Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2012 20:05:00 | Xem tất


Kano Creta ra siêu thị gần nhà. Tôi đưa tiền cho cô và đề nghị trước khi ra khỏi nhà cô nên thay quần áo khác tươm tất hơn. Cô gật rồi vào phòng Kumiko, chọn một chiếc áo cánh bằng vải cotton trắng và váy in hoa.

- Ông Okada không phiền vì tôi mặc quần áo của bà nhà chứ?

Tôi lắc đầu.

- Thư cô ấy bảo tôi vứt hết đi. Cô có mặc cũng chẳng phiền ai hết.

Đúng như tôi chờ đợi, mọi thứ đều rất hợp với cô, hợp đến lạ kỳ. Ngay cả cỡ giày của cô cũng khớp. Kano Creta ra khỏi nhà mang một đôi xăng-đan của Kumiko. Nhìn Kano Creta mặc quần áo của Kumiko, một lần nữa tôi lại cảm thấy thực tại đang đổi hướng, kiểu như một con tầu khách khổng lồ đang chầm chậm bò sang lộ trình khác vậy.

Sau khi Kano Creta đi khỏi, tôi nằm trên sofa nhìn đăm đăm ra vườn, đầu óc trống rỗng. Ba mươi phút sau cô đi taxi về, tay xách ba túi to ních đầy thức ăn. Rồi cô làm cho tôi món thịt nguội với trứng và salad cá hồi.

- Ông Okada này, ông có quan tâm gì đến đảo Crete không? - Kano Creta đột ngột hỏi sau khi chúng tôi ăn xong.

- Crete? - tôi nói - Ý cô muốn nói đảo Crete ở Địa Trung Hải ấy à?

- Vâng.

Tôi lắc đầu.

- Tôi không biết. Không phải là tôi không quan tâm. Chẳng qua tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến chuyện ấy cả.

- Ông có muốn đến Crete cùng tôi không?

- Đến Crete cùng cô? - tôi hỏi lại.

- Tôi muốn rời Nhật một thời gian. Suốt khoảng thời gian ngồi dưới giếng sau khi ông đi khỏi, tôi nghĩ là nghĩ về chuyện đó. Ngay từ khi chị Malta đặt cho tôi cái tên Creta, tôi đã muốn một ngày nào đó sẽ đến Crete. Để chuẩn bị tôi đã đọc nhiều sách về hòn đảo đó. Thậm chí tôi còn học tiếng Hy Lạp để có thể sống ở đó khi đến lúc. Tôi có vài khoản tiết kiệm kha khá, đủ để hai chúng ta sống thảnh thơi ở đó một thời gian dài. Ông sẽ không phải lo gì chuyện tiền nong cả.

- Kano Malta có biết cô có ý định đi đảo Crete không?

- Không. Tôi không hề nói gì với chị về chuyện này, nhưng tin tôi tin chắc chị ấy sẽ không phản đối. Hẳn chị ấy sẽ nghĩ đó là điều tốt cho tôi. Chị đã dùng tôi làm trung gian trong năm năm qua, nhưng ấy không phải là chị khai thác tôi như một thứ công cụ. Chị làm vậy cũng là để giúp tôi phục hồi. Chị tin rằng bằng cách cho tâm trí hay bản ngã của nhiều người khác nhau đi qua tôi, chị có thể giúp tôi nắm chắc được "cái ngã" của chính mình. Ông có hiểu điều tôi nói không? Với tôi, nó có tác dụng như một thứ kinh nghiệm của người khác, qua đó tôi biết có một cái ngã là như thế nào.

Thử nghĩ mà xem. Cả đời tôi chưa bao giờ nói thẳng thừng, rành rọt với bất cứ ai: "Tôi muốn làm việc này". Ngay từ thời điểm ra đời, cái đau là trung tâm cuộc sống của tôi. Mục đích duy nhất của đời tôi là tìm cách cùng tồn tại với cái đau khủng khiếp đó. Rồi khi tôi đầy hai mươi tuổi và cái đau biến mất khi tôi tìm cách tự tử, thì thay cho cái đau lại là một nỗi vô cảm sâu thăm thẳm. Tôi sống như cái xác biết đi. Một tấm màng vô cảm dày phủ kín quanh tôi. Tôi hoàn toàn không có chút gì - thậm chí không một mẩu nhỏ - của cái gọi là ý chỉ của riêng tôi. Thế rồi khi Wataya Noboru làm ô uế thể xác tôi và mở tung tâm trí tôi ra, tôi đã có được cái tôi thứ ba của mình. Nhưng dù đã vậy đi nữa tôi vẫn chưa là chính mình. Mãi đến giờ tôi vẫn chỉ nắm được cái vỏ tối thiểu cần thiết để mang chứa tôi - chỉ cái vỏ mà thôi. Và như một cái vỏ, dưới sự dẫn dắt của Kano Malta, tôi cho nhiều cái tôi khác thông qua mình.

Hai mươi sáu năm đời tôi đã trôi qua như vậy đó. Ông cứ tưởng tượng mà xem: suốt hai mươi sáu năm trời, tôi chẳng là gì hết. Đó là điều tôi đã đột nhiên hiểu ra khi ngồi một mình dưới đáy giếng mà suy nghĩ. Tôi nhận ra rằng suốt khoảng thời gian dằng dặc đó, con người gọi là "tôi" kia kỳ thực chẳng là gì sất. Tôi chẳng là gì khác ngoài một con điếm. Một con điếm thể xác. Một con điếm tinh thần.

Tuy nhiên, bây giờ tôi muốn nắm chắc lấy cái tôi mới của mình. Tôi không còn là cái vỏ cũng không còn là vật trung gian nữa. Tôi đang cố xác lập bản thân mình ở đây, trên mặt đất này.

- Tôi hiểu những gì cô nói với tôi, nhưng tại sao cô muốn đi Crete với tôi chứ không phải ai khác?

- Bởi vì đó có thể là điều tốt cho cả hai chúng ta: cho ông Okada, lẫn cho tôi - Kano Creta nói. - Hiện thời cả ông lẫn tôi đều không cần có mặt ở đây. Mà nếu đã vậy, tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta không có mặt ở đây. Ông Okada nói tôi nghe, ông có dự định làm một việc gì không, ông có kế hoạch nào để thực hiện từ nay trở về sau không?

- Việc duy nhất tôi cần là nói chuyện với Kumiko. Chừng nào tôi với cô ấy chưa gặp mặt nhau và cô ấy chưa bảo tôi rằng cuộc sống chung của hai chúng tôi đã chấm dứt, tôi không thể làm gì khác. Tuy nhiên, tôi không biết phải tìm cô ấy bằng cách nào bây giờ.

- Nhưng nếu ông tìm ra bà ấy và cuộc hôn nhân giữa hai người đã "chấm dứt" như ông nói, thì liệu ông có nghĩ đến việc đi Crete với tôi không? Đến một lúc nào đó hai chúng ta sẽ phải khởi đầu một cái gì đó mới, - Kano Creta nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. - Tôi cho rằng đảo Crete là điểm khởi đầu không tồi.

- Không tồi chút nào cả, - tôi nói. - Bất ngờ thì có thể, nhưng là điểm khởi đầu thì không tồi.

Kano Creta mỉm cười với tôi. Nghĩ một chút, tôi nhận ra rằng đây là lần đầu tiên cô mỉm cười. Khi cô cười, tôi cảm thấy như lịch sử đã phần nào đã bắt đầu chuyển sang hướng mới.

- Chúng ta vẫn còn thời gian, - cô nói. - Dù tôi có quàng lên đi nữa thì cũng phải mất ít nhất hai tuần để chuẩn bị. Ông hãy dùng thời gian đó để suy nghĩ, ông Okada ạ. Tôi không biết liệu tôi có thể cho ông cái gì không. Ngay lúc này tôi cảm thấy mình chẳng có gì để cho cả. Tôi gần như hoàn toàn trống rỗng. Tôi chỉ mới bắt đầu lấp đôi ba nội dung vào cái vỏ rỗng này, từng tý một. Tôi có thể trao ông chính bản thân tôi, nếu ông Okada bảo như thế là đủ cho ông. Tôi tin rằng hai ta có thể giúp nhau.

Tôi gật đầu.

- Tôi sẽ nghĩ xem, - tôi nói. - Tôi rất vui khi được lời đề nghị này của cô, tôi nghĩ nếu chúng ta cùng đi được với nhau thì hay quá. Thật đấy. Nhưng tôi còn nhiều điều phải suy nghĩ và nhiều việc cần phải thu xếp.

- Nếu như cuối cùng ông nói ông không muốn đến đảo Crete thì cũng không sao. Tôi sẽ không mếch lòng đâu. Tiếc thì tôi sẽ tiếc, nhưng tôi muốn ông trả lời thẳng, đừng khách sáo.


° ° °


Kano Creta lại lưu lại nhà tôi đêm đó. Lúc xế chiều cô mời tôi đi dạo trong công viên gần nhà. Tôi quyết định quên đi vết bầm trên mặt và ra khỏi nhà. Hà cớ gì phải bận tâm về những chuyện đó chứ? Chúng tôi tản bộ khoảng một tiếng đồng hồ trong buổi tối mùa hè dễ chịu, rồi trở về nhà ăn tối.

Sau khi ăn xong, Kano Creta bảo cô muốn ngủ với tôi. Cô bảo cô muốn có quan hệ tinh giao bằng thể xác với tôi. Chuyện này đột ngột quá, tôi không biết nên làm gì, và tôi nói với cô đúng như vậy: "Chuyện này đột ngột quá. Tôi không biết nên làm gì".

Nhìn thẳng vào tôi, Kano Creta nói:

- Dù ông Okada có đi cùng tôi đến đảo Crete hay không, tôi muốn ông hãy lấy tôi làm gái điếm, dù chỉ một lần duy nhất. Tôi muốn ông mua thể xác tôi. Ngay tại đây. Ngay bây giờ. Đây sẽ là lần cuối cùng của tôi. Tôi sẽ thôi làm gái điếm, dù là điếm thể xác hay điếm tinh thần. Tôi cũng sẽ bỏ cái tên Kano Creta. Tuy nhiên, muốn vậy, tôi cần có một điểm phân giới rõ ràng, nhìn thấy được, nó bảo cho ta biết rằng "đến đây là hết".

- Tôi hiểu cô cần một điểm phân giới, nhưng tại sao cô cứ phải ngủ với tôi?

- Ông Okada không hiểu sao? Bằng cách ngủ với ông, con người thực của ông, nhập thân thể mình vào thân thể ông trong thực tế, tôi muốn đi qua con người ông, con người gọi là Okada này. Có làm như vậy tôi mới mong thoát khỏi cảm giác ô uế ở bên trong tôi. Điểm phân giới là vậy đó.

- Dù sao đi nữa, tôi rất tiếc, tôi không bao giờ mua thể xác người khác.

Kano Creta cắn môi.

- Hay là thế này. Thay vì trả tiền, ông hãy cho tôi một ít quần áo của vợ ông. Cả giày nữa. Chúng ta sẽ lấy đó làm cái giá cho thể xác tôi. Như vậy là được phải không ông? Chừng đó tôi sẽ được cứu thoát.

- Cứu thoát? Ý cô là cô sẽ được giải phóng khỏi vết nhơ mà Wataya Noboru đã để lại bên trong cô?

- Vâng, ý tôi là thế. - Kano Creta nói.

Tôi nhìn đăm đăm vào cô. Không có cặp lông mi giả, khuôn mặt Kano Creta trông thật trẻ con.

- Này Kano Creta, - tôi nói. - Thật ra gã Wataya Noboru này là người thế nào? Hắn là anh vợ tôi đấy, nhưng hầu như tôi chẳng biết gì về hắn. Hắn nghĩ những gì? Hắn muốn cái gì? Tôi chỉ biết chắc mỗi một điều là hắn và tôi căm ghét nhau.

- Wataya Noboru là kẻ thuộc về một thế giới hoàn toàn đối lập với thế giới của ông, - Kano Creta nói. Cô dừng một chút, dường như để tìm từ, rồi mới nói tiếp: - ở một thế giới nơi ông Okada mất tất cả thì Wataya Noboru được tất. Ở một thế giới nơi ông Okada bị khước từ thì Wataya Noboru được chấp nhận. Ngược lại cũng vậy. Chính vì vậy mà hắn thù ghét ông đến thế.

- Tôi không hiểu. Việc gì hắn phải bận tâm là có cái thằng tôi ở trên đời này chứ? Hắn vừa nổi tiếng lại vừa lắm quyền lực. So với hắn, tôi chỉ là con số không tròn trĩnh. Có gì hắn phải phí thời giờ công sức để đi thù ghét chính tôi?

Kano Creta lắc đầu.

- Lòng thù hận, nó cũng như một cái bóng dài, đen. Trong hầu hết trường hợp, ngay cả kẻ bị cái bóng đó trùm lên cũng không biết nó từ đâu tới. Nó như thanh gươm hai lưỡi. Khi ta đâm người khác thì cũng là đâm chính mình. Ta chém người khác càng mạnh thì cũng chém chính mình càng mạnh. Đôi khi nó gây chết người nữa. Nhưng thoát khỏi nó không dễ đâu. Ông Okada cần phải cẩn thận. Nó nguy hiểm lắm. Một khi lòng thù hận đã bắt rễ trong lòng ông thì rứt bỏ được nó là điều khó nhất trên đời này.

- Mà cô thì cảm thấy được nó phải không? Cái cội rễ thù hận trong lòng Wataya Noboru ấy.

- Vâng, tôi thấy được. Đến giờ vẫn cảm thấy được, - Kano Creta nói. - Đó chính là cái đã xé toạc thể xác tôi làm hai, đã làm tôi ô uế, ông Okada ạ. Chính vì vậy tôi không muốn hắn là người khách cuối cùng mua thể xác tôi. Ông có hiểu không?

Đêm ấy tôi lên giường với Kano Creta. Tôi cởi bỏ những thứ quần áo của Kumiko mà cô mặc rồi nhập thân thể mình vào cô. Nhẹ nhàng và lặng lẽ. Như thể đó là phần nối dài của giấc mơ tôi, như thể tôi đang tái tạo trong thực tại chính những động tác tôi đã làm với Kano Creta trong giấc mơ. Thân thể cô là có thực, là sống động. Nhưng thiếu một cái gì đó: thiếu cái cảm thức sáng rõ rằng chuyện này đang xảy ra trong thực tế. Những mấy lần tôi có cái hư giác rằng mình đang làm những việc này với Kumiko chứ không phải Kano Creta. Tôi cứ đinh ninh rằng ngay khi tôi xuất thì sẽ thức dậy. Nhưng tôi không thức dậy. Tôi đi vào bên trong cô. Đó là thực tại. Đúng là thực tại. Nhưng mỗi khi tôi nhìn nhận điều đó thì thực tại lại có vẻ ít thực hơn một chút. Thực tại cứ lỏng ra dần và rời khỏi thực tại, từng bước từng bước một. Nhưng dẫu sao đó vẫn là thực tại.

- Ông Okada, - Kano Creta nói, hai tay vòng qua lưng tôi, - ta cùng đến đảo Crete nhé. Đây không phải là chỗ cho hai ta nữa, không phải cho ông cũng không phải cho em. Chúng ta phải đến đảo Crete. Nếu ông ở lại đây, sẽ có chuyện không hay xảy ra với ông. Em biết. Em tin chắc thế.

- Chuyện không hay?

- Hết sức không hay, - Kano Crete nói lời tiên tri. Giọng cô nhỏ nhưng xuyên thấu tim như giọng con chim tiên tri sống trong rừng sâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2012 20:06:48 | Xem tất


Chương 15
Điều Không Hay Duy Nhất Từng Xảy Ra Trong Nhà Kasahara May

Kasahara May Suy Tư Về Cội Nguồn Kinh Tởm Của Cái Nóng



- Chào Chim vặn dây cót! - giọng phụ nữ nói. Áp chặt ống nghe vào tai, tôi nhìn đồng hồ. 4 giờ chiều. Lúc điện thoại reo tôi đang nằm trên sofa, mình mẩy đẫm mồ hôi. Đó là một giấc chợp mắt ngắn, khó chịu. Lúc này vẫn còn lại cái cảm giác như thể ai đó đã ngồi đè lên người tôi suốt trong thời gian ngủ. Cái kẻ chẳng biết là ai đó đã chờ khi tôi thiếp đi thì đến ngồi lên người tôi, rồi ngay trước khi tôi thức giấc thì đứng dậy bỏ đi.

- A-lôôô, - giọng nữ kia thỏ thẻ, gần như tiếng thì thầm. Tiếng nói dường như đi qua một thứ không khí cực mỏng nào đó rồi mới đến tai tôi. - Kasahara May gọi đây...

- Chào, - tôi cố nói, nhưng miệng tôi vẫn chưa chịu cử động như tôi muốn. Cái chữ thoát ra nghe như một tiếng rên thì đúng hơn.

- Anh đang làm gì đấy? - cô hỏi, giọng quan tâm.

- Chả làm gì cả, - tôi vừa nói vừa đưa đầu nối của ống nghe ra xa để hắng giọng. - Chả làm gì. Đang ngủ.

- Em phá giấc ngủ của anh à?

- Ừ thì có, nhưng không sao. Chỉ chợp mắt tý thôi mà.

Kasahara May có vẻ ngần ngừ một chút. Rồi cô nói: - Này Chim vặn dây cót, anh qua nhà em được không?

Tôi nhắm mắt lại. Trong bóng tối treo lơ lửng những ánh sáng nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau.

- Được thôi, - tôi nói.

- Em đang tắm nắng ngoài vườn, anh cứ vào qua ngõ sau ấy.

- Ok.

- Này Chim vặn dây cót, anh có giận em không?

- Anh không biết, - tôi nói. - Nhưng dù thế nào anh cũng đi tắm, thay đồ một cái rồi qua em ngay. Anh có chuyện cần nói với em.

Tôi mở vòi nước lạnh xối toàn thân một lát cho tỉnh người, sau đó chuyển sang nước nóng để kỳ cọ, rồi lại mở nước lạnh. Làm vậy xong tôi cũng tỉnh hẳn ra, nhưng cơ thể tôi vẫn thấy ù lỳ, nặng trịch. Chân tôi bắt đầu run, trong khi tắm tôi phải vịn lấy giá treo khăn tay hay ngồi lên thành bồn tắm mấy lần. Có lẽ tôi kiệt sức hơn mình tưởng.

Ra khỏi bồn tắm và lau khô người xong, tôi đánh răng rồi nhìn mình trong gương. Vết bầm màu xanh sẫm vẫn còn đó trên má phải, không sẫm hơn cũng không nhạt hơn trước. Hai nhãn cầu tôi chằng chịt những đường đỏ li ti, dưới mắt có quầng thâm. Hai má tôi hóp vào, tóc tôi bờm xờm, phải tỉa. Tôi trông như một xác chết còn mới vừa sống lại, tự đào mồ chui lên.

Tôi mặc áo phông, quần soóc, đội mũ, mang kính râm. Ra khỏi nhà, đi dọc theo con ngõ, tôi nhận ra rằng cái nóng còn lâu mới dứt. Mọi sinh vật trên mặt đất - mọi sinh vật mắt nhìn thấy được - đều há hốc miệng chờ mưa, nhưng trên trời không có lấy một cụm mây. Một màn không khí hầm hập, tù đọng trùm lên con ngõ. Nơi này vắng tanh vắng ngắt, như mọi khi. Tốt thôi. Vào một ngày oi bức thế này, và với cái bản mặt tôi trông gớm ghiếc thế này, tôi không muốn gặp ai hết.

Trong vườn căn nhà hoang, con chim đá vẫn nhìn đăm đăm lên trời như trước, mỏ nghếch lên trên. Nó trông còn bẩn thỉu hơn cả lần trước, còn bệ rạc thảm hại hơn. Thế nhưng vẫn có cái gì đó căng thẳng trong cái nhìn của nó. Dường như nó đang nhìn chằm chặp một cái gì đó cực kỳ u ám đang trôi trên bầu trời. Giá như có thể, con chim hẳn đã dời cái nhìn sang chỗ khác, nhưng mắt nó như đã bị khoá chặt vào một chỗ, nó không còn cách nào khác, đành phải nhìn thôi. Những ngọn cỏ dại cao nghệu vây quanh bức tường vẫn bất động, như dàn đồng ca trong bi kịch Hy Lạp đang nín thở chờ sấm truyền ban xuống. Chiếc Ăng-ten truyền hình trên mái nhà chĩa những cái xúc-tu bằng bạc vào cái nóng ngạt thở. Dưới ánh sáng mùa hè thiêu đốt, mọi thứ đều khô xác và kiệt sức.

Sau khi quan sát vườn căn nhà hoang, tôi đi vào vườn nhà Kasahara May. Cây sồi già hất bóng râm mát mẻ lên bãi cỏ, nhưng Kasahara May rõ là cố tình tránh bóng râm mà nằm dài ngay dưới cái nắng như thiêu như đốt. Cô bé nằm ngửa trên ghế xếp, mặc một bộ bikini nhỏ xíu màu sôcôla, hai mảnh vải bé tý nối với nhau bằng mấy mẩu dây. Tôi không khỏi tự hỏi mặc như thế liệu người ta có bơi được không. Cô vẫn đeo cặp kính râm như khi chúng tôi gặp nhau lần đầu, những giọt mồ hôi to lấm tấm trên mặt. Dưới ghế xếp cô nằm là một tấm khăn tắm màu trắng, một hộp đựng kem chống nắng và mấy tờ tạp chí. Nằm bên cạnh là hai lon sprite rỗng, một lon được cô dùng làm gạt tàn thuốc. Một ống nước nhựa có đầu phun nằm trơ trên bãi cỏ, ai đó dùng xong cũng không buồn cuộn lại.

Khi tôi đến gần, Kasahara May ngồi dậy với tay tắt radio. Da cô rám nắng hơn nhiều so với lần trước. Đây không phải là cái rám nắng bình thường như khi người ta đi tắm biển cuối tuần. Từng phần cơ thể cô - từ đầu đến ngón chân - được nung chín đều khắp. Dường như suốt ngày cô chỉ làm mỗi một việc là tắm nắng, kể cả suốt thời gian tôi ở dưới giếng. Tôi nhìn quanh vườn một chút. Vườn trông chẳng khác gì lần trước, bãi cỏ rộng xén tỉa chỉn chu, cái hồ vẫn cạn nước và khô ran đến nỗi tôi nhìn thấy là thấy khát nước rồi.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế xếp bên cạnh ghế của Kasahara May, rút trong túi ra một chiếc kẹo chanh. Nóng bức làm cho giấy gói dính bết vào kẹo.

Kasahara May nhìn tôi một lát, không nói gì.

- Anh sao vậy hả Chim vặn dây cót? Cái gì trên mặt anh vậy? Có phải vết bầm không?

- Chắc là vậy. Có thể. Nhưng anh không biết làm sao lại thế. Anh soi gương thì đã thấy nó ở đấy rồi.

Kasahara May chống một cùi chỏ nhỏm dậy, nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Cô gạt mấy giọt mồ hôi đọng dưới mũi rồi đẩy kính râm lên một chút về đúng chỗ của nó. Cặp tròng kính thẫm che kín mít cặp mắt cô.

- Anh hoàn toàn không biết à? Không hề biết bị khi nào hay tại sao à?

- Hoàn toàn không.

- Không á?

- Anh ra khỏi giếng, lát sau anh soi gương thì nó đã ở đó rồi. Thật đấy. Chỉ có vậy thôi.

- Có đau không?

- Không đau, không ngứa. Nhưng có hơi âm ấm.

- Anh đi bác sĩ chưa?

Tôi lắc đầu.

- Chắc chỉ phí thời giờ thôi.

- Chắc vậy, - Kasahara May nói. - Em cũng chúa ghét bác sĩ.

Tôi bỏ mũ và kính ra rồi rút khăn mùi soa lau mồ hôi trên trán. Nách chiếc áo phông xám tôi mặc đã đen nhẻm mồ hôi.

- Bộ bikini đẹp lắm, - tôi nói.

- Cám ơn.

- Trông cứ như bằng mấy mẩu vải ghép lại ấy. Tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên ít ỏi của nước ta.

- Khi xung quanh không có ai thì em cởi phần trên ra.

- Ừ, - tôi nói.

- Ở dưới đâu có gì nhiều để phô ra đâu, - cô nói, như để thanh minh.

Mà thật, bộ ngực cô sau mảnh trên bộ bikini vẫn còn khá nhỏ, chưa phát triển.

- Em đã bao giờ mặc thế này mà bơi chưa? - tôi hỏi.

- Chưa bao giờ. Em không biết bơi. Còn anh, Chim vặn dây cót?

- Ờ, anh thì biết bơi.

- Bao xa?

- Xa.

- Mười cây số?

- Chắc thế... Hiện giờ không có ai ở nhà à?

- Cả nhà đi từ hôm qua rồi, đến nhà nghỉ mùa hè của nhà em ở Izu. Ai cũng thích đi bơi vào cuối tuần. Cả nhà tức là ba mẹ và thằng cu em của em ấy.

- Không có em à?

Cô khẽ nhún vai. Rồi cô lấy từ trong nếp gấp khăn tắm ra một gói Hope và hộp diêm rồi châm một điếu.

- Anh trông kinh quá, Chim vặn dây cót à.

- Dĩ nhiên là anh trông kinh rồi, mấy ngày ngồi dưới đáy giếng hầu như không ăn, không uống thì có ai trông không kinh?

Kasahara May bỏ kính ra quay mặt lại tôi. Cô vẫn còn vết cắt sâu gần mắt.

- Này Chim vặn dây cót, anh điên em lắm phải không?

- Anh không biết. Anh đã có hàng đống chuyện để nghĩ rồi, hơi đâu mà điên với em.

- Vợ anh đã về chưa?

Tôi lắc đầu.

- Cô ấy có gửi thư cho anh. Nói là không bao giờ về nữa.

- Tội nghiệp Chim vặn dây cót, Kasahara May nói. Cô ngồi dậy nhoài người, đặt tay lên đầu gối tôi. - Tội nghiệp Chim vặn dây cót, tội quá. Anh Chim vặn dây cót này, có thể anh không tin, nhưng rốt cuộc em cũng đã định cứu anh lên khỏi giếng đấy. Em chỉ muốn làm anh sợ một chút thôi, hành hạ anh tí ti. Em muốn xem liệu em có làm anh ghét lên được không. Em muốn xem phải đợi bao lâu thì anh mới cuống cuồng kêu la loạn lên.

Tôi không biết trả lời thế nào nên chỉ gật đầu.

- Anh có nghĩ khi em bảo sẽ để anh chết dưới đó là em nói nghiêm chỉnh không?

Thay vì trả lời ngay, tôi vo tròn mảnh giấy gói kẹo thành viên tròn. Rồi tôi nói:

- Thật sự là anh không biết. Em nói nghe thì cứ như thật, nhưng lại cũng nghe như em chỉ muốn doạ cho anh sợ thôi. Khi mình đã xuống dưới giếng mà nói chuyện với ai đó ở trên miệng giếng thì giọng nói nghe lạ lắm, mình không thật sự nắm bắt được nét biểu cảm trong giọng người kia. Nhưng nói gì thì nói, vấn đề không phải thật ra em nói thật hay nói đùa. Ý anh là thực tại được tạo nên từ nhiều lớp. Thành thử có thể trong thực tại kia em muốn giết anh thật, nhưng trong thực tại này thì lại không. Nó còn tuỳ em ở thực tại nào còn anh ở thực tại nào.

Tôi nhét mẩu giấy gói kẹo đã vo tròn vào lỗ hộp Sprite.

- Này Chim vặn dây cót, anh làm giúp em một việc được không? - Kasahara May nói, tay chỉ ống nước trên bãi cỏ. - Anh lấy cái đó xịt cho em được không? Nóng quá là nóng! Nếu không xối cho ướt từ đầu đến chân thì óc em chắc khô quắt lại mất.

Tôi rời khỏi ghế xếp, đi tới nhặt chiếc ống nước bằng nhựa màu xanh dương nằm trên bãi cỏ. Nó ấm sực, nhũn ra vì nóng. Tôi ra đứng sau lùm cây rồi mở vòi. Đầu tiên chỉ có nước đã bị hun nóng ở trong vòi vọt ra, nhưng vòi mát lên dần cho đến khi chỉ còn phun nước lạnh. Kasahara May duỗi dài trên bãi cỏ, tôi bèn hướng một làn nước mạnh mẽ mát rượi vào cô.

Cô nhắm mắt để cho nước xối tràn lên thân thể.

- Ôi, dễ chịu quá! Anh cũng nên làm vậy đi, Chim vặn dây cót à.

- Nhưng bộ này đâu phải đồ tắm, - tôi nói, song Kasahara May có vẻ hết sức khoan khoái nhờ kiểu tắm này còn cái nóng thì lại gay gắt đến nỗi tôi không cưỡng lại được. Tôi cởi chiếc áo phông sũng mồ hôi ra, cúi người về phía trước, để dòng nước lạnh tràn qua đầu. Tôi nuốt một ngụm nước. Vừa lạnh vừa ngon.

- Này, nước giếng đấy à? - tôi hỏi.

- Chứ sao nữa! Lấy lên bằng bơm. Quá tuyệt phải không? Lạnh ơi là lạnh. Uống luôn cũng được. Nhà em nhờ một tay ở Bộ Y Tế đến kiểm nghiệm chất lượng nước, ông ta bảo nước này hoàn toàn ổn, hầu như khắp cả Tokyo chả bao giờ tìm được nước sạch thế. Ông ta ngạc nhiên lắm. Nhưng nhà em vẫn hơi sờ sợ không uống. Bao nhiêu là nhà xúm quanh thế này, ai mà biết được có những thứ gì lẫn vào nước.

- Nhưng em không thấy lạ à? Giếng nhà Miyawaki khô như đá, nhưng giếng nhà em thì nước ngon lành tươi nguyên thế này. Thế mà chỉ bên kia ngõ thôi. Sao lại khác nhau đến thế được?

Kasahara May nghiêng đầu.

- Chắc có gì đó làm cho mạch nước ngầm chuyển hướng một chút, khiến cho giếng bên kia cạn còn bên em thì không. Em không biết chắc lý do tại sao.

- Đã có chuyện không hay nào xảy ra trong nhà em không? - tôi hỏi.

Kasahara May nhăn mặt, lắc đầu.

- Điều không hay duy nhất xảy ra ở cái nhà này trong mười năm qua là nó chán chết được ấy.

Kasahara May lau mình rồi hỏi tôi có muốn uống bia không. Tôi bảo muốn. Cô vào nhà mang ra hai lon Heineken. Cô uống một lon, tôi uống một lon.

- Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, dự định của anh từ nay trở đi là gì?

- Anh chưa quyết định được, - tôi nói - Nhưng chắc anh sẽ đi khỏi đây. Có khi anh đi khỏi Nhật không chừng.

- Đi khỏi Nhật? Là đi đâu?

- Đến Crete.

- Crete? Có phải là liên quan đến cô tên là Creta gì gì ấy không?

- Ừ, phần nào đấy.

Kasahara May ngẫm nghĩ một chút.

- Có phải cô Creta gì gì ấy cứu anh lên khỏi giếng không?

- Kano Creta, - tôi nói. - Ừ, cô ấy đấy.

- Anh có nhiều bạn lắm phải không hở Chim vặn dây cót?

- Có đâu mà nhiều. Anh bị mang tiếng là ít bạn thì có.

- Mà làm sao Kano Creta tìm được anh ở dưới giếng nhỉ? Anh đâu có bảo ai là anh xuống đó phải không? Thế làm sao cô ta đoán được anh đang ở đâu chứ?

- Anh không biết, - tôi nói.

- Nhưng mà anh sẽ đi Crete à?

- Anh chưa quyết định có đi hay không. Có khả năng thế thôi. Trước hết anh phải giải quyết xong chuyện Kumiko đã.

Kasahara May cho một điếu thuốc lên môi rồi châm lửa. Đoạn cô đưa đầu ngón tay út sờ lên vết sẹo gần mắt.

- Anh biết không, Chim vặn dây cót, suốt thời gian anh ở dưới giếng, em toàn ở đây tắm nắng. Em ngắm vườn căn nhà hoang, vừa tự nướng mình dưới nắng vừa nghĩ tới anh đang ở dưới giếng, bụng đói meo, tiến dần từng tí một tới cái chết. Em là người duy nhất biết anh đang ở dưới đó và không lên được. Và khi nghĩ thế, em cảm nhận một cách rõ rệt đến khó ngờ anh đang cảm thấy thế nào: đau đớn, rối trí, sợ hãi. Anh có hiểu ý em không? Nhờ làm vậy, em thấy được gần gũi anh lắm lắm ấy! Em thật không có ý để anh chết đâu. Thật mà. Đúng vậy đó. Nhưng em vẫn muốn làm tới. Đến tận phút chót. Kỳ đến khi nào anh rụng rời chân tay, sợ vãi linh hồn ra, hết chịu nổi nữa mới nghe. Em tin thế là tốt nhất cho cả em và anh, thật đấy mà.

- Anh thì bảo em thế này, - tôi nói. - Anh nghĩ nếu em đã thật sự làm tới đến phút chót thì có khi em sẽ muốn đẩy đến tận cùng luôn. Có khi sẽ dễ hơn em tưởng nhiều đấy. Nếu em đã đi xa đến mức đó thì chỉ cần ẩy thêm một cái cuối cùng là xong. Sau đó có khi em sẽ nghĩ thế là tốt nhất cho cả anh và em không chừng. - Tôi nhấp một ngụm bia.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2012 20:08:51 | Xem tất


Kasahara May ngừng nói một chút, nhìn chăm chăm vào hai tay mình, như đang hồi tưởng lại những gì đã xảy ra với mình ngày hôm đó

- Em sợ thật đấy, sợ chết điếng, - cô nói. - Có lẽ trước kia em muốn anh sợ chính là sợ như thế này đây. Em đã muốn anh phải nghe thấy tiếng cái vật kia đang nhai nuốt mình.

Tôi ngồi xuống một chiếc ghế xếp, ngắm thân thể Kasahara May chỉ che hờ bằng bộ bikini bé xíu. Cô đã mười sáu tuổi nhưng dáng người chỉ như cô bé mười ba, mười bốn tuổi. Ngực và đùi cô còn xa mới nảy nở đầy đủ. Thân hình cô gợi cho tôi nhớ tới những bức hoạ chỉ dùng một số nét tối thiểu nhưng vẫn cho ta một cảm thức sống động về thực tại. Thế nhưng, đồng thời ở nó vẫn có một cái gì đó cho ta ấn tượng già cốc đế.

Rồi bỗng tôi buột miệng hỏi cô:

- Em đã bao giờ có cảm giác mình bị cái gì đó làm cho ô uế không?

- Ô uế? - Cô nheo mắt nhìn tôi. - Ý anh là ô uế về thể xác ấy à? Anh định nói là bị hiếp?

- Về thể xác. Về tinh thần. Hoặc thế này hoặc thế kia.

Kasahara May nhìn xuống thân thể mình, rồi lại nhìn sang tôi.

- Về thể xác thì không. Em vẫn là gái tân. Em có cho một cậu trai sờ mó. Nhưng vẫn mặc nguyên quần áo.

Tôi gật đầu.

- Về tinh thần... ừm... em không biết. Em thật không hiểu bị ô uế về tinh thần nghĩa là thế nào.

- Anh cũng chẳng biết, - tôi nói. - Vấn đề là mình có cảm thấy điều đó từng xảy ra với mình hay không. Nếu em không cảm thấy thì hẳn có nghĩa là em chưa bị ô uế.

- Sao anh hỏi em thế?

- Bởi vì một vài người mà anh biết có cảm giác ấy. Nó làm sinh ra đủ thứ phức tạp. Nhưng có chuyện này anh muốn hỏi em. Vì sao em luôn nghĩ đến cái chết thế?

Cô cho một điếu thuốc lên môi rồi khéo léo mồi lửa bằng một tay. Đoạn cô kéo kính râm lên.

- Anh thì không hay nghĩ đến cái chết à, hở Chim vặn dây cót?

- Dĩ nhiên là anh có nghĩ đến cái chết. Nhưng không phải luôn luôn. Chỉ thỉnh thoảng thôi. Như hầu hết thiên hạ.

- Em thì em nghĩ thế này Chim vặn dây cót, - Kasahara May nói. - Mỗi người sinh ra trên đời này đều có một cái gì đó riêng biệt nằm ở sâu bên trong người đó. Và cái đó ấy, dù là cái gì đi nữa, trở thành một nguồn nhiệt điều khiển mỗi con người từ bên trong. Dĩ nhiên em cũng có. Như mọi người khác. Nhưng đôi khi nó bị rối loạn. Nó phình lên rồi co lại bên trong em, nó làm em lộn tùng phèo lên. Thật sự là em chỉ muốn truyền đạt cái cảm giác đó cho người khác. Nhưng dường như em không làm nổi. Người ta không hiểu. Dĩ nhiên có thể tại em không biết giải thích sao cho thật rõ, nhưng cũng tại người ta không chịu lắng nghe nữa. Họ vờ nghe, nhưng thật ra họ có nghe đâu. Vì thế mà đôi khi em nổi điên lên rồi làm những việc rồ dại.

- Những việc rồ dại á?

- Như là nhốt anh dưới giếng chẳng hạn, hoặc như khi đang ngồi trên yên sau xe máy thì choàng tay che mắt anh chàng đang đèo mình.

Khi nói vậy, cô đưa tay sờ vết thương trên mặt.

- Chính vì vậy mới xảy ra tai nạn phải không? - tôi hỏi.

Kasahara May nhìn tôi với vẻ dò hỏi, như thể cô không nghe thấy tôi nói gì. Tôi không nhìn ra được nét cảm xúc trong mắt cô sau cặp kính râm dày, nhưng một sự vô cảm nào đó hình như đã lan ra trên khắp mặt cô như dầu rót lên mặt nước lặng.

Điếu thuốc ngậm giữa hai môi, Kasahara May vẫn nhìn tôi. Hay đúng hơn, cô vẫn tiếp tục nhìn vết bầm của tôi.

- Em có phải trả lời câu hỏi ấy không, hở Chim vặn dây cót?

- Không, nếu em không muốn. Chính em khêu chuyện ấy ra mà. Nếu em không muốn nói tới chuyện đó thì đừng nói.

Kasahara May trở nên hết sức trầm lặng. Hình như cô phân vân không biết phải làm gì. Đoạn cô hít khói thuốc vào đầy phổi rồi từ từ thở ra. Bằng một động tác nặng nề, cô gỡ kính rồi quay mặt về phía nắng, hai mắt nhắm tịt. Quan sát cô, tôi thấy như dòng chảy thời gian đang dần dần chậm lại, như thể dây cót của thời gian đang bắt đầu chùng xuống.

- Anh ta chết, - cuối cùng cô nói, giọng vô cảm, như thể cô vừa miễn cưỡng chấp nhận một cái gì đó.

- Chết à?

Kasahara May bập bập tàn thuốc. Đoạn cô nhặt khăn tắm dưới đất lên lau mồ hôi trên mặt, lau tới lau lui mấy lần. Cuối cùng, như thể sực nhớ ra một việc quan trọng quên thực hiện, cô nói một cách vắn tắt, kiểu sự vụ:

- Lúc đó bọn em đi khá nhanh. Chuyện xảy ra ở gần Enoshima.

Tôi nhìn cô không nói một lời. Cô cầm mỗi tay một mép chiếc khăn tắm mà ấn khăn vào khăn mặt. Khói trắng tuôn ra từ điếu thuốc giữa những ngón tay cô. Không có gió nên khói bốc thẳng lên, như từ một đống lửa báo hiệu thu nhỏ. Cô hình như đang phân vân không biết nên cười hay nên khóc. Ít nhất là tôi cảm thấy vậy. Cô phân vân trên lằn ranh hẹp chia cách khả năng này với khả năng kia, nhưng rốt cuộc cô không ngả về bên nào cả. Kasahara May lấy lại vẻ mặt cũ, đặt khăn tắm xuống đất rồi rít một hơi thuốc. Đã gần 5 giờ chiều, nhưng cái nóng chẳng có vẻ gì là dịu đi.

- Em đã giết anh ấy, - cô nói. - Dĩ nhiên em không có ý định giết anh ấy. Em chỉ muốn đẩy tới những giới hạn. Bọn em vẫn làm như vậy luôn. Như là trò chơi ấy. Em bịt mắt hoặc cù lét anh ấy trong khi cả hai đang đi xe máy. Nhưng chẳng chuyện gì xảy ra cả. Cho đến hôm đó...

Kasahara May ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào tôi.

- Dù sao thì em cũng không có cảm giác mình bị ô uế đâu, Chim vặn dây cót à. Em chỉ muốn đến càng gần hơn càng tốt cái vật khốn nạn ấy. Em muốn dụ nó ra khỏi em rồi đập nát nó thành từng mảnh. Mà muốn dụ nó ra được thì mình phải thực sự đẩy đến tận cùng. Không có cách nào khác. Anh phải có một miếng mồi ngon để nhử nó. - Cô chậm rãi lắc đầu. - Không, em không nghĩ là mình đã bị làm ô uế. Nhưng mặt khác em cũng không được cứu vớt. Không ai có thể cứu vớt em lúc này được, Chim vặn dây cót ạ. Thế giới có vẻ hoàn toàn trống rỗng đối với em. Mọi thứ em thấy quanh mình đều có vẻ giả tạo. Cái duy nhất không giả tạo là cái thứ kinh tởm nằm ở trong em ấy.

Kasahara May ngồi một lát, thở từng hơi nhỏ đều đặn. Không có âm thanh nào khác, không tiếng chim, không tiếng côn trùng. Một sự tĩnh mịch khủng khiếp trùm lên khu vườn, như thể cả thế giới này đã trở nên trống rỗng.

Kasahara May ngoảnh lại đối diện tôi. Dường như lúc đó cô vừa nhớ ra điều gì đấy. Giờ đây mọi nét biểu cảm đều biến mất khỏi mặt cô, như thể cô vừa được gội sạch chẳng còn lại gì.

- Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, anh đã ngủ với cô Kano Creta gì đó chưa?

Tôi gật đầu.

- Đến Crete rồi anh có viết thư cho em không? - Kasahara May hỏi.

- Có chứ. Nếu anh đi.

- Này Chim vặn dây cót biết không, - ngần ngừ một lát cô nói, - em nghĩ có khi em sẽ đi học lại đấy.

- Ồ, thế ra em đổi ý về chuyện trường học rồi à?

Cô khẽ nhún vai.

- Đó là chuyện khác. Em không chịu về trường cũ đâu. Trường mới thì ở xa đây. Thành thử chắc là em sẽ không gặp anh một thời gian.

Tôi gật đầu. Rồi lấy trong túi ra một viên kẹo chanh cho vào miệng. Kasahara May đưa mắt nhìn quanh rồi châm một điếu thuốc.

- Này Chim vặn dây cót, ngủ với nhiều đàn bà khác nhau thì cũng thú phải không?

- Còn phải nói.

- Ờ, cái đó thì em có nghe rồi.

- Đúng, - tôi nói, nhưng không biết nói gì hơn.

- Mà thôi, quên đi. Nhưng này Chim vặn dây cót, anh biết không, chính vì gặp anh mà rốt cuộc em mới quyết định đi học lại đấy. Không đùa đâu.

- Sao vậy? - tôi hỏi.

- Ừ, tại sao nhỉ? - Kasahara May nói. Rồi cô nheo nheo đuôi mắt mà nhìn tôi. - Có thể là em muốn quay trở lại một thế giới bình thường hơn. Nhưng được gần anh, em thật sự rất vui, Chim vặn dây cót à. Không đùa đâu. Anh là một người cực kỳ bình thường, nhưng anh lại làm những chuyện chẳng bình thường chút nào. Và anh lại rất ư là - nói thế nào nhỉ? - không thể đoán trước được. Thành thử la cà bên anh thế này không hề chán chút nào. Anh không biết được ở gần anh em thấy dễ chịu đến thế nào đâu. Mà không thấy chán có nghĩa là không phải nghĩ về bao nhiêu là chuyện ngu ngốc. Đúng không nào? Cho nên về chuyện ấy thì em rất vui khi có anh. Nhưng phải nói thật, gần anh em cũng thấy lo lo là.

- Lo lo thế nào kia?

- Nói sao nhỉ? Đôi khi, nhìn anh, em có cảm giác như anh đang chiến đấu rất dữ với một cái gì đó vì em. Em biết nói thế nghe lạ lắm, nhưng mỗi khi như vậy, em thấy mình đang ở bên anh, đang đổ mồ hôi cùng anh. Hiểu ý em không? Anh luôn luôn có vẻ bình thản, như thể dù có gì xảy ra đi nữa thì cũng chẳng liên quan gì đến anh, nhưng thật ra anh không phải vậy. Theo cách riêng của anh, anh đang chiến đấu hết sức mình, mặc dù thoạt nhìn người ta không biết đâu. Nếu không vậy thì anh đã chẳng chui xuống giếng như thế, đúng không? Nhưng dù sao đi nữa, anh cũng không phải đang chiến đấu vì em, dĩ nhiên. Anh đang gồng hết sức mình vật lộn với cái gì đó rất to lớn, mà lý do duy nhất khiến anh làm vậy là để tìm cho bằng được Kumiko. Thành thử chẳng có lý do gì để em phải vã mồ hôi vì anh cả. Em biết rõ thế, nhưng dẫu vậy em cũng không khỏi cảm thấy anh đang chiến đấu vì chính em, Chim vặn dây cót ạ - rằng theo cách nào đó có lẽ anh đang chiến đấu vì nhiều người khác đồng thời với chiến đầu vì Kumiko. Có lẽ chính vì vậy mà đôi khi anh có vẻ như một gã lơ ngơ láo ngáo. Em nghĩ như vậy đó, Chim vặn dây cót à. Nhưng mỗi khi thấy anh làm vậy, em thấy căng thẳng, lo lo, rốt cuộc thì chẳng còn hơi sức nào nữa. Em thấy như thể anh chắc sẽ không thắng nổi. Nếu phải đặt cược thì em sẽ cược anh thua. Rất tiếc, nhưng nó là vậy. Em thích anh lắm, nhưng em không muốn trắng tay.

- Anh hoàn toàn hiểu.

- Em không muốn thấy anh sa cơ, cũng không muốn phải vã mồ hôi thêm vì anh nữa. Chính vì vậy em mới quyết định quay về một thế giới bình thường hơn một chút. Nhưng giá như em không gặp anh ở đây - ở đây, ngay trước căn nhà hoang này - thì chắc mọi sự đã không thành ra như thế. Hẳn em đã chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đi học trở lại. Em sẽ nấn ná mãi trong một thế giới chẳng bình thường cho lắm. Thành thử theo nghĩa đó thì chính là do anh cả, Chim vặn dây cót ạ. Anh không hoàn toàn là kẻ vô ích đâu.

Tôi gật đầu. Đã lâu lắm rồi lần đầu tiên mới có người nói điều gì đó tốt đẹp về tôi.

- Lại đây, chim vặn dây cót, - Kasahara May nói. Cô nhổm dậy trên chiếc ghế xếp.

Tôi đứng dậy, đi về phía cô.

- Ngồi đây, chim vặn dây cót, - Kasahara May nói.

Tôi làm theo, ngồi xuống cạnh cô.

- Cho em xem mặt anh nào, chim vặn dây cót.

Cô nhìn tôi đăm đăm một hồi. Thế rồi, một tay đặt trên đầu gối tôi, cô ấn lòng bàn tay kia lên vết bầm trên má tôi.

- Tội nghiệp Chim vặn dây cót, - Kasahara May nói, giọng gần như thì thầm. - Em biết rồi anh sẽ gặp đủ thứ chuyện. Mà thậm chí anh chẳng biết vậy nữa cơ. Và anh cũng không thể lựa chọn gì hết. Kiểu như mưa rơi trên đồng ấy. Giờ nhắm mắt lại nào, chim vặn dây cót. Nhắm thật chặt vào. Như là bị dán keo ấy.

Tôi nhắm chặt mắt lại.

Kasahara May chạm môi vào vết bầm của tôi - môi cô nhỏ và mỏng, như không phải môi thật mà là một thứ bắt chước làm cực khéo. Rồi cô hé môi ra và miết lưỡi lên khắp vết bầm của tôi - thật chậm rãi, từng li từng tý một. Suốt thời gian đó bàn tay vẫn để nguyên trên đầu gối tôi. Cái đụng chạm ấm áp, ẩm ướt của bàn tay đó như thể đến với tôi từ xa, từ một nơi thậm chí còn xa hơn cả những cánh đồng xa nhất trên thế giới. Đoạn cô cầm lấy tay tôi, đặt nó chạm vào vết thương bên cạnh mắt cô. Tôi vuốt ve vết sẹo dài chỉ hơn một xăng-ti-mét ấy. Khi tôi làm vậy, những làn sóng của ý thức cô rung qua đầu ngón tay tôi mà nhập vào tôi, như tiếng vang vi tế của một niềm ham muốn. Một ai đó cần phải ôm người con gái này vào tay, siết cô thật chặt. Hẳn là ai khác chứ không phải tôi. Ai có đủ phẩm chất để cho cô một cái gì.

- Tạm biệt chim vặn dây cót. Hẹn ngày nào đó gặp lại anh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2012 20:10:48 | Xem tất


Chương 16
Điều Đơn Giản Nhất

Trả Thù Dưới Dạng Tinh Vi

Vật Trong Thùng Đàn Ghita


Ngày hôm sau tôi gọi điện thoại cho ông cậu, báo cho ông biết trong vài tuần tới tôi sẽ dọn đi. Tôi xin lỗi đã nói chuyện này với ông đột ngột như vậy, nhưng giải thích ấy là vì Kumiko đã bỏ tôi mà đi cũng đột ngột như thế. Chẳng việc gì phải giấu giếm nữa. Tôi bảo ông cậu rằng nàng đã viết thư nói nàng sẽ không về nữa, và tôi muốn đi khỏi nơi này ngay lập tức, dẫu rằng đi bao lâu tôi cũng chưa biết. Nghe xong bài giải thích đơn sơ của tôi, cậu tôi im lặng một hồi ở đầu dây bên kia. Hình như ông đang ngẫm nghĩ điều gì đó. Rồi ông nói: - Ít lâu nữa cậu đến chơi được không? Cậu muốn tận mắt thấy đang có chuyện gì. Mà cũng đã lâu rồi cậu chưa về lại nhà đó.

° ° °


Hai hôm sau cậu tôi đến vào buổi tối. Ông nhìn vết bầm trên má tôi nhưng không nói gì. Có lẽ ông chẳng biết nói gì. Ông nheo mắt nhìn có vẻ hiếu kỳ, chỉ có thế. Ông mang đến cho tôi một chai Scotch và một gói bánh bột tôm mua ở Odawara. Chúng tôi ngồi ngoài hiên, vừa ăn bánh vừa uống rượu.

- Lại về ngồi trên hàng hiên này thật thích quá, - cậu tôi nói, đầu gật gật mấy lần. - Khu nhà cậu ở hiện giờ không có hàng hiên, dĩ nhiên rồi. Nhiều khi cậu thật tình nhớ cái nhà này. Ngồi ngoài hiên này mình có một cảm giác đặc biệt mà không đâu khác có.

Ông ngồi im một hồi rồi nhìn trăng, một mảnh trăng lưỡi liềm trắng mảnh trông như ai đó vừa mài sắc xong. Một vật như thế mà có thể trôi trên bầu trời hầu như là một sự thần kỳ đối với tôi.

Thế rồi cậu tôi bỗng hỏi, vẻ như hoàn toàn vô tình:

- Sao cháu có cái vết bầm kia vậy?

- Cháu cũng chả biết nữa, - tôi nói rồi nhấp một ngụm whisky. - Tự dưng có đó. Đâu như cách đây một tuần thì phải? Giá như có thể giải thích rõ hơn thì hay biết mấy, nhưng cháu chẳng biết giải thích ra sao cả.

- Cháu đi khám bác sĩ chưa?

Tôi lắc đầu.

- Cậu chả muốn chõ mũi vào chuyện người khác làm gì đâu, nhưng cho cậu nói điều này: cháu cần phải ngồi xuống mà suy nghĩ cho tới nơi tới chốn xem điều gì là quan trọng nhất đối với cháu.

Tôi gật đầu.

- Cháu nghĩ mãi đấy chứ, - tôi nói. - Nhưng mọi chuyện phức tạp quá, cứ rối tung lên. Cháu không sao tách bạch ra từng chuyện một được. Cháu chả biết làm cách nào gỡ rối cả.

Cậu tôi mỉm cười.

- Cháu biết cậu nghĩ gì không? Theo cậu, đầu tiên cháu hãy nghĩ về những chuyện đơn giản nhất, hãy bắt đầu từ đấy. Chẳng hạn, cháu có thể đứng ở góc phố nào đó ngày này sang ngày khác mà nhìn người qua kẻ lại. Cháu chẳng việc gì phải vội quyết định điều gì cả. Có thể khó đấy, nhưng đôi khi cháu cần phải dừng lại, cứ từ từ, thong thả. Cháu phải tự rèn cho mình biết cách nhìn sự vật bằng chính mắt mình, cho đến khi một cái gì đó trở nên rõ ràng. Đã muốn vậy thì đừng sợ mất thời gian. Một khi ta không tiếc thời gian vào một cái gì, ấy có thể là hình thức trả thù tinh vi nhất đó.

- "Trả thù"?! Ý cậu là thế nào? "Trả thù"? Trả thù ai?

- Rồi cháu sẽ hiểu thôi, không lâu nữa đâu, - cậu tôi mỉm cười đáp.

° ° °


Nói xong, chúng tôi vẫn ngồi uống rượu ngoài hiên thêm hơn một tiếng đồng hồ. Rồi cậu tôi nói ông đã nán lại quá lâu, bèn đứng dậy ra về. Còn lại một mình, tôi ngồi ngoài hiên, tựa vào một cây cột, nhìn đăm đăm khu vườn dưới ánh trăng. Một hồi, tôi hít thở sâu vào ngực bầu không khí thực tại hay cái gì gì đó mà cậu tôi để lại, và cảm thấy - lần đầu tiên sau một thời gian rất dài - một cảm giác thật sự là nhẹ nhõm.

Nhưng chỉ vài tiếng sau cái không khí đó lại bắt đầu tan đi, và một bức màn u uất nhợt nhạt lại bao trùm lên tôi. Rốt cuộc tôi lại ở trong thế giới của mình còn cậu tôi ở trong thế giới của ông.


° ° °

Cậu tôi đã nói, trước hết tôi hãy nghĩ đến những điều đơn giản, nhưng tôi thấy không thể nào phân biệt cái gì là đơn giản cái gì là phức tạp. Thế là sáng hôm sau, khi đã hết giờ cao điểm, tôi đáp xe đến khu Shinjuku. Tôi quyết định chỉ đứng đó nhìn mặt thiên hạ. Tôi chẳng biết làm thế liệu có ích gì không, nhưng có lẽ còn hơn là chẳng làm gì. Nếu nhìn mặt thiên hạ cho tới khi phát chán lên là ví dụ tiêu biểu về một việc đơn giản thì thử một lần cũng chẳng hại gì. Còn nếu làm vậy mà có tác dụng thì hẳn nó sẽ chỉ tôi biết thế nào là những điều "đơn giản" đối với tôi.

Ngày đầu tiên tôi ngồi suốt hai tiếng đồng hồ trên bức tường thấp bằng gạch dọc mép bồn hoa bên ngoài ga Shinjuku mà nhìn mặt những người qua lại. Nhưng người quá đông mà lại đi quá nhanh nên tôi không thể nhìn kỹ mặt người nào được. Đã vậy, tôi ngồi đó được một hồi thì vài gã vô gia cư lại gần kiếm cớ cà khịa. Chốc chốc lại có một tay cảnh sát đi qua nhìn nhìn tôi. Thế nên tôi đành bỏ khu đông người ngoài nhà ga và quyết định tìm một chỗ thích hợp hơn sao cho có thể thong dong khảo sát người qua kẻ lại.

Tôi đi dọc theo lối bộ hành bên dưới các tuyến đường ray khu phía Tây nhà ga, loanh quanh một hồi thì gặp một quảng trường nhỏ lát đá bên ngoài một tòa nhà cao tầng lắp kính. Nó có một bức tượng nhỏ và vài băng ghế xinh xinh nơi tôi có thể ngồi ngắm thiên hạ bao nhiêu tùy thích. Số người đi qua đây chẳng hề nhiều như ngoài cửa chính nhà ga, cũng không có gã vô gia cư nào với chai rượu nhét trong túi áo. Tôi ngồi đó suốt ngày, buổi trưa ăn quấy quá vài cái bánh vòng và uống cà phê ở quán Dunkin's Donuts rồi về nhà trước khi đến giờ cao điểm chiều.

Thoạt tiên những người duy nhất đập vào mắt tôi là những người đàn ông hói, nhờ tôi đã được tập huấn khi cùng Kasahara May làm điều tra cho hãng tóc giả. Hễ gặp một mái đầu hói là cái nhìn của tôi bất giác dán vào ngay và tôi hầu như vô thức phân loại y ra thành A, B hay C. Cứ kiểu này thì chắc tôi có thể gọi Kasahara May để tình nguyện đi làm điều tra với cô lần nữa.

Tuy nhiên, chỉ sau mấy ngày là tôi đã có thể chỉ ngồi quan sát khuôn mặt thiên hạ mà trong đầu chẳng nghĩ gì. Hầu hết những người đi qua đều là nam nữ công nhân viên làm việc ở các văn phòng trong tòa nhà cao tầng đó. Đàn ông mặc áo sơ-mi trắng, thắt cà vạt, tay xách cặp, đàn bà thì hầu hết mang giày cao gót. Ngoài ra tôi còn thấy chủ các nhà hàng cửa hiệu bên trong tòa nhà, những gia đình kéo cả bầu đoàn đi lên đài quan sát trên tầng thượng, vài ba người thì chỉ đi ngang, từ điểm A đến điểm B. Hầu hết mọi người có xu hướng không đi quá nhanh. Tôi chỉ việc quan sát tất cả, không có mục đích gì rõ rệt. Thi thoảng có đôi người thu hút sự chú ý của tôi vì lý do nào đó, nhưng rồi tôi lại tập trung vào những khuôn mặt khác và đưa mắt nhìn theo.

Ngày nào tôi cũng đáp xe đến Shinjuku lúc 10 giờ sáng, sau giờ cao điểm, ngồi ở băng ghế trên quảng trường, ngồi đó hầu như không động đậy đến 4 giờ chiều, chỉ nhìn mặt thiên hạ. Chỉ khi đã thử làm việc đó tôi mới nhận ra rằng bằng cách luyện cho mắt mình nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác đi qua, tôi có thể làm cho đầu óc hoàn toàn trống rỗng, như là lôi cái nút chai ra khỏi chai vậy. Tôi chẳng trò chuyện với ai, cũng chẳng ai trò chuyện với tôi. Tôi chẳng nghĩ gì, chẳng cảm gì. Tôi thường có cảm giác mình đã trở thành một phần của băng ghế đá kia.

Tuy nhiên, có lần cũng có người nói chuyện với tôi - một người đàn bà trung niên mảnh dẻ ăn mặc tươm tất. Bà ta vận áo váy màu hồng tươi bó sát người, đeo kính râm sẫm màu gọng đồi mồi, đội mũ trắng, mang xắc tay bằng vải lưới màu trắng. Bà có đôi chân đẹp, mang đôi xăng-đan trắng sạch như lau như li thoạt nhìn đã biết là đắt tiền. Bà trang điểm đậm nhưng có chừng mực. Bà hỏi tôi liệu có đang gặp khó khăn gì không. Chẳng có gì cả, tôi đáp. Hình như ngày nào tôi cũng gặp anh ở đây, bà ta nói, rồi hỏi tôi đang làm gì vậy. Tôi bảo tôi nhìn mặt thiên hạ. Bà ta hỏi tôi làm vậy có mục đích gì không, tôi bảo là không.

Bà ngồi xuống cạnh tôi, rút trong xắc tay ra một gói Virgina Slims rồi mồi một điếu bằng chiếc bật lửa nhỏ bằng vàng. Bà mời tôi một điếu, nhưng tôi lắc đầu. Đoạn bà gỡ kính rồi chẳng nói chẳng rằng nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Chính xác hơn, bà nhìn chằm chằm vào vết bầm trên má tôi. Đáp lại, tôi cũng nhìn chằm chằm vào mắt bà. Nhưng tôi không đọc được cảm xúc nào ở đó. Tôi chẳng thấy gì hơn ngoài hai con ngươi đen dường như đang vận hành đúng như chúng phải vận hành. Bà có cái mũi nhỏ, nhọn. Môi bà mỏng, màu son tô cực cẩn thận. Thoạt nhìn bà trẻ hơn tuổi, nhưng các nếp nhăn dọc hai bên sống mũi có cái vẻ mệt mỏi đặc biệt sao đó.

- Cậu có tiền không? - bà ta hỏi.

Tôi đâm ra cảnh giác.

- Tiền á? Bà hỏi tôi có tiền không là có ý gì?

- Tôi chỉ hỏi cậu có tiền hay không thôi? Cậu có đang kẹt tiền không?

- Không. Hiện giờ tôi đang không kẹt tiền, - tôi nói.

Bà ta hơi dẩu môi qua một bên như để nếm thử điều tôi vừa nói, rồi tiếp tục tập trung chú ý nhìn chăm chăm vào tôi. Đoạn bà ta gật đầu. Rồi bà lại đeo kính vào, thả điếu thuốc xuống đất, duyên dáng đứng dậy bỏ đi, không hề nhìn về phía tôi. Tôi sửng sốt nhìn bà ta biến mất vào đám đông. Có lẽ bà ta hơi dở người chăng. Nhưng chuyện đó cũng khó tin, bà ta phục sức không chê vào đâu được như thế kia mà. Tôi giậm chân lên điếu thuốc bà ta vừa bỏ, dụi cho nó tắt, rồi chầm chậm nhìn quanh bốn phía. Quanh tôi lại vẫn là thế giới thực tại thông thường. Thiên hạ vẫn đang di chuyển từ chỗ nọ đến chỗ kia, mỗi người có mục đích riêng. Tôi không biết họ là ai, họ cũng chả biết tôi là ai. Tôi hít một hơi dài rồi trở lại nhiệm vụ nhìn vào khuôn mặt những người đó, đầu chẳng nghĩ ngợi gì.

Tôi vẫn ngồi như thế suốt mười một ngày sau đó. Ngày nào cũng vậy, tôi ăn bánh vòng, uống cà phê rồi chẳng làm gì khác ngoài nhìn mặt những người qua lại. Ngoại trừ mẩu đối thoại vô nghĩa với người đàn bà ăn mặc đẹp đã lại gần tôi kia, tôi không nói chuyện với bất cứ ai trong suốt mười một ngày đó. Tôi chẳng làm gì đặc biệt, cũng chẳng có việc gì đặc biệt xảy ra với tôi. Tuy nhiên, ngay cả sau cái khoảng chân không mười một ngày đó, tôi vẫn không rút ra được kết luận nào cả. Tôi vẫn lạc trong một mê cung rối bời bời, không giải quyết nổi ngay cả vấn đề đơn giản nhất.

Nhưng đến chiều ngày thứ mười một thì một chuyện rất lạ lùng xảy ra. Hôm đó là Chủ nhật, nên tôi nán lại đó để ngắm khuôn mặt mọi người lâu hơn mọi khi. Những người đến khu Shinjuku vào ngày Chủ nhật khác với đám đông lui tới nơi này vào ngày thường, cũng không phải giờ cao điểm. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên mang chiếc hộp đàn ghita màu đem. Vóc người y trung bình. Y đeo kính gọng nhựa màu đen, tóc dài tới vai, mặc áo khoác vải thô và quần jean màu xanh dương, lê đôi giày thể thao cũ rích. Y đi ngang qua tôi, mắt nhìn thẳng ra phía trước lộ vẻ ưu tư. Khi nhìn thấy y, một cái gì đó khiến tôi ngẩn ra. Tim tôi giật thót lên. Mình biết kẻ này, tôi nghĩ. Tôi đã gặp y ở đâu đó rồi. Nhưng phải mất mấy giây tôi mới nhớ ra y là ai - tay ca sĩ tôi đã gặp đêm hôm đó trong quán bar ở Sapporo. Không nghi ngờ gì nữa: chính y.

Tôi bật dậy khỏi ghế, lật đật đuổi theo y. Vì y chỉ đi thủng thỉnh nên tôi đuổi kịp y chẳng khó gì. Tôi theo sau y khoảng mười bước, vừa đi vừa điều chỉnh nhịp bước của mình cho khớp với của y. Tôi cân nhắc xem có thể nói với y những gì. Tôi có thể nói chẳng hạn như: "Ba năm trước anh có hát ở Sapporo phải không? Tôi có nghe anh hát ở đó". "Ồ, thế à?" y sẽ nói. "Cám ơn ông nhiều lắm". Rồi sao nữa? Liệu tôi có nên nói: "Tối hôm đó vợ tôi đi phá thai. Và cô ấy đã bỏ tôi mới đây không lâu. Cô ấy đã ngủ với người khác"? Tôi quyết định chỉ theo y để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể trong khi đi tôi sẽ nghĩ ra cách gì đó đặng tùy cơ ứng biến.

Y đang rời khỏi nhà ga. Y đi ngang qua một dãy nhà cao tầng, băng qua Xa lộ Ome rồi hướng về phía Yoyogi. Y có vẻ đang đắm mình suy nghĩ. Rõ là thông thuộc khu này như lòng bàn tay, y không một lần nào do dự hay nhìn quanh. Y luôn bước đều nhịp, mắt hướng thẳng về phía trước. Tôi theo sau y mà nghĩ về cái ngày Kumiko đi phá thai. Sapporo vào đầu tháng Ba. Đất lạnh cứng, thi thoảng vài bông tuyết rơi xuống. Tôi lại quay lại những con phố đó, phổi tôi đầy khí lạnh. Tôi thấy hơi thở trắng tỏa ra từ miệng mọi người.

Thế rồi tôi bỗng ngộ ra: rằng chính lúc đó mọi việc đã thay đổi. Phải, chắc chắn vậy. Đó chính là bước ngoặt. Từ đó trở đi, dòng chảy quanh tôi đã bắt đầu tỏ dấu hiệu thay đổi. Giờ đây nghĩ lại, tôi mới nhận ra rằng việc phá thai đó đã là một sự kiện hệ trọng đối với hai chúng tôi. Tuy nhiên, tại thời điểm đó tôi đã không hiểu được tầm quan trọng đích thực của nó. Tôi đã quá bối rối bởi bản thân hành động phá thai, trong khi điều thực sự hệ trọng có thể là một cái gì đó hoàn toàn khác.

Em phải làm chuyện đó, nàng đã nói. Em cảm thấy mình làm vậy là đúng, rằng làm vậy là tốt nhất cho cả hai ta. Nhưng còn một cái gì khác nữa, cái gì đó mà anh không biết, cái gì đó mà em chưa thể nói thành lời. Em không giấu anh điều gì cả. Em chỉ không biết chắc liệu đó có phải là một cái gì có thực không. Chính vì vậy em chưa thể nói thành lời được.

Hồi ấy nàng không biết đó có phải là một cái gì có thực hay không. Và một cái gì ấy, không nghi ngờ gì nữa, có liên quan với việc mang thai hơn là với việc phá thai. Có thể nó có gì đó liên quan đến đứa trẻ trong bụng nàng. Nó có thể là cái gì? Cái gì đã khiến nàng hoang mang đến vậy? Phải chăng nàng có quan hệ với người đàn ông khác nên từ chối cho đứa bé ra đời? Không, không thể có chuyện ấy được. Chính nàng đã tuyên bố là không thể có chuyện ấy. Nó là con tôi, điều đó chắc chắn. Thế nhưng, vẫn có cái gì đó nàng không thể nói với tôi. Và chính một cái gì ấy có liên quan mật thiết đến việc nàng quyết định bỏ tôi. Mọi chuyện đều bắt đầu từ đó.

Nhưng bí mật đó là gì, cái gì bị che giấu ở đó, tôi hoàn toàn không biết. Tôi là kẻ duy nhất bị bỏ rơi, một mình trơ trọi trong bóng tối. Tôi chỉ biết chắc mỗi một điều là chừng nào tôi chưa giải được bí mật của một cái gì kia thì Kumiko sẽ không bao giờ trở lại với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy một nỗi căm giậm câm lặng dâng lên trong tôi, căm giận cái gì đó vẫn đang vô hình đối với tôi. Tôi vươn thẳng lưng, hít một hơi dài, cố trấn an nhịp tim đập thình thịch. Nhưng dù có vậy, nỗi căm giận, giống như nước, vẫn thẩm thấu vào từng ngóc ngách thân thể tôi. Đó là một cơn giận chìm trong u buồn. Tôi không có cách nào quật nó vào một cái gì cho nó vỡ tan ra, không thể làm gì để xua nó đi được.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 8-8-2012 20:13:30 | Xem tất


Gã đàn ông vẫn đi bằng nhịp chân đều đều. Y băng qua những đường ray của tuyến xe điện Odakyu, đi qua một dãy cửa hiệu, qua một đền thờ, qua một mê cung nhiều con ngõ. Tôi theo sau y, cố giữ một khoảng cách sao cho y không phát hiện ra tôi. Và rõ là y không phát hiện ra tôi. Y không một lần quay lại. Ở gã đàn ông này rõ ràng có cái gì đó khác người thường. Y không chỉ chẳng hề quay lại mà cũng chẳng bao giờ nhìn sang hai bên. Y quá đỗi tập trung; y đang nghĩ gì vậy? Hay đúng hơn, y hầu như không nghĩ về bất cứ cái gì?

Chẳng mấy chốc gã đàn ông bước vào một khu tĩnh mịch, phố xá vắng tanh hai bên là những dãy nhà hai tầng có khung bằng gỗ. Đường đi nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, len giữa hai dãy những căn nhà xập xệ chen chúc chụm vào nhau. Ở đây vắng người đến kỳ lạ. Hơn một nửa những căn nhà này không có người. Có những thanh ván nẹp ngang qua cửa chính những căn nhà không người ở, bên ngoài dán những lá đơn xin phép quy hoạch. Đây đó, như những chiếc răng bị khuyết, có những lô đất trống mọc tràn cỏ dại mùa hè, xung quanh rào lưới mắt cáo. Hẳn là có một kế hoạch giải tỏa toàn bộ khu này trong thời gian sắp tới để xây dựng vào tòa nhà cao tầng mới. Những chậu bìm bìm cùng mấy loài hoa khác xúm xít trong khoanh đất bé xíu đằng trước dăm căn nhà ít ỏi còn người ở. Bên cạnh khoảnh đất đó một chiếc xe đạp ba bánh nằm lăn lóc, một chiếc khăn tắm và một bộ đồ tắm trẻ con phơi trên cửa sổ tầng hai. Mèo nằm nhan nhản khắp nơi, dưới cửa sổ, nơi ngưỡng cửa các nhà, chúng theo dõi tôi bằng cái nhìn uể oải. Tuy chỉ mới xế chiều nhưng khu này không một bóng người. Địa thế của nơi này làm tôi bối rối. Tôi không biết đây là phía Bắc hay phía Nam. Tôi đoán chừng đây là một vùng tam giác nằm giữa Yoyogi, Sendagaya va Harajuku, nhưng không chắc lắm.

Dù thế nào đi nữa, đây là một khu vực bị lãng quên của thành phố. Hẳn là người ta đã quên bẵng nó bởi đường sá ở đây quá hẹp nên ôtô khó lòng qua được. Bàn tay các nhà thầu xây dựng chưa vươn tới đây. Bước chân tới chốn này, tôi có cảm giác như thời gian đã quay lại hai mươi, ba mươi năm về trước. Tôi nhận ra rằng đến một lúc nào đó, tiếng gầm gào triền miên của động cơ ôtô đã bị nuốt chửng, lúc này thì đã hoàn toàn biến mất. Xách chiếc hộp đàn ghita, gã đàn ông len lỏi qua mê cung những con phố cho tới khi đến một căn nhà khung gỗ gồm nhiều căn hộ cho thuê. Y mở cửa, bước vào rồi đóng cửa lại sau lưng mình. Theo như tôi thấy thì cửa không khóa.

Tôi đứng đó một lát. Kim đồng hồ của tôi chỉ 6 giờ 20. Tôi tựa lưng vào hàng rào mắt cáo của lô đất trống bên kia đường mà quan sát căn nhà. Nó là một căn nhà chuyên cho thuê điển hình, có hai tầng, khung bằng gỗ. Nhìn cửa ra vào và cách bố trí các phòng là thấy ngay. Hồi còn sinh viên tôi từng sống trong một căn nhà như thế này. Nơi tiền sảnh có một cái tủ đựng giày, một toilet dùng chung, một gian bếp nhỏ, chỉ có sinh viên và những người đi làm độc thân mới sống ở đó. Tuy nhiên, căn nhà này lại chẳng có vẻ gì là có người ở. Không âm thanh, không động tĩnh. Trên cánh cửa bọc nhựa không có tấm bảng tên người nào. Trước kia thì có bảng tên nhưng ai đó đã bóc đi, chỉ còn trơ lại một khoảng trống dài, hẹp. Mọi cửa sổ đều đóng im ỉm, rèm che kín mít, dù cái nóng cuối buổi chiều vẫn chưa dứt.

Căn nhà cho thuê này, cũng như các căn nhà kế cận, hẳn nằm trong kế hoạch giải tỏa, nên không còn ai sinh sống nữa. Nhưng nếu đúng vậy thì gã đàn ông ôm hộp đàn ghita làm gì ở đây? Tôi đã có ý chờ xem sau khi y vào thì có cánh cửa sổ nào mở ra không, nhưng chẳng có động tĩnh gì.

Tôi không thể cứ quanh quẩn ở cái phố hẹp vắng tanh này mãi. Tôi liền đi đến chỗ cửa chính căn nhà, đẩy thử. Tôi đã đoán đúng: cửa không khóa, mở vào trong dễ dàng. Tôi đứng nơi ngưỡng cửa một lát, cố gắng có một cảm nhận về nơi này, nhưng hầu như không nhìn rõ được gì trong cảnh tranh tối tranh sáng. Mọi cửa sổ đều đóng kín mít, không khí trong nhà nồng nực, tù hãm. Cái mùi ẩm mốc làm tôi nhớ tới các mùi dưới đáy giếng. Nách tôi vã mồ hôi trong cái nóng. Môt giọt mồ hôi chảy xuống phía sau vai tôi. Sau một thoáng do dự, tôi bước vào rồi nhẹ nhàng đóng cửa lại đằng sau. Tôi đã nghĩ đến chuyện xem thử có tên người nào dám trên thùng thư hay tủ đựng giày để biết liệu có ai vẫn đang sống ở đây chăng, nhưng chưa làm vậy thì tôi đã nhận ra rằng có ai đó ở trong nhà. Có ai đó đang quan sát tôi.

Bên phải lối vào có cái gì đó cao cao giống như tủ giày, và ai đó kia đang đứng ngay phía sau nó, như đang ẩn nấp. Tôi nín thở nhìn chòng chọc vào cái hơi ấm tranh tối tranh sáng kia. Người đứng đó là gã trai mang hộp đàn ghita. Rõ ràng là ngay sau khi vào phòng y đã núp sau tủ giày. Y làm gì ở đây? Đợi tôi chăng? "Chào đằng ấy", tôi cố buộc mình lên tiếng. "Tôi đang muốn hỏi anh..."

Nhưng mấy chữ ấy vừa buột khỏi mồm tôi thì một cái gì đó đã quật mạnh vào vai tôi. Rất mạnh. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra. Trong khoảnh khắc đó điều duy nhất tôi cảm thấy lực đánh mạnh đến tối tăm mặt mũi. Tôi đứng đực ra đó, hoang mang. Nhưng ngay một giây sau đó tôi hiểu điều gì đang diễn ra. Nhanh như khỉ, gã đàn ông đã nhảy phóc ra từ sau chiếc tủ giày mà đánh tôi bằng một cây gậy bóng chày. Trong khi tôi đang đứng đó choáng váng, y lại vung gậy lên giáng vào tôi. Tôi cố tránh nhưng không kịp. Lần này gậy đập vào tay trái tôi. Trong một khoảnh khắc, tay mất hết cảm giác. Không đau đớn, không gì cả. Cứ như toàn bộ cánh tay đã tan biến vào không trung vậy.

Tuy nhiên, chưa kịp nghĩ gì thì tôi đã tung chân đá hắn, như một phản xạ có điều kiện. Tôi chưa bao giờ theo học khóa võ thuật chính quy nào, nhưng một thằng bạn tôi hồi trung học biết karate đến đẳng gì đấy đã dạy tôi những đòn cơ bản. Hết ngày này sang ngày khác, cậu ta dạy tôi những đòn đá - chẳng cầu kỳ gì cả, chỉ là tập đá sao cho càng mạnh, càng cao, càng thẳng chân càng tốt. Đây là thứ hữu ích duy nhất cần biết trong những tình huống nước sôi lửa bỏng, cậu ta bảo. Cậu ta có lý lắm. Gã đàn ông đang mải mê vung gậy nên không hề ngờ trước rằng y có thể sẽ bị đá. Tôi cũng đang hoảng loạn như y nên không hề nghĩ xem mình đã vào đâu, cú đã cũng chẳng lấy gì làm mạnh, nhưng hình như cú sốc nó gây ra cũng đủ cho gã kia tắt điện. Y không vung gậy nữa, và như thể đúng khoảnh khắc đó thời gian dừng lại, y nhìn trân trân vào tôi bằng cặp mắt trống rỗng. Chộp lấy cơ hội, tôi bồi thêm một cú đá mạnh hơn, chính xác hơn vào bụng dưới y, và khi y gập người lại vì đau, tôi giằng cây gậy khỏi tay y. Rồi tôi đá mạnh vào mạng sườn y. Y cố túm chân tôi, thế là tôi lại đá y. Rồi lại đá nữa, cũng vào chỗ đó. Đoạn tôi vung gậy phang thẳng cánh vào đùi y. Y rống lên một tiếng đùng đục rồi đổ vật xuống sàn nhà.

Ban đầu tôi đá và đánh y hoàn toàn là do khiếp sợ, đánh để chính mình không bị đánh. Nhưng khi y đã ngã xuống sàn, tôi nhận thấy nỗi khiếp sợ của tôi đã chuyển thành giận dữ, thực sự là giận dữ. Giận dữ vẫn còn nguyên đó, nỗi giận dữ lặng lẽ vốn đã tràng dâng trong thân thể tôi trước đó, khi tôi vừa đi vừa nghĩ đến Kumiko. Giờ đây được tuôn ra, nó bùng lên không sao kìm chế được thành cái gì đó gần như là nỗi căm hận dữ dội. Tôi lại vung gậy quật vào đùi gã đàn ông. Y rớt dãi nơi khóe miệng. Vai và tay trái tôi, chỗ bị y đánh ban nãy, bắt đầu đau nhói. Cái đau càng khiến tôi điên tiết. Mặt gã đàn ông méo xệch vì đau, nhưng y vẫn cố gượng dậy khỏi sàn. Tôi không điều khiển được tay trái, thế nên tôi quẳng gậy xuống đất mà giẫm lên người y, giã túi bụi vào mặt y bằng tay phải. Tôi nện liên hồi kỳ trận. Tôi nện cho đến khi mấy ngón tay phải tôi tê dại rồi trở nên đau nhói. Tôi muốn dần y cho đến khi bất tỉnh mới nghe. Tôi túm cổ y, dập đầu y xuống sàn nhà bằng gỗ. Chưa bao giờ trong đời tôi phải thượng cẳng chân hạ cẳng tay với ai. Tôi chưa bao giờ vận hết sức bình sinh đặng đánh kẻ nào khác. Nhưng lúc này tôi chỉ làm được mỗi một việc là đánh, đánh mãi, chừng như không sao dừng được. Trí óc bảo tôi dừng lại: thế là đủ rồi. Đánh nữa sẽ là quá tay. Gã này sẽ không dậy nổi nữa. Nhưng tôi không dừng được. Tôi nhận ra rằng lúc này có đến hai tôi. Tôi đã tách làm hai, nhưng cái tôi này không còn đủ sức ngăn cái tôi kia. Ý nghĩ đó làm tôi lạnh sống lưng.

Thế rồi tôi nhận thấy gã đàn ông đang mỉm cười. Cho dù tôi đang đánh y, y vẫn đang cười vào mặt tôi - tôi càng đánh tợn thì nụ cười càng ngoác ra, cho tới khi máu tuôn xối xả từ mũi và cặp môi nát toét của y, và tới khi y sặc vì nước dãi của chính y, thì y bật ra một tiếng cười lảnh lót, mỏng dính. Y điên rồi, tôi nghĩ. Tôi bèn ngừng đánh y mà đứng thẳng dậy.

Tôi nhìn quanh thì thấy chiếc hộp đàn ghita dựng bên hông cái tủ đựng giày. Tôi để mặc gã đàn ông nằm cười sằng sặc đó mà lại gần chiếc hộp đàn. Tôi hạ nó xuống sàn, mở khóa rồi nhấc nắp hộp lên. Bên trong chẳng có gì hết, không đàn, không nến. Gã đàn ông nhìn tôi, vừa cười vừa ho khục khặc. Tôi cảm thấy khó thở. Đột nhiên, bầu không khí oi nồng, sực hơi nước trong căn nhà này trở nên không thể chịu nổi. Mùi ẩm mốc, mồ hôi nhớp nháp của chính tôi, mùi máu và nước dãi, nỗi giận dữ và căm hận trong tôi: tất cả bỗng trở nên quá sức chịu đựng của tôi. Tôi đẩy bật cửa bước ra ngoài, khép cửa lại đằng sau. Cũng như trước, không hề có dấu vết một ai ở chốn này. Sinh vậy duy nhất là một con mèo to màu nâu đang chậm rãi băng qua lô đất trống, chẳng buồn để ý đến tôi.

Tôi muốn rời khỏi nơi này trước khi có người phát hiện ra tôi. Tôi không biết đi lối nào, nhưng tôi cứ đi, chẳng mấy chốc cũng tìm được một trạm xe buýt có biển đề "Đến ga Shinjuku". Tôi cố thở đều lại và sắp xếp cho đâu vào đấy trong đầu trước khi xe buýt đến, nhưng cả hai đều không xong - hơi thở hổn hển, trong đầu vẫn rối tung lên. "Mình chỉ muốn nhìn vào mặt thiên hạ thôi mà", tôi cứ nhắc đi nhắc lại trong đầu vậy! Tôi chỉ nhìn mặt người qua kẻ lại trên đường mà thôi, như lời cậu tôi bảo. Tôi chỉ đang cố gỡ rối những rắc rối đơn giản của đời tôi, chỉ có thế. Khi tôi lên xe buýt, hành khách quay lại nhìn tôi. Ai đấy đều tỏ vẻ kinh hoàng rồi ngoảnh đi chỗ khác. Ban đầu tôi nghĩ ấy là do vết bầm trên mặt tôi. Mãi một lúc tôi mới nhận ra đó là vì những vết máu loang lổ trên ngực áo tôi (chủ yếu là máu mũi của y) và cây gập bóng chày mà tôi vẫn đang nắm chặt trong tay.

Rốt cuộc tôi đã tha cây gậy suốt dọc đường về nhà rồi ném vào trong tủ.

Đêm đó tôi thức trắng đến tận sáng. Vai và tay trái tôi, những chỗ bị gã kia đánh bằng gậy bóng chày, giờ đây sưng vù lên, đau tê tái, còn nắm tay phải tôi vẫn còn nguyên cảm giác nện tới tấp vào gã đó, nện liên hồi kỳ trận. Tôi nhận ra rằng bàn tay vẫn nắm chặt thành quả đấm, sẵn sàng đánh. Tôi cố duỗi bàn tay ra nhưng nó không chịu nghe. Còn không ngủ được thì không hẳn vì không thể ngủ mà đúng hơn là không muốn ngủ. Nếu cứ trong tình trạng này mà ngủ, tôi sẽ chẳng có cách nào thoát khỏi mơ những giấc mơ khủng khiếp. Tôi cố trấn tĩnh, ngồi bên bàn bếp, vừa nhấp chỗ whisky ông cậu tôi để lại vừa nghe nhạc êm dịu phát ra từ máy cát-xét. Tôi muốn nói chuyện với một ai đó. Tôi muốn một ai đó nói chuyện với tôi. Tôi đặt điện thoại lên bàn rồi nhìn nó hàng giờ liền. Ai đó hãy gọi tôi đi nào, làm ơn hãy gọi cho tôi, ai cũng được, kể cả người đàn bà bí ẩn trên điện thoại kia cũng được; ai tôi cũng sẵn lòng nghe. Dù cho là cuộc nói chuyện bẩn thỉu và vô nghĩa nhất, cuộc đối thoại độc địa và ghê tởm nhất. Không sao hết. Tôi chỉ cần một người nào đó hãy nói chuyện với tôi.

Nhưng điện thoại không reo. Tôi uống nốt nửa chai Scotch còn lại, rồi khi trời đã sáng, tôi bò vào giường đi ngủ. Xin đừng để tôi mơ, xin hãy cho giấc ngủ tôi là một giấc ngủ trống trơn, không mộng mị, dù chỉ hôm nay thôi.

Nhưng dĩ nhiên tôi đã mơ. Và đúng như tôi đã sợ, đó là một giấc mơ khủng khiếp. Trong mơ có gã đàn ông mang hộp đàn ghita. Trong giấc mơ tôi cũng làm những việc như đã làm trong thực tại - đi theo y, mở cửa trước căn nhà có hộ cho thuê, cảm thấy tác động từ cú đánh, rồi nện gã đàn ông, nện mãi, nện mãi. Nhưng sau đó thì khác. Khi tôi thôi đánh hắn và đứng dậy, gã đàn ông vẫn chảy rớt dãi và cười như điên dại như trong thực tại, nhưng y lại rút từ trong túi ra một con dao - một con nhỏ sắc lẻm. Lưỡi dao phản chiếu ánh chiều yếu ớt tuôn vào qua rèm cửa, hắt ra một ánh trăng trắng giống như xương. Nhưng gã đàn ông không dùng con dao để tấn công tôi. Thay vào đó y cởi hết quần áo ra rồi bắt đầu tự lột da mình như lột vỏ quả táo. Y làm rất nhanh mà vẫn không ngớt cười sằng sặc. Máu phụt ra xối xả từ mình y, làm thành một cái ao đen sịt, khủng khiếp trên sàn nhà. Y dùng bàn tay phải lột da cánh tay trái, rồi dùng bàn tay trái đã lột da đẫm máu để lột da cánh tay phải. Cuối cùng y trở thành một súc thịt đỏ hỏn, nhưng ngay cả khi đó y vẫn tiếp tục cười sằng sặc từ cái lỗ đen ngòm vốn là cái miệng hả hoác của y, cặp nhãn cầu trắng dã lộn lên lộn xuống như điên trên mớ thịt đỏ hỏn vốn là bộ mặt y. Chẳng mấy chốc, như thể đáp lại độ lớn phi tự nhiên của tiếng cười y, bộ da đã lột của gã đàn ông bắt đầu trườn trên sàn nhà mà lại gần tôi. Tôi muốn bỏ chạy, nhưng chân tôi không cục cựa. Bộ da chạm tới chân tôi rồi bắt đầu bò ngược lên. Nó bò lên trên da tôi, bộ da sũng máu của gã đàn ông dán chặt lên da tôi làm thành một lớp bọc ngoài. Đâu cũng mùi máu nồng nặc. Chẳng mấy chốc mà chân tôi, mình tôi, mặt tôi bị lớp màng mỏng của bô da gã đàn ông hoàn toàn phủ kín. Rồi mắt tôi không nhìn được nữa, và tiếng cười của gã đàn ông vang vọng trong bóng tối rỗng hoác. Đến đó thì tôi thức dậy.

Bàng hoàng và khiếp đảm tràn ngập tôi. Trong một lát, tôi thậm chí không còn cảm nhận được sự hiện hữu của chính mình. Các ngón tay tôi run rẩy. Nhưng đồng thời tôi biết mình đã đi đến một kết luận.

Tôi không thể - và không nên - chạy trốn, không trốn đến Crete, cũng chẳng trốn đi đâu hết. Tôi phải đưa bằng được Kumiko trở về. Bằng đôi tay mình, tôi phải lôi nàng trở lại thế giới này. Bởi nếu tôi không làm vậy, đó sẽ là chung cục của chính tôi. Con người này, cái kẻ mà tôi xem là "tôi", kẻ đó sẽ mất đi vĩnh viễn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 19:55:57 | Xem tất




Quyển III
Kẻ Bắt Chim
Tháng 10 đến tháng 12 năm 1984

Chương 1
Chim Vặn Dây Cót Trong Mùa Đông


Từ đoạn cuối mùa hè kỳ lạ ấy cho tới mùa đông, cuộc sống của tôi không có gì thay đổi. Ngày nào cũng khởi đầu bình lặng, chấm dứt cũng bình lặng như khi nó khởi đầu. Tháng chín trời nhiều mưa. Tháng mười có vài ngày ấm sực đến toát cả mồ hôi. Ngoài khí hậu ra thì hầu như chẳng có gì phân biệt ngày này với ngày kia. Tôi cố gắng tập trung vào những gì thực tế và hữu ích. Ngày nào tôi cũng đi bơi thật lâu, đi dạo, tự nấu ăn ba bữa.

Nhưng dẫu vậy đi nữa, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy cô đơn đến nhói lòng. Ngay cả nước tôi uống, không khí tôi thở dường như cũng tua tủa những chiếc kim dài, bén ngót. Những trang sách trên tay tôi lấp lánh ánh kim loại đầy đe doạ như những lưỡi dao lam. Lúc 4 giờ sáng, chung quanh lặng tờ đến độ tôi như nghe thấy tiếng nỗi cô đơn đâm rễ vào thân tôi mỗi lúc một sâu.


° ° °


Thế nhưng vẫn có những người không chịu để tôi yên, đó là gia đình Kumiko. Họ viết thư cho tôi. Họ bảo Kumiko không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với tôi nữa, rằng tôi nên đồng ý li dị ngay lập tức. Làm vậy sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Những bức thư đầu tìm cách gây sức ép với tôi bằng giọng văn lạnh lùng, sự vụ. Khi tôi không trả lời, họ chuyển sang đe doạ, sau rốt là cầu khẩn. Nhưng mục đích trước sau vẫn là một.

Cuối cùng cha của Kumiko gọi điện cho tôi.

- Con không nói rằng con cương quyết không ly dị, - tôi nói. - Nhưng trước hết con muốn gặp Kumiko nói chuyện tay đôi. Nếu Kumiko thuyết phục được con rằng quả thật cô ấy cần ly dị thì con sẽ cho ly dị. Không thì sẽ chẳng ly dị gì hết.

Tôi ngoái lại cửa sổ nhà bếp nhìn bầu trời xám xịt trĩu mưa trải dài tít đằng xa. Trời mưa đã bốn ngày dòng. Cả thế gian biến thành đen kịt, ướt sũng.

- Kumiko và con đã bàn bạc với nhau mọi chuyện trước khi quyết định cưới nhau, thành thử nếu chấm dứt cuộc hôn nhân đó thì con cũng muốn làm đúng như vậy.

Cha của Kumiko và tôi tiếp tục đối đáp qua lại một hồi mà chẳng đi tới đâu, ít nhất là chẳng đi tới kết quả tích cực nào.

° ° °


Một số câu hỏi vẫn chưa có lời đáp. Có thật Kumiko muốn ly dị tôi không? Có phải Kumiko đã nhờ cha mẹ cố thuyết phục tôi đồng ý ly dị? "Kumiko nói nó không muốn gặp cậu", cha nàng bảo tôi vậy, hệt như anh trai nàng, Wataya Noboru đã nói. Có thể không phải họ hoàn toàn nói dối đâu. Cha mẹ Kumiko đúng là những kẻ luôn lý giải sự vật theo cách có lợi cho mình, nhưng theo tôi biết, họ không phải là loại người dựng chuyện từ không thành có. Dù tốt hay dù xấu, họ vẫn là người thực tế. Nếu điều cha của Kumiko nói là sự thật thì hiện giờ Kumiko đang được họ cho "nương náu" ở đâu đó chăng?

Nhưng điều đó tôi lại không tin được. Từ nhỏ Kumiko đã không có cái gọi là tình yêu thương đối với cha mẹ và anh. Đã bao năm nay nàng đấu tranh để không bị lệ thuộc vào họ. Rất có thể Kumiko bỏ tôi vì nàng có nhân tình. Cho dù tôi không sao chấp nhận được lời giải thích nàng đưa ra trong thư, nhưng tôi biết không thể loại trừ hoàn toàn khả năng đó. Song, điều tôi không thể chấp nhận là Kumiko bỏ tôi để đến thẳng nhà cha mẹ hay một chỗ nào đó họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho nàng và thông qua họ mà giữ liên lạc với tôi.

Càng nghĩ, tôi càng không hiểu. Có một khả năng là Kumiko bị suy sụp thần kinh và không sao qua được cơn chấn động đó. Một khả năng khác là nàng đang bị ai đó dùng vũ lực giam giữ. Suốt mấy ngày tôi xếp lui xếp tới trong đầu chuỗi sự kiện, lời nói và ký ức, để rồi rốt cuộc đành chịu thua không nghĩ nữa. Đoán già đoán non chẳng đi tới đâu.

° ° °


Thu sắp tàn, trong không khí đã nghe hơi hướng của mùa đông. Cũng như mọi năm, cứ tới độ này là tôi lại hót lá rụng trong vườn rồi nhét vào túi nhựa. Tôi dựa thang vào mái nhà rồi dọn sạch lá rụng trong ống máng. Khu vườn nhỏ nhà tôi ở không có cây, nhưng gió cứ vặt lá những cây cối sum suê ở mấy khu vườn cả hai bên mà dồn đống vào đây. Tôi làm việc này chẳng nề hà gì. Tôi lơ đãng ngắm những chiếc lá úa rơi trong nắng chiều mà quên cả thì giờ. Một cái cây lớn ở vườn hàng xóm bên phải ra những quả đỏ mọng tươi. Hàng đàn chim đậu trên đó, kêu inh ỏi như đang thi với nhau. Lũ chim có bộ lông màu sáng, tiếng kêu ngắt quãng, chói lọi như thọc vào không khí.

Tôi tự hỏi nên cất giữ quần áo mùa hè của Kumiko bằng cách nào hay nhất. Tôi có thể làm như nàng đã viết trong thư là tống khứ chúng đi. Nhưng tôi nhớ lại, nàng đã từng chăm chút nâng niu từng thứ một đến thế nào. Mà đâu phải tôi không có chỗ nào để giữ. Thế nên tôi quyết định tạm thời quần áo đang treo đâu thì cứ để nguyên ở đấy.

Dẫu vậy, mỗi khi mở tủ, tôi lại va phải sự vắng mặt của Kumiko. Những bộ áo váy treo kia là cái vỏ còn lại của một cái gì không còn tồn tại nữa. Tôi biết rõ nàng trông ra sao khi mặc những bộ đồ đó, một số cái còn gắn liền với những kỷ niệm cụ thể. Nhiều khi tôi cứ ngồi thừ trên mép giường, nhìn đăm đăm những dãy áo dài, áo cánh hoặc váy kia. Tôi không biết mình ngồi đó bao lâu. Có thể mười phút, cũng có thể một tiếng.

Đôi khi, ngắm một bộ áo váy, tôi lại hình dung một người đàn ông mà tôi không quen biết đang giúp Kumiko cởi nó ra. Bàn tay hắn trút áo váy khỏi người nàng, rồi cởi nốt đồ lót bên trong. Bàn tay hắn ve vuốt cặp vú nàng, banh háng nàng ra. Tôi thấy rõ đôi vú và cặp đùi mềm mại trắng nõn của nàng, thấy hai bàn tay gã đàn ông kia đang sờ mó chúng. Tôi không muốn nghĩ về những chuyện như vậy, nhưng không thể nào không nghĩ. Có lẽ những chuyện đó đã diễn ra trong thực tế. Tôi phải cố quen với những hình ảnh đó. Tôi không thể gạt phắt thực tại như thế được.

Thi thoảng tôi lại nhớ đến cái đêm ngủ với Kano Creta, song ký ức về nó khá mơ hồ. Đêm đó tôi ôm cô ta trong vòng tay, nhập thân thể mình vào thân thể cô không biết mấy lần, đó là một sự kiện không thể phủ nhận. Nhưng tuần nối tuần qua, cảm giác chắc chắn kia dần dần biến mất. Tôi không còn phục hồi lại được hình ảnh rõ nét về thân thể cô ta, hay cách mà thân thể đó đã hoà làm một với thân tôi. Có chăng là ký ức về những gì tôi đã làm với cô ta từ trước nữa, trong tâm khảm tôi - trong cõi phi thực - còn sống động hơn nhiều so với ký ức về cái đêm đó. Hình ảnh cô ta chồng chất lên tôi, mặc chiếc áo váy màu xanh biển của Kumiko, trong căn phòng khách sạn xa lạ, trở đi trở lại mãi với tôi, rõ ràng đến kinh ngạc.
° ° °
Vào đầu tháng mười, ông bác của Wataya Noboru làm dân biểu Hạ viện tỉnh Niigata qua đời. Ông ta bị lên cơn đau tim ngay sau nửa đêm trên giường bệnh ở Niigata; dù bác sĩ đã hết sức cứu chữa song đến sáng ông vẫn ra đi. Dĩ nhiên, cái chết của ông đã được người ta tiên liệu từ lâu, kỳ tổng tuyển cử thì sắp đến, cho nên những người ủng hộ ông bác liền mau mắn thực hiện kế hoạch đã có từ trước là để Wataya Noboru thừa kế chức dân biểu này. Bộ máy vận động phiếu bầu của vị dân biểu quá cố vốn có cơ sở rất vững chắc và rất ư bảo thủ. Hoạ chăng có một sự kiện lớn bất ngờ nào đó, nếu không thì việc Wataya Noboru được bầu là chắc như đinh đóng cột.

Tôi đọc được tin đó trong tờ báo ở thư viện, và ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là: từ nay trở đi nhà Wataya Noboru sẽ vô cùng bận rộn, chẳng hơi đâu bận tâm đến chuyện ly hôn của Kumiko nữa.

° ° °

Vết bầm xanh đen trên mặt tôi không lớn lên cũng chẳng teo đi. Nó không nóng cũng chẳng đau. Dần dà, thậm chí tôi quên mất rằng mình có nó. Tôi thôi tìm cách giấu đi vết bầm bằng cách đeo kính râm hay đội mũ che sùm sụp. Thi thoảng tôi vẫn phải nhớ tới nó, đó là những khi tôi đi mua sắm, người ta nhìn chằm chằm vào tôi hoặc ngoảnh đi chỗ khác, nhưng rồi chẳng mấy chốc ngay những phản ứng đó cũng chẳng làm tôi bận tâm nữa. Có vết bầm trên mặt thì tôi cũng chẳng làm hại ai. Mỗi sáng, khi cạo râu rửa mặt, tôi đều kiểm tra vết bầm, nhưng không thấy có gì thay đổi. Kích thước, mầu sắc và hình dáng của nó vẫn vậy.

Có cả thảy bốn người lên tiếng bày tỏ mối quan tâm đối với vết bầm tự dưng xuất hiện trên má tôi: chủ hiệu giặt là gần nhà ga, tay thợ cắt tóc, gã thanh niên ở quán rượu Omura, và chị thủ thư ngồi ở quầy thư viện địa phương. Mỗi lần bị hỏi, tôi đều tỏ vẻ bực bội và nói một câu gì đó mơ hồ đại loại như "tôi bị một tai nạn nhỏ". Thế là họ lẩm bẩm "Ồ, ồ, à, à" hay "Xui cho anh quá", như thể xin lỗi vì đã nhắc tới nó.

Càng ngày dường như tôi lại càng xa cách chính mình hơn. Mỗi khi ngắm bàn tay mình hồi lâu, tôi bắt đầu cảm thấy mình đang nhìn xuyên qua nó. Hầu như tôi không nói chuyện với ai. Chẳng ai viết thư hay gọi điện cho tôi. Trong hòm thư tôi chỉ thấy rặt những hoá đơn và thư quảng cáo linh tinh, hầu hết là các catalogue thiết kế và thời trang gửi cho Kumiko, đầy những ảnh màu các kiểu áo váy xuân. Mùa đông năm nay lạnh, nhưng thỉnh thoảng tôi lại quên bật lò sưởi, vì không chắc đấy là lạnh thật hay là lạnh ở bên trong mình. Tôi thường chỉ bật công tắc lò sưởi sau khi đã nhìn nhiệt kế mà tự nhủ "Ờ, lạnh thật", nhưng ngay cả khi đó, cái lạnh mà tôi cảm thấy vẫn không hề giảm bớt.

° ° °


Tôi viết thư cho Trung uý Mamiya mô tả khái quát những gì đang diễn ra với tôi. Nhận được thư này có lẽ ông ta sẽ bối rối hơn là vui vẻ, song tôi chẳng nghĩ ra được ai khác để viết thư cả. Tôi mào đầu bằng chính lý do đó. Rồi tôi báo cho ông Mamiya biết chuyện Kumiko đã bỏ tôi đúng vào cái ngày ông đến chơi nhà tôi, rằng nàng ngủ với người khác đã hàng mấy tháng trời, rằng tôi đã trải qua ba ngày dưới đáy giếng mà suy tư, rằng hiện nay tôi sống một mình, và rằng món quà ông Honda để lại chỉ là một hộp đựng whisky rỗng.

Một tuần sau Trung uý Mamiya gửi thư phúc đáp cho tôi.

Nói thật, từ khi ta gặp nhau lần trước ông luôn luôn hiện diện một cách lạ lùng trong suy nghĩ của tôi. Tôi rời khỏi nhà ông mà cảm thấy thực ra hai ta cần phải tiếp tục trò chuyện, phải "rút gan rút ruột" cho nhau, có thể nói vậy, và tôi vô cùng ân hận rằng hai ta đã không làm vậy. Thế nhưng, thật không may, tôi có việc đột xuất phải quay về Hiroshima ngay đêm đó. Vì vậy, theo nghĩa nào đó, tôi rất vui khi nhận được thư ông. Tôi tự hỏi phải chăng tất cả là do ông Honda đã có ý định đưa hai ta đến với nhau. Có lẽ ông ấy tin rằng nếu tôi gặp ông và ông gặp tôi thì sẽ rất tốt. Việc trao di vật chỉ là một cái cớ để tôi đến thăm ông. Có thể vì vậy mà món di vật nọ chỉ là một cái hộp rỗng. Bản thân việc tôi đến thăm ông mới là món quà mà ông Honda để lại cho ông.

Tôi sửng sốt khi được biết ông đã chui xuống giếng, bới chính tôi cũng luôn luôn cảm thấy mình bị những cái giếng lôi cuốn mãnh liệt. Một khi đã biết trường hợp cận kề cái chết của tôi, người ta sẽ cho rằng tôi hẳn sẽ không bao giờ muốn thấy một cái giếng nào nữa, nhưng không, hoàn toàn ngược lại: cho tới tận giờ đây, bất cứ khi nào thấy một cái giếng, tôi không thể không dòm xuống. Và nếu hoá ra đó là giếng cạn, tôi cảm thấy nôn nao muốn trèo xuống. Có lẽ vì tôi vẫn nuôi hy vọng gặp một cái gì đó dưới kia, rằng nếu trèo xuống dưới rồi cứ đợi, có thể tôi sẽ gặp một cái gì đó. Chẳng phải vì tôi trông đợi nó sẽ phục hồi cuộc đời cho tôi đâu. Tôi già rồi, không còn ở cái tuổi trông mong những điều như vậy. Cái mà tôi hy vọng tìm thấy được là ý nghĩa của cuộc sống mà tôi đã đánh mất. Cái gì đã tước nó khỏi tôi? Vì sao? Tôi muốn biết lời đáp tuyệt đối chắc chắn cho những câu hỏi đó. Thậm chí tôi có thể nói rằng, nếu như biết được những lời đáp đó, tôi sẽ chẳng kể gì cho dẫu còn đánh mất chính mình một cách sâu xa hơn cả bây giờ. Tôi sẽ vui lòng chấp nhận cái gánh nặng đó dù đời tôi còn lại bao năm đi nữa.

Thực lòng tôi rất lấy làm tiếc khi hay tin bà nhà đã bỏ ông, nhưng về việc này tôi không thể khuyên nhủ gì ông được. Tôi đã sống quá lâu mà không hề biết tới tình yêu thương hay mái ấm gia đình nên không có tư cách gì để nói về những chuyện đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu ông có dù chỉ chút lòng mong muốn đợi thêm ít lâu may ra bà ấy quay về thì hẳn ông cứ đợi như ông đang đợi. Đó là ý kiến của tôi, nếu như ý kiến của tôi có chút giá trị gì. Tôi hiểu lắm, phải sống mãi một mình ở nơi mà có kẻ đã bỏ rơi mình thì khó đến nhường nào, song trên đời này chẳng có gì tàn nhẫn bằng không còn gì để hy vọng nữa.

Nếu có thể, tôi muốn đến Tokyo nay mai để gặp lại ông, nhưng thật không may, tôi đang bị đau một bên chân, phải mất ít lâu mới chữa lành. Xin ông bảo trọng.

Đôi khi tôi trèo qua bức tường sau vườn rồi đi dọc cái ngõ quanh co đến nơi từng toạ lạc căn nhà bỏ trống của gia đình Miyawaki. Mặc áo khoác dài đến giữa đùi, khăn quàng quấn kỹ dưới cằm, tôi giẫm lên lớp lá rụng mùa đông trên con ngõ. Gió mùa đông lạnh buốt giật từng cơn, rít qua những hàng dây điện ở trên đầu. Căn nhà đã bị đập bỏ hoàn toàn, mảnh sân giờ đây bị quấn kín bởi một hàng rào cao bằng ván. Tôi có thể nhìn vào trong qua khe hở giữa những tấm ván, nhưng chẳng có gì để nhìn - không còn nhà, không còn những hòn đá lát lối đi, không giếng, không cây, không ăng-ten, không bức tượng chim; chỉ là một khoảnh đất bằng phẳng, đen đúa trông lạnh lẽo, chằng chịt vết xe ủi đất, dăm ba cụm cỏ dại lơ thơ. Thật khó tin rằng từng có một cái giếng sâu trong khoảnh sân này và tôi đã từng chui xuống đáy giếng đó.

Tôi tựa vào hàng rào, nhìn lên ngôi nhà của Kasahara May, nơi từng có căn phòng của cô, trên tầng hai. Nhưng cô không còn ở đó. Cô sẽ không còn bước ra mà nói: "Chào Chim vặn dây cót".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 19:58:52 | Xem tất


Vào một buổi chiều tháng Hai lạnh cắt da cắt thịt, tôi ghé vào văn phòng địa ốc gần nhà ga tên là công ty địa ốc Setagaya Dai-ichi mà ông cậu tôi từng nói với tôi. Khi vào trong, người đầu tiên tôi gặp là một nữ tiếp tân đã đứng tuổi. Mấy chiếc bàn làm việc kê thành hàng gần lối vào, nhưng các ghế ngồi đều trống, như thể tất cả nhân viên môi giới đều đi gặp khách hàng. Chính giữa phòng là một cái máy sưởi lớn chạy gas toả ánh đỏ rực. Trên chiếc đi-văng trong gian tiếp khách nhỏ ở mé trong có một ông già bé nhỏ ngồi mê mải đọc báo. Tôi hỏi người tiếp tân xem ông Ichikawa có ở đây không. "Tôi đây", ông lão vừa quay về phía tôi vừa nói. "Tôi có thể giúp gì cho ông đây?".

Tôi tự giới thiệu là cháu của cậu tôi, hiện đang sống ở một trong các căn nhà thuộc sở hữu của ông cậu.

- À, tôi hiểu rồi, - ông già vừa nói vừa đặt tờ báo xuống. - Vậy ông là cháu của ông Tsuruta! - Ông gấp cặp kính đọc sách lại rồi nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi không biết mình gây ra ấn tượng thế nào với ông ta. - Vào đây, vào đây. Ông dùng trà nhé?

Tôi bảo ông xin đừng bận tâm, nhưng ông hoặc không nghe thấy hoặc không thèm đếm xỉa đến lời từ chối của tôi. Ông bảo người tiếp tân pha trà. Chẳng mấy chốc bà ta đã mang trà tới, nhưng khi hai chúng tôi ngồi đối diện nhau uống trà, lò sưởi tắt, căn phòng đâm ra mát lạnh. Trên tường treo một tấm bản đồ chi tiết tất cả các căn nhà trong khu vực, đây đó được đánh dầu bằng bút chì hay bút dạ. Gần tấm bản đồ là tấm lịch của ngân hàng nào đó, có in bức tranh nổi tiếng của Van Gogh vẽ cây cầu.

- Đã khá lâu tôi không gặp cậu của anh. Ông ấy dạo này thế nào? - ông già hỏi sau khi nhấp một ngụm trà.

- Cậu tôi chắc vẫn khoẻ, lúc nào cũng bận rộn. Bản thân tôi cũng chẳng mấy khi gặp cậu, - tôi nói.

- Được thế thì tôi mừng. Từ lần cuối tôi gặp ông ấy đến giờ đã mấy năm rồi nhỉ? Thấy như đã hàng bao nhiêu năm trời không gặp lại nhau. - Ông lấy một điếu thuốc từ trong túi áo khoác, cẩn thận ướm thử rồi quẹt diêm châm thuốc bằng một cử chỉ đầy quyết đoán. - Tôi chính là người đã khuyên cậu anh mua căn nhà đó, sau đó cũng lại là tôi quản lý nó cho ông ấy suốt một thời gian dài. Dù sao, được biết ông ấy vẫn bận rộn thì tôi cũng vui.

Bản thân ông Ichikawa xem ra chẳng lấy gì làm bận rộn. Tôi đoán ông ta hẳn đã về hưu một nửa, chỉ thi thoảng tạt vào cơ quan để trông nom các khách hàng lâu năm thôi.

- Vậy anh có thích căn nhà không? Không có vấn đề gì chứ?

- Không, hoàn toàn không có gì ạ, - tôi đáp.

Ông lão gật đầu.

- Vậy thì tốt. Chỗ đó đẹp lắm. Có thể nhà hơi nhỏ, nhưng sống ở đó rất tốt. Ai sống ở đó thì mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái. Anh cũng vậy phải không?

- Tàm tạm ạ, - tôi nói. Ít nhất là mình vẫn còn sống, tôi tự nhủ. - Tuy nhiên, tôi có đôi điều muốn hỏi ông. Cậu tôi nói ông rành khu này hơn bất cứ ai.

Ông già tủm tỉm cười.

- Nếu bảo là rành thì khu này tôi hơi bị rành đấy. Tôi kinh doanh nhà đất ở khu này đã gần bốn mươi năm rồi còn gì.

- Tôi muốn hỏi ông là hỏi về nhà của gia đình Miyawaki, phía sau nhà chúng tôi. Nhà ấy bị san phẳng rồi, như ông biết đấy.

- Phải, tôi biết, - ông lão nói, môi mím lại như thể đang lục qua các ngăn kéo trong trí nhớ. - Nhà ấy người ta bán hồi cuối tháng Tám. Rốt cuộc họ cũng trả được hết nợ, lo liệu xong quyền sở hữu và các vấn đề pháp lý để đưa nhà ra bán. Một nhà đầu cơ mua lại, phá nhà đi để bán đất. Một căn nhà dù tốt đến mấy mà để trống lâu như vậy thì cũng sẽ khó bán. Dĩ nhiên, những người mua căn nhà đó không phải người ở đây. Nếu là dân khu này thì chẳng ai đụng tới chỗ đó. Anh có nghe vài chuyện về căn nhà ấy chưa?

- Có, tôi có nghe cậu tôi kể.

- Thế thì anh hiểu ý tôi nói gì rồi. Nếu là người biết sự tình thì đã không mua. Lẽ ra chúng tôi cũng có thể cứ mua rồi tìm một ai đó chẳng biết gì để bán lại, nhưng chúng tôi không làm vậy. Thối lắm. Chúng tôi không làm ăn kiểu đó.

Tôi gật đầu đồng tình.

- Vậy thì ai đã mua?

Ông lão nhíu mày lắc đầu, rồi cho tôi biết tên của một công ty bất động sản có tiếng.

- Chắc là họ chẳng nghiên cứu gì hết, vừa thấy vị trí căn nhà và giá bán là chộp ngay, chắc mẩm phen này lãi nhanh. Nhưng đâu có dễ.

- Đến giờ họ vẫn chưa bán được sao?

- Mấy lần cũng suýt bán được rồi, - ông lão vừa nói vừa khoanh tay lại. - Mua một mảnh đất đâu có rẻ. Đầu tư cả đời chứ có ít gì. Ai người ta cũng cẩn thận lắm. Trước khi quyết định mua, người ta bắt đầu tìm hiểu kỹ hơn, thế là mới biết hàng bao nhiêu chuyện xung quanh cái nhà ấy, mà chẳng chuyện nào tốt lành cả. Anh đã nghe mấy chuyện như vậy rồi, người bình thường mà nghe thấy thì đời nào dám mua. Hầu hết những ai sống quanh đây đều biết mấy chuyện đồn đại về nơi đó.

- Họ đòi bao nhiêu?

- Đòi gì kia?

- Giá mảnh đất nơi nhà của Miyawaki trước kia ấy.

Ông Ichikawa nhìn tôi, xét theo cách ông nhìn, tôi đã gây sự tò mò ở ông.

- Để xem nào. Khu ấy rộng hơn ba ngàn năm trăm bộ vuông một chút. Chưa tới một trăm tsubo 1. Giá thị trường là một triệu rưỡi Yên một tsubo. Ý tôi là khu đất ấy thuộc hạng nhất đấy - vị trí tuyệt vời, hướng Nam. Tuy thị trường hiện đang eo sèo nhưng giá một triệu rưỡi là chắc. Dĩ nhiên có thể đợi thêm ít lâu, rồi giá cũng sẽ lên khoảng đó. Nhưng đấy là nói về đất bình thường. Nhưng đất của nhà Miyawaki thì đâu có thường. Có đợi lâu đến mấy giá cũng không tăng nữa đâu. Giảm thì có. Hiện nay đã giảm còn một triệu mốt Yên một tsubo, nhưng nếu mặc cả chút ít thì có thể mua trọn khu đất với giá một triệu Yên tròn.

- Ông có cho rằng giá sẽ tiếp tục hạ nữa không?

Ông lão gật đầu cả quyết.

- Dĩ nhiên còn hạ nữa. Xuống còn chín trăm ngàn một tsubo, dễ không. Đó chính là cái giá mà họ đã trả để mua. Giờ thì họ đang lo sốt vó lên. Chỉ cần hoà vốn là họ vui lắm rồi. Tôi không biết liệu họ có giảm xuống nữa không. Nếu cần tiền quá thì có khi họ cũng đành chịu lỗ. Nếu không thì họ có thể đợi. Tôi chẳng biết tình hình công ty ấy thế nào. Nhưng tôi biết chắc rằng họ hối tiếc đã mua chỗ đó. Tốt nhất là chớ dây vào mảnh đất đó, chỉ rách việc.

Ông gạt tro vào tàn thuốc.

- Mảnh đất ấy có một cái giếng phải không ạ? - tôi hỏi. - Ông có biết gì về cái giếng ấy không?

- Hừm, đúng là có một cái giếng. Giếng sâu. Nhưng chắc họ lấp rồi. Đằng nào cũng là giếng cạn mà. Đâu có dùng được.

- Ông có biết vì sao nó bị cạn không?

Ông lão khoanh tay nhìn lên trần một lát.

- Từ lâu lắm rồi. Thực tình tôi không nhớ, nhưng nghe nói hồi trước chiến tranh thì nó từng có nước. Chắc nó đã bị cạn sau chiến tranh. Chính xác khi nào thì tôi không biết. Nhưng tôi biết khi bà diễn viên dọn vào ở thì nó đã cạn rồi. Lúc đó người ta bàn cãi nhau rất ghê xem có nên lấp giếng lại không. Nhưng rồi chẳng ai làm gì cả. Chắc là vì nhiêu khê quá.

- Tôi nghe nói giếng ở sân nhà Kasahara phía bên kia ngõ thì lại nhiều nước, mà nước rất ngon là khác.

- Có thể, có thể. Tất cả giếng ở khu này luôn luôn có nước, ngon, ngọt. Chuyện này chắc có liên quan đến đất. Anh biết đó, chuyện mạch nước này nọ thì phức tạp lắm. Một chỗ có nước mà ngay bên cạnh lại không thì chẳng bình thường đâu. Nhưng có gì khiến anh quan tâm tới cái giếng ấy vậy?

- Thú thật với ông, tôi muốn mua mảnh đất đó.

Ông lão ngước lên chăm chú nhìn vào tôi. Đoạn ông nâng tách trà lên lặng lẽ nhấp một ngụm.

- Anh muốn mua mảnh đất ấy?

Tôi chỉ im lặng gật đầu.

Ông lão rút từ trong bao ra một điếu thuốc nữa rồi bập bập lên mặt bàn. Nhưng rồi, thay vì châm lửa, ông lại kẹp nó giữa mấy ngón tay, tặc tặc lưỡi giữa hai môi.

- Hay để tôi nói thêm lần nữa rằng chỗ đất đó có lắm chuyện không ổn. Không ai - tôi xin nói rõ là không một ai - sống ở đó mà gặp điều lành cả. Anh có hiểu không? Dù có rẻ cách mấy thì cũng chớ mừng là được món hời. Biết vậy mà anh vẫn muốn mua sao?

- Vâng, tôi vẫn muốn mua. Nhưng cho tôi nói rõ điều này: hiện tôi không có đủ tiền để mua chỗ đó dù giá có hạ đến mấy so với giá thị trường đi nữa. Nhưng tôi định sẽ lo chạy tiền, dù phải mất một thời gian. Vì vậy tôi muốn rằng trong thời gian đó vẫn theo dõi được tình hình mảnh đất, giá cả lên xuống thế nào, có người nào muốn mua không. Ông có thể giúp tôi chuyện đó không?

Ông lão nhìn đăm đăm điếu thuốc chưa châm lửa, đắm mình suy nghĩ. Rồi ông khẽ ho để hắng giọng và nói:

- Đừng lo, anh còn thời gian; chỗ ấy không bán nhanh được đâu, đảm bảo với anh thế. Chỉ khi nào họ bán với giá gần như cho không thì may ra mới có nhúc nhích gì, mà chuyện đó thì còn lâu. Thành thử anh cứ thủng thẳng gom góp tiền, cần bao nhiêu thời gian cũng được. Nếu anh thực sự muốn mua.

Tôi cho ông ta số điện thoại. Ông lão ghi vào một cuốn sổ bìa đen ố mồ hôi. Nhét cuốn sổ vào túi áo khoác xong, ông nhìn thẳng vào mắt tôi một lát rồi nhìn vết bầm trên má tôi.


° ° °


Tháng Hai đã qua, đến giữa tháng ba thì cái lạnh tê tái có phần giảm bớt. Gió ấm thổi từ phương Nam lại. Cây cối đâm chồi, trong vườn xuất hiện những đàn chim mới. Những hôm trời ấm, tôi hay ngồi ngoài hiên ngắm khu vườn. Một chiều nọ tôi nhận được điện thoại của ông Ichikawa. Ông cho biết mảnh đất của nhà Miyawaki vẫn chưa bán được, giá thì đã hạ.

- Tôi đã bảo anh rằng chẳng một sớm một chiều mà được đâu, - ông nói thêm, giọng nhuốm vẻ tự hào. - Đừng lo, từ giờ trở đi sẽ càng ngày càng rẻ hơn thôi. Mà này, công việc của anh thế nào rồi? Tiền gom góp được chứ?


° ° °


Lúc 8 giờ tối hôm đó tôi đang rửa mặt thì nhận ra vết bầm của của mình đang hơi sốt. Đặt ngón tay lên nghe âm ấm, trước đây không vậy. Mầu sắc dường như cũng đậm hơn, gần như tía. Nín thở, tôi nhìn trân trân vào gương một hồi, đủ lâu để bắt đầu thấy gương mặt mình thành cái gì đó chứ không phải mặt mình nữa. Vết bầm bắt đầu bảo tôi điều gì đó: nó cần một cái gì đó ở tôi. Tôi không rời mắt khỏi cái tôi của chính mình trong gương, và cái tôi đó nhìn chằm chằm lại tôi từ phía bên kia gương, không nói một lời.

Ta phải có cái giếng đó. Dẫu có chuyện gì đi nữa, ta phải có cái giếng đó.

Tôi đã kết luận như vậy.
--------------------------------
1.
Tsubo: đơn vị đo diện tích đất, ruộng... của Nhật, tương đương với khoảng 33 mét vuông - ND
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:00:40 | Xem tất


Chương 2
Tỉnh Giấc Đông Miên

Thêm Một Danh Thiếp Nữa

Đồng Tiền Vô Danh



Dĩ nhiên, muốn mảnh đất đó không thôi thì chưa đủ biến nó thành của mình. Số tiền tôi hiện có trong tay gần như bằng không. Tôi vẫn còn một ít tiền mẹ tôi để lại, nhưng khoản ấy chẳng mấy chốc cũng chẳng còn gì, miệng ăn núi lở. Tôi không có việc làm, cũng chẳng có gì thế chấp. Mà trên thế giới này chẳng có ngân hàng nào cho một kẻ như tôi vay tiền chỉ vì lòng tốt. Có hoạ là phù thuỷ thì mới phù phép ra tiền từ không khí được. Đã vậy còn phải làm thật nhanh.

Một buổi sáng nọ tôi đi bộ đến nhà ga mua mười tấm vé số năm mươi triệu Yên có dãy số kế tiếp nhau. Tôi dùng đinh ghim cắm chúng lên một mảng tường nhà bếp rồi ngắm hàng ngày. Đôi khi tôi để hàng tiếng đồng hồ ngồi trên ghế mà nhìn chúng chăm chăm, như thể đợi một mật mã bật ra từ chúng mà chỉ mình tôi đọc được. Sau mấy ngày như vậy, bỗng dưng tôi như choàng tỉnh:

Tôi sẽ chẳng bao giờ trúng số cả.

Chẳng mấy chốc tôi biết chắc điều đó. Mọi việc đâu thể giải quyết dễ dàng như vậy: ra nhà ga mua mấy tờ vé số rồi ngồi đợi kết quả. Tôi phải kiếm tiền bằng nỗ lực của chính mình thôi. Tôi bóc hết các tờ vé số ra khỏi tường vứt đi. Rồi tôi lại đứng trước gương nơi bồn rửa mặt, nhìn chăm chú vào chiều sâu của nó. Phải có cách nào đó, tôi nói với chính mình ở trong gương, nhưng dĩ nhiên không có lời đáp lại.


° ° °


Mệt nhoài vì cứ giam mình mãi trong nhà, quẩn quanh với những ý nghĩ của mình, tôi bắt đầu tản bộ quanh các khu lân cận. Tôi cứ đi loanh quanh vô mục đích như thế suốt ba, bốn ngày, đến khi đã chán những khu lân cận thì tôi bắt xe lửa đến khu Shinjuku. Ý muốn đi xuống khu trung tâm nảy đến khi tôi tình cờ đi qua nhà ga. Tôi nghĩ, đôi khi thử chuyển sang một khung cảnh khác mà suy nghĩ thì cũng tốt. Với lại, đã lâu tôi không đi tàu điện. Thực vậy, khi bỏ tiền vào máy bán vé tự động, tôi cảm thấy lúng túng như khi làm một việc gì đó không quen. Lần cuối tôi đi trên các phố trung tâm là khi nào nhỉ? Cũng phải hơn sáu tháng rồi. Từ khi tôi đi theo gã đàn ông mang thùng ghi-ta từ cổng phía tây khu Shinjuku.

Quang cảnh đám đông ở ga Shinjuku làm tôi choáng váng. Chỉ cần thấy dòng người đi lại là tôi đã thấy nghẹt thở, thậm chí tim đập thình thình, ấy thế mà nào phải giờ cao điểm! Khó khăn lắm tôi mới chen qua được khối người. Đây không phải là đám đông mà là một dòng chảy khổng lồ xé tan tành và cuốn phăng nhà cửa. Mới đi bộ được dăm phút, tôi đã cảm thấy phải làm cho thần kinh dịu lại. Tôi vào một quán cà phê đối diện với đại lộ, ngồi cạnh ô cửa sổ lớn bằng kính. Đã xế trưa, quán thưa khách. Tôi gọi một tách ca cao rồi lơ đãng nhìn người qua kẻ lại ngoài kia.

Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Có thể mười lăm phút, có thể hai mươi phút, nhưng rồi tôi nhận ra mình đang dõi theo từng chiếc Mercedes-Benz, Jaguar và Porsche bóng lộn đang chậm chạp bò trên đại lộ nêm kín những xe. Trong ánh nắng mai tươi rói sau một đêm mưa, những chiếc xe kia lấp lánh chói lọi hầu như nhức mắt, như là biểu tượng cho một cái gì. Không có lấy một hạt bụi. Những kẻ ngồi trong xe đó có tiền. Ý nghĩ như vậy chưa bao giờ nảy ra trong tôi trước đây. Tôi nhìn hình ảnh chính mình phản chiếu trong gương mà lắc đầu. Từ cha sinh mẹ để đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi cần tiền ghê gớm đến vậy.

Khi đám đông khách ăn trưa bắt đầu ùa vào quán, tôi quyết định đi dạo. Tôi chẳng có mục đích nào cụ thể, chỉ là muốn đi bộ qua khu trung tâm thành phố mà đã lâu tôi không đến. Tôi đi bộ từ phố này sang phố nọ, ý nghĩ duy nhất của tôi là cố sao tránh va vào những người đi ngược chiều tôi. Tôi rẽ phải, rẽ trái hay đi thẳng tuỳ theo sự thay đổi của đèn giao thông hay ý thích nhất thời. Thọc tay vào túi, tôi tập trung vào bản thân hành động đi - từ các đại lộ với hàng dãy siêu thị và cửa sổ bày hàng, đến những ngõ hẻm phía sau với những porno shop 1 trang hoàng loè loẹt, qua những con phố đông vui lắm rạp chiếu phim, qua khuôn viên tĩnh mịch những đền thờ Thần đạo rồi lại quay về các đại lộ. Buổi chiều ấm áp, gần một nửa đám đông đã bỏ áo khoác lại nhà. Làn gió nhẹ chốc chốc lại thổi, cảm giác đổi thay dễ chịu. Chưa kịp nhận ra thì tôi đã lại đứng trong khung cảnh quen thuộc. Tôi nhìn những viên gạch dưới chân mình, nhìn bức tượng nhỏ đứng kia, nhìn toà nhà bằng kính cao chót vót phía trên tôi. Tôi đang đứng ngay giữa quảng trường nhỏ bên ngoài toà nhà cao tầng nơi tôi đã đến hồi mùa hè năm ngoái để nhìn người qua kẻ lại theo lời khuyên của ông cậu. Tôi đã làm vậy suốt mười một ngày, cuối cùng tôi theo gã đàn ông kỳ quặc ôm thùng đàn ghi-ta bước vào gian ngoài căn nhà lạ lùng kia, ở đó hắn tấn công tôi bằng gậy bóng chày. Giờ đây lang thang vô định quanh khu Shinjuku, bước chân tôi lại đến chính nơi này.

Cũng như trước, tôi mua cà phê và bánh cam vòng tại cửa hàng bánh Dunkin rồi đi đến chỗ băng ghế trên quảng trường. Tôi ngồi nhìn mặt những người qua lại, việc đó khiến tâm trạng tôi càng lúc càng bình an. Tôi dễ chịu vì một lý do mà tôi không hiểu được, như thể tôi đã tìm thấy một cái ổ tiện nghi trên tường nơi không ai có thể nhận ra rằng tôi đang quan sát họ. Đã lâu lắm rồi tôi không nhìn mặt thiên hạ kỹ đến vậy. Nhưng rồi tôi hiểu ra rằng không chỉ mặt. Tôi đã không hề nhìn - thật sự nhìn - bất cứ cái gì trong sáu tháng qua. Tôi ngồi thẳng người dậy trên ghế, lấy tư thế thăng bằng để nhìn sự vật. Tôi nhìn những con người, nhìn những toà nhà cao ngất trên đầu, nhìn bầu trời mùa xuân ló ra qua những đám mây vừa tản mác, tôi nhìn những bảng hiệu nhiều màu sắc, tôi nhặt một tờ báo nằm bên cạnh rồi nhìn nó. Khi chiều xuống, màu sắc chân thực dần dần quay trở lại với vạn vật.


° ° °


Sáng hôm sau tôi lại bắt tàu điện đến khu Shinjuku. Tôi ngồi cũng trên băng ghế ấy, nhìn mặt người qua lại. Buổi trưa tôi lại ăn bánh cam vòng và uống cà phê. Trước khi đến giờ cao điểm chiều, tôi lên xe điện về nhà. Tôi làm bữa tối, uống bia rồi nghe nhạc trên radio. Ngày hôm sau tôi cũng làm đúng như vậy. Hôm ấy cũng không có gì xảy ra. Nhưng tôi có một cảm giác mơ hồ rằng mình đang nhích gần đến một cái gì đó từng tí một. Tôi có thể nhận ra cái chuyển động đó, cái gần gũi hơn từng tí một đó mỗi khi nhìn chính mình trong gương trước bồn rửa mặt. Màu sắc của vết bầm càng sống động hơn bao giờ hết, ấm áp hơn bao giờ hết. Vết bầm của mình có sự sống, tôi tự nhủ. Nó đang sống, cũng như tôi.

Tôi lặp lại quy trình đó hàng ngày, hệt như mùa hè trước: sau mười giờ sáng một chút lên tàu điện đến thành phố, ngồi trên băng ghế nơi quảng trường cạnh toà nhà cao tầng, nhìn người qua kẻ lại suốt ngày, tuyệt không nghĩ ngợi gì. Thỉnh thoảng, chẳng hiểu sao những âm thanh có thực quanh tôi trở nên xa xăm, nhỏ dần rồi tắt ngấm. Cái duy nhất tôi nghe thấy vào những lúc đó là tiếng nước chảy sâu thẳm, êm lặng. Tôi nghĩ tới Kano Malta. Cô đã nói về chuyện lắng nghe tiếng nước. Nước là chủ đề chính của cô. Nhưng tôi không thể nhớ ra Kano Malta đã nói gì về tiếng nước. Tôi cũng không nhớ được mặt cô. Chỉ nhớ được mỗi màu đỏ chiếc mũ bằng vải vinyl mà cô đội. Tại sao lúc nào cô ta cũng đội chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ ấy?

Nhưng rồi các âm thanh dần dần trở lại với tôi, và một lần nữa tôi lại ngắm gương mặt mọi người.


° ° °


Vào buổi chiều ngày thứ tám tôi lên phố, một người đàn bà nói chuyện với tôi. Lúc đó tôi đang nhìn hướng khác, tay cầm cốc cà phê rỗng. "Xin lỗi" bà ta nói. Tôi quay lại, ngước mắt lên thì thấy gương mặt một phụ nữ đang đứng trước mặt tôi. Đó chính là người đàn bà luống tuổi mà tôi đã gặp ở đây mùa hè năm ngoái, người duy nhất đã nói chuyện với tôi trong suốt khoảng thời gian tôi ngồi trên quảng trường. Chẳng phải tôi ngồi ở đây với ý định sẽ gặp lại bà ta, nhưng khi bà ta lên tiếng với tôi, dường như đó là kết cục tự nhiên của một dòng chảy lớn vậy.

Cũng như trước, người đàn bà ăn mặc không chê vào đâu được, cả về chất lượng từng thứ bà ta mặc lẫn cách kết hợp thứ này với thứ kia. Bà ta đeo kính đồi mồi màu tối, vận áo khoác màu xanh khói có độn vai, váy nỉ kẻ ô màu đỏ. Áo blouse của bà bằng lụa, trên ve áo khoác lấp lánh một chiếc ghim bằng vàng chạm khắc tinh xảo. Đôi giày cao gót màu đỏ của bà có kiểu dáng giản dị, song số tiền bà ta bỏ ra mua nó hẳn đủ cho tôi sống được vài tháng. Quần áo tôi thì chẳng đâu vào đâu, như mọi khi: chiếc áo khoác bóng chày tôi mua từ hồi mới vào đại học, áo thun màu xám cổ đã doãng ra, và đôi giày tennis xưa kia màu trắng nhưng bây giờ chẳng biết gọi màu gì.

Mặc sự tương phản một trời một vực kia, bà ta ngồi xuống cạnh tôi, bắt tréo chân, rồi chẳng nói chẳng rằng rút từ trong ví cầm tay ra một gói Virginia Slims. Bà ta mời tôi một điếu, hệt như dạo hè năm ngoái, và một lần nữa tôi từ chối. Bà ta cho một điếu lên miệng rồi châm lửa bằng cái bật lửa bằng vàng dài dài, thanh mảnh, cỡ bằng viên tẩy. Rồi bà ta tháo kính, cho vào túi áo khoác, đoạn nhìn tôi chăm chú như thể đang tìm một đồng bạc bà ta đánh rơi vào một cái ao cạn. Tôi cũng nhìn vào mắt bà ta. Mắt bà ta thật lạ, sâu thẳm nhưng vô cảm.

Bà ta hơi nheo mắt rồi nói:

- Thế là cậu quay lại đấy.

Tôi gật.

Tôi dõi theo khói thuốc mỏng tang bay lên từ đầu điếu thuốc của bà ta rồi tản đi theo gió, biến mất vào không khí. Bà ta ngoái lại nhìn quang cảnh chung quanh, như để tận mắt thấy tôi đang nhìn những gì từ chiếc ghế này. Tuy vậy, những gì trông thấy hình như chẳng làm bà ta bận tâm. Bà lại quay sang nhìn tôi. Bà nhìn chằm chằm vào vết bầm của tôi một hồi lâu, đoạn nhìn vào mắt tôi, vào mũi, vào miệng tôi, rồi lại nhìn vết bầm. Tôi có cảm giác thật ra bà chỉ muốn săm soi tôi như săm soi một con chó ngoài hội chợ: cạy mõm ra để kiểm tra răng tôi, dòm vào trong tai tôi.

- Hiện giờ tôi đang cần tiền, - tôi nói.

Bà im lặng một chút.

- Bao nhiêu?

- Tám mươi triệu Yên là đủ.

Bà ta thôi nhìn tôi mà ngước lên trời như để nhẩm tính: xem nào, nếu mình lấy chỗ này một chút, chuyển từ kia một chút... Suốt thời gian đó tôi quan sát cách trang điểm của bà ta: mắt đánh rất nhạt như cái bóng của một suy nghĩ, hàng mi cong tinh tế như một biểu tượng nào đó.

- Số tiền đó không nhỏ, - bà ta nói, môi hơi cong lại.

- Tôi thì tôi nói là quá lớn.

Điếu thuốc chỉ mới hút được một phần ba, nhưng bà ta thả xuống đất rồi cẩn thận dùng gót giày di nát. Rồi ba ta lấy một hộp đựng danh thiếp bằng da thuộc ra khỏi chiếc ví cầm tay mỏng mảnh, gí một tấm danh thiếp vào tay tôi.

- Chiều mai đúng 4 giờ hãy đến địa chỉ này, - bà ta nói.

Trên danh thiếp chỉ ghi có mỗi địa chỉ - một toà nhà văn phòng ở quận Akasaka giàu có. Không có tên. Tôi lật mặt sau xem, nhưng mặt sau trắng. Tôi đưa lên mũi ngửi, nhưng nó chẳng có mùi gì. Nó chỉ là một tấm danh thiếp trắng bình thường.

- Không có tên à? - tôi hỏi.

Lần đầu tiên bà ta mỉm cười, nhẹ nhàng lắc đầu.

- Cậu chỉ cần tiền thôi mà. Tiền thì có tên không?

Tôi lắc đầu giống như bà ta. Dĩ nhiên, tiền thì vô danh. Nếu có tên thì nó chẳng còn là tiền nữa. Cái mang lại cho tiền ý nghĩa đích thực là sự vô danh tối mò như đêm đen của nó, cái khả năng trao đổi đầy áp đảo và nghẹt thở của nó.

Bà ta đứng dậy khỏi ghế.

- Cậu đến lúc 4 giờ chiều được chứ?

- Nếu tôi đến, bà sẽ đưa tiền tận tay tôi sao?

- Để xem, - bà ta nói, một nụ cười nơi khoé mắt bà ta như những hình mà gió vẽ ra trên cát. Bà ta ngắm khung cảnh xung quanh một lần nữa rồi kéo thẳng nếp váy cho có lệ.

Bà ta rảo bước rồi biến mất vào dòng người. Tôi vẫn nhìn điếu thuốc mà bà ta đã giẫm nát, nhìn màu son môi vấy trên đầu lọc. Màu đỏ tươi làm tôi nhớ tới chiếc mũ bằng vải vinyl của Kano Malta.

Nếu tôi có một cái gì đó của riêng mình, ấy chính là việc tôi chẳng có gì để mất. Có lẽ vậy.

--------------------------------
1.Cửa hàng bán sản phẩm phục vụ sex.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:02:10 | Xem tất


Chương 3
Chuyện Xảy Ra Trong Đêm



Giữa đêm khuya, chú bé nghe một tiếng động rõ mồn một. Chú tỉnh dậy với tay bật đèn bàn rồi nhìn quanh phòng. Đồng hồ treo tường chỉ 2 giờ sáng. Chú bé tự nhủ: chuyện gì trên đời có thể xảy ra vào giờ này được nhỉ?

Rồi tiếng động lại vang lên, từ bên ngoài cửa sổ, cái này thì chắc chắn. Nghe như ai đó đang vặn một sợi dây cót khổng lồ. Ai mà vặn dây cót giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? Mà khoan, nghe như ai đó đang vặn dây cót, nhưng thật ra chẳng phải sợi dây cót nào hết. Đó là tiếng kêu của một con chim. Chú bé dịch ghế lại gần cửa sổ rồi trèo lên. Chú vén rèm rồi hé mở cửa sổ. Treo giữa bầu trời là vầng trăng lớn trắng phau, vầng trăng tròn tiết cuối thu, rọi sáng khu vườn như ánh sáng ban ngày. Cây cối ngoài kia trông hoàn toàn khác lúc ban ngày đối với chú bé. Chúng tuyệt không còn vẻ hiền lành thân thiện nữa. Cây sồi vạn niên thanh có vẻ bực bội vì thỉnh thoảng lại bị một làn gió động làm rung lên, cất tiếng ken két đầy khó chịu. Những hòn đá trong vườn trông như trắng hơn, nhẵn hơn bình thường, ngó trân trân lên trời một cách vô cảm như khuôn mặt những người chết.

Tiếng chim kêu hình như vang lên từ chỗ cây thông. Chú bé tỳ vào cửa sổ nhìn lên, nhưng từ góc hẹp này thì không thể thấy con chim qua những cành thông to nặng. Chú muốn thấy con chim kia trông thế nào. Chú muốn nhớ nằm lòng màu sắc và hình dáng của con chim để ngày mai có thể tìm thấy nó trong cuốn bách khoa toàn thư có minh hoạ của chú. Nỗi hiếu kỳ mạnh mẽ khiến chú bé hoàn toàn tỉnh như sáo. Chú bé thích nhất là tìm những loài chim, cá và các loài vật khác trong cuốn bách khoa toàn thư. Bộ sách có nhiều tập dầy cộp, chất đầy cả một kệ sách trong phòng chú. Chú chưa đến tuổi đi học nhưng đã biết đọc rồi.

Con chim nín lặng sau khi vặn dây cót mấy lần liên tiếp. Chú bé tự hỏi liệu có ai khác nghe tiếng kêu của nó không. Bố mẹ chú có nghe thấy không? Bà của chú? Nếu không thì sáng ra chú có thể kể cho mọi người nghe: có một con chim có tiếng kêu y hệt như tiếng vặn dây cót, nó ở trên cây thông lúc 2 giờ sáng. Giá như chú nhìn thấy nó, dù chỉ một lần thôi! Chừng đó thì chú có thể cho mọi người biết cả tên nó.

Nhưng con chim không hề cất tiếng kêu nữa. Nó câm lặng như tảng đá, trên những cành thông tắm trong ánh trăng. Giây lát sau một làn gió lạnh ùa vào phòng, như thể mang tới một lời cảnh báo. Chú bé rùng mình đóng cửa sổ. Đây là một loài chim khác, chú biết, không phải sẻ hay bồ câu, nó không dễ dàng xuất hiện trước mắt con người. Chú đã đọc trong cuốn bách khoa toàn thư rằng hầu hết các loài chim đêm đều khôn ngoan và thận trọng. Con chim này có lẽ biết chú đang rình quan sát nó. Chính vì vậy nó sẽ không ló mặt dù chú đợi bao lâu đi nữa. Chú bé tự hỏi có nên đi xuống phòng vệ sinh không. Nếu vậy thì phải đi dọc theo hành lang hun hút tối om. Không, tốt nhất là vào lại giường. Thật tệ là chú không thể đợi đến sáng.

Chú bé tắt đèn rồi nhắm mắt, nhưng ý nghĩ về con chim trên cây thông khiến chú trằn trọc mãi. Ánh trăng vằng vạc tuôn vào từ dưới tấm rèm cửa như mời gọi. Khi con chim vặn dây cót lại kêu lần nữa, chú bé nhảy ra khỏi giường. Lần này chú không bật đèn mà choàng áo len ra ngoài bộ pijama rồi trèo lên chiếc ghế bên cửa sổ. Chỉ hé rèm ra một tý, chú nhìn chăm chăm vào cây thông. Lần này hẳn con chim sẽ không nhận ra rằng chú đang rình nó.

° ° °


Tuy nhiên, lần này chú bé lại thấy bóng dáng hai người đàn ông. Chú nín thở. Hai người đàn ông quỳ gối như hai cái bóng đen kịt dưới gốc cây. Cả hai đều mặc quần áo mầu sẫm. Một người đội mũ, người kia đội cái gì đó giống như mũ phớt có vành. Tại sao mấy người lạ này lại ở đây, trong vườn nhà mình giữa đêm khuya? Chú bé tự hỏi. Sao chó lại không sủa? Chắc là chú phải báo cho cha mẹ ngay. Nhưng nỗi tò mò giữ chú lại nơi cửa sổ. Chú muốn xem mấy người này đang làm gì.

Thế rồi, đột nhiên con chim vặn dây cót lại cất tiếng kêu. Không chỉ kêu một tiếng mà cả một tràng dài liên tục Quick... Quick... Nhưng hai người đàn ông dường như không nhận thấy. Họ không động đậy, cũng chẳng nhìn lên. Họ vẫn quỳ dưới cây thông, mặt đối mặt. Dường như họ đang bàn bạc điều gì đó bằng giọng thì thầm. Những cành cây che khuất ánh trăng, thành thử chú bé không nhìn rõ được mặt họ. Chẳng mấy chốc, hai người đàn ông đứng dậy cùng một lúc, một người cao hơn người kia dễ đến hai mươi phân. Cả hai đều gầy gò, người cao (đội mũ) mặc áo khoác dài. Người thấp mặc quần áo bó sát người.

Người thấp lại gần cây thông rồi đứng đó, nhìn lên những cành cây. Lát sau, y bắt đầu sờ nắn, vỗ vỗ thân cây bằng cả hai tay như để kiểm tra, rồi thình lình nhảy lên cây. Thế rồi, hoàn toàn không phải nỗ lực chút nào (hoặc là do chú bé có cảm tưởng vậy), y leo thoăn thoắt lên cây hệt như diễn viên xiếc. Chú bé biết rõ cái cây này như biết rõ một người bạn cũ. Chú biết rằng leo lên cây ấy chẳng dễ chút nào. Thân nó nhẵn thín, trơn tuột, đã vậy lên đến trên cao thì chẳng có gì để bám. Nhưng cớ sao gã đàn ông lại leo lên cây giữa đêm khuya? Hay y muốn bắt con chim vặn dây cót?

Người cao đứng dưới gốc cây nhìn lên. Chẳng mấy chốc sau người bé nhỏ đã biến mất. Những cành cây thi thoảng lại xào xạc, thế là y ắt vẫn đang trèo lên cây thông. Con chim vặn dây cót ắt sẽ nghe tiếng y đến gần mà bay đi thôi. Người này hẳn trèo cây giỏi, nhưng con chim vặn dây cót không dễ bắt như vậy đâu. Tuy vậy, chú bé hy vọng rằng nếu gặp may thì sẽ nhìn thấy được con chim, dù chỉ thoáng qua thôi, khi nó bay đi. Chú nín thở, chờ tiếng vỗ cánh. Nhưng tiếng vỗ cánh không hề đến, cũng chẳng có tiếng kêu nào.

° ° °


Im lặng rất lâu, không có âm thanh hay chuyển động nào. Vạn vật tắm trong ánh trăng trắng bạc như không có thật, khu vườn trông như đáy biển ướt át lộ ra khi nước đột nhiên rút hết. Như bị hớp hồn, không nhúc nhích, chú bé vẫn nhìn chong chong vào cây thông và người đàn ông cao lớn dưới gốc cây. Chú không thể nào rời mắt được dù có cố đi chăng nữa. Hơi thở chú che mờ mặt kính. Ngoài kia hẳn phải lạnh lắm. Người đàn ông đứng nhìn lên, tay chống nạnh, không hề động đậy, như đã hoá thành băng. Chú bé cho rằng y đang lo cho người bạn đồng hành bé nhỏ của y, đợi hắn ta hoàn thành một sứ mạng nào đó rồi tụt từ trên cây thông xuống. Kẻ này lo cũng phải: chú bé biết rằng cây thông này tụt xuống khó hơn leo lên. Nhưng rồi, hoàn toàn đột ngột, người cao lớn sải bước thẳng vào trong bóng đêm, như thể bỏ bê hết việc đang làm.

Chú bé cảm thấy giờ đây mình là người bị bỏ rơi. Người bé nhỏ đã biến mất vào trong cây thông, còn người cao lớn đã bỏ đi đâu đó. Con chim vặn dây cót vẫn im lặng. Chú tự hỏi mình có nên đánh thức bố dậy không. Nhưng chú biết mình sẽ không thể làm bố tin được chuyện này. "Chắc con lại nằm mơ đấy thôi", bố sẽ nói vậy. Đúng là chú hay mơ, chú thường lẫn lộn giấc mơ với thực tại, nhưng chú không quan tâm những gì người khác nói: chuyện này hoàn toàn có thực - con chim vặn dây cót và hai người đàn ông mặc đồ đen. Tất cả đã đột ngột biến mất, chỉ có thế. "Bố hẳn sẽ tin nếu mình giải thích cho ra đầu ra đũa", chú nghĩ vậy.

Chỉ khi đó chú mới nhận ra: người đàn ông bé nhỏ kia trông rất giống bố chú. Dĩ nhiên y nhỏ con quá nên không thể là bố chú, nhưng ngoài cái đó ra y giống bố ở mọi điểm: giáng người giống, cử chỉ cũng giống. Nhưng không, bố chú chẳng bao giờ trèo cây được như vậy. Bố không nhanh nhẹn cũng chẳng khoẻ mạnh như thế. Càng nghĩ chú bé càng hoang mang.

Người cao lớn quay lại dưới chỗ gốc cây. Bây giờ hắn ta mang cái gì đó trong tay - một cái xẻng vào một cái bao lớn bằng vải. Hắn đặt cái bao xuống mặt đất rồi bắt đầu đào gần chỗ rễ cây. Cái xẻng xắn vào đất làm vang lên tiếng động sắc ngọt, nghe rất rõ. Giờ thì ai cũng phải thức dậy đây, chú bé nghĩ. Tiếng động lớn rõ mồn một thế kia mà!

Nhưng chẳng ai thức dậy. Người đàn ông vẫn không ngừng tay đào, dường như chẳng quan tâm xem liệu có ai nghe thấy. Mặc dù cao lêu ngêu, gầy gò, hắn khoẻ hơn rất nhiều so với bề ngoài, xét theo cách hắn sử dụng cái xẻng. Hắn làm việc đều đều, không phí sức. Khi đã đào được một cái hố vừa ý, người đàn ông dựa xẻng vào thân cây rồi đứng đó nhìn xuống. Hắn chẳng bao giờ nhìn lên, như thể đã quên phắt kẻ trèo lên cây lúc nãy. Dường như hắn chỉ quan tâm đến một thứ duy nhất là cái hố. Chú bé không thích điều đó. Lẽ ra hắn phải lo cho người đang ở trên cây kia chứ.

Qua đống đất mà người đàn ông đào lên, chú bé có thể đoán rằng cái hố không sâu lắm, có lẽ chỉ trên đầu gối chú là cùng. Người đàn ông ý chừng hài lòng về hình dáng và kích thước cái hố. Hắn quay lại phía cái túi và nhẹ nhàng nhấc từ trong túi ra một vật bọc vải nom đen đen. Cái vật ấy mềm, nhũn, xét theo cách người đàn ông nâng nó. Có lẽ hắn sắp chôn một cái xác nào đó vào cái hố. Ý nghĩ đó khiến tim chú bé đập thình thịch. Nhưng cái vật bọc vải kia không lớn hơn con mèo. Nếu là người thì chỉ có thể là một đứa bé sơ sinh. Nhưng sao hắn ta lại phải chôn một thứ như vậy ngay trong vườn nhà mình cơ chứ? - chú bé nghĩ. Chú nuốt nước bọt mà chẳng biết từ lúc nào đã tiết đầy mồm. Tiếng ực to đến nỗi chính chú bé cũng đâm hoảng hốt: ngộ nhỡ gã đàn ông ngoài kia nghe thấy thì sao.

Ngay lúc đó, như thể được tiếng ực của chú bé đánh thức, con chim vặn dây cót lại cất tiếng, lần này vặn một dây cót lớn hơn bao giờ hết: Quick... Quiiiiiiiick... Khi nghe tiếng kêu đó, chú bé cảm thấy bằng trực giác rằng một cái gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra. Chú cắn môi và bất giác gãi da trên cánh tay. Lẽ ra chú không nên thấy cảnh này, chú cảm thấy vậy. Nhưng giờ thì đã quá muộn. Giờ đây chú không thể nào dứt ra khỏi cảnh tượng đang bày ra trước mắt chú. Chú hé môi, tỳ mũi vào khung cửa sổ giá lạnh, sững sờ trước tấn kịch lạ lùng đang diễn ra trong vườn nhà mình. Chú không còn hy vọng có ai trong nhà sẽ thức dậy. Dù ngoài kia có tiếng động to cách mấy thì cũng không ai thức dậy đâu. Mình là người sống duy nhất có thể nghe thấy những tiếng động đó. Ngay từ đầu đã vậy rồi, - chú nghĩ.

Người cao lớn khom mình xuống và hết sức cẩn trọng, đặt cái vật bọc vải đen xuống đáy hố. Rồi hắn vươn thẳng người lên nhìn xuống vật nằm dưới kia. Chú bé không thể nhìn rõ khuôn mặt người đàn ông dưới vành mũ, nhưng dường như hắn có vẻ mặt nghiêm trang, thậm chí trang trọng nữa. Phải, đó ắt là một cái xác nào đó, chú bé nghĩ. Phút chốc sau người đàn ông quả quyết cầm lấy xẻng, bắt đầu lấp hố lại. Khi đã lấp xong, hắn nhẹ nhàng lấy chân dầm đất, và san cho phẳng. Sau đó hắn tựa xẻng vào thân cây, rồi cầm túi vải trong tay, chầm chậm bỏ đi. Hắn không quay đầu lại. Hắn không ngước lên cây. Và con chim vặn dây cót không hề cất tiếng nữa.

Chú bé ngoái nhìn đồng hồ treo tường. Căng mắt trong bóng tối, khó khăn lắm chú mới nhìn ra là 2 giờ rưỡi sáng. Chú còn nhìn đăm đăm lên cây thông thêm khoảng mười phút nữa qua khe hở giữa mấy tấm rèm, nhỡ ra có gì đó chuyển động ngoài kia, nhưng một cơn buồn ngủ kinh khủng xâm chiếm chú ngay lập tức, như thể có một cái nắp bằng sắt nặng trịch đang khép lại trên đầu chú. Chú muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với người đàn ông bé nhỏ ở trên cây và con chim vặn dây cót, nhưng chú không còn chong mắt được nữa. Chú cố cởi cho xong chiếc áo len trong khi vẫn còn tỉnh rồi vùi mình vào chăn và chìm ngay vào giấc ngủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:05:01 | Xem tất


Chương 4
Mua Giày Mới

Kẻ Về Nhà



Từ ga xe điện ngầm Akasaka tôi đi theo một con phố sầm uất hai bên san sát nhà hàng và quán bar để đến nơi tọa lạc tòa cao ốc văn phòng, hơi lên dốc một quãng ngắn. Đó là một tòa nhà chẳng có gì đặc biệt, không mới không cũ, không to không nhỏ, không sang trọng chẳng tồi tàn. Một hãng du lịch chiếm một phần tầng trệt, khung cửa số lớn trang hoàng hai tấm áp phích quảng cáo, một là cảnh hải cảng trên đảo Mykono, một là xe cáp treo ở San Francisco. Cả hai đều bạc phếch vì treo ngoài cửa sổ lâu ngày. Ba nhân viên hãng đang miệt mài làm việc sau tấm kính, người nói chuyện qua điện thoại, kẻ gõ bàn phím máy tính. Giả vờ xem các tấm poster, tôi giết thời giờ bằng cách quan sát cảnh văn phòng trong khi đợi đồng hồ điểm 4 giờ. Vì lý do nào đó, cả Mykono lẫn San Francisco đều dường như cách chỗ tôi đứng đến hàng năm ánh sáng.

Càng nhìn tòa nhà này, tôi càng nhận thấy nó tầm thường đến mức nào. Dường như nó được xây theo nguyên xi bản vẽ bằng bút chì của một đứa trẻ con nếu như người ta bảo nó vẽ một tòa nhà; hoặc dường như người ra cố tình thiết kế sao cho nó không nổi bật giữa môi trường xung quanh. Dẫu trong khi đi tìm tôi đã kiểm tra các số nhà cẩn thận đến mấy, suýt nữa tôi đã bỏ qua tòa nhà này mà không biết, nó bình thường quá. Lối vào khiêm nhường của nó ở ngay cạnh cửa vào của hãng du lịch. Nhìn qua các bảng tên, tôi có cảm tưởng rằng thuê văn phòng ở đây hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ - văn phòng luật, kiến trúc sư, nhà nhập khẩu, nha sĩ. Một vài bảng tên sáng choang đến độ tôi có thể soi rõ mặt mình trên đó, nhưng bảng tên cho phòng 602 thì đã mờ xỉn vì năm tháng, chuyển sang một màu khó xác định. Hẳn người đàn bà này đã thuê văn phòng ở đây từ lâu. "Hãng thiết kế thời trang Akasaka", tấm biển đề. Vẻ cũ kỹ của tấm bảng làm dịu đi nỗi nghi hoặc của tôi.

Giữa sảnh đợi và thang máy là một cánh cửa bằng kính khóa chặt. Tôi bấm chuông phòng 602 rồi nhìn quanh tìm ống kính camera mà chắc hẳn đang truyền hình ảnh của tôi vào màn hình ở bên trong. Có một thiết bị nhỏ trông như camera trên một góc trần sảnh đợi. Chẳng mấy chốc chuông reo, khóa cửa mở ra, tôi liền bước vào buồng thang máy.

Tôi đi trên cái buồng thang máy tuyệt đối không trang hoàng gì để lên tầng sáu, rồi sau một hồi loanh quanh trong cái hành lang tuyệt đối không trang hoàng, tìm thấy cảnh cửa số 602. Sau khi kiểm tra xem có đúng là trên cánh cửa có biển đề "Akasaka Fashion Design", rồi mới bấm chuông đúng một tiếng.

Mở cửa cho tôi là một thanh niên mảnh dẻ tóc cắt ngắn, đường nét gương mặt thật căn đối. Có lẽ y là gã đàn ông điển trai nhất tôi từng gặp. Nhưng đập vào mắt tôi còn mạnh mẽ hơn cả khuôn mặt là quần áo của y. Y vận một chiếc áo sơ-mi trắng đến nhức mắt, thắt cà vạt màu xanh thẫm có họa tiết tinh tế. Không chỉ bản thân cà vạt rất đúng mốt mà nút thắt cũng không chê vào đâu được. Từng nếp gấp đều đúng hệt như thường thấy trong tạp chí thời trang dành cho nam giới. Tôi chẳng bao giờ thắt cà vạt được như vậy, và bỗng dưng tôi tự hỏi y làm cách nào. Có phải đó là tài năng thiên bẩm của y, hay là kết quả sự dày công khổ luyện? Y mặc quần xanh thẫm và mang giày đế phẳng màu nâu có trang trí núm tua. Mọi thứ y mặc đều mới tinh, như thể y mặc lần đầu tiên mới cách đây vài phút.

Y thấp hơn tôi. Trên môi y thấp thoáng nụ cười, như thể y vừa nghe một mẩu chuyện khôi hài và lúc này y đang mỉm cười một cách tự nhiên nhất. Chẳng phải một mẩu chuyện khôi hài dung tục đâu: đó là loại hài hước thanh lịch mà cách đây một thế hệ ngài bộ trưởng ngoại giao hẳn đã nói với hoàng thái tử trong một bữa tiệc ngoài trời, khiến những người nghe xung quanh cười khe khẽ đầy lịch sự. Tôi toan tự giới thiệu, nhưng y đã khẽ lắc đầu ý nói tôi không cần phải nói gì. Tay giữ cửa mở, y để tôi vào, đoạn đảo mắt nhìn khắp hành lang rồi đóng cửa lại. Suốt thời gian đó y không hé môi, chỉ nheo nheo mắt nhìn tôi như thể xin lỗi rằng y không thể nói năng gì bởi có con báo đen nóng nảy đang ngủ ngay bên cạnh. Nói thế không có nghĩa là quả thật có con báo đen nào đang ngủ cạnh y, đơn giản là gã thanh niên này có cái vẻ như vậy.

Giờ tôi đang đứng ở một phòng tiếp khách có một chiếc đi-văng và ghế da trông khá tiện nghi, một giá treo quần áo bằng gỗ theo kiểu cổ và một cây đèn chân đế. Bức tường đằng xa có một cánh cửa, ý chừng để dẫn sang phòng bên cạnh. Bên cánh cửa này, quay lưng lại tường, là một chiếc bàn làm việc đơn giản bằng gỗ sồi trên đó là một chiếc máy vi tính lớn. Chiếc bàn kê phía trước đi-văng hẳn chỉ đủ lớn để đặt một cuốn danh bạ điện thoại. Sàn phòng trải một tấm thảm màu lục nhạt trông dịu mắt. Từ những chiếc loa dấu kín phát ra nho nhỏ một bản tứ tấu đàn dây của Haydn. Trên tường có mấy bức tranh dễ thương vẽ hoa lá và chim chóc. Nhìn qua cũng biết đây là một căn phòng không chê vào đâu được, không một chút bừa bộn. Các giá sách trên tường chất toàn những mẫu vải và tạp chí thời trang. Đồ đạc trong căn phòng không xa hoa cũng chẳng mới, nhưng lại mang vẻ ấm áp, xưa cũ và quen thuộc làm ta bình tâm.

Người thanh niên dẫn tôi lại chỗ đi-văng, còn chính mình thì đi về phía bên kia bàn làm việc rồi ngồi xuống đối diện tôi. Chìa hai lòng bàn tay về phía tôi, y ra hiệu rằng phải đợi một lát. Thay vì nói "Xin lỗi đã bắt ông phải đợi", y chỉ khẽ mỉm cười, và thay vì nói "Không lâu đâu", y giơ một ngón tay lên. Dường như y có khả năng diễn đạt ý mình mà không cần lời nói. Tôi gật đầu một lần để tỏ ý hiểu. Mở mồm nói khi có mặt y hẳn sẽ không đúng chỗ và thô bỉ.

Y nhặt một cuốn sách nằm cạnh máy vi tính, cẩn thận như đang cầm trong tay một vật dễ vỡ, rồi lật tới trang đang đọc dở. Đó là một cuốn sách dày màu đen không có bìa ngoài nên tôi không nhìn ra tựa đề. Mở sách ra là y toàn tâm toàn ý vào việc đọc, dường như quên hẳn rằng tôi đang ngồi đó. Lẽ ra tôi cũng muốn đọc một cái gì cho qua thời gian, nhưng chẳng có gì để đọc. Tôi bắt tréo chân, ngồi cho thoải mái trên đi-văng mà nghe nhạc Haydn (mặc dù, nếu hỏi ra thì tôi cũng không dám chắc đó là Haydn). Nhạc thì hay, song đó là loại nhạc dường như vừa xuất phát từ nguồn là lập tức tan biến vào không trung. Trên bàn làm việc của gã thanh niên, ngoài chiếc máy vi tính là một cái điện thoại bình thường màu đen, một khay đựng bút và một cuốn lịch.

Tôi vẫn mặc đúng lễ bộ đã mặc ngày hôm trước: áo khoác bóng chày, áo len có mũ trùm đầu, quần bò xanh, giày tennis. Trước khi ra khỏi nhà tôi đã vớ được gì thì mặc nấy. Trong căn phòng ngăn nắp chỉn chu không chê vào đâu được này, có mặt chàng thanh niên đẹp trai tươm tất không chê vào đâu được kia, đôi giày tennis của tôi trông càng bẩn thỉu, càng cũ rích. Cả năm qua ngày nào tôi cũng mang đôi giày này, trèo qua bức tường sau nhà không biết mấy lần, thỉnh thoảng dẫm lên phân chó trong khi đi về theo con ngõ, lại còn chui xuống đáy giếng nữa. Chẳng lạ là chúng bẩn thỉu, cũ mèm. Không phải đợi đến khi thôi việc tôi mới quan tâm đến chuyện mình đang mang đôi giày ra sao. Xem xét đôi giày kỹ thế này, tôi càng thấm thía mình cô đơn đến nhường nào, cảm thấy thế giới đã bỏ xa tôi đến mức nào. Đến lúc phải mua giày mới rồi, tôi tự nhủ. Đôi này thật kinh khủng quá sức.

Chẳng mấy chốc, nhạc Haydn kết thúc - một cái kết đột ngột, chẳng đâu vào đâu. Sau một quãng lặng ngắn, một tác phẩm dành cho harpsichord của Bach lại cất lên (tuy cả lần này nữa tôi cũng không dám chắc là của Bach). Tôi bắt tréo chân này rồi lại đổi chân kia. Điện thoại reo. Gã thanh niên dùng một mẩu giấy đánh dấu chỗ đang đọc dở, đặt sách qua một bên rồi nhấc ống nghe. Y áp ống nghe vào tai rồi khẽ gật đầu. Nhìn sang cuốn lịch để bàn, y lấy bút chì đánh dấu. Đoạn y giữ ống nghe gần mặt bàn rồi gõ gõ đốt ngón tay hai lần lên lớp gỗ như đang gõ cửa. Sau đó y gác máy. Cuộc gọi chỉ kéo dài khoảng hai mươi giây, suốt thời gian đó gã trai không nói một câu nào. Thực ra, y đã không hề thốt một tiếng từ khi mời tôi vào phòng. Tại sao y không nói chuyện được nhỉ? Rõ là y có thể nghe được, cứ xem cách y trả lời điện thoại và lắng nghe những gì người ta đang nói ở đầu bên kia phòng thì đủ biết.

Y ngồi nhìn chiếc điện thoại một hồi như đang suy nghĩ. Rồi y đứng dậy không một tiếng động, đi vòng qua bàn làm việc, tiến thẳng tới chỗ tôi đang ngồi và ngồi xuống cạnh tôi. Rồi y đặt hai tay lên đầu gối, đều tăm tắp. Những ngón tay y thanh mảnh, tuyệt đẹp, đúng như ta có thể hình dung một khi đã nhìn thấy mặt y. Các đốt ngón và khớp nối có rất ít nếp gấp; ngón tay thì thể nào cũng phải có nếp gấp, ít ra cũng phải vài nếp, không thì ngón không gập được. Song những ngón tay y không có nhiều nếp gấp, không nhiều quá mức tối thiểu cần thiết. Tôi cố nhìn những ngón tay y sao cho không quá sỗ sàng. Gã trai này hẳn là con của người đàn bà kia, tôi nghĩ. Những ngón tay y có hình dáng như ngón tay của bà ta. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, tôi bắt đầu nhận ra thêm những điểm giống nhau khác: cái mũi nhỏ khá nhọn, cặp mắt sáng như pha lê. Nụ cười thích thú lại bắt đầu nở trên môi y, hiện ra rồi lại biến đi hoàn toàn tự nhiên như một cái hang bên bờ biển lộ ra rồi lại chìm vào những cơn sóng. Chẳng mấy chốc gã trai đứng dậy, cũng nhanh nhẹn như lúc y ngồi xuống, và môi y động đậy: "Mời đi lối này". Mặc dù y tuyệt không phát ra một tiếng nào, nhưng tôi hiểu rõ điều y muốn nói. Tôi đứng dậy đi theo y. Y mở cánh cửa trong rồi mời tôi vào.

Sau cánh cửa là một căn bếp nhỏ có bồn rửa, sau đó nữa lại là một căn phòng khác, rất giống căn phòng tiếp khách nơi tôi ngồi nãy giờ, song nhỏ hơn một chút. Thảm trải sàn cũng cùng một màu như ở phòng kia. Giữa phòng là một cái bàn làm việc chuyên dụng trên đó có kéo, hộp dụng cụ, bút chì, tạp chí thiết kế, tất cả đều sắp xếp ngay ngắn. Có hai con ma-nơ-canh mà các thợ may vẫn dùng. Cửa sổ không chỉ treo mành mà treo tới hai bộ rèm, một bằng vải một bằng ren, cả hai đều khép kín. Đèn trần không bật nên phòng tranh tối tranh sáng như buổi chiều hôm nhiều mây. Bóng đèn duy nhất của chiếc đèn chân đế bên cạnh chiếc sofa cũng không bật sáng. Một bình hoa bằng thủy tinh đựng hoa lay-ơn đặt trên bàn cà phê phía trước sofa. Hoa còn tươi, như thể vừa mới cắt vài phút trước, nước trong bình vẫn trong. Ở phòng này không nghe thấy tiếng nhạc, cũng chẳng có bức tranh hay cái đồng hồ nào ở trên tường.

Gã thanh niên lại im lặng ra dấu, lần này để bảo tôi ngồi xuống sofa. Khi tôi đã ngồi như y bảo, y liền lấy trong túi quần ra cái gì đó trông như cặp kính bơi rồi giương ra trước mắt tôi. Đó đúng là cặp kính bơi, chỉ là kính bơi thông thường làm bằng cao su và nhựa, y như những cặp kính tôi vẫn dùng khi đi bơi. Tại sao y lại mang theo vào đây, tôi chịu không hiểu.

- Đừng sợ, - gã thanh niên nói. Đúng ra, y chẳng hề "nói" gì. Y chỉ khẽ động đậy môi và cử động mấy ngón tay còn nhẹ nhàng hơn. Thế nhưng tôi vẫn hiểu hoàn toàn chính xác y định nói những gì. Tôi gật đầu.

- Xin hãy mang kính vào. Đừng tự tháo ra. Tôi sẽ tháo. Ông cũng không được xê dịch kính. Ông hiểu không?

Tôi gật.

- Nó chẳng hại gì cho ông đâu. Mọi chuyện sẽ ổn. Đừng lo.

Tôi gật.

Gã thanh niên đi vòng lại phía sau sofa và đeo cặp kính bơi vào mắt tôi. Y kéo căng sợi dây cao su qua đầu tôi rồi điều chỉnh hai tròng kính sao cho lớp đệm mút khớp vào quanh hai mắt tôi. Điểm duy nhất mà cặp kính này khác với những cặp kính tôi vẫn dùng là tôi không nhìn thấy gì qua nó cả. Người ta đã phết một lớp dày cái gì đó ra ngoài lớp nhựa trong suốt. Một bóng tối hoàn toàn - và nhân tạo - vây quanh tôi. Tôi chẳng thấy gì hết. Tôi không biết cây đèn chân đế đang chiếu sáng ở chỗ nào nữa. Tôi có cái ảo giác như ai đó đã sơn lên khắp người tôi một lớp dày của cái gì đó.

Gã thanh niên khẽ đặt tay lên vai tôi như để khích lệ tôi. Y có những ngón tay thon mảnh, tinh tế, song hoàn toàn không yếu ớt chút nào. Chúng có sức mạnh đầy quyết đoán của các ngón tay một nghệ sĩ dương cầm đặt trên mặt phím, thông qua những ngón tay này tôi có thể cảm thấy một thiện chí nào đó, hoặc nếu không hẳn là thiện chí thì cũng rất gần như vậy. "Không sao cả, đừng lo", những ngón tay bảo tôi vậy. Tôi gật đầu. Đoạn y rời khỏi phòng. Trong bóng tối, tôi nghe những bước chân y xa dần, sau đó là tiếng cửa mở ra rồi đóng lại.

° ° °


Tôi tiếp tục ngồi trong tư thế đó một hồi lâu sau khi gã thanh niên đi khỏi. Bóng tối nơi tôi đang ngồi có cái gì đó thật kỳ lạ. Tối như hũ nút, không nhìn thấy bất cứ cái gì, về điểm đó thì cũng như bóng tối nơi đáy giếng kia, song ngoài ra bóng tối này có cái gì đó nữa hoàn toàn khác. Nó không có hướng, không chiều sâu, không trọng lượng, không thể nắm bắt. Nó không chỉ là bóng tối mà đúng hơn là hư vô. Đơn giản người ta đã làm tôi mù tạm thời bằng cách nhân tạo. Tôi nghe cơ bắp mình căng cứng, miệng và cổ họng tôi khô khốc. Chuyện gì sẽ còn xảy ra với tôi đây? Nhưng rồi tôi nhớ lại cái đụng chạm của những ngón tay gã thanh niên. Đừng lo, chúng đã bảo tôi vậy. Chẳng hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy có thể tin được vào "lời nói" đó.

Căn phòng im lặng hoàn toàn đến nỗi khi nín thở, tôi bị tràn ngập bởi cảm giác rằng thế giới đã hoàn toàn ngưng lại giữa chừng và vạn vật sẽ bị nuốt chửng, chìm xuống những đáy nước sâu vĩnh viễn. Nhưng không, rõ ràng thế giới vẫn đang chuyển động. Chẳng mấy chốc một người đàn bà mở cửa, sẽ sàng bước vào phòng.

Tôi biết đó là đàn bà qua mùi nước hoa tinh tế. Đây không phải là thứ mùi của đàn ông. Hẳn đó là loại nước hoa đắt tiền. Mùi thơm có vẻ quen thuộc, tôi cố nhớ ra nhưng không được. Dường như khi đã bị tước đi thị giác thì khả năng ngửi của tôi cũng bị mất thăng bằng. Điều duy nhất tôi biết chắc, ấy là mùi thơm tôi đang ngửi thấy lúc này khác với mùi nước hoa của người đàn bà ăn mặc đẹp đẽ đã chỉ cho tôi đến đây. Tôi nghe tiếng sột soạt của quần áo người đàn bà khi cô ta bước ngang qua phòng rồi se sẽ ngồi xuống sofa, bên phải tôi. Cô ta ngồi xuống đệm sofa hết sức nhẹ nhàng, gần như không trọng lượng, rõ ràng đấy là một phụ nữ có thân hình bé nhỏ.

Người đàn bà ngồi nhìn thẳng vào tôi. Tôi có thể cảm thấy cặp mắt cô ta nhìn vào mặt tôi; và tôi chợt nhận ra rằng người ta có thể cảm thấy cái nhìn của người khác mà không cần đến mắt. Người đàn bà không nhúc nhích, cứ nhìn tôi chằm chặp. Tôi cảm thấy tiếng thở khẽ khàng, chậm rãi của cô ta, nhưng hầu như không nghe thấy được. Tôi vẫn giữ nguyên tư thế, hướng thẳng về phía trước. Vết bầm trên má tôi dường như bắt đầu nóng lên, màu của nó hình như cũng trở nên sống động hơn bình thường. Người đàn bà chìa tay, khẽ đặt mấy đầu ngón tay lên vết bầm của tôi, thật cẩn trọng như thế đó là vật gì quý báu và dễ vỡ. Rồi cô ta bắt đầu vuốt ve vết bầm.

Tôi không biết phải phản ứng ra sao hoặc cô ta muốn tôi phản ứng ra sao. Tôi chỉ có một cảm nhận hết sức xa xôi về thực tại. Tôi cảm thấy mình đang ở một thế phân ly lạ lùng, như thể tôi đang cố nhảy từ một chiếc xe đang chạy sang một chiếc xe khác chạy với vận tốc khác. Tôi hiện hữu ở khoảng trống giữa hai bên, một căn nhà trống rỗng. Bây giờ tôi là một căn nhà bỏ trống, như căn nhà của gia đình Miyawaki trước kia. Người đàn bà này đã bước vào căn nhà trống đó, và, vì lý do nào đó, đang lướt tay dọc tất cả các bức tường và thân cột. Dù lý do của cô ta là gì đi nữa, bởi tôi là căn nhà trống (và tôi là vậy, căn nhà rỗng, không gì hơn) nên tôi không thể làm gì (mà cũng không cần làm bất cứ cái gì). Khi ý nghĩ đó hiện lên trong tâm trí, tôi cảm thấy phần nào nhẹ nhõm.

Người đàn bà không nói không rằng. Ngoài tiếng quần áo sột soạt, căn phòng chìm trong im lặng sâu thẳm. Người đàn bà miết đầu ngón tay trên da tôi như cố đọc ra một thứ chữ viết nhỏ xíu bí mật nào đã được viết lên đó từ lâu lắm.

Cuối cùng cô ta thôi vuốt ve vết bầm của tôi. Cô ta đứng dậy, đi vòng về phía sau tôi, rồi bắt đầu dùng lưỡi thay vì các đầu ngón tay. Cũng như Kasahara May đã làm trong vườn hồi mùa hè năm ngoái, cô ta liếm vết bầm của tôi. Tuy nhiên, cô ta làm thành thạo hơn nhiều so với Kasahara May. Lưỡi cô ta di động, riết chặt lấy thịt tôi. Lúc mạnh lúc nhẹ, dưới nhiều góc độ khác nhau, bằng nhiều động tác khác nhau, nó nếm, mút và kích thích vết bầm của tôi. Tôi cảm thấy nóng bỏng, giần giật nơi bụng dưới. Tôi không muốn cương cứng. Thật hoàn toàn vô nghĩa! Tôi không tự ngăn mình được.

Tôi cố sức áp đặt hình ảnh chính mình lên hình ảnh căn nhà bỏ trống. Tôi nghĩ về mình như một cây cột, bức tường, trần nhà, sàn nhà, mái nhà, cửa sổ, cửa ra vào, tảng đá. Dường như đó là điều hợp lý nhất nên làm.

Tôi nhắm mắt lại và tách ra khỏi cái vỏ bằng nhục thể này, với đôi giày tennis cũ rích, cặp kính bơi kỳ quặc, cơn cương cứng vụng về của nó. Tách khỏi xác thịt mình không đến nỗi khó. Tôi thấy dễ chịu hơn nhiều, ít nhất việc này cũng cho phép tôi rũ bỏ cảm giác vụng về mà tôi đang cảm thấy. Tôi là một khu vườn um tùm cỏ dại, một con chim đá không bay, một cái giếng cạn khô. Tôi biết rằng một người đàn bà đang ở trong căn nhà trống vốn là bản thân tôi. Tôi không nhìn thấy cô ta, song điều đó chẳng làm tôi bận lòng nữa. Nếu cô ta đang tìm cái gì đó ở trong kia, tôi có thể cho cô ta cái đó.

Tiến trình thời gian càng ngày càng trở nên không rõ ràng. Xung quanh tôi lúc này có nhiều loại thời gian, tôi không biết mình đang ở thời gian nào trong số đó. Ý thức dần dần trở lại với thể xác tôi, và đến lượt mình người đàn bà dường như cũng rời khỏi đó. Cô ta ra khỏi phòng cũng êm ru như lúc vào. Tiếng quần áo sột soạt. Mùi nước hoa phảng phất. Tiếng cửa mở ra đóng lại. Một phần ý thức tôi vẫn nằm ở đó như một căn nhà trống. Đồng thời tôi vẫn ở đây, chính tôi trên chiếc sofa này. Tôi nghĩ: Mình nên làm gì bây giờ? Tôi không thể nào quyết đâu là thực tại. Từng tý một, cái từ "ở đây" dường như tách làm hai ở bên trong tôi. Tôi ở đây, nhưng tôi cũng ở đây. Cả hai đều có sự như nhau đối với tôi. Ngồi trên sofa, tôi dấn vào sự phân đôi kỳ lạ đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách