Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 27831|Trả lời: 210
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Lửa Hận Rừng Xanh | Hoàng Ly

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 30-11-2011 15:10:53 | Xem tất |Chế độ đọc

                  

                                                                             Tên tác phẩm: Lửa Hận Rừng Xanh
                                                                             Tên tác giả: Hoàng Ly
                                                                             Thể loại: Tiểu thuyết
                                                                              Độ dài: 28 Hồi
                                                                              Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
                                                                               Nguồn tác phẩm: vietmessenger.com
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:46:34 | Xem tất
                                                                        Hồi Thứ Nhất

                                                                  Qủy Sứ Biên Thùy

Bình minh bắt đầu lên. Ánh mặt trời hừng sáng dần dần quét sạch bóng đêm hãi hùng trên vùng biên địa phân mao Việt Trung. Cảnh vật trở lại bình thường, chim kêu, vượn hú vang lừng chào đón một ngày chớm sang thu...

Viên tướng lạc thảo Quảng Tây Thoòng Mềnh đảo một vòng quan sát đoạn quay về cùng viên giám binh vào chân núi thăm "đứa nhỏ vòng xanh" cùng mấy người bị nạn.

Qua một đêm kinh hoàng thức trắng, lão Kinh trưởng đoàn buôn lậu vẫn còn hơi mệt, nhưng nhờ đắp thuốc nên các vết thương bị sói cắn cũng đỡ đau nhức. Mọi người đang quây quần quanh đứa nhỏ bàn tán không ngớt. Đứa bé vừa thức. Nó giương cặp mắt đen láy nhìn mọi người, rồi như nhớ mẹ, nó mếu máo, bi bô gọi mấy tiếng, cả tiếng Kinh lẫn tiếng Thổ lơ lớ. Người đàn bà Thổ vội bế nó lên cho bú. Viên tướng lạc thảo nhe răng cười đùa với nó. Đứa bé ngừng bú nhoẻn miệng cười. Trông nó rất xinh, mắt sáng, mày dài, miệng như hoa nở, da dẻ hong hào. Càng ngắm càng đáng yêu, viên giặc khách bất giác thở phì, vò bộ râu xồm kêu lên:

- Nhỏ con ngộ dữ à! Tội nghiệp! Tự nhiên phải chịu mồ côi! Tỉu nà, bố nó đâu để vợ con lạc lõng giữa rừng mắc nạn chó sói! Hầy à! Nhỏ con ráng ăn cho mau lớn, học võ, giết hết loài chó sói, báo thù cho mẹ à!

Lạ thay, tự nhiên thằng bé không cười nữa. Hình như linh giác nó cũng biết, mặt nó bỗng trầm hẳn, hai con mắt trong sáng vụt như có một đám mây mờ kéo qua rồi... trước sự kinh ngạc của mọi người, nước mắt thằng bé từ từ ứa ra ướt đầm đìa hai má phính có núm đồng tiền như con gái.

Lão Kinh buôn lậu ngậm ngùi ứa lệ, đưa tay ôm đứa bé vào lòng run giọng:

- Trời ơi! Oan cừu này động đến Cửu tuyền... Con nhỏ lên hai cũng linh cảm được mẹ hiền thác oan!

- Chỗ biên thùy vắng vẻ này không thể ở lâu được! Giờ mọi người mau ăn uống cho khỏe rồi còn theo bản chức về tỉnh!

Viên giám binh Cao Bằng khoát tay ra lệnh cho mọi người. Tướng lạc thảo Quảng Tây Thoòng Mềnh chợt trầm lời bảo:

- Đường về Cao Bằng qua nhiều vùng núi hiểm, quân phải đi hàng một.Nếu như bị tấn công dễ bị cắt vụn từng khúc à! Tụi áo đen không sợ bằng lũ sói quỉ mắt đỏ bốn chân! Chúng có thể chui bờ bụi, vượt ghềnh đá đến sát lối quân đi ào vào bắt đứa bé, rất khó ngăn chặn. Nó lại đánh hơi rất thính. Nếu không lừa nổi nó chắc khó lòng đem đứa bé về Cao Bằng. Vậy phải chia làm hai toán, theo hai con đường. Quan giám binh cứ rút binh theo lối cũ, chở theo cái thây người đàn bà, để lừa nó theo, còn đứa bé này, ngộ sẽ bí mật đem nó đi đường khác, xuyên sơn tới vùng Nước Hai rồi mới về tỉnh. Độc hành mình ngộ đủ rồi!

Ai nấy đều khen hay, lão Kinh gật lia lịa:

- Phải đấy! Chỉ có cách đó mới đánh lừa nổi chúng! Đại vương Thoòng cho lão theo cùng, phụ giúp một tay!

Viện giặc khách ngại lão buôn lậu chưa mạnh hẳn, ý muốn đi một mình, nhưng sau hiểu ý ông già không muốn rời đứa nhỏ nên đành để lão cùng đi.

Sửa soạn cơm nước ăn uống no nê xong, nghỉ giây lát, rồi đoàn nhân mã bắt đầu nhổ trại lên đường. Trước đó viên tướng lạc thảo Quảng Tây đã cùng lão Kinh buôn lậu bí mat bồng đứa nhỏ kiếm chỗ nấp kín, trét đất khắp người, cả đứa nhỏ cũng được trùm chăn phủ đất cho khỏi lộ hơi người. Chừng đoàn quân của viên giám binh đã rút khá lâu, cả hai người mới lần ra chỗ dấu ngựa sẵn. Viên giặc khách lắng nghe tiếng con hoẵng kêu "hoăng hoăng" trong sương sớm, hất hàm bảo lão Kinh:

- Đi về phía đó! Có tiếng hoẵng kêu chắc rừng không có sói... chẩu gấp!

Hai con ngựa cùng ra roi phóng như gió cuốn. Bóng nhân mã bôi trát đầy đất phi loang loáng qua những tia nắng mờ xiên kẽ lá coi quái gở như vừa từ dưới lỗ huyệt chui lên.

Mãi đến lúc rời xa vùng đóng trại đêm qua đến bảy, tám dặm, hai người mới hạ nước ngựa, chạy kiệu băm lóc cóc. Người, ngựa cứ nhắm thẳng theo hướng Nước Hai - Cao Bằng đi tới. Cả hai đều mang "địu" trước bụng nhưng viên tướng lạc thảo mang đứa nhỏ. Ngựa phi hơi xóc như nhẹ như ru đứa bé mồ côi vào giấc ngủ thiu thiu.

Đến khoảng năm sáu giờ chiều, ngựa đang lướt trên một trái đồi, bất thần giữa cảnh hoàng hôn cô tịch chợt nổi lên tiếng chó sói tru hộc vang vang. Tướng lạc thảo Thoòng Mềnh cùng lão Kinh giật mình ghìm cương ngoái nhìn tứ phía: từ đằng sau cách khoảng hơn trăm bộ, một bầy sói mắt đỏ đang ào ào đuổi theo.

- Tỉu nà! Đúng lũ "quỉ mắt đỏ" rồi! Chẩu a!

Cả hai thất kinh quất ngựa vọt đi chạy miet. Vượt qua ngọn đồi, hai người tế ngựa xuyên qua một cánh rừng đến gần một con suối thác, có cây cầu mây bắc ngang vắt vẻo. Lão buôn lậu mừng rỡ reo lên:

- A! Cầu mây treo kia rồi! Qua khỏi chỗ này có lối về tỉnh đấy! Lão đã qua đây một lần, Sếnh sáng Tài Wang à! Ta qua cầu xong chặt phứt đi ắt lũ sài kia không theo được!

Lão cùng viên tướng lạc thảo tế ngựa vọt lên cầu. Ngờ đâu mới tới giữa cầu mây, dập dềnh ngó sang bờ bên kia đã thấy một hình thù lông lá xồm xoàm, bờm vàng rũ lòa xòa, hai con mắt đỏ khé như hai cuc than hồng, đứng lù lù dòm sang.

- Trời đất! Con tinh... chúa đàn sói... kìa, Tài Wang!

Lão Kinh bật kêu run giọng. Trong ánh nắng quái chiều hôm, hình thù con sói chúa trông càng mười phần quái đản. "Nó" phát âm, chìm gai rợn tiếng người:

- Hai tên kia mau nộp đứa con nít vòng xanh, chúa sẽ tha tội. Bằng trái lời chúa sói cho sói ăn thịt hết!

Kinh hoàng hai người quay đầu ngựa định lộn trở lại thì bầy sài kíu đã kéo đến chan đầu cầu bên này. Tướng lạc thảo Quảng Tây bật kêu thảng thốt, đầy giận dữ:

- Trời! Huê Dung Đạo là đây! Trời hại đứa nhỏ mồ côi rồi! Tỉu nà! Bắn!

Y rút phăng hai khẩu pạc-hoọc nổ liên hồi.Đoàng! Đoàng! Đoàng! Cư mỗi phát đạn là một con chó sói ngã gục. Lập tức đồng loại chúng lại xúm vào xé xác ăn hết tiêu. Lão buôn lậu cũng rút hai khẩu súng cối bắn bầy sói.

- Bỏ súng xuống! Trái lời chúa sói ăn thịt hai thằng trâu đất!

Giọng con tinh sói chúa âm u vang lên giữa tiếng súng nổ. Pạc-Hoọc Đại Vương Thoòng Mềnh chĩa vụt ngọn súng về phía nó nổ liền hai phát. Một phát trúng giữa tam tinh, một phát ngay giữa ngực, nhưng nó chỉ hơi lắc lư thân hình đôi chút, không hề hấn gì. Cạch! Hết đạn! Viên tướng lạc thảo trợn mắt, thở phì:

- Tỉu nà! Thế là hết!

Lão Kinh cũng bắn hết hai cối đạn, chán nản ném súng xuống vực thác.

- Trời hại ta rồi, Tài Wang ơi!

Hai người đưa mắt nhìn nhau. Tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Một đầu cầu con chúa sói trấn giữ. Một đầu là bầy sói hung tợn đang tru hộc và càng lúc càng đông vì những đám sau ào ào kéo tới. Nhưng hình như chưa có lệnh con chúa đàn nên chúng chưa xông tới ngay, chỉ nhe nanh múa vuốt rú lên từng tràng rởn ốc, vẻ bồn chồn nóng nảy. Con sói chúa ung dung xem người ngựa cử động như muốn để mấy con mồi thấm thía nỗi tuyệt vọng thảm thê. Bỗng nó cùng cất giọng khàn âm:

- Hai thằng trâu đất. Còn đợi gì không nộp đứa con nít cho chúa sói!
Nó cười ré lên tiếp:

- Bọn mi bôi đầy đất vào người ngựa đánh lừa lũ sói con! Hà hà! Thằng khách xồm, chúa sói nhận ra mày rồi! Mày ăn cắp cái thây con đàn bà! Hà hà! Chúng bay khôn hồn mau nộp trả đứa con nít, chúa sói sẽ tha tội! Ngu dại không nghe lời, chúa sói sẽ cho hai đứa thành hai cái túi da!

Giọng nó như cào màng tang khiến ai nấy đều dựng tóc gáy. Trong phút nguy nan, lão Kinh buôn lậu chợt động tâm nghĩ vụt trong đầu:

- Lạ dữ! Tại sao nó không ùa ra vồ? Con quỉ này lợi hại vô cùng, nó chụp bắt lúc nào chẳng được, sao còn mất công giục nộp? À, chắc nó sợ bồng đứa nhỏ đứng giữa cầu... Nó sợ rớt mất đứa nhỏ vòng xanh này!

Lão ghé tai viên giặc khách thì thầm, tướng lạc thảo Thoòng Mềnh hiểu ý, dòm xuống vực thác sâu hun hút, vùng hô lớn như lệnh vỡ:

- Chó sói đông như kiến, thà chết mất xác còn hơn vào bụng chúng! Buôn lậu! Chuẩn bị nhảy xuống thác... mau!

- Khoan, hai thằng trâu đất! Nộp đứa con nít cho chúa sói sẽ được toàn mạng!

Con tinh sói chúa đàn vội lên tiếng ngăn cản. Có lẽ nó cũng sợ đứa nhỏ rớt xuống vực sâu.

- Chúa sói không ăn thịt thằng con nít! Hai đứa mau nộp đây!

- Tỉu nà! Tin sao được! Trao nó cho mi để mi ăn thịt nó à! Tỉu! Tao thà nhảy thác chết cả lũ còn hơn để nó bị mi biến thành cái túi da như mẹ nó đã bị...

Viên giặc khách cố ý nói dông dài với con sói tinh đầu đàn giục hoãn cầu mưu. Lão Kinh bèn thừa dịp đảo mắt quan sát địa thế hòng tìm cách thoát hiểm. Đang lúc căng thẳng, vô kế khả thi, thình lình từ xa bỗng vẳng tiếng nhạc đồng khua loong coong hết sức lạ tai. Cả Lão Kinh, tướng lạc thảo và con tinh chúa sói cùng ngoảnh trông ra.

Từ sau vách núi cạnh đường mòn bên bờ kia có một người cưỡi con lừa đủng đỉnh đi ra. Người và vật nom hết sưc cổ quái. Con lừa nhỏ bé như con ngựa thồ, tai vểnh như hai tàu lá dừa, mắt thao láo, gầy nhom, cổ đeo tràng lục lạc từng cái to bằng nắm tay một. Ngồi trên lưng nó là một ông già hình dung rất ngộ, mặc quần áo sô như có đại tang, râu dài đến rốn. Mặt nom sáng lạ nhưng coi đầy vẻ bi thảm thê lương. Bên mình đeo lủng lẳng đến mười mấy cái bầu lớn nhỏ, tay lại cầm một cái ô màu trắng đương xòe rộng. Ngó gần càng lạ vì tuy mặt mũi ông ta nom bi thảm nhưng da dẻ hồng hào, tuyệt không một nếp nhăn, đầy vẻ tiên phong đạo cốt.

Đến gần con tinh sói đầu đàn, ông già đưa tay vẫy vẫy ra hiệu:

- Chó sói! Mi đứng đó làm gì? Tránh ra cho lừa đi, nào!

Con tinh chúa sói đưa mắt đỏ khé dòm ông lão lừ lừ, viên giặc khách vùng kêu lớn:

- Ông già! Chạy mau đi kẻo nó vồ ăn thịt bây giờ!

Ông lão ngó nghiêng ra nhận thấy hai người đứng giữa cầu, hất hàm hỏi:

- Ê, hai chú đứng đó làm gì? Phải bị con chó này chực bắt không?

- Trời, ông lão mau chạy khỏi đây! Con sói đã thành tinh, coi chừng nó bắt!

Lão Kinh cũng bật kêu hoảng. Ông lão kỳ dị quay sang ngó sững con sói chúa, cười hi hí như trẻ con:

- Hi! Con chó sói này to ghê! Dễ thường cao đến hai thước tây đấy nhỉ? À, mắt đỏ khé như than hồng, đúng giống Hồng Cẩu Quẩy!

Con tinh sói nãy giờ im lặng bỗng giơ hai chân trước vẫy ra hiệu cho ông già đi qua cầu treo.

- À, ngộ dữ à! Chó sói rừng biết đi hai chân, ra dấu... Hà hà!

Lão đưa cây dù khều nhẹ vào chân trước nó. Con tinh sói chừng nổi cáu vì lối đùa bỡn của ông già, nó chìm giọng:

- Lão già, qua cầu đi! Không được đùa với chúa sói!

Ông lão sửng sốt, dụi dụi mắt kêu:

- Trời đất! Chó sói lại biết nói cả tiếng người nữa! Lạ dữ à! Ta sống cả thế kỷ nay, bữa nay mới được mắt thấy tai nghe chuyện quái gở thế này! Hê! Mi là chó sói thành tinh hay là người mang lối sói? Nói ta nghe coi!

Con tinh sói mắt long sòng sọc cất giọng nhọn hoắt, hung tợn:

- Chớ nhiều lời! Chúa sói làm chúa rừng, chúa loài sài kíu, chúa sói đem đứa nhỏ kia về động, đứa nào ngăn trở, chúa sói ăn thịt!

Chừng không đợi được nữa, nó nghếch mõm tru lên một tràng. Lập tức đàn sói bên kia cầu nhe nanh nhất loạt rống lên, lắc lư tiến đến chỗ Lão Kinh cùng viên tướng lạc thảo đứng. Hai người dáo dác nhìn trước sau. Ông lão kỳ dị chợt cao giọng bảo:

- Hai chú kia! Mau bồng đứa nhỏ qua đây với ta, không sợ!

Lão cưỡi lừa đứng giữa đầu cầu, con tinh sói đứng xế bên cạnh. Vừa thấy viên giặc khách vượt hết nhịp cầu cuối cùng, bất thần nó lắc mình vọt tới thò chân trước chụp bắt. Nhưng lẹ như cắt, ông lão đã quay ngoắt con lưa chắn ngang trước mặt con tinh sói. Không chậm trễ, Lão Kinh buôn lậu và viên giặc khách cùng xẹt vòng qua thân lừa vọt đi luôn mấy thước.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:50:12 | Xem tất
Con tinh ré lên vung "tay" đẩy mạnh ra một nhát cùng lúc thổi phù một hơi vào mặt ông lão kỳ dị. Nhưng ông già đã phất "phạch" tay áo rộng. Luồng gió thối khẳm của con tinh sói cùng đòn công bằng "tay" của nó chạm phải kình phong của ông già nghe "uỳnh" mấy tiếng chát chúa như khí trời tức hơi phát sấm. Trông lại con tinh sói đã bị áp lực đẩy bật lùi lại hai, ba bước, loạng choạng hai chân trên sườn đá nhấp nhô, mõm thở hồng hộc.

- Ôi! Con chó quỉ này ăn phân gì mà thở hơi thối quá! Hê! Mi làm ta muốn chết ngạt thôi!

Ông lão cười hi hí. Bất ngờ quay ngoắt lại vung tay chém liên hồi những sợi dây treo cầu. "Phựt" "Phựt" "Phựt"! Cây cầu bị đứt dây không còn điểm tựa, bị sức nặng của bầy sói đè trĩu vụt sa xuống vực thác hun hút mang theo cả lũ. Và như trong mộng ảo, cây cầu đu đưa như võng lần lượt hất bầy sói rơi lả tả như sung rụng, giữa những tiếng tru rống lê thê chìm đáy vực.

- Hầy à! Thần lực! Quả ông già có sức phi phàm! Cho đàn sói xuống vực hay quá!

Viên tướng lạc thảo Quảng Tây vùng reo lên mừng rỡ. Lão Kinh buôn lậu tiếp luôn đầy phấn khích:

- Ôi! Cụ giỏi quá! Cụ đưa nốt con chó sói tinh xuống vực làm phước cho đời!

Ông già kỳ dị không đáp, quay dòm con tinh sói cười như con nít thích chí:

- Hi hi! Sao mi thấy thế nào? Có muốn xuống chơi với đám sói lâu la dưới đó không? Hì hì!

Dứt câu, lão rút luôn một bầu rượu bên hông đưa lên miệng tu ừng ực. Con tinh sói chừng đã mang thương qua lần thử sức với ông già vừa rồi, lại chứng kiến cảnh ông ta đưa cả bầy sói xuống vực thác. Nó có vẻ ngán uy lực của con người kỳ dị này. Nó đảo mắt, nghển cổ dòm đứa nhỏ viên giặc khách đang giữ, mấy lần định xông tới lại thôi. Nó thở phì phì ré lên căm phẫn phát giọng người gai gai:

- U...u...u... Ngươi là ai? Lão già quái gở kia... Lão là ai?

- Hi hi! Con sói này ngộ dữ à! Ta là ta chứ là ai? Còn mi, mi là sói thành tinh hay người hóa sói, hay người mang giả lốt sói? Nói mau! Hi hi!

Ông già đậy nút bầu rượu, nheo nheo mắt cười hỏi con tinh sói:

- Hi hi! Nói mau, chó sói! Ngoan ta cho uống rượu đào, ngon lắm!

Lão dứ dứ bầu rượu trước mặt nó. Con tinh chợt cất giọng:

- Chúa sói muốn uống thử rượu của lão!

Ai nấy cũng thấy lạ. Viên tướng lạc thảo ghé tai Lão Kinh buôn lậu thì thầm:

- Ngộ dữ! Chó sói cũng thích uống rượu!

Nhưng ông lão kỳ dị đã cười hi hí, gật lia lịa:

- Được lắm! Tinh chó biết uống rượu còn hơn đi bắt người ta ăn thịt! Mi biết không, từ ngày tiểu lư của ta nghiện rượu nó trở nên hiền lành dễ bảo, ngày đi ngàn dặm đấy! Đây, cho mi một bầu, mặc sức mà uống!

Lão ném bầu rượu sang, con tinh sói thò chân trước bắt dính, đưa lên mũi hít hít mấy cái:

- Hừ, rượu lão ngon đó!

Nó ngửa cổ dốc cả bầu vào mõm. Loáng cái đã hết sạch bầu, nó đưa "tay" chùi ngang mép, khà giọng hệt như một tay "bợm" chính hiệu

- Còn nữa không? Cho chúa sói một bầu nữa!

Ông lão kỳ dị thích thú vỗ đùi đen đét:

- Giỏi lắm! Chó sói cũng là tay tửu lượng cao, giỏi lắm!

Đoạn quài tay rút bầu nữa cho nó. Nhưng giữa lúc ông già đang nhoài người đưa bầu rượu sang thì bỗng con tinh sói thở phì một cái, từ trong miệng, mũi nó lập tức phun ra mấy vệt đỏ như máu bắn thốc vào mặt lão... Nhưng, như tình cờ bị mất thăng bằng, ông già chúi hẳn xuống, mấy luồng huyết khí con tinh sói phun ra bắn vào khoảng không tanh khắm muốn lộn mửa.

- À, con chó này hỗn xược quá! Dám lừa đánh trộm ta! Đã cho rượu uống, còn dở trò... chó sói! Xem đây!

Ông lão bật ngồi ngay ngắn trên lưng lừa trợn mắt hét. Lời vừa dứt từ trong tay áo ông già chợt vút ra một vệt trắng loáng bay sang con tinh sói. Nó hụp vội đầu, vệt sáng hớt luôn một chùm lông bờm bay lả tả. Nó nổi hung giơ luôn hai chân trước chụp bắt luôn vệt sáng. Sức nó vồ cực kỳ mạnh tới nỗi vệt sáng đang đảo vòng quanh nó bị chạm phải văng ra ngót hai thước nhưng lập tức quay ngoắt lại "liếm" thêm mấy mảng lông con sói.

- À! Chó sói liều dữ, dám chụp bắt cả lưỡi hái của ta!

Theo tiếng quát, ông già múa tít bàn tay, vệt sáng loằng ngoằng di động, chém tới tấp vào con tinh sói. Nó phải tránh, đỡ không ngừng, quay trước quay sau như đèn cù. Dần dần vô hình trung nó bị "đưa" đến chỗ bờ vực.

- Hi! Chó sói muốn xuống vực tắm mát chơi không? Nhảy nào!

Vệt sáng chém vút xuống chân, con tinh sói đành phải co chân nhảy vút lên quay một vòng. Nó liếc vụt xuống thấy vực sâu hun hút, giật mình hất vội hai chân sau lộn mấy vòng trở vào.

- À! Chó sói cũng biết nhào lộn như làm xiếc! Hi hi!

Ông già bất chợt thu lưỡi hái về, thúc lừa xông tới. Giữa lúc con tinh sói đang lồm cồm bò dậy, con lừa quay đít tung luôn một cú đá hậu vào mông nó, "Huỵch!", một tiếng khô khan, con tinh sói chúi nhào lăn thêm một vòng và ngay khi nó vừa đứng lên, ông già liền phất mạnh tay áo... "Bùng!" Con sói tinh bị trúng độc ngã ngồi phịch dưới đất, hộc ra một búng máu tươi. Nó trợn trừng mắt, hai chân trước ôm lấy ngực thở hổn hển.

- Cút mau! Chậm ta đổi ý làm thịt mi nhắm rượu đó!

Ông lão trỏ mặt nó mắng. Đoạn ung dung rút hồ lô rượu ra tu ừng ực. Con lừa cũng ngoái cổ dòm lên hí nhỏ vẻ thèm thuồng.

- À! Tiểu Lư muốn uống phải không? Thưởng cho ngươi về cú đá hậu vừa rồi!

Lão dốc luôn bầu rượu vào mồm lừa. Con tinh sói cố gượng dậy giương mắt nhìn vẻ căm hận ghê gớm, nhưng chừng nó bị trúng đòn khá nặng, nên chẳng còn sức chiến đấu nữa. Nó rít lên, toàn thân rung động theo từng âm thanh quái gở phi phàm:

- Chúa sói bắt đứa con nít về động, bọn bay cản trở việc của chúa sói... rồi chúa sói sẽ ăn thịt bọn bay... Hà hà! Tất cả sẽ thành cái túi da... Hà hà! Hãy chờ xem... chạy xuống âm ty cũng không thoát tay chúa sói... Hà hà!

Rồi nó lắc mình chạy vọt đi như mũi tên bắn, âm thanh quái đản chờn vờn bay lê thê trong buổi chiều nắng úa loang lổ rừng già...

- Hầy à! Con tinh chúa chạy mất rồi... Sao ông già không giết nó trừ hại cho đời... Hầy à! uổng quá!

Viên tướng lạc thảo Quảng Tây như bàng hoàng chợt tỉnh, vò râu than.

Ông già kỳ dị quay sang vẫy hai người lại gần, cả hai cúi đầu tạ lễ. Ông lão dòm viên giặc khách trố mắt cười khà:

- Hà hà! Trâu đất tham lam dữ a! Không bị sói ăn thịt là may rồi! Ta đã giết hàng trăm con sói, tha cho con chúa đàn làm phước! Hì hì!

Lão ngắm đứa bé. Lúc này nó đã thức từ lâu ngơ ngác dòm quanh, thấy ông già kỳ dị nhìn, nó chợt toét miệng cười. Lão khoái chí cười reo như con nít:

- Hi hi! Nhỏ con này ngộ dữ a! Ê, con nít không sợ lão à? Hi hi! À, sao con chó sói lại gọi nó là con nít vòng xanh? Các chú biết không? À, mà các chú bà con chi với đứa bé nhỏ này?

Lão Kinh buôn lậu lễ phép lên tiếng:

- Thưa lão trượng ân nhân vì đứa bé này có đeo một cái vòng ngọc xanh! Đây, lão trượng coi!

Viên giặc khách bồng đứa nhỏ lên lấy tay kéo nâng hẳn sợi dây chuyền vàng có buộc chiếc vòng xanh, miệng kể:

- Thưa, chúng tôi tình cờ gặp mẹ con đứa nhỏ lâm nạn bầy sói giữa rừng biên giới cỏ phân mao. Tôi đã cố cứu nhưng không nổi... Hà! Mẹ nó bị con tinh sói chúa đàn sát hại thảm khốc... Hà! Con tinh vô cùng lợi hại tôi suýt chết vì nó, may tình cờ gặp bọn quan binh Cao Bằng, lũ chó bị súng lớn bắn dữ quá, bỏ đi... Hà! Lại còn một bọn mặc đồ đen cũng kéo tới lùng kiếm đứa nhỏ này... Hà! Tội nghiệp thằng nhỏ mồ côi sớm...

Giọng viên tướng lạc thảo trở nên nghẹn ngào xúc động lạ thường.

- Hà! Mẹ nó... Tôi đã chứng kiến tận mắt... Hà! Chưa có cái chết nào khủng khiếp như vậy... Hầy! con tinh sói cực kỳ tàn ác... chẳng hiểu bố nó đâu, để hai mẹ con giữa đường mắc nạn thảm thương... Hà!

Trên gương mặt "cô hồn" của kẻ từng dọc ngang vào sinh ra tử đùa với súng đạn, tử thần khắp mấy cõi biên thùy, chợt như bị một đám mây mờ u ám che phủ. Y thở phì một hơi dài như muốn trút sạch những bi cảm, xót thương ray rứt trong lòng.
Ông già kỳ dị đưa tay đỡ lấy đứa nhỏ chép miệng liên hồi:

- Tội nghiệp! Chậc! Nhỏ con tội nghiệp qua! Đùa với lão chút cho vui nào! Hi hi!

Đứa nhỏ chẳng lạ người gì cả, nó để mặc lão bế, hai con mắt đen láy mở to nhìn lão không chớp. Lão quét bộ râu dài như cái đuôi ngựa vào má nó khiến nó cựa quậy cười ré lên. Mot già, một trẻ đùa giỡn tự nhiên thoải mái như đã thân quen từ lâu rồi!

- Ôi chao! Nhỏ con ngộ dữ! Không sợ lão râu dài! Không sợ chú trâu đất râu xồm! Ê, nhỏ con có sợ chó sói không?

Đang cười ngặt nghẹo vừa nghe nhắc đến "chó sói" tự dưng thằng bé nín bặt, mếu máo chực òa khóc. Khiến ông già phải trố mắt ngạc nhiên:

- Ôi! Thằng con nít không lạ, nói đến chó sói nó mếu ngay! Chậc! Con nít linh mẫn như thần, chắc nó biết mẹ nó bị chó sói ăn thịt đây?

Lão Kinh buôn lậu đỡ lời:

- Bẩm, từ lúc chúng tôi cứu được nó đến giờ, cứ hễ nhắc tới chó sói là nó mếu máo. Hà! tội quá, con trẻ lên hai cũng đau xót nỗi mẹ hiền oan thác!

Ông lão kỳ dị vừa dỗ dành vừa sờ nắn tay chân mình mẩy đứa nhỏ một hồi, chợt vùng hỏi hai người:

- Này, ta hỏi thật nhé! Các chú có muốn cho nó theo ta học võ không?

Thằng bé nhỏ này có căn cơ cốt cách đặc biệt, nhân diện nó mạnh tợn, nếu được dạy dỗ đến nơi đến chốn chắc chắn sẽ thành tài! Ta sống cả thế kỷ nay chưa hề thu nhận một đồ đệ, giờ thằng nhỏ này gặp ta âu cũng là có nhân duyên, các chú nghĩ sao?

Giọng lão trở nên nghiêm trang đứng đắn lạ. Hai người đưa mắt nhìn nhau tần ngần khó xử, không biết trả lời thế nào. Ông lão kỳ dị này là ân nhân cứu mạng, nhưng hình dung cổ quái, hành tung lai lịch không rõ ràng. Nay bất ngờ muốn thu nhận đứa bé đem theo dạy võ, hai người nào dám ưng thuận bừa? Lão Kinh buôn lậu từ lúc cứu được nó đa muốn nhận làm con nuôi, quyến luyến không rời một phút! Giây lâu Lão Kinh ấp úng ngỏ lời:

- Bẩm lão trượng... Kẻ này từ lúc gặp thẳng nhỏ... đã có ý muốn... nhận làm nghĩa tử! Bẩm, kẻ này thực lòng... không muốn xa nó... mong lão trượng ân nhân rộng lượng tha thứ cho!

Ông lão kỳ dị khoát tay bảo:

- Hà! Ta không ép buộc đâu! Ưng hay không là tùy các chú! Ta chỉ hơi tiếc vì đứa nhỏ này có căn cốt thượng thừa! Thôi, tùy các chú! Chào nhé!

Dứt lời lão giao đứa nhỏ, lại đưa bầu lên uống luôn, chân thúc vào hông con lừa. Con vật lững thững bước đi. Viên tướng lạc thảo Quảng Tây vụt đảo nhanh ý nghĩ trong đầu, quay bảo Lão Kinh buôn lậu:

- Hầy à! Ông cụ này nom hình dung cổ quái khác đời nhưng xem ra rất tốt! Vả lại, nếu ông ta có ý xấu thì với tài nghệ siêu phàm như vậy ông ta cướp đứa bé này không khó! Hầy, thằng nhỏ vòng xanh đang bị nhiều kẻ ác săn đuổi, mà đường về Cao Bằng còn xa, biết đâu lại xảy ra sự bất trắc! Hầy à, kẻ thù của thẳng nhỏ là con tinh sói cực kỳ lợi hại, ai là người đủ tài sức dạy dỗ nó báo nổi thù nhà sau này, ngoài lão dị nhân kia? Hầy! Buôn lậu tính sao? Ta nghĩ nếu thương thằng nhỏ thì nên cho nó theo lão dị nhân kia thọ giáo! Hầy, âu cũng là kỳ duyên may mắn của thằng nhỏ!

Lời viên tướng lạc thảo Thoòng Mềnh vang lên mạnh mẽ như thôi thúc lão Kinh buôn lậu. Lão cắn chặt môi muốn rớm máu cố nén xúc cảm, giây lâu chợt thở ra giọng trầm hẳn buồn mênh mang:

- Phải! Xếnh xáng Tài Wang Thoòng nói phải đó! Thôi, cũng là số mệnh định sẵn!

Cả hai vội tế ngựa theo gọi ông lão kỳ dị, ông lão vẫn khoan thai ngồi trên ưng lừa uống rượu, hơi ngoảnh lại cười hi hí:

- Sao? Hai chú trâu đất còn cần gì nữa? Sao không thẳng đường về Cao Bằng cho sớm?

Lão Kinh buôn lậu ghìm cương, nhảy xuống phục luôn trước con lừa, rung giọng nghẹn ngào:

- Bẩm lão trượng ân nhân... Kẻ tiện nhân này cúi đầu mong lão trượng... ra ơn cho đứa bé côi cút!

Ông già kỳ dị xua tay nói:

- Chú trâu đất bất tất phải diễn cái trò lễ nghi lẩm cẩm đó... có gì nói mau!

Viên tướng lạc thảo gãi râu xồm vội đáp thay cho bạn:

- Hà! Chúng tôi xin ông cụ ân nhân thâu nhận thằng nhỏ vòng xanh, dạy dỗ cho nó thành tài. Sau này còn báo thù cho mẹ nó à! Mong lão thương nó giùm.

Ông lão sáng mắt lên, nhe răng cười:

- A, hai chú trâu đất ưng chịu rồi à! Tốt lắm! Mà này, ta nhắc lại rằng ta không ép buộc các chú đâu nhé. Kẻo sau này lại than trách để tội cho ta.

Viên giặc khách bồng đứa nhỏ sang cho lão. Lão dị nhân tròn mắt ngắm thằng bé cười vang:

- Ha ha! Con nít vòng xanh dễ thương theo lão học võ, lớn lên về giết chó sói báo thù cho mẹ! Tốt lắm! Tiểu lư ơi, từ nay cũng ta có thêm một anh bạn tí hon. Hi hi! Ha ha!

Lão Kinh buôn lậu đợi lão dứt tràng cười khoái trá, rụt rè hỏi:

- Bẩm, chẳng hay lão trượng có thể cho bọn này biết đại danh cùng nơi cư ngụ của ngài chăng?

Ông già kỳ dị dòm sững lão buôn lậu rồi ngửa mặt tiếp tục cười. Toàn thân lão rung động lên theo tiếng cười bốc cao vang động khắp cánh rừng. Thằng nhỏ ngơ ngác giương mắt nhìn thao láo. Bỗng nó đưa bàn tay tí xíu túm râu lão giật lại mấy cái. Ông già ngưng cười cúi dòm nó:

- A, nhỏ con không thích nghe giọng cười chói tai của lão! Xin lỗi! Xin lỗi! Hà! Tại chú trâu đất hỏi ấm ớ khiến lão buồn cười đó thôi! Lão không có tên họ cũng không có nhà cửa, thân thích. Hà hà! Trời đát mang mang, với lão đâu cũng thế thôi! Cùng với chú tiểu lư, lão ngao du khắp cùng trời cuối đất! Ha ha! "Lai như xuân mộng bất đa thời, khứ tựa triều vân vô thỏa xứ..." chính là lão đó! Thôi, đời người như mộng huyễn, hai chú trâu đất chẳng cần biết lão là ai? Hãy tin rằng mười bảy năm sau thằng nhỏ se trở về với các chú! Sao? Liên lạc nơi nào, nói mau?

Lão chợt đổi giọng, hất hàm hỏi hai người. Lão Kinh buôn lậu lật đật đáp lời:

- Dạ bẩm, tôi họ Võ tên Minh Phương có đồn điền tại Yên Bái... Còn đây là chúa núi Mã Đầu Sơn Quảng Tây, Pạc Hoọc đại vương Thoòng Mềnh...

Ông già kỳ dị ngắt lời:

- Thôi được! Cứ thế nhé! Đồn điền họ Võ tại Yên Bái! Mười bảy năm sau thằng nhỏ sẽ trở về! Các chú sẽ nói cho nó hay về thân thế của nó, còn ta, ta chỉ dạy nó thành tài! Nhớ nhé! Thôi, chia tay!

Lời vừa buông, con lừa vụt hí lên cất vó phóng đi, nhanh như gió cuốn, viên tướng lạc thảo Quảng Tây cùng Lão Kinh buôn lậu đứng sững sờ nhìn theo ngơ ngác. Hình bóng ông già cổ quái cưỡi con lừa mang theo đứa nhỏ vòng xanh hút chìm dần sau hẻm núi xa xa...

Rất lâu viên tướng lạc thảo Quảng Tây từ từ quay sang bạn đồng hành, thở ra nhè nhẹ:

- Thôi, chúng ta về Cao Bằng!

Hai người lặng lẽ quay đầu ngựa thả kiệu băm về hướng Cao Bằng. Viên giặc khách câm nín không nói một lời duy chỉ có lão buôn lậu lảm nhảm nói một mình:

- Hình dung cổ quái không tên họ, nguồn gốc, tính khí bất thường như trẻ nít, nhưng tài võ lại siêu phàm hạ tinh sói như bỡn, sống cả thế kỷ... Ông già này là người hay là tiên? Không thể biết được! Nhưng rõ ràng là bậc kỳ nhân dị sĩ! Hay "người" thọ khí thiêng liêng sông núi trong trời đất mà sinh ra chăng? Xưa đức Khổng Tử từng bảo có các sơn nhân vật khí gọi là Qui Võng Lạng! Hay "người" là giống Qui Võng Lạng? Hà! Khó hiểu! Cầu trời phù hộ đứa nhỏ vòng xanh.

- Hầy! Buôn lậu lảm nhảm cái gì Qui Võng Lạng đó? Trời sắp tối rồi, mau lên nào!

Viên giặc khách cho ngựa vượt lên trước phi nước đại. Lão buôn lậu lật đật phi theo. Hai bóng nhân mã theo nhau lướt nhanh qua những thung, đồi trùng điệp... Màn đêm đang bắt đầu phủ xuống núi rừng cô tịch...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:15:50 | Xem tất
                                                                          Hồi Thứ Hai

                                                                         Quái Vật Hồ Ba Bể

Hồ Ba Bể, một chiều dịu nắng...

Trời đang xanh thẳm, gió thổi hiu hiu mang theo hơi nước từ mặt hồ mát rượi. Thình lình mây đen từ đâu kéo về lớp lớp, cảnh vật sa sầm, gió thổi ào ào, cây rừng trút lá rồi mưa rào đổ xuống như trút nước. Giây phút cả một vùng danh lam thắng cảnh đã chìm sâu trong lớp sa mù.

Chợt, từ trong cảnh mưa mù hiện ra hai thớt ngựa phi như gió cuốn trên đường dẫn đến hồ. Một con ngựa bạch, một con ngựa hồng chạy song song. Trên lưng ngựa bạch là một thiếu phu rất đẹp trạc hai bốn, hai lăm tuổi, trang phục theo lối đàn bà Thái. Nàng ngồi vắt hai chân sang phía trái, rạp mình ra roi. Trên ngựa hồng là một người đàn ông chừng ba mươi tuổi, vẻ quắc thước rắn rỏi của con nhà võ. Cả hai đều mặc áo mưa, người ngựa ướt sũng, chốc chốc lại ngoái dòm lại đằng sau vẻ hấp tấp lo ngại khác thường.

Nhìn kỹ sẽ thấy nơi bả vai người đàn ông bị một vết thương loang máu, chưa kịp băng bó, rõ vừa trải qua một trận chiến đấu sinh tử.

Bất thần, đang chạy bỗng con ngựa bạch của thiếu phụ ngã dụi xuống, hất tung nàng qua đầu. Nàng chỉ kịp kêu lên một tiếng đã bắn lộn theo ngựa ra về phía trước. Người đàn ông giật mình nhưng phản ứng rất nhanh, tung mình nhảy vèo qua đầu ngựa vươn tay túm được lưng áo thiếu phụ đúng lúc nàng sắp ngã vật xuống đường. Người đàn ông hoành thân ôm gọn thiếu phụ trong tay, động tác rất đẹp và chính xác như con diều hau chụp bắt gà con. Con ngựa hồng cũng dừng phắt vó, hí lên một tràng.

- Ngựa bạch chết rồi! Đây cũng gần tới hồ, cố gắng chút nữa sẽ thoát hiểm! Để anh giấu xác ngựa bạch!

Người đàn ông đưa thiếu phụ lên ngựa hồng, trao cương cho nàng rồi cúi xốc phăng con ngựa bạch lên vai chạy vụt vào cách rừng bên hữu. Thoắt cái đã chạy ra, nhảy lên ngồi sau lưng thiếu phụ, giật cương vọt đi vội vã.

Đường núi quanh co, hai bên đồi cỏ rừng cây chập chùng, chạy được một quãng, ngựa hồng bắt đầu thở hộc, nó cố vểnh bờm quất đuôi chạy miết, nhưng nước kiệu lại "cao đầu phóng vĩ" đã lệch lạc, vó xiêu, mõm nghiêng coi bộ đã kiệt sức vì trải qua cả trăm dặm bôn hành. Vó câu như có thể đổ sụp bất cứ lúc nào!

Thình lình thiếu phụ ôm bụng kêu lên vật vã muốn đổ dụi xuống. Người đàn ông hoảng hốt buông vội tay cương ôm cứng lấy nàng:

- Trời! Sao thế... em?

- Anh ơi... đau chết mất thôi! Hình như... cái thai... chắc chuyển bụng đẻ... Trời ơi, đau quá!

- Trời! chuyển bụng đẻ... giữa đường mưa gió như vầy... làm sao bây giờ?

Em cố nhịn đi... ráng đến hồ sẽ có chỗ an toàn!

Người đàn ông cuống quýt, bồng vợ nằm hẳn trong lòng, lấy mình che mưa cho nàng. Thiếu phụ càng quằn quại, cắn chặt răng, ôm bụng co quắp thở hổn hển:

- Đau! Đau mà... Khát lắm! Không nhịn được đâu... Anh ơi! Nãy giờ em cố nhịn... Không cho anh biết sợ anh rối trí! Trời ơi! chắc... đẻ vai... đến nơi... Anh ơi!

Thì ra thiếu phụ có mang đã đến thời kỳ sinh nở, lại phải cưỡi ngựa bôn hành xông pha mưa gió nên càng khiến nàng trở dạ mạnh.

Người chồng đảo mắt dòm quanh. Xa xa trong lớp mưa mù, trên đầu con dốc phía trước có một cái quán đơn sơ nằm trơ vơ cạnh lối mòn. Người chồng lưỡng lự giây phút vùng bảo vợ:

- Kia có cái quán! Phải vào kiếm chỗ khô ráo cho em sinh nở đã rồi sẽ liệu!

- Đừng... Anh ơi... Đừng! Kẻ thù... sắp đuổi đến nơi... chạy đi anh! Thiếu phụ vừa rên rỉ vừa cố thều thào bảo chồng. Người đàn ông thở hắt ra:

- Không được! Dẫu thế nào cũng phải kiếm chỗ cho em sinh!

Dứt lời, thúc ngựa chạy tới. Vó câu chưa ngừng hẳn, người đàn ông đã bồng vợ nhảy vèo xuống như một cơn lốc, bước nhanh vào trong quán. Quán vắng, chỉ có một người khách đang ngồi độc ẩm nơi chiếc bàn bên cửa sổ. Chủ quán đang ngồi ngáp vat nhìn trời mưa gió, thấy có người vào lật đật đứng lên. Không chờ y hỏi, người chồng nói luôn:

- Nhà tôi đau đẻ giữa đường! Mong ông rộng lượng giúp cho!

Như bị ong đốt, chủ quán dẫy nẩy kêu lên:

- Trời đất! Sao... Sao lại khiêng người đẻ vào đây? Ôi! Thế thì... chết cả nhà tôi mất! Ông khách ơi!... Xin ông làm phước đem bà nhà về Bắc Cạn ở đó có nhà thương! Ôi chao! Sinh dữ tử lành mà ông lại không biết sao?

Y xua tay lia lịa, người chồng cố khẩn khoản, xuống nước:

- Trời mưa gió, nhà tôi trở dạ bất ngờ giữa rừng, xin ông mở lòng nhân đức cho chúng tôi nhờ chút qua cơn hiểm nghèo! Chúng tôi không dám để ông chịu thiệt thòi đâu!

Gã chủ quán có lẽ nhiễm nặng thói tục xưa nay nên chỉ sợ xúi quẩy, cứ nằng nặc vò đầu bứt tai bảo đi kiếm chỗ khác. Người chồng năn nỉ cách nào gã cũng không chịu. Bỗng có tiếng nói xen vào giọng sang sảng như chuông đồng:

- Này, tên bần tiện kia! Mưa to gió lớn giữa rừng chỉ có quán nhà mi, còn đuổi người ta đi đâu! Mi cũng từ trong đũng quần mẹ mi chui ra sao không biết thương người sinh đẻ? Đưa người ta vào nhà trong mau! Để người ta đẻ vãi, ta vặn cổ mi đó!

Người khách ngồi bên cửa sổ lừ lừ đứng lên bước tới. Lúc này người chồng thiếu phụ mới nhìn rõ. Đó là một bà già sơn cước cao lênh khênh đến thước tám có dáng dấp nhiều phần giống đàn ông! Qua cách ăn mặc cho thấy bà ta là người Dao. Đặc biệt cặp mắt bà ta xanh biếc, sáng quắc như hai bóng đèn nhỏ chứng tỏ một tay cao bản lãnh, nội lực cực kỳ sung mãn!
Gã chủ quán định cất lời mắng lại, chạm phải tia mắt bà ta đâm ra ấp úng:

- Tôi... tôi...

Bà già liếc nhìn thiếu phụ, bụng nàng phập phồng cuồn cuộn thấy rõ.

- Mau đưa người ta vào trong! Còn chờ gì nữa, tên kia!

- Không được đâu... bà cụ.

Gã chủ quán thu hết đởm lược phản đối. Chưa dứt câu bỗng nghe "rầm" một tiếng, chiếc bàn lớn bằng gỗ lim bên gã đổ sụm xuống, mặt bàn vỡ vụn làm nhiều mảnh. Bà già quài tay túm gáy gã bêu lên cao, trầm giọng:

- Mi có muốn như cái bàn đó không?

Chủ quán giãy dụa như đỉa phải vôi, hai chân chòi đạp lung tung, miệng méo xệch đi cầu cứu, vợ hắn từ sau chạy ra chắp tay lạy rối rít:

- Ấy đừng! Bà cụ ơi... Khéo chết nhà con mất! Đừng làm thế cụ ơi! Con xin vâng lời cụ!

Bà già buông "huỵch" gã chủ quán xuống đất. Gã lóp ngóp ngồi dậy, suýt xoa, lấm lét dòm cái bàn bể nát rồi bảo người chồng:

- Thôi, mời ông đem bà nhà vào đây! Vào đi! Ta giúp cho một tay! Mau!

Bà già người Dao hất hàm giục. Cả mừng, người đàn ông bồng vợ tất tả đi theo gã chủ quán vào căn buồng xép phía trong.
Vừa đặt xuống chiếc giường tre, thiếu phụ đã lăn lộn nắm lấy thanh giường bẻ răng rắc. Bà già ra lệnh:

- Vợ chồng tên bán quán mang chậu than, kiếm một bộ đồ, vài cái tã cho đứa nhỏ, chuẩn bị lửa củi, mau lên! Khép cưa lại tránh gió lùa! Nhớ kiếm ít bông băng, thuốc sát trùng!

Bà già ngồi xuống bên giường, xốc thiếu phụ lên, thò tay nắn bụng mấy cái, bảo người chồng:

- Sắp đẻ rồi! Gần vỡ nước ối!

Đoạn, tiếp tục nắn vuốt xoa bóp cho thiếu phụ luôn tay. Chủ quán mang các thứ cần thiết vào. Bà già đuổi y ra rồi để chậu dưới chân sản phụ. Người chồng cởi trần trùng trục nhóm lửa giữa buồng nấu nước. Đống lửa vừa nhóm xong, bà già cởi y phục người vợ ném cho người chồng vắt, hơ cho khô.

- Hừ! Chửa đẻ còn đẹp như tượng đúc! Gái này bạc mệnh, đến đâu loạn đấy! Đẻ con đầu lòng, coi bụng chửa này chắc đẻ con gái!

Chợt thiếu phụ oằn mình rên rỉ, bụng nhô cuồn cuộn rồi... ục! ục!

- Vỡ ối rồi! Rặn mạnh! Rặn từng hơi! Ta tiếp sức cho!

Người chồng không dám nhìn vợ, chàng ta ngồi hơ áo. Bên ngoài trời vẫn mưa to ào ào. Bỗng nhiên liền mấy tiếng sấm rền trên không trung, rồi có một tiếng sét cực lớn đánh "ầm", ánh điện trời loằng ngoằng nhấp nháy chiếu sáng rực căn buồng. Thiếu phụ giật nảy mình rồi có mấy tiếng "oe oe" tiếp liền, bà già sơn cước bật kêu lên:

- A! Đẻ đúng lúc sét đánh! Con gái! Ta đoán không sai! Con bé này hấp thụ nộ khí thiên cương, mai sau ắt thiên hạ phải đảo điên vì con thiên lôi đả!

Người chồng nhào lại quả nhiên đã thấy bà già bồng một đứa nhỏ đỏ hỏn trên tay. Hài nhi coi bụ bẫm, xinh xắn khiến chàng ta mừng rỡ cảm ơn luôn miệng. Bà già tắm rửa, buộc rốn quấn bụng cho con nhỏ xong trao nó cho người chồng, rửa tay.

- Mặc quần áo cho vợ mi! Mạch nó còn loạn, để ta cho vài viên thuốc khỏe!

Bà già moi trong bọc ra một ống trúc nhỏ, dốc ra một viên bỏ vào miệng sản phụ, chiêu thêm ngụm nước nóng. Rồi dúi luôn ống trúc cho người chồng:

- Còn mấy viên giữ cho vợ uống dần! Mi cũng uống môt viên đi, ta coi mi cũng mất sức nhiều đó!

Chàng ta làm theo lời, kính cẩn cảm ơn, nhưng bà già đã gạt phắt đi, vẻ khó chịu, nói gọn lỏn:

- Đẻ đái xong rồi, liệu mà trông vợ, kiêng mưa gió!

Đoạn bước luôn ra ngoài, ngồi vào bàn uống rượu, không muốn nói chuyện, bỏ mặc hai vợ chồng với đứa hài nhi trong buồng.

Bỗng có tiếng vó ngựa khua nhanh trên đường rồi dừng rập trước quán. Một người đàn ông mặc áo chàm, đầu chít khăn Thổ ghìm cương nhìn dáo dác vào trong, lẩm bẩm nói một mình:

- Lạ thật! Ngựa cậu đây mà sao không thấy ngựa của cô?

Người này nhảy xuống chạy thốc vào quán. Vuốt nước mưa trên mặt, hỏi lớn:

- Cậu Hai, cô Ba có đây không?

Trong buồng, người chồng nghe tiếng giật mình phóng ra:

- Nùng Kham đó ư?

Người mặc áo chàm mới tới vụt kêu lên nhào tới ôm lấy vai, run giọng thở gấp:

- Trời cậu Hai! Cô Ba đâu? Tưởng chạy tới nơi rồi sao lại còn ở đây? Chết hết cả rồi, cậu ơi! Chúng nó sắp đuổi tới rồi! Cô Ba đây? Chạy mau đi thôi!

- Sao? Chú bảo ai chết? Còn ông già chú với bọn...

- Chết sạch rồi! Cha tôi bị thương nặng... chẳng hiểu sống nổi không? Bọn áo đen ghê như ma quỉ, chạy phía nào nó cũng biết. Cô Ba đâu?

- Trở dạ giữa đường... vừa đẻ xong!

- Trời! Cô Ba vừa đẻ... làm sao bây giờ! Nó sắp tới!

Người chồng dắt Nùng Kham vào buồng. Thiếu phụ đang nằm nghỉ, gượng nhỏm dậy kêu:

- Kìa, chú Kham!

- Cô Ba ơi... chúng nó sắp đuổi tới rồi!

Nùng Kham vừa dứt lời, thiếu phụ bật kêu "trời" đau đớn, nàng gỡ tay chồng ra gắng bước xuống đất vừa thở vừa nói:

- Phải chạy ngay! Nán lại chết hết! Đừng để nó bắt... Anh ơi!

Người chồng bối rối khó xử. Tình thế quá ngặt, vợ vừa đẻ xong dầm mưa nguy hiểm. Nán lại, quân thù ập tới cũng chết. Chàng đang phân vân, Nùng Kham bế luôn đứa hài nhi, lấy chăn bọc kín mấy lượt, nói luôn:

- Cậu Hai đỡ cô Ba, tôi bồng em bé được rồi! Mau lên nào!

Hai vợ chồng bước ra chắp tay vái bà già người Dao, nói nhanh:

- Ơn đức lão bà vợ chồng chúng tôi suốt đời ghi lòng tạc dạ! Nay gặp cơn nguy, chẳng thể nán lại, cúi xin người xá cho!

Xong quay sang tạ chủ quán, trả tiền rồi vội dắt dìu nhau lên ngựa chạy đi bất kể mưa gió tầm tã ngoài trời. Bà già nhìn theo hơi cau mày, lẩm bẩm:

- Vừa đẻ xong đã dầm mưa chạy! Hừ!

Hai vợ chồng thiếu phụ cùng Nùng Kham mải miết ra roi, chạy chừng ba dặm, cả bọn bỏ đường mòn phi vào một cánh rừng thưa bên tả, ven hồ, người chồng ghìm cương nói nhanh:

- Giấu ngựa ở đây, mau! Giờ chỉ cần bơi ra ngoài hòn đảo kia là thoát! Có chỗ trú ẩn an toàn!

Thiếu phụ nhìn theo tay chồng chỉ. Lờ mờ trong mưa mù, xa xa có một hòn đảo nhô lên khoảng giữa hồ. Giấu ngựa xong, cả bọn kéo nhau chạy. Nào ngờ vừa đến bờ hồ bỗng nghe một tiếng hú quái gở ngân dài:

- Hà hú! Gái Bạc mang vòng xanh chạy đâu? Đứng lại! Hà hú!

Ba người sửng sốt đảo mắt dòm quanh. Từ xa có một bóng trắng lòa xòa mang cà kheo xông tới, xế trốc đầu bóng này là một bầy dơi cả trăm con ào ào bay theo.

- Trời! Em ơi, chính mụ Hấp Huyết Quỉ Nương đó! Nùng Kham, chạy mau đến chỗ giấu thuyền!

Người chồng bồng vợ lao vọt đi theo bờ nước. Chừng trăm thước tới một lùm cây rậm rạp cạnh một tảng đá lớn. Người chồng đặt vội vợ đứng xuống, vén cành lá len vào lôi ra một chiếc thuyền nan, đẩy xuống nước:

- Xuống thuyền mau!

Cả ba hối hả xuống thuyền. Thiếu phụ ngồi giữa ôm hài nhi vào lòng ủ kín. Người chồng quơ vội cặp bơi chèo ném Nùng Kham một cái, giục:

- Chèo nhanh!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:17:13 | Xem tất
Thuyền nan ra xa bờ chừng ba mươi sải thì bóng Hấp Huyết Quỉ Nương cũng vừa đuổi tới.

- Hà hú! Gái Bạc mang vòng xanh chạy đâu cho thoát!

Tiếng hú quái gở vụt cất lên cao vút, lập tức bầy dơi bay vù vù rượt theo, quỉ nương mang cà kheo lội luôn xuống nước. Người chồng chèo một tay, tay kia rút súng bắn chận bầy dơi, Quỉ Nương.

Thình lình, từ trên bờ, chếch phía dưới bỗng hiện ra một bầy nhân mã mặc toàn quần áo đen, trùm kín mặt.

- Tên bất tài vô dụng kia! Mau để công chúa họ Bạc lại! Cãi lời mất mạng! Một tên ra dáng cầm đầu hô lớn, giọng hắn vang vang bay xa lồng lộng trên mặt hồ.

Người chồng mím miệng, căm giận chụp luôn cây súng trường của Nùng Kham đưa lên nhắm bắn. Đoàng! Đạn xẹt qua mang tai tên đầu đảng. Hắn phất tay ra hiệu cho thủ hạ. Hàng loạt đạn từ bờ bắn vãi ra lõm bõm quanh mạn thuyền. Nhưng hình như không có chủ ý bắn người, chỉ dọa cản không cho thuyền ra xa. Có lẽ chúng sợ trúng "con mồi".

Trong khi đó Quỉ Nương cùng bầy dơi đã xông tới gần. Người chồng vừa ấn vợ nằm úp xuống vừa bảo Nùng Kham:

- Cứ chèo thẳng!

Thuyền nan vùn vụt lao đi bất chấp những đường đạn rít veo véo trốc đầu. Được chừng vài chục sải nữa, hai người đàn ông đang mải miết chèo đột nhiên giật mình khựng lại. Phía trước mũi thuyền chẳng biết từ khi nào xuất hiện một bóng người đứng chặn vật vờ trên mặt nước. Chừng nhìn kỹ mới hay đó là một người đàn ông mặt mũi phương phi hồng hào mặc áo gấm tía, đầu chít khăn, tay cầm gậy, bên hông đeo lủng lẳng mấy cái bầu đựng rượu. Người này đứng lềnh bềnh trên mặt nước nhờ một miếng ván dưới chân.

- Trời! Ai nữa đây...?

Người chồng bật kêu sửng sốt. Người lạ mặc áo gấm vụt "trôi" đến sát thuyền dòm cả bọn hất hàm hỏi:

- Chạy đâu gấp vậy? Phải bị bọn kia đuổi bắt?

Đoán người này là cao nhân dị sĩ chi đây, người chồng chắp tay thi lễ nói nhanh:

- Vợ chồng tôi bị mấy đám thù nhân đuổi gấp, mong ngài lượng thứ cho chúng tôi đi!

Người áo gấm rút bầu tu ực xong dòm thiếu phụ nheo mắt:

- Này, Trẫm hỏi thật, phải nàng là công chúa họ Bạc trên Tây Bắc đi trốn đó không? Chớ ngại, Trẫm không phải hạng người lùng bắt gái đẹp đâu!

Người vợ bối rối, xúc động, giây lâu nàng khẽ nói:

- Dạ... phải! Vợ chồng tôi bị nạn dữ, lại vừa sinh cháu bé giữa đường... cúi xin ngài mở lòng nhân đức bao dung, ân bằng trời biển!

- Chớ lo! Trẫm sẽ đuổi lũ đầu trộm đuôi cướp đó cho cô nàng! Hà! Tuy nhiên Trẫm với vợ chồng cô nàng cũng như bèo nước gặp nhau... Hà...

Người áo gấm đưa bầu vào miệng tợp một hớp, buông tiếp lời:

- Hà! Bèo nước gặp nhau, sau này biết bao giờ tái ngộ... Hà! Bởi thế Trẫm cũng muốn có một vật để giữ làm kỷ niệm! Hà, cô nàng nghĩ ra sao?

- Dạ, chẳng hay ngài cần chi? Người chồng vội đỡ lời hỏi.

Người áo gấm xưng "Trẫm" nói luôn:

- Vòng xanh! Gái Bạc tặng mỗ chiếc vòng xanh, mỗ cứu cho!

Hai vợ chồng ngạc nhiên nhìn nhau, thiếu phụ họ Bạc nhíu mày lẩm bẩm:

- Lại đòi vòng xanh! Vòng xanh! Chiếc vòng ngọc bích của ta có gì ghê gớm mà... sao cả mấy đám thù nhân với ông này đều quyết đòi lấy?

Nàng bảo người áo gấm:

- Dạ, bẩm ngài, gái này quả có chiếc vòng xanh, kỷ vật gia đình. Nhưng... nếu ngài đánh đuổi lũ ác nhân kia, giúp vợ chồng tôi thoát nạn... gái này xin biếu ngài làm kỷ niệm!

- Hà hà! Tốt lắm! Nàng đưa đây cho ta!

Người áo gấm gật lia vẻ mừng rỡ lạ thường, đưa tay ra. Thiếu phụ cúi lần tìm chiếc vòng. Thình lình mặt hồ cuộn sóng ầm ầm, nhô cao đến mấy thước rồi "ầm" một tiếng, nước tóe rộng cầu vồng văng ra mấy hướng, mạnh đến nỗi chiếc thuyền nan cùng người áo gấm bị hất dạt ra hai phía. Nước trùm cả đầu cổ mặt mũi mấy người ướt sũng. Từ dưới đáy hồ, một hình thù quái gở theo con sóng vọt lên cực kỳ mãnh liệt, bốc hẳn khỏi mặt nước đến ngót hai thước, rồi rơi ùm xuống. Hình thù rất to lớn, dài ngoằng, đầu to như cái thúng, mõm ngoác rộng đỏ như chậu máu, mắt cũng đỏ khé, nanh nhe dòm mấy người trông mười phần hung tợn, khủng khiếp.

- À, rồng nước! Con rồng nước này lớn thật!

Người áo gấm bật kêu lớn.

- Thằng sâu rượu mắt mù! Hà! Cả đời mi chưa thấy Giao Long sao? Hà, ta là chúa Giao Long thần Hồ Ba Bể đây! Hà hà!

Con quái vật phun nước phì phì, phát âm tiếng người chờn vờn âm âm làm ai nấy rởn tóc gáy. Người áo gấm qua phút bỡ ngỡ, ngó kỹ con quái vật, trợn mắt quát:

- Láo! Con quái gớm ghiếc dưới vụng chui lên dám xưng Thần trước mặt Trẫm! Hừ! Mi là quái tinh hay người đột lối quái?

- Hà hà! Thằng sâu rượu ngốc nghếch! Chúa Giao Long trị tội nghịch thượng của mi rồi bắt gái họ Bạc sau!

Lời dứt, quái vật quất mạnh đuôi, xé nước xông tới. Người áo gấm lắc mình vọt lên không tránh, vung gậy đập xuống. "Bình" một tiếng, con Giao Long cùng người áo gấm đều bạt lùi mấy sải. Nó hét lên gai nhọn the thé:

- Hú hú! Thằng sâu rượu! Thần Hồ Ba Bể ăn thịt mày!

Người và vật lại xông vào nhau quần thảo. Nước hồ văng tung tóe, cuồn cuộn sóng. Người chồng vội bảo Nùng Kham:

- Chèo mau! Hai người đàn ông ra sức chèo thật nhanh. Thuyền vừa lao đi được hơn chục sải đã bị bầy dơi chặn lại. Người chồng rút súng bắn đuổi.

- Hà hú! Gái Bạc chạy đâu?

Bóng Hấp Huyết Quỉ Nương trắng toát lòa xòa lướt trên đôi cà kheo đã tới sau lưng. Vút! Vút! Hai mũi giáo cắm phập vào mạn thuyền. Con thuyền tròng trành muốn hất tất cả mấy người xuống nước. Nùng Kham cùng người chồng giương súng nổ. Đoàng! Đoàng! Mấy phát đạn sướt qua mình Quỉ Nương cà kheo, không trúng!

- À, hai thằng ngoan cố dám bắn nương nương! Cho chúng mày xuống âm ty, Hà hà!

Vút! Một ngọn giáo cắm ngập vào lưng Nùng Kham, nạn nhân thét lên đổ dụi xuống nước. Vút! Lại một mũi giáo cắm trúng đùi người chồng. Chàng ta cắn răng chịu đau rút ngọn giáo phóng trả Quỉ Nương. Thiếu phụ ôm chặt hài nhi, nước mắt chảy dài trên mặt hoa run giọng thảng thốt:

- Trời ơi! Chú Kham chết rồi! Anh ơi!

Người chồng mím miệng cố nén cơn xúc động bảo vợ:

- Nằm úp xuống em! Chàng ta cố sức chèo nhưng con thuyền bị mấy ngọn giáo, vết đạn xuyên thủng bên mạn, giờ nước đã bắt đầu tràn vào, nặng hẳn.

- Trời hại ta rồi! Anh ơi... thuyền sắp chìm! Thiếu phụ nhìn chồng tuyệt vọng than. Ngay khi đó, bỗng nghe tiếng gọi vang bay trên mặt hồ rộng đầy mưa gió.

- Vợ chồng gái đẻ đâu rồi... Chờ đó! Ta ra giúp một tay đây!

Tiếng nghe quen quen, người chồng bảo vợ:

- Nghe như tiếng... bà cụ người Dao trong quán khi nãy, em à!

Thiếu phụ chưa kịp đáp. Một bóng người hiện ra lướt tới. Bóng này đội một cái mũ rộng vành đứng trên một tấm ván, tay vung vẩy một sợi dây lưng điều quất xuống mặt nước theo đà vọt đi. Người chồng dòm sững, cả mừng ôm vai vợ:

- Đúng bà lão trong quán giúp em vượt cạn khi nãy rồi! Trời còn thương vợ chồng mình, em ơi!

Bà già lướt chếch tới đón đầu Quỉ Nương, sợi dây lưng điều từ tay bà vụt phóng sang loằng ngoằng quấn lấy cặp cà kheo. Hấp Huyết Quỉ Nương hét vang:

- À! Mụ già này là ai, dám gây sự với bản nương nương?

Đoạn vận sức chống lại. Rắc! Rắc! Cả cặp cà kheo gẫy đôi, đổ sụm. Quỉ Nương tung mình nhảy lên lộn một vòng rơi xuống là là mặt hồ, vừa chạm mặt nước liền đạp hai chân vào nhau nhảy thêm lần nữa. Tình cờ mụ lại rơi xuống gần chỗ người áo gấm đang quần thảo với Giao Long Chúa hồ.

- Hê! Mụ quỉ cà kheo định giúp Trẫm đánh con quái nước này chăng?

Người áo gấm cả cười hỏi. Quỉ Nương rơi tõm xuống nước, ngoi lên ướt sũng mắng:

- Hừ! Thằng sâu rượu Tửu Chúa! Nương nương đi bắt gái Bạc, mi cứ ở đó làm mồi nhắm cho thuồng luồng tinh!

Giao Long chiếu hai tia mắt đỏ khé nhìn Quỉ Nương cà kheo, nó phát cười âm u:

- Hà hà! Con mẹ cà kheo kia cũng đòi bắt gái Bạc của ta! Chúa Giao Long ăn thịt mi!

Nó xé nước lao tới thò vuốt chụp mũ Quỉ cà kheo. Mụ lật đật vung trảo đánh trả. "Bình"! Nhát trảo Quỉ Nương đánh trạm ngực Giao Long. Nó chỉ hơi khựng lại chút nhưng mụ bị sức phản chấn đẩy lùi mấy sải, tức ngực muốn nghẹt thở.

- Hừ! Con thuồng luồng tinh này gớm thật!

Giao Long lại xông tới, nhưng người mặc áo gấm đã lướt chặn vung gậy đập:

- Ê, Quỉ cà kheo! Hai đứa đánh một chẳng chột cũng què! Ta với mụ cùng hợp sức trị con quái nước này đã!

Cả ba tụm lại đánh nhầu. Giao Long Chúa tuy phải chống hai địch thủ cùng lúc nhưng nó vẫn không hề nao núng, tả xung hữu đột không để Tửu Chúa áo gấm và Quỉ Nương chiếm thế thượng phong. Trong lúc đó, bà già người Dao đã tới bên mạn thuyền. Thuyền ngập nước đến nửa, sắp chìm, hai vợ chồng phải bồng hài nhi đứng lên.

- Mau ra khỏi thuyền, nắm lấy dây lưng, ta kéo đi cho! Đưa đứa bé cho ta ẵm!

Người chồng xốc vợ, níu chặt sợi dây lưng điều, bà già địu đứa nhỏ sau lưng, đứng trụ một chân trên miếng ván chân kia thò xuống khua một cái. Miếng ván lướt đi mấy sải kéo căng sợi dây điều lôi theo hai vợ chồng cùng đứa hài nhi. Cứ thế giống như người ta kéo chiếc xe chạy trên mặt đất.

Bỗng từ phía trước mặt lù lù xuất hiện năm, sáu chiếc thuyền lố nhố đầy bóng người súng ống tua tủa.

- Bạc công chúa! Đừng dại dột chạy trốn vô ích!

Bà già người Dao thở phì cay đắng:

- Trời cao vô tình, không biết xót thương gái đẻ xấu số! Chúng chặn đường ra đảo rồi! Khốn thay!

Bà ta chuyển hướng kéo hai người lướt chênh chếch về bên tả. Hai vợ chồng thiếu phụ bám giây lòng nóng như lửa đốt. Nhưng vượt chừng năm mươi sải đã lại thấy mấy chiếc thuyền xa xa án ngữ phía trước. Người chồng ý thức cảnh "đường cùng, sức kiệt" vùng bảo vợ:

- Hết đường rồi, em ơi! Chỉ thương con trẻ mới ra đời đã chịu chung nghiệt số!

Giọng chàng ta buồn đến nát lòng. Thiếu phụ mím miệng, gạt nước mắt:

- Anh! Anh nên... thoát đi một mình... mặc mẹ con em!

- Không! Anh thà chết không bao giờ rời em! Anh... một thân nam tử trượng phu mà không che chở nổi vợ con thì... còn sống làm gì trên đời thêm nhục!

Thiếu phụ nép đầu vào ngực chồng thổn thức. Bỗng một loạt đạn chíu chíu trốc đầu rồi "phựt" một tiếng, sợi dây lưng điều nối liền bà già với hai vợ chồng đứt rời ra.

- Chúng bắn đứt dây kéo rồi, Trời!

Bà già đảo vòng lại chỗ hai vợ chồng quăng đoạn giây bảo người chồng cột lại. Thiếu phụ như linh cảm phút nghiêm trọng sắp đến, kêu lên nức nở:

- Cụ ơi! chắc không thoát nổi đâu... chúng vây kín mấy mặt rồi! Cụ thương giùm đứa nhỏ... Gái này nguyện nghìn kiếp không quên ân đức!

Nàng lấy trong áo ra một túi vải lớn hơn bàn tay chút đưa bà già giọng nghẹn ngào:

- Cụ ơi! Đây là vật kỷ niệm của gái xấu số này, một sợi dây chuyền nửa mặt đồng tiền và chiếc vòng xanh... xin cụ ra ân trời biển!

Bà già khịt mũi, hừ nhỏ, vẻ đau khổ xúc động lẫn tức giận nhìn xung quanh:

- Hừ! Lũ chó! Nói gở miệng, nếu gái đẻ chẳng may có bề gì, ta sẽ nuôi dạy con nhỏ nay cho đến trưởng thành! Đủ sức trả thù cho cha mẹ... Đừng lo chuyện đó! Giờ thử cách nữa xem sao! Gái đẻ biết bơi, lặn không?

- Dạ, biết! Thiếu phụ định vùng khỏi tay chồng. Bà già xua tay:

- Ta hỏi cho biết thôi! Mi vừa sinh đẻ không nên dùng sức nguy hiểm đến tính mệnh! Chồng mi sẽ kè mi bơi và lặn sâu xuống vượt qua vòng vây, khi đó ta sẽ cầm chân bọn chúng trên mặt nước! Nào, theo ta! Buông giây để chúng khó nhận ra! Nếu thoát sẽ gặp lại tại Chapa vào tuần trăng tới!

Bà già lướt về thuyền địch. Người chồng cặp vợ bơi theo rất êm. Cả hai chỉ hơi nhô đầu khỏi mặt nước để thở. Đến cách thuyền địch chừng ba mươi sải, bà già ra hiệu cho hai người lặn sâu xuống.

- Bọn kia, chúng mày là đám nào? Sao muốn bắt gái đẻ họ Bạc? Nói ta nghe!

- Bạc công chúa mang vòng xanh đâu rồi, mụ già? Nãy mụ vừa kéo, giờ đâu?

Lao nhao từ mấy chiếc thuyền nhiều tiếng cất lên đủ giọng Kinh, Tày, Trung Quốc... bà già người Dao cười thét:

- Tìm đi! Không chừng gái đẻ sa tay thuồng luồng tinh hay bọn Tửu Chúa, Quỉ cà kheo rồi!

Nhiều tiếng lao xao bàn tán. Chợt một gã đầu trọc cao lớn như hộ pháp trỏ bà già kêu lên:

- Kìa! Mụ già có địu đứa con nít sau lưng. Hầy! Chắc đứa nhỏ Bạc công chúa mới đẻ rơi dọc đường!

- Anh em, bắt lấy mụ! Mụ dám giữ vòng xanh trong người lắm đó!

Đạn bắn líu chíu mấy phía. Bà già vừa di động nhảy nhót, bắn trả vừa dụ chúng đuổi theo.

Chừng đoán vợ chồng thiếu phụ đã lặn khỏi vòng vây, bà già tăng tốc lực, lướt vùn vụt trên mặt hồ theo hình chữ "chi".
Thình lình, một tiếng "ầm" khủng khiếp vang lên khiến bà già phải quay lại dòm. Ngay hướng vợ chồng thiếu phụ lặn trốn vừa nãy, một cột nước khổng lồ bắn tung tóe, rồi con Giao Long Chúa vụt nhô lên cười thét lồng lộng, hai chân trước nó túm chặt hai người, một nam một nữ bêu lên. Chính là vợ chồng thiếu phụ vừa nãy!

- Trời ơi! Vợ chồng gái Bạc xấu số! Tội nghiệp! Tội nghiệp!

Bà già thở phì, lắc đầu. Ngay lúc Giao Long Chúa vừa bắt được con mồi, lập tức cả mấy đám săn đuổi Bạc công chúa liền đổ xô lại. Bọn Tửu Chúa, Quỉ cà kheo cũng ào tới. Cuộc hỗn chiến nổ ra dữ dội trên mặt hồ, sóng cuộn ầm ầm, đạn bay chi chít, tiếng la hét vang động khắp một vùng. Mỗi lúc càng thêm nhiều kẻ kéo đến tham chiến.

Bà già người Dao định quay lại, chợt nghe tiếng đứa hài nhi khóc oe oe sau lưng, đành hậm hực thở dài, quài tay ra sau vỗ về nó:

- Nín đi! Nhỏ con! Ta sẽ nuôi nhỏ con khôn lớn, dạy dỗ thành tài, mai sau trả thù cho cha mẹ! Nín đi! Ta chỉ có vú da, ta sẽ kiếm cho nhỏ con hai bầu sữa!

Dứt lời, cố nén mối bi hoài, lân mẫn, bà già lắc mình nhắm hướng bờ hồ lướt vào.

Mưa đã tạnh, trời đang tối dần. Trên bờ không một bóng nhân mã. Bà già tìm chỗ dấu ngựa, lên yên, ra roi phóng đi. Bóng người địu đứa nhỏ sơ sinh trên lưng hút nhanh vào bóng tối.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:43:08 | Xem tất
                                                                           Hồi Thứ Ba

                                                             Một Oan Hồn Đi Tìm Dĩ Vãng

Mười bảy năm sau...

Một đêm trung tuần... mùa thu muộn.

Gió vàng hiu hắt...

Chuyến tàu hỏa Hà Nội - Lào Cai dài dặc cuộn mình quẫy khúc khạc lửa chạy trên thiết lộ như con quái vật từ đời tiền sử hiện về lồng lộn chồm ngược miền sơn cước.

Chợt quái vật ré lên một hồi vang thé, dừng trước ga Vĩnh Yên, hai con mắt quắc đèn pha chiếu xa hàng cây số, đứng thở phì phì, hồng hộc, mở mang cho hành khách chui vào bụng.

Chuyến tàu đêm nay vào dịp vùng sơn cước có nhiều phiên chợ, lại vào độ Trung Thu, nên đông hành khách, chen chúc nhau, tay xách nách mang tấp nập hết sức. Lại có người mang theo cả đầu sư tử giấy, đèn kéo quân, trống. Mấy phút sau, con quái vật lại rú lên khạc, chuyển bánh.

Bỗng có một chàng trai dân tộc từ đâu lừ đừ đi vào chỗ bán vé. Quần áo chàm sờn vai đã rách một đường chưa vá, đeo một cái giỏ mây sau lưng đựng vật dụng lâm sản chi đó, lại cắm cả ống bương như đòn gánh, ống đựng nước, mật ong chi đó chắc coi biết ngay người trên núi "mới xuống chợ" mà hình như xuống lần đầu thì phải. Vì chàng này còn vẻ bỡ ngỡ vừa đi vừa nhìn quanh xem chừng lạ mắt lắm.

Chàng trai còn đội một cái nón bằng mây đan, có điều hơi lạ là tay còn cầm một cái ô dù cúp, lúc chống, lúc cắp nách, coi ai cũng đoán dân nhà gác xuống chợ, mua chơi. Chàng trai ngó ra đường sắt, và bước tới cửa hông. Một nhân viên nhà ga vừa đóng cửa, quay vào thấy hỏi luôn.

- Chú này đi đâu?

Chàng trai đáp bằng tiếng sơn cước:

- Đi tàu hỏa! Phải cái tàu hỏa đi lên mạn ngược?

- Ồ! Muộn rồi! Tàu vừa chuyển bánh! Không nghe "xíp lê" à? Đi đâu trễ thế, chú mày?

Chàng trai ghé mắt dòm ra vẻ vội:

- Trên rặng Ngân Sơn Tam Đảo vừa xuống. Định đi Yên Bái. Mở cửa giúp! Có việc cần, không đợi mãi được!

Chàng trai này nói trống không, chẳng ra hẳn "dân rừng" cũng chẳng ra xấc xược, nhưng giọng y nói vừa đủ nghe, lại âm vang sang sảng tự như chuông gióng, vừa nói chàng vừa lau bụi đường trên trán, lật nón ra đàng sau, ánh điện vàng khè chiếu vào mặt y, khiến nhân viên nhà ga này vừa định phá lên cười, chợt im bặt, vì bộ mặt người núi này vừa ló ra, lại khác hẳn bộ dạng nghèo của y, làm nhân viên này phải sửng sốt. Đó là một khuôn mặt rất điển trai, đặc vẻ thư sinh, dẫu trai sang thành phố, hoặc con cái tiểu vương lãnh chúa cũng khó có kẻ sánh kịp! Nhưng lại là một dung mạo điển rất lạ tuy sáng như trăng rằm, nhưng lại phảng phất nét buồn sâu thăm thẳm, một thứ buồn cô độc, u uẩn mang mang, cộng thêm nét đặc biệt của người thâm sơn quen sống với đèo cao dốc vát, thác gầm, thú sống, khiến khuôn mặt chàng trai này như tẩm tráng một lớp băng lạnh khô, coi lầm lì, gan góc, khắc khổ, đơn côi bi thẳm và "bí ẩn rừng rú" lạ!

Kẻ tinh mắt còn có thể thấu được trong cái vẻ điển rừng thiêng u uẩn vẫn toát ra nét bình nguyên chập chờn ẩn hiện như từ tiềm thức ánh lên mắt khiến ai trông thấy cũng chột dạ, nể ngay!

Nhân viên nhà ga liền mỉm cười dịu dàng bảo:

- Tàu chạy kia rồi! Đành đợi chuyến sau vậy thôi! Tiếc quá!

Chàng trai nhìn ra. Tàu hỏa sình sịch rời sân ga giữa hồi còi rú.

- Thôi! Kiếm nhà trọ vậy! Giờ thì có ngựa xích thố cũng không kịp nữa!

Ông ta thân mật vỗ vai chàng trai, bỗng giật thót mình, chợt thấy chàng trai rút ra một đồng bạc "xòe" dúi vào tay ông ta. Và nắm "y môn" mở giật cửa. Quả nắm tụt luôn ra, y đẩy nhẹ một cái "xoảng". Cửa bung sàn xi măng, chàng trai chạy thốc ra khiến mấy người nhà ga trố mắt, há hốc mồm, chạy khỏi sân ga năm bảy chục thước, khi chàng trai chạy ra tới ngoài chỉ còn thấy tàn than tới tấp bay lại, đuôi tàu đã vụt xa. Trong vùng sáng tối nham nhở, mọi người còn thấy bóng chàng trai kia xách dù, đeo giỏ chạy theo, thoắt, chợt thấy, tít xa, cái bóng vọt lên nóc toa như con chim cắt.

Có nhiều tiếng người kêu kinh ngạc. Con quái vật thở phì phì, mất dạng trong trăng sương tàn than đỏ bay lả tả.

Chàng trai đã đứng trên nóc toa cuối, xốc lại giỏ, lật nón úp lên, chàng trai sơn cước này chống dù, đi lên phía toa hành khách, như đi trên đường. Chừng lần đầu đáp xe hỏa, chàng trai rừng có vẻ thích thú lắm, nhưng cũng không có vẻ ngơ ngác lạ lùng nhiều, chừng cũng hiểu qua "con quái vật thời đại" này trước khi xuống núi.

Mấy phút sau, chàng trai lần xuống một toa ít hành khách. Đây là toa hạng ba sát toa hạng tư lố nhố đầy người. Trong toa chỉ độ hơn chục người, phần nhiều khách Tây, đầm Tàu, Ta, Ấn lẫn lộn, thấy chàng Thổ áo rách vào, tất cả đều ngó ra chỗ y ngồi, nhưng cứ mặc.

Chàng trai không nhìn ai, kiếm một góc, bên cửa sổ, nhìn ra.

Nhưng chỉ vài ga, y đã quay vào, ngồi bâng khuâng, mắt mở trừng, như nhìn vào cõi xa xăm nào. Rồi khép mắt lại, cái giỏ vẫn đeo lưng, lại lấy nón đội sụp mặt.

Đêm vào khuya dần. Tàu qua Việt Trì, chạy xuyên rừng Phú Thọ. Bỗng một bọn năm người lực lưỡng từ bên toa hạng tư chuyển sang ngồi một góc. Bọn này mặt mày dữ tợn, khiến đám hành khách Tây, ta phát rợn.

Riêng chàng trai vẫn nhắm mắt ngủ rồi, không buồn để ý đến ai. Bọn lạ kia toàn mặc quần áo đen, thỉnh thoảng lại kín đáo dòm hành khách sang trọng đeo đầy nữ trang.

Trăng soi vằng vặc nóc tàu. Đường sắt chạy giữa vùng đồi núi điệp trùng, tiếng bánh sắt lăn cành cạch, đơn diệu, ru ngủ. Rừng cây chạy lùi lại cửa sổ. Một người Tây thấy lành lạnh, đứng lên vừa định kéo cửa, chợt một tên mặt sẹo bỗng đến đứng bên, lôi ra một chiếc đèn bấm "tách" thò hẳn tay ra khoa tròn. Người Tây này lấy làm lạ hỏi, hắn không đáp, bèn bước vào.

Một người soát vé bước vào trong toa, tiến lại hỏi vé chàng áo rách cùng bọn áo đen.

Tên mặt sẹo xòe tay chặt một nhát vào gáy người soát vé, anh gục luôn xuống.

- Ngồi im! Hauts les mains - Ngồi im!

Bọn lạ cùng đứng vụt lên, chĩa súng vào hành khách. Tất cả thất kinh, biến sắc, tên mặt sẹo rút trong mình ra một chiếc roi da, một người Tây vừa rút súng trong túi ra, đã bị hắn quất véo rớt liền.

- Muốn sống ngồi im! Cựa quậy tao bắn vỡ sọ! Đứa nào có đồ nữ trang, vàng ngọc cởi mau!

Có mấy phát súng nổ giữa tàu:

- Cướp tàu! Cướp tàu!

Hành khách sợ hết hồn, nhốn nháo kêu la inh ỏi, toa nào cũng có một hai tên dữ tợn đứng xổ lên, chĩa súng lột hành khách.

Chàng trai mở mắt ra nhìn, trong toa, đám hành khách sang líu ríu trút hết đồ nữ trang bỏ vào chiếc mũ da cũ của tên sẹo mặt. Đồng bọn hắn có hai tên vọt toa khác, còn ba tên. Bỗng tên sẹo mặt quơ mớ nữ trang sức vàng bạc ném vào mặt hành khách quát:

- Vòng ngọc thạch! Dây chuyền đồng tiền vàng! Tao cần hai món đó! Đứa nào có tháo nộp mau!

Đám hành khách đàn bà chỉ có ba người đeo vòng ngọc xanh, nhưng chỉ có một người đeo đồng tiền trắng, cuống cuồng tháo nộp liền. Nhưng một người đàn bà Tàu mập, vòng đeo từ nhỏ tháo mãi không được, tên mặt sẹo hất hàm lạnh nhạt như đồng:

- Tháo giúp! Cái bàn tay!

Vừa truyền, hắn vừa xòe bàn tay hộ pháp ra hiệu chợt lập tức một tên đồng bọn sấn tới, rút soạt trong mình ra một cây đoản đao, túm tay người đàn bà chặt nghiến.

Hành khách hết vía, trợn xanh mắt, rú lên, chỉ thấy ánh thép nhấp nhoáng trốc đầu tên áo đen, giữa tiếng hét ghê rợn, ai nấy dòm vào đã thấy một bàn tay rụng dưới sàn toa, giẫy đành đạch như đuôi con thạch sùng! Máu tóe phọt, người đàn bà khách đứng há hốc mồm, trố mắt, dòm tay mụ còn nguyên mới hoàn hồn.

Tên áo đen rú nhào và đoản đao văng mất, tên mặt sẹo trợn mắt sững sờ dòm quanh, không biết ai chặt vì không ai lại gần tên kia.

Ngồi một xó bên cửa sổ, chàng trai hỏi:

- Sao không cướp vàng bạc, đồ dùng, kim cương, chỉ đòi lấy vòng ngọc, dây đồng tiền?

Tên sẹo hét:

- Đứa nào chém? Dân rừng! Câm họng! Không phải việc mày hỏi?

Chàng trai hỏi đến lần thứ hai, chợt phất vụt tay áo một cái. Dưới ánh điện đục ngầu, chỉ thấy loáng một luồng sáng đảo vòng cầu, cây súng của hai tên kia đã bị dứt đôi. Lẹ như chớp chàng trai vọt lại dí dao liễu vào hỏi chìm:

- Nói tao biết... sao chỉ cướp hai thứ đó? Ai sai bọn mi đi vét vòng ngọc, dây đồng tiền trên tàu?

Hai tên lực lưỡng không ngờ chàng trai áo rách kia lại có bản lĩnh ghê đến thế, hai tên chưa ra nổi một đòn đã bị khóa cứng, tên sẹo căm giận mắng:

- Dân rừng! Đừng hỏi phí lời! Bọn tao có biết cũng không nói đâu!

Không nói thêm, chàng trai rừng túm ngực quăng cả hai tên ra ngoài cửa sổ!

Hành khách trố mắt, vừa mừng vừa kinh dị, chàng trai sang toa khác. Mười phút sau nghe có mấy tiếng súng nổ, nhiều bóng đen vọt tuôn xuống hai bên đường sắt giữa đám tàn than bay lập lòe.

Rồi đoàn tàu hết nhốn nháo kinh hoàng. Toa nào hành khách cũng xúm nhau bàn tán về đám cướp lạ đời chỉ đòi lấy hai thứ và ai nấy còn chưa dứt sững sờ kháo nhau về chàng trai thiểu số phi thường một tay đánh ra bọn cướp dữ mang đầy súng ống rồi biến mất như cơn gió thoảng. Có kẻ mê tín nhất định cho là sơn thần hiện về cứu nhân gian.

Riêng toa hạng ba vẫn còn bàn tay tên cướp để lại. Hành khách lè lưỡi dòm phát khiếp, xôn xao đi kiếm chàng trai người dân tộc.

Không ai ngờ chàng trai kỳ lạ này vẫn còn trên tàu. Y ngồi thu mình trong toa hàng hóa vẻ mặt vẫn buồn lạnh như lúc mới lên ga Vĩnh Yên. Xem chừng y lại buồn hơn nữa. Y ngồi nhìn ra rừng khuya trên ngọn đồi đỉnh núi mờ trăng sương.

- Sao chỉ cướp vòng xanh, tiền vàng? Sao thiên hạ nhiều kẻ quyết tìm đoạt vòng xanh, tiền vàng? Thứ của ta có quan hệ gì đến dĩ vãng không? Dĩ vãng? Hừ! Không dĩ vãng, con người sống nổi chẳng? Mới lọt lòng đã xa mẹ lìa cha... xa cội nguồn...

Y giơ cánh tay trước ánh trăng mờ, lẳng lặng vén tay áo chàm rộng. Cổ tay y có đeo một chiếc vòng xanh điểm huyết kín đầy!

Y nhìn giây lâu, đoạn lặng lẽ buông tay áo xuống, ngồi nhìn vầng trăng vun vút trôi theo con tàu đêm coi cùng mang mang u uẩn lạ.

Bỗng con quái vật dừng lại, thở phì phì phun khói đục dưới ánh điện ngầu đục. Chợt có một bọn phu khuân vác lên toa, dỡ hàng, y liền hỏi:

- Sắp tới Yên Bái chưa?

- Mê ngủ à? Yên Bái đây chớ đâu? Phải chú mình "lậu"?

Bọn phu cười hô hố. Chàng trai mắt sáng hẳn lên xách dù xuống đi vào ga.

Khách ra vào mãi chen chúc, tay xách nách mang, không ai kịp lưu ý tới. Nhưng khi chàng trai lạ lùng này ra đến chỗ buồng bán vé, đám hành khách cùng xuống đứng lại nói chuyện với đám thân nhân ra đón, ai nấy chưa hết kinh hoàng, trầm trồ kể lại vụ cướp tàu. Có mấy người thấy chàng trai nhận ra ngay, giật mình sửng sốt kêu lên.

Chàng trai nhìn cảnh thân nhân đưa đón nhau đầm ấm, đang ngậm ngùi nghĩ đến cảnh cô độc của mình bỗng lại bị thiên hạ đổ dồn mắt nhìn, chàng có dáng không vui vội bỏ đi vào phố. Vừa đi vừa đưa mắt nhìn cảnh phố xá Yên Bái về khuya nằm bằn bặt dưới ánh đèn diện vàng hoe mang trên thân dáng cả đường nét quạnh hiu cảm khái của trị trấn sơn cước.

Miền quê cha đất tổ đây... Biết đâu mẹ ta không đẻ ta tại nhà thương Yên Bái này? Biết đâu đây chẳng phải là nơi chôn rau cắt rốn ta? Vì như lời ân sư dặn, đồn điền nhà ta chỉ cách Yên Bái năm, bảy cây chi đó, không dám để lỡ kỳ duyên, vừa đẻ xong, cha mẹ ta phải vội trao nhờ ân sư nuôi dưỡng mười bảy năm qua... Chẳng biết giờ đấng sinh thành ra sao? Còn sống hay đã mất, anh em trai gái thế nào?

Mà lạ thật! Sao ân sư không hé răng cho ta rõ về thân thế? Suốt mười bảy năm ròng, ta tưởng "người" là cha, ngày chia tay cuối cùng, "người" mới cho hay! Người họ Võ, đồn điền họ Võ trên đường Yên Bái, Lục Yên Châu, Tuyên Quang... Mà ta là Kinh hay dân tộc?

Nao nao, háo hức, khắc khoải, lo lắng, cô đơn. Chàng trai cứ lùi lũi đi trên vỉa hè loang lổ kiếm người hỏi thăm.

Chợt thấy một hàng "cà phê gánh" góc phố khuất, chàng ghé luôn vào gọi một ly, ngồi uống vẻ tự nhiên như tay vẫn sống dưới phố phường. Người bán cà phê là dân Kinh, trung niên, nước da sốt rét rừng, thấy chàng trai lạ uống cà phê, anh ta có vẻ cao hứng, vừa pha vừa hỏi:

- Chú đâu tới? Chà chà! Cà phê tay này pha, Tây đầm phải khen à! Chú hay uống không?

Nón vẫn đội sụp, chàng trai không đáp, chợt hỏi bất ngờ bằng tiếng Kinh:

- Bác ở tỉnh Yên Bái này, có biết đồn điền họ Võ không? Trên đường đi Lục Yên, Tuyên Quang!

Người lạ mặt nói đặc tiếng Kinh, âm sảng như chuông đồng khiến người bán cà phê sửng sốt ngó chòng chọc, nhưng mặt chàng khách khuất mờ sau vành nón loang lổ, người này tò mò hỏi:

- Chú kiếm việc! Ồ! Ở Yên Bái này mấy ai không biết đồn điền cụ Võ? Mới tháng trước, cụ còn cưỡi ngựa ra đây, ghé uống cà phê tay này mà!

Cả mừng, chàng trai vội hỏi dồn, người bán cà phê cũng tò mò hỏi lại:

- Chú đâu tới, chú hỏi có việc chi?

Chàng thật thà nói luôn:

- Tôi đi học xa về! Tôi là con! Tôi rời nhà từ lúc mới đẻ!

Vừa đáp vừa lột nón úp sau lưng, nhìn người bán cà phê, người này thấy bộ mặt điển trai, vùng kêu sửng sốt, vui vẻ hết sức:

- Trời! Thế ra cậu là Võ Minh Thần đây ư? Chà chà! Coi giống cụ như đúc à! Tưởng ai? Ôi chao! Cụ nhớ cậu quá chừng, cụ có nói với tôi mà! Nội trong đồn điền, ai cũng ra uống cà phê tôi à! Cả tỉnh này ai cũng quý cụ nhà!

Rồi y nói một tràng, đầy cao hứng, không khác người thân y mới về, khiến cho chàng trai kỳ lạ cũng vui lây. Hỏi được tin nhà sau mười bảy năm xa cách, chàng coi cũng đỡ cô đơn, nhưng có lẽ vì sống từ nhỏ tại cô sơn, chàng ta chỉ hơi nhếch mép cười vội hỏi thăm đường về đồn điền, đoạn cám ơn, trả tiền đi ngay, định về ngay. Nhưng vừa được tin nhà, chàng mừng rỡ vô hạn, lại thấy đêm khuya, nên kiếm nhà trọ nghỉ ngơi đã.

Sớm mai, mới tảng sáng, đã thấy chàng trai kỳ lạ này xách dù đứng ngay đầu đường đi Tuyên Quang. Con đường này nối liền Yên Bái - Lục Yên Châu - Tuyên Quang, nên khách Kinh, Thổ, Tàu thường qua lại, từ Yên Bái đổ vào, dọc đường từ cây số một, hai trở đi, có nhiều đồn điền, nên khách qua lại tấp nập, kẻ bộ, người ngựa, có nhiều loại xe ngựa, có loại bánh bơm chạy độc mã, song mã, hoặc loại xe ngựa chở hàng, rất thuận tiện, bánh gỗ vành sắt lót cao su đặc, là loại mã xa rất nhiều trên đường ngược.

Chàng trai lên một cái xe độc mã ngồi với mấy khách Kinh, Tàu, Mán. Ánh bình minh đỏ rực mái đồi, báo hiệu một buổi thu đẹp trời. Đường Yên Bái - Tuyên Quang từ tỉnh lỵ đi sâu mười lăm, hai chục cây số, đồi núi trập trùng khai phá trồng trọt nhiều, nhất đồi trà, nhấp nhô như đàn rùa phục vọng, coi đẹp phong quang thơ mộng hết sức. Đồn điền nối tiếp, giữa đồi cây như cam, quýt, kỳ đà phật thủ, chuối, dứa, suối nước uốn quanh, rải rác nhô cao những tà áo màu thành thị, bóng gái, trai cưỡi ngựa thấp thoáng giữa nền lá xanh, coi như những bức tranh chấm phá tươi mát như trong mơ.

Chàng trai bâng khuâng nhìn cảnh vật hai bên đường, tâm hồn như tận đâu đâu.

Xe ngựa qua khu đồn điền trà Đồng Lương, chừng hai cây, vừa lên một trái đồi đất đỏ, giữa một vùng đầy hoa lá xanh mướt, chợt thấy một bóng cưỡi ngựa từ dãy đồi tít trong phi rất nhanh về phía đường đá. Tới gần, mới rõ ra là một cô gái mặc sơ mi trắng, quần kaki cứt ngựa, khuôn mặt xinh đẹp nghịch ngợm hết sức. Nàng ta cắp một cây súng săn hai nòng vừa phóng ngựa, vừa cất tiếng hát véo von như tiếng chim oanh, dáng thanh tú như cánh bướm xuân vờn hoa vẻ rất yêu đời khiến cả hành khách lẫn chú xà ích cũng phải bật khen rối rít.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:47:04 | Xem tất
Chợt một con chim ngói bay vụt qua, nàng ta cắp súng vẫy một phát "đoàng", con chim sa xuống, làm mấy cô thôn nữ đang hái búp lá, cùng reo lên. Cô gái áo trắng cười khanh khách, lướt đến nhặt con gáy, tiếp tục tế ngựa bạch về phía đường cái. Thoắt nàng đã tới ngọn đồi, xế bên tả, đồi cao ngựa đang lên dốc quanh co. Có con suối chạy giữa kẽ đồi. Cô gái vừa lên đồi, lại bắn luôn con trĩ bay qua rớt xuống suối.

- Chà! Cô bắn giỏi dữ! Bắn được chim bay!

Chú xà ích reo lớn, cô gái gò cương, cho ngựa xuống suối, nhặt con trĩ. Ngựa vừa xuống đến nơi, cô gái vừa sà cúi thò tay toan nhặt con chim đuôi dài, bỗng từ trong lùm cây gần đấy lao vụt ra một bóng nhân mã xẹt xếch trước đầu ngựa bạch, bắn tóe nước, sà xuống nhón luôn con trĩ, vọt chếch chân đồi. Bất ngờ bị cướp mất chim, lại bị bắn nước vào mình, cô gái áo trắng cả giận, vùng ngoắt ngồi lên yên, giật ngựa rượt theo, vừa nạp đạn, vừa quát:

- Trả trĩ đây, không ta bắn!

Được mấy bước, vừa giơ súng, bỗng có một bóng nữa vọt ra, quăng vèo một sợi dây thòng lọng chụp nghiến ngang mình cô gái, siết lại cả hai tay. Bóng này rập dừng giữa suối, giật mạnh lôi nàng lại. Nhưng cô gái đã kịp xoay người lại, túm được sợi dây căng, níu cứng, khiến tên kia không bắt được. Nhưng tên cướp trĩ đã lộn phát ngược lại, định tóm, chỉ còn cách mấy sải, chợt có tên khác xông ra trợ lực.

Cô gái chừng có võ, nhưng ba tên kia không vừa, giằng co lúng túng, chỉ vài sải nữa là bị tóm trên đường đá, xe vừa tới ngọn dốc, mọi người kêu lên "cô kia bị bắt đến nơi" bỗng chàng trai hơi cau mày, vẻ khó chịu. Thấy ba tên lực lưỡng áp bức một cô gái, chàng thò tay phẩy một cái, hành khách nghe "véo" tiếng vút gió như xé lụa dưới suối, dây thừng đứt "phựt".

Cô gái tung luôn thòng lọng, vọt tới cầm tay súng quật liền, hai tên kia đang lôi bị đứt dây chúi hẳn người đã nghe "soạt" mảng vải trùm mặt bị liếm mất mảng lớn, thất kinh giạt cả ra ngơ ngác, suýt bị ăn báng súng, cả ba rút dao rừng xúm đánh cô gái, cô gái lồng ngựa múa súng săn chống cự; nào dè từ trong bụi, chợt có bốn tên nữa xông ra, quay thòng lọng chụp bắt, cô gái xẹt chạy ngoắt về phía đường cái.

Bọn kia bảy tên rượt theo. Cô gái chạy băng qua suối lao về nẻo có cây cầu sắt nhỏ bắc qua suối, nào ngờ, cách cầu chừng vài bộ, bỗng từ trên tàn cây có một tấm lưới tung xòe chụp xuống đầu mình, xiết chặt lôi lên, con ngựa cứ vọt lên đường, cô gái bị rút treo lơ lửng dưới tàn cây còn đang vùng vẫy thì bảy tên kia vọt tới, một hình thù giống dã nhân, đười ươi chi đó từ trên cây lao xuống cắp cả cô gái lẫn lưới vèo cái nó đã hạ chân đứng sau tên đi đầu, cả lũ cứ thế lao đi băng qua đầu cầu suối chạy như gió vào cánh đồng, đồi nương bên kia chân dốc. Đúng lúc chiếc xe ngựa đang đổ dốc, hành khách trố mắt kinh dị, cùng xà ích la lên, con ngựa bạch lúc đó đứng bên đường chồm hí, chàng trai giật roi xà ích, quất con ngựa kéo xe lao gấp xuống, làm hành khách sợ hãi kêu inh ỏi. Khi xe còn cách con ngựa bạch vài mươi bộ, chàng trai quăng vút người vọt khỏi xe hạ dính trên yên ngựa bạch thúc gót, rượt theo bọn bắt cóc. Xe ngựa hoảng dừng lại bên cầu, mọi người sửng sốt, nơm nớp.

Nhưng không tới năm phút sau, chẳng hiểu đánh đấm cách nào, chàng trai kia đã lộn ngựa lại, mang theo cô gái còn bị trùm kín trong lưới, dừng bên suối. Chàng ta tháo lưới, dúi vào tay cô gái, nói tiếng Kinh điềm đạm như không:

- Thôi! Giờ cô có thể về nhà! Bọn nó chạy hết rồi! Chắc nó rình bắt cô từ trước. Từ nay cô nên cẩn thận, chớ đi một mình vào rừng! Cô cầm tấm lưới này về chơi.

Dứt lời nhảy xuống đất, đi về phía xe ngựa, cô gái chưa dứt bàng hoàng đuổi theo, cám ơn rối rít, dòm tấm lưới trên tay, vẻ ngạc nhiên thấy kẻ cứu mình là một chàng trai nói thạo tiếng Kinh. Nàng cố gặng hỏi, chàng trai đã lên xe, dịu dàng bảo:

- Tôi có việc gấp, xin kiếu từ. Tôi phải tới đồn điền họ Võ ngay!

- A, đồn điền họ Võ? Cách đây mấy cây số nữa thôi. Ông tới có việc gì ạ!

- Về thăm nhà! Mười bảy năm nay, tôi mới về!

Xe ngựa chạy lộc cộc, cô gái còn nhìn theo, mãi mới bỏ đi.

Hành khách cùng ngồi xe ngựa thấy đều kinh ngạc, ngó trộm chàng trai kỳ lạ nhưng chàng ta lại thản nhiên ngồi như có vẻ không để ý nhiều đến chuyện cô gái bị bắt cóc vừa qua.

Xe ngựa chạy qua những vùng đồi nương thật đẹp, qua vùng đồn điền chợt chú xà ích quay lại hỏi:

- Tới đồn điền họ Võ rồi, có ông bà nào xuống đây không?

Chàng trai cả mừng bảo xe ngừng, trả tiền đoạn xách dù, theo lời chú xà ích chỉ dẫn, chàng ta rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng, hai bên trồng toàn trầu, đi khoảng trăm thước, chàng dừng chân bên một cầu gỗ, đưa mắt nhìn quanh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:48:52 | Xem tất
Nương đồi trùng điệp, quang đãng, cây cỏ tốt tươi, ngay trước có một cái cổng gạch, xa trong đường đỏ quanh co, ẩn hiện nhiều tòa ngang dãy dọc, dãy lợp lá, tường xây gạch, bóng người, bóng ngựa, bò, trâu, gà, vịt thấp thoáng, nhác coi rõ một trang trại sầm uất nhất nhì trong miền.

Chợt có một tốp năm, sáu người mặc quần áo nâu, quần áo chàm từ trong đi ra, tay cầm dao quắm, cào, cuốc... đi làm rẫy, người nào cũng khỏe mạnh rắn rỏi, chàng trai vội đón lại hỏi:

- Phải đây đồn điền họ Võ không các bác?

Một người nhiều tuổi, ngó chàng chòng chọc, vẻ ngạc nhiên:

- Chú đâu tới? Vâng! Đây đó! Chú không thấy chữ trên cổng kia sao? Chú hỏi ai trong đồn điền?

- Tôi hỏi cụ chủ họ Võ, cha tôi! Tôi đi học mười bảy năm nay mới về!

Cả bọn tá điền sửng sốt ngó nhau, cùng kêu lên, người đứng tuổi mở to mắt, vẻ kinh sững:

- Trời! Phải chú... Cậu hai nhà đây ư? Cậu Võ Minh Thần? Trời! Cả nhà đợi cậu mười bảy năm rồi! Cậu về chắc cụ mừng lắm! Cụ không được mạnh hơn tháng nay... Mà sao câu lại ăn mặc... Lạ vậy?

- Tôi ở núi!

Người đứng tuổi lập tức cùng bọn lực điền dẫn chàng trai có cái tên chính chàng cũng chưa hay, lộn vào trại. Quanh co đi sâu, cuối cùng băng qua một khu vườn rộng, lên một trái đồi có căn nhà gạch hai tầng ngang sườn ngoảnh mặt hướng Đông. Đồn điền khá nhiều người, đàn ông đàn bà đều dồn mắt ngó chàng.

Trước thềm có cái vườn hoa đẹp, có một ông lão Tàu râu quai nón đang ngồi ngậm một cái ống điếu dài bên ngọn giả sơn, vẻ trầm tư.

- Kia... chú Trưởng Sềnh! Tay chân thân tín của cụ nhà, làm quản lý cho cụ đấy! Mấy năm nay, tự nhiên lòa mắt, thường chỉ quanh quẩn hầu cụ! Chú giỏi lắm, một mình chú có lần đánh tan cả bọn cướp rừng!

Chàng trai theo người đàn ông ra chỗ lão Tàu. Lưng xoay lại, chợt lão hỏi:

- Ai đó? Tư Cán!

Chàng trai chịu lão thính tai, người có tên Cán vừa rảo bước lại nói to:

- Chú Trưởng à! Có cậu Hai mới về! Cậu Võ Minh Thần đó! Mười bảy năm...

Không hiểu sao, tự nhiên lão khách giật bắn người lên, đánh rớt cả ống điếu, quay mặt lại đứng sững, mở to cặp mắt nhìn, thân thể lão run bắn lên, vẻ xúc động mãnh liệt, lắp bắp kêu giật bằng tiếng Quảng Đông:

- Đâu? Cậu Võ...? Mười bảy năm... Cậu bé đã về! Trời! Thật ư?

Chàng trai thấy lão khách rớt ống điếu vội bước lại, cúi nhặt đưa cho lão, dòm kỹ mới rõ mắt lão lòa thật, mắt có màng trắng che phủ, có lẽ chỉ hơi thấy hình dạng, lão sờ soạng đỡ ống điếu quơ nắm lấy hai vai chàng trai năn nắn, sờ sờ, miệng lắp bắp như nói một mình:

- Cậu... cậu Võ... Mười bảy năm mới tìm về đây. Nếu đúng, cậu phải có đeo cái vòng, sợi dây tiền gẫy.

Chàng trai cầm tay lão để vào cổ mình và trên cổ ngực, hai chỗ đeo vòng xanh và sợi dây nửa tiền vàng. Lão khách sờ thấy, vùng ôm lấy chàng, rung động:

- Đúng rồi! Đúng cậu! Mười bảy năm mới về! Trời còn thương người lành!

Vào đây mau! Cụ đợi mười bảy năm rồi! Thôi! Tư Cán xuống bảo giết lợn gà vịt làm mừng cậu về... mau! Cho anh em nghỉ việc ngày hôm nay!

Tư Cán hớn hở cùng bọn lực điền xuống đồi, lão khách dắt chàng vào nhà, lão có vẻ mừng cuống đưa chàng trai lên thẳng cầu thang gác. Chàng trai nhìn quanh thấy bày biện rất cổ kính, với những tủ kính sập gụ, hoành phi câu đối, ghế đá... có cả đồ "bát bửu", trên tường treo nhiều kiểu khí giới cổ kim coi rất nghiêm trang. Có hai, ba người trung niên vừa ta vừa Tàu, dân tộc qua lại, thấy chàng trai lạ, đều cúi đầu chào lễ phép, lão khách đẩy cửa một căn phòng im vắng, đưa chàng trai vào.

Phòng ít ánh sáng, có một ông già nằm rên, sập lót da báo, ngửa mặt trông trần nhà vẻ trầm tư. Ánh sáng yếu ớt chiếu vào bộ mặt già nua, hom hem, nhưng vẫn phảng phất nét quắc thước của kẻ từng xông pha lăn lộn. Thấy động, ông già này ngoảnh mặt ra, không chậm nửa khắc, lão khách dắt tay chàng trai vào, nói luôn:

- Cụ chủ à! Cậu nhà đã về đây! Cậu mười bảy năm xưa, cậu đeo vòng tiền gãy... ngày xưa trên biên giới.

Đang thở mệt nhọc, như có mãnh lực dị thường xô đẩy, hai con mắt mở to vừa mừng vừa sững sờ cực độ, hai tay chới với, kêu run.

- Trời! Con đấy ư? Con... theo thầy học võ... mười bảy năm đã về đấy ư? Ôi trời còn tựa người oan khuất! Còn cho ta được thấy đứa nhỏ ngày xưa.

Lão khách bảo khẽ "cụ nhà đấy", chàng trai ngó sững và lao mình vào, một già một trẻ ôm chầm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, tự nhiên mắt già mắt trẻ cùng ứa lệ ròng ròng.

- Con... cha đợi con suốt mười bảy năm dài... chỉ lo chết đi không được gặp lại.

- Cha... mười bảy năm liền con vẫn tưởng ân sư là cha đẻ, hôm chia tay cuối cùng, người nói cho con hay...! Ngày xuống núi con chỉ lo không còn thấy cha mẹ...

Chàng trai dìu cha cùng ngồi bên mép sập, hai người nhìn nhau qua màn lệ, như muốn ngắm kỹ diện mạo nhau sau mười bảy năm xa cách, chàng trai rung lời:

- Khi ân sư cho biết, con lo nghĩ vẩn vơ, ngờ có chuyện bí ẩn khác thường, nay gặp cha con mới yên tâm! Suốt mười bảy năm "người" chỉ lo dạy bảo, đến buổi chia tay "người" chỉ bảo: Ta không phải cha ruột con đâu! Hãy về tìm cha tại vùng Yên Bái, đồn điền họ Võ trên đường đi Lục Yên Châu! Cha con đang đợi! Thế thôi! Hỏi gì thêm "người" cũng không nói, làm cho con càng lo sợ vẩn vơ! Mẹ con đâu?

Tự nhiên, ông già bảy mươi họ Võ giật mình chớp mắt, từ từ buông chàng trai ra, mặt trầm hẳn lại, đưa mắt nhìn lão khách vẫn đứng giữa cửa, đang chấm nước mắt.

Chàng trai nhìn ông già. Bộ mặt lão vụt thay đổi hẳn như vừa có một đám mây mờ dĩ vãng kéo về coi cực kỳ thê lương. Lão ngó lão khách rồi đưa mắt nhìn qua khung cửa kính xa xa in hình rặng núi xanh đẫm ánh nắng sớm thu, như chìm về tận cõi xa xăm cách mười mấy mùa lá rụng.

Chợt lão rùng mình liền mấy cái, đưa tay ôm lấy mặt, thở dài, khá lâu mới mở ra, nhìn chàng trai, đưa bàn tay nhăn nheo nắm lấy bờ vai, hai con mắt bỗng trở nên sâu thăm thẳm như đáy huyệt chứa đựng cả cái bí mật thảm thê oan khổ tưởng đã chôn vùi dưới lớp bụi thời gian.

Giọng chìm buồn mênh mang, lão run run lẩm bẩm như nói để mình nghe:

- Mẹ con chết rồi... còn đâu! Chết mười bảy năm rồi... hồi con mới lên hai!

Chàng trai thở dài buồn bã:

- Cha còn ảnh mẹ con chứ? Mà sao cha xanh xám thế? Phải mẹ con chết... thảm khốc lắm không?

Ông già họ Võ có vẻ đắn đo, chừng đang coi có nên cho chàng trai biết ngay câu chuyện gớm ghê, lão đã chờ mười bảy năm để nói không. Chợt lão khách nói vọng:

- Cụ chủ à! Cậu hai nhà mới về, đừng để cậu buồn!

Ông già lấy lại bình tĩnh, bảo:

- Chuyện nhà, cha sẽ kể con rõ, mai kia không muộn! Con về kịp cha chưa chết, là Trời Phật còn thương nhiều! Mười bảy năm nay cha chỉ lo không được gặp, gia tài này chẳng biết ký thác cho ai! Chú Sềnh cũng già rồi!

Chàng trai ngơ ngác:

- Cha... thế còn anh chị em con?

- Có ai đâu? Mười bảy năm này, cha nằm đợi con về! A! Còn có Cả Hổ ở với cha mười lăm năm, coi như con nuôi, năm nay ngót bốn mươi rồi! Hình như nó đi đâu sớm, chưa về! Lát con sẽ gặp! Chú Sềnh à! Đưa cậu hai đi tắm rửa, thay quần áo! bảo chúng làm tiệc mau! Nhớ con là Võ Minh Thần!

Lão khách vẫy gọi, nhưng chàng trai vẫn ngồi bên mép sập, chưa đi vội, chừng bị dồn nén quá lâu, không chịu nổi, chàng trai cất tiếng hỏi:

- Cha... không nên dấu con! Ân sư con bảo về tìm cha, con linh cảm có chuyện chi bí ẩn ghê gớm, nên... mới phải phiêu bạt lạc lõng ngoài ngàn dặm từ khi còn trứng nước! Ân sư có lúc đưa con lên tận ngọn Thái Hành Sơn, có hồi sang tận miền sa mạc Gô Bi, ngược tận Bắc phương, đi dọc theo lưu vực Hắc Long Giang từ Mãn Châu sang Mông Cổ! Xem chừng "người" mới gặp cha lần đầu và có lẽ chính cha cũng không biết "người" là ai? Từ đâu tới? Mà vẫn trao con cho "người"! Mười bảy năm dài khổ luyện, giờ con đã đủ sức nghe câu chuyện nhà xin cha cứ nói! Con không sống nổi nếu chưa biết rõ nguồn gốc!

Ông già nghe chàng trai nói, như sực nhớ, vùng hỏi:

- Mười bảy năm theo thầy đi khắp thiên sơn vạn thủy, con đã học được tới đâu? Liệu hai cánh tay con có mang nổi... gốc nguồn quá khứ không? Phải! Con đoán đúng! Quá khứ đè nặng lên vai cha mười bảy năm rồi nếu con mang nổi...!

Hiểu ý, chàng trẻ tuổi đứng lên kính cẩn:

- Xin cha truyền!

Ông già họ Võ đứng lên, tinh thần chợt phấn khởi, như vơi đi quá nửa phần bệnh, bước ra, vịn vai lão khách, rời buồng, dẫn chàng trai ra phía ban công sau hồi. Lưng đồi cỏ xanh um, vắng vẻ, lão dòm quanh, chợt thấy một con chó lớn đang chạy tung tăng dưới vườn, cách khá xa, lão trỏ xuống bảo:

- Này Minh Thần con! Nếu gặp một con thú dữ cách hai, ba chục thước như con chó kia, con có thể giết nó mà không cần dùng súng bắn chăng?

Chàng trai thưa:

- Xa hơn mười bộ nữa cũng được! Không những thế con có thể hạ một mục tiêu di động như một con chim cắt đang bay chẳng hạn.

Vẻ ngạc nhiên, ông già nhìn con, chàng trai ngó quanh chợt trỏ một con chim nhạn vừa từ phía trước lao tới cách khoảng bốn mươi bộ cao chếch, chàng trai đánh vụt tay ra.

"Véo"! Tiếng xé gió muốn rách không gian từ tay áo chàng trai bay ra một vật sáng bạch, coi như một cái mồng trắng, con nhạn sa ngay xuống. Nháng cầu vồng trước mắt ông già ngó lại, tay chàng trai đã cầm một thanh liễu đao nhỏ bằng ngón tay, dài hơn gang, sắc như nước. Lão bật kêu lên mừng rỡ:

- Trời! Con biết phép phi đao? Con có thể lấy đầu người nhanh như tia chớp!

Chàng trai giơ ống tay áo cho cha thấy mỗi tay có gài một ngọn liễu đao:

- Không phải phép phi đao đâu cha! Có hai cách phóng khí giới, một ném đi không trở lui, người thường dùng, hai ném đi dùng nhân điện tụ công điều động lưỡi dao xa gần tùy sức, với một lưỡi dao có thể chém liền hai nhát, cũng như người ta dùng một bộ máy phát điện điều khiển một phi đạn ngoài xa vậy! Ân sư đã truyền cho con luyện tập riêng môn này tới mười năm mới phát điện trong mình điều động được! Dùng phép này rất hao chân khí, lúc cần lắm, mới ra tay!

Ông già họ Võ mừng hết sức, khen:

- Ân sư con quả là bậc phi phàm! Cha đã thấy mười bảy năm xưa. Nhưng nếu cùng một lúc có hàng trăm, mấy trăm con thú xông lại vồ như rươi, dao này chém sao kịp? Lúc đó, con làm cách nào?

Từ tốn chàng trai đáp:

- Lúc đó chắc phải dùng phản phong quét chúng hoặc sử dụng mê công! Ân sư có dạy con thuật tẩm luyện thuốc mê, đánh ra, mũi và lỗ chân lông vật nào hít phải cũng lăn!

- À hay lắm! Nhưng nếu dùng tà thuật độc khí, con tính sao?

- Lúc đó, hoặc ra đòn trước, hoặc bế hết yếu huyệt, lỗ chân lông, tà phong tà khí không xâm tạng phủ được! Trừ phi... kẻ địch thượng thừa phi thường như... ân sư con chẳng hạn, lúc đó, dĩ nhiên không còn phép chống nào hiệu nghiệm!

Ông già cảm động ôm chầm lấy con, nước mắt lại chảy ròng, quay sang bảo lão khách đứng gần:

- A Sềnh à! Lập bàn hương án, đóng hết cửa lại, bảo chúng nó xuống hết dưới, mình chú ở lại thôi! Đã đến lúc ta phải kể rõ nguồn cơn cho "nó"... dĩ vãng đè nặng hồn ta quá lâu rồi, phải kể lại cho hết! Ta phải cáo hồn oan mẹ nó!

Lão khách có cái tên Sềnh, bỏ ra liền. Tuy lòa mắt, nhưng lão còn đi lại như thường, chừng đã thuộc hết đường lối trong trang trại. Chỉ vài phút sau, cả mấy dãy buồng, tầng lầu đã im ắng không một bóng gia nhân.

Lão Sềnh tự tay lúi húi một mình thiết lập, xong hương án gióng lên một hồi khánh, đoạn chắp tay đứng bên, vẻ buồn rầu thành kính hết sức.

Chàng trai mới biết tên mình là Võ Minh Thần, thấy mặt cha cùng người lão bộc thân tín đầy vẻ nghiêm trọng lạ thường, lại hiện rõ nét buồn kỳ dị, chàng trai họ Võ linh cảm ngay trong gia đình ắt xảy ra chuyện thê thảm khác thường, tim bỗng đập mạnh, hồi hộp hết sức. Bèn đặt giỏ mây xuống nhìn hai ông già.

Lão chủ đồn điền họ Võ dáng người mệt nhọc vì đang nằm bệnh, nhưng con mắt chợt sáng long lanh u ẩn, lão đưa mắt nhìn quanh, cảnh buồng tranh tối tranh sáng,chỉ có một khung cửa sổ mở chớp, cửa kính đóng, nắng thu sớm chiều xế góc buồng.

Lão bước lại trước bàn thờ, chợt ngó ra phía cửa ra vào trầm giọng:

- A Sềnh à! Có lẽ nên khép cửa, chú đứng đó cũng được! Không nên để kẻ nào nghe thấy.

Hiểu ý, lão khách làm theo lệnh chủ và đứng tựa bên cửa. Lão chủ đồn điền họ Võ thắp hương lâm râm khấn khứa to nhỏ, dưới ánh nến trắng vật vờ, bộ mặt già nua càng trở nên thê lương hết sức, như ẩn hiện cả nỗi buồn thương dĩ vãng mười bảy năm dài dằng dặc đè nặng tâm hồn cô đơn của người đàn ông luống tuổi phong trần. Chàng trai đứng chắp tay bên bàn hương án, lòng xao xuyến, nơm nớp, chưa chi đã thấy xót xa, nhìn hai giòng lệ từ từ lăn trên lưỡng quyền ông già. Chợt im, lão nhắm hai mắt lại. Cả căn buồng càng rơi vào im lặng, có tiếng gà gáy khe khẽ từ dưới chân đồi vọng lên.

Bỗng ông già họ Võ ôm lấy mặt, run giọng lẩm bẩm như nói với... dĩ vãng xa xưa, tiếng nghe âm u tưởng từ thế giới nào vọng về:

- Ghê khiếp quá! Kinh sợ quá! Ác mộng cũng không kinh bằng! Cái xác... Trời ơi! Cái xác người đàn bà bị con quỷ nhả ra... Trời! Cái túi da người treo lủng lẳng! Đứa con nít lên hai mồ côi giữa đàn quỷ... biên thùy hoang vu lởm chởm đầy nanh vuốt... Cái túi da là mẹ con, đứa con nít chính là con...

Giọng ông già họ Võ chìm dần, run run, kinh hoàng. Lão khách đứng tựa cửa, vùng thở mạnh, rên khẽ, tiếng nói như mê:

- Ngộ cũng thấy! Ma quỷ... Hầy! Nó đớp cả cái gót chân ngộ... Ngộ đi với cụ chủ... Ghê dữ à!

Ông gia họ Võ chợt buông tay, lau nước mắt, lấy giọng điềm tĩnh, đặt lên vai chàng trai mới về, lúc này mặt vừa thoáng biến sắc, mạch lạc, nhưng cũng đã vẽ lên mấy nét quá khứ bi thảm đến rởn ốc!

- Đáng lẽ cha chưa cho con biết ngay chuyện ghê gớm này. Cha định để con vui đoàn tụ vài ngày, làm đủ giấy tờ trao gia tài cho con và chia cho Cả Hổ, chú Sềnh cùng đám tay chân thuộc hạ mỗi người một số ruộng, tiền lập nghiệp xong xuôi đâu đấy, cha mới nói rõ gốc nguồn thân thế cho con hay. Nhưng tuổi già như đèn trước gió, cha chỉ sợ bất ưng có thể lìa trần, gánh nặng tang thương đau khổ bí mật mang nặng trong đầu mười bảy năm liền, lỡ xảy chi không kịp cho con biết, chắc cha chết đi cũng không nhắm mắt nổi!

Lão ngừng lại, ho sù sụ. Chàng trai vọt tới bên sập rót nước dâng. Lão uống mấy hớp, thở phào một hơi cố trấn tĩnh, như chưa biết vào chuyện sao cho gọn.

- Mười bảy năm rồi! Phải! Chuyện xảy ra chiều hôm đó, cha còn nhớ như in, nơi biên giới Việt - Trung, một chiều muộn, sắp hoàng hôn, gió hắt hiu... Chiều hôm đó...

Giọng lão chìm dần như chỉ sợ tiếng nói to sẽ làm xao động cả chiều vàng bên cảnh xưa... Ánh nến vật vờ rung rung loang lổ hắt từng vũng sáng, tối trên bộ mặt gồ ghề như con đường đèo xuyên biên. Nhưng chợt lão hắng giọng bằng một tiếng đanh, vùng cao giọng:

- À quên! Cha là Võ Minh Phong, hồi đó đã ngoại năm mươi. Trước nhất, con cũng cần biết rõ cha đây thực ra không phải cha đẻ của con! Cha chỉ nhận con làm dưỡng tử, còn cha ruột của con thực ra...

Chàng trai vừa nghe ông già họ Võ thổ lộ, không kém nỗi kinh ngạc, sững sờ, vùng choàng lấy hai vai lão bật kêu "trời" sửng sốt, toàn thân chấn động, một hơi gió lùa khe cửa khép hờ, ánh nến trắng lảo đảo. Thình lình nghe có tiếng súng nổ "đoàng", tiếp liền tiếng lão khách Sềnh la lớn. Rầm! Cánh cửa mở toang, thân hình cao lớn của lão Sềnh loạng choạng đổ dụi theo cánh cửa.

Giật mình, cả hai người cùng ngoảnh trông ra, vừa trông ra, vừa thấy dáng lão thuộc hạ thân tín ngã nhào, ông già họ Võ vùng lảo đảo hấp tấp chạy ra, miệng hỏi vọt "A Sềnh sao thế"?

Chàng tuổi trẻ đứng ngơ ngác mấy giây, nhưng vốn nhạy phản ứng của nhà võ, thấy ông già vùng chạy ra, chàng trai vùng vươn tay nắm lại, gọi giật giọng:

- Cha! Chớ ra!

Miệng quát, chân vụt đuổi theo, nhưng hơi muộn. Cách vài thước, ông già quá xúc động trước cảnh người thuộc hạ rất thân ngã dụi, lão chỉ vùng một, hai bước đã tới, cúi xuống đỡ lão Sềnh, không hề để ý đến chuyện đã vô tình đứng giữa khung cửa vừa mở ngoác. Và đúng lúc lão chạy ra giơ hai tay chưa kịp ngồi xuống ôm lão Sềnh lên, thì "đoàng" phát súng nửa nổ chát chúa, lẫn tiếng xoảng khô dòn, ông già họ Võ rú lên, bật ngửa người, ôm ngực, trợn mắt trừng trừng, đổ xuống như cây chuối bị đẵn gốc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:51:32 | Xem tất
Đáo sự mới biết chàng trai này nhanh hết sức, vừa bật kêu lên vừa lao vụt qua khung cửa trống, khom mình ghé vai vừa đỡ vừa đội luôn ông già vào chỗ khuất, "đoàng" phát thứ ba "chíu" trốc đầu chàng trai, xói phăng một mảnh bàn thờ, đạn xé ngang. Lẹ như chớp, chàng trai đặt ông già, đánh vụt bàn tay ra chiều ngược đạn đạo khoắng loằng ngoằng. Từ ống tay bay vút ra ngọn liễu đao bắn "véo" chếch qua góc hành lang, tít cuối phía hậu, nơi có dựng một tấm gương lớn sát "ban công".

Xoảng! Xoảng! Tiếp liền tiếng rú nhọn, cụt. Như kẻ làm quỷ thuật, chàng trai rê vụt bàn tay trái về phía trước cửa, như rờ rẫm không khí, bàn tay chợt đỏ rực như tắm ánh bình minh. Nhưng nếu có kẻ thượng võ mới thấy kinh, vì đó là "bàn tay điện" tập trung nhân điện kỳ công đang rê tìm luồng nhân điện bên ngoài.

Nếu ngoài có người ẩn náu sẽ toát hồi nhân điện, nhân khí ra, chạm luồng điện công, lập tức có phản chấn dội lại, biết liền. Quả nhiên, vừa khoa một vòng, chàng trai đã chém xả tay phải ra, tít xa, xế sau "ban công" có tiếng rào rào rắc rắc, "phập" ngọt như không, từ trên cành cây um tùm vừa gãy, bỗng phát ra một tiếng rú lê thê, một cánh tay cầm súng rụng xuống vườn.

Trong cả phản ứng bất thần, chàng trai nghe tiếng rú vùng đảo tay toan chém với theo, nhưng sực nghĩ ra, chàng ta nâng vụt lên, rào rắc ngọn cây, chàng ta toan phóng mình ra, bỗng nghe dưới vọng lên tiếng người kêu lớn "súng nổ trên nhà", "lên coi mau", sau lưng chàng, ông già chợt rên lên phều phào:

- Chết mất... con!

Lo mạng ông già, chàng trai vội thu liễu đao khép sập cánh cửa, quay vào xốc ông già, trong khi lão Sềnh vừa kêu, vừa đang cố ngồi dậy:

- Coi chừng... nó bắn nữa! Mặc ngộ... ngộ bị vào đùi... Cứu cụ nhà...

Quả nhiên đùi trên lão đẫm máu, lão ôm vết thương cắn răng ngó chủ, chàng trai ôm ông già xem ngực, ngực đầm đìa máu đỏ lòm như đổ cả bát phẩm điều, lão mím môi, quằn quại ngửa cổ, cố gượng đau, nói gì, bỗng nghe lào phào yếu ớt, tiếng chìm biến trong hơi thở hổn hển:

- Chết... mất Võ... Thần con... bí mật đời... con... hỏi lão... Sềnh...

Môi mấp máy, lão rướn cong mình quằn quại hai con mắt mở trừng trừng, ứa lệ thở phào, rồi ngoẹo đầu sang bên... đi vào cõi tịch mịch muôn đời! Chàng trai vùng reo tên, lay gọi, nhưng vô ích! Ông già cô đơn cõi lòng, đã chết, khi chưa kịp thổ lộ điều bí mật cho người trai lưu lạc, viên đạn bắn cạnh tim, gặp xương phá vỡ!

Chàng trai hét lên, run tay vuốt mắt cho ông già, nước mắt chảy ròng rỏ cả xuống bộ mặt phong trần quắc thước.

Ngay khi đó, năm sáu người nhà tay súng, tay dao rầm rập chạy lên, xô rầm cửa, kinh hoàng trợn mắt, chàng trai trỏ vụt về phía mình vừa chém:

- Có đứa bắn trộm! Có đứa bị thương! Chớ để nó trốn! Bắt sống lấy! Mau!

Bọn gia nhân thuộc hạ nhất loạt vọt đi đuổi sục.

Lão Sềnh ôm đùi, nhịn đau lê lại gần chỗ ông già họ Võ, chàng trai ngó thấy mặt lão xanh xám, vùng đưa tay đỡ, miệng hỏi:

- Chú sao không? Để tôi gắp đạn ra! Chắc cắm trong đùi! Chuyện năm xưa chú biết chú cho biết... mau! Điều bí ẩn... về thân thế tôi... mẹ tôi sao? Sao lại "túi da", con quỷ? Sao lại "vòng xanh"? Trời ơi! Tôi phát điên mất! Mười bảy năm chờ đợi... tôi vừa về "người" lại bị bắn trộm chết...

Chàng trai vừa hỏi, vừa bồng ông già họ Võ lên đặt nằm ngửa trên sập, kéo lấy mảnh khăn trắng phủ lên mặt ông già bất hạnh.

Lão Sềnh chừng thấy mình bị đạn phá nát xương đùi trên, đau hết sức, lại sợ xảy chuyện chẳng may, vùng gọi:

- Cậu hai! Cậu... nghe tôi kể... đã!

Đang cúi phủ vải trắng lên mặt ông già họ Võ, nghe gọi, chàng trai vội ngẩng quay ra, bất ngờ nghe "xoảng" tiếng kính vỡ tan dòn, chàng trai giật mình ngó vụt về phía có tiếng động, toàn thân lao xuống xô lão Sềnh.

Nhưng chỉ kịp thấy một bàn "tay" lông lá đen thui vừa đấm vỡ kính vừa thò vào, phóng vút cái, rụt luôn ra, nhanh như chớp. Đến độ chàng trai chưa kịp mó vào mình lão Sềnh, lão khách lòa lúc đó nghe tiếng xoảng, vụt ngoảnh trông về góc buồng hồi, chân đau, chưa kịp phản ứng, thì một lưỡi dao lá đã bay vút vào, cắm trúng cổ họng lão khách lòa! Phập!

Vừa thấy lão la lên, ôm cổ lòi chuôi dao nhỏ, chàng trai dậm phắt chân, vừa nhảy vọt về phía cửa sổ, vừa thả "vèo" lưỡi liễu đao. Xoảng xoảng! Chát chát! Ánh thép thần tốc phá vỡ tan ô kính, chặt đứt trấn song sắt, có tiếng ré kéo dài hút, chàng trai dòm qua khung cửa sổ mờ có thoáng thấy một bóng con nít đen đang đeo đu vút từ phía khung cửa sổ ra lùm cây xế bên hồi, vừa nắm được cành cây bỗng rời ra một bàn chân đen thui, bóng con nít này sa luôn xuống vườn.

Chàng trai nổi giận, vừa nắm trấn song định bẻ nhẩy qua vườn, bỗng nghe lão khách gọi cứng:

- Vào... mau... dao độc...

Giật mình, chàng trai vội đảo lại, vừa kịp đỡ lão khách dụi xuống, hai tay run bần bật, lưỡi dao cắm ngang nơi cổ họng, máu đen sì, mắt lão trợn ngược, cả kinh, chàng bật gọi:

- Chú Sềnh! Trời! Dao tẩm nhựa "sui"? Chú... sao... bí mật năm xưa? Sao? Mẹ tôi... cha tôi là ai? Ai giết? Sao lại "quỷ"? Ai giết?

Vô ích! Thuốc độc đã ngấm vào mạch máu, tạng phủ, thứ nhựa "sui" ngâm mũi tên chỉ bắn sướt da rớm máu, lợn lòi to bằng con trâu, nháy mắt đã chết rồi!

Vừa lay gọi, chàng trai vừa ngó mắt lão khách, mắt đã lạc thần, hơi đưa đi đưa lại, chàng trai vội cúi sát xuống, lão khách run bắn lên dãy chết, môi mấp máy, cố thu hết tàn lực, nhưng lưỡi đã líu lại. Phào theo hơi thở đứt, phều phều mấy tiếng "tìm... Chúa núi Đầu Ngựa". Rồi lão ngoẹo cổ "đi" luôn.

- Chú Sềnh! Chúa núi Đầu Ngựa là kẻ thù hay người ân? Tìm hỏi nguồn cơn hay báo oán? Cõi nào?

Cũng như ông già quắc thước họ Võ, suốt mười bảy năm ngậm miệng, chôn giấu chuyện thảm thê bí ẩn trong lòng, đợi "đứa nhỏ năm xưa" trở về, nhưng mới nói được một, hai điều, đã ra người thiên cổ đem theo bí ẩn xuống tuyền đài!

Mười bảy năm chờ đợi, cả hai cùng bị chết giữa phút trùng phùng! Kẻ nào giết? Kẻ nào? Hy vọng gốc nguồn thân thế vừa chớm lóe, đã tắt ngang... Giờ chỉ còn mình ta cô độc chơ vơ không nguồn gốc trên cõi đời oan khổ ác độc này!

Chàng trai đặt người khách già lên sập, và ôm cả hai cái xác thân yêu, vật mình khóc rất thảm thiết.

Cả trang trại náo động, gia nhân tá điền, đàn ông, đàn bà, gọi nhau inh ỏi, đám kéo lên lầu, đám rượt tìm quân gian, đồn điền loạn cả lên, nhiều người tưởng cướp.

Chúng xô cửa, thấy chàng tuổi trẻ mặc áo rách vai đang ôm hai cái thây chủ đồn điền, lão bộc khóc thê thảm, ai nấy đều kinh dị, nhiều kẻ khóc òa.

Bọn gia nhân thủ túc vệ sĩ vừa đổ đi rượt hung thủ, bắt được một cánh tay, một ống chân người và một bàn chân vượn thú cùng hai khẩu súng trận, loại mút Đông Dương.

- Tụi này lợi hại không vừa! Bọn tôi chạy ra còn thấy bóng què chân chạy, có một tên khác trong bụi nhảy ra dắt, phóng về nẻo đường hậu mất dạng, bọn tôi chỉ bắn theo được một, hai phát. Đảo sang hồi bên này, nhặt được một bàn chân thú coi đúng chân vượn. Cả nhà có sao không... cậu hai!

- Trời! Cả cụ lẫn chú Trưởng Sềnh đều bị hại!

Bọn thuộc hạ vệ sĩ nhào vào kinh sững, kẻ nghiến răng trợn mắt chửi rủa, người cúi đầu ứa nước mắt, tất cả xúm lại an ủi chàng tuổi trẻ, một người Kinh trạc tứ tuần, vẻ khá giỏi võ, hai tay hai khẩu S.Etienne cối to, dắt vào bụng lễ phép bảo chàng trai:

- Chắc chúng nó theo dõi lâu rồi! Ngót mười năm nay không lúc nào bọn tôi rời cụ nửa bước! Cụ vẫn ngại có kẻ thù bí mật ám hại. Tôi là Kình, hồi trước đã đi lính đóng quản nên thường gọi Quản Kình. Tôi theo cụ hơn mười năm rồi, trước hồi cụ làm quan Châu. Cụ rất có lượng thương người, ai cũng kính mến. Cụ lặn lội suốt đời, không ngờ về già lại bị ám hại!

Chàng trai gạt nước mắt, ngó xác ông già:

- Cha tôi có làm quan Châu?

- Dạ, cụ nhà chỉ nhậm chức mấy năm, rồi thôi! Cụ ưa hoạt động. Chỉ thích mở đồn điền, buôn lậu!

- Nhưng cụ bỏ nghề này đúng mười bảy năm rồi từ ngày gửi cậu hai đi học xa.

Chàng trai thấy Quản Kình cùng bọn thuộc hạ dưỡng phụ mặt mày trông gan góc, có người đầy sẹo coi dữ tợn, nhưng xem vẻ trung thành có nghĩa, bèn nắm tay Quản Kình cùng đám thuộc hạ, ngậm ngùi bảo:

- Tôi mới về, lâu nay ở núi, chưa hiểu chuyện chi nay chẳng may cụ cha tôi cùng chú Sềnh thác oan, phiền mấy chú liệu việc ma chay tống táng giúp cho! Tôi quyết không để cụ và chú Sềnh ngậm hờn dưới mộ! Tôi phải tìm ra hung thủ!

Bọn Quản Kình nhất loạt đáp:

- Đó là bổn phận bọn tôi, cậu hai khỏi lo! Còn mọi việc đã có cậu cả lo liệu! Cậu cả đi từ sáng sớm chắc cũng sắp về!

Dứt lời, Quản Kình lập tức cùng đám gia nhân, tá điền lo việc tẩm liệm ma chay, người người đều bi lụy.

Chàng trẻ tuổi Võ Minh Thần lòng buồn vô hạn ngồi ủ rũ bên xác hai ông già, cắn răng chịu đựng, tâm hồn tan nát vừa thương người cha nuôi, nghĩa bộc bất hạnh, vừa xót xa thân thế mịt mờ cội nguồn dĩ vãng, từ nay lại một bóng cô đơn đi trong lớp lớp sương mù dày đặc, lần mò tìm gốc rễ tang thương huyết thống, kẻ thù không đội trời chung.

Đến lúc khiêng mấy cái thây lạ đi chôn trước, cả đồn điền xúm lại nhận diện, thấy một cái thây hoàn toàn xa lạ, xác bị chém "ngọt" hết sức, Quản Kình sực hỏi:

- Phải cậu hai chém nó? Hình như lúc đó cậu vẫn ngồi trong buồng cụ mà?

- Tôi có lối chém... riêng! Tiếc lúc đó cụ gọi, không kịp đuổi theo bắt được chúng? Sợ cụ trối trăng gì cần kíp, nhưng không kịp!

Quản Kình vẫn chưa hiểu rõ, nhưng cũng yên tâm, được biết tiểu chủ là tay giỏi võ.

Vừa lau chùi xong hai cỗ quan tài chạm trổ khá tinh vi, nhà khá giả đương thời vẫn có tục sắm sẵn quan tài để trong nhà, khi về già, gần đất xa trời, bỗng có tin Cả Hổ về.

Cả Hổ trạc ba mươi lăm, ba mươi sáu, người vạm vỡ khỏe mạnh, vẻ hoạt động gan dạ, đi với năm, sáu thuộc hạ, đều cao lớn lực lưỡng vừa Thổ vừa Kinh, đi bên Hổ, là người phó vẻ lai Kinh Mán, cao gầy đanh, mắt sáng quắc coi vẻ giỏi võ. Cả Hổ cùng bọn thuộc hạ chạy ngựa lên thẳng căn nhà ông già họ Võ, thấy gia nhân đang khiêng lên hai cỗ quan tài, cả bọn giật mình, chưa kịp hỏi, Quản Kình từ trên xuống, nói ngay:

- Cậu cả! Cậu về muộn mất rồi. Cụ nhà và chú Trưởng Sềnh vừa bị quân gian bắn trộm chết, khi đang nói chuyện với cậu hai ở trong buồng! Cả Hổ kêu lên, nhảy luôn xuống, cùng đám thuộc hạ chạy vụt lên lầu, Quản Kình đi theo.

Võ Minh Thần đang ngồi ủ rũ, thấy bọn Hổ ùa vào, còn ngơ ngác, Quản Kình đã nói lớn giới thiệu hai người với nhau. Cả Hổ nhào tới ôm thây họ Võ, lão Sềnh, xem xét vết thương, khóc thảm, rồi mới quay sang nhìn chàng trai mới về, không chớp mắt, miệng hỏi:

- Võ Minh Thần...

Chàng trai gạt lệ, ngó Hổ, buồn bã:

- Em vừa về được giây lát. Đang thưa chuyện với cha... Người mới nhắc đến anh!

Cả Hổ lẳng lặng tiến lại gần, vòng ra đằng sau Võ Minh Thần, xong lại đảo ra trước, vùng tay chụp lấy cánh tay chàng trai. Võ thấy lạ nhưng cứ để nguyên. Bỗng Cả Hổ buông tay, giang cánh ôm chầm lấy Võ, giọng xúc động kêu:

- Đúng Minh Thần rồi! Cha có dặn tôi phòng ngộ nạn bất thần, nếu chú về, còn biết mà nhận! "Người" có dặn trên đời này chỉ có chú mới mang mấy thứ đó thôi! Mười bảy năm nay, "người" nhắc đến chú ngày đêm, "người" bảo sinh chú trên biên giới!

Chàng trai biết dưỡng phụ giấu nguồn gốc mình, nên cũng không tiện nói rõ, lại thấy Cả Hổ đối với mình tuy không cùng máu, nhưng tỏ vẻ thân thiết hết sức, nên một lòng quý mến, coi như anh ruột. Buông nhau, Cả Hổ hỏi lại chuyện vừa xảy ra, vừa kinh ngạc, vừa phẫn uất, bảo Minh Thần:

- Từ nay, phải canh phòng cẩn mật mới được! Bọn khốn có thể ám hại cả chú và tôi nữa. Chú mới về, chắc mệt, nên nằm nghỉ, mọi việc đã có tôi! À chú cũng nên biết qua người trong đồn điền này vì từ nay, chú là chủ tất cả!

Đoạn, lập tức giới thiệu Minh Thần cho mọi người rõ, lại trỏ từng người giới thiệu với chàng. Xong lại trỏ riêng Quản Kình và người Mán lai Kinh bảo:

- Trong trại, hai chú này giỏi võ nhất! Chú Quản vẫn theo bên phụ thân. Còn đây chú Khìn Lồi, thường phụ bên tôi! Từ nay, chú Quản hãy ở sát bên cậu hai! Nay phụ thân và chú Sềnh chẳng may đã mất chúng ta hãy lo chuyện ma chay, rồi sẽ tính chuyện báo thù! Chú Quản hãy đưa cậu hai đi tắm rửa, thay y phục.

Đó rồi, cả đồn điền nghỉ việc, lo đám tang. Võ Minh Thần theo Quản Kình sang phòng tắm xong, thay quần áo, mặc tang phục trắng cùng Cả Hổ đem xác cha già cùng xác lão Sềnh quàn đặt giữa phòng khách dưới nhà.

Bình sinh ông già họ Võ đối với người rất có lượng, ai cũng cảm phục, hay tin dữ, cả miền kéo đến phúng viếng, ai cũng buồn, nguyền rủa quân sát nhân.

Đêm đó, Cả Hổ truyền Khìn Lồi đốc tráng đinh, thủ hạ bí mật thay phiên canh gác tuần phòng quanh trang trại, còn bọn Quản Kình ngót chục tay chiến khác bí mật phục trấn quanh căn nhà chính lưng đồi.

Đêm vào khuya dần, thoắt đến canh ba giờ Tý. Đồn điền rừng gió đêm hiu hắt, chàng tuổi trẻ họ Võ ngồi bên quan tài, lòng buồn mênh mang nghe tiếng động đêm rừng khuya.

Trong đồn điền mọi người đã thiếp ngủ, mai còn lo đám tang.

Không gian chìm sâu vào im ắng, bâng khuâng tiếng chim khảm khắc từ hai bên đầu núi kêu thương rớt xuống, rã rượi... Có tiếng hoẵng kêu ngơ ngác xa xôi vọng về... bơ vơ... Võ Minh Thần ngồi trên một cái ghế gụ kê góc phòng khách, xế đầu quan tài, gần khung cửa sổ hiên tiền. Ngoài thềm có một tay súng phục trong xó tối, Quản Kình thủ cây Saint Etiene, sườn mang dao quắm, ngực áo cắm một hàng đao lá lan, thu mình trong bóng cửa sau. Cây nến trắng, quả trứng đặt nắp ván thiên, coi càng hiu hắt trong đêm, đổ cái bóng quan tài xuống nền nhà đen thui.

Bốn bề quạnh vắng, tiếng trùng đêm rên rỉ từ vườn hậu đưa vào, đơn điệu, thê lương, chàng tuổi trẻ ngồi nhìn ngọn nến, lòng như tê dại dần trong cảnh nhà tang, chợt một cơn gió hắt hiu lùa vào phòng khách, chàng trai rùng mình một cái gai gốc mọc lởm chởm, ruột gan như cuộn hẳn lên, vùng đưa tay trái lên "đánh" một quẻ Trương Lương độn toán, bật kêu "à" một tiếng. Vội đứng lên, khẽ gọi Quản Kình lại gần bảo nhỏ:

- Đêm nay có kẻ đến hành thích hai người trong nhà này! Chắc tôi và anh cả! Chú khá đi mời anh cả tôi đến đây mau! Kín!

Quản Kình vụt xuống đồi, phút sau Cả Hổ theo vào, ngạc nhiên.

- Chú... có chuyện chi cần tôi?

Võ kéo người anh nuôi xuống, nói nhỏ:

- Sắp có kẻ tới ám sát chúng ta! Anh khá bảo người nhà quanh quẩn tít dưới, không ai được tới khu đồi này. Còn chú Quản mau ra hiệu cho các chú phục vào cả trong này... ngồi đánh bạc buồng bên!

Cả Hổ, Quản Kình cùng ngạc nhiên, Hổ ngơ ngác hỏi:

- Sao chú biết? Nếu quả có kẻ đột nhập ta phải tăng cường nhiều tay súng gác quanh đây chứ?

- Không sao! Gác thế, nó có bản lãnh vẫn vào được, chết uổng người gác. Vả mình cần nó vào để bắt sống, nếu có người mình, sợ lẫn trong đêm tối!

Đoạn chàng trai ghé sát, thì thào dặn kế, Quản Kình và Cả Hổ lập tức bỏ ra ngoài, lát sau hai người trở vào, Quản Kình dẫn theo chín, mười người lực lưỡng, võ trang, kéo nhau sang căn buồng bên, ngồi xúm nhau rút "bất" đánh "xì", dưới ngọn đèn đất, có kẻ ngồi uống rượu.

Cả Hổ kê thêm một cái ghế lớn bên cạnh chỗ Võ Minh Thần, hai anh em ngồi trò chuyện, giục nhau ngủ, Quản Kình lúi húi pha trà, được một, hai tuần, chợt một trận gió thổi rào cả hai ngọn nến đầu quan tài tắt phụt. Quản Kình gọi đàn em lấy diêm châm nến. Châm xong, ngó lại, hai anh em ngủ gục, tay khoanh thành ghế, đội nguyên cả mũ rơm, mặc tang phục thùng thình.

Quản Kình ngó, vẻ ái ngại bảo tay em:

- Tội nghiệp cậu cả, cậu hai, lo buồn mệt quá, thôi cứ để hai cậu thiếp đi một lát, bọn ta sang bên!

Hai người bỏ đi. Đồn điền hoàn toàn im ắng. Buồng bên bọn Quản Kình vùi đầu vào canh bạc, thì thào như tằm ăn dâu. Căn phòng khách rộng thênh thang, hai thoi nến trên ván thiên đã hao mòn quá nửa, vật vờ theo hơi gió. Hai anh em Võ Minh Thần vẫn ngủ vùi trên ghế.

Ngoài trời trăng mờ lạnh lẽo, đồi cây vườn trước vườn sau loang lổ đen ngòm từng khoảng lớn. Gió thổi rì rào.

Bỗng có một bóng con nít từ trên cây đu xuống cành rủ lòa xòa xế cửa hậu trông ra hiên sau. Chừng đã vượt êm vòng ngoài, kiểm soát kỹ vòng trong, nó móc chân trên cành, dốc đầu xuống, ẩn giữa tàn lá um, theo lối "đoạn quyền tiềm" của Sài Khánh xưa đu ngược dòm vào nhà khách nham nhở tranh tối tranh sáng.

Mấy phút sau, bóng con nít đu vườn sát góc cửa sổ đóng chớp, cầm một cái ống nhỏ như ống địch thổi nhè nhẹ vào phòng. Từ ống trúc, bay ra một luồng khói xám cuồn cuộn rót qua khe cửa, tuôn vút tận chỗ có hai anh em họ Võ đang ngồi ngủ gục.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 16:53:43 | Xem tất
Giây phút, cả căn buồng đã mù mịt đầy khói xám, bỗng nghe tiếng hai anh em họ Võ nhẹ thở phì cái, im bặt. Mùi thơm ngào ngạt, mê hồn hương đã vùi vào giấc ngủ mê man.

Rắc! Rắc! Bóng con nít bẻ nghiến mấy hàng chớp, ghé mắt dòm vào. Ánh nến hắt soi hai con mắt đỏ khé như mắt thú ăn đèn săn. Nó đã dòm thấy bóng hai người ngồi ngủ gục.

Bỗng có bàn tay đen thui thò vào khoảng chớp gẫy. Hai người vẫn ngủ yên. Vút vút, liền hai luồng thép sáng quắc bay vào, cắm phập giữa gáy hai người, ngập lút cán, trúng huyệt độc!

Hai người ngủ vùi bỗng giật rung đầu rồi lại im ngay... hồn lìa khỏi xác. Buồng bên đang mê cuộc đỏ đen, chợt liền mấy kẻ hắt hơi, ôm mặt lảo đảo. Quản Kình la lên:

- Lạ dữ à! Có chú nào ngửi thấy mùi thơm không? Ôi chao! Sao mi mắt tao cứ dính chặt vào nhau thế này?

Cả lũ xôn xao, theo Quản Kình gục xuống ngủ như chết.

Im lặng mênh mông, mười khắc sau, bỗng từ nẻo hoa viên trước nhà, vụt hiện ra một bóng lạ, lắc mình cái đã đứng bên khung cửa khép.

Nó thò tay vặn quả nắm sứ, mở cửa ken két. Rào cơn gió lùa, bóng này đã đứng xế đầu quan tài. Quần áo đen thui, trùm mặt, hở hai con mắt, bóng dị đảo mắt nhìn quanh, nhỡn tuyến dừng trên người hai anh em họ Võ, ngó hai cán dao bóng loáng cắm nơi gáy nạn nhân, phát tiếng khô chìm:

- Hai đứa tới số, hà hà! Về hưởng gia tài... cho hai đứa chết chôn chung một mồ với tên già, thằng khách!

Soạt! Bóng lạ rút thanh gươm sáng, vọt tới chém vụt một phát. Phập phập! Hai cái đầu văng rụng xuống nền đá hoa, cái bóng bỗng giật thót mình, ngã vật mình xuống, miệng kêu "trời đầu quả gáo"!

Có tiếng phát âm u phía quan tài:

- Đứng lại! Ta đây! Mi còn chạy đâu thoát!

Theo tiếng hô trầm, một sợi thòng lọng quăng vút qua, chụp nghiến lấy bóng lạ, y nhanh nhẹn ngã vật xuống. Hắn lăn một, hai vòng, bị thòng lọng xiết chặt lôi về phía quan tài, nhưng bóng này cao bản lãnh hết sức, đã quay luôn mũi kiếm sóc đứt phựt vòng dây, chồm lên, vọt ra ngoài như chiếc cầu vồng.

Vải rũ gần quan tài tốc lên, bóng chàng trai họ Võ nhô ra, đánh vụt tay theo. Ánh thép loáng dưới nến vật vờ, vút ra chém "phập" tiếng ngay khi còn lơ lửng giữa không mờ ánh trăng một bàn chân rụng xuống "huỵch". Lẹ như chớp chàng họ Võ bắn vọt từ trong chỗ gần quan tài ra, Cả Hổ vọt theo. Minh Thần vừa vọt, vừa quát:

- Còn tên kia đứng lại, không ta chém!

Bóng cụt bàn chân sa xuống, máu tóe, lăn lộn, cố chồm lên, chàng trai xốc tới, đá lia một ngọn cước, trúng huyệt, nằm im, một bóng khác vừa tới bên thềm, thấy động, phóng vèo ra phía hoa viên. Võ đứng đầu thềm, chém lia lịa quát giật, rắc rắc rào rào chát chát, đường thép xả vòng chỗ bóng kia mới nhảy lẫn vào, loang loáng rất uy tợn.

- Đứng lại.

Cành gãy, mỏm đá rụng, bắn tả tơi, thoáng có bóng trong vùng tranh sáng, Võ lắc mình theo đường kiếm, bắn vọt qua ngọn giả sơn, thò tay túm luôn được gáy cái bóng này.

Trong lúc đó Quản Kình cùng bọn tay em đã chồm dậy, tông cửa hỏi, vọt ra phía sau cửa phòng khách, vừa kịp thấy bóng con nít từ sau cửa đu vút ra xa, bỏ chạy. Kình lẩy luôn một phát trúng cẳng, bóng này sa xuống tàn cây dưới, chỗ sáng trăng. Kình nổ luôn phát nữa, sa "bịch" đất. Chạy ù ra vồ, mới hay đó chỉ là một con vượn khoang mặc quần áo đen.

Tay con quái thú còn nắm chặt ống trúc đựng đầy mê hương. Quản Kình xách xác con vượn, chạy vòng ra đằng trước. Ngoài hoa viện chàng trai Võ Minh Thần đã túm được bóng lạ thứ hai quật sóng soài bên hòn giả sơn. Cả Hổ chạy theo sau thấy Minh Thần vừa bắn người ra đã túm quật ngã được hung thủ, Hổ vùng hỏi lớn:

- Nó sống hay chết?

Chàng trai dậm chân lên lưng bóng lạ cao giọng:

- Còn sống! Tiếc quá tay chém chết tên kia! Còn một đứa xông hương mê cửa sau!

- Cậu hai! Không phải người! Con vượn!

Quản Kình cùng bọn đàn em vọt ra, Kình túm cẳng con thú dốc ngược trước mặt hai anh họ Võ. Cả Hổ hô lớn:

- Lùng xem còn đứa nào nữa không? Chà! Chú nhanh như cắt, mẹo hay dữ à? Nào đem tất cả vào nhà!

Bóng lạ mặt trùm kín, bị điểm huyệt, nằm như khúc gỗ. Cả Hổ cúi xuống định lôi y, nhưng Quản Kình đã nhanh nhẹn sà xuống xốc luôn lên vai xăm xăm đi vào nhà khách, ném bịch cả người, thú xuống đất đá hoa. Bọn tay em chạy các nơi, chiếu đèn bấm, lục soát.

Võ Minh Thần phẩy tay xua nốt hương mê còn phảng phất trong phòng, bảo Quản Kình:

- Lột vải trùm coi!

Quản Kình ngồi xuống, lật ngửa bóng lạ, thò tay cởi nút buộc, giật soạt cái. Bộ mặt bóng lạ vụt lộ dưới ánh nến vật vờ, khiến cả ba người đều giật mình kinh ngạc, trố cả mắt. Vì... bóng lạ không ai khác... Khìn Lồi người Mán lai Kinh, bộ hạ rất đắc lực trong gia đình họ Võ! Người vùng này còn gọi y là chú "Lồi Mán Kinh."

- Kìa chú Khìn Lồi... sao lại thế này? Hắn là kẻ trung thành vào đồn điền mấy năm rồi mà...?

Võ Minh Thần, Quản Kình ngơ ngác nhìn nhau, chàng trai hơi nhíu mày, lẩm bẩm:

- Tôi đuổi theo chân tên kia rớt từ cao xuống, thấy bóng này vọt ra phía ngọn giả sơn, tôi nhảy ra chặn! Lẽ nào lầm được! Y cũng bịt mặt! Thử ra coi tên kia!

Quản Kình chạy ra túm lấy thủ cấp tên hung thủ vừa chém lầm phải hai hình nhân giả, bước vào. Đường thép lia "ngọt" đầu lâu còn trùm nguyên vải bịt đen tẩm máu. Quản Kình xách thủ cấp đứng quan tài lột phắt vải trùm. Nhưng chỉ là một tên hoàn toàn xa lạ, mặt mày dữ tợn, hai con mắt mở trừng trừng, không phải người đồn điền, cũng không phải dân quanh miền.

Quản Kình ném bịch đầu lâu xuống đất, đầu lâu lăn lông lốc nằm bên chỗ Khìn Lồi. Cả Hổ bảo Minh Thần:

- Thằng này không phải người địa phương mấy hạt châu Yên Bái này! Lạ thật! Chú thử giải huyệt cho nó coi! Chắc có chi bất thường đây!

Võ Minh Thần búng tay một cái, Khìn Lồi thở phì, bò nhỏm dậy, la lên:

- Trời! Suýt cậu hai chém chết Lồi à? Cậu hai giỏi võ dữ. Lồi thấy cậu hai chém rụng cái đầu thằng này!

Cả Hổ cau mày hỏi lớn:

- Chú Lồi! Cậu hai đuổi chém thằng này thấy chú núp hiên chạy ra vườn hoa. Chú theo hung thủ, phản thầy?

Khìn Lồi trợn ngược mắt vẻ kinh ngạc, vò đầu kêu:

- Cậu cả bảo Lồi cùng bọn quân gian? Lồi theo nó giết cụ nhà, giết hai cậu? Trời! Chém chết Lồi còn hơn à. Lồi lên đồi nghe động chạy lên thấy cậu hai đuổi nó trong thềm ra. Lồi chạy tới, chận bắt sống, bị đòn cậu hai mà! Tiếc dữ! Nó chạy ra, nó lao sà sau hòn núi giả, Lồi sắp túm được nó!

Cả ba ngơ ngác nhìn nhau, Hổ hỏi Minh Thần:

- Hay ngoài đó tranh tối tranh sáng, tên kia vừa lăn nhào ngoắt sau ngọn giả sơn thì Khìn Lồi vừa lao tới!

Võ Minh Thần nheo mắt nghĩ lại, bán tín bán nghi, bảo:

- Kể ra lúc chém tên kia, xác y rụng xuống, cái bóng thứ hai chạy ra, lúc đó có thể lầm lắm! Nhưng sao chú cũng bịt mặt như bọn gian?

Người Mán lai lễ phép:

- Lồi ẩn trên cây, thấy một đứa vọt qua, liền lên đồi, có lúc nó ló đầu giữa ánh trăng, tới chân đồi lại thấy tên nữa sịch tới, bàn gì với nhau, rồi vượt lên. Lồi thấy nó bịt mặt. Lồi cũng lấy vải bịt đi theo, phòng gặp đứa nào, nó tưởng cùng tụi. Lồi nghe trên nhà im ắng. Lồi lo hai cậu không hay biết chúng nó tới!

Hai anh em họ Võ ngó nhau. Minh Thần nghiêm mặt bảo:

- Từ nay nếu không gọi, chớ đến, có lần chết oan! Tôi đã dặn đừng ai tới khu đồi này, là sợ đêm tối chém lầm đó! Thôi! Hãy đem xác chúng đi chôn cho rồi!

Khìn Lồi theo lệnh chủ, vác luôn hai cái xác xách đầu lâu xuống đồi.

Cả Hổ vẫn ngờ vực, khẽ hỏi:

- Chú tin chú bắt lầm?

Minh Thần lắc đầu, thấp giọng:

- Lầm thế nào được! Mắt có thể lầm nhưng tay không lầm được! Tay em có thể sờ thấy hơi nóng sinh vật trong vòng năm mươi bộ, nằm dưới gầm quan tài, đã phát giác được có ba sinh vật. Phía trước chỉ có hai luồng nhân điện toát ra làm gì có luồng nào nữa! Chính nó đồng bọn với hung thủ.

Cả Hổ, Quản Kình ngơ ngác:

- Nhưng sao mãi hôm nay, nó mới xuống tay?

- Có lẽ chúng đợi em về để nhổ tận gốc. Nhưng không ngại! Em quyết làm vong hồn phụ thân được yên giấc! Chúng sẽ phải ra tay lần nữa trước ngày em đi!

Đoạn chàng trai ghé tai Cả Hổ, Quản Kình nói nhỏ. Giây lát sau đám thuộc hạ kéo lên cho hay không thấy dấu vết nào khác. Võ Minh Thần bảo mọi người đi ngủ. Từ đó đến sáng, đồn điền yên tĩnh hoàn toàn.

Sớm mai, người xung quanh miền đến viếng thêm đông, có nhiều người ngoại tỉnh vào, ai nấy đều ngậm ngùi thương tiếc ông già họ Võ.

Võ Minh Thần đang cùng Cả Hổ trả lễ khách vái trước linh sàng, chợt có Quản Kình vào báo:

- Có một cô gái nhà quan tới viếng hỏi cậu hai!

Ngạc nhiên, Võ Minh Thần bước vội ra, thấy một người mặc áo dài trắng, quần trắng, khăn "voan" trắng, cưỡi con ngựa trắng, vắt hai chân sang bên, coi đẹp lộng lẫy trong nắng sớm, phía sau có năm, sáu người lính "sà cạp trắng" theo hộ tống, cùng hai gái hầu.

Cả Hổ theo đứng sau Minh Thần che mày nhìn, khẽ bảo:

- A con gái quan tuần phủ Yên Bái! Cô Thủy Tiên!

Toán người lên đồi, Võ Minh Thần, Cả Hổ cùng tiến ra đón, tới gần xế vườn hoa, chàng trai ngó cô gái ngờ ngợ như gặp đâu rồi, hai bên chào nhau, cô gái xuống ngựa uyển chuyển tiến lại, cất giọng thánh thót:

- Thân phụ em mắc bệnh, em phải đi thay, ngoài Yên Bái được tin đồn điền nhà có chuyện chẳng lành, ai cũng buồn! Em xin có lời chia buồn cùng hai anh!

Cả Hổ nói lời cảm tạ, đưa cô gái cùng bọn lính vào thẳng nhà khách, cô gái thấy Võ Minh Thần có dáng ngờ ngợ, nàng thỏ thẻ:

- Kìa! Anh Thần! Anh không nhận được em! Trời! Sao anh lơ đãng thế? Mới sáng qua anh cứu em ngoài cây số bốn, năm mà!

Chàng trai "à" nhỏ, mãi mới nhận ra chính cô gái bị bọn lạ mặt bắt cóc, bữa nay nàng mặc quần áo thướt tha coi đẹp lộng hẳn lên khác hẳn cô gái mặc "quần ngựa" bắn chim bay sáng qua.

Lòng đang chất nặng ưu tư, lại thường ở núi cao rừng thẳm, ít khi gần phụ nữ. Võ Minh Thần thấy cô gái nhà quan này xinh đẹp, hồn nhiên thẳng thắn, chàng trai cũng thấy tâm hồn đỡ hiu hắt đôi chút, nhưng vẫn nói rất ít.

Còn nàng Thủy Tiên lại có vẻ thích thú gặp lại chàng trai ân nhân, nàng nói chuyện rất duyên dáng, mấy lần suýt cất tiếng cười khanh khách, phải cố nén, sực nhớ chàng trai ân nhân đang mắc đại tang. Thủy Tiên theo bọn Cả Hổ vào, đặt đồ phúng điếu, lễ trước linh sàng xong, thấy Thần mặt mày ủ dột, cô gái cố lựa lời an ủi cho khuây khỏa.

Trò chuyện qua lại, Võ Minh Thần mới hay cụ Tuần họ Phạm, cha nàng vốn là chỗ quen biết từ trước ngày ông già họ Võ ra làm quan Châu, hai người khá tương đắc tuy ông già họ Võ nhiều tuổi hơn ông họ Phạm.

Cô gái còn ở lại giúp gia đình họ Võ trong việc tiếp khách, ma chay, khách khứa, gia nhân ai cũng quý mến.

Ngay chiều đó, anh em họ Võ làm lễ an táng ông già họ Võ cùng lão bộc Sềnh tại nghĩa địa riêng của đồn điền phía sau trại, chàng trai vật mình khóc thảm thiết, người người đều rơi lụy. Chôn cất xong, Võ Minh Thần đứng ra nói lời cảm tạ, và xin từ biệt, sớm mai ra đi có việc cần kíp.

Mọi người đều ngạc nhiên, cố giữ lại, nhưng Võ Minh Thần nhất định sẽ ra đi khiến mọi người đều quyến luyến. Riêng Cả Hổ, Quản Kình biết rõ kế của Minh Thần. Chàng trai định đánh nước cờ quan trọng, nhử "kẻ thù bí mật" tới đồn điền.

Đêm đó, người trong trại đều đi ngủ sớm. Ai cũng mệt mỏi vì cuộc ma chay, mới mười giờ đêm, đồn điền đã im lặng như tờ, chỉ còn vài ba gia đinh thay phiên canh gác, tuần phòng quanh trại.

Võ Minh Thần cùng Cả Hổ nằm trong buồng Cả Hổ, đêm khuya lạnh, đắp chăn tới cổ, tới mười hai giờ, cả hai lại lăn xuống nằm dưới gầm giường, áp dụng mẹo trước, nhưng lần này, Võ Minh Thần đã bí mật tạc được hai cái đầu gỗ, giống hệt như hai anh em, sơn phết rất khéo lắp vào hình nhân, đắp chăn tới cổ, lại để một ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ đặt trên bàn đem kê đầu giường, ánh sáng hắt qua bức màn tiêu soi vào mặt giả coi như thật.

Quả nhiên, khoảng giữa giờ Tý, có ba bóng bí mật đột nhập đồn điền. Cả ba có nghề dạ hành, vượt vào lúc nào không hay, thoáng đã đứng sững bên tòa biệt thự hai tầng trên đồi. Cả ba đảo một vòng nghe động tĩnh, áp cả tai xuống đất, mười phút sau, cả ba tiến đến một gốc cây lớn xế sau phòng Cả Hổ, vọt lên lùm cây rậm, êm như không, chừng năm phút sau, bỗng thấy một bóng đu mình vun vút trên ngọn cây, thoắt đã tới một cây xoài bên cửa sổ hậu, êm như không tiếng động, ngoài một vài tiếng lá cọ nhau xào xạc trong gió thoảng. Thì ra bóng con nít nhỏ là một con vượn mặc quần áo như người. Con quái này đu mình vào hành lang, phun hương mê vào buồng rồi lại đi buồng khác.

Căn biệt thự này kiến trúc có hành lang chạy quanh, phong lan cây cảnh, hoa leo chăng đầy, lát sau, con quái đã phun hết các buồng, cả căn biệt thự đã chìm trong làn hương mê hồn ngào ngạt. Hương mê này thuộc lại đặc biệt của giới đạo tặc thượng thặng, nín hơi không hít, nhưng lỗ chân lông hấp thụ phải sẽ mê liền.

Riêng với tay theo thầy học thuật thượng thừa trên cao sơn như Võ Minh Thần, hương mê này không tấn công tạng phủ nổi, Thần lại có thuốc trừ cho Cả Hổ, Quản Kình uống nên hai anh em cứ năm yên dưới gầm giường, chờ đợi. Xông xong, con vượn quái vật vọt ra lùm cây, hai bóng bí mật kia cùng con quái quăng mình vào hành lang, tài nghệ lợi hại hết sức, tiếng bứt cành đu chỉ rào thoảng nhẹ.

Một bóng cao, một bóng lùn, bàn tán chi với nhau, rồi bóng cao lại bên cửa sổ, bóng lùn lại bên cửa hông, cùng bẻ cửa, dòm vào, con vượn tuần đảo quanh. Bóng cao chỉ thò ngón tay vào móc nhẹ, cửa chớp cửa kính đã vụn thủng, êm ru, bóng này ghé mắt dòm vào. Ánh đèn Hoa Kỳ chiếu qua bức màn lan tiêu trắng, soi hai bóng đắp chăn nằm trong, tuy mờ mờ nhưng cũng đủ rõ nét mặt anh em họ Võ nằm ngủ say như chết.

Bên cửa sổ, bóng lùn cũng vừa bẻ được cửa nhìn vào, cả mừng vọt ra phía sau, gặp bóng cao.

- Anh em nó tới giờ tận số rồi! Thằng nằm ngoài là đứa mới về đó! Thằng này lợi hại lắm! Coi chừng nó lại dùng mẹo trước.

- Chắc không! Ma chay bận rộn, chúng ngủ như chết, coi mặt mày chúng còn ngờ gì nữa! Vào thôi.

- Khoan! Để cho mỗi đứa một mũi đã! Cùng ra tay!

Dưới gầm tối, qua làn hương mê, anh em Võ Minh Thần vẫn nằm theo dõi từng cử động của mấy bóng bí mật bên ngoài.

- Hai đứa đều giỏi võ còn hơn tụi trước! Anh cứ nằm yên chớ xuất đầu, để mình em đối phó! Lần này phải bắt sống mới ra manh mối!

Võ Minh Thần vừa ghé tai Cả Hổ thì thào, bỗng nghe "véo" "véo" liền mấy tiếng xé gió, màn lan tiêu động đậy, tiếp liền mấy tiếng "thụt" "cục" hai cái đầu trong giường đã bị mấy mũi đinh nhọn đóng ngập cổ, sọ.

Minh Thần khôn ngoan đã lót một lần thịt sụn quanh cổ, sọ, trước khi đính tóc giả, khi nghe kẻ lạ phóng đinh, Thần lại thò tay lên lắc cả đầu mình hai hình nhân, làm như thể dãy chết.

Quả nhiên, phóng đinh xong, thấy hai người quằn quại, hai kẻ bí mật mắt sáng hẳn lên, bóng cao vọt ra liền, gặp bóng lùn, rồi cả hai tiến lại trước cửa buồng, vặn ổ khóa vào trong. Gió lùa khe cửa, ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét chập chờn, vụt, hai cái bóng đen đã đứng sững bên giường, bóng cao thò tay vén cửa màn, dòm rõ hai bộ mặt im lìm, phát ra tiếng cười âm u:

- Hà hà! Nhổ tận gốc giòng họ Võ! Mày giỏi lắm, nhưng mày chưa đủ trí khôn. Tao chặt đầu hai đứa! Tao chiếm hết!

Soạt, bóng cao rút ra một lưỡi đoản đao, tay trái vén màn, tay phải chém phập xuống cổ họng hình nhân Võ Minh Thần nằm phía ngoài. Lưỡi thép sáng hạ gần tới thình lình Võ Minh Thần thò vụt tay lên nắm nghiến lấy cổ tay bóng lạ.

"Bạch" tay đao chém dính luôn vào tay Thần, bóng dị giật nảy mình, bật kêu "trời" dùng hết sức mạnh định vùng giật lùi lại, nhưng không kịp nữa. Võ Minh Thần đã bóp trúng mạch môn, miệng thổi phù một cái, bóng lạ bủn rủn tứ chi, tối tăm mặt mày, Võ theo đà bật dậy như chiếc lò xo, vừa đẩy "huỵch" bóng cao xuống đất, vừa vươn tay chụp bóng lùn đứng gần đấy vừa bước tới, vén rộng màn, định ghé dòm. Nhưng vừa thoáng thấy Võ nhỏm dậy, y đã nhanh nhẹn kịp lùi lại đã xa hai, ba bộ, giơ tay rút đinh phóng vào Võ. Thủ pháp tên này lẹ khác thường, nhưng Võ Minh Thần còn lẹ hơn, tay phải vừa chụp hụt, tay trái đã đánh vụt ra như chớp, "véo" từ ống tay áo bay vút ra một lưỡi liễu đao nháng sáng dưới ánh đèn Hoa Kỳ, đã nghe bóng lùn kêu rú lên, lảo đảo, ngã lùi loạng choạng dựa rầm vào cánh cửa khép, máu phun phì phì. Cả bàn tay cầm đinh đã rụng "độp" xuống nền đá hoa, chiếc đinh kêu "keng" tiếng dòn vang.

- Đứng im!

Ánh thép đảo trốc đầu bóng lùn, Võ Minh Thần vừa quát vừa xẹt tới định bắt sống, không ngờ bóng này tuy bị cụt bàn tay, vẫn còn hăng tiết, lấy lại thăng bằng, tay kia rút súng chĩa vẫy. Chát! Liễu đao chém bay cây súng. Võ Minh Thần xẹt tới, xòe bàn tay trái phạt ngang cổ họng, đúng lúc Cả Hổ từ trong gầm giường khom mình vọt ra định phụ em, bắt sống tên lùn. Thần vừa chặt vừa thấy bóng Cả Hổ, thất kinh thu lưỡi đao, dừng tay chặt, miệng kêu giật:

- Coi chừng... anh!

Thì Cả Hổ vừa lao vọt ra, bị bóng lùn đá trúng kheo chân, ngã lộn nhào, bóng lùn thừa cơ Võ thu đao, liền dừng đà lách mình vụt ra ngoài. Thoáng thấy Cả Hổ bị đá ngã, bóng lùn lách ra, chàng trai buộc lòng phải chém vút tay trái theo. Chát! Ngoài mép cửa, trúng luôn bả vai bóng lùn, bóng này ngã huỵch ngoài hành lang, vừa lúc con vượn lùn từ đâu đu vào, tay cầm con dao ném vào trong bị lưỡi đao lướt thích trúng tay, con quái vùng bỏ chạy, miệng nó hú một tràng lanh lảnh, cùng lúc bóng lùn thu hết tàn lực, la lên một tiếng lớn. Võ Minh Thần vọt ra, thấy bóng lùn đã tắt thở, máu hộc hành lang, chàng trai đưa tay rà theo con đường cung, chém rụng luôn con vượn vừa thót lên một tàn cây xế trước hành lang.

Chàng trai vọt ra, thấy con vượn dãy chết, quay luôn vào, hỏi lớn:

- Anh có sao không?

- Không hề gì! Tên này cũng chết rồi!

Cả Hổ vừa ra đứng bên xác bóng lùn, ngồi xuống lật vải trùm mặt. Một tên lạ.

Hai anh em vừa định vào nhà. Bỗng nghe phía dưới, súng nổ đì độp lẫn tiếng reo hò vang dậy, Quản Kình từ chân đồi vọt lên gọi lớn:

- Quân giặc đánh vào đồn điền... đông lắm! Hằng trăm đứa, vừa súng, vừa cung nỏ!

Cả Hổ quơ cây súng kẹt tủ, hỏi nhanh:

- Chúng vào mấy phía?

Quản Kình cùng một toán bảy, tám thủ hạ xách khí giới ùa lên.

- Chúng tràn hai mặt tiền hậu, nhưng mặt tiền nhiều súng!

Cả Hổ vùng hô:

- Chú lo trên cây cao này, để bọn tôi xuống coi!

- Nhà có hỏa pháo không?

- Có đấy! Quanh trại có nhiều đồ dẫn hỏa để sẵn!

Cả Hổ mở tủ lấy một mớ hỏa pháo, cùng bọn Quản Kình chạy xuống dưới.

Tiếng súng nổ, người la inh ỏi, cả trại náo động trong đêm mờ.

Võ Minh Thần khêu to ngọn đèn, đốt thêm cặp nến lớn, túm tên cao lớn lên, gỡ soạt vải trùm, dưới đèn, chỉ là một tên lạ, mặt mày dữ tợn, coi vẻ người thâm sơn. Giải huyệt, điểm triệt võ công. Thần dịu dàng hỏi:

- Ngươi đâu tới? Phải người trên biên thùy? Coi lạ mặt, có thù oán gì lại muốn hại người họ Võ?

Tên lạ ngó lừ lừ, không nói nửa lời. Bị gặng hỏi mãi, hắn mới phá giọng chìm âm tiếng Mán hơi khó nghe:

- Mày giỏi! Tao thua mày! Giờ bắt được tao cứ giết! Đừng hỏi lôi thôi!

Võ Minh Thần vẫn đấu dịu bảo:

- Ta có cách làm ngươi phải nói! Nhưng ta không muốn. Ngươi sợ chi phải giấu? Sợ đồng bọn hại? Biết vật này không?

Vừa hỏi, chàng trai vừa chìa cổ tay, cho tên này coi chiếc vòng ngọc, mắt ngó hắn không chớp. Nhưng hắn cứ điềm nhiên như không, nhếch mép khô giọng:

- Trại chúng mày sắp ra tro! Không giữ nổi đâu!

Võ Minh Thần bực mình, đang định dùng võ thuật, bắt hắn phải khai, chợt thấy cả khu trại sáng rực ánh hỏa pháo, tiếng súng nổ quân hò dữ dội, đạn "chíu" cả lên đồi, Quản Kình chạy lên báo:

- Quân giặc đông hơn ta nhiều! Chúng đã lọt sau cổng trại!

- Còn mặt sau?

- Mặt sau, ta giữ được, chúng chỉ có ít tay súng nỏ, súng hỏa mai phía đó!

Mạnh nhất mặt tiền! Còn Khìn Lồi cùng hai, ba tên người Mán biến mất! Tình thế gấp!

Võ Minh Thần điểm cứng tên cao lớn, ném hắn vào một xó, khóa cửa lại, đoạn cùng Quản Kình lao xuống dưới.

Khi Võ Minh Thần xuống dưới khu trại dưới, thì quân giặc đã tràn vào trong, chiếm hẳn dãy đồi che chếch Đông Bắc, đánh dập xuống khu tá điền, xưởng trà, nhà kho, khí thế rất hung. Mặt này, giặc có khoảng hơn năm mươi tay súng, lẫn nhiều hỏa mai, cùng toán cung nỏ, nhưng có hai khẩu trung liên rất lợi hại, quét trúng hết sức, mở đường cho toàn đội.

Bên trại, tráng đinh, tá điền, thủ hạ họ Võ khoảng năm sáu chục tay chiến, nhưng chỉ có độ bốn mươi tay súng, vừa hỏa mai, súng "mút", với một cây trung liên độc nhất. Hỏa lực của trại hơi yếu hơn giặc, lại phải rải quân bảo vệ khu cơ xưởng, gia cư rộng, nên càng mỏng, có vẻ núng trận.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách