, ít nhất là vào lúc này.
|
|