Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Mùa Xương | Samantha Shannon

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 7-7-2017 22:05:15 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

Ta thấy ngôn ngữ của các ngươi thú vị, nhưng không ưa hầu hết sáng tác âm nhạc hiện đại.” “Cứ trách ban kiểm duyệt ấy. Không có các ông thì đã chẳng có họ.” Hắn giơ cốc. “Động chạm quá.” Tôi không thể không hỏi. “Cái gì thế?” “Tinh chất hoa dền tía, trộn vang đỏ.” “Tôi chưa nghe tới hoa đó bao giờ.” “Chủng này không mọc trên Trái đất.

Nó chữa lành hầu hết thương tích tâm linh. Giá ngươi uống dền tía ngay sau khi bị oan hồn tấn công thì vết thương chưa chắc đã để sẹo sâu đến vậy. Hơn nữa nó cũng sẽ chữa phần nào những ảnh hưởng lên não ngươi, nếu ngươi cử hồn đi mà không được trợ sinh quá nhiều lần.” Ố ồ.

Cách chữa lành não cho tôi. Jaxon mà đánh hơi thấy hoa dền tía thì sẽ chẳng đời nào cho tôi ngủ nữa. “Sao ông phải uống?” “Vết thương cũ. Hoa dền tía giúp giảm đau.” Im lặng hồi lâu. Đến lượt tôi nói. “Trả ông này.” Tôi giơ mặt dây chuyền ra. “Giữ lấy đi.” “Tôi không muốn.” “Ta yêu cầu đấy.

Có lẽ nó không đuổi được Emite, nhưng có thể cứu mạng ngươi khi đối mặt với oan hồn.” Tôi đặt nó lên thành ghế. Hộ vương liếc nhìn, rồi đưa mắt lên nhìn mắt tôi. Tiếng gõ cửa rất khẽ. Một thằng con trai đi vào, quãng tuổi tôi, có thể lớn hơn. Nó mặc áo dài xám, mắt đỏ máu.

Tuy thế trông nó vẫn rất đẹp, như một nhân vật từ trong tranh bước ra. Tóc nó vàng óng, ôm lấy khuôn mặt rất nét, má và môi đều hồng như cánh hoa. Ngoài mạch máu thì mắt nó màu xanh trong như nước. Tôi nghĩ mình dò thấy dấu huyền quang mờ tỏ bao quanh nó. “Michael, làm ơn cho cà phê,” Hộ vương nói với nó.

“Ngươi có uống đường không, Paige?” “Không, cảm ơn ông,” tôi nói. Michael cúi mình rút lui. “Vậy đấy là nô lệ riêng của ông đấy à?” “Michael là quà tặng của huyết bá cho ta.” “Lãng mạn nhỉ.” “Không hẳn.” Hộ vương liếc mắt nhìn cửa sổ. “Chẳng thế làm gì khác khi Nashira muốn thứ gì đó.

Hoặc là ai đó.” “Tôi hình dung được.” “Được ư?” “Tôi biết bà ta có năm thiên thần.” “Phải, đúng thế. Nhưng nếu đấy là điểm mạnh của ngài, thì cũng là điểm yếu.” Hắn nhấp thêm một ngụm. “Huyết bá khổ sở vì ảnh hưởng từ cái gọi là các thiên thần của ngài.” “Chắc là các thiên thần buồn phiền lắm.” “Họ đều căm ghét ngài.” “Thế cơ hả.” “Thế cơ đấy.” Rõ ràng hắn thích thú thấy tôi dè bỉu.

“Chúng ta mới nói chuyện được hai phút thôi, Paige. Cố gắng đừng một lúc tiêu phí hết kho mỉa mai của ngươi.” Tôi chỉ muốn vặn cổ hắn. Nhưng tình hình là tôi không làm nổi. Thằng con trai quay lại, bưng theo ấm cà phê. Nó đặt khay lên bàn, có cả một đĩa đầy ắp hạt dẻ nướng rắc quế.

Mùi thơm làm miệng tôi chảy nước. Có một hàng bán thứ này gần cầu Blackfriars các tháng mùa đông. Hạt dẻ này trông còn ngon hơn của hàng đó, vỏ nâu tách đôi, bên trong trắng như nhung. Cả hoa quả nữa: lê cắt nhỏ, anh đào bóng loáng, những mảnh táo đỏ cong như miệng cười. Michale ra dấu, Hộ vương lắc đầu.

“Cảm ơn Michael. Chỉ cần thế thôi.” Nó lại rạp mình rồi mới lui ra. Tôi chỉ muốn hét vào mặt nó. Sao có thể khúm núm thế cơ chứ? “Ông vừa nói ‘cái gọi là’ các thiên thần,” tôi ép mình bình tĩnh lại, “thế nghĩa là thế nào?” Hộ vương ngưng lại. “Ăn đi,” hắn nói.

“Xin mời.” Tôi nhặt một hạt dẻ trên đĩa, vẫn còn nóng mới ra lò. Cái vị gợi về hơi ấm và mùa đông. “Ta chắc là ngươi biết thiên thần nghĩa là gì: là một linh hồn quay lại nhục giới để bảo vệ người chúng đã hy sinh để cứu,” hắn nói. “Chúng ta biết có thiên thần và tổng thiên thần, và ta đoán là các thấu thị đường phố cũng biết như vậy.” Tôi gật đầu.

“Nashira có thể điều khiển cấp thiên thần thứ ba.” “Thật à?” “Ngài có thể bẫy một số loại vong.” “Vậy bà ta là một nhiếp hồn.” “Hơn cả một nhiếp hồn bình thường, Paige à. Nếu ngài xuống tay giết một thấu thị, ngài không chỉ bẫy được mà còn sử dụng được vong đó.

Chừng nào vong đó còn bị ràng buộc với ngài, chừng đó nó còn ảnh hưởng tới huyền quang của ngài. Chính sự tha hóa đó cho phép ngài sử dụng nhiều công năng cùng một lúc.” Cà phê đổ tuột vào lòng tôi. “Bà ta phải tự tay giết họ à?” “Phải. Chúng ta gọi đó là ‘thiên thần sa ngã’.” Hắn quan sát tôi.

“Và chúng bị ràng buộc vĩnh viễn với kẻ giết mình.” Tôi đứng dậy. “Thật quá tà ác.” Cái cốc vỡ vụn dưới chân tôi. “Làm sao ông có thể mong đợi tôi nói chuyện với ông, đối xử với ông như với một con người, trong khi bà hôn thê của ông lại nhẫn tâm làm những trò như vậy? Trong khi ông vẫn còn có thể nhìn mặt bà ta?” “Ta có nói ta đã bao giờ chiêu thiên thần sa ngã về cho mình chưa?” “Nhưng ông đã từng giết người.” “Ngươi cũng vậy.” “Vấn đề không phải ở chỗ đó.” Nét mặt Hộ vương biến đổi.

Bây giờ hắn không có vẻ gì nhạo báng nữa. “Ta không biết ta có thể làm gì cho thế giới này,” hắn nói, “nhưng ta sẽ không bao giờ để ngươi gặp thương tổn.’ “Tôi không cần ông bảo vệ tôi. Cứ quẳng tôi đi. Đá tôi sang kẻ nào khác cũng được. Tôi không muốn làm học trò của ông nữa.

Tôi muốn đổi gia chủ. Tôi muốn ở với Thuban. Cứ đưa tôi sang chỗ Thuban.” “Ngươi không muốn ở với gia chủ họ nhà Sargas đâu, Paige ạ.” “Đừng có dạy tôi phải muốn gì. Tôi muốn…” “Ngươi muốn lại được cảm thấy an toàn.” Hắn đứng lên, bàn cà phê vẫn ở giữa hai bên.

“Ngươi muốn ta đổi xử với ngươi như Thuban và số còn lại vẫn đối xử với loài người, vì như thế ngươi sẽ thấy mình có toàn quyền căm hận các Rephaite. Nhưng vì ta không làm hại ngươi, và vì ta cố tìm cách hiểu ngươi, ngươi bỏ chạy. Ta biết nguyên nhân vì sao, tất nhiên. Ngươi không hiểu động cơ của ta là gì.

Ngươi tự hỏi mình hết lần này đến lần khác sao ta lại muốn giúp ngươi, và ngươi không rút ra được kết luận nào cả. Nhưng như thế không có nghĩa là không có kết luận, Paige ạ. Thế chỉ có nghĩa là ngươi vẫn chưa tìm ra nó.” Tôi lún sâu người vào ghế bành. Cà phê nóng bỏng đã thấm qua lớp vải quần.

Nhìn thấy thế, hắn nói: “Ta sẽ lấy cho ngươi thứ khác.” Hắn bước ra chỗ tủ áo. Mắt tôi nóng rực tức giận. Tôi gần như nghe bên tai giọng Jax quở mắng mình. Cô đúng là ngớ ngẩn. Nhìn kìa, ai lại để cửa sổ tâm hồn mờ sương thế kia. Ngẩng cao đầu lên, hỡi người đẹp! Cô muốn gì – được thông cảm à? Được thương hại à? Cô chẳng nhận được cái đó từ hắn đâu, cũng như đã chẳng bao giờ nhận được từ tôi.

Thế giới này là một cái lò mổ, đồng tử ạ. Giương mấy con chó lửa lên nào, thế. Cho tôi xem cô quát tháo hắn ra sao. Hộ vương lấy ra cái áo đen rất dài. “Ta hy vọng ngươi mặc vừa.” Hắn đưa cho tôi. “Có vẻ hơi rộng, nhưng sẽ giúp ngươi được ấm.” Tôi gật đầu. Hộ vương quay lưng.

Tôi trùm cái áo dài qua đầu. Hắn đoán đúng: nó phủ xuống tận đầu gối tôi. “Xong,” tôi nói. “Ngươi sẽ ngồi xuống chứ?” “Tôi làm gì còn cách nào khác.” “Ta đang cho phép ngươi chọn cách khác đây.” “Tôi không biết ông muốn tôi nói gì.” “Lý tưởng ra thì ta mong ngươi sẽ cho ta biết ai là kẻ đã đối xử tàn nhẫn với ngươi trong quá khứ, đến nỗi khiến ngươi nghĩ mình chẳng tin tưởng được ai.” Hộ vương trở về ghế ngồi.

“Nhưng ta biết ngươi sẽ chẳng kể ra đâu. Ngươi muốn bảo vệ bạn bè mình.” “Tôi không biết ông đang nói gì.” “Tất nhiên là không rồi.” Tôi bùng ra. “Được, đúng rồi đấy, tôi có bạn là thấu thị. Không phải thấu thị nào cũng có bạn là thấu thị hả?” “Không.

Nghiệp đoàn ở London đã mạnh lên nhiều qua các năm. Những người chúng ta bắt được hầu hết là dân đi lẻ - những kẻ sống một mình, hoặc sống ngoài đường, vì không kiểm soát được quyền năng của mình. Hoặc bị gia đình từ bỏ. Chính vì thế rất nhiều người trong số họ rất vui mừng phục vụ cho chúng ta: vị họ đã bị chính giống loài mình bạc đãi.

Và dù các Rephaite đối xử với họ như công dân hạng hai, họ vẫn được cho cơ hội đắm mình trong thanh khí. Chúng ta chia họ thành nhóm, khiến họ lại thuộc về một tổ chức xã hội.” Hắn khoát tay về phía cửa. “Michael từng là một bách thanh – ta nghĩ các ngươi gọi là ‘khướu’.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 7-7-2017 22:08:09 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

Cha mẹ cậu khiếp hãi tài thoại của cậu đến nỗi tìm cách trừ tà cho câu. Mộng trường của cậu đã sập. Sau đó cậu hầu như không nói được nữa.” Tôi không thốt được lời nào. Tôi từng nghe chuyện mộng trường sập rồi, chính điều đó đã xảy ra với một người trong băng, Zeke.

Đấy là nguồn cơn người ta trở thành bất khả độc. Mộng trường khi mọc lại sẽ khoác thêm nhiều lớp giáp bảo hộ, ngăn chặn mọi đợt tấn công bằng hồn. “Quân áo đỏ bắt được cậu hai năm trước. Cậu đang sống lay lắt ngoài đường phố Southwark – một bất khả độc không tiền, không thức ăn.

Chúng nhốt cậu trong Tháp vì nghi là phi tự nhiên, nhưng ta đã cho đưa về đây trước thời hạn. Dù bị đối xử như vô minh nhưng cậu vẫn còn huyền quang. Ta đã dạy cậu nói trở lại. Ta hy vọng một ngày cậu sẽ lại tìm được về thanh khí, và hát như ngày xưa từng hát. Bằng giọng những người đã chết.” “Khoan đã,” tôi nói.

“Ông dạy cho cậu ta à?” “Phải.” “Vì sao?” Im lặng tỏa khắp từng ngóc ngách căn phòng. Hộ vương đưa tay cầm cốc. “Ông là ai?” tôi hỏi. Hắn ngước mắt nhìn tôi. “Ông là huyết phò mã của nữ bá dòng họ Sargas. Ông giật dây chính quyền chúng tôi từ năm 1859 đến nay.

Ông bảo hộ đường dây buôn thấu thị và dung túng cả một hệ thống lớn lên quanh đường dây đó. Ông giúp chúng phát tán dối trá, thù hận và sợ hãi. Thế thì ông giúp loài người làm gì?” “Cái đó ta không thể nói cho ngươi được. Cũng như ngươi không chịu nói cho ta bạn bè ngươi là những ai, ta sẽ không cho ngươi biết động cơ bên trong của ta.” “Ông có cho tôi biết, nếu ông được biết bạn bè tôi là ai không?” “Có thể.” “Ông đã nói cho Michael chưa?” “Chút ít.

Michael trung thành với ta nhất mực, nhưng ta không thể tin tưởng hoàn toàn trong tình trạng thần kinh yếu đuối của cậu ta.” “Ông cũng nghĩ về tôi như vậy à?” “Ta biết quá ít về ngươi nên chưa thể tin ngươi, Paige ạ. Nhưng điều đó không có nghĩa là ngươi không thể chiếm được lòng tin của ta.

Thực tế là,” hắn ngồi lại vào ghế, “cơ hội cho ngươi sẽ đến ngay ngày hôm nay.” “Ý ông là sao?” “Ngươi sẽ thấy.” “Đoán xem nào. Ông vừa mới giết bốc sư nào đấy cướp quyền năng của nó, và bây giờ thì ông nghĩ mình thấy được tương lai của tôi.” “Ta không bao giờ ăn cắp công năng người khác.

Nhưng ta rất rõ Nashira, đủ để phỏng đoán động cơ của ngài. Ta biết thời điểm nào thì ngài thường ra tay.” Chiếc đồng hồ đứng điểm một tiếng. Hộ vương nhìn sang. “Vậy là đủ một giờ rồi,” hắn nói. “Ngươi được quyền đi. Có lẽ ngươi nên đến thăm bạn ngươi, cô bốc bài ấy.” “Liss đang bị sốc hồn,” tôi nói.

Hắn ngẩng lên. “Mấy đứa áo đỏ ném bài của chị ấy vào lửa.” Giọng tôi nghẹn lại. “Tôi chưa gặp chị ấy từ hôm đó.” Nhờ hắn ta giúp đi. Tôi đấu tranh với mình. Hỏi hắn có thể đổi bộ bài khác cho chị không. Hắn sẽ làm. Hắn đã giúp Michael mà. “Tiếc quá,” hắn nói.

“Cô gái là một nhà trò tài năng.” Tôi buộc câu nói bật khỏi miệng. “Ông có giúp được chị ấy không?” “Ta không có bài. Bạn cô cần có đường thông với thanh khí.” Hắn nhìn vào mắt tôi. “Dền tía cũng sẽ cần.” Tôi đứng nguyên tại chỗ, nhìn hắn lấy cái hộp nhỏ trên bàn cà phê.

Trông như hộp thuốc lá hít kiểu cổ, khảm xà cừ và những miếng vàng. Chính giữa nắp hộp có bông hoa tám cánh, như trên cái hộp đựng lọ. Hắn mở nắp, lấy ra một bình tinh dầu tí xíu, vẩn màu nhuộm lam. “Dầu thạch thảo,” tôi nói. “Giỏi lắm.” “Ông giữ nó làm gì?” “Ta dùng hoa sao theo liều nhỏ để hỗ trợ Michael.

Thứ này giúp cậu ấy nhớ lại mộng trường.” “Hoa sao à?” “Đấy là tên Rephaite dùng chỉ thạch thảo. Dịch nguyên văn từ ngôn ngữ của chúng ta – Glossolalia, hoặc là Gloss.” “Có phải là thứ tiếng khướu nói không?” “Phải. Ngôn ngữ cổ đại của thanh khí. Michael không nói được nữa, nhưng vẫn hiểu.

Thiên cầm cũng vậy.” Vậy là khướu có thể nghe lén các Rephaite. Hay đây. “Ông định cho cậu ta dùng thạch thảo… bây giờ à?” “Không. Ta chỉ có ý định sắp xếp lại tủ thuốc các loại trưng dụng được,” hắn đáp. Tôi không hiểu có phải hắn đang nói đùa hay không. Nhiều phần là không.

“Một số trong đó, như là phong quỳ thảo, có thể dùng để hại chúng ta.” Hắn nhặt một bông hoa đỏ lẻ loi trong hộp. “Vài thứ độc dược cần cất xa khỏi bàn tay con người.” Mắt hắn dán vào mắt tôi. “Không ai muốn chúng bị dùng để xâm nhập, vào Nhà Chung, chẳng hạn. Nếu vậy phần lớn kho dự trữ mật của chúng ta sẽ lâm vào nguy hiểm.” Hoa đỏ.

Tôi nhớ lại tờ giấy của David. Phương pháp duy nhất. Phương pháp duy nhất giết được Rephaite? “Không,” tôi nói. “Không ai muốn vậy.” Xóm Tổ Quạ yên ắng. Tôi chưa gặp Liss từ ngày bị Suhail giải về Magdalen; chẳng có dịp nào tới thăm chị, xem chị có cầm cự được sau khi cỗ bài bị mất.

Chị vẫn tỉnh, nhưng không ý thức được gì. Môi chị tái nhợt, mắt lãng đãng không dừng lại đâu. Cơn sốc hồn giam hãm chị. Julian và ông nhà trò đeo kính hôm đầu tiên – Cyril – đã tự lãnh trách nhiệm chăm sóc chị. Cả hai cho chị ăn, chải tóc cho chị, chữa hai bàn tay bỏng và nói chuyện với chị.

Còn chị chỉ nằm yên, cứng đờ, người nhớp mồ hôi, miệng không ngớt lẩm bẩm về thanh khí. Không còn cách thông với nó nữa, bản năng tự nhiên xui chị rời bỏ thể xác nhập vào với nó. Nhiệm vụ của chúng tôi là dập tắt bản năng ấy. Giữ chị ở đây với chúng tôi. Tôi đổi hai viên thuốc lấy hộp xăng, ít diêm và một lon đậu hộp ở tiệm cầm đồ của Lạc Xoong.

Hàng lão ta chẳng có cỗ bài nào. Tất cả đã bị một đứa áo đỏ tịch thu: Kathryn, nhằm mục đích hành hạ Liss. May cho nó là Hộ vương đã cấm nó gặp tôi. Khi tôi trở lại túp nhà, Julian ngẩng lên, mắt đỏ đọc vì mỏi mệt. Áo dài hồng không thấy nữa, nó mặc cái áo rách rưới và quần vải.

“Paige, mày đi đâu lâu dữ?” “Tao không ở đây. Để kể sau.” Tôi quỳ xuống cạnh Liss. “Chị có ăn được không?” “Hôm qua có nhồi được tí bọt, nhưng lại phun hết ra ngoài.” “Còn vết bỏng?” “Tệ lắm. Cần kem bỏng.” “Mình sẽ cố cho chị ăn lại xem.” Tôi vuốt ve những lọn tóc ẩm, bẹo má chị.

“Liss?” Mắt chị vẫn mở, nhưng không đáp. Tôi châm hộp xăng. Cyril gõ ngón tay trên đầu gối. “Dậy đi, Rymore,” ông ta nói với chị, giọng cáu bẳn. “Cô không thể rời lụa lâu thế được.” “Thông cảm một chút thì có mất mát gì đâu,” Julian nói. “Chẳng có thời giờ mà thông với chả cảm.

Suhail sẽ đến tìm cô ta sớm thôi. Cô ta phải ra diễn cùng tôi.” “Chúng vẫn chưa phát hiện à?” “Nell vẫn đang diễn thay. Có đồ diễn mặt nạ thì cả hai nhìn giống nhau – cao ngang nhau, màu tóc như nhau. Nhưng Nell không giỏi bằng. Suốt ngày ngã.” Cyril nhìn Liss. “Rymore không bao giờ ngã.” Julian đặt lon đậu lên hộp xăng.

Tôi tìm thìa, vòng tay đỡ Liss. Chị lắc đầu. “Không.” “Chị phải ăn gì chứ, Liss.” Julian bóp chặt cổ tay lạnh ngắt, nhưng chị không đáp. Đợi đậu nóng, Julian để chị ngửa đầu. Tôi bón đậu cho chị, nhưng chị nuốt rất khó khăn. Đậu cứ trào xuống cằm. Cyril chộp cái lon, thò tay vét nốt những gì còn sót ở trong.

Tôi lại ngồi xổm, nhìn Liss nằm bẹp trên đệm. “Không thể để thế này mãi được.” “Nhưng chúng ta chẳng làm được gì hết.” Julian nắm chặt thành nắm đấm. “Kể cả nếu tìm được bộ bài mới thì cũng chưa chắc đã dùng được. Cũng như nối chân tay mới vào ấy. Có thể sẽ bị chị đào thải.” “Vẫn phải thử chứ.” Tôi nhìn sang Cyril.

“Ở đây không có bốc bài nào khác à?” “Chết hết rồi.” “Kể cả nếu ông ta nhầm, thì chúng ta cũng không thể đi cướp bài người khác được,” Julian nói rất nhỏ. “Như thế còn tệ hơn giết người.” “Vậy thì ta ăn trộm của đám Reph,” tôi nói. Phạm tội đúng là món tủ của tôi.

“Tao sẽ đột nhập Nhà Chung. Chúng chắc phải có đồ tiếp tế cất trong đó.” “Cô sẽ chết chắc,” Cyril nói, chẳng mảy may lo lắng. “Tôi đã sống sót sau khi gặp một con Vo Ve. Tôi sẽ làm được.” Julian ngẩng lên. “Mày gặp một con rồi à?” “Chúng sống trong rừng. Hộ vương bỏ tao lại với một đứa.” “Thế nghĩa là mày qua vòng thi rồi đúng không?” Mặt nó thoáng ngờ vực.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 7-7-2017 22:11:06 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

“Mày đã lên đỏ?” “Tao không biết. Tao nghĩ là thế, nhưng…” tôi giật áo mình, “nhìn cái này đâu có đỏ.” “Nhẹ người ghê nhỉ.” Nó ngừng lại. “Nó thế nào? Con Vo Ve ấy?” “Nhanh lắm. Hung hăng nữa. Tao không nhìn thấy nhiều.” Tôi nhìn sang quần áo mới của nó. “Mày không gặp con nào à?” Nó cười khó nhọc.

“Aludra vứt tao ra đường chỉ vì lỡ giờ giới nghiêm. Làm kiếp hề xiếc rồi, tao e là thế.” Cyril đang run lên. “Chúng cắn là chết đấy,” ông ta thì thầm. “Cô không nên quay lại ngoài đó.” “Có thể tôi sẽ không còn cách nào khác,” tôi đáp. Cyril gục đầu vào cánh tay. “Jules, cho tấm ga.” Nó đưa.

Tôi dém kỹ quanh người Liss. Chị vẫn run không ngừng. Tôi xoa bóp đôi tay lạnh như đá, cố sưởi cho chúng ấm lên. Những đầu ngón tay chị phồng rộp. “Paige,” Julian nói, “mày tính thế thật à? Đột nhâp vào Nhà Chung ấy?” “Hộ vương nói chúng cất đồ dự trữ trong đó. Một kho của mật, những thứ chúng ta không được phép thấy.

Có khi cả kem bỏng nữa.” “Mày nghĩ đến chuyện có thể có kẻ gác chưa? Hay là có thể Hộ vương nói dối?” “Tao sẽ liều.” Nó thở dài. “Tao chẳng nghĩ là ngăn được mày đâu. Thế nếu vào được thì sao?” “Tao sẽ cuỗm lấy càng nhiều càng tốt – bất cứ thứ gì dùng tự vệ được – rồi tao sẽ té.

Ai muốn té cùng thì xin mời. Nếu không tao sẽ biến một mình. Có chuyện gì đi nữa thì tao cũng không muốn mục xương ở xó này đến hết đời đâu.” “Đừng làm thế,” Cyril nói. “Chết đấy. Bao nhiêu kẻ đã chết rồi. Lũ Vo Ve ăn sạch. Chúng cũng sẽ ăn cả cô thôi.” “Cyril, xin ông, đủ rồi đấy.” Julian vẫn không rời mắt khỏi tôi.

“Cứ đến Nhà Chung đi, Paige. Tao sẽ tìm cách xách động ít quân.” “Quân gì?” “Thôi nào.” Ánh lửa lấp lánh trong mắt nó. “Mày không thực nghĩ là sẽ đi mà không đánh một trận tưng bừng chứ, phải không?” Tôi trố mắt. “Đánh trận á?” “Mày định cứ thế bỏ đi, vờ như chưa hề có chuyện này ư? Scion đã làm trò hai thế kỷ rồi, Paige ạ.

Và nó không định ngừng đâu. Có gì cản trở chúng lôi cổ mày về lại đây ngay khi mày vừa đặt chân xuống SciLo chứ?” Nó nói có lý. “Thế mày khuyên gì?” “Vượt ngục tập thể. Tất cả cùng ra ngoài. Chúng ta bỏ chúng lại chẳng còn thấu thị nào mà ăn nữa.” “Ở đây có trên hai trăm con người.

Chúng ta không thể bỏ đi cả loạt được. Hơn nữa lại còn mìn trong rừng.” Tôi co đầu gối sát cằm. “Mày biết Mùa Xương XVIII xảy ra chuyện gì rồi đấy. Lương tâm tao không gánh được ngần ấy cái chết đâu.” “Đâu có bắt lương tâm mày phải gánh. Mọi người đều muốn thoát đi, Paige à – chỉ là họ không đủ dũng cảm, chưa đủ thôi.

Nếu chúng ta gây náo loạn đánh lạc hướng, ta có thể đưa họ trót lọt qua rừng.” Nó đặt tay lên cánh tay tôi. “Mày là người của nghiệp đoàn cơ mà. Của Ireland cơ mà. Mày không nghĩ đã đến lúc chúng ta cho tụi Reph thấy không phải chúng quản trò tất cả à? Không phải chúng cứ việc cướp không của ta là được à?” Không thấy tôi đáp, nó siết mạnh tay tôi.

“Ta hãy cho chúng biết. Rằng dù đã qua hai trăm năm, vẫn còn có thứ chúng phải sợ.” Tôi không nhìn thấy mặt nó nữa. Tôi đang thấy Finn ngày hôm đó ở Dublin, hô hào tôi tranh đấu. “Có thể mày nói đúng,” tôi nói. “Tao biết tao nói đúng.” Mặt nó tươi lên trong nụ cười mệt mỏi.

“Mày nghĩ chúng ta cần bao nhiêu?” “Bắt đầu từ những người có lý do ghét bọn Rephaite. Đám hề xiếc. Đám áo vàng. Đám vô minh. Ella và Felix và Ivy. Rồi chuyển qua bọn áo trắng.” “Nên nói gì với chúng nó?” “Chưa nói gì vội. Cứ hỏi han thôi. Tìm hiểu xem đã bao giờ chúng tìm cách trốn đi chưa.” Julian nhìn sang Cyril.

“Không.” Cyril lắc đầu. Sau cặp kính hỏng, mắt ông ta sáng rực điên cuồng vì sợ. “Tôi không đi. Không đâu, em trai ạ. Họ sẽ giết chúng ta. Họ là loài bất tử.” “Chúng không bất tử.” Tôi nhìn hộp xăng sắp lụi. “Chúng có thể bị hại. Hộ vương đã cho tôi biết.” “Ông ta có thể nói dối,” Julian nhấn mạnh.

“Chúng ta đang nói về vị hôn phu của Nashira đấy. Huyết phò mã đấy. Cánh tay phải của mụ ta đấy. Mày đi tin lời ông ta nói làm gì?” “Vì tao nghĩ ông ta từng nổi loạn chống lại mụ rồi. Tao nghĩ ông ta là một trong những kẻ mang sẹo.” “Những kẻ gì cơ?” “Một nhóm Reph đã khỏi loạn và Mùa Xương XVIII.

Họ bị tra tấn. Thành mang sẹo.” “Mày nghe ai nói?” “Một đứa mót xương. XX-12.” “Mày tin bọn mót xương à?” “Không, nhưng nó chỉ cho tao bàn thờ các nạn nhân.” “Và mày nghĩ Hộ vương là một trong số ‘mang sẹo’ đó,” nó nói. Tôi gật đầu. “Vậy tao hiểu là mày đã thấy sẹo của ông ta?” “Không, tao nghĩ là ông ta giấu đi.” “Mày nghĩ, Paige a.

Như thế chưa đủ.” Trước khi tôi kịp trả lời, có kẻ xộc vào túp nhà. Tôi cứng người. Gã Quản giáo. “Ố là lá.” Đôi lông mày vẽ của gã trợn lên. “Xem ra chúng ta có kẻ đội lốt rồi. Vậy ai đang đu dây lụa nếu XIX-1 từ đầu vẫn nằm ở đây?” Tôi đứng dậy. Julian cũng vậy.

“Chị ấy bị sốc hồn,” tôi nói. Tôi nhìn thẳng vào mắt gã Quản giáo. “Chị ấy không thể diễn trong tình trạng này được.” Quản giáo quỳ xuống cạnh Liss, sờ trán chị. Chị vặn người tránh bàn tay gã. “Ối trời, ối trời ơi.” Gã luồn tay vuốt tóc chị. “Kinh khủng quá. Tin tức này kinh khủng quá.

Tôi không thể mất 1 được. 1 đặc biệt nhất đời của tôi.” Liss bắt đầu rú lên. Tiếng kêu thoát khỏi cơ thể chị thành từng cơn co giật vùng vẫy. “Đi đi,” chị hổn hển. “Đi đi!” Julian tóm lấy vai Quản giáo, xô gã thật mạnh. “Đừng đụng vào chị ấy.” Tôi đứng sau lưng nó.

Cyril ngồi quỳ, người chúi trước trả sau. Đầu tiên Quản giáo hơi ngập ngừng, thậm chí thất kinh, rồi gã phá lên cười. Gã đứng dậy, vỗ tay vào nhau khoái chí. Một bàn tay đi găng thò vào túi. “Đây là khúc dạo đầu nổi dậy chăng, các con? Tao đã thả hai con sói đói vào giữa bầy cừu rồi à?” Vẩy tay một cái, gã đã lôi sợi roi da.

Thứ roi chuyên để trị trâu bò. “Tao sẽ không để chúng mày làm tha hóa 1 đâu. Hay ai trong số đàn của tao cũng vậy.” Gã phất ngọn roi về phía tôi. “Có thể mày vẫn chưa xuống nhà trò, 40 ạ, nhưng cũng sớm thôi. Quay về với gia chủ mày đi.” “Không.” “Cả hai chúng tôi đều không đi đâu hết.” Mặt Julian dào lên nỗi quyết tâm mới mẻ.

“Chúng tôi không bỏ Liss đâu.” Quản giáo vung roi quất. Julian loạng choạng. Máu ứa khỏi vết thương mới vạch trên má nó. “Mày đã thuộc về tao rồi, cậu bé ạ, mày nên nhớ thì hơn.” Tôi giạng chân đứng tấn. Khóe mép cười cợt quay sang tôi. “Thực sự không cần đến nước này, 40 ạ.

Tao sẽ chăm sóc 1.” “Ông không thể bắt tôi đi được. Tôi là gia khách của Arcturus.” Tôi vẫn cứng rắn. “Tôi sẽ rất vui được chứng kiến ông phân trần với ngài lý do ông đánh tôi.” “Tao không định đánh mày, mộng hành ạ. Tao định chăn mày.” Sợi roi lại vù vù về phía tôi.

Julian đấm gã một cú, khiến cú đánh chệch đi. Lại y như hôm đối đầu với bọn mót xương. Lần này chúng tôi sẽ thắng. Cơn điên dại bùng nổ trong tôi. Tôi chạy nhào tới gã Quản giáo. Nắm đấm nện trúng quai hàm gã, khiến đầu gã lạng đi. Julian đá cho chân hắn loạng choạng. Bên tay cầm roi buông lỏng.

Tôi cố chộp lấy roi, nhưng gã vẫn bám chắc. Gã nhe hàm răng về phía tôi: nửa cười nhạo, nửa dọa dẫm. Julian kẹp tay vào cổ gã. Tôi gỡ roi khỏi tay gã, giơ tay toan quật – nhưng ngọn roi lại bị giật khỏi tay tôi. Một mũi ủng thúc trúng bụng, đẩy tôi ngã nhào vào tường. Suhail.

Tôi phải đoán trước được chứ. Quản giáo đi đâu, tên chủ hắn ắt không lâu sau cũng sẽ theo đó. Cũng như thế giới đường phố thôi: cơ bắp đằng trước, trùm bước đằng sau. “Tao đã đoán sẽ gặp mày ở đây, chuột ạ.” Hắn tóm tóc tôi. “Lại giở trò càn quấy hử?” Tôi nhổ vào hắn.

Hắn tát tôi mạnh đến nổ đom đóm mắt. “Tao đếch thèm biết gia chủ của mày là ai, nhãi con ạ. Thằng ái thiếp không trộ nổi tao đâu. Lý do duy nhất tao còn chưa cắt cổ mày là vì huyết bá có lệnh gọi mày.” “Chắc bà ta sẽ khoái nghe ông gọi ông ta là ‘ái thiếp’ lắm đấy, Suhail,” tôi gắng bật ra.

“Tôi có nên kể lại không?” “Thích kể gì mặc mẹ mày. Lời của bọn người còn ít được đếm xỉa hơn mớ nước dãi tạp nham của con chó.” Hắn lẳng tôi lên vai. Tôi quẫy đạp gào thét, nhưng không muốn liều phải vận hồn. Tên Quản giáo chém cạnh tay vào đầu Julian, khiến nó ngã nhào xuống đất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 11-7-2017 10:59:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19
ĐOÁ HOA

Bá phủ Suzerain có vẻ lạnh và tối tăm hơn nhiều hôm diễn văn. Tôi có một mình với Suhail, và chốc nữa hẳn cũng chỉ còn một mình với Nashira. Chân tôi bắt đầu run từng hồi nhè nhẹ. Suhail không đưa tôi tới phòng diễn văn, cũng không vào nhà nguyện. Tôi bị lôi qua mấy hành lang, tống vào một phòng trần cao có nhiều cửa sổ đỉnh tròn.

Phòng chiếu sáng nhờ một khay nến treo và cái lò sưởi đồ sộ. Ánh lửa lò sưởi nhảy nhót trên trần thạch cao, hắt bóng qua những gờ múi vòm cong nổi cao. Chính giữa phòng có một bàn ăn dài. Đầu bàn, ngự trên cái ngai đỏ bọc nệm, là Nashira Sargas. Mụ ta mặc đầm dài đen cổ bẻ cao: thiết kế theo lối điêu khắc và kỷ hà học.

“Chào buổi tối, 40.” Tôi không nói gì. Mụ vẫy tay. “Suhail, ngươi để chúng ta ở riêng được rồi.” “Vâng, thưa huyết bá.” Suhail xô tôi về phía mụ. “Hẹn gặp lại,” hắn phì vào tai tôi, “nhãi con.” Hắn nện gót trở ra cửa. Còn lại tôi trong căn phòng âm u, đối diện mụ đàn bà muốn giết tôi.

“Ngồi đi,” mụ nói. Tôi định ngồi vào cái ghế tít đầu kia bàn – cách mụ cả mười hai bộ – nhưng mụ đã chỉ chỗ ngay cạnh mình, bên trái, bên xa lò sưởi. Tôi đi vòng tới, hạ người ngồi vào ghế, mỗi bước tim lại đập thinh thịch. Suhail chẳng kìm tay tí nào khi đấm cú cuối cùng.

Nashira không rời mắt khỏi tôi. Mắt mụ xanh như rượu ngải. Tôi nghĩ không biết mụ vừa ăn ai đêm nay. “Ngươi đang chảy máu.” Có cái khăn ăn đặt bên bộ thìa dĩa, lồng vào cái vòng vàng nặng. Tôi cầm thấm thấm đôi môi sưng vù, làm lớp vải màu ngà vấy máu. Tôi gập lại, giấu vết máu đi, rồi đặt khăn vào lòng.

“Ta đoán chắc ngươi phải sợ hãi lắm,” Nashira nói. “Không.” Tôi nên sợ mới phải. Tôi có sợ. Mụ đàn bà này nắm quyền điều khiển mọi thứ. Cái tên mụ người ta phải thì thầm nhắc trong bóng tối, mệnh lệnh mụ làm máu chảy đầu rơi. Mấy con thiên thần sa ngã lờ lững quanh đó, không bao giờ rời quá xa huyền quang mụ.

Im lặng tăng dần. Tôi không biết có nên nhìn lên mụ ta không. Trong khóe mắt tôi thấy thứ gì đó bắt ánh lửa – cái chuông thuỷ tinh. Chuông đặt chính giữa bàn. Trong lòng chuông là một bông hoa đã héo, cánh đã nâu xỉn quắt lại, còn đứng được nhờ sợi dây thép rất mảnh làm thân đỡ.

Dù khi còn sống nó có là loại hoa gì thì đến lúc chết cũng chẳng còn nhận ra được. Tôi không hiểu sao lại có trò bày hoa héo ở giữa bàn ăn tối – nhưng đây suy cho cùng là Nashira. Giữ các vật chết quanh mình là nghề của mụ. Mụ nhận ra ánh mắt tôi. “Một vài thứ chết sẽ tốt hơn sống,” mụ nói.

“Ngươi không đồng tình ư?” Tôi không rời nổi mắt khỏi bông hoa. Và, cũng không chắc lắm, nhưng hình như giác quan thứ sáu của tôi vừa run bắn. “Có,” tôi đáp. Nashira nhìn lên. Có nhiều hàng dài những bộ mặt thạch cao phía trên cửa sổ, ít nhất năm mươi cái dọc mỗi bức tường dài.

Tôi ngắm nghía kỹ bộ mặt gần nhất, như bị hút về phía nó. Một bộ mặt thật nữ tính, thanh thản, mang nụ cười dịu dàng. Người đàn bà trông yên bình như đang ngủ. Một cơn buồn nôn quặn thắt dồn lên trong dạ tôi. Đấy chính là L’Inconnue de la Seine, cái mặt nạ người chết nổi tiếng của Pháp.

Trong động Jax có một bản sao. Ông nói khuôn mặt người đàn bà thật đẹp, nói cô ta đã là niềm đam mê của giới nghệ sĩ ngoài lề cuối thế kỷ mười chín. Eliza bắt ông lấy vải phủ lại, khiến ông không ngớt càu nhàu. Chị nói nhìn nó phát ớn. Tôi chầm chậm nhìn quanh phòng. Vậy ra mọi khuôn mặt – mọi người quanh đây – toàn là mặt nạ người chết.

Tôi nén lắm mới khỏi oẹ. Nashira không chỉ thu thập vong thấu thị, mà cả khuôn mặt họ. Seb. Nhỡ Seb cũng có trên đó thì sao? Tôi buộc mình nhìn xuống, nhưng ruột tôi lại quặn lên. “Ngươi có vẻ không khoẻ,” Nashira nói. “Tôi không sao.” “Ta rất mừng khi nghe câu đó. Sẽ rất không may nếu ngươi lâm bệnh vào đúng giai đoạn hệ trọng nhất trong quá trình đào tạo ngươi ở Sheol I.” Mụ ta đưa ngón tay đi găng gại trên con dao ăn, mắt vẫn nhìn tôi.

“Đoàn áo đỏ của ta trong ít phút nữa sẽ tới đây, nhưng ta muốn có cơ hội tiếp chuyện với ngươi trước. Coi như trao đổi câu chuyện nhỏ từ trái tim.” Tôi nghĩ thật ngộ nghĩnh là mụ tưởng mình có tim. “Huyết phò mã vẫn báo cáo với ta về sự tiến bộ của ngươi. Ngài cho biết đã nỗ lực hết sức để giúp ngươi phát lộ công năng,” mụ nói, “nhưng ngươi vẫn thất bại trong việc nhập chiếm trọn vẹn một mộng trường – dù là mộng trường thú vật.

Điều này có đúng không?” Mụ không biết. “Đúng,” tôi nói. “Thật đáng tiếc. Tuy nhiên ngươi đã giáp mặt với một con Emite và vẫn sống sót, hơn thế nữa còn gây thương tích cho hắn. Vì nguyên do này mà Arcturus tin rằng ngươi nên được phong áo đỏ.” Tôi không biết phải đáp thế nào.

Dù vì lý do gì, Hộ vương đã không kể với mụ về con bướm. Hoặc con hươu. Thế nghĩa là hắn không muốn mụ biết về khả năng của tôi – nhưng vẫn muốn tôi thành áo đỏ. Lần này hắn đang chơi trò gì đây? “Ngươi thật kiệm lời,” Nashira nhận xét. Mắt mụ lạnh như băng. “Ngươi đâu có nhút nhát như vậy trong lễ diễn văn.” “Tôi đã được dạy chỉ nói khi có yêu cầu.” “Lúc này ta yêu cầu ngươi.” Tôi chỉ muốn bảo mụ nhét ngược cái yêu cầu đó vào họng đi.

Tôi đã hỗn xược với Hộ vương, lẽ ra tôi không nên ngần ngừ mà đối xử với mụ y như vậy mới phải – nhưng tay mụ còn đặt trên dao, và mắt mụ dán vào tôi chẳng hề nao núng. Cuối cùng, cố tỏ ra hèn mọn vừa đủ, tôi nói: “Tôi rất mừng là huyết phò mã coi tôi xứng đáng đưọc nhận áo đỏ.

Tôi đã cố hết sức trong các bài thi.” “Hẳn nhiên. Nhưng không nên lấy đó làm mãn ý.” Mụ lại tựa vào ghế. “Ta có vài câu hỏi cần ngươi trả lời. Trước khi cử hành tiệc kết nạp ngươi.” “Kết nạp ư?” “Phải. Chúc mừng ngươi, 40. Ngươi đã gia nhập quân áo đỏ rồi.

Ngươi sắp được giới thiệu cùng các đồng sự mới. Tất cả đều tận trung với ta, trên cả với gia chủ của chúng nữa.” Máu đập thình thình trong tai tôi. Áo đỏ. Mót Xương. Tôi đã lên đến hàng ngũ cao nhất ở Sheol I, đội thân cận của Nashira Sargas. “Ta muốn nói chuyện với ngươi về Arcturus.” Nashira nhìn vào lửa.

“Ngươi đã lưu trú ở phủ ngài lâu nay.” “Tôi ở phòng riêng. Trên lầu.” “Ngài có bao giờ yêu cầu ngươi ra khỏi đó không?” “Chỉ lúc huấn luyện thôi.” “Không có gì khác à? Trò chuyện vài câu chẳng hạn?” “Ngài ấy chẳng thích thú gì trò chuyện với tôi cả,” tôi đáp.

“Tôi thì có chuyện gì mà huyết phò mã thấy đáng nghe?” “Nói rất có lý.” Tôi ngậm miệng. Mụ ta không hề biết tôi làm hắn thích thú đến đâu, hắn đã dạy tôi nhiều điều sau lưng mụ đến thế nào. “Ta đồ là ngươi đã đi khắp trú sở ngài rồi. Có thứ gì trong Tháp Sáng Lập làm ngươi băn khoăn không? Có gì bất thường không?” “Ngài có vài thứ chiết xuất cây cỏ gì đó tôi không nhận ra.” “Hoa.” Tôi gật đầu, mụ liền nhặt thứ gì đó trên bàn.

Một chiếc mặt ghim cài, đã ố nhiều qua năm tháng, hình dáng y hệt bông hoa trên nắp hộp thuốc hít của hắn. “Ngươi đã bao giờ thấy biểu tượng này trong Tháp Sáng Lập chưa?” “Chưa.” “Ngươi có vẻ đoan chắc.” “Tôi đoan chắc. Tôi chưa thấy cái này bao giờ.” Mụ nhìn thẳng vào tôi, vào mắt tôi.

Tôi cố không ngoảnh đi. Đằng xa có tiếng cửa đóng. Một hàng áo đỏ đi vào phòng, dẫn đầu là một tên Reph tôi không biết mặt. “Xin chào các bạn của ta.” Nashira vẫy tay về phía chúng. “Xin mời ngồi.” Tên Reph áp nắm đấm vào ngực rồi rời khỏi phòng. Tôi liếc từng khuôn mặt đám người.

Hai mươi đứa mót xương, đứa nào cũng toát vẻ no cơm ấm cật. Chắc chúng được chia theo nhóm. Bọn lão làng từ Mùa Xương XIX đi đầu. Kathryn có ở đó, cả 16 và 17 nữa. Đứng cuối hàng là Carl, mặc áo dài đỏ, tóc rẽ giữa chải thắng thớm. Nó trân mắt ngó tôi vẻ trách móc. Chắc hẳn nó chưa từng thấy đứa áo hồng nào bên bàn huyết bá bao giờ.

Từng đứa ngồi vào ghế. Carl buộc phải ngồi vào chỗ duy nhất còn chừa lại, đối diện tôi. David ngồi cách vài chỗ. Trán nó có vết cắt mới toanh, dán một hàng băng dính sát trùng. Nó ngước nhìn dãy mặt nạ người chết, nhướng mày. “Ta rất vui lòng thấy các ngươi đều tới tham dự với ta đêm nay.

Chính nhờ những nỗ lực không mệt mỏi của các ngươi mà tuần này không có vụ tấn công đáng kể nào từ phía Emite.” Nashira nhìn từng đứa một. “Tuy vậy, chúng ta cũng không được quên mối đe dọa thường trực từ phía chúng. Không có đường nào chữa trị sự bạo tàn của chúng, và – vì ngưỡng đã bị vượt qua rồi – không còn cách nào cầm tù chúng trong âm Gian.

Các ngươi là rào chắn duy nhất giữa con thú săn và con mồi.” Chúng gật đầu. Chúng đều tin điều đó. Mà có thể David thì không. Nó đang nhìn lên một cái mặt nạ, hơi nhếch mép. Tôi thoáng thấy Kathryn bên kia bàn đang nhìn mình. Có vết bầm lớn vắt chéo một bên mặt nó. 16 và 17 thậm chí còn không đưa mắt về phía tôi.

Tốt. Chúng mà nhìn chưa chắc tôi đã kiềm chế khỏi phi con dao ăn vào chúng. Liss vẫn còn đang hấp hối ngoài kia, hoàn toàn là vì chúng. “22,” Nashira quay sang đứa mót xương ngồi bên phải. “11 ra sao rồi? Theo ta biết anh ta vẫn còn ở Oriel.” Tên thanh niên hắng giọng. “Anh ấy đã đỡ hơn rồi, thưa huyết bá.

Không thấy dấu hiệu nhiễm trùng.” “Lòng quả cảm của anh ta đã được ghi nhận.” “Anh ấy sẽ rất vinh hạnh được biết điều đó, thưa huyết bá.” Dạ thưa huyết bá. Không thưa huyết bá. Bọn Reph quả khoái nghe tán tụng. Nashira lại vỗ tay vào nhau. Bốn đứa vô minh đi vào qua cửa bên, mỗi đứa bưng theo cái khay, nghe mùi rau thơm điếc mũi.

Michael cũng có mặt trong đó, nhưng không nhìn tôi. Chúng nhanh chóng bày biện trên bàn một bữa tiệc thịnh soạn xếp quanh cái chuông thủy tinh. Một đứa rót vang trắng ướp lạnh vào ly cho chúng tôi. Cổ tôi chợt nghẹn. Khay nào cũng đầy ắp thức ăn. Thịt gà cắt từng miếng rất đẹp, vừa mềm vừa mọng nước, da chín giòn vàng ươm, nhồi đầy hành và xô thơm; nước thịt đặc thơm lừng; xốt quả nam việt quất; các loại rau hấp và khoai nướng, xúc xích mũm mĩm quấn thịt hun khói – một bữa có thể đem chiêu đãi Đại Pháp Quan mà không hổ thẹn.

Nashira gật đầu, cả đám áo đỏ liền xông trận. Chúng ăn nhanh, nhưng không phải cái kiểu ngốn ngấu của kẻ bị bỏ đói lâu ngày. Bụng tôi quặn lên. Tôi muốn ăn. Nhưng rồi tôi nghĩ tới đám hề xiếc sống bằng bánh mì cứng và nước mỡ trong xó nhà. Ở đây thức ăn ê hề, ngoài đó chẳng có một mẩu.

Nashira nhận ra tôi đang ngần ngừ. “Ăn đi.” Đấy là lệnh. Tôi nhặt vài miếng thịt gà và ít rau vào đĩa. Carl uống ực ly vang như uống nước lã. “Coi chừng đấy 1,” một đứa con gái nói. “Kẻo anh lại ốm lần nữa.” Đám còn lại phá lên cười. Carl nhăn nhở. “Thôi nào, chỉ một lần chứ mấy.

Lúc đó tôi vẫn còn áo hồng.” “Phải, để yên cho 1 đi. Anh ta xứng đáng cạn ly này.” 22 thụi một cú thân tình lên tay nó. “Anh ta vẫn còn là lính mới. Chưa kể chúng ta ai cũng hoảng khi lần đầu gặp con Vo Ve.” Xung quanh rì rầm đồng ý. “Tôi ngất xỉu đấy,” vẫn con bé đó thú nhận.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 11-7-2017 11:12:10 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

Một cử chỉ quên mình để tỏ tình đoàn kết. “Lần đầu tiên gặp nó, ý tôi là thế.” Carl mỉm cuời. “Nhưng cô dùng vong giỏi lắm mà 6.” “Cám ơn anh.” Tôi im lặng nhìn chúng thể hiện tình hữu ái. Thật tởm, nhưng chúng hoàn toàn không giả bộ tí nào. Carl không đơn thuần thích làm áo đỏ – không chỉ thế, rõ là nó thuộc về cái thế giới mới lạ lùng này.

Phần nào đó tôi cũng thông cảm được. Tôi đã cảm thấy đúng như thế ngày đầu về làm việc cho Jaxon. Có thể Carl chưa bao giờ tìm được chỗ đứng trong nghiệp đoàn. Nashira quan sát chúng. Chắc mụ hào hứng lắm với cái màn phô diễn hàng tuần này. Một lũ người ngu xuẩn bị tẩy não, đang cười đùa về những thử thách bị mụ bắt trải qua – đứa nào cũng phủ phục dưới chân mụ, ăn từ tay mụ.

Chác mụ phải thấy mình hùng mạnh vô cùng. Khoái trá vô cùng. “Cô vẫn còn mặc hồng.” Một giọng chói lói vang lên. “Thế cô thì đã đánh Vo Ve chưa?” Tôi ngước lên. Cả lũ đều đang dồn mắt vào tôi. “Đêm qua,” tôi nói. “Tôi chưa thấy cô bao giờ.” 22 rướn cặp lông mày rậm rì.

“Cô đầu quân tiểu đoàn nào?” “Tôi không thuộc tiểu đoàn nào cả.” Tôi bỗng thấy có trò vui. “Phải có chứ,” một thằng khác nói. “Cô còn áo hồng. Ở phủ cô còn có con người nào nữa? Gia chủ của cô là ai?” “Gia chủ của tôi chỉ lãnh một con người thôi.” Tôi tặng 22 một nụ cười chớp nhoáng.

“Chắc anh đã từng thấy ngài ở đâu đó rồi. Đó là ngài huyết phò mã.” Im lặng kéo dài tưởng phải đến hàng giờ. Tôi nhấp một ngụm rượu. Thứ cồn không quen đốt bỏng cả lưỡi. “Rất mừng là huyết phò mã lại chọn một gia khách loài người xứng đáng như 40,” Nashira nói và cuời nhạt.

Tiếng cười nghe rất chướng tai, như tiếng chuông lạc nốt. “Cô ấy đã chiến đấu với tên Vo Ve một mình, không có gia chủ bên cạnh.” Im lặng sâu thêm. Tôi đoán cả đám này chưa đứa nào từng vào rừng mà không có Reph đi kèm, nói gì đến chuyện đơn thương đánh nhau với Vo Ve. 30 chớp cơ hội lên tiếng hỏi chính điều tôi đang nghĩ đến: “Vậy nghĩa là ngài ấy không chiến đấu với bọn Emite ư, thưa huyết bá?” “Có lệnh cấm huyết phò mã đương đầu với bọn Emite.

Là phối ngẫu tương lai của ta, để ngài làm thay việc của quân áo đỏ sẽ là bất kính.” “Tất nhiên rồi, thưa huyết bá.” Nashira đang nhìn tôi, tôi cảm thấy rõ. Tôi vẫn tiếp tục ăn món khoai. Hộ vương có đánh nhau với Emite. Chính tay tôi đã rửa vết thương cho hắn. Hắn đã trái lệnh Nashira, còn mụ ta thì chẳng biết gì – hoặc chỉ mới nghi ngờ thôi.

Mất vài phút, chỉ nghe tiếng lanh canh thìa dĩa. Tôi ăn rau nhúng nước xốt thịt, vẫn mải nghĩ về hành tung bí mật của Hộ vương với bọn Emite. Chẳng hề có gì bắt buộc hắn liều thân nhưng hắn vẫn tự nguyện vào rừng đánh nhau với chúng. Phải có nguyên nhân nào chứ. Lũ áo đỏ khẽ nói chuyện với nhau.

Chúng hỏi han về phủ của nhau, trầm trồ khen vẻ đẹp của những tòa nhà cổ. Chốc chốc chúng lại lôi các hề xiếc ra nhạo báng (“Một lũ nhát cáy, đúng thế, cả những đứa dễ chịu hơn cũng vậy”). Kathryn gẩy gẩy thức ăn, cau mày mỗi khi nghe nhắc đến Tổ Quạ. 30 vẫn còn đỏ mặt, Carl thì nhai thật lực, giữa từng mồm thức ăn lại nốc ly vang thứ hai.

Mãi đến lúc bát đĩa sạch bóng, đám vô minh mới vào dọn bàn, để lại cho chúng tôi ba khay tráng miệng. Nashira đợi chúng no nê rồi mới lại cất tiếng nói. “Nay các ngươi đã được ăn uống đầy đủ rồi, các bạn của ta ạ, chúng ta hãy cùng giải trí một chút.” Carl lấy khăn ăn chấm mật đường rỉ trên mép.

Một tốp hề xiếc xếp hàng đi vào phòng. Trong số họ có một thiên cầm. Khi Nashira gật đầu, nó đưa vĩ cầm lên vai chơi một điệu êm ái và réo rắt. Số còn lại bắt đầu biểu diễn nhào lộn rất uyển chuyển. “Đến lúc vào việc rồi,” Nashira nói. Mụ ta còn chẳng buồn xem biểu diễn.

“Nếu trong số các ngươi đã có ai từng nói chuyện với Quản giáo, có thể các ngươi đã biết nhiệm vụ của ông ta ở đây. Ông ta là người săn các Mùa Xương. Qua vài thập niên gần đây, ta đã cố gắng săn về những thấu thị giá trị từ nghiệp đoàn tội ác ở Scion London. Hẳn nhiên rất nhiều người trong số các ngươi có nghe đến nó, một vài người thậm chí có thể từng làm việc cho nó.” 30 và 18 rục rịch trong ghế ngồi.

Tôi không nhận ra cả hai đứa chúng nó, nhưng công việc của tôi vốn hạn chế trong I-4, thỉnh thoảng sang I-1 hoặc I-5. Vẫn còn ba mươi ba phân khu khác có thể là nơi chúng sống. Carl thì đang há hốc miệng. Chẳng ai nhìn đám nhà trò. Tài nghệ họ phải nói là đã đạt đến mức hoàn thiện, nhưng chẳng ai ngó tới.

“Sheol I đặt mục tiêu là chất lượng, chứ không chỉ là số lượng.” Nashira không đếm xỉa đến nửa số ngồi trước mặt đang cụp mắt. “Mấy thập kỷ vừa qua ta đã để ý thấy sự xuống dốc đều đặn về độ đa dạng trong số các thấu thị chúng ta bắt được. Mọi kỹ năng của các ngươi đều được các Rephaite trân trọng và quý hoá, nhưng còn rất nhiều tài năng khác chúng ta cần đến để bổ sung thêm cho đặc khu.

Chúng ta ai cũng cần học hỏi lẫn nhau. Nếu chỉ đưa về đây những người đoán lá bài hay chỉ tay thì sẽ rất thiếu hụt.” “XX-59-40 chính là loại thấu thị bây giờ chúng ta tìm kiếm. Cô ta là mộng hành đầu tiên của chúng ta. Chúng ta còn có nhu cầu tìm vu nữ và nộ thần, nhiếp hồn và chiêu hồn, cùng một hoặc hai tiên tri nữa – bất kể loại thấu thị nào có thể đưa tới cho hàng ngũ ta thêm những kiến giải mới mẻ.” Kathryn đưa con mắt bầm tím nhìn tôi.

Giờ nó đã biết chắc tôi không phải hung thần. “Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có thể học nhiều từ 40,” David nâng ly nói. “Riêng tôi thì rất sẵn lòng.” “Thái độ thế là rất tốt, 12 ạ. Và chúng ta quả muốn học rất nhiều từ 40,” Nashira nói, lúc này ngoảnh sang nhìn tôi.

“Chính vì thế ta cắt cử cô ta vào đặc vụ bên ngoài ngày mai.” Đám kỳ cựu liếc nhìn nhau. Carl đỏ tía mặt mày không thua gì cái bánh kem dâu. “Ta cũng sẽ phái XX-59-1 đi cùng. Cả ngươi nữa, 12,” Nashira nói tiếp. Lúc này trông Carl tươi hơn hớn. David cười khẽ vào ly. “Các ngươi sẽ đi với một tiền bối thuộc Mùa Xương XIX, người đó sẽ theo dõi những gì các ngươi thể hiện.

30, ta cho là ta có thể tin tưởng giao ngươi việc này.” 30 gật đầu. “Rất vinh hạnh, thưa huyết bá.” “Tốt.” Carl nhấp nhổm muốn rơi khỏi ghế. “Mục đích đặc vụ là gì, thưa huyết bá?” “Chúng ta đang gặp một tình thế rất tế nhị. Như 1 và 12 đã biết, ta đã yêu cầu phần lớn lứa áo trắng soi tìm địa bàn của một nhóm gọi là Bảy Ấn.

Chúng thuộc về nghiệp đoàn tội phạm của các thấu thị.” Tôi không dám ngẩng lên. “Thông tin cho biết Bảy Ấn nắm giữ một vài dạng thấu thị rất hiếm có, gồm cả một tiên tri và một nhiếp hồn. Thực tế chính kẻ mệnh danh 'Nhiếp Hồn Trắng' là đầu não của nhóm đó. Từ kết quả những lần soi gần đây, chúng ta đã suy luận được chúng sẽ hội ở London vào ngày kia.

Địa điểm gặp tên là quảng trường Trafalgar, nằm trong tổng khu I, thời gian là một giờ sáng.” Những thông tin chúng tập hợp được quả chi tiết đến khó tin. Nhưng dùng từng ấy thấu thị soi một lúc, tập trung một nguồn năng lượng vào duy nhất một phần trong thanh khí, thì cũng không đáng ngạc nhiên mấy.

Hiệu quả cũng phải tương đương với cầu vong. “Có ai trong các ngươi biết gì về Bảy Ấn không?” Không thấy ai trả lời, Nashira nhìn tôi. “40. Ngươi chắc phải từng làm việc trong nghiệp đoàn. Nếu không, ngươi chẳng thể ẩn náu ở London được lâu như vậy.” Ánh mắt cho thấy mụ ta không nói đùa.

“Hãy nói xem ngươi biết những gì.” Tôi hắng giọng. “Các băng nhóm đều rất bí mật,” tôi nói. “Có nhiều giai thoại, nhưng...” “Giai thoại,” mụ lặp lại. “Bàn tán,” tôi chữa lại. “Đồn thổi.” “Nói rõ xem.” “Chúng tôi đều biết tên giả mà chúng dùng.” “Những tên đó là gì?” ''Nhiếp Hồn Trắng, Ảo Ảnh Đỏ, Kim Cương Đen, Mộng Mơ Mặt Tái, Thi Thần Tuẫn Tử, Hung Thần Bị Xiềng và Chuông Vô Thanh.” “Ta biết hầu hết các tên đó.

Mộng Mơ Mặt Tái thì không.” Tuyệt. “Từ đó ta đoán rằng còn có một mộng hành khác. Không phải là trùng hợp ư?” Ngón tay mụ gõ xuống bàn. “Ngươi có biết chúng đóng ở đâu không?” Tôi không chối được. Mụ đã thấy chứng minh thư của tôi. “Có,” tôi nói. “Ở I-4. Tôi làm việc ở đó.” “Chẳng phải thật bất thường là lại có hai mộng hành sống gần nhau đến thế? Chắc hẳn chúng cũng muốn tuyển ngươi vào băng.” “Chúng không biết.

Tôi náu rất kỹ,” tôi nói. “Con Mộng Mơ này là đồng tử phân khu I-4, là đệ ruột của Nhiếp Hồn. Con bé đó sẽ cho giết tôi nếu biết có đối thủ. Các băng nhóm mạnh không ưa cạnh tranh.” Mụ đang vờn tôi, tôi biết chắc. Nashira đâu có ngu. Chắc mụ đã ráp nối cả với nhau rồi: tập sách, Mộng Mơ Mặt Tái, Bảy Ấn ở phân khu I-4.

Mụ biết đích xác tôi là ai. “Nếu kẻ Mộng Mơ Mặt Tái này quả là mộng hành, thì rất có khả năng Nhiếp Hồn Trắng đang giấu một trong những thấu thị được thèm muốn nhất toàn thành,” mụ nói. “Rất hiếm khi chúng ta có cơ hội gắn thêm một viên ngọc quý nhường đó vào vương miện của chúng ta.

Năng lực ngươi là yếu tố cốt tử trong đặc vụ này, 40 ạ. Nếu có ai nhận mặt được mộng hành nhóm Bảy Ấn, đó chỉ có thể là một mộng hành khác.” “Vâng, thưa huyết bá,” tôi đáp, cổ nghẹn lại, “nhưng… vì sao Bảy Ấn lại gặp nhau lúc đó?” “Như ta đã nói, 40 ạ, đấy là một tình thế rất tế nhị.

Có vẻ là một đám thấu thị ở Ireland đang tìm cách bắt liên lạc với nghiệp đoàn ở London. Một kẻ ngoài vòng pháp luật người Ireland tên Antoinette Carter cầm đầu chúng. Bảy Ấn đã hẹn gặp kẻ này.” Vậy là Jax đã làm được. Tôi nghĩ không hiểu làm thế nào Antoinette lại luồn lọt vào thành nổi.

Vượt biển Anh-Ireland là điều gần như bất khả. Nhiều thấu thị đã từng kiếm cách vượt biên, phần lớn nhắm đích Hoa Kỳ, nhưng chẳng mấy người thành công. Không thể cưỡi bè mà vượt sóng được. Mà kể cả nếu có ai đến đích, Scion cũng chẳng để chúng tôi biết. “Cần hết sức ngăn chặn một nghiệp đoàn tội phạm tương tự hình thành ở Dublin.

Cuộc gặp này phải bị ngăn lại. Mục đích của các ngươi là bắt được Antoinette Carter. Ta tin rằng cả bà ta cũng có thể là một loại thấu thị quý hiếm, và ta muốn biết đích xác bà ta đang giấu thứ quyền năng nào. Mục đích thứ hai là cưỡng chế Bảy Ấn. Nhiếp Hồn Trắng là mục tiêu tối quan trọng.” Jaxon.

Nghiệt chủ của tôi. “Các ngươi sẽ nằm dưới quyền giám sát của huyết phò mã cùng em họ ngài. Ta trông đợi sẽ đạt được kết quả. Trách nhiệm sẽ thuộc về tất cả các ngươi nếu Carter có thể trở về Ireland.” Nashira nhìn từng người trong bọn: 30, David, Carl và tôi. “Các ngươi đã rổ chưa?” “Rõ, thưa huyết bá,” 30 và Carl đáp.

David lắc sánh rượu trong ly. Tôi không nói gì. “Cuộc đời ngươi ở đây sắp thay đổi rồi, 40. Ngươi sẽ được quyền dùng công năng của ngươi, một cách có ích, vào đặc vụ này. Ta trông đợi ngươi sẽ chứng tỏ được lòng cảm kích với những giờ dài Arcturus đổ vào huấn luyện cho ngươi.” Nashira rời mắt khỏi ngọn lửa, nhìn thẳng vào mắt tôi.

“Ngươi có tiềm năng rất lớn. Nếu ngươi không cố sức hiện thực hóa tiềm năng đó, ta sẽ đảm bảo ngươi không bao giờ còn bước đi dưới những mái phòng Magdalen nữa. Ngươi sẽ tha hồ mục ruỗng bên ngoài cùng đám hề xiếc kia.” Ánh mắt mụ không biểu lộ cảm xúc nào, trừ cơn háu đói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 13-7-2017 19:18:19 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20
MỘT THẾ GIỚI NHỎ

Hai thành viên thứ năm và sáu được đưa về đầu năm 2057, một năm sau khi tôi nhập băng. Họ đến giữa một đợt nắng nóng đặc biệt tàn khốc. Một trong đám liên lạc của Jaxon báo thấy xuất hiện hai thấu thị mới trong phân khu I-4. Hai kẻ này thuộc đoàn khách tham quan tới dự hội thảo mùa hè hàng năm ở trường Đại học, vốn luôn là một sự kiện tưng bừng.

Hàng trăm du khách, trẻ và háo hức, được đưa tới từ các nước chưa lập duệ thành, đến lúc quay về đã thành cổ động viên đắc lực cho các chính sách tiễu trừ thấu thị. Những chương trình kiểu này đã bắt đầu giành được ủng hộ ở một số vùng tại Mỹ, đất nước vẫn còn bất đồng ý kiến về chế độ Scion nhiều thập kỷ nay.

Chú liên lạc trung thành, đánh hơi ra hai huyền quang, đã cấp tốc chạy về báo cho nghiệt chủ, rồi mới phát hiện ra họ vốn chẳng định cư ở phân khu I-4. Họ chẳng biết tí gì về sự tồn tại của nghiệp đoàn. Có thể họ còn chẳng biết mình là thấu thị. Theo chú liên lạc nói, một trong hai khách thăm – một cô gái trẻ – gần như chắc chắn là thiên cầm.

Jax chẳng mấy hứng thú. Thiên cầm, ông bảo tôi, là một tiểu loại trong số ngoại cảm – những kẻ rất nhạy với các hoạt động thanh khí như mùi vị, âm thanh hay nhịp điệu của các vong. Họ nghe được tiếng nói và rung động của vong, còn lợi dụng chơi nhạc cụ được. “Công năng khá dễ thương,” ông bình phẩm, “nhưng chẳng độc đáo quái gì.” Ngoại cảm có hiếm hơn thanh đồng, nhưng không hơn nhiều lắm.

Đẳng cấp bốn trong thang thấu thị. Tuy thế trong thành loại đó cũng không có mấy, mà Jaxon cũng thích sưu tập của lạ. Người còn lại mới là kẻ ông quan tâm. Chú liên lạc báo huyền quang này rất bất thường, lơ lửng giữa cam và đỏ. Huyền quang của hung thần. Jax đã lùng sục đường phố tìm hung thần nhiều năm nay nhưng đây là lần đầu có tín hiệu triển vọng.

Ông không tin nổi vận may của mình nữa. Ông mang một giấc mơ, một kế hoạch. Jaxon Hall không chỉ muốn nắm một băng đảng trong tay – không hề. Ông muốn một chuỗi ngọc quý, muốn những tinh hoa trong giới thấu thị. Ông muốn Hội đồng Phi tự nhiên phải ganh tị với ông hơn tất cả các nghiệt chủ khác.

“Tôi sẽ thuyết phục họ ở lại,” ông đã nói, cây can chĩa vào tôi. “Cứ chờ mà xem, đồng tử yêu quý ạ.” “Họ còn cuộc sống ở quê, Jax à. Gia đình nữa.” Tôi không tin. “Ông không nghĩ họ sẽ cần thời gian suy nghĩ à?” “Không có thời gian gì hết, cô bé ạ. Một khi họ đi rồi tôi sẽ không bao giờ buộc họ quay lại đưọc nữa.

Họ phải ở lại.” “Cứ mơ đi.” “Tôi không mơ bao giờ. Nhưng ta cược không?” Ông ta chìa tay. “Nếu thua, cô phải làm hai nhiệm vụ không lương. Và đánh bóng cái gương cổ.” “Nếu tôi thắng?” “Tôi trả cô gấp đôi cho hai nhiệm vụ đó. Và cô không phải đánh bóng cái gương cổ.” Tôi bắt tay ông.

Jax có tài nói cho kiến trong lỗ cũng phải bò ra. Tôi biết chắc cha sẽ nói gì về loại người như ông: “Chà, hẳn là hắn ta đã hôn tảng đá an Bhlarna[1] đấy.” Ông ta có biệt tài khiến người khác xăng xái muốn làm đẹp lòng mình, muốn thấy cái ánh hứng thú điên dại ngời lên trong mắt ông.

Ông biết mình sẽ giữ được hai người kia ở lại. Sau khi xác định được khách sạn họ ở, và dúi tiền cho một gã bói dạo để hỏi tên họ, ông ta gửi họ giấy mời tới một “sự kiện đặc biệt” tại một quán cà phê hạng sang trong Covent Garden. Chính tôi chuyển giấy cho người bồi cửa, bỏ trong phong bì đề gửi Cô Nadine L.

Arnett và Ông Ezekiel Sáenz.


Họ gửi thông tin cá nhân lại. Cùng mẹ khác cha. Cả hai sống ở Boston hoa lệ, thủ phủ Massachusetts.

Ngày diễn ra phỏng vấn, Jaxon liên tục bắn email cập nhật tình hình. Tuyệt vời. Tuyệt vời không thể tả được. Cô gái chắc chắn tuyệt đối là vẹt. Nói năng lưu loát lắm. Xấc xược cũng không thua. Cậu anh trai đáng tò mò kinh khủng. Chẳng xác định nổi huyền quang là gì. Đến bực.

Nick, Eliza và tôi đợi tròn một giờ nữa mới thấy những lời vàng ngọc. Họ sẽ ở lại. Paige, gương chưa bóng lộn thì đừng nhìn mặt tôi. Tôi không bao giờ cá cược gì với Jaxon Hall nữa. Hai ngày trôi qua. Trong lúc Eliza sửa soạn phòng trong động cho đôi ma mới, tôi đi cùng Nick đến phố Gower đón họ.

Dự tính là cho họ cứ thế chìm mất tăm, như thể đã bị bắt cóc và khử rồi. Chúng tôi sẽ để lại ít dấu hiệu, quần áo vấy máu, một hai sợi tóc gì đó. Scion sẽ thích lắm. Chúng có thể dùng tuyên truyền thêm về tội ác của bọn phi tự nhiên – nhưng quan trọng hơn cả là chúng sẽ không đi tìm đôi anh em mất tích.

“Anh nghĩ đúng là Jax thuyết phục được chúng nó ở lại à?” trên đường đi tôi hỏi. “Em biết ông ấy là người thế nào mà. Có đủ thời gian thì Jax thuyết phục được em nhảy từ vách đá xuống ấy chứ.” “Nhưng chúng nó chắc còn có gia đình. Nadine thì còn đang học nữa.” “Có thể ở đó họ sống cũng không thoải mái, sötnos à.

Ở Scion ít ra thấu thị cũng được biết mình là gì. Ở đó, chắc họ chỉ nghĩ là mình bị điên.” Anh đeo kính râm lên. “Xét về mặt đó thì Scion là một món quà của Chúa.” Phần nào đó, anh nói đúng. Ngoài các duệ thành Scion không nơi nào có chính sách cụ thể về thấu thị; họ không được pháp luật công nhận, không được thừa nhận là nhóm thiểu số – họ chỉ tồn tại trong sách truyện.

Nhưng thế còn hơn là bị săn đuổi rồi trừ bỏ có hệ thống như chúng tôi đây. Tôi chẳng hiểu lý do gì mà họ ở lại. Họ đứng đợi ngoài cổng trường Đại học. Nick chìa tay cho người đứng gần hơn. “Chào. Zeke phải không?” Anh chàng lạ mặt gật đầu. “Tôi là Nick.” “Paige,” tôi nói.

Mắt Zeke sẫm như trà đen, sâu hút trên bộ mặt xương xương, bồn chồn. Chắc cậu ta phải hai mấy, cao nhưng gầy, tay giòn mảnh và da ăn nắng. “Hai người ở chỗ Jaxon Hall hả?” Giọng cậu ta lơ lớ. Bàn tay kia vuốt mồ hôi trên trán, tôi thoáng thấy một vết sẹo nằm dọc. “Phải, nhưng đừng nhắc lại tên đó.

Bọn Vệ Đêm ở khắp nơi.” Nick mỉm cười. “Còn cô chắc là Nadine.” Anh đang nhìn cô gái thiên cầm. Cô ta cũng giống cậu anh ở đôi mắt và vẻ bồn chồn, nhưng đến đó là hết. Tóc cô ta nhuộm đỏ, cắt thẳng băng như thước đo. Các thành Scion thường giữ nguyên mốt ăn mặc và ăn nói từ thập kỷ thiết lập thành; ở SciLo ai cũng mặc đồ vải thô kiểu từ thời Victoria – nhưng cái áo vàng, quần bò và giày cao gót của Nadine như muốn xướng ầm ĩ “tôi du khách, tôi khác biệt”.

“Cứ cho là vậy,” cô ta đáp. Nick hơi nheo mắt khi nhìn Zeke. Tôi cũng đang cố mãi chưa phân biệt nổi huyền quang cậu ta. Thấy thế, Nadine xích lại gần anh mình. “Gì?” “Không có gì. Xin lỗi,” Nick đáp. Anh liếc qua đầu họ quan sát trường Đại học, rồi lại nhìn kỹ từng người.

“Chúng ta phải nhanh lên thôi. Tôi hiểu là cả hai cô cậu đều đã nghĩ kỹ việc này, vì khi chúng ta đã rời khỏi trường này là không còn đường trở lại đâu.” Zeke nhìn cô em. Cô ta nhìn xuống chân, tay khoanh lại. “Chúng tôi nghĩ kỹ rồi,” cậu ta nói. “Chúng tôi đã quyết định.” “Vậy thì đi thôi.” Tới cuối đường, cả bốn lèn vào một tắc xi dù.

Nadine mò trong túi, lôi ra cặp tai nghe. Không nói lời nào, cô ta chụp lên đầu, nhắm mắt. Môi hình như run run. “Anh cho về phố Monmouth,” Nick bảo tài xế. Xe lăn đi. Còn may, tắc xi dù là loại không giấy phép. Chúng ăn dày chỉ là nhờ đám hành khách thấu thị. Phố Monmouth là nơi Jax sống: một căn hộ lớn ba tầng phía trên một cửa hàng nhỏ.

Chú thích

[1.] Khối đá trên tường thành lâu đài lớn ở thị trấn an Bhlarna (Blarney) hạt Cork, Ireland, tương truyền ai hôn khối đá này sẽ được ban tài ăn nói, nịnh hót.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 13-7-2017 19:19:50 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

Tôi hay ngủ lại đó, bảo cha mình ngủ nhà bạn. Cũng không hẳn là nói dối. Nhiều tháng liền tôi đã học hỏi về giới thấu thị: cơ cấu từng băng, tên đám thủ lĩnh, lễ độ và cừu địch giữa các phân khu. Tới lúc này Jaxon đang thử công năng của tôi, dạy cho tôi trở thành một trong số họ.

Vài tuần sau khi nhận việc, tôi đã có thể chủ động bẩy hồn ra khỏi đầu. Ngay lập tức tôi ngừng thở. Lúc đó Jax và Eliza phát hoảng, nghĩ mình đã giết chết tôi. Nick, lúc nào cũng sẵn sàng chữa chạy,chỉ cần một mũi adrenalin vào tim đã làm tôi tỉnh lại, và dù đau ngực mất một tuần nhưng tôi cũng tự hào lắm lắm.

Bốn người chúng tôi đã tới quán Chateline ăn mừng, rồi Jax đặt mua máy trợ sinh phòng lần sau. Chỗ của tôi là ở giữa những người này. Họ hiểu thế giới lạ kỳ bao quanh tôi, thế giới tôi vừa mới bắt đầu khám phá. Chúng tôi đã tạo cho mình một thế giới nho nhỏ quanh Seven Dials, một thế giới tội phạm đầy màu sắc.

Bây giờ một người lạ đã về giữa chúng tôi. Cũng có thể là hai, nếu hoá ra Nadine lại có gì thú vị. Tôi nắn thử mộng trường họ. Nadine chẳng có gì đặc biệt, nhưng còn Zeke – mộng trường Zeke thì rất là thú vị. Một mảng tối thẫm, nặng nề giữa thanh khí. “Này Zeke,” Nick bắt chuyện, “quê cậu ở đâu?” Zeke nhìn lên.

“Tôi sinh ở Mexico,” cậu ta đáp, “nhưng bây giờ tôi sống với Nadine.” Cậu ta không nói rõ hơn. Tôi ngoảnh nhìn lại. “Cậu đã bao giờ tới thành Scion nào chưa?” “Chưa. Tôi không chắc đấy là việc nên làm lắm?” “Nhưng cậu vẫn tới.” “Chúng tôi chỉ muốn đi xa một thời gian thôi.

Trường Nadine có suất dự hội thảo. Tôi thì tò mò về Scion.” Cậu ta nhìn xuống tay. “Tôi mừng là chúng tôi đã quyết định tới. Chúng tôi đã thấy mình khác người nhiều năm nay rồi, nhưng... ừm, ông Hall đã cho biết lý do vì sao.” Nick trông có vẻ tò mò. “Quan điểm chính thức ở Hoa Kỳ về thấu thị là gì?” “Họ gọi nó là TGSC – tri giác siêu cảm.

Họ chỉ cho biết có một điều, đấy là một loại bệnh được quy định trong luật Scion, và Trung tâm kiểm soát dịch bệnh đang nghiên cứu nó. Họ không muốn xác định hẳn quan điểm nào trong vấn đề đó. Tôi đoán là chẳng bao giờ đâu.” Tôi muốn hỏi về gia đình họ, nhưng có gì mách bảo tôi để sau.

“Jaxon rất hài lòng vì hai người gia nhập cùng chúng tôi.” Nick nhoẻn cười với họ. “Tôi hy vọng hai cô cậu sẽ ưa cuộc sống ở đây.” “Rồi hai người sẽ quen thôi,” tôi nói. “Hồi mới nhập cư tôi ghét lắm. Đến lúc Jaxon thuê tôi thì khá hơn. Nghiệp đoàn sẽ trông nom hai người.” Zeke ngẩng lên.

“Cô không phải người Anh à?” “Ireland.” “Tôi không nghĩ nhiều người Ireland thoát được bạo loạn Molly.” “Tôi thoát được.” “Thật là bi thảm. Nhạc Ireland mới hay chứ,” cậu ta thêm. “Cô có biết bài hát của quân phiến loạn không?” “Bài về Molly á?” “Không, bài kia.

Cái bài người ta hát khi chấm dứt bạo loạn. Khóc thương người chết ấy.” “Ý anh là ‘An ember morning’.” “Đúng là bài đó.” Cậu ta ngừng lời, rồi bảo: “Cô có thể hát vài câu được không?” Nick và tôi cùng phá lên cười. Zeke đỏ tía đến mang tai. “Xin lỗi – hỏi dớ dẩn quá,” cậu ta nói.

“Chỉ là tôi rất thích được nghe bài ấy hát một lần tử tế thôi. Nếu không phiền cô quá. Tôi vẫn thích nghe Nadine, nhưng mà... ừm, bây giờ nó không chơi nữa.” Nick liếc qua tôi. Thiên cầm mà không chơi nhạc. Jaxon không hài lòng đâu. “Paige,” anh dịu dàng nhắc. Tôi nhận ra Zeke vẫn đang nhìn tôi, chờ câu trả lời.

Tôi không biết mình có hát được không. Nhạc Ireland bị cấm ở Scion, đặc biệt là các bài hát nổi loạn. Hồi nhỏ tôi nói luyến láy giọng Ireland đặc sệt, nhưng từ khi chuyển về đây, sợ thói bài Ireland càng ngày càng hoành hành khắp Scion, tôi tập đổi giọng. Mới lên tám nhưng tôi đã cảm được ánh nhìn kỳ lạ bị người ta ném cho khi nghe mình phát âm chữ gì quá trái tai.

Tôi từng đứng trước gương nhiều giờ liền, bắt chước phát ngôn viên trên ti vi, đến khi luyện sành sỏi thứ tiếng Anh thủ đô cảnh vẻ. Tôi vẫn không phải là nhân vật được ưa thích lắm – mấy năm trời đám nữ sinh gọi tôi là “Molly Mahoney” – đến khi cuối cùng cũng được một nhóm nhỏ chấp nhận, hẳn là vì cha tôi tài trợ câu lạc bộ nhảy ở trường.

Có lẽ vì anh tôi, tôi phải nhớ. Tôi nhìn ra cửa sổ, nghe bài hát đang vang lên bằng giọng mình. Người yêu ạ, sớm than hồng ấy Trời tháng Mười đang hửng đằng Đông. Cánh đồng mật thét gào lửa cháy. Đến đây nào, ma của lòng thung, Ta đứng giữa tro tàn người chạy Erin chờ đón lại vào lòng.

Tình yêu ạ, trời màu lửa thẫm Sáng tháng Mười cay đắng thêm gần Khói bóp nghẹt cỏ cây đồng mật. Nghe đây nào hồn của phương Nam, Ta đang đợi gần cây vỡ nứt, Biển đã xẻ đôi tim Ireland. Còn mấy khổ nữa nhưng tôi dừng bặt. Tôi nhớ bà tôi đã hát cho Finn nghe trong lễ viếng, lễ viếng bí mật giữa Thung Lũng Vàng.

Chỉ có sáu người chúng tôi. Một huyệt mộ không có xác. Chính đó là lúc cha tôi thông báo việc tuyển vào SciSORS, bỏ lại ông bà tôi sống dưới ách chiếm đóng quân sự của Scion khắp miền Nam Ireland. Trông mặt Zeke thật nghiêm trang. Một lát sau, Nick siết tay tôi. Về đến phố Monmouth thì trong xe đã nóng không chịu nổi.

Tôi đặt vài tờ tiền vào tay tài xế. Ông ta trả lại tôi một tờ. “Vì bài hát hay,” ông ta nói. “Cầu phúc lành cho cháu, cô gái ạ.” “Cám ơn ông.” Nhưng tôi để lại tiền trên ghế. Không thể nhận tiền trả cho ký ức. Tôi giúp Nick dỡ vali. Nadine xuống xe, kéo tai nghe khỏi đầu.

Cô ta ném cho ngôi nhà một cái nhìn giết người. Giờ tôi mới nhận thấy túi cô ta, hàng hiệu của một nhà thiết kế New York. Cái này sẽ đi ngay. Đồ Mỹ ra Covent bán đắt như tôm tươi. Tôi cứ nghĩ cô ta phải mang theo hộp nhạc cụ, nhưng chẳng thấy gì cả. Có thể cô ta cũng chẳng phải thiên cầm.

Cô ta còn có thể là một trong ít nhất ba loại ngoại cảm khác. Tôi lấy chìa khoá mở cánh cửa đỏ, trên có biển vàng đề TRUNG TM LENORMAND. Bề ngoài phô với thế giới, chúng tôi là một trung tâm mua bán tranh tượng đứng đắn. Bên trong thì không được lương thiện bằng. Đứng trên đầu cầu thang là Jax, ăn mặc choáng người: gi lê lụa, cổ cồn trắng, đồng hồ bỏ túi bóng loáng và xì gà sáng ngời.

Tay ông ta cầm cốc thuỷ tinh nhỏ đựng cà phê. Tôi nghĩ mãi vẫn không hiểu xì gà với cà phê thì ăn nhập ở điểm nào. “Zeke, Nadine. Thật mừng được gặp lại cô cậu.” Zeke bắt tay ông. “Mừng gặp lại ông, thưa ông Hall.” “Chào mừng hai người đến Seven Dials. Tôi là nghiệt chủ khu vực này, như cô cậu đã biết.

Và bây giờ cô cậu đã nằm trong nhóm tinh hoa của tôi.” Jax nhìn vào mặt Zeke, nhưng tôi biết ông đang tập trung đọc huyền quang cậu ta. “Tôi đồ chừng mọi người đã rời phố Gower một cách lén lút.” “Không ai thấy chúng tôi.” Zeke chợt căng thẳng. “Kia có phải là... là hồn ma không.” Jax liếc ra sau.

“Phải, đấy là Pieter Claesz, hoạ sĩ tĩnh vật người Hà Lan. Một trong những thi thần năng suất nhất của chúng tôi. Chết năm 1660. Pieter, ra đây chào những người bạn mới nào.” “Nhường Zeke ra làm quen. Tôi mệt rồi.” Nadine không nhìn Pieter, ông này thì phớt lờ lời Jax. Cô ta không có tuệ nhãn.

“Tôi muốn ở phòng riêng. Tôi không quen chung đụng,” cô ta nói, nhìn xoáy vào Jax. “Nói cho ông biết vậy.” Tôi chờ xem Jax phản ứng thế nào. Mặt ông vốn không thuộc loại biểu cảm, nhưng hai cánh mũi ông phồng lên. Không phải tín hiệu tốt. “Cô được cho gì, cô sẽ dùng nấy,” ông nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 13-7-2017 19:50:48 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

Nadine xù lông. Đánh hơi thấy chiến sự, Nick vòng tay ôm lấy vai cô ta. “Tất nhiên là cô sẽ được phòng riêng rồi,” anh nói, ném cho tôi cái nhìn mệt mỏi qua đầu cô ta. Chúng tôi sẽ phải xếp Zeke ngủ đi văng. “Chẳng là Eliza đang sắp xếp thôi. Tôi mời cô uống gì nhé?” “Được.” Cô ta nhướng mày nhìn Jax.

“Tôi thấy là cũng có vài người Châu u biết cách đối xử với phụ nữ chứ.” Jaxon trông như thể vừa bị tát. Nick dẫn cô ta đi qua căn bếp nhỏ. “Tôi không phải,” ông nghiến răng nói, “người châu u.” Tôi không kìm được nụ cười. “Tôi sẽ thu xếp không cho ai quấy rầy ông.” “Cảm ơn Paige.” Ông ta đứng thẳng dậy.

“Qua văn phòng tôi đi, Zeke. Chúng ta nói chuyện.” Zeke đi lên đợt thang kế, vẫn nhìn theo Pieter đang lững lờ trước bức tranh vừa vẽ. Tôi chưa kịp nói gì, Jaxon đã tóm tay tôi. “Mộng trường cậu ta,” ông ta nói khẽ. “Nó như thế nào?” “Đen sì,” tôi đáp, “và...” “Tuyệt, đừng nói gì thêm.” Ông đi gần như chạy lên cầu thang, điếu xì gà giắt khoé miệng.

Tôi ở lại với ba cái va li và một ông họa sĩ chết làm bầu bạn, và dù tôi rất khoái Pieter, ông ta chẳng thuộc loại mau mồm miệng lắm. Tôi nhìn đồng hồ. Mười một rưỡi. Một chốc nữa là Eliza về. Tôi pha cà phê mới, mang vào ngồi phòng khách, cao trên tường chễm chệ bức tranh John William Waterhouse: một người đàn bà tóc đen mặc áo đầm đỏ, chăm chú nhìn vào quả cầu pha lê.

Jax đã trả một đống tiền cho gã gian thương nào đó rước về ba bức Waterhouse bị cấm. Còn có bức vẽ vua Edward đệ thất đủ lệ bộ vương phục. Tôi mở cửa sổ, ngồi xuống đọc tập sách mới Jaxon đang viết dở, Luận về mưu đồ vong nhân lưu đãng. Hiện giờ nó đã cho biết về bốn loại vong: thiên thần hộ mệnh, ma, thi thần và tử thần.

Tôi vẫn còn chưa đọc thấy về oan hồn. Đến mười hai giờ Eliza lững thững đi vào, đã xong việc với các vong như thường lệ. Chị đưa tôi hộp giấy đựng mỳ mua ở phố Lisle. “Mời. Chắc em vẫn chưa thuyết phục được Pieter vẽ lại bức Vĩ cầm và cầu thuỷ tinh hả?” Eliza Renton là đồng mê dưới quyền Jax, hơn tôi bốn tuổi.

Chuyên môn của chị là nghiệt nghệ thuật. Sinh dưới tiếng chuông nhà thờ Mary le Bow[2], chị làm việc trong nhà hát dưới đất ở phố Cut đến năm mười chín, khi chị đáp lại tập sách của Jaxon và được tuyển vào làm. Chị trở thành nguồn thu nhập chính của ông từ ngày ấy. Chị có làn da mịn màu ô liu và mắt xanh vỏ táo, mái tóc vàng óng cuốn xoăn tít.

Chị chẳng bao giờ thiếu người hâm mộ – cả các vong cũng mê chị – nhưng Jaxon hạ nội quy “cấm dính líu”, và chị giữ đúng nguyên tắc.

“Chưa, em nghĩ ông ấy đang bị cụt cảm hứng.” Tôi bỏ tập sách xuống. “Gặp người mới chưa?” “Vừa gặp Nadine.

Cũng hạ cố được câu ‘chào’.” Eliza thả người xuống cạnh tôi. “Chúng ta có chắc nhỏ đó là vẹt không?” Tôi bật nắp hộp mì bốc khói. “Em chẳng thấy nhạc cụ nào, nhưng cũng có thể. Chị thấy Zeke chưa?” “Chị có ngó vào văn phòng. Huyền quang màu cam đậm.” “Vậy là hung thần.” “Trông nó không giống hung thần.

Có vẻ đi hù một con ma cũng chẳng nổi.” Chị đặt thăng bằng hộp bánh phồng tôm trên đầu gối. “Ờ, vậy nếu Pieter ương bướng thì chị chính thức có lịch trống. Em có muốn thử dạt tiếp không?” “Chừng nào Jax còn chưa mua máy thì không?” “Tất nhiên. Chị nghĩ máy thở thứ Ba sẽ có.

Từ nay đến đó chúng ta sẽ chơi dè thôi.” Chị đưa tôi cuốn sổ vẽ và bút chì. “Chị đang định hỏi – em có vẽ được mộng trường của em không?” Tôi cầm. “Vẽ á?” “Ừ. Không phải vẽ hoa hay gì đâu – chỉ vẽ hình dạng chung từ trên cao nhìn xuống thôi. Bọn chị đang cố vẽ sơ đồ mộng trường người, nhưng rất khó vì chẳng ai ra ngoài vùng ánh nắng được.

Bọn chị cho là có ít nhất ba vùng, nhưng cần em phân tách hình vẽ ra để xem lý thuyết có khớp không. Em làm được chứ?” Cảm giác quyết tâm tràn ngập người tôi. Tôi đang dần dà trở thành có ích cho nhóm thực sự. “Tất nhiên được.” Eliza bật ti vi. Tôi bắt tay vào vẽ, một hình tròn chính giữa có cái chấm, thêm ba vòng nữa bao quanh.

Nhạc nền chương trình ScionEye từ ti vi vọng ra. Scarlett Burnish đang đọc bản tin trưa. Eliza chỉ màn hình, vẫn nhóp nhép nhai bánh. “Em có nghĩ thực ra cô ta già hơn cả Weaver, nhưng mông má nhiều đến nỗi mặt không còn khả năng nhăn lại được nữa không?” “Cô ta cười nhiều thế cơ mà, nên không phải đâu.” Tôi vừa nói vừa vẽ tiếp.

Bây giờ đã hiện lên thứ gì đó trông như cái hồng tâm, chia làm năm phần. “Vậy chúng ta xác định được chỗ này,” tôi gõ vào trung tâm vòng tròn, “là vùng ánh nắng.” “Rồi. Hồn phải ở yên trong vùng ánh nắng thì tâm thần mới tỉnh táo. Sợi dây bạc giống như đai an toàn. Nó ngăn hầu hết thấu thị đi khỏi đó.” “Nhưng em thì không.” “Chính thế.

Em độc ở chỗ đó. Nói giả thử phần lớn chúng ta có một phân dây nối giữa hồn và xác,” chị giơ ngón tay nói. “Em thì có cả dặm. Em có thể đi ra vòng ngoài cùng mộng trường, nghĩa là có thể cảm nhận được thanh khí ở xa hơn nhiều so với mọi người. Em cũng cảm được các mộng trường khác.

Bọn chị chỉ cảm được vong với huyền quang, mà cũng không xa lắm. Lúc này chị không cảm được Jaxon hay mấy người kia.” Tôi thì có. “Nhưng em cũng có giới hạn.” “Chính vì thế chúng ta phải cẩn thận. Chúng ta vẫn còn chưa biết giới hạn của em thế nào. Có thể em rời khỏi cơ thể được, cũng có thể không.

Phải thử mới biết được.” Tôi gật đầu. Jaxon đã giảng cho tôi lý thuyết mộng hành của ông vài lượt, nhưng Eliza dạy giỏi hơn nhiều. “Sẽ có chuyện gì xảy ra nếu em cố rời khỏi vùng ánh nắng? Về lý thuyết ấy.” “Ừm, bọn chị đoán vùng thứ hai là nơi xảy ra ‘ác mộng’ của vô minh.

Sợi dây bạc đôi khi để cho người ta đến tận đó, nếu bị stress hay căng thẳng. Xa hơn nữa sẽ cảm thấy lực kéo rất lớn lôi về lại trung tâm. Nếu đi quá vùng bóng tà, người ta bắt đầu hoá điên.” Tôi nhướng một bên mày. “Vậy em quả là quái thai, phải không?” “Không, không hề, Paige.

Chị cấm em nghĩ thế. Chúng ta không ai là quái thai hết. Em là một phép màu. Một xuất thần.” Chị cầm sổ vẽ từ tay tôi. “Chị sẽ bảo Jax liếc thử khi nào xong. Ông sẽ khoái lắm. Đêm nay em về nhà cha không? Không phải em vẫn về đó thứ Sáu à?” “Em phải làm việc. Didion nghĩ đã tìm thấy William Terriss[3].”

“Ôi bỏ mẹ. Thôi khỏi nói thêm.” Chị quay lại nhìn tôi. “Này em biết chúng nó nói gì về nghiệp đoàn rồi đấy.

Đã vào là khỏi ra. Em có chắc vẫn còn thích ở đây không?” “Chưa bao giờ thích hơn.” Eliza mỉm cười với tôi. Nụ cười rất lạ, gần như luyến tiếc. “Được rồi,” chị nói. “Chị lên gác. Phải nịnh Pieter mấy câu.” Tiếng vòng tay lanh canh khi chị lướt ra khỏi phòng. Tôi chuyển sang tô màu các vòng trên bản vẽ, mỗi vòng đậm hơn vòng trước.

Tôi vẫn đang vẽ dở khi Jax từ tầng trên xuống vài giờ sau. Mặt trời sắp lặn. Sắp đến lúc phải ra ngoài đến chỗ Didion rồi, nhưng tôi muốn chuyển hình vẽ vào máy tính đã. Jax trông như đang phát sốt lên. “Jax?” “Bất khả độc,” ông thì thào. “Ôi người đẹp Paige bé bỏng.

Chú thích

[2.] Một thành ngữ ở London chỉ dân Cockney.

[3.] Diễn viên người Anh nổi tiếng thời Victoria, bị đâm chết trong khu vực nhà hát Adelphi. Người ta đồn đại rằng hồn ma của Terriss vẫn ám quanh khu vực ga tàu điện ngầm Covent Garden và nhà hát Adelphi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 23-7-2017 16:35:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21
CON TÀU CHÁY

Tôi sẽ không bao giờ quên vẻ mặt Hộ vương khi nhìn tôi trong tấm áo đỏ. Lần đầu tiên tôi thấy nỗi sợ hãi trong mắt hắn. Chỉ đúng một tích tắc. Nhưng tôi có thấy, chỉ một thoáng thôi thôi: một nét bất an, mờ nhạt hơn ánh nến. Hắn nhìn theo tôi đang trên đường về phòng.

“Paige.” Tôi dừng lại. “Tiệc kết nạp của ngươi thế nào?” “Sáng tỏ nhiều lắm.” Tôi sờ lên cái mỏ neo đỏ trên gi lê. “Ông nói đúng. Bà ta quả có hỏi tôi vài câu về ông.” Im lặng căng thẳng một hồi. Trên mặt hắn mỗi thớ cơ đều căng ra. “Và ngươi trả lời.” Giọng hắn bây giờ rất lạnh, lạnh hơn bất kỳ lúc nào tôi từng nghe trước đây.

“Ngươi trả lời những gì? Ta phải biết.” Hắn không nài đâu. Hộ vương rất kiêu hãnh. Quai hàm hắn nghiến chặt, môi mím lại thành một đường mảnh. Không biết trong tâm trí hắn đang diễn ra điều gì. Cảnh báo ai, chạy đi đâu. Làm gì tiếp. Tôi có thể bắt hắn chịu đựng bao lâu? “Bà ta có nói một điều khiến tôi chú ý.” Tôi ngồi xuống ghế nằm.

“Rằng huyết phò mã bị cấm giáp chiến với Emite.” “Đúng thế. Bị cấm tuyệt đối.” Những ngón tay hắn gõ trên thành ghế. “Ngươi đã kể cho ngài về vết thương.” “Tôi không kể cho bà ta gì hết.” Sắc mặt hắn thay đổi. Một lát sau, hắn rót dền tía từ bình đựng vào ly.

“Vậy là ta nợ ngươi mạng sống,” hắn nói. “Ông uống khá nhiều dền tía,” tôi nói. “Có phải để chữa sẹo không?” Mắt hắn vụt ngước lên. “Sẹo à?” “Phải, sẹo.” “Ta uống dền tía vì lý do riêng.” “Lý do gì?” “Lý do sức khoẻ. Ta đã nói rồi. Vết thương cũ.” Hắn đặt lại ly xuống bàn.

“Ngươi quyết định không nói với Nashira rằng ta đã bất tuân lệnh. Ta rất băn khoăn lý do vì sao.” “Đi tố người khác không hẳn là thói quen của tôi.” Tôi không để lọt mắt chuyện hắn đánh trống lảng. Sẹo với vết thương cũ chẳng khác gì nhau. “Ta hiểu.” Hộ vương nhìn lò sưởi trống trơn.

“Vậy là ngươi giấu thông tin không cho Nashira biết, nhưng vẫn nhận được áo đỏ.” “Chính ông đã đề xuất mà.” “Ta đề xuất, nhưng ta không biết ngài có đồng ý không. Ta ngờ rằng ngài có động cơ riêng.” “Tôi được phân nhiệm vụ ở bên ngoài vào ngày mai.” “London,” hắn đoán.

“Thật ngạc nhiên.” “Tại sao?” “Sau bao nhiêu công sức bỏ ra để săn ngươi về đây, thật lạ là ngài lại sẵn lòng cử ngươi trở lại đó.” “Bà ta muốn tôi nhử một băng ở London, băng Bảy Ấn. Bà ta nghĩ trong đám đó có một mộng hành, nghĩ tôi có thể nhận ra đồng loại.” Tôi đợi, nhưng hắn không phản ứng.

Hắn có nghi ngờ tôi không? “Chúng ta sẽ đi đêm mai với ba áo đỏ và một Rephaite nữa.” “Ai?” “Em họ ông.” “À phải.” Hắn chụm các đầu ngón tay vào nhau. “Situla Mesarthim là tay sai tin cẩn nhất của Nashira. Ngươi và ta cần phải cẩn thận khi ở gần cô ta.” “Nghĩa là ông lại đối xử với tôi như với nô lệ.” “Đấy là việc cần thiết, nhưng tạm thời.

Situla không thân ái gì với ta. Cô ta được cử vào đặc vụ, hẳn là để theo dõi ta.” “Tại sao?” “Những sai phạm quá khứ.” Hắn bắt gặp tôi nhìn. “Tốt hơn hết là ngươi không biết gì về chuyện đó. Chỉ cần biết một điều là ta không giết người trừ phi tuyệt đối cần thiết.” Sai phạm quá khứ.

Vết thương cũ. Như thế chỉ nói lên một điều, và cả hai chúng tôi đều biết vậy – nhưng vậy vẫn không phải là đảm bảo có thể tin hắn bây giờ. Kể cả nếu hắn đúng là một kẻ mang sẹo. “Tôi cần ngủ một chút,” tôi nói. “Chúng ta hẹn ở phủ bà ta lúc hoàng hôn chiều mai.” Hộ vương gật đầu, không nhìn tôi.

Tôi nhặt ủng rồi lên phòng, để hắn một mình uống thuốc. Gần như cả ngày hôm ấy, đáng lẽ ngủ thì tôi suy tính đủ tình huống có thể xảy ra khi đến London. Kế hoạch được phổ biến sau bữa tiệc là chờ đến khi Carter tới chân cột Nelson, bà ta hẹn gặp một đại diện Bảy Ấn tại đó.

Chúng tôi sẽ bao vây họ, rồi ra đòn bằng mọi vũ khí trong tay. Có vẻ mụ ta nghĩ chúng tôi sẽ đơn giản đi vào đó, bắn Carter, túm lấy vài tù nhân rồi lượn về Sheol I vẫn kịp giờ chuông ngày. Tôi thì biết rõ hơn. Tôi biết Jax. Ông bảo vệ các món đầu tư của mình rất kỹ. Làm gì có chuyện ông cử một đại diện lẻ loi đến gặp Antoinette – hẳn sẽ có cả băng.

Dân vệ cũng canh chừng đường phố ban đêm, chúng cũng biết đánh hồn chiến cơ bản. Còn phải đối phó với dân chúng nữa, mà đường phố đầy thấu thị, trận đánh rốt cuộc có thể phình lên rất lớn. Một trận đánh mà tôi sẽ mang màu áo phe này, nhưng trong bụng cổ vũ phe kia. Tôi lật người trăn trở.

Đây là cơ hội cho tôi bỏ trốn, hoặc ít nhất cũng đưa tin ra ngoài. Tôi phải tìm cách nào tới với Nick, nếu chưa bị anh kết liễu trước. Hoặc bắn ảo ảnh khiến tôi mù dở. Đấy là khung thời gian vàng duy nhất cho tôi. Cuối cùng tôi thôi tìm cách ngủ. Tôi vào buồng tắm, té nước lên mặt, vấn tóc thành búi sau đầu.

Tóc tôi đã dài thêm vài phân chấm vai. Mưa đập vào cửa sổ. Tôi mặc lại đồng phục cũ, cái áo dài đỏ của kẻ phản bội, rồi xuống phòng dưới. Trên mặt đồng hồ đứng kim báo sắp bảy giờ. Tôi ngồi xuống ghế cạnh lò sưởi. Đúng bảy giờ, Hộ vương hiện ra bên cửa, tóc và quần áo đẫm nước mưa.

“Đến giờ rồi.” Tôi gật đầu. Hắn để tôi qua cửa, khoá lại, cùng tôi đi xuống cầu thang đá. “Ta vẫn chưa cảm ơn ngươi,” hắn nói khi chúng tôi đi qua các hành lang cửa vòm. “Vì đã im lặng.” “Đừng cảm ơn vội.” Phố xá lặng tanh. Đá mưa đang tan kêu lạo xạo dưới gót ủng.

Khi chúng tôi đến phủ, hai Reph hộ tống chúng tôi vào thư viện nơi Nashira chờ sẵn. Mụ ta và Hộ vương diễn lại nghi thức chào hỏi: tay hắn áp vào bụng mụ, môi mụ áp vào trán hắn. Lần này tôi để ý nhiều điều. Những cử chỉ cứng đờ của hắn, đôi mắt tránh mắt mụ, những ngón tay mụ lùa qua tóc hắn mà không nhìn xuống.

Cảnh tượng khiến tôi nghĩ đến con chó và mụ chủ. “Ta rất vui lòng thấy cả hai đều tham gia được đêm nay,” mụ ta nói. Cứ như chúng tôi còn cách nào khác. “40, đây là Situla Mesarthim.” Situla cao gần bằng Hộ vương. Những nét họ hàng rất dễ nhận ra: cũng mái tóc nâu tro, làn da vàng mật, đường nét rõ ràng và đôi mắt sâu.

Bà ta gật đầu với Hộ vương vẫn đang quỳ. “Anh họ.” Hộ vương nghiêng đầu. Situla đưa mắt sang tôi. Xanh lam. “XX-59-40, ngươi sẽ coi ta là gia chủ thứ hai vào tối nay. Ta hy vọng ngươi quán triệt điều đó.” Tôi gật. Hộ vương đứng dậy, nhìn xuống mụ hôn thê. “Những con người còn lại đâu?” “Đang sửa soạn, tất nhiên.” Mụ quay lưng lại hắn.

“Ngươi cũng nên làm thế, người trung thành ạ.” Huyền quang hắn tối lại, như có cơn giông đang âm ỉ nổi trong mộng trường. Hắn quay người, bước về phía mấy tấm màn nặng đỏ thẫm. Một con bé vô minh hối hả chạy theo, ôm một mớ quần áo. “Ngươi đi kèm 1,” Nashira nói với tôi.

“Hai người đi cùng Arcturus. Situla dẫn 30 và 12.” David hiện ra từ sau màn, mặc quần dài đen, áo giáp nhẹ và đi ủng. Nhìn thấy nó tôi giật mình. Nó giống y hệt Quản giáo cái đêm gã bắn tôi. “Chào buổi tối,40,” nó nói. Tôi ngậm miệng. David mỉm cười lắc đầu, như nghĩ tôi thật là một đứa nhóc buồn cười.

Một vô minh đến gần tôi. “Quần áo của cô đây.” “Cảm ơn.” Không nhìn David, tôi mang cái bọc vào sau màn. Đằng sau là cái lều, như một phòng thay áo. Tôi trút bỏ đồng phục, mang đồ mới vào: đầu tiên là áo sơ mi đỏ tay dài, rồi áo giáp – cũng có hình mỏ neo đỏ, như gi lê – và áo khoác đen, một bên tay áo có băng đỏ.

Tiếp đó là bao tay hở ngón và quần dài, đều bằng vải màu đen co giãn tốt, và ủng da bền cứng. Tôi có thể chạy, leo trèo, đánh nhau trong bộ đồ này. Túi áo khoác có một ống tiêm adrenalin – và súng bắn flux. Để săn thấu thị. Đâu vào đó rồi, tôi quay lại bên ba đứa con người còn lại.

Carl cười với tôi. “Chào cô, 40.” “Carl,” tôi đáp. “Cô thấy áo mới thế nào?” “Rất vừa, nếu ý anh hỏi cái đó.” “Không, ý tôi là cô thấy làm quân áo đỏ thế nào?” Lúc này cả ba đứa đều đang nhìn tôi. “Hay,” tôi nói sau một lát. Carl gật đầu. “Hay lắm.

Có thể họ cho cô nhiều đặc quyền thế là đúng.” “Hoặc cũng có thể là sai,” 30 nói, lôi mớ tóc dày khỏi cổ áo. Cô ta cao hơn tôi, vai và hông đều rộng. “Ra đến đường phố mới biết.” Tôi nhìn lại 30. Qua huyền quang tôi đoán ắt hẳn cô ta là bốc sư – một loại ít thấy trong đó, có lẽ là một chủng bốc cưu.

Cũng không đặc biệt hiếm có. Chắc cô ta phải chiến đấu như chó sói mới được thăng hạng. “Phải,” tôi đáp. “Lúc đó mới biết.” Cô ta hừ mũi. Hộ vương quay lại làm cho điệu bộ 30 đổi khác choáng người. Cô ta khẽ nhún mình chào rất điệu, miệng rì rầm “huyết phò mã”.

Đứng bên cô ta, Carl gập mình chào. Tôi cứ đứng nguyên khoanh tay. Hộ vương liếc nhìn đám fan hâm mộ, nhưng chẳng tỏ ý đáp lại lối xun xoe của cả hai. Ngược lại hắn nhìn qua phòng – qua tôi. 30 có vẻ chưng hửng. Tội nghiệp cô ả. Trang phục mới làm gia chủ của tôi lạ hẳn. Thay vào triều phục Rephaite kiểu xưa, hắn ăn mặc như một trú dân giàu có của Scion, loại người mà những tay trộm khôn ngoan sẽ không đời nào dám rớ tới.

“Các ngươi sẽ được đưa tới tổng khu I bằng hai xe tập hợp,” Nashira nói. “Phố xá sẽ được dẹp đường cho các ngươi. Ta trông đợi các ngươi trở về đây trước giờ chuông ngày.” Bốn đứa con người chúng tôi gật đầu. Hộ vương rùn người mặc áo khoác rồi quay ra cửa.

“XX-40, XX-1,” hắn gọi. Carl trông như thể được ăn Tết tháng Mười một sớm. Nó chạy theo Hộ vương, vừa chạy vừa nhét khẩu súng flux vào túi. Tôi sắp đi theo thì bị bàn tay đi găng của Nashira tóm lấy tay. Tôi đứng im phắc, cố nén mong muốn giật tay lại. “Ta biết ngươi là ai,” mụ ta nói sát mặt tôi.

“Ta biết ngươi từ đâu đến. Nếu ngươi không đưa được mộng hành nào về, ta sẽ hiểu là ta đoán đúng, rằng chính ngươi là Mộng Mơ Mặt Tái. Kết luận đó sẽ ảnh hưởng tới tất cả chúng ta.” Ném cái nhìn làm tôi lạnh sống lưng, mụ quay lưng lại đi về phía cửa. “Thượng lộ bình an, XX-59-40.”  Hai xe bịt đen đang chờ trên cầu.

Chúng bịt mắt cả bốn chúng tôi rồi nhốt vào xe. Tôi ngồi trong bóng tối cùng Carl, lắng nghe tiếng động cơ. Chắc chúng vẫn lo ngay ngáy chúng tôi có thể thuộc đường ra khỏi đặc khu. Một toán Dân vệ được phái theo hộ tống chúng tôi qua biên giới, nhưng thủ tục đưa người ra khỏi Sheol I cũng phức tạp.

Vì đây là một khu trừng giới, trình tự cũng lằng nhằng chẳng kém thả tù nhân ra giam lỏng. Tới một đồn phụ ở ngoại ô Scion, chúng tôi bị bắn chip dò tìm dưới da, đề phòng bỏ chạy, và lấy mẫu vân tay cùng huyền quang. Chúng còn rút một ống máu, khiến chỗ da nhăn khuỷu tay hơi bầm lên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 23-7-2017 16:38:01 | Chỉ xem của tác giả
(tiếp)

Cuối cùng chúng tôi cũng qua biên giới gần nhất, và trở lại Scion London. Trở lại thế giới thực. “Các ngươi bỏ băng bịt mắt được rồi,” Hộ vương nói. Tôi phắt cái đã giật xuống. Ôi ngôi thành của tôi. Tôi miết tay trên mặt kính, ánh đèn xanh sáng ngời trong mắt. Xe đang lăn bánh qua White City phân khu II–3, qua khu mua sắm khổng lồ.

Tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ nhớ những dãy phố xám đen bẩn thỉu, nhưng tôi có nhớ. Tôi nhớ đấu giá mua vong, nhớ ván bài tarrochi, nhớ những lần cùng Nick trèo lên các toà nhà xem mặt trời lặn. Tôi chỉ muốn chui khỏi xe mà quăng mình vào trái tim nhiễm độc của London. Carl vẫn nhấp nhổm suốt chuyến đi, hết rung đùi lại nghịch khẩu flux, nhưng lên tới đại lộ nó ngủ thiếp đi.

Nó đã kể với tôi 30 từng có tên là Amelia, còn gia chủ của cô ta là một Elnath Sarin nào đó. Đúng như tôi dự đoán, cô ta là bốc cưu, đặc biệt phát huy công năng khi dùng xúc xắc. Một lúc lâu tôi mới nhớ ra từ chính xác: bốc đầu tử. Tôi sắp chữ thầy giả thầy hết rồi. Xưa Jax từng truy tôi hàng ngày về bảy đẳng cấp thấu thị.

Tôi lại nhìn Carl. Tóc nó lâu ngày không gội. Dưới mắt nó nhiều quầng thâm, tôi biết nó cũng mệt như mình – nhưng không có vết bầm tím. Nó chắc đã mua lấy an toàn bằng nhiều vụ phản bội nữa. Như cảm thấy tôi nhìn, nó mở mắt. “Đừng có tìm cách trốn đấy.” Nó thì thầm.

Không thấy tôi đáp, nó xích lại gần. “Họ không cho cô đi đâu. Ông ta không cho đâu.” Nó liếc Hộ vương sau tấm kính chắn. “Sheol rất an toàn cho chúng ta. Sao cô lại muốn đi?” “Vì chúng ta không thuộc về nơi đó.” “Chúng ta chỉ thuộc về duy nhất nơi đó. Ở đó ta có thể làm thấu thị.

Ta không phải trốn tránh.” “Mày đâu có ngu, Carl. Mày biết đấy là một nhà tù mà.” “Thế còn ở thành thì không?” “Không. Không hề.” Carl lại nhìn khẩu súng. Tôi lại nhìn ra cửa. Một phần trong tôi hiểu ý nó là gì. Tất nhiên duệ thành cũng là một nhà tù – Scion nhốt chúng tôi trong đó như súc vật – nhưng ở thành chúng tôi không đứng bàng quan xem người ta bị đánh đập, hoặc bỏ mặc người ta chết trên đường phố.

Tôi áp trán vào kính. Không phải thế. Hector làm vậy. Jaxon làm vậy. Mọi nghiệt chủ và nghiệt bà trong thành đều làm vậy. Họ chỉ bồi thưởng những ai có ích. Phần còn lại bị vứt ra ngoài cho mục xương. Nhưng băng cũng như gia đình của tôi. Tôi không phải quỳ gối trước mặt ai trong thành hết.

Tôi là đồng tử phân khu I–4. Tôi có một cái tên. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã vào đến Marylebone. Thấy Hộ vương nhìn ra lãnh vực xa lạ trong thành, tôi nghĩ không biết hắn từng đến London chưa. Chắc phải đến rồi, nếu hắn đã gặp các Đại Pháp Quan trước. Tôi rùng mình nghĩ ra Reph từng có mặt ngoài đường phố ngay lúc tôi ở đó.

Chúng đã đến toà Chấp chính. Đến cả I–4. Lái xe là một người đàn ông lặng lẽ, vạm vỡ, đeo kính gọng mỏng, mặc vét với khăn lụa đỏ nhét túi và cà vạt. Tai trái ông ta đeo bộ đàm, chốc chốc lại kêu bíp. Thật thích thú đến bệnh hoạn khi chứng kiến những sắp xếp tỉ mỉ đến vậy trong vụ này.

Duệ thành Scion đã lo liệu hết mọi nhẽ: không ai có thể biết về Sheol I được. Đấy là một thành phố giấu sau ba lần khoá. Hộ vương ra dấu cho tài xế dừng ở một góc phố. Ông ta gật đầu rồi chui ra khỏi xe. Khi quay lại, ông ta bê cái túi giấy lớn. Hộ vương chuyển cho tôi qua ô cửa trên kính chắn.

“Gọi cậu ta dậy.” Hắn hất đầu về phía Carl, lúc này đã lại ngủ thiếp. Trong túi có hai hộp giấy nóng của Brekkabox, quán ăn nhanh nổi nhất thành. Tôi thọc sườn Carl. “Dậy chào buổi tối đi.” Carl giật mình choàng dậy. Tôi mở hộp, nhìn thấy một suất cuốn, khăn ăn và cốc cháo.

Tôi bắt gặp mắt Hộ vương trong gương chiếu hậu, hắn gật đầu hầu như không nhận thấy đáp lại. Tôi nhìn đi. Xe chạy vào phân khu 4. Phân khu của tôi. Mồ hôi túa trên đầu tôi. Cha sống cách đây chỉ hai mươi phút, còn chúng tôi đang tiến về gần Seven Dials – gần hơn tôi muốn. Tôi gần như tin sắp nhận được thông điệp gì của Nick, nhưng thanh khí hoàn toàn im lặng.

Vài trăm mộng trường xô đẩy tôi, khiến tôi xao nhãng khỏi cõi thịt. Tập trung chạm thử vài cái gần nhất, tôi không cảm được gì bất thường, không có luồng xúc cảm mới nào rộ lên. Những người này chẳng biết tí gì về Rephaite hay đặc khu trừng giới. Họ chẳng thèm biết bọn phi tự nhiên đi đâu, miễn là đi cho khuất mắt mình.

Xe dừng ở phố Strand, có một Dân vệ đứng chờ. Những kẻ được cắt canh hầu như đều cùng một khuôn: cao, vai rộng, chủ yếu là thanh đồng. Tôi tránh mắt tên đó khi bước xuống xe, bỏ lại mấy hộp đồ ăn rỗng dưới gầm ghế. Hộ vương cao lớn và đáng sợ như vậy, nên chẳng thấy có vẻ căng thẳng tí nào.

“Chào buổi tối, anh Dân vệ.” “Hộ vương.” Tên Dân vệ đưa ba ngón tay lên trán, một ngón đặt giữa và hai ngón đặt trên hai mắt, rồi giơ tay chào. Đấy là dấu hiệu chính thức nói về khả năng thấu thị, là con mắt thứ ba. “Cho phép tôi xác nhận ngài đang cầm giữ Carl Dempsey–Brown và Paige Mahoney?” “Xác nhận.” “Số chứng minh?” “XX-59-1 và 40.” Tên Vệ ghi lại.

Tôi tự hỏi cái gì đã khiến hắn quay lưng lại với giống loài mình. Một nghiệt chủ tàn bạo chăng. “Hai người phải nhớ rằng các người vẫn đang bị bắt giữ. Các người tới đây để trợ giúp các Rephaite. Các người sẽ được đưa thẳng về Sheol I khi đặc vụ hoàn tất. Nếu trong hai người có kẻ tìm cách loan truyền vị trí của Sheol I, cả hai sẽ bị bắn.

Nếu trong hai người có kẻ tìm cách giao tiếp với người dân, hoặc với bất kỳ thành viên nghiệp đoàn nào, cả hai sẽ bị bắn. Nếu trong hai người có kẻ tìm cách hãm hại gia chủ hoặc một Dân vệ, cả hai sẽ bị bắn. Ta nói đã rõ chưa?” Hừ, hắn đã nói khá rõ ràng chúng tôi có làm cái khỉ gì thì cũng sẽ bị bắn.

“Chúng tôi hiểu,” tôi đáp. Nhưng tên Dân vệ còn chưa xong việc. Hắn tháo thắt lưng lấy một ống màu bạc và một cặp găng tay cao su. Không phải lại tiêm nữa chứ. “Mi trước.” Hắn tóm cổ tay tôi. “Há miệng ra.” “Hả?” “Há. Miệng. Ra!” Tôi muốn nhìn sang Hộ vương, nhưng thấy hắn im lặng tôi hiểu hắn không hề phản đối quy trình này.

Trước khi tôi kịp làm theo, tên Vệ đã cạy mồm tôi. Tôi chỉ muốn cắn cho thằng khốn một nhát. Hắn chà đầu ống nhựa lên hai môi tôi, bôi lên đó một chất gì đó lạnh và đắng. “Ngậm lại.” Chẳng còn cách nào khác, tôi ngậm. Khi thử há miệng lại, tôi không há nổi. Mắt tôi trợn lên.

Tổ sư! “Chỉ là một chấm keo dính da thôi.” Tên Vệ lôi Carl về phía mình. “Khoảng hai ba tiếng là tan. Chúng ta không liều đâu, vì đám nghiệt súc chúng mày ai cũng quen nhau.” “Nhưng tôi không...” Carl lên tiếng. “Câm mồm.” Cuối cùng Carl cũng bị bắt phải câm mồm. “XIX-49-30 không bị dán.

Hãy nghe mệnh lệnh từ cô ta,” tên Vệ nói. “Còn lại, hãy tuân thủ đúng mục tiêu giao cho các ngươi.” Tôi đá lưỡi vào môi, nhưng chẳng ăn thua. Tên Vệ chắc rất khoái được dằn mặt đám cựu nghiệp đoàn. Gắn miệng chúng tôi xong, tên Vệ đứng nghiêm chào Hộ vương trước khi biến trở lại toà nhà xám khắc khổ nãy hắn vừa chui ra.

Tường ngoài có tấm biển: DUỆ THÀNH SCION LONDON – ĐỒN GÁC DN VỆ ĐÊM – TỔNG KHU I PHN KHU 4, kèm bản đồ khu vực do đồn đó quản lý. Tôi thoáng thấy đánh dấu trung tâm mua sắm ở Covent Garden, nơi chợ đen sục sôi bên dưới. Tôi chỉ cần đến được chỗ đó là xong. Có thể tôi vẫn còn đến được.

Carl nuốt khan. Những tấm biển này chúng tôi đã thấy hàng năm nay rồi, nhưng không vì thế mà bớt đáng sợ. Tôi nhìn lên Hộ vương. “Situla cùng hai con người kia sẽ tiếp cận quảng trường từ hướng Tây,” hắn nói. “Các ngươi sẵn sàng chưa?” Không hiểu hắn muốn chúng tôi trả lời bằng cách nào.

Carl gật đầu, Hộ vương lấy trong túi áo hai cái mặt nạ. “Đây,” hắn đưa mỗi đứa một cái. “Mặt nạ sẽ che giấu thân phận thực sự của các ngươi.” Không phải mặt nạ thường. Đây là thứ mặt nạ có nét mặt vô cảm, giống nhau như lột, hở hai lỗ nhỏ quanh mắt và hai kẽ thông khí dưới mũi.

Trùm lên mặt, nó bám khít da tôi. Những trú dân Scion vội vã sẽ chẳng mảy may chú ý, nhưng băng cũng sẽ chẳng nhận nổi ra tôi, mà môi tôi đã bị khoá nên tôi chẳng có cách nào cầu cứu. Kế hoạch mới thông minh làm sao. Hộ vương nhìn tôi một khắc trước khi cũng chụp mặt nạ vào.

Hai lỗ mắt bừng lên ánh sáng rợn người. Lần đầu tiên tôi thấy mừng mình chiến đấu bên phe hắn. Chúng tôi đi về phía Cột Nelson. Cũng như Seven Dials, Đài tưởng niệm hoả hoạn hay gần hết các cột khác, cột này phát sáng đỏ hoặc xanh lục tuỳ tình hình an ninh. Lúc này nó màu xanh, các đài nước quảng trường cũng xanh.

Một đội Vệ đang đứng gác cách quãng đều đặn dọc phố Strand, hẳn đã được lệnh hỗ trợ chúng tôi nếu cần. Chúng ném ánh mắt dè dặt khi chúng tôi đi qua, nhưng không tên nào nhúc nhích. Tất cả đều đeo cạc bin M4. Bọn Vệ Đêm không công khai mục đích chúng đến canh thành phố, nhưng chẳng ai không biết chúng chẳng phải là cảnh sát bình thường.

Người ta không đến hỏi bọn Vệ Đêm nếu gặp chuyện rắc rối, như hỏi bọn Vệ Ngày. Người ta chỉ đến trong tình huống nguy hiểm cấp bách lắm, còn nếu người ta là thấu thị thì chẳng bao giờ. Ngay cả vô minh cũng ngại đến gần chúng. Suy cho cùng chúng vẫn là phi tự nhiên. Carl không ngớt ngọ nguậy ngón tay trong túi.

Làm sao tôi thoát khỏi vụ này mà không phải giết ai trong băng bây giờ? Phải có cách nào báo mọi người biết tôi là ai chứ. Tôi không cảnh báo được, họ sẽ theo tôi làm tù nhân trong đặc khu trừng giới. Không thể để Nashira tóm được họ. Quảng trường Trafalgar thắp sáng nhân tạo, nhưng vẫn đủ tối cho chúng tôi không bị lộ quá.

Situla, Amelia và David đang đi từ phía kia lại. Bộ ba đó biến mất sau một trong bốn con sư tử đồng chầu quanh cột. Hộ vương cúi thấp xuống bên tôi. “Carter sắp đến rồi,” hắn nói thấp giọng. “Chúng ta phải khoan chờ tới khi bà ta tiếp xúc với đại diện Ấn. Các ngươi không được để bị bắt trong bất kỳ hoàn cảnh nào.” Carl gật.

“Một khi khu vực này thông thoáng rồi, Dân vệ Đêm sẽ hộ tống chúng ta lại xe. Các ngươi sẽ dừng không tiếp tục nếu nhóm Ấn rời phạm vi tổng khu I.” Mồ hôi túa khắp mình tôi. Seven Dials nằm tít bên trong tổng khu I. Nếu tìm cách chạy trở lại trụ sở, có thể băng sẽ bị bám đuôi tới đó.

Chỉ còn hai phút nữa Big Ben sẽ đánh chuông. Hộ vương cử Carl ra ngồi trên bậc chân cột – nó là bốc sư, là loại ít đáng ngờ nhất. Khi nó vào chỗ rồi, Hộ vương dẫn tôi đi qua đài nước tới dãy tượng trên bệ. Có tất cả bảy bệ, dành cho bảy kẻ đã có công thiết lập hay bảo tồn Scion: Palmerston, Salisbury, Asquith, MacDonald, Zettler, Mayfield, Weaver.

Bệ thứ bảy luôn là tượng Đại Pháp Quan đang cầm quyền, kèm theo tiêu ngữ của hắn. Hộ vương dừng chân sau một tượng. Hắn nhìn kỹ khuôn mặt bưng kín của tôi. “Thứ lỗi cho ta,” hắn nói. “Ta không hề biết ngươi sẽ bị tước quyền nói.” Tôi chẳng tỏ dấu hiệu có nghe thấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách