Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Dị] Liêu Trai Chí Dị | Bồ Tùng Linh

[Lấy địa chỉ]
81#
 Tác giả| Đăng lúc 2-6-2012 22:51:45 | Chỉ xem của tác giả
073. Tề Thiên Đại Thánh (Tề Thiên Đại Thánh)


Hứa Thịnh người đất Duyện (tỉnh Trực Lệ) theo anh là Thành đi buôn bán tới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến). Còn chưa cất hàng xong thì có người khách nói "Đại thánh thiêng lắm, hãy tới đền cầu khẩn”. Thịnh chưa biết Đại thánh là thần nào bèn theo anh tới đó, vào thấy điện gác san sát nối nhau vô cùng tráng lệ đẹp đẽ. Vào điện cúng bái thấy tượng thần mình người đầu khỉ, té ra là Tề Thiên Đại thánh Tôn Ngộ Không, khách khứa đều kính cẩn vái lạy, không ai dám tỏ vẻ khinh nhờn. Thịnh vốn cương trực, cười thầm người đời ngu muội nên lúc mọi người thắp hương khấn khứa thì ngầm bỏ ra. Về tới nhà trọ, anh trách Thịnh không kính cẩn, Thịnh nói “Tôn Ngộ Không là truyện ngụ ngôn của ông Khưu[72] đặt ra, sao lại tin là có thật như thế? Mà giả như có thật thì bao nhiêu búa rìu sấm sét em xin chịu cả”.

Chủ quán trọ nghe gọi tên Đại thánh thì xua tay tái mặt như sợ Đại thánh nghe được, Thịnh thấy thế càng bô bô nói ầm lên, ai nghe thấy cũng bịt tai bỏ chạy. Đến đêm quả nhiên Thịnh bị bệnh, đầu nhức như búa bổ, có người khuyên tới đền tạ lỗi nhưng Thịnh không nghe. Không bao lâu thì đầu đỡ đau nhưng đùi lại nhức, qua đêm thì mọc một cái mụn nhọt lớn, cả chân đều lở lói, không ăn ngủ gì được, anh tới đền cầu khẩn thay nhưng không hiệu nghiệm. Có người nói thần phạt thì phải tự mình cầu khẩn, Thịnh rốt lại vẫn không tin, hơn một tháng thì những chỗ lở lành dần nhưng lại nảy ra một cái mụn nhọt khác đau nhức gấp bội. Thầy thuốc tới lấy dao cắt bỏ những chỗ thịt thối, máu chảy cả tô nhưng sợ người ta nói bị thần phạt nên cắn răng không rên rỉ.

Hơn tháng sau mới bình phục nhưng anh lại mắc bệnh nặng. Thịnh nói “Thế nào nào? Người kính thần cũng bị bệnh như vậy, đủ thấy là bệnh của ta chứ không phải do Ngộ Không". Anh nghe thế rất bực tức, trách em không đi cầu khấn cho mình. Thịnh nói "Anh em như chân tay, trước đây em chân tay lở lói còn không chịu đi cầu khấn, nay chẳng lẽ chân tay có bệnh mà đổi ý à?", rồi chỉ rước thầy cắt thuốc chứ không chịu đi cầu đảo. Anh uống thuốc xong thì lăn ra chết, Thịnh đau đớn uất ức trong lòng, mua quan tài liệm anh xong tới thẳng đền Đại thánh chỉ lên tượng thần kể tội, nói “Anh ta bị bệnh, nói là do người giận lây khiến ta không sao bày tỏ được, nếu như ngươi là thần thật cứ làm cho anh ta sống lại, ta sẽ lạy thờ làm sư phụ không dám nói gì khác, nếu không ta sẽ theo đúng cách ngươi đối xử với Tam Thanh mà đối xử với ngươi[73], cũng có thể trút hờn cho anh ta nơi chín suối”.

Đến đêm Thịnh nằm mơ thấy một người tới gọi đi, vào đền Đại thánh, ngẩng lên thấy Đại thánh lộ vẻ giận dữ quát mắng “Vì ngươi không chịu phục nên ta mới lấy đao của Bồ Tát xuyên qua chân ngươi, đã không biết tự hối lại còn ăn nói lằng nhằng. Lẽ ra ta đã tống ngươi xuống ngục Rút lưỡi dưới âm ty, nhưng nghĩ ngươi nhất sinh ngay thẳng nên mới tạm tha cho. Còn như anh ngươi bệnh thì vì ngươi rước gã lang băm về làm giảm tuổi thọ, chứ người khác dính líu gì vào đó? Nay mà ta không tạm thi triển chút ít pháp lực thì bọn ngông cuồng còn chưa chịu im mồm".

Rồi sai Thanh y sứ tới xin Diêm Vương, Thanh y sứ nói "Sau ba ngày thì danh sách ma quỷ đã báo lên Thiên đình, sợ Diêm Vương khó mà tha được”' Đại thánh bèn rút thiết bảng làm bút viết những gì không biết, rồi bảo Thanh y sứ cầm thư tới Diêm Vương. Hồi lâu Thanh y sứ trở về, Thành cũng theo về, vào quỳ xuống lạy tạ. Đại thánh hỏi sao chậm thế, Thanh y sứ bẩm "Diêm Vương không dám tự chuyên, cầm lệnh chỉ của Đại thánh lên báo với Bắc Đẩu[74] vì thế nên về chậm". Thịnh rảo bước lên vái lạy tạ ơn, Đại thánh nói "Đưa anh ngươi về ngay đi, nếu biết theo điều thiện thì ta sẽ ban phúc cho", anh em vừa mừng vừa tủi dắt nhau cùng về.

Thịnh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội tới mở quan tài ra xem thì quả anh đã sống lại bèn đỡ ra, hết sức cảm tạ pháp lực Đại thánh. Thịnh từ đó dốc lòng tin tưởng thờ phụng còn hơn cả người thường. Nhưng vốn liếng của hai anh em vì mắc bệnh đã hao mất một nửa, anh lại chưa thật khỏe, hai anh em cứ nhìn nhau buồn bã. Một hôm Thịnh ngẫu nhiên đi dạo ngoài thành, chợt gặp một người áo xám nhìn mình hỏi "Anh có chuyện gì lo lắng à?". Thịnh đang buồn rầu không biết nói với ai, bèn kể những chuyện mình gặp. Người áo xám nói “Có một nơi phong cảnh rất đẹp, cứ tạm tới ngắm xem cũng đủ giải sầu”. Hỏi ở đâu, người ấy chỉ nói không xa, Thịnh bèn đi theo.

Ra khỏi thành khoảng nửa dặm, người áo xám nói "Ta có thuật mọn, trong khoảnh khắc có thể tới nơi". Rồi bảo Thịnh ôm lưng mình, khẽ gật đầu một cái chợt có mây đùn lên dưới chân, nhảy vọt lên trên không biết là đi bao xa. Thịnh cả sợ nhắm mắt không dám mở ra, trong khoảnh khắc nghe người ấy nói "Tới rồi". Thịnh thấy thành quách trong vắt đủ màu sắc rực rỡ lạ lùng, kinh ngạc hỏi đây là nơi nào. Người ấy đáp "Đây là thiên cung" rồi rảo bước đi vào, càng đi càng lên cao, xa xa thấy một ông già, người áo xám mừng rỡ nói "Gặp được người này thì anh có phúc lắm", rồi giơ tay vái chào. Ông già mời vào nhà, pha trà mời khách nhưng chỉ bưng ra có hai chén chứ không nhìn ngó gì tới Thịnh. Người áo xám nói "Đây là đệ tử của ta, đi buôn bán ngàn dặm tới thăm tiên cung, xin ông tặng cho chút quà”. Ông già sai tiểu đồng lấy ra một mâm đá trắng to bằng trứng chim sẻ, sáng loáng như băng, bảo Thịnh tự nhặt lấy.

Thịnh nghĩ cầm về có thể làm tửu lệnh uống rượu, bèn lấy sáu viên, người áo xám cho rằng quá ít bèn lấy thêm cho sáu viên nữa, đưa cả cho Thịnh bảo cất vào túi rồi chắp tay nói "Đủ rồi". Thịnh từ biệt ông già đi ra, người áo xám lại bảo bám vào mình rồi bay xuống, chốc lát đã tới mặt đất. Thịnh dập đầu thỉnh giáo tiên danh, người áo xám cười nói “Phép thuật đi trên mây vừa rồi gọi là Cân đẩu vân[75] đấy". Thịnh giật mình hiểu ra là Đại thánh, lại cầu xin giúp đỡ. Đại thánh nói "Vừa rồi là gặp Tài tinh, cho ngươi được lãi mười hai phần, còn muốn gì nữa".  

Thịnh lạy tạ, đứng lên nhìn thì Đại thánh đã biến mất. Thịnh trở về mừng rỡ kể lại với anh, cởi túi ra nhìn thì đá đã lặn cả vào thắt lưng rồi. Về sau cất hàng trở về, được lãi rất nhiều, từ đó cứ tới buôn bán ở đất Mân là vào đền khấn vái Đại thánh, người khác khẩn cầu có khi không hiệu nghiệm chứ Thịnh khẩn cầu thì điều gì cũng ứng nghiệm.

Dị Sử thị nói:
Ngày xưa có người sĩ nhân đi ngang chùa, vẽ hình cây đàn tỳ bà lên vách rồi đi, đến khi quay về thì chùa nổi tiếng linh thiêng, lửa hương không dứt. Chuyện thiên hạ vốn không cứ phải có thật, người ta cho là thiêng thì thành thiêng thôi. Sao lại như thế? Vì lòng người hướng về thì vật cũng theo về vậy. Cứng cỏi ngay thẳng như Thịnh ắt phải được thần linh phù hộ, há cần tới ngọn kim thêu trong lỗ tai, lông tơ biến hóa, cân đẩu vân lên trời[76] sao? Rốt lại lại bị mê hoặc, cũng là kiến thức không đúng vậy.

Chú thích:
[72] Ông Khưu: tức Khưu Xử Cơ, người cuối thời Tống đầu thời Nguyên, đệ tử của Vương Trùng Dương phái Toàn Chân Đạo giáo, có đạo hiệu là Trường Xuân tử, được Thành Cát Tư Hãn mời qua Mông Cổ, có viết quyển Trường Xuân chân nhân Tây du ký. Nhân vật Hứa Thịnh trong truyện này lầm Tây du ký của Khưu Xử Cơ với Tây du ký của Thi Nại Am kể chuyện Huyền Trang thỉnh kinh.
[73] Làm đúng cách ... với ngươi: Tây du ký kể Tôn Ngộ Không bảo hộ Tam Tạng đi lấy kinh tới nước Xa Trì, vua quan nước ấy trọng Đạo khinh Phật, Ngộ Không cùng Bát Giới, Sa Tăng nửa đêm lẻn vào nơi cúng Tam Thanh (tức Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Đạo Quân của Đạo giáo Trung Hoa) đem tượng Tam Thanh vứt vào nhà xí rồi hóa thành tượng Tam Thanh ăn uống. Đây nhân vật Hứa Thịnh có ý nói sẽ quăng tượng Tề Thiên Đại thánh vào nhà xí.
[74] Bắc đẩu: Tây du ký chép trên trời có hai tòa Nam tào Bắc đẩu coi sổ sách ghi việc sống chết của muôn vật, Nam tào coi sổ sinh, Bắc đẩu coi sổ tử.
[75] Cân đẩu vân: Tây du ký chép Tôn Ngộ Không có phép cân đẩu vân, uốn lưng một cái đã vượt được mười vạn tám ngàn dặm đường.
[76] Kim thêu... lên trời: đều là những phép thuật của nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây du ký.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
 Tác giả| Đăng lúc 3-6-2012 02:47:30 | Chỉ xem của tác giả
074. Thần Ếch (Thanh Oa Thần)


Vùng Giang Hán thờ cúng thần ếch rất kính cẩn, trong đền không biết là bao nhiêu ngàn vạn con ếch, có con to bằng cái lồng. Có ai xúc phạm làm thần giận thì trong nhà liền có điềm lạ, ếch nhái nhảy cả lên bàn lên giường, thậm chí bám đầy trên vách không rơi xuống, nhà ấy sẽ gặp tai họa. Người ta sợ hãi cứ cúng tế cầu khẩn, nếu thần vui lòng thì khỏi.

Đất Sở (tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc) có Tiết Côn Sinh lúc nhỏ thông minh, diện mạo tuấn tú. Năm lên sáu bảy tuổi có bà già áo xanh tới nhà tự xưng là sứ giả của thần, vào ngồi trò chuyện ngỏ ý thần muốn gả con gái cho Côn Sinh. Ông Tiết tính chất phác vụng về nghe thế rất không thích, liền lấy cớ con trai còn nhỏ để từ chối, nhưng tuy cố từ chối vẫn chưa dám hỏi cưới con gái nhà khác.

Được vài năm Côn Sinh dần lớn lên, dạm hỏi con gái họ Khương, thần nói với Khương “Tiết Côn Sinh là con rể của ta, sao ngươi dám ăn đồ cúng hả?". Khương sợ hãi trả lại sính lễ, ông Tiết lo lắng trai giới mang lễ vật ra đền khấn khứa, tự nói không dám kết thông gia với thần. Vừa khấn xong thì thấy cỗ bàn cúng tế đều có giòi lớn bò ra lúc nhúc cựa quậy, bèn đổ bỏ tạ tội rồi về, trong lòng càng sợ nhưng cũng chờ để nghe ngóng xem sao.

Một hôm Côn Sinh đi đường có sứ giả đón báo thần tuyên triệu, cố mời ghé lại, sinh bất đắc dĩ phải đi theo. Vào tới một phủ đệ cánh cổng sơn son, lầu gác hoa lệ, có ông già ngồi trên sảnh đường, trông như người bảy tám mươi tuổi. Côn Sinh vào lạy ra mắt, ông già sai kéo đứng lên, cho ngồi cạnh bàn. Giây lát đám tỳ nữ, vú già tụ tập lại nhìn ngó dày đặc chung quanh, ông già quay lại nói "Vào trong báo là Tiết lang tới". Mấy người tỳ nữ chạy đi, lát sau có bà già đỡ một nữ lang ra, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song. Ông già chỉ nàng nói "Đây là tiểu nữ tên Thập Nương, ta tự cho rằng có thể sánh đôi với chàng, nhưng cha chàng lại cho là khác loài nên cự tuyệt, vậy thì do chàng thôi". Côn Sinh chăm chú nhìn Thập Nương, trong lòng yêu thích, im lặng không nói gì. Bà già nói “Ta đã biết là chàng ưng thuận, xin cứ về trước, sẽ lập tức đưa Thập Nương tới ngay”. Côn Sinh vâng dạ rồi vội về kể với cha. Cha hốt hoảng không biết làm sao đành ưng thuận, sai con quay lại tạ ơn thần nhưng Côn Sinh không chịu đi.

Đang lời qua tiếng lại thì kiệu hoa đã tới ngoài cổng, cả đám tỳ nữ xúm xít đưa Thập Nương vào. Nàng lên sảnh đường làm lễ, cha mẹ chồng thấy mặt đều vui mừng. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, cầm sắt rất hòa hợp. Từ đó vợ chồng thần thường giáng lâm nhà sinh, cứ thấy mặc áo đỏ là có tin vui, mặc áo tràng là có tiền bạc, vì vậy nhà ngày càng khá giả. Từ khi Côn Sinh cưới Thập Nương thì khắp nhà từ hàng rào đến cầu xí đều có ếch, mọi người không ai dám chửi bới giẫm đạp, chỉ có Côn Sinh tuổi trẻ ngông nghênh, vui thì thôi giận thì đạp cho chết chẳng thương xót gì lắm. Thập Nương tuy hiền lành nhu thuận nhưng hay giận, rất không thích việc ấy song Côn Sinh không vì có Thập Nương mà kiềm chế. Thập Nương bực tức nói năng có chỗ xúc phạm, Côn Sinh nổi giận nói "Ngươi cậy cha mẹ có thể gieo tai họa cho người ta à? Trượng phu có sợ gì con ếch?". Thập Nương nghe thế giận lắm, nói "Từ khi thiếp về đây thì nhà chàng ruộng thêm lúa, buôn thêm lời không phải là ít, nay cả nhà già trẻ đều được no ấm, lại như chim vọ mọc cánh rồi thì muốn mổ mắt chim mẹ sao?". Côn Sinh càng tức tối, nói “Ta đang ngại nhận thêm những thứ nhơ bẩn, không dám lưu lại cho con cháu, xin cứ chia tay cho sớm", rồi đuổi Thập Nương.

Cha mẹ vừa nghe tin thì Thập Nương đã đi rồi, bèn quát mắng Côn Sinh, sai mau đuổi theo giữ lại nhưng Côn Sinh căm tức không chịu. Đến đêm mẹ con đều ngã bệnh, trong người bứt rứt không ăn uống gì được. Ông Tiết sợ hãi tự mang roi tới đền thần tạ lỗi, thiết tha nài nỉ. Qua ba ngày thì hai người dần dần khỏi bệnh, Thập Nương tự quay về, vợ chồng lại đầm ấm như trước. Thập Nương hàng ngày cứ trang điểm xong là ngồi yên, không làm việc nội trợ, những áo quần giày tất của Côn Sinh đều nhờ mẹ khâu vá. Một hôm mẹ bực tức nói "Con trai đã có vợ còn làm phiền mẹ, nhà người ta thì con dâu hầu mẹ chồng, nhà này thì mẹ chồng hầu con dâu”. Thập Nương nghe thấy tức tối lên thêm nói "Con buổi sớm tới thăm, buổi tối tới viếng, đạo thờ mẹ chồng còn gì khác nữa? Còn như việc con kém cỏi, thì thật không thể tiếc chút tiền thuê mướn mà chuốc khổ vào thân được". Mẹ không biết nói sao, hổ thẹn khóc lóc.

Côn Sinh vào thấy mắt mẹ có ngấn lệ, hỏi biết được chuyện giận dữ mắng Thập Nương, Thập Nương cứ giữ ý mình không chịu thua. Côn Sinh nói "Lấy vợ mà không được vui sướng thì chẳng bằng đừng có, cho dù làm con ếch già giận thì bất quá cũng chỉ gặp nạn dữ mà chết là cùng”, lại đuổi Thập Nương, Thập Nương ra cửa đi thẳng. Hôm sau nhà Côn Sinh phát hỏa, lửa lan ra cháy rụi cả mấy gian, bàn ghế giường tủ đều thành tro. Côn Sinh tức giận tới đền thần quát mắng kể tội, nói "Nuôi con gái không thờ phụng được cha mẹ chồng, đã không dạy bảo gì mà lại còn bao che cái dở của con, thần là phải rất công bằng mà lại dạy người ta sợ vợ à? Vả lại việc bát đũa va chạm là do ta gây ra, không dính líu gì tới cha mẹ, muốn đâm chém cưa xẻ gì cứ nhằm vào ta thôi. Còn nếu không thế thì ta cũng đốt đền của ông để trả thù”. Nói xong vác củi vào chất dưới điện định châm lửa, dân quanh đó xúm lại năn nỉ mới tức tối bỏ về, cha mẹ nghe được đều sợ tái mặt.

Đến đêm thần báo mộng cho thôn bên cạnh, sai cất lại nhà cho con rể, sáng ra thì kẻ mua gỗ người mướn thợ kéo tới làm nhà cho Côn Sinh, từ chối thế nào họ cũng không chịu thôi, hàng ngày có mấy trăm người gọi nhau trên đường. Không mấy ngày thì nhà cửa đều xây xong, mọi thứ đồ dùng đều đầy đủ. Vừa dọn dẹp đâu đấy thì Thập Nương đã tới, lên thềm tạ lỗi với cha mẹ, ăn nói nhỏ nhẹ từ tốn rồi quay qua Côn Sinh tươi cười, cả nhà bèn đổi oán làm vui. Từ đó Thập Nương càng hiền dịu, suốt hai năm không có chuyện xích mích. Thập Nương rất ghét rắn, Côn Sinh đùa bắt một con rắn nhỏ bỏ vào hộp bảo nàng mở ra. Thập Nương biến sắc mắng nhiếc, Côn Sinh cũng đổi cười thành giận tức tối cãi vã, Thập Nương nói “Lần này thì không cần phải đuổi, xin vĩnh biệt từ đây”, rồi ra cửa đi. Ông Tiết cả sợ đánh đòn Côn Sinh rồi tới tạ tội với thần, may mà không bị giáng họa nhưng cũng lặng ngắt không thấy đáp lại.

Hơn năm sau Côn Sinh nhớ Thập Nương, vô cùng hối hận, lén tới chỗ thần năn nỉ Thập Nương nhưng không ai trả lời. Không bao lâu nghe tin thần gả Thập Nương cho họ Viên, vô cùng thất vọng, cũng dạm hỏi người khác nhưng xem mặt mấy đám đều không có ai bằng Thập Nương, vì vậy càng thêm nhớ nhung. Tới nhà họ Viên nghe ngóng thì thấy họ đang quét dọn nhà cửa, sửa sang xe kiệu chuẩn bị đám cưới. Trong lòng thẹn thùng uất ức không thể tự chủ, bỏ ăn ngã bệnh, cha mẹ hoảng sợ lo lắng nhưng không biết làm sao. Chợt đang lúc mê man thấy có người vỗ về lay gọi, nói "Đại trượng phu mấy lần muốn dứt tình mà như thế này sao?”, mở mắt nhìn thì là Thập Nương. Côn Sinh mừng quýnh nhảy bật dậy hỏi “Sao nàng lại tới đây?", Thập Nương đáp “Vì gã khinh bạc đối xử với nhau tệ bạc, chỉ nên nghe lời cha mẹ mà lấy người khác nên từ lâu đã nhận sính lễ của nhà họ Viên, có điều thiếp nghĩ đi nghĩ lại cũng không nỡ. Đêm nay đã là ngày cưới, cha lại cho rằng không mặt mũi nào trả lại sính lễ nên đích thân thiếp đem tới trả. Lúc đi cha thiếp đưa ra cửa nói: ‘Con nhãi ngây không nghe lời ta, sau này có bị nhà họ Tiết đối xử tàn tệ thì có chết cũng đừng về đây nữa’ ".

Côn Sinh cảm vì tình nghĩa của nàng chảy nước mắt ròng ròng, gia nhân cùng mừng rỡ chạy đi báo cho ông bà hay. Bà Tiết nghe tin không chờ nàng qua chào, vội tới phòng con trai nắm tay nàng òa khóc. Từ đó Côn Sinh cũng trở nên đứng đắn không đùa ác nữa, vợ chồng vì thế càng yêu thương nhau. Thập Nương nói "Trước đây thiếp cho rằng chàng là người khinh bạc, chưa chắc đã sống được với nhau đến lúc bạc đầu nên không dám lưu lại con cái nơi trần thế. Nay chàng đã không có ý khác, thiếp sẽ sinh con trai”. Không bao lâu vợ chồng thần mặc áo đỏ giáng lâm nhà sinh, hôm sau Thập Nương lâm bồn, sinh một lần được hai con trai, từ đó hai bên đi lại không dứt. Dân quanh vùng nếu có ai xúc phạm làm thần giận cứ tới năn nỉ với Côn Sinh trước, sai đàn bà ăn mặc đẹp đẽ vào phòng vái lạy Thập Nương, nếu nàng cười thì được thần tha tội. Con cháu họ Tiết rất đông, người ta gọi là nhà Tiết ếch, nhưng người ở gần không dám gọi thế, chỉ có người ở xa gọi mà thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 3-6-2012 03:11:43 | Chỉ xem của tác giả
075. Vãn Hà (Vãn Hà)


Tiết Đoan ngọ ở vùng Ngô Việt có trò đua thuyền rồng. Người ta chạm gỗ làm thuyền hình con rồng, vảy rồng sơn son thếp vàng, mạn thuyền đều chạm trổ, lấy gấm thêu làm buồm. Cuối thuyền là đuôi rồng, cao hơn một trượng, dùng dây vải kết làm sạp, có đứa con trai nhỏ ngồi trên đó múa may nhảy nhót diễn các trò khéo, bên dưới là sông sâu rất nguy hiểm. Cho nên thuê đứa trẻ ấy thường đưa nhiều tiền cho cha mẹ trước để dạy nó luyện tập, nếu rơi xuống nước chết cũng không được oán hận.

Ở vùng Ngô Môn (Tô Châu) thì cho các ca kỹ xinh đẹp đứng trên đuôi thuyền múa hát, cũng có khác nhau. Ở huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) có đứa nhỏ họ Tưởng tên A Đoan, mới bảy tuổi đã giỏi diễn những trò khéo không ai hơn được hết nên rất nổi tiếng. Năm mười sáu tuổi người ta vẫn còn thuê, nhưng thuyền đua tới núi Kim Sơn thì rơi xuống nước chết đuối, bà Tưởng chỉ có đứa con ấy nhưng cũng đành đau xót khóc lóc mà thôi.

A Đoan không biết mình đã chết, được hai người tới dẫn đi, thấy dưới nước cũng có một cõi trời đất riêng, ngoái nhìn thì thấy sóng nước vây quanh cao như vách núi. Chợt có cung điện hiện ra, thấy một người mặc giáp trụ ngồi trên điện, hai người kia nói "Đó là Long Oa quân", rồi bảo A Đoan vái lạy. Long Oa quân vẻ mặt ôn hòa vui vẻ nói "Tài khéo có thể cho vào ban Liễu Điều” hai người bèn dẫn A Đoan tới một chỗ bốn phía cung điện rộng rãi. Rảo bước lên hành lang phía đông thì có một bọn thiếu niên ra chào hỏi, đều khoảng mười ba mười bốn tuổi, kế có một bà già tới, mọi người gọi là bà Giải, lên ngồi sai diễn trò thử. Kế bèn dạy điệu múa Sấm ran sông Tiền Đường và khúc nhạc Gió dịu hồ Động Đình, chỉ nghe chiêng trống ầm ầm vang rền các cung điện. Khi tiếng chiêng trống đã tắt, bà già sợ A Đoan không thể nhớ hết, cứ dặn đi dặn lại. Nhưng A Đoan học qua một lần đã hiểu rõ cả, bà già mừng rỡ nói "Được thằng nhỏ này thật chẳng thua kém gì A Hà".

Hôm sau Long Oa quân tổng duyệt các ban ca vũ, các ban đều tập hợp cả lại. Đầu tiên duyệt ban Dạ Xoa, đều là mặt quỷ áo da cá, chiêng lớn chu vi khoảng bốn thước, trống thì khoảng bốn người ôm, tiếng như sấm sét, có gào thét cũng không nghe thấy gì. Ban ấy vừa múa thì sóng lớn nổi cuồn cuộn dâng lên ngang trời, liền có một điểm tinh quang trên trời sa xuống, tới đất thì tắt, Long Oa quân vội sai dừng lại. Sai ban Khổng Oanh ra, đều là mỹ nhân mười sáu tuổi thổi sinh gõ phách dìu dặt, liền có gió mát hây hây, tiếng sóng tắt hẳn, mặt nước êm ả trong suốt như một cõi pha lê nhìn rõ cả trên dưới, diễn xong thì đều lui vào đứng dưới thềm phía tây. Kế tới ban Yến Tử, đều kết bím tóc rũ xuống, trong có một nữ lang tuổi khoảng mười bốn mười lăm trở lại rung tay áo nghiêng búi tóc múa điệu Rắc hoa chập chờn qua lại, trên khắp người tung ra những đóa hoa ngũ sắc theo gió lả tả rụng xuống rải khắp trên sân, múa xong thì theo ban cũng lui vào dưới thềm phía tây.

A Đoan đứng bên cạnh nhìn trong lòng ưa thích, hỏi người cùng ban thì nàng ấy là Vãn Hà. Không bao lâu lại gọi tới ban Liễu Điều, Long Oa quân đặc biệt thử tài một mình A Đoan. Đoan liền múa theo điệu đã được dạy, vẻ vui mừng giận dữ hiện ra theo điệu nhạc, lui tới qua lại ăn khớp với tiết tấu, Long Oa quân khen là sáng dạ, thưởng cho nhung phục ngũ sắc và trâm cài đầu hình cá trên khảm ngọc dạ quang. A Đoan vái lạy tạ ơn rồi cũng rảo bước về thềm phía tây đứng vào ban. Đoan đứng giữa đám đông cứ nhìn Vãn Hà chằm chằm. Vãn Hà cũng từ xa chăm chú nhìn lại.

Giây lát Đoan theo ban từ từ đi về phía bắc, Vãn Hà cũng thong thả theo ban đi về phía nam, cách nhau có mấy quãng đường phép nghiêm không dám làm rối loạn hàng ngũ, chỉ nhìn nhau ngây ngất mà thôi. Kế duyệt tới ban Giáp Điệp, đều là đồng nam đồng nữ từng cặp ra múa, đứa cao đứa thấp, đứa lớn đứa nhỏ nhưng đều mặc áo quần màu trắng màu vàng một loạt như nhau. Các ban duyệt xong xếp hàng đi ra, ban Liễu Điều đi sau ban Yến Tử, Đoan rảo bước lên phía trên thì Vãn Hà đã thong thả lui về phía cuối, ngoảnh lại nhìn Đoan rồi cố ý đánh rơi chiếc trâm bằng san hô, Đoan vội nhặt lấy cho vào tay áo.

Về tới chỗ ở tơ tưởng thành bệnh bỏ ăn bỏ ngủ, bà Giải cứ mang thức ăn ngon tới cho, mỗi ngày ba bốn lần vào thăm hỏi, chăm sóc rất ân cần mà bệnh vẫn không hề giảm. Bà Giải lo lắng không biết làm sao, nói “Đã sắp đến ngày mừng thọ của Ngô Giang vương, làm sao bây giờ?”. Chiều tối có một đồng tử tới vào ngồi bên giường trên chuyện với Đoan, tự nói là trong ban Giáp Điệp rồi thong thả hỏi “Anh bệnh vì Vãn Hà phải không?”, Đoan giật mình hỏi sao biết, nó cười đáp “Chị Vãn Hà cũng như anh thôi". Đoan buồn rầu ngồi dậy nhờ tìm cách giúp cho, đồng tử hỏi “Anh đi được không?" Đoan đáp “Cố gắng thì cũng được”, đồng tử bèn kéo Đoan ra, đi về phía nam, qua một cánh cửa thì vòng qua phía tây, lại mở hai lần cửa nữa thì thấy mấy mươi mẫu sen mọc trên đất bằng, tàu lá to như cái chiếu, cánh hoa to như cái lọng, đài hoa rụng xuống đất chất cao cả thước.

Đồng tử dẫn Đoan vào đó, nói “Cứ ngồi tạm ở đây” rồi đi. Giây lát một mỹ nhân rẽ hoa sen bước vào, thì là Vãn Hà. Hai người gặp nhau vừa mừng vừa sợ, cùng kể lể nỗi nhớ nhung rồi thuật qua chuyện mình. Kế lấy lá dằn lên lá sen che kín lại, vun đài hoa rụng làm chiếu rồi vui vẻ ân ái với nhau, kế hẹn chiều hôm sau gặp lại rồi chia tay. Đoan về thì bệnh cũng giảm từ đó ngày nào hai người cũng gặp nhau ở bãi sen. Qua vài hôm thì theo Long Oa quân tới chúc thọ Ngô Giang vương, chúc thọ xong các ban đều về, chỉ còn Vãn Hà và một người trong ban Khổng Oanh ở lại dạy múa trong cung Ngô Giang vương, vài tháng không có tin tức gì.

Đoan sốt ruột trông ngóng, thì có bà Giải hàng ngày lui tới phủ Ngô Giang vương, bèn bịa rằng Vãn Hà là em họ ngoại của mình, xin bà dẫn đi thăm mong được gặp mặt một lần. Nhưng ở lại trong phủ Ngô Giang vương mấy ngày mà cung cấm thâm nghiêm, Vãn Hà lại không sao ra được đành rầu rĩ trở về, hơn một tháng thì nhớ nhung mỏi mòn sắp chết. Một hôm bà Giải vào, đau xót chia buồn nói “Tiếc thay, Vãn Hà nhảy xuống sông tự tử rồi”. Đoan kinh sợ chảy nước mắt ròng ròng không sao cầm được, vứt mũ xé áo mang vàng ngọc bỏ ra, định chết theo Vãn Hà, nhưng thấy nước trong sông như bức vách, ra sức lấy đầu húc mà vẫn không vào được cũng muốn quay về song sợ bị hỏi tới mũ áo tội sẽ nặng thêm, trong lòng quẫn bách, mồ hôi toát ra khắp người.

Chợt thấy trên vách sóng có một cây đại thụ bèn bám vào trèo lên, dần dần lên tới ngọn cây rồi hết sức nhảy xuống, may không bị ướt mà thấy mình nổi trên mặt nước. Trong lúc bất ngờ lại chợt thấy cõi trần, bèn bì bõm bơi đi. Giây lát vào tới bờ, lên khỏi bến sông nhớ tới mẹ già liền thuê thuyền về. Về tới quê nhìn cảnh vật bốn bề thấy như đã trải qua kiếp khác. Hôm sau về tới nhà, chợt nghe sau cửa sổ có người con gái nói “Con mẹ tới rồi”, giọng nói rất giống Vãn Hà, kế cùng với mẹ bước ra, quả là Hà thật. Lúc ấy hai người mừng rỡ quên hết nỗi đau xót mà bà mẹ thì đau xót ngờ vực, sợ hãi mừng rỡ xen lẫn.

Lúc trước Vãn Hà ở trong phủ Ngô Giang vương thấy trong bụng máy động mà phép tắc dưới Long cung rất nghiêm, sợ một sớm một chiều lâm bồn sẽ bị trừng phạt mà không gặp được A Đoan lần nữa, chỉ muốn tìm cái chết bèn nhảy xuống sông tự tử. Thân thể nổi lên dật dờ trong sóng, được người khách đi thuyền vớt lên, hỏi tới quê quán thì Hà vốn là ca kỹ nổi tiếng ở đất Ngô chết đuối không tìm được xác, tự nghĩ không thể trở lại kỹ viện bèn nói “Họ Tưởng ở Trấn Giang là chồng ta”, người khách bèn thuê thuyền cho về tới nhà. Bà Tưởng ngở là lầm, nàng nói là không lầm rồi kể rõ tình thật, bà thấy nàng xinh đẹp phong vận nên rất yêu mến. Kế lại nghĩ nàng còn quá trẻ, ắt không phải là kẻ chịu ở góa, nhưng cô gái rất cung kính hiếu thảo, thấy nhà nghèo bèn cởi châu báu trang sức bán được vài vạn đồng mang về, bà Tưởng thấy nàng không có ý gì khác rất mừng.

Nhưng vì không có con trai ở nhà nên sợ lúc nàng sinh nở thì họ hàng láng giềng không tin, cô gái nói "Cốt là mẹ được cháu nội thật chứ cần gì người ta biết", bà cũng yên lòng. Đến lúc ấy Đoan về, cô gái mừng quýnh, bà mẹ cũng ngờ là con không chết, lén đào mộ con lên thì hài cốt đều còn đó bèn đem chuyện căn vặn Đoan. Đoan mới sực hiểu nhưng sợ Vãn Hà chê mình không phải là người bèn dặn mẹ đừng nói ra, mẹ cho là phải bèn nói với láng giềng rằng cái xác vớt được trước đây không phải là con mình, nhưng rốt lại cũng sợ Đoan không thể sinh được con trai.

Không bao lâu Vãn Hà sinh được một con trai, bế thấy không khác gì trẻ con thường mới vui mừng. Lâu dần cô gái biết được A Đoan không phải là người bèn nói "Sao chàng không nói sớm, phàm là ma mà mặc áo của Long cung qua bốn mươi chín ngày hồn phách sẽ ngưng tụ lại chẳng khác gì người sống. Nếu có keo sừng rồng của Long cung thì có thể nối xương cốt mà sinh da thịt, tiếc là không mua cho sớm". Đoan bán viên ngọc của mình, có người khách buôn đất Hồ bỏ ra trăm vạn đồng để mua, nhờ đó trở thành giàu có cự vạn. Đến ngày mừng thọ mẹ thì vợ chồng múa hát dâng rượu, chuyện dần truyền tới phủ Hoài vương.

Vương muốn chiếm đoạt Vãn Hà, Đoan sợ hãi vào ra mắt vương tự tâu bày rằng hai vợ chồng đều là ma, vương sai xét nghiệm đều thấy không có bóng nên tin lời không bắt Vãn Hà nữa. Nhưng sai cung nhân ra biệt viện cho nàng dạy múa, Vãn Hà lấy nước đái rùa bôi lên mặt loang lổ che giấu dung mạo rồi mới tới ra mắt. Dạy được ba tháng họ cũng không sao học hết được tài múa, kế nàng trở về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
 Tác giả| Đăng lúc 3-6-2012 03:48:47 | Chỉ xem của tác giả
076. Bạch Thu Luyện (Bạch Thu Luyện)


Ở tỉnh Trực Lệ có Mộ sinh tự Thiềm Cung là con thương gia Mộ Tiểu Hoàn, thông minh ham học. Năm mười sáu tuổi cha cho rằng việc văn chương là viễn vông, bắt bỏ học đi buôn. Sinh theo cha tới đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), mỗi khi trong thuyền rảnh rỗi lại ngâm nga đọc sách. Tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc), cha ở lại nhà trọ để giữ hàng, sinh nhân lúc cha đi vắng cầm sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng, cứ thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng như có người nghe trộm nhưng cũng chưa lấy gì làm lạ.

Một đêm cha đi uống rượu lâu không về, sinh càng cao giọng ngâm nga, thấy có người quanh quẩn ngoài song, trăng sáng nhìn thấy rất rõ, lấy làm lạ vội bước ra xem thì là một nữ lang tuyệt đẹp khoảng mười lăm mười sáu tuổi, thấy sinh vội vàng tránh đi. Hai ba ngày sau chở hàng về bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ, cha vừa ra khỏi thuyền thì có bà già bước vào nói "Chàng giết con gái ta rồi". Sinh ngạc nhiên hỏi, bà đáp "Ta họ Bạch, có một gái tên Thu Luyện, cũng hơi biết chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh cao nên đem lòng nhớ nhưng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết duyên, xin đừng chối từ". Sinh thật lòng rất thích nhưng còn lo cha giận, bèn nói thẳng với bà già, bà già không tin bắt phải thề nguyền, sinh không chịu. Bà giận nói “Việc nhân duyên ở đời, có kẻ xin mang sính lễ tới mà còn không được, nay già tự đứng ra làm mối cho con lại bị từ chối thì còn gì nhục bằng, vậy xin đừng nghĩ tới chuyện về Bắc nữa", rồi bỏ đi.

Lát sau cha về, sinh khéo léo kể lại, có ý mong cha chấp thuận nhưng cha vì đường sá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái hoài xuân nên cười bỏ qua. Chỗ đậu thuyền nước sâu lút con sào, đến đêm cát sỏi chợt bồi lên, thuyền mắc cạn không xoay trở gì được. Hàng năm thuyền buôn trong hồ vẫn có người ở lại, đến mùa nước hoa đào năm sau hàng hóa nơi khác vẫn chưa kịp chở tới, những hàng trong thuyền đều tăng giá gấp trăm. Cha sinh vì vậy cũng không lo lắng gì lắm, chỉ tính cách làm sao sang năm về Bắc hàng vẫn được giá, bèn để con ở lại còn mình về nhà.

Sinh mừng thầm nhưng tiếc là không hỏi rõ nơi ở của bà già. Trời sập tối, bà già cùng một tỳ nữ dìu nữ lang tới, cởi áo khoác đặt nàng lên giường, kế nhìn sinh nói "Người ta bệnh tới mức này, xin đừng nằm khoèo làm ra vẻ vô sự nữa", rồi bỏ đi. Sinh vừa nghe thì hoảng sợ, cầm đèn tới nhìn cô gái thấy đang lúc đau ốm vẫn xinh đẹp, ánh mắt vẫn lóng lánh. Lại gần hỏi han, nàng chỉ cười khẽ. Sinh cố ép lên tiếng thì nàng nói "Câu Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng[77] là vịnh thiếp đấy".

Sinh mừng quýnh muốn thân cận nhưng thương nàng còn yếu nên chỉ sờ tay vào bụng vuốt ve hôn hít làm vui. Cô gái chợt rạng rỡ mặt mày, tươi cười nói "Hãy ngâm cho thiếp nghe ba lần bài Áo là lớp lớp của Vương Kiến[78] thì sẽ khỏi bệnh". Sinh theo lời, ngâm đến lần thứ hai cô gái đã xốc áo ngồi dậy nói “Thiếp khỏi rồi”, ngâm tiếp thì nàng cất giọng êm ái thỏ thẻ họa theo, sinh thần trí càng bay bổng bèn tắt đèn cùng ngủ. Trời chưa sáng cô gái đã dậy, nói “Mẹ già sắp tới rồi". Không bao lâu quả nhiên bà già tới, thấy con gái đang ngồi tươi tắn trang điểm bất giác mừng rỡ, giục về thì nàng cúi đầu không nói. Bà già lập tức ra về, nói "Ngươi thích vui đùa với lang quân thì mặc ngươi".  

Sinh nhân hỏi nhà cửa ở đâu, cô gái nói "Thiếp với chàng chẳng qua là bạn mới quen, việc cưới xin còn chưa chắc chắn, cần gì phải biết nhà cửa, nhưng hai người vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một đêm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn mở sách ra xem rồi buồn bã rơi lệ. Sinh vội dậy hỏi, nàng đáp "Cha chàng sắp tới đây, chuyện giữa hai ta mới rồi thiếp vừa mở sách bói một quẻ thì được bài Giang Nam khúc của Lý Ích[79], ý bài thơ không phải là điềm hay". Sinh an ủi nói "Câu đầu bài thơ là Lấy chàng thương lái Cù Đường thì đại cát có gì là không hay”. Cô gái mới hơi vui vẻ, đứng lên từ biệt, nói “Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người dòm ngó". Sinh cầm tay nàng nghẹn ngào hỏi "Nếu việc tốt đẹp thì báo cho nàng ở đâu?”,  cô gái đáp “Thiếp vẫn sai người dò la, việc tốt đẹp hay không là biết ngay”. Sinh định lên bờ tiễn chân nhưng nàng cố từ chối rồi đi.

Không bao lâu quả ông Mộ tới, sinh dần dà thổ lộ tình thật, cha ngờ là dắt kỹ nữ về, nổi giận chửi mắng, đến khi xem kỹ trong thuyền thấy không mất mát chút gì mới thôi. Một đêm ông đi vắng, cô gái chợt tới, hai người buồn rầu nhìn nhau không biết làm sao. Nàng nói “Thấp cao có số, cứ lo việc trước mắt đã xin chàng ở lại thêm hai tháng rồi sẽ bàn tiếp". Lúc chia tay hẹn lấy tiếng ngâm thơ làm hiệu gặp nhau. Từ đó cứ cha đi vắng, sinh lại cao giọng ngâm nga thì nàng tới. Sắp hết tháng tư hàng hóa đều mất giá, đám khách buôn không biết làm sao bèn góp tiền sắm lễ vật tới cầu đảo ở miếu thần hồ. Sau tiết Đoan dương mưa to nước lên, thuyền mới đi được.

Sinh về tới nhà tương tư thành bệnh, ông Mộ lo lắng tìm đủ cách cầu cúng thuốc thang. Sinh nói riêng với mẹ “Bệnh của con chẳng có thuốc men cầu cúng nào chữa được, chỉ có Thu Luyện tới mới xong". ông Mộ lúc đầu nổi giận nhưng lâu sau thấy sinh ngày càng gầy gò héo hắt thì hoảng sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chỗ cũ. Hỏi người ở đó thì không ai biết bà già họ Bạch, vừa lúc có bà già ghé thuyền vào bờ, bước ra tự nhận là mình. Ông Mộ lên thuyền thấy mặt Thu Luyện mừng thầm, nhưng hỏi tới dòng dõi gia thế thì ra chỉ sống trên thuyền, trôi nổi đây đó mà thôi. Ông nhân nói thật bệnh của con trai, mong nàng tới thuyền mình để con bớt bệnh trước, nhưng bà già lấy cớ chưa định hôn ước nên không chịu. Cô gái ngồi nghiêng chăm chú lắng nghe, thấy hai người tranh cãi thì rưng rưng muốn khóc.

Bà già thấy mặt con gái như thế, lại vì ông Mộ năn nỉ quá nên cũng nhận lời. Đến đêm, ông ra ngoài, cô gái quả tới, lại gần giường khóc lóc, nói “Tình cảnh thiếp năm trước nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy”. Sinh cũng mừng rỡ, cô gái bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến ngày trước. Sinh nói "Đó là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người sao được. Nhưng nghe giọng nàng cũng đã thấy tâm thần khoan khoái, hãy thử ngâm bài Liễu hướng về tây ca vạn cành[80] cho ta nghe xem”.

Cô gái theo lời, sinh thích thú nói “Khoan khoái quá! Trước đây nàng đọc bài Hái sen trong tập Thi dư có câu Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò[81] vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa", nàng lại theo lời. Vừa dứt tiếng, sinh nhảy ngay dậy nới “Tiểu sinh có bệnh gì đâu”, rồi ôm ấp nhau như đã khỏi hẳn. Kế hỏi “Cha gặp mẹ nàng nói những gì? Việc có xong không?”. Cô gái đã biết ý ông Mộ, nói thẳng rằng không xong rồi đi.

Cha về thấy sinh đã dậy được mừng lắm nhưng chỉ lựa lời khuyên nhủ, nhân nói “Con bé rất đẹp, nhưng từ nhỏ đã ôm mái chèo gõ bánh lái ca hát, chưa nói tới chuyện là con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh", sinh im lặng. Cha vừa đi thì cô gái trở lại, sinh kể rõ ý cha. Nàng nói "Thiếp vừa nhìn đã biết ngay rồi. Việc đời cứ càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt, cứ để ông tự đổi ý quay lại cầu cạnh nhau”. Sinh hỏi kế, nàng đáp "Kẻ buôn bán thì chỉ mong được lợi thôi. Thiếp có thuật biết được giá cả hàng hóa, mới rồi thấy các hàng hóa trên thuyền chẳng thứ nào có lời chút gì. Hãy nói với cha chàng muốn lãi gấp ba thì mua hàng này, muốn lãi gấp mười thì mua hàng này, về tới nhà nếu đúng thì thiếp đúng là dâu hiền rồi. Lúc trở lại thì chàng mười tám tuổi còn thiếp mười bảy, còn có ngày sum vầy, có gì phải lo".

Sinh đem lời nàng nói lại với cha, cha không tin lắm nên tạm đem nửa số tiền còn thừa mua những hàng nàng dặn. Sau khi về, những hàng ông mua đều lỗ nặng, may có ít hàng mua theo lời cô gái được lãi lớn nên bù lại được, vì thế phục Thu Luyện là thần. Sinh còn khoe khoang rằng cô gái tự nói có thể giúp mình thành giàu có, vì thế ông Mộ lại mang thêm nhiều tiền xuống Nam. Tới hồ mấy ngày không thấy bà già họ Bạch, qua mấy hôm nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu bèn đem sính lễ tới. Bà không nhận gì cả, chỉ chọn ngày lành đưa con gái qua thuyền sinh, ông Mộ thuê một thuyền khác cho con làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông xuống Nam, hàng nào cần mua đều viết ra giấy đưa ông, bà già bèn mời rể qua ở thuyền mình.

Ba tháng sau ông Mộ trở lại, hàng hóa mới về tới đất Sở đã tăng giá gấp đôi. Khi sắp về, cô gái xin chở theo một ít nước hồ, về tới nhà mỗi lần ăn cơm lại rưới vào một ít như chan tương. Vì vậy lần nào xuống Nam ông cũng mang về cho vài vò. Ba bốn năm sau nàng sinh một trai. Một hôm cô gái khóc muốn về thăm nhà, ông Mộ bèn dẫn cả con và dâu cùng tới đất Sở. Tới hồ không biết bà già ở đâu, cô gái gõ mạn thuyền gọi mẹ, thất sắc giục sinh theo ven hồ tìm hỏi. Vừa lúc có người câu cá tầm hoàng câu được một con cá ngựa trắng, sinh tới gần xem thì là một con cá lớn hình dáng như người, có đủ cả vú và âm hộ. Sinh về kể lại, cô gái hoảng hốt nói trước kia có lời nguyền phóng sinh, bảo sinh mua thả ra. Sinh tới thương lượng nhưng người câu cá đòi giá rất cao. Cô gái nói "Thiếp ở nhà chàng nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới bạc vạn, mà sao lại khư khư tiếc nhau bấy nhiêu. Nếu không nghe thì thiếp nhảy xuống hồ chết quách cho rồi".

Sinh sợ, không dám nói với cha, lấy trộm tiền mua cá thả ra. Khi quay về không thấy cô gái, tìm mãi không được, đến khuya nàng mới về. Hỏi đi đâu, nàng đáp "Vừa về nhà mẹ". Hỏi mẹ ở đâu, nàng nói "Hôm nay thì không thể không thưa thật, con cá chàng vừa chuộc chính là mẹ thiếp đấy. Trước sống ở hồ Động Đình, được Long quân giao coi việc khách qua lại. Gần đây trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên có sắc chỉ trị tội mẹ để đòi thiếp. Mẹ thiếp tâu thật nhưng Long quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, gần chết đói nên mới mắc nạn. Nay tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa được xóa tội. Nếu chàng yêu thiếp thì hãy thay thiếp khẩn cầu với Chân quân, mẹ có thể được yên lành. Còn nếu thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con cho chàng, thiếp đi. Hầu hạ ở Long cung chưa chắc đã không gấp trăm lần ở nhà chàng”.

Sinh cả sợ, lo không gặp được Chân quân, nàng nói "Giờ Mùi ngày mai Chân quân sẽ tới, cứ thấy vị đạo sĩ thọt chân thì phải phục xuống lạy ngay, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân quân thích kẻ văn sĩ, ắt sẽ rủ lòng thương xót". Kế lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá nói "Nếu Chân quân hỏi muốn xin điều gì thì đưa cái này ra xin ông viết cho một chữ Miễn". Sinh theo lời chờ, quả có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Sinh lạy phục xuống, đạo sĩ bước mau đi, sinh rảo theo sau. Đạo sĩ ném gậy xuống nước rồi nhảy lên trên, sinh cũng lội xuống nước lên theo, thì không phải gậy mà là một chiếc thuyền. Sinh lại sụp xuống lạy, đạo sĩ hỏi cần gì, sinh đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ giở ra nhìn, nói "Đây là vẩy cá ngựa trắng, sao ngươi có được?', Thiềm Cung không dám giấu, kể rõ đầu đuôi, đạo sĩ cười nói “Loài này rất phong nhã, con rồng già làm sao hoang dâm được". Bèn rút bút ra viết ngoáy một chữ “Miễn" như đạo bùa, rồi quay thuyền ghé bờ bảo sinh lên. Kế thấy đạo sĩ đạp cây gậy rẽ nước mà đi, phút chốc đã mất dạng.

Sinh về thuyền, cô gái mừng rỡ, dặn đừng nói lộ cho cha mẹ biết. Sau khi về nhà hai ba năm, ông Mộ xuống nam mấy tháng không về, bình nước hồ cạn dần mà chờ mãi không thấy. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc, dặn sinh "Nếu thiếp chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ Mão, Ngọ, Dậu lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch, thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi nước về rót vào bồn rồi đóng cửa, cởi áo thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, thiếp sẽ sống lại”. Thở thoi thóp vài hôm, nàng lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ về, sinh vội làm theo lời, ngâm nước khoảng một giờ thì nàng dần dần tỉnh lại. Từ đó nàng thường có ý muốn về nam. Sau ông Mộ mất, sinh chiều ý nàng dời nhà xuống sống ở đất Sở.

Chú thích:
[77] Vì chàng... cùng chàng: nguyên văn là "Vị lang tiều tụy khước tu lang", câu trong bài thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường gởi Trương Quân Thụy.
[78] Bài áo là... của Vương Kiến: nguyên văn là “Vương Kiến La y diệp diệp chi tác", tức bài Cung từ của Vương Kiến thời Đường, mở đầu bằng câu "La y diệp diệp tú trùng trùng” (áo là lớp lớp chập chùng thêu)
[79] Bài Giang Nam khúc của Lý ích: tức bài thơ của Lý ích thời Đường, nguyên văn là “Giá đắc Cù Đường cổ, Triêu triêu ngộ thiếp kỳ, Tảo tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi" (Lấy chàng thương lái Cù Đường, Sớm hôm chờ đợi xót thương phận mình, Nếu hay con nước đáng tin, Đã theo con nước kết tình phu thê)
[80] Bài Liễu hướng về tây ca vạn cành: tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình thời Đường, nguyên văn là "Triêu nhật tàn oanh bạn thiếp đề, Khai liêm chỉ kiến thảo thê thê, Đình tiền thời hữu đông phong nhập, Dương liễu thiên điều tận hướng tây”, (Sáng sớm quanh mình rộn tiếng oanh, Mở rèm chỉ thấy cỏ xanh xanh, Gió xuân thổi lộng trong đình viện, Liễu hướng về tây cả vạn cành).
[81] Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò: nguyên văn là "Hạm đạm hương liên thập khoảnh pha", chưa rõ xuất xứ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 4-6-2012 21:42:06 | Chỉ xem của tác giả
077. Hòa Thượng Họ Kim (Kim Hòa Thượng)


Hòa thượng họ Kim là người Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), cha là kẻ vô lại, đưa mấy trăm đồng tiền đem Kim lên gởi vào chùa trên núi Ngũ Liên. Kim lúc nhỏ ngu si đần độn không thể học kinh, chỉ làm được những việc chăn heo đi chợ như tôi tớ. Sau sư phụ của Kim chết, cũng có chút ít tiền bạc để lại, Kim cuỗm đi trốn khỏi chùa làm nghề buôn bán, rất giỏi những việc treo dê bán chó, tráo đấu lường thăng nên chỉ mấy năm vụt trở nên giàu có. Bèn mua ruộng đất nhà cửa ở làng Thủy Pha, đệ tử rất đông, hàng ngày có hàng ngàn người ăn cơm, quanh làng có mấy ngàn mẫu ruộng tất đều là của Kim, trong làng có vài mươi gian nhà lớn đều là sư ở. Nếu là người khác thì cũng là kẻ nghèo khó không sản nghiệp nên dắt vợ con tới đó ở nhà thuê làm ruộng mướn mà thôi, có mấy trăm gia đình như thế.

Mỗi nhà thì cất phòng sát tường san sát cho họ ở, sư thì ở giữa, phía trước có sảnh đường, rường sơn cột chạm sơn son thiếp vàng lóa mắt, bàn ghế bình phong trong sảnh bóng loáng có thể soi được. Phía sau thì làm phòng ở, rèm đỏ màn thêu xông lan xạ thơm phức, giường nằm chạm trổ khảm xà cừ, trên giường trải nệm dày hơn thước, trên vách thì treo kín các bức vẽ mỹ nhân sơn thủy nổi tiếng. Trong nhà gọi to một tiếng thì ngoài cổng có mấy mươi người dạ ran như sấm ào ào chạy vào xếp hàng im lặng lắng tai nghe lệnh. Khách tới bất ngờ thì trong vòng mười mâm có thể bày lên trong chớp mắt, cơm canh rượu thịt ngon lành bưng lên tới tấp. Chí là không dám công nhiên nuôi ca kỹ nhưng cũng có mười mấy tiểu đồng đẹp trai, đều lanh lợi khéo léo có thể làm vừa lòng người, sai đội khăn đen ca hát thì người nghe kẻ xem cũng không thấy chướng.

Kim mỗi lần ra khỏi nhà thì trước sau có vài mươi kỵ mã đeo cung dẹp đường, bọn tôi tớ đều gọi là gia gia, dân trong huyện người gọi là ông, người gọi là chú chứ không gọi là sư hay Thượng nhân, cũng không gọi theo pháp hiệu. Môn đồ Kim ra ngoài thì nghi vệ có kém hơn nhưng áo đẹp ngựa khỏe cũng gần như các công tử con quan. Kim lại giao du rộng, cho dù ngoài ngàn dặm cũng biết được tin tức, vì vậy các quan lớn nhỏ trong vùng nếu ngẫu nhiên làm Kim mất lòng cũng run sợ lo lắng. Nhưng Kim là người thô lỗ, từ đầu tới chân không có chút nào là văn nhã, bình sinh không đọc một câu kinh, tụng một câu sấm, chân không lui tới chùa chiền, phòng không bày biện chuông mõ, những vật ấy thì bọn môn đồ chưa từng thấy mà cũng chưa từng nghe. Phàm những gia đình tới thuê nhà ở thì phụ nữ trang sức như gái kinh đô, phấn sáp gương lược đều do sư cấp, sư cũng không bỏn xẻn. Vì vậy các gia đình không có ruộng mà làm nông trong vùng có tới vài trăm.

Thỉnh thoảng lại có chuyện tá điền giết sư trên giường, Kim cũng không tra xét gì lắm, chỉ đuổi đi nơi khác, dần dần thành lệ. Kim lại mua trẻ con khác họ nuôi làm con mình, rước thầy về dạy cho học hành. Đứa nhỏ thông minh học giỏi, bèn sai vào học trường huyện, kế theo lệ mua cho chức Thái học sinh. Không bao lâu y lên thi hương ở phủ Thuận Thiên đỗ Cử nhân, từ đó Kim được gọi là Thái công, những người gọi là gia gia trước đây càng khúm núm, con cháu của họ đều chắp tay làm lễ với Kim như ông tổ mấy đời.

Không bao lâu Thái công chết, Hiếu liêm mặc tang phục cư tang, tự xưng là con mồ côi, các môn đồ chống gậy đứng đầy quanh giường, nhưng sau linh sàng chỉ có một mình phu nhân Hiếu liêm khe khẽ sụt sùi mà thôi. Sĩ phu có người dắt vợ ăn mặc đẹp đẽ tới điếu tế an ủi, mũ lọng xe kiệu chen chúc tắc cả đường. Ngày chôn cất thì nhà táng cao chạm mây, cờ phướn rợp mặt trời, khi chôn thì bó cỏ dán giấy vàng bạc ngũ sắc làm vật tuẫn táng, gồm mấy mươi cỗ kiệu, một ngàn con ngựa, một trăm mỹ nhân. Làm thần dẹp đường đội khăn gấm đen, đầu cao chạm mây, nhà đám thì lầu gác phòng ốc rộng tới mấy mẫu, ngàn cửa trăm cổng, ai vào cũng lạc không biết đường ra, những vật đưa lên cúng tế đều không thể gọi tên.

Những người tới dự đám tang mũ lọng chen nhau, các quan lớn cũng lom khom vào quỳ lạy tám lần, các Giám sinh, Cống sinh và quan nhỏ ở huyện thì bò ra đất dập đầu làm lễ không dám để công tử và các sư thúc lạy trả. Cả vùng đổ tới xem đám ma, đàn ông dắt vợ, đàn bà bế con mồ hôi nhễ nhại đứng đầy đường, tiếng người ồn ào át cả tiếng chiêng trống, người đứng chỉ hở có từ vai trở lên, hàng vạn cái đầu ngoảnh qua ngoảnh lại mà thôi. Có kẻ có thai chuyển bụng sinh nở thì chị em bạn kéo xiêm giáng quanh làm màn che, nghe tiếng trẻ khóc cũng không buồn hỏi là trai hay gái, lập tức xé áo làm tã bế lên rồi kẻ dìu người kéo sản phụ chập choạng bước đi, thật là kỳ quan vậy! Sau khi chôn cất xong, đem những tiền của Kim để lại chia đôi, con Kim một phần, các môn đồ một phần. Hiếu liêm được nửa gian gian nhà, bốn phía nam bắc đông tây toàn là sư ở nhưng đều là hàng anh em, đau ngứa gì cũng có nhau.

Dị Sử thị nói: Một phái ấy thì hai dòng[82] chưa có, sáu tổ[83] không truyền, có thể nói là một mình mở ra một pháp môn vậy. Nhưng vẫn nghe ngũ uẩn đều không, lục trần không nhiễm là Hòa thượng, trong miệng thuyết pháp, trên ghế tham thiền là Hòa dạng, giày thơm đất Sở, nón nặng trời Ngô là Hòa chàng, chiêng trống ồn ào, đàn sáo ầm ĩ là Hòa xướng, chơi bời lăng nhăng, cờ bạc bợm bãi là Hòa chướng. Như Kim là Hòa thượng chăng, là Hòa dạng chăng, là Hòa chàng chăng, là Hòa xướng chăng, hay là Hòa chướng ở địa ngục chăng?

Chú thích:
[82] Hai dòng: tức Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo đại thừa Trung Hoa.
[83] Sáu tổ: tức sáu vị sau Đạt Ma trong Phật tâm tông của Phật giáo đại thừa Trung Hoa, gồm Tuệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Tuệ Năng, Thần Hội.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
 Tác giả| Đăng lúc 4-6-2012 22:35:19 | Chỉ xem của tác giả
079. Rồng Dời (Chí Long)


Quan Thông chính sứ họ Khúc ở đất U Lục (thuộc tỉnh Sơn Đông) đọc sách trên lầu, gặp lúc trời mưa mù mịt, thấy một con dời nhỏ sáng như đom đóm cựa quậy trên bàn, bò qua khỏi chỗ nào thì chỗ ấy cháy đen. Dần dần bò lên quyển sách, quyển sách cũng bị cháy. Ông nghĩ là rồng bèn bưng quyển sách lên tiễn đi, nhưng ra tới ngoài cửa đứng chờ hồi lâu vẫn thấy nằm bất động bèn nói "Hay là cho rằng ta không cung kính?". Bèn bưng quyển sách trở vào đặt lại lên bàn, đội mũ mặc áo vái dài rồi lại bưng ra. Vừa tới ngoài thềm thì con dời ngẩng đầu duỗi thân rời quyển sách bay lên, rít gió thành tiếng thành một đạo ánh sáng kéo dài. Ra được vài bước thì quay nhìn lại ông, đầu như cái vò, dài mấy mươi vây. Lại uốn lộn một hồi thì có tiếng sét nổ ầm ầm, vọt thẳng lên mây đi mất. Quay vào nhìn chỗ nó vừa bò qua thì thấy từng đoạn từng đoạn như tre bị đốt vậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
 Tác giả| Đăng lúc 4-6-2012 22:38:16 | Chỉ xem của tác giả
080. Cái Búi Tóc Nhỏ (Tiểu Kết)


Huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) có người dân là Mỗ đang ngồi chơi thì có người khách thấp lùn tới, ngước mặt trò chuyện hồi lâu, thấy bình sinh không hề quen biết, cố nhớ lại. Khách nói "Ba bốn hôm nữa sẽ dời tới đây làm láng giềng". Qua bốn năm hôm lại tới nói "Hôm nay đã là cùng làng, xin được sớm tối dạy bảo cho". Mỗ hỏi ngụ ở đâu, người ấy không nói rõ, chỉ lấy tay chỉ về phía bắc. Từ đó ngày nào cũng tới, có khi hỏi mượn vật dùng chén bát, nếu có ai bủn xỉn không cho thì tự nhiên bị mất, mọi người cùng nghi là hồ.

Phía bắc thôn có ngôi mộ cổ, sâu không biết là bao nhiêu, mọi người ngờ hồ ở đó, cùng nhau vác gậy gộc khí giới tới nằm rình, hồi lâu không thấy gì lạ. Đến hết canh một thì nghe dưới mộ có tiếng lào xào như hàng trăm hàng ngàn người trò chuyện, mọi người im lặng không động đậy. Giây lát có đám người lùn khoảng hơn một thước lũ lượt kéo ra, đông không biết bao nhiêu mà kể. Mọi người cùng quát tháo vùng dậy xô vào đánh túi bụi, đánh trúng thì trên gậy lửa bắn tứ tung, trong chớp mắt bọn kia chạy tứ tán. Chỉ còn lại một cái búi tóc nhỏ bằng trái hồ đào bọc lụa buộc dây kim tuyến, ngửi thử thì hôi tanh vô cùng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
 Tác giả| Đăng lúc 4-6-2012 22:47:46 | Chỉ xem của tác giả
081. Hoắc Sinh (Hoắc Sinh)


Hoắc sinh và Nghiêm sinh ở huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ vẫn đùa giỡn với nhau, lớn lên cũng hay chọc ghẹo nhau, lấy miệng lưỡi hơn thua, chỉ sợ không bằng đối thủ. Hoắc có bà già láng giềng từng đỡ đẻ cho vợ Nghiêm, ngẫu nhiên trò chuyện với vợ Hoắc, nói rằng chỗ kín của vợ Nghiêm có hai mụn cóc, vợ bèn kể lại cho Hoắc. Hoắc bèn cùng chúng bạn bàn tính, rình lúc Nghiêm vừa tới, cố ý nói thầm với nhau rằng “Ta quá rành vợ y". Chúng bạn làm ra vẻ không tin, Hoắc bèn bịa đặt đủ cả đầu đuôi rồi nói "Nếu không tin, thì chỗ kín của vợ y có hai cái mụn cóc”' Nghiêm dừng lại ngoài cửa sổ nghe thấy hết bèn không vào, quay về nhà chửi mắng đánh đập vợ. Người vợ không chịu nhận, Nghiêm đánh đập càng tàn nhẫn, vợ không chịu nổi treo cổ tự tử.

Hoắc vô cùng hối hận nhưng không dám nói thật với Nghiêm là mình bịa đặt. Vợ Nghiêm chết rồi, đêm đêm cứ hiện hồn về khóc lóc, cả nhà không sao ở yên. Không bao lâu Nghiêm bị bạo bệnh mà chết, hồn ma mới không khóc nữa. Vợ Hoắc nằm mơ thấy vợ Nghiêm xõa tóc gào lớn rằng "Ta chết rất khổ, vợ chồng người lại muốn yên vui à?", tỉnh dậy mắc bệnh vài ngày thì chết. Hoắc cũng nằm mơ thấy vợ Nghiêm xỉa xói chửi mắng, lấy tay vả vào miệng mình, hoảng sợ tỉnh dậy thấy trên môi đau nhức, cứ sưng to dần, ba ngày thì biến ra hai cục thịt thừa thành tật luôn, không dám cười nói lớn tiếng vì há mồm to thì đau không chịu nổi.

Dị Sử thị nói: Kẻ chết rồi mà có thể làm hại là vì bị oan ức. Tật chỗ kín mà lại đem lên môi, thần linh thật như đùa cợt vậy. Trong huyện có họ Vương hay đùa giỡn với bạn học là Mỗ. Vợ Mỗ về thăm cha mẹ ruột, Vương biết con lừa nhà Mỗ nhút nhát bèn ra trước chỗ bụi rậm rình sẵn, chờ người đàn bà tới liền nhảy xổ ra. Con lừa hoảng sợ lồng lên hất người đàn bà ngã xuống, chỉ có một thằng nhỏ theo hầu không sao giữ được con lừa cho nàng leo lên. Vương bèn ân cần tới giúp đỡ, nàng cũng không biết là ai. Vương về lấy đó làm chuyện đắc ý, kể rằng nhân lúc thằng nhỏ đuổi theo con lừa thì mình đã tư thông với vợ Mỗ trong bụi, tả lại quần áo giày tất của nàng rất rõ ràng, Mỗ nghe thế xấu hổ bỏ về. Lát sau Vương nhìn qua cửa sổ thấy Mỗ một tay cầm dao, một tay kéo vợ tới trông rất hung dữ, cả sợ trèo qua tường bỏ chạy, Mỗ đuổi theo suốt hai ba dặm không kịp mới bỏ về. Vương vì ra sức chạy, phế quản bị giãn ra nên từ đó mắc bệnh thở khò khè, mấy năm không khỏi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
 Tác giả| Đăng lúc 4-6-2012 23:14:25 | Chỉ xem của tác giả
Quyển V


082. Hồ Đùa Giỡn (Hồ Hài)


Vạn Phúc tự Tử Tường là người huyện Bác Hưng (tỉnh Sơn Đông). Từ nhỏ theo đòi nghiệp nho, nhà cũng hơi khá giả nhưng thi cử lận đận, hơn hai mươi tuổi vẫn không đỗ đạt gì. Ở quê có lệ xấu là bắt các nhà giàu ra làm lý dịch, có người phải khuynh gia bại sản. Vạn bị ép làm chức ấy, sợ quá trốn tới Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) vào nhà trọ ở. Đêm có cô gái tới khêu gợi, cũng khá xinh đẹp, Vạn thích bèn giao hoan. Hỏi họ tên, cô gái nói “Nói thật ta là hồ, nhưng không làm hại chàng đâu”. Vạn mừng rỡ không ngờ vực gì, nàng dặn đừng ở chung với ai, từ đó ngày nào cũng tới ăn ở cùng phòng, phàm mọi chi dùng hàng ngày đều do hồ chu cấp.

Không bao lâu có vài người quen tới thăm chơi, thường ngủ lại không về. Vạn chán ghét nhưng không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thật. Khách xin được chiêm ngưỡng dung nhan người tiên một lần, Vạn nói với hồ, hồ nói với khách “Gặp ta làm gì? Ta cũng như mọi người thôi”, nghe tiếng nói rõ ràng trước mắt, nhưng nhìn quanh thì không thấy đâu. Khách có người tên Tôn Đắc Ngôn giỏi khôi hài, cố xin được thấy mặt, lại nói được nghe giọng oanh, thần hồn điên đảo, sao lại tiếc không cho thấy dung nhan khiến người ta nghe tiếng mà tương tư. Hồ cười đáp "Cháu hiền muốn vẽ bức tranh hành lạc[84] cho bà cố à?", khách khứa đều cười.  

Hồ nói "Ta là hồ, xin kể chuyện hồ cho khách nghe, chịu không?". Mọi người đều ừ, hồ kể "Xưa ở quán trọ làng nọ có nhiều hồ, thường ra quấy phá khách trọ, khách khứa qua lại biết được, dặn nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán vắng vẻ, chủ trọ lo lắm, rất kiêng nói tới hồ. Chợt có người khách từ xa tới, tự nói là người nước ngoài, thấy quán trọ nên vào nghỉ. Chủ trọ mừng lắm mời vào, liền có người đi đường lén nói với khách rằng “Nhà này có hồ”. Khách sợ, nói rõ với chủ trọ rồi định qua trọ chỗ khác, chủ trọ ra sức phân trần rằng đó là lời bịa đặt.

Khách bèn ở lại, vào phòng vừa nằm xuống thì thấy bầy chuột từ gầm giường chạy ra, khiếp đảm nhào ra ngoài la hoảng "Có hồ". Chủ nhân sợ hãi hỏi han, khách oán trách nói “Hồ làm hang ở đây, sao nói dối ta là không có". Chủ nhân lại hỏi thấy hình thù nó thế nào, khách đáp "Ta nay mới thấy, nó ngắn ngắn nhỏ nhỏ, không phải hồ con ắt là hồ cháu”. Vừa dứt lời thì khách khứa đều cười ầm. Tôn nói "Nếu không cho thấy mặt thì bọn ta sẽ ngủ lại, mà ai đó cũng đừng đi mà bỏ lỡ giấc mộng Dương Đài[85]". Hồ cười đáp "Cứ ngủ lại không sao, nếu có hơi xúc phạm thì xin đừng để bụng". Khách sợ bị chơi ác bèn cùng tan về.  

Kế cứ vài ngày lại tới, đòi hồ trêu cợt. Hồ rất giỏi khôi hài, cứ lên tiếng là khách cười nghiêng ngửa, nhưng kẻ có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người đùa gọi là Hồ nương tử. Một hôm bày tiệc họp mặt, Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai người khách nữa chia ngồi hai bên, đặt một cái giường phía sau mời hồ, hồ từ chối là không hay rượu. Có người xin cứ ngồi nói chuyện, hồ ưng thuận. Rượu được vài tuần, mọi người bày trò gieo xúc xắc làm tửu lệnh "qua man”[86], khách trúng mặt dưa bị phạt, đùa đưa chén qua giường nói "Hồ nương tử là bậc đại tỉnh, xin uống giùm một chén". Hồ cười đáp "Ta vốn không uống được, xin kể một câu chuyện góp vui với các vị". Tôn bịt tai ra vẻ không muốn nghe, mọi người đều nói "Nếu chửi xỏ người thì phải chịu phạt đấy”. Hồ cười hỏi “Thế ta chửi xỏ hồ được không?", mọi người đáp “Được", rồi lắng tai nghe.  

Hồ kể "Xưa có một ông quan lớn đi sứ nước Hồng Mao”[87] đội mũ lông hồ vào yết kiến quốc vương nước ấy. Quốc vương thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dày vừa mềm như thế. Ông quan lớn ấy thưa là lông hồ. Quốc vương nói bình sinh chưa từng nghe nói tới, vậy chữ “hồ" viết ra sao? Ông quan lớn bèn lấy tay vạch lên không, tâu “Bên phải là một qua lớn, bên trái là một khuyển nhỏ"[88], chủ khách lại cười ầm.

Hai người khách kia là hai anh em họ Trần, một tên Sở Kiến, một tên Sở Văn, thấy Tôn bị áp đảo quá bèn nói "Hồ đực đâu mà để hồ cái ác hại thế này?". Hồ nói “Có một câu chuyện kể chưa xong đã bị sủa loạn làm ngắt quãng, xin kể nốt. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, rất lạ lùng. Sứ thần thưa "Đây là do con ngựa đẻ ra”' quốc vương lại càng lấy làm lạ. Sứ thần nói ở Trung Quốc thì con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai”. Quốc vương hỏi kỹ hình dạng, sứ thần đáp "Ngựa đẻ ra la là thần sở kiến, la đẻ ngựa choai là thần sở văn[89]", cử tọa lại cười ầm.

Mọi người biết không địch nổi mồm mép của hồ, liền giao hẹn trở đi nếu ai khơi chuyện ngạo ngược thì phải đứng ra làm chủ, bỏ tiền mua rượu. Giây lát rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Vạn “Có vế đối thách ông đối lại”, Vạn hỏi câu gì, Tôn đọc “Kỹ nữ xuất môn phỏng tình nhân, lai thời vạn phúc, khứ thời vạn phúc[90]” cả bàn nghĩ mãi không ai đối được. Hồ cười nói "Ta có câu rồi đây", mọi người lắng tai nghe, hồ đọc “Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn[91]” tất cả lại cười bò ra. Tôn bực lắm, nói “Đã giao hẹn rồi, sao lại phạm?”. Hồ cười đáp “Đúng là ta có lỗi, nhưng nếu không thế thì không đối cho sát được. Sáng mai xin đặt tiệc để chuộc lỗi”, chủ khách cùng cười rồi chia tay. Hồ khôi hài đại loại như thế, không sao kể hết được.

Được vài tháng, hồ cùng Vạn về quê. Tới địa giới Bác Hưng, hồ nói với Vạn “Ở đây ta có người họ hàng xa, đã lâu không qua lại, không thể không ghé thăm. Vả lại trời cũng đã tối, chàng cứ đi cùng tới đó ngủ lại, sáng mai đi cũng được”. Vạn hỏi ở đâu, hồ chỉ nói không xa. Vạn ngờ vì trước nay khu này vốn không có làng xóm gì, nhưng cũng đi theo. Khoảng hai dặm quả thấy một gia trang, bình sinh chưa đi ngang lần nào. Hồ gõ cổng thì có một người hầu ra mở, vào trong thấy cửa liền gác nối, rõ ràng là nhà thế gia. Giây lát tới chỗ chủ nhân, có hai ông bà già, vái chào Vạn rồi mời ngồi, bày tiệc linh đình tiếp đãi như con rể, kế hai người nghỉ lại đó.

Sáng sớm hồ nói "Ta về ngay cùng chàng, sợ người nhà sợ hãi. Chàng cứ về trước, ta sẽ theo tới ngay”. Vạn theo lời về trước nói rõ với gia nhân. Không bao lâu hồ tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ nhưng không nhìn thấy người. Năm sau Vạn lại có việc đi Tế Nam, hồ cũng đi cùng. Chợt có mấy người tới, hồ theo ra trò chuyện thăm hỏi rồi nói với Vạn “Ta vốn gốc gác ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), cùng chàng có mối túc duyên nên theo nhau bấy lâu, nay anh em ta đã tới, ta phải theo về, không theo hầu chàng trọn đời được”. Vạn cố giữ lại không được, kế hồ ra đi.

Chú thích:
[84] Bức tranh hành lạc: nguyên văn là "hành lạc đồ", vẽ những hình ảnh trai gái giao hoan, đại khái là loại tranh ảnh khiêu dâm.
[85] Giấc mộng Dương Đài: bài tựa Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua Sở ra chơi đầm Vân Mộng, đêm mộng thấy một người con gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nàng ấy nói "Thiếp là thần nữ ở núi Vu Sơn sớm làm mây, tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài”, sau người ta thường dùng tích này để chỉ việc ái ân trai gái.
[86] "Qua man": nghĩa đen là dây dưa bò lan, chưa rõ thể thức luật chơi cụ thể.
[87] Nước Hồng Mao: tức Anh.
[88] Bên phải... nhỏ: đây là theo lối chiết tự trong chữ Hán, hồ có ý nói xỏ người khách ngồi bên trái Vạn tức Tôn là “khuyển” (chó), vì người bên phải đã gieo trúng mặt “qua” (dưa).
[89] Ngựa đẻ... sở văn: sở kiến nghĩa đen là "vốn thấy", sở văn nghĩa đen là “vốn nghe", nhưng cũng là tên hai anh em họ Trần, nên câu này có ý nói xỏ hai người là la và ngựa choai.
[90] Kỹ nữ... vạn phúc: nghĩa đen là "Kỹ nữ ra cửa thăm tình nhân, lúc tới thưa vạn phúc, lúc đi thưa vạn phúc", “vạn phúc" là lời chúc tụng nhưng cũng là tên của Vạn Phúc, nên đoạn sau còn có thể hiểu là "tới cũng Vạn Phúc, đi cũng Vạn Phúc", có ý đùa là Vạn Phúc chuyên tới kỹ viện chơi bời.
[91] Long vương... đắc ngôn: nghĩa đen là “Long vương xuống chiếu cầu lời thẳng, vích cũng được nói, rùa cũng được nói", “được nói” (đắc ngôn) cũng là tên của Đắc Ngôn, nên đoạn sau còn có thể hiểu là “... vích là Đắc Ngôn, rùa là Đắc Ngôn", có ý nói xỏ Tôn Đắc Ngôn là con rùa. Rùa là một giống vật được người Trung Hoa ví với kẻ hạ tiện dâm đãng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
 Tác giả| Đăng lúc 17-6-2012 03:32:10 | Chỉ xem của tác giả
083. Nối Giấc Kê Vàng (Tục Hoàng Lương)


Cử nhân họ Tăng người Phúc Kiến lúc vừa thi đỗ Tiến sĩ cùng vài người bạn thân khoa dạo chơi ngoài thành. Tình cờ nghe nói ở chùa Tỳ Lư có một thầy tướng liền kéo nhau tới xem quẻ. Tăng vào ngồi, thầy tướng nhìn thấy ý khí tự đắc bèn nịnh hót lấy lòng. Tăng phe phẩy quạt mỉm cười rồi hỏi “Ta có số làm Tể tướng không?”. Thầy tướng nghiêm trang nói sẽ làm Tể tướng hai mươi năm trong đời thái bình, Tăng cả mừng, ý khí càng thêm cao ngạo. Gặp lúc có cơn mưa nhỏ, cùng bạn bè vào tăng xá tránh mưa, thấy bên trong có vị sư già mắt sâu mũi cao ngồi trên tấm bổ đoàn, ngạo mạn không chào hỏi ai. Cả bọn cùng chào rồi lên sạp ngồi nói chuyện với nhau, đều mừng Tăng sẽ làm Tể tướng.

Tăng càng đắc ý, chỉ bạn cùng đi nói "Khi nào ta làm Tể tướng, sẽ cử Trương huynh làm Tuần phủ Hà Nam, ông anh cô cậu của ta làm chức Tham du, lão bộc nhà ta cũng được chức Thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện", cả bọn cười vang. Kế nghe bên ngoài mưa càng lớn như trút nước, Tăng mỏi mệt nằm xuống giường, chợt thấy hai quan Trung sứ đem tờ chiếu do Thiên tử đích thân viết tới triệu Tăng Tể tướng vào triều bàn việc nước. Tăng đắc ý vội vàng vào triều, nhà vua hỏi han dịu ngọt hồi lâu, truyền cho Tăng được quyền thăng giáng các quan từ tam phẩm trở xuống, ban cho mãng bào đai ngọc và ngựa quý, Tăng mặc áo đeo đai dập đầu tạ ơn rồi ra về.

Vào nhà thì thấy không phải nơi ở cũ ngày trước mà toàn là cột chạm cửa sơn vô cùng lộng lẫy, cũng không hiểu vì sao vinh hiển mau lẹ như vậy, nhưng chỉ cần vuốt râu gọi khẽ thì quân hầu dạ ran như sấm. Kế các quan công khanh đem quà cáp tặng biếu tới khúm núm xếp hàng ngoài cổng. Các quan khanh sáu bộ tới thì Tăng vội vàng ra đón, hạng Thị lang thì vái chào cùng trò chuyện, chức thấp hơn thì chỉ gật đầu chào thôi. Tuần phủ Sơn Tây gởi tặng ban nữ nhạc mười người đều là con gái trẻ đẹp, trong đó Niễu Niễu và Tiên Tiên đẹp nhất, hai người rất được yêu quý, Tăng cho phục dịch khăn áo, hàng ngày hầu hạ ca múa.

Một hôm Tăng nhớ lại lúc còn hàn vi thường được thân sĩ trong huyện là Vương Tư Lương giúp đỡ, nay ta đã nhẹ bước thang mây mà ông ấy còn lận đận trên đường công danh, sao không đưa tay dìu dắt một phen. Sáng ra dâng sớ tiến cử Vương làm quan Gián nghị, lập tức có chỉ dụ bổ dụng. Lại nghĩ tới Thái bộc họ Quách từng trợn mắt với mình, liền gọi bọn Cấp gián họ Lữ và Thị ngu Trần Xương dặn dò, hôm sau sớ tấu đàn hặc nối nhau dâng lên, liền có chỉ cách chức Quách Thái bộc cho về làm dân. Đền ơn trả oán xong, Tăng rất thỏa ý.

Một hôm ra ngoài thành chơi, có người say rượu phạm vào nghi trượng, Tăng sai trói lại giải tới quan Kinh triệu doãn, người ấy lập tức bị đánh đòn mà chết. Những người có nhà cửa ruộng đất ở cạnh đều sợ quyền thế đem những ruộng tốt nhà to hiến cho, từ đó Tăng thành phú gia địch quốc. Không bao lâu, Niễu Niễu và Tiên Tiên nối nhau qua đời. Tăng khuya sớm nhớ nhung, chợt nhớ năm xưa thấy người con gái hàng xóm tuyệt đẹp, vẫn muốn mua làm tỳ thiếp nhưng vì ít tiền nên không được như nguyện, nay may đã đắc ý, bèn sai mấy tên gia nhân đắc lực đem tiền tới ép nhận sính lễ, giây lát kiệu nàng về tới, so lại với ngày trước thì càng đẹp hơn, tự nghĩ như thế đã thỏa nguyện ước bình sinh rồi.

Hơn năm sau thì các quan trong triều đều ngầm có lòng chê trách nhưng đều không dám nói ra, Tăng cũng nghênh ngang không thèm để ý. Có quan Long đồ học sĩ họ Bao dâng sớ hặc tội, đại lược như sau:

“Trộm nghĩ Tăng Mỗ vốn là một kẻ vô lại cờ bạc rượu chè, tiểu nhân đầu đường xó chợ, chỉ có một lời nói hợp ý mà được thánh thượng tin dùng, cha con vinh hiển, ân sủng tột bực. Thế mà không nghĩ tới việc dốc lòng báo đáp trong muôn một, lại phóng ý rông càn làm oai phúc, những tội đáng chết nhổ tóc mà đếm cũng không đủ. Danh vị trọng thể của triều đình thì coi như món hàng lạ, cân nhắc nhỏ to, ra giá cao thấp. Vì thế công khanh tướng sĩ đều phải lui tới nhà y, tính toán tiến thân như đi buôn, luồn lọt lấy lòng không kể xiết. Hoặc có kẻ kiệt sĩ hiền thần không chịu a dua, nhẹ thì bị gạt bỏ không dùng, nặng thì bị cách quan bãi chức. Thậm chí chỉ hơi trái ý thì y đặt điều vu cáo bắt phải đi đày, nên quan lại đều tê lòng, triều đình thành cô lập. Lại máu mỡ dân đen mặc tình vơ vét, con gái nhà lành bắt ép làm hầu, hơi oán mịt mờ, mặt trời u ám. Gia nhân của y tới nơi thì quan địa phương phải dạ lấy lòng, thư từ của y gởi ra thì kẻ cầm quyền phải làm trái phép. Có khi con cái tôi tớ, họ hàng dây dưa đi ra cũng dùng ngựa trạm, ruổi rong mịt bụi, hò hét thị uy. Địa phương cung cấp hơi chậm trễ, roi vọt đánh đập liền ra tay, ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, nghi trượng tới đâu thì ruộng đồng sạch cỏ. Thế mà Tăng Mỗ vẫn nghênh ngang hống hách, không chút ăn năn, tấu đối qua loa ở triều đình, dối trá gian tà trước thánh thượng. Xe kiệu vừa rời chốn công môn, sênh ca đã bày nơi hậu uyển. Thanh sắc chó ngựa cứ chơi tràn, quốc kế dân sinh chẳng lo nghĩ, trên đời há có loại Tể tướng như thế sao? Trong ngoài xôn xao, nhân tâm ly tán, nếu không có búa rìu trị ngay, ắt sẽ thành Mãng Tháo[92] gây họa. Thần sớm tối lo lắng, không dám yên thân, liều chết kể ra các tội của y, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong Thánh thượng ra lệnh xử chém kẻ gian nịnh, tịch thu của tham ô, để trên thỏa dạ trời, dưới hả bụng chúng. Nếu thần vu oan, xin cam chịu tội..."  

Tờ sớ dâng lên, Tăng nghe được vô cùng run sợ, người lạnh toát như uống băng, nhưng may nhờ vua khoan dung, để đó không xét. Kế các quan Khoa đạo cửu khanh lại liên tiếp dâng sớ đàn hặc, ngay những kẻ trước kia xin làm môn hạ, cung kính như cha cũng trở mặt với Tăng. Vua liền giáng chỉ tịch thu gia sản, bắt Tăng sung quân ở Vân Nam, con trai Tăng làm Thái thú quận Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) cũng bị triều đình sai quan ra tra xét. Tăng nghe chỉ dụ đang kinh hoàng thì có mấy mươi võ sĩ đeo gươm cầm giáo vào thẳng nhà trong lột hết áo mão, vợ cũng bị trói. Kế thấy mấy người vác của cải trong nhà ra sân, vàng bạc tiền nong tới mấy trăm vạn, châu ngọc bảo vật tới mấy trăm hộc, rèm màn giường tủ cũng tới mấy ngàn món, còn những tã lót trẻ con, giày tất đàn bà thì vương vãi khắp sân. Tăng đều nhất nhất trông thấy, đau lòng xốn mắt. Giây lát lại có một người bắt nàng hầu đẹp nhất giải ra, tóc rối kêu khóc, mặt ngọc tái xanh, Tăng đau xót như lửa đốt ruột gan nhưng ngậm hờn không dám nói. Kế lầu gác kho tàng niêm phong xong, họ lập tức quát thét giải Tăng ra, toán lính áp giải xô đẩy vung giáo bắt đi mau. Vợ chồng Tăng nuốt lệ lên đường, lúc này muốn ngựa tồi xe xấu đỡ chân cũng không sao có được. Được hơn mười dặm thì vợ mệt quá loạng choạng muốn ngã, Tăng phải dìu đỡ. Lại hơn mười dặm nữa thì mình cũng mệt mỏi, thấy núi non xa xa cao chọc trời mà lo không trèo lên nổi, cứ kéo tay vợ nhìn nhau khóc lóc nhưng toán lính áp giải trợn mắt sấn tới không cho nghỉ chân. Lại thấy mặt trời đã lặn, không có chỗ nào nghỉ lại bất đắc dĩ phải khập khiễng lê bước. Tới lưng núi thì vợ kiệt sức khóc lóc ngồi phịch xuống vệ đường, Tăng cũng mệt quá ngồi xuống nghỉ, mặc cho toán lính áp giải quát tháo chửi mắng.

Bỗng nghe tiếng hò la ầm ĩ, có bọn cướp vác đao sắc ào ào xông ra, toán lính áp giải hoảng sợ bỏ chạy. Tăng quỳ mọp nói mình một thân trơ trọi bị đày đi xa, hành lý chẳng có gì đáng giá, năn nỉ bọn cướp tha cho. Bọn cướp trợn mắt nói “Bọn ta đều là dân bị hại, chỉ cần cái đầu đứa nịnh tặc chứ không cần lấy gì cả". Tăng nổi giận quát "Ta dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ giặc cỏ sao dám hỗn láo như thế?”. Bọn cướp cũng nổi giận vung búa lớn trên đầu Tăng, nghe thấy đầu rơi xuống đất thành tiếng. Hồn Tăng còn đang kinh hãi thì lập tức có hai tên quỷ tốt tới nắm tay lôi đi. Đi mấy khắc thì vào tới một nơi đô hội, giây lát tới một cung điện, trên điện có một vị vương giả tướng mạo xấu xí ngồi xét xử tội phúc.

Tăng khúm núm tới quỳ trước mặt nghe lệnh, vị vương giả mở sổ xem qua mấy hàng lập tức giận dữ quát "Tên này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu”, muôn quỷ dạ ran như sấm, lập tức có tên quỷ to lớn lôi Tăng xuống dưới thềm, thấy cái vạc cao khoảng bảy tám thước, bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run sợ kêu khóc, muốn chạy trốn mà không được, tên quỷ tốt tay trái túm tóc, tay phải nắm chân Tăng ném vào vạc dầu, Tăng theo dầu sôi nổi lên chìm xuống, da thịt bong rát đau thấu tim gan, dầu tràn vào miệng cháy bỏng gan ruột, muốn chết ngay mà không chết được. Khoảng xong bữa cơm, tên quỷ tốt lấy đinh ba vớt Tăng ra đem vào sảnh đường. Vị vương giả lại xem sổ sách, nổi giận nói "Y cậy thế hiếp người, phải quăng vào núi đao”' Quỷ tốt lại lôi Tăng đi, thấy hòn núi không to lớn lắm nhưng sườn đá dựng đứng, đao nhọn tua tủa như măng mọc dày đặc, đã có mấy người thủng bụng toác ruột đang vướng bên trên, đau đớn kêu gào vô cùng thảm thiết. Quỷ tốt giục Tăng leo lên, Tàng khóc rống lùi lại, quỷ tốt cầm dùi nhọn đâm vào gáy, Tăng nhịn đau xin tha cho, quỷ tốt nổi giận túm lấy Tăng ra sức ném lên trời. Tăng thấy mình lơ lửng trên mây rồi rơi thẳng xuống, bị đao xóc vào bụng, đau đớn không sao nói xiết. Lát sau vì thân thể to béo đè nặng lên nên vết đao đâm vào dần dần rộng ra, chợt rơi phịch xuống, chân tay co quắp. Quỷ tốt lại dẫn vào trước mặt vị vương giả, vương sai tính lại lúc sinh bình Tăng bán chức buôn danh, ăn hối lộ cướp của người được bao nhiêu tiền. Lập tức có người rậm râu đứng gãy bàn tính rồi nói "Tất cả là Ba trăm hai mươi mốt vạn”. Vương nói "Y đã gom góp thì bắt y uống đi". Phút chốc lấy vàng bạc ra chất đống dưới thềm, cao như gò núi, rồi từ từ bỏ vào nồi sắt quạt lửa nấu chảy ra, kế mấy tên quỷ tốt luân phiên lấy gáo múc đổ vào miệng Tăng, tràn qua gò má thì da thịt cháy khét, vào tới cuống họng thì ruột gan nóng sôi, lúc sống lo vật ấy có ít, lúc ấy lại sợ nó quá nhiều, mất nửa ngày mới uống xong.

Vương giả sai quỷ tốt giải Tăng đi đầu thai làm con gái ở đất Cam Châu (huyện Trương Dịch tỉnh Cam Túc). Đi độ vài bước thấy trên giá cao có một cây trục sắt chu vi độ mấy thước xỏ qua một bánh xe lớn, rộng lớn không biết mấy trăm dặm, sáng lóe năm sắc chiếu tới mây xanh. Quỷ tốt đánh bắt trèo lên, Tăng nhắm mắt bước lên thì bánh xe theo chân xoay chuyển, thấy như bị rơi xuống, toàn thân mát lạnh, mở mắt nhìn lại mình thì đã hóa ra đứa trẻ sơ sinh mà lại là con gái. Nhìn tới cha mẹ thì áo quần rách rưới, trong gian phòng vách đất còn đủ cả bị gậy, biết đã đầu thai làm con ăn mày. Lớn lên hàng ngày theo đám trẻ ăn mày đi xin ăn, bụng lép kẹp ít khi được no, áo tả tơi gió lạnh thấu xương.

Năm mười bốn tuổi bị bán làm vợ lẽ cho Tú tài họ Cố, tuy hơi được no ấm nhưng gặp người vợ lớn hay ghen, hàng ngày thường đánh đập, lại nung sắt đỏ đốt vú, may là chồng thương xót nên cũng thấy được an ủi. Chợt có gã thiếu niên hung ác bên láng giềng trèo tường qua cưỡng ép, mới tự nghĩ kiếp trước làm nên tội nghiệt đã chịu hình phạt dưới âm ty rồi, nay sao lại phải chịu như thế nữa. Bèn kêu ầm lên, chồng và vợ lớn đều tỉnh dậy, gã thiếu niên mới bỏ chạy. Không bao lâu, một đêm Tú tài tới ngủ ở phòng, đang thì thầm to nhỏ kể lể oan khổ bỗng có tiếng ầm ầm, cửa phòng mở toang, có hai tên cướp cầm đao sấn vào chặt đầu Tú tài rồi lục lọi tài vật, sợ hãi nằm im trong chăn không dám lên tiếng. Kế bọn cướp đi rồi mới kêu khóc chạy tới phòng vợ lớn, vợ lớn cả kinh, cùng tới xem xét khóc lóc, nghi là vợ lẽ đưa gian phu vào giết chồng bèn làm đơn trình lên Thứ sử. Thứ sử cho bắt tra hỏi, bị tra tấn tàn nhẫn đành nhận bừa, bị kết án lăng trì.

Khi bị giải ra chỗ hành hình, trong lòng uất ức không sao phát tiết, vừa đi vừa la khóc rằng mười tám địa ngục dưới âm ty cũng không có nơi nào đen tối hơn. Đang kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn cùng đi gọi “Anh bị ma đè à?", giật mình tỉnh dậy, thấy nhà sư già vẫn ngồi xếp bằng như cũ. Bạn bè lại hỏi “Trời chiều bụng đói sao ngủ say thế?”. Tăng buồn rầu đứng lên. Nhà sư mỉm cười hỏi “Quẻ bói Tể tướng nghiệm chưa?”. Tăng càng kinh sợ, vái lạy thỉnh giáo. Nhà sư nói "Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có sen vàng chứ bần tăng làm sao biết được?". Tăng nghênh ngang khi tới, không ngờ buồn bã mà về, tấm lòng công danh từ đó nguội lạnh, sau vào núi tu, không rõ kết cục ra sao.

Dị Sử thị nói: Ban phúc cho kẻ lành, giáng họa cho người dâm là đạo thường của trời. Kẻ kia nghe nói sẽ được làm Tể tướng thì mừng rỡ cho là đúng, thì có thể biết không phải là người cúc cung tận tụy thờ vua rồi. Lúc bấy giờ thì nắm đại quyền, lầu gác thê thiếp không gì không có, tuy giấc mơ kia vốn là dối song mong ước ấy cũng không phải đúng. Nhà sư làm ra ảo mộng, lấy đạo thuật thần diệu để răn người, kê vàng thành lệ giấc mộng ấy ắt có thật, có thể phụ vào sau chuyện giấc mộng ở Hàm Đam[93].

Chú thích:
[92] Mãng Tháo: tức Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán và Tào Tháo lấn quyền vua Hán, sử sách Trung Hoa ngày xưa coi là gian thần.
[93] Kê... vàng... Hàm Đan: Chẩm trung ký chép Lư sinh thời Đường tới ngụ ở Hàm Đan, vào quán trọ gặp tiên ông Lữ Động Tân, thở than mình nghèo khổ. Lúc ấy chủ quán đang nấu kê, tiên ông đưa chiếc gối cho Lư, bảo gối lên mà ngủ sẽ được như nguyện. Lư chớp mắt thấy mình thi đỗ Tiến sĩ, làm quan lớn, vợ đẹp con khôn, giàu sang vinh hiển suốt năm mươi năm. Khi tỉnh dậy thì nồi kê trong quán trọ vẫn chưa chín. Lư kinh ngạc hỏi “Chỉ là mộng thôi sao?”. Lữ Động Tân cười đáp "Việc đời đều như thế cả". Sau người ta hay dùng tích này để nói việc công danh phú quý chỉ là ảo mộng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách