Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 31-7-2012 20:53:48 | Xem tất


Tôi sờ vào tóc trước trán mình. Có lẽ cô ta nói đúng. Có thể tóc đã lùi lên phía trên một chút. Hay tôi chỉ tưởng tượng ra thế? Lại thêm chuyện để lo đây.

- Ý em là sao? Để ý nghĩa là thế nào?

- Thật ra có để ý cũng không làm gì được. Chẳng có cách nào ngăn được chứng hói. Những ai mà số trời đã bắt phải hói thì đến lúc là hói thôi. Chẳng cách nào ngăn được. Người ta nói có thể ngừa được chứng hói bằng cách dưỡng tóc này nọ, nhưng toàn vớ vẩn thôi. Anh đi mà xem mấy gã cầu bơ cầu bất ngủ ngoài ra Shinjuku ấy: thằng nào thằng nấy tóc thôi là tóc, có đứa nào hói đâu. Anh tưởng là ngày nào chúng cũng gội đầu bằng Clinique hay Vidal Sassoon hoặc xức tóc bằng Lotion X chắc? Đó là bọn sản xuất mỹ phẩm nói để moi tiền anh thôi.

Lời của cô gây cho tôi ấn tượng mạnh.

- Chắc em nói đúng. Nhưng sao em biết nhiều về chuyện hói thế?

- Lâu nay em vẫn làm bán thời gian cho một công ty tóc giả mà. Anh biết đó, em không đi học nên có ối thời gian rảnh. Em đi điều tra, lấy ý kiến khách hàng, những việc kiểu như thế. Thành thử em biết hết về quý ông hói. Em nạp đầy ắp thông tin rồi còn gì.

- Chà!

- Nhưng anh biết không, - cô vừa nói vừa buông mẩu đầu thuốc xuống đất rồi dí chân lên, - ở công ty em làm việc ấy, người ta cấm mình gọi bất cứ ai là "hói". Phải gọi là "người đang có chứng thưa tóc". "Hói" là một từ có tính phân biệt đối xử. Có lần em đùa, đề nghị gọi là "quý ông có cái đầu đang bị hoang hóa", ấy thế mà họ nổi trận lôi đình, trời ạ! "Chả có gì đáng đùa ở đây, cô bé ạ", họ nói. Chao, sao mà họ nghiêêêm trọọọng thế. Anh có thấy không? Thế giới này ai người ta cũng nghiêm trọng đến chết đi được.

Tôi móc kẹo chanh ra khỏi túi, ném một viên vào mồm, đưa một viên khác cho Kasahara May. Cô lắc đầu và lại rút ra một điếu thuốc.

- Nghe này Chim vặn dây cót, - cô nói. - Anh đang thất nghiệp. Chưa tìm được việc nào à?

- Vẫn chưa.

- Anh thực sự muốn có việc làm đàng hoàng chứ?

- Có chứ, - lời nói thốt khỏi mồm, tôi lại tự hỏi có thật là vậy không. - Thực ra anh không biết. Chắc anh cần thêm thời gian. Thời gian đề suy nghĩ. Chính anh cũng không biết mình cần gì. Điều đó khó giải thích.

Kasahara May vừa nhằn móng tay vừa nhìn tôi một hồi.

- Này Chim vặn dây cót, em bảo. Hôm nào đấy anh đi làm với em đi. Ở công ty tóc giả ấy. Lương họ trả không cao, nhưng công việc nhàn hạ, với lại giờ giấc làm việc do tự mình thu xếp. Anh bảo thế nào? Đừng cả nghĩ làm gì, cứ thử xem. Gọi là thay đổi không khí. Biết đâu nó lại chẳng giúp anh suy xét được sáng suốt về mọi chuyện khác.

Cô ta có lý.

- Em có lý, - tôi nói.

- Hay lắm! - cô nói. - lần sau em đi, em sẽ đón anh đi cùng. Nhà anh ở đâu?

- Chà, khó nhỉ. Mà cũng chẳng khó. Em chỉ cần đi dọc theo ngõ, rẽ mấy lần, cho đến khi thấy ở bên trái có một cái nhà mà trong sân sau có một chiếc Honda Civic màu đỏ. Trên thanh hãm xung của xe có miếng băng dính ghi hàng chữ "Hòa bình cho mọi người trên trái đất". Nhà anh ở ngay kế bên, nhưng không có cổng mở ra ngõ. Chỉ có một bức tường bê tông, em sẽ phải trèo qua. tường cũng thấp, cỡ ngang cằm anh thôi.

- Đừng lo, tường cỡ ấy thì em trèo qua được.

- Chân em còn đau không?

Cô phà ra một bụm khói thuốc, lẫn theo một tiếng thở dài.

- Anh đừng lo. Chả sao cả. Em đi cà nhắc mỗi khi có mặt bố mẹ vì em không muốn đi học. Em giả vờ ấy mà. Nhưng riết thành quen. Em đi cà nhắc ngay cả khi xung quanh chả có ai, chỉ một mình trong phòng. Em là kẻ cầu toàn mà. Người ta có câu gì ấy nhỉ, "Lừa mình trước rổi hẵng lừa người". Này Chim vặn dây cót, anh có gan không?

- Không nhiều lắm.

- Chẳng bao giờ có gan cả à?

- Không, anh chưa bao giờ là kẻ có gan cả. Mà cũng chẳng muốn mình khác đi.

- Thế còn tò mò?

- Tò mò là chuyện khác. Anh thì có hơi tò mò đấy.

- Anh không nghĩ rằng có gan và tò mò có cái giống nhau à? Có gan thì cũng tò mò, tò mò thì cũng có gan. Không đúng sao?

- Hừm, cũng có thể là giống nhau. Chắc em có lý. Có thể đôi khi tò mò và có gan lại nhập vào nhau làm một.

- Chẳng hạn như khi anh lén vào sân nhà người khác ấy.

- Ừ, kiểu như thế, - tôi vừa nói vừa đảo viên kẹo chanh trên lưỡi. - Khi lẻn vào sân nhà người khác, dường như mình vừa có sự tò mò vừa có cái gan. Đôi khi cái tò mò đẩy cái gan ra khỏi chỗ nấp, thậm chí còn thúc sau lưng buộc cái gan phải chạy. Nhưng cái tò mò thường chóng qua, cái gan thì còn lại lâu. Cái tò mò cũng giống như người bạn vui tính nhưng ta không tin tưởng hoàn toàn được. Nó làm ta thức tỉnh, hưng phấn, rồi lại bỏ ta đi, mặc ta hành động một mình, khi đó ta phải vận hết cái gan có ở trong ta.

Cô ta ngẫm nghĩ về điều đó một lúc.

- Cũng có thể. Đó là một cách nhìn, - cô nói. - này Chim vặn dây cót, anh có muốn thấy cái giếng không?

- Giếng á? - tôi hỏi. - Giếng nào nhỉ?

- Ở đây có một cái giếng cạn. Em thích nó. Ở mức độ nào đó. Anh muốn xem không?

Chúng tôi băng qua sân, đi về phía bên kia căn nhà. Đó lá một cái giếng tròn, đường kính khoảng một mét rưỡi, đậy vừa khít bằng một cái nắp tròn bằng gỗ dày. Có hai tảng bê tông dằn lên nắp giếng giữ cho nó không xê dịch. Thành giếng cao chừng một mét, bên cạnh là một cây già đơn độc, như gã lính canh. Đó là một loại cây ăn trái, nhưng tôi không biết tên.

Cũng như hầu hết những gì gắn liền với căn nhà này, cái giếng trông như đã bị bỏ hoang từ lâu lắm. Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là "sự vô cảm tuyệt đối". Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa.

Xem xét kỹ, tôi nhận ra rằng thật ra cái giếng này xưa hơn nhiều so với các vật xung quanh. Hẳn nó đã được đào từ lâu trước khi người ta xây căn nhà này. Ngay cả cái nắp gỗ trông cũng rất cũ xưa. Thành giếng được phủ một lớp bê tông dày, chắc hẳn là để gia cố cho một công trình xây trước đó đã lâu. Cái cây bên cạnh giếng dường như muốn khoe rằng nó đã có mặt ở đó từ xa xưa hơn nhiều so với bất cứ cái cây nào khác ở nơi này.

Tôi đặt một trong hai tảng bê tông xuống đất rồi nhấc một trong hai nửa nắp giếng hình bán nguyệt ra. Tì tay lên thành giếng, tôi khom người nhìn xuống, nhưng chẳng thấy gì dưới đáy. Có thể thấy giếng khá sâu, nửa dưới giếng chìm trong bóng tối. Tôi thử ngửi - nghe thoang thoảng mùi rêu.

- Không có tí nước nào đâu, - Kasahara May nói.

Giếng không nước. Chim không bay. Ngõ không lối ra. Và...

May nhặt một mẩu gạch trên mặt đất rồi ném xuống giếng. Một hồi sau nghe có tiếng động nhỏ, khô khan. Không gì hơn. Âm thanh đục, khô không khốc, dường như có thễ bóp vụn trong bàn tay. Tôi thẳng người lên nhìn Kasahara May.

- Tại sao giếng không có nước nhỉ? Nó tự cạn đi à? Hay ai đó đã lấp lại?

Cô ta nhún vai.

- Nếu lấp lại thì phải lấp cho đến tận miệng chứ. Ai lại để nguyên một cái hố sâu hoắm thế kia. Nguy hiểm lắm, nhỡ ai ngã vào thì chỉ có chết. Đúng không?

- Chắc em nói đúng. Có cái gì đó đã làm giếng bị cạn đi.

Bỗng tôi nhớ lại lời ông Honda đã từ lâu lắm. "Nếu đã phải đi lên thì hãy tìm nhọn tháp cao nhất mà trèo lên tới đỉnh. Nếu đã phải đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà tụt xuống tận đáy". Hóa ra tôi đã tìm thấy giếng đây rồi.

Tôi lại cúi mình trên thành giếng nhìn xuống bóng tối bên dưới., chờ đợi một cái gì không rõ. Tôi nghĩ: vậy là ở một nơi như thế này, lại có một bóng tối sâu hun hút thế kia. Tôi húng hắng ho rồi nuốt. Tôi có cảm giác tiếng ho vọng lại từ bóng tối kia nghe như của người nào khác chứ không phải tôi. Nước bọt của tôi vẫn đượm mùi kẹo chanh.


° ° °


Tôi đậy nắp giếng lại rồi đặt tảng bê tông đè lên. Rồi tôi nhìn đồng hồ. Gần 11 giờ rưỡi. Đã đến lúc về gọi cho Kumiko trong giờ nghỉ ăn trưa.

- Anh phải về nhà đây, - tôi nói.

Kasahara khẽ cau mày.

- Thế thì đi ngay đi, Chim vặn dây cót. Bay về nhà đi, - cô nói.

Lúc tôi băng qua sân, con chim đá vẫn đang nhìn trời bằng cặp mắt khô queo. Bầu trời vẫn phủ một lớp mây dày xám xịt, không có khe hở nào cho ánh nắng lọt qua, nhưng ít nhất mưa đã tạnh. Kasahara ngắt một búi cỏ ném lên trời. Vì không có gió cuốn đi nên những nhánh cỏ lại rơi lả tả dưới chân cô.

- Từ giờ cho đến khi mặt trời lặn còn bao nhiêu là thì giờ nữa nhỉ, - cô nói mà không nhìn tôi.

- Ừ, còn nhiều, - tôi nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:06:23 | Xem tất


Chương 6
Về Sự Chào Đời Của Okada Kumiko và Wataya Noboru


Là con một trong gia đình, tôi thật khó hình dung anh chị em ruột trong một nhà thường cảm thấy gì lúc gặp nhau sau khi ai nấy đều đã lớn và có cuộc sống riêng. Trong trường hợp Kumiko, bất cứ khi nào ai đó nhắc tới Wataya Noboru thì nàng lại có một vẻ mặt kì lạ, như thể nàng vừa tình cờ cho một món gì đó có mùi vị khó chịu vào mồm. Nhưng chính xác là vẻ mặt đó ẩn chứa cái gì, tôi chịu không biết được. Về phần mình, tôi chẳng có mảy may thiện cảm với anh ta. Kumiko cũng biết và thấy điều đó hoàn toàn tự nhiên. Bản thân nàng cũng chẳng ưa gì ông anh. Giá như không phải hai anh em ruột thì thật khó hình dung ra cảnh hai người nói chuyện với nhau. Thế nhưng quả thực họ là anh em ruột, điều đó càng khiến mọi chuyện thêm rắc rối.

Sau khi tôi cãi nhau om sòm với ông bố và cắt đứt quan hệ với gia đình, hầu như không có dịp nào gặp lại Wataya Noboru. Cuộc cãi nhau đó quả thực là kịch liệt. Trong đời tôi không có mấy khi cãi nhau với ai - tôi vốn không thuộc loại người hay tranh cãi -, nhưng khi đã lâm vào thế chẳng đặng đừng thì tôi cãi tới cùng, không ngừng được. Nhưng sau mỗi lần như vậy, khi đã trút sạch những gì dồn nén trong lòng, cơn giận dữ của tôi đều biến đây mất một cách kỳ lạ. Không còn căm ghét, chẳng còn phẫn uất, chỉ còn thấy hết sức nhẹ nhõm rằng tôi sẽ không bao giờ phải gặp lại ông ta nữa; rằng tôi đã trút được gánh nặng phải mang đã quá lâu này. Thậm chí tôi còn thấy thông cảm với cuộc đời lắm gian truân vất vả của ông ta, dù cuộc đời đó với tôi có vẻ ngu ngốc và đáng tởm đến đâu đi nữa. Tôi bảo Kumiko tôi sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ nàng nữa nhưng riêng nàng thì khi nào muốn về thăm họ cũng được, chỉ có điều không có tôi. Nhưng Kumiko cũng chẳng thiết tha gì chuyện về thăm cha mẹ.

Hồi đó Wataya Noboru đang sống cùng cha mẹ, song khi cuộc cãi vã bùng lên giữa cha anh ta và tôi, anh ta chỉ rút lui, chẳng nói với ai một lời nào. Điều đó tôi không lạ. Anh ta chẳng mảy may quan tâm đến tôi. Anh ta tránh hết sức để không gặp mặt tôi trừ những lúc thực sự cần thiết. Vì vậy, mỗi khi đã không còn đến thăm cha mẹ Kumiko, tôi cũng chẳng còn lý do gì để gặp lại Wataya Noboru. Bản thân Kumiko cũng chẳng còn lý do đặc biệt gì để gặp anh ta. Anh ta bận, nàng cũng bận, nhưng cái chính là hai người chưa bao giờ thân thiết với nhau.

Tuy vậy thỉnh thoảng Kumiko cũng gọi điện đến văn phòng khoa của anh ta, đôi khi anh ta cũng gọi điện cho nàng ở công ty (nhưng không bao giờ gọi về nhà chúng tôi). Nàng thường thông báo lại với tôi về những cuộc trò chuyện đó, nhưng không đi vào chi tiết. Tôi không bao giờ hỏi, nàng cũng không bao giờ tự kể rõ hơn nếu không cần thiết.

Tôi không cần biết Kumiko và Wataya Noboru nói với nhau những gì. Bảo vậy không có nghĩa là tôi khó chịu khi biết hai người có nói chuyện với nhau. Đơn giản là tôi không hiểu hai con người khác nhau đến thế thì có gì để nói chuyện với nhau? Hay chỉ vì họ là hai anh em nên mới có chuyện để nói?


° ° °


Tuy là anh em nhưng Wataya Noboru và Kumiko cách nhau những chín tuổi. Một lý do nữa khiến hai anh em ít gần gũi nhau, ấy là hồi nhỏ Kumiko sống với ông bà nội suốt mấy năm liền.

Nhà Wataya không chỉ có hai đứa con là Kumiko và Noboru. Giữa hai anh em còn có một người con gái nữa, lớn hơn Kumiko hai tuổi. Tuy nhiên, hồi Kumiko mới ba tuổi cha mẹ đã gửi nàng từ Tokyo về tỉnh Niigata xa xôi cho ông bà nội nuôi nấng một thời gian. Về sau cha mẹ bảo nàng rằng họ làm vậy bởi hồi nhỏ nàng ốm đau quặt quẹo luôn, thành thử không khí trong lành ở thôn quê chắc sẽ có ích cho nàng, nhưng nàng chẳng bao giờ tin hẳn lời họ nói. Theo nàng nhớ thì nàng chưa bao giờ đau yếu cả. Nàng chưa hề ốm nặng bao giờ, người thân ở Niigata hình như cũng không ai phải lo lắng lắm về sức khỏe của nàng. "Em tin chắc đó chẳng qua là cái cớ thôi", có lần Kumiko bảo tôi vậy.

Nỗi ngờ vực của nàng được củng cố bởi một chuyện nàng nghe được từ một người bà con. Hóa ra mẹ và bà nội của Kumiko từng có một mối bất hòa kéo dài, và quyết định đưa Kumiko về Niigata là kết quả một sự thỏa thuận giữa hai người. Bằng cách giao con cho bà nội nuôi một thời gian, cha mẹ Kumiko đã làm bà nguôi giận, còn đến lượt mình, nhờ được nuôi dạy cháu một thời gian nên bà nội củng cố được quan hệ với con trai (tức cha của Kumiko). Nói cách khác, Kumiko đã là một kiểu con tin.

- Ngoài ra, - Kumiko kể với tôi. - ba mẹ em đã có hai đứa con rồi, thành thử cho đi đứa thứ ba cũng chẳng mất mát gì ghê gớm. Dĩ nhiên là không phải ba mẹ có ý bỏ em luôn; hình như ba mẹ chỉ nghĩ rằng bởi em còn quá nhỏ nên đi xa khỏi nhà như thế cũng chẳng hề gì. Có lẽ ba mẹ đã không biết nghĩ cho thấu đáo về chuyện đó. Chẳng qua đó là giải pháp dễ dàng nhất cho tất cả mọi người. Anh có tin được không? Em không biết tại sao ba mẹ chẳng hiểu rằng chuyện đó có tác động như thế nào đến một đứa bé.

Nàng được bà nội nuôi nấng ở Niigata từ năm ba tuổi đến năm sáu tuổi. Những năm tháng đó trong đời nàng gọi là u buồn hay phi tự nhiên thì cũng không đúng. Bà nội cưng nàng như cưng trứng mỏng, Kumiko cũng thích chơi với mấy anh em họ bằng tuổi mình hơn là chơi với anh chị ruột vốn lớn hơn nàng nhiều. Cuối cùng, khi Kumiko đến tuổi đi học, ba mẹ đón nàng về Tokyo. Ba mẹ bắt đầu đâm lo rằng đứa con gái đã xa họ qua lâu nên khăng khăng đòi đưa về trước khi quá muộn. Nhưng theo nghĩa nào đó thì đã quá muộn. Suốt mấy tuần sau khi quyết định cho nàng về lại Tokyo, bà nội ngày càng rơi vào trạng thái kích động. Bà thôi ăn và ngủ rất ít. Bà khi khóc khi cười, lúc lại hoàn toàn câm lặng. Mới phút trước bà vừa siết chặt Kumiko vào lòng đến tức thở, phút sau bà đã lấy thước kẻ phát vào tay Kumiko mạnh đến nỗi hằn đỏ cả lên. Phút trước bà bảo bà không muốn cháu đi, rằng bà thà chết còn hơn mất cháu, phút sau bà lại bảo bà không muốn thấy mặt cháu nữa, rằng bà muốn tống cháu đi cho khuất mắt. Bằng những lời lẽ không thể nào thậm tệ hơn, bà rủa xả mẹ Kumiko, bảo rằng mẹ nàng là một mụ đàn bà khốn nạn. Thậm chí bà còn đâm kéo vào cổ tay định tự sát. Kumiko không hiểu nổi điều gì đang diễn ra quanh mình nữa. Mọi chuyện vượt ngoài khả năng lĩnh hội của nàng.

Thế là nàng quyết định khép mình trước ngoại giới. Nàng nhắm mắt lại. Nàng khép tai lại. Nàng đóng chặt tâm trí mình. Nàng không nghĩ gì nữa, không hy vọng gì nữa. Mấy tháng sau đó là một khoảng trống hoàn toàn trong ký ức nàng. Nàng tuyệt chẳng nhớ bất cứ điều gì xảy ra trong thời gian đó. Khi hồi tỉnh, nàng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà mới. Đó là ngôi nhà lẽ ra nàng đã sống từ xưa đến nay. Ba mẹ nàng sống ở đây, anh nàng cũng thế, chị nàng cũng thế. Nhưng đó không phải nhà của nàng. Nó chỉ là một môi trường sống mới mà thôi.

Kumiko trở thành một đứa trẻ lầm lì, khó tính trong môi trường mới đó. Không ai là người cô bé có thể tin, không ai là người cô bé có thể tin vậy vô điều kiện. Ngay cả trong vòng tay cha mẹ, cô cũng không bao giờ hoàn toàn thoải mái. Cô không biết mùi cơ thể họ; cái mùi lạ lẫm đó khiến cô bứt rứt khó chịu. Thậm chí có đôi khi cô còn căm ghét nó. Người duy nhất trong nhà mà Kumiko dần dần cởi mở hơn, dù một cách khó khăn, là chị gái. Cha mẹ đã hết hy vọng có thể gần gũi được cô bé; anh trai gần như không biết đến sự tồn tại của cô. Nhưng chị gái thì thấu hiểu sự bấn loạn và nỗi cô đơn ẩn sau thái độ bướng bỉnh đó. Chị ở suốt ngày bên Kumiko, ngủ cùng buồng với cô, nói chuyện với cô, đọc sách cho cô nghe, đưa cô đi học, giúp cô làm bài tập. Những khi Kumiko rúc vào một góc giường mà khóc hàng giờ, chị gái luôn có mặt, ngồi một bên, ôm chặt cô vào lòng. Chị làm tất cả những gì có thể để tìm đường đến với cõi lòng sâu kín của Kumiko. Giá như chị không chết vì trúng độc thức ăn chỉ một năm sau Kumiko từ Niigata trở về thì mọi chuyện hẳn đã khác đi rất nhiều.

- Nếu chị còn sống thì mọi chuyện trong gia đình hẳn đã tốt hơn rồi, Kumiko nói. - Mới mười một tuổi chị ấy đã là trụ cột về tinh thần cho cả gia đình. Giá như chị không chết thì mọi người khác trong nhà hẳn đã ít khác người hơn. Ít nhất thì em cũng không phải là một trường hợp hết thuốc chữa như thế này. Anh có hiểu ý em không? Em thấy mình thật có lỗi sau chuyện đó. Tại sao em không chết thay cho chị? Tại sao em đây, một đứa chẳng ai cần tới, chẳng đem lại niềm vui cho ai, tại sao em không chết đi? Ba mẹ và anh trai hiểu rõ cảm xúc của em, nhưng họ không hé một lời để an ủi em. Mà đâu chỉ có thế. Họ không từ bất cứ cơ hội nào để nói về người chị quá cố của em: nào chị ấy xinh, nào chị ấy thông minh, nào ai cũng thích chị ấy, nào chị ấy chu đáo quan tâm đến mọi người, nào chị ấy chơi piano giỏi! Thế rồi họ bắt em phải học chơi piano! Sau khi chị mất thì cũng phải có ai sử dụng cây đàn piano to đùng kia chứ! Nhưng em chẳng thích chơi piano tí nào! Em biết mình sẽ chẳng bao giờ chơi hay như chị ấy, em cũng không cần có thêm một cách để chứng tỏ em kém cỏi thế nào so với chị ấy. Em không thể thế chỗ cho bất cứ ai, nói gì đến cho chị ấy. Nhưng chẳng ai nghe em. Không ai thèm nghe em cả! Mãi đến giờ, hễ nhìn thấy piano là em ghét cay ghét đắng. Thấy ai đó chơi piano là em không chịu nổi.

Tôi vô cùng phẫn nộ với gia đình Kumiko khi nghe nàng kể. Phẫn nộ vì những gì họ đã làm với nàng. Vì những gì họ đã không làm được cho nàng. Ấy là hồi chúng tôi chưa cưới. Hai chúng tôi chỉ mới quen nhau được hai tháng. Đó là một sáng Chủ nhật yên tĩnh, chúng tôi đang nằm trên giường. Nàng kể một hồi lâu về thời thơ ấu, như thể gỡ dần một sợi chỉ rối, thỉnh thoảng lại ngừng để đánh giá tầm quan trọng của từng sự kiện nàng vừa thổ lộ. Đó là lần đầu tiên nàng kể nhiều đến vậy về mình. Trước buổi sáng hôm đó tôi hầu như chẳng biết gì về gia đình hay thời thơ ấu của nàng. Tôi biết tính nàng trầm lặng, rằng nàng thích vẽ, rằng nàng có mái tóc dài thật đẹp, rằng nàng có hai cái bớt trên bả vai phải. Và rằng tôi là người đàn ông đầu tiên trong đời nàng.

Nàng vừa kể vừa khóc thút thít. Tôi hiểu tại sao nàng cần phải khóc. Tôi ôm nàng trong vòng tay, vuốt tóc nàng.

- Nếu chị ấy còn sống, em tin chắc anh sẽ yêu chị ấy, - Kumiko nói. - Hồi xưa ai cũng yêu chị ấy. Vừa thấy lần đầu là đã yêu ngay.

- Có thể, - tôi nói. - Nhưng anh lại phải lòng em. Chuyện ấy đơn giản lắm mà. Chỉ có anh và em thôi. Chị của em chẳng có liên quan gì ở đây hết.

Kumiko nằm đó một hồi mà ngẫm nghĩ. 7 giờ rưỡi sáng Chủ nhật: khi mọi âm thanh đều êm dịu và nhẹ bỗng. Tôi nghe tiếng bồ câu vỗ cánh bay ngang qua mái căn hộ của tôi, ai đó gọi chó ở xa xa. Kumiko nhìn không rời mắt vào một điểm duy nhất trên trần nhà.

- Này, nói em nghe, anh có thích mèo không?

- Có chứ, anh mê mèo lắm, - tôi nói. - Hồi nhỏ lúc nào anh cũng có một con mèo. Anh chơi với nó suốt, ngủ cũng ôm mèo.

- Hay quá! Từ nhỏ em đã thích có mèo đến chết được. Nhưng người ta không cho em nuôi. Mẹ em ghét mèo. Cả đời chưa bao giờ em thử cố sao cho có được cái mình muốn cả. Chưa một lần nào cả. Anh có tin được không? Anh không thể hiểu sống như vậy là thế nào đâu. Khi anh đã quen với cuộc sống đó rồi - không bao giờ có được cái mình muốn - thì anh sẽ không còn biết mình muốn gì nữa.

Tôi nắm tay nàng.

- Có thể từ trước đến giờ với em là vậy. Nhưng em không còn là trẻ con nữa. Em có quyền chọn cho mình một cuộc sống riêng. Em có thể bắt đầu lại. Nếu muốn có mèo, em chỉ việc chọn một cuộc sống mà trong đó em có một con mèo. Đơn giản thôi mà. Đó là quyền của em... đúng không?

Mắt nàng nhìn chăm chắm vào tôi.

- Ừ... đúng vậy.

Vài tháng sau, Kumiko và tôi bàn chuyện cưới nhau.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:08:58 | Xem tất


Nếu thuở thiếu thời của Kumiko trong căn nhà đó què quặt, nặng nề, thì thời thơ ấu của Wataya Noburu lại méo mó đến độ phi tự nhiên theo một cách khác. Cha mẹ yêu thằng con duy nhất đến mức cuồng si, nhưng họ không chỉ nâng niu, vồ vập thằng bé mà còn đòi hỏi ở nó nhiều thứ. Người cha tin chắc như đinh đóng cột rằng cách duy nhất để có một cuộc sống sung túc trong xã hội Nhật là phải đạt được những thành tích cao nhất đồng thời gạt bỏ bất cứ ai hay bất cứ cái gì chắn ngang đường tiến thân của ta. Ông ta tin chắc vào triết lý đó với một niềm tin sắt đá.

Chẳng bao lâu sau khi cưới Kumiko, tôi nghe được những lời như vậy từ chính ông ta. Con người ta sinh ra vốn không bình đẳng, ông ta nói. Lý tưởng bình đẳng này nọ nghe thì phải đạo, song chỉ là những thứ vớ vẩn người ta dạy ở trường. Nhật Bản có một thể chế chính trị dân chủ, nhưng đồng thời cũng là một xã hội phân chia giai cấp theo một thứ luật rừng khốc liệt, cá lớn nuốt cá bé, thành thử nếu không trở thành một kẻ trong tầng lớp tinh hoa thì sống ở cái xứ này chẳng để làm gì. Anh sẽ bị nghiền nát thành cám. Anh phải giành giật từng nấc thang một để leo lên, leo lên mãi. Cái tham vọng này hoàn toàn lành mạnh. Nếu người ta đánh mất tham vọng đó, nước Nhật sẽ tiêu vong. Tôi không đưa ra ý kiến gì đáp lại quan điểm của bố vợ. Mà ông ta cũng chả cần nghe ý kiến của tôi. Đơn giản là ông ta tuôn ra niềm tin của mình, cái niềm tin ông cho tin là ngàn đời cũng không đổi.

Mẹ của Kumiko là con gái một quan chức cao cấp. Bà lớn lên ở Yamanote, khu thượng lưu của Tokyo, chưa bao giờ thiếu thốn thứ gì, cũng chẳng có một ý kiến hay tính cách nào để đối chọi lại ông chồng. Theo như tôi thấy, bà ta không có ý kiến về bất cứ sự kiện hay sự vật gì nếu nó không bày ra ngay trước mặt bà ta (nói cho ngay, bà ta bị cận thị cực nặng). Còn nhỡ có lúc nào đó buộc phải phát biểu ý kiến về một cái gì đó nằm ngoài tầm nhìn của mình, bà ta lại vay mượn ý kiến chồng. Giá như bà ta chỉ có vậy thì cũng chẳng làm phiền ai, song, cũng như hầu hết các phụ nữ tương tự, bà ta mắc chứng hợm hĩnh không thể nào chịu nổi. Những kẻ như vậy không có thang giá trị nào cho riêng mình mà chỉ có thể tìm được chỗ đứng trong thiên hạ bằng cách vay mượn các chuẩn mực hoặc quan điểm của người khác. Nguyên lý duy nhất chi phối tâm trí họ là "Mình trông thế nào trong mắt thiên hạ?". Thế nên bà Wataya trở thành một phụ nữ hẹp hòi, bộp chộp, chẳng quan tâm đến gì khác ngoài địa vị của chồng mình trong chính phủ và thành tích học hành của đứa con trai. Mọi thứ khác không có ý nghĩa gì với bà ta hết.

Thế là ông cha bà mẹ ra sức nhồi nhét cái triết lý đáng ngờ và thế giới quan méo mó của họ vào đầu cậu bé Wataya Noburu. Họ nhồi sọ nó, cho nó học những gia sư tốt nhất mà họ mua được bằng tiền. Mỗi khi nó đạt thứ hạng cao, họ lại thưởng bằng cách mua cho nó bất cứ thứ gì nó muốn. Thời thơ ấu của nó đầy ứ xa hoa vật chất, nhưng khi đến giai đoạn có những rung động và cảm xúc đầu đời, cậu bé chẳng lấy đâu ra thì giờ cho bạn gái, chẳng có dịp nào đi chơi với lũ bạn trai. Cậu phải trút toàn bộ sức lực vào việc duy trì vị trí số một. Wataya Noburu có thích cuộc sống đó chăng, tôi không biết. Kumiko cũng không. Wataya Noburu không phải loại người hay thổ lộ cảm xúc với người khác: không thổ lộ với em gái, không bộc bạch với cha mẹ, không cởi mở với bất kỳ ai. Vả chăng, anh ta chẳng có lựa chọn nào khác. Tôi thấy hình như có những phương thức suy nghĩ giản đơn và một chiều đến nỗi ta không thể nào cưỡng lại được. Dù thế nào, Wataya Noburu cũng đã tốt nghiệp trường tư dành cho giới thượng lưu, thi đỗ vào khoa kinh tế Đại học Tokyo và tốt nghiệp ngôi trường danh giá này với thứ hạng danh giá nhất.

Người cha muốn rằng tốt nghiệp đại học xong anh ta vào làm việc trong chính phủ hay một tập đoàn hàng đầu nào đó, nhưng Wataya lại quyết định theo con đường học thuật và trở thành học giả. Anh ta không phải thằng ngốc. Anh ta biết, môi trường thích hợp với mình không phải là cái thế giới nơi anh ta phải giải quyết các vấn đề thực tiễn cùng với những người khác, mà là cái thế giới đòi hỏi sử dụng tri thức một cách có kỷ luật và hệ thống, cái thế giới đề cao kỹ năng cá nhân của người trí thức. Anh ta theo học năm thứ hai sau đại học ở Yale rồi trở lại theo chương trình nghiên cứu sinh ở Tokyo. Vâng lời cha mẹ, anh ta lấy vợ, đám cưới do hai nhà sắp đặt, nhưng cuộc hôn nhân kéo dài không quá hai năm. Sau khi ly dị, anh ta lại về sống với cha mẹ. Cho tới khi tôi gặp anh ta lần đầu, Wataya Noburu đã là một tay dở dở ương ương, một thằng cha không thể nào ưa nổi.

Sau khi tôi cưới Kumiko được hai năm, Wataya Noburu xuất bản một cuốn sách to, dày. Đó là một công trình nghiên cứu kinh tế đầy rẫy thuật ngữ chuyên môn; tôi đã cố đọc, nhưng đã không thể hiểu tí gì những điều anh ta nói. Không hiểu nổi lấy một trang. Tôi chẳng biết là do nội dung quá khó với tôi hay do tác giả viết tồi. Thế nhưng dân trong ngành thì khen lấy khen để. Một tay điểm sách tuyên bố đây là "một loại công trình kinh tế hoàn toàn mới được viết từ một quan điểm hoàn toàn mới", nhưng đọc hết bài điểm sách tôi cũng chỉ hiểu được mỗi một câu đó thôi. Chẳng bao lâu giới truyền thông bắt đầu giới thiệu anh ta là "người hùng của thời đại mới". Hàng đống sách ra đời để diễn giải cuốn sách của anh ta. Hai thành ngữ anh ta chế ra, "kinh tế tính dục" và "kinh tế bài tiết" trở thành câu đầu lưỡi của thiên hạ. Báo và tạp chí đăng trên trang nhất những bài viết về anh ta như một trong các trí thức của thời đại mới. Tôi không tin rằng chính tác giả mấy bài báo đó thật sự hiểu Wataya Noburu nói gì trong cuốn sách của anh ta. Thậm chí tôi ngờ rằng họ chưa hề giở cuốn sách đó ra lần nào nữa kia. Nhưng điều đó chẳng làm họ bận tâm chút nào hết. Wataya Noburu còn trẻ, độc thân, và đủ thông minh để viết một cuốn sách không ai hiểu.

Nó làm anh ta nổi tiếng. Các tạp chí đua nhau mời anh ta viết bài. Anh ta xuất hiện trên truyền hình để bình luận về các vấn đề chính trị và kinh tế. Chẳng mấy chốc anh ta trở thành thành viên thường trực của các chương trình thảo luận bàn tròn về chính trị. Những ai từng biết Wataya Noburu (trong đó có Kumiko và tôi) không thể nào hình dung anh ta lại thích hợp với trò phô phang trước người khác đến vậy. Ai cũng đinh ninh anh ta là loại người thuần túy sách vở, chả quan tâm đến bất cứ gì ngoài lĩnh vực chuyên môn. Nhưng hóa ra, bước vào thế giới truyền thông, anh ta nhập vai mới thật dễ dàng, còn tỏ ra khoái trá là khác. Anh ta không hề nao núng khi bị ống kính quay phim chĩa vào mình. Thậm chí trước ống kính anh ta trông còn thoải mái ung dung hơn cả trong thế giới thực. Chúng tôi vô cùng sửng sốt quan sát sự biến hình đột ngột của anh ta. Gã Wataya Noburu chúng tôi thấy trên truyền hình vận những bộ com lê đắt tiền, cà vạt chọn kỹ không chê vào đâu được, đeo kính gọng đồi mồi. Anh ta để kiểu tóc mới nhất. Rõ ràng anh ta được chăm sóc bởi một tay làm đầu chuyên nghiệp. Tôi chưa thấy anh ta khoe bộ cánh chảnh chọe đến thế bao giờ. Mà thậm chí nếu bộ cánh đó là do hãng truyền hình bắt anh ta mặc thì anh ta cũng đã khoác lên người một cách hết sức tự nhiên, như thể suốt đời anh ta vẫn luôn ăn mặc thế. Con người này là ai vậy? Tôi đã tự hỏi khi lần đầu tiên gặp anh ta. Wataya Noburu đích thực ở đâu?

Trước ống kính anh ta đóng vai Người Ít Nói. Mỗi khi ai hỏi ý kiến, anh ta trả lời đơn giản, rõ ràng, chính xác và súc tích. Khi cuộc tranh luận nóng lên và những người khác vận hết gân cổ mà gào, anh ta vẫn bình thản. Khi bị tấn công bằng những câu hỏi gai góc, anh ta điềm tĩnh, mặc đối phương muốn nói gì thì nói, sau đó chỉ cần buông một câu duy nhất là đập tan mọi lý lẽ của y. Anh ta học được cái nghệ thuật giữ cho giọng nói vẫn đều đều, nụ cười vẫn trên môi mà tung ra ngón đòn chí mạng. Trên màn ảnh truyền hình, anh ta có vẻ thông minh và đáng tin cậy hơn nhiều so với Wataya Noburu trong thực tế. Tôi không biết làm sao anh ta đạt được như vậy. Anh ta không điển trai, nhưng cao ráo, mảnh dẻ, phong thái đường hoàng, rõ con nhà dòng dõi. Bằng phương tiện truyền hình, Wataya Noburu đã tìm được đúng chỗ cho mình. Truyền thông đại chúng dang rộng tay chào đón anh ta, và anh ta cũng chào đón nó nồng nhiệt như thế.

Thế nhưng tôi không thể nào chịu nổi cái bộ dạng anh ta, dù trên báo hay trên truyền hình. Anh ta là người có tài, có năng lực, tôi không phủ nhận. Tôi nhận thấy quá rõ là khác. Anh ta biết cách quật nốc ao đối thủ một cách chóng vánh và hiệu quả chỉ bằng một vài lời. Anh ta có cái bản năng của loài thú là đánh hơi chiều gió. Nhưng nếu để ý kỹ những gì anh ta nói hay viết, ta sẽ thấy lời lẽ anh ta thiếu sự nhất quán. Chúng không hề phản ánh một thế giới quan duy nhất dựa trên một niềm tin sâu sắc. Thế giới của anh ta là một thế giới mà anh ta dựng nên bằng cách lắp ghép vài ba hệ tư tưởng một chiều. Nếu cần, anh ta có thể xào xáo lại cái kết cấu đó để tạo ra một hệ quan điểm mới trong nháy mắt. Đó là những trò biến dị và tổ hợp tư duy rất tài tình, thậm chí phải nói là đầy nghệ thuật. Nhưng với tôi, tất cả những cái đó chỉ là một trò chơi, không hơn không kém. Nếu trong các quan điểm của anh ra có cái gì đó gọi là nhất quán, ấy là cái sự trước sau như một chẳng có gì nhất quán, và nếu anh ta có một thế giới quan thì thế giới quan đó có thể gọi là "tôi chẳng có thế giới quan nào sất". Nhưng chính những sự thiếu vắng đó lại là hành trang trí tuệ của anh ta. Sự nhất quán và một thế giới quan vững chắc chỉ là những thứ thừa thãi không cần thiết trong những cuộc giao đấu trí tuệ diễn ra trong một thời lượng ngắn ngủi trên truyền hình, thành thử không có những cái đó hóa ra lại là ưu thế lớn của anh ta.

Anh ta chẳng có gì để bảo vệ, nghĩa là anh ta có thể hoàn toàn chú tâm vào những "hành vi giao chiến" thuần tuý. Anh ta chỉ cần tấn công, chỉ cần hạ nốc ao đối thủ. Wataya Noburu là một con tắc kè trí thức, đổi màu tuỳ theo màu của đối thủ, biết điều chỉnh các lập luận logic của mình tùy từng trường hợp sao cho đạt hiệu quả tối đa, và làm các lập luận đó vững chắc hơn bằng tài hùng biện. Tôi không biết làm cách nào anh ta học được những kỹ năng đó, nhưng rõ ràng anh ta có biệt tài thu hút cảm tình của đám đông khán giả. Anh ta biết cần dùng loại lập luận nào có khả năng tác động mạnh nhất đến số đông. Mà các lập luận đó cũng chẳng cần phải có logic, chúng chỉ cần có vẻ như thế, điều quan trọng là chúng đánh vào tâm tư tình cảm người xem.

Một thế mạnh khác của anh ta là phô thuật ngữ chuyên môn. Dĩ nhiên chẳng ai biết mấy thuật ngữ ấy có ý nghĩa gì, nhưng anh ta có khả năng đưa chúng ra với cái vẻ như nếu bạn không hiểu thì tại bạn thôi. Anh ta lại còn luôn trích dẫn số liệu thống kê. Những số liệu ấy nằm sẵn trong đầu anh ta, chúng khiến cho lý lẽ anh ta càng có sức thuyết phục, nhưng nếu về sau nghĩ lại, ta sẽ nhận ra rằng chẳng ai đặt nghi vấn về nguồn hoặc tính tin cậy của các số liệu đó cả.

Những thủ thuật tinh khôn của anh ta thường khiến tôi điên tiết, nhưng tôi chưa bao giờ giải thích được với người khác cụ thể cái gì làm tôi bực bội. Tôi chưa khi nào dựng được một lý lẽ đủ sức quật lại anh ta. Chẳng khác gì đấu quyền Anh với một bóng ma: những quả đấm của ta chỉ vụt vào khoảng không. Tôi bị sốc khi thấy ngay những vị thức giả tinh tường nhất cũng bị cuốn vào cuộc chơi của anh ta. Điều đó khiến tôi khó chịu một cách kỳ lạ.

Thế là Wataya Noburu dần dần được coi như một trong những nhân vật trí thức sáng láng nhất thời đại. Dường như chẳng còn ai để ý đến sự nhất quán này nọ nữa. Cái duy nhất mà họ quan tâm khi bật tivi lên là cuộc giao tranh giữa các võ sĩ giác đấu trên đấu trường tri thức, máu họ đổ ra càng đỏ càng hay. Và nếu như cùng một người đó hôm thứ Hai nói một điều còn đến thứ Năm lại nói một điều hoàn toàn ngược lại thì cũng chẳng sao.

° ° °


Tôi gặp Wataya Noburu lần đầu khi Kumiko và tôi quyết định lấy nhau. Tôi muốn nói chuyện với anh ta trước khi gặp cha nàng. Tôi cứ đinh ninh rằng, do là người trạc tuổi tôi, anh ta hẳn sẽ giúp phần nào đó để buổi nói chuyện với cha nàng được suôn sẻ.

- Em e rằng anh không thể trông mong anh ấy giúp đâu, - Kumiko nói, chẳng hiểu sao có vẻ ngập ngừng thấy rõ. - Nói sao cho anh hiểu đây... Anh ấy không phải loại người đó.

- Trước sau gì anh cũng phải gặp anh ấy kia mà, - tôi nói.

- Ừ thì thế.

- Cứ thử gặp xem sao. Ở đời việc gì chả vậy, có thử mới biết được.

- Thôi được. Mình cứ thử xem.

Qua điện thoại Wataya Noburu chẳng tỏ ra nhiệt tình cho lắm về việc gặp tôi. Nhưng nếu cậu khẩn khoản xin gặp thì tôi có thể dành cho cậu nửa giờ, anh ta nói. Chúng tôi quyết định gặp nhau ở một quán cà phê gần ga Ochanomizu. Hồi đó anh ta chỉ mới là trợ giảng ở đại học, hãy còn chưa viết cuốn sách và hóa ra đỏm dáng như mãi sau này. Mấy chiếc túi áo khoác của anh ta bục tung, chắc vì thói quen thọc hai nắm tay vào đó quá lâu. Tóc anh ta lẽ ra phải tỉa bớt từ hai tuần trước. Chiếc sơ mi thể thao màu tương mù tạc của anh ta hoàn toàn không đi với chiếc áo khoác hàng hải bằng vải tuýt xanh xám. Anh ta có cái dáng điển hình của những tay trợ giảng ở trường đại học mà với họ tiền là một thứ gì rất ư xa lạ. Mắt anh ta có cái vẻ ngái ngủ của những người vừa mới chui từ thư viện ra sau khi miệt mài nghiên cứu cả ngày giữa hàng đống sách, song nếu nhìn kỹ sẽ còn thấy một ánh lạnh lùng, sắc như dao trong cặp mắt đó.

Tự giới thiệu xong, tôi nói tôi đang dự định cưới Kumiko trong thời gian tới. Tôi cố giải bày mọi chuyện hết sức chân thành. Tôi bảo tôi đang làm việc cho một hãng luật, nhưng tôi biết công việc đó không phù hợp với mình. Tôi vẫn đang tìm kiếm chính mình. Người như tôi mà tính chuyện lấy vợ thì nghe có vẻ điên rồ, nhưng tôi nói tôi yêu Kumiko, và tôi tin mình có thể làm nàng được hạnh phúc. Hai chúng tôi có thể mang lại sức mạnh và niềm an ủi cho nhau.

Lời của tôi xem ra chẳng có tác dụng gì với Wataya Noburu. Anh ta ngồi khoanh tay, lẳng lặng nghe. Thậm chí sau khi tôi đã nói xong, anh ta vẫn ngồi im như phỗng thêm một hồi lâu, như đang mải nghĩ chuyện khác.

Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy lúng túng với sự hiện diện của anh ta, nhưng tôi cho rằng đó là do tình huống tế nhị. Hẳn ai cũng sẽ lúng túng khi phải nói với một kẻ hoàn toàn xa lạ: "Tôi muốn cưới em gái anh làm vợ". Nhưng khi ngồi đối diện anh ta, cái cảm giác lúng túng đó từ từ dâng lên thành một nỗi khó chịu trong tôi. Cảm giác đó giống như có một khối vật chất lạ đang lên men chua loét trong dạ dày mình. Chẳng phải vì lời lẽ hay cử chỉ anh ta có gì đó xúc phạm tôi. Vấn đề là bộ mặt: chính cái bộ mặt của Wataya Noburu. Tôi có linh cảm rằng bộ mặt đó được che giấu dưới một lớp gì đó hoàn toàn khác. Có gì đó không ổn. Đó không phải bộ mặt thật của anh ta. Tôi không sao rũ bỏ được cảm giác đó.

Tôi muốn đứng dậy đi khỏi ngay, càng xa càng tốt. Tôi đã định làm vậy thật, nhưng đâm lao thì phải theo lao, mình đã trót khơi mào câu chuyện thì phải ngồi cho rốt. Thế là tôi vẫn ngồi, vừa nhấp tách cà phê đã nguội vừa chờ anh ta nói cái gì đó.

Khi cất lời, dường như anh ta cố tình điều chỉnh giọng mình nhỏ lại nhằm tiết kiệm năng lượng.

- Thật tình mà nói, tôi không hiểu mà cũng chả quan tâm tới những chuyện cậu vừa nói với tôi. Những gì tôi quan tâm thuộc về một cấp độ hoàn toàn khác, những thứ mà tôi tin chắc cậu không hiểu mà cũng chẳng quan tâm tới. Để nói càng ngắn gọn càng tốt, nếu cậu yêu Kumiko và cô ấy muốn lấy cậu thì tôi không có quyền cũng chẳng có lý do gì để ngăn cản. Vì vậy tôi sẽ không ngăn cản. Tôi chẳng buồn nghĩ tới việc đó nữa là. Nhưng mặt khác, cậu cũng đừng trông mong gì hơn ở tôi. Và quan trọng nhất là, đừng mong tôi phí thêm thời gian vào việc này nữa.

Anh ta xem đồng hồ rồi đứng dậy. Lời tuyên bố của anh ta thật ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề. Không thừa, không thiếu. Tôi hiểu rành mạch cả điều anh ta muốn nói lẫn những gì anh ta nghĩ về tôi.

Chúng tôi chia tay nhau như thế.

Sau khi Kumiko và tôi lấy nhau, Wataya Noburu trở thành anh vợ tôi, thành thử có nhiều lúc tình huống buộc tôi và anh ta phải trao đổi vài lời tuy không hẳn là trò chuyện. Như anh ta có lần nói, hai chúng tôi chẳng có gì chung, nên dù chúng tôi nói gì thì nói những khi giáp mặt nhau, những lời đó không bao giờ phát triển thành một cuộc trò chuyện được. Chả khác gì hai người nói hai thứ tiếng khác nhau vậy. Giả sử Đạt lai lạt Ma đang nằm hấp hối trên giường trong khi nghệ sĩ nhạc jazz Eric Dolphy ra sức giải thích cho ngài về tầm quan trọng của việc chọn đúng loại dầu máy ô tô phù hợp với những thay đổi của âm sắc kèn clarinet bass, cuộc đối thoại đó có khi còn hữu ích và hiệu quả hơn những trao đổi dăm câu ba chữ giữa tôi và Wataya Noburu.

Tôi hiếm khi mang những tình cảm tiêu cực kéo dài do gặp phải người này hay người nọ. Dĩ nhiên, ai đó có thể làm tôi cáu tiết hoặc khó chịu, nhưng chuyện đó chóng qua. Tôi có thể phân biệt bản thân mình với những người khác như là những sinh thể thuộc hai cảnh giới hoàn toàn khác nhau. Cái khả năng đó có thể gọi là một thứ tài năng (nói thế hoàn toàn không phải là khoác lác; làm được vậy không dễ chút nào, phải có tài, có năng lực đặc biệt mới được). Mỗi khi ai đó gây tác động đến thần kinh tôi, việc đầu tiên tôi làm là chuyển đối tượng của những cảm xúc khó chịu của tôi sang một bình diện khác, một bình diện hoàn toàn không có liên hệ gì với tôi. Thế rồi tôi tự nhủ: Được thôi, mình đang thấy khó chịu, nhưng mình đã chuyễn cái gốc của những cảm xúc khó chịu đó vào một vùng khác, cách đây rất xa, khi nào rảnh rỗi mình hẵng kiểm tra, phân tích nó sau. Nói cách khác, tôi phong bế cảm xúc của mình. Về sau, khi quay lại để xem xét, thỉnh thoảng tôi cũng thấy cảm xúc của mình vẫn còn trong tình trạng tiêu cực, cơn tức tối hay nỗi khó chịu vẫn còn, nhưng trường hợp đó rất hiếm. Thường thì sau một thời gian, cái độc tố trong những cảm xúc tiêu cực sẽ bị trung hòa và trở nên vô hại, thành thử dù sớm hay muộn tôi cũng sẽ quên chúng đi.

Từ trước đến giờ tôi vẫn có khả năng giữ cho thế giới nội tại của mình ở trạng thái ít nhiều ổn định và bình an, tránh hầu hết những phiền toái không cần thiết bằng cách kích hoạt cái hệ thống kiểm soát cảm xúc này. Duy trì được hiệu quả cao của cái hệ thống đó suốt ngần ấy năm qua là một niềm tự hào của tôi.

Thế nhưng, khi gặp Wataya Noburu, cái hệ thống của tôi từ chối hoạt động. Tôi không tài nào đẩy bật được Wataya Noburu vào một cõi khác không có liên hệ gì đến tôi. Ngược lại thì có - Wataya Noburu làm được điều đó với tôi. Chuyện đó khiến tôi cáu tiết. Dĩ nhiên, cha của Kumiko là kẻ khó chịu và ngạo mạn. Song, xét cho cùng, ông ta chỉ là điển hình cho loại người có tầm nhìn thiển cận, khư khư bám lấy những xác tín hẹp hòi. Người như vậy thì tôi quên được. Nhưng Wataya Noburu thì không. Anh ta biết rõ mình là ai, và cũng biết rất rõ tôi là cái hạng gì. Nếu thích, anh ta có thể nghiền nát tôi thành cám dưới gót giày. Lý do duy nhất anh ta không làm vậy là anh ta hoàn toàn chẳng mảy may bận tâm tới tôi. Thậm chí cái thằng tôi không đáng cho anh ta bỏ thời gian công sức để nghiền nát ra nữa kìa. Chính vì vậy mà tôi căm tức anh ta. Anh ta là một con người đê tiện, một tên ích kỷ rỗng tuếch ở bên trong. Thế nhưng anh ta lại là kẻ tài năng gấp bội so với tôi.

Sau lần gặp đầu tiên đó, trong mồm tôi có một cái vị khó chịu mãi không chịu hết. Cứ như ai đó đã tọng vào mồm tôi một dúm bọ thối hoẵng vậy. Có nhổ ra cũng vô ích: cái mùi đó vẫn nồng nặc trong mồm. Ngày này qua ngày khác, tôi không sao tống khứ Wataya Noburu ra khỏi đầu được. Tôi cố nghĩ đến cái gì khác, nhưng vô ích. Tôi đi xem phim, nghe hoà nhạc. Thậm chí tôi đi chơi bóng chày với đồng nghiệp ở công ty. Tôi uống rượu, tôi đọc những cuốn sách đã muốn đọc từ lâu nếu có thời gian. Nhưng Wataya Noburu vần lù lù đó, khoang tay, nhìn tôi với cặp mắt nham hiểm, dường như hút lấy tôi tựa một cái đầm lầy không đáy. Điều đó khiến thần kinh tôi sôi sục, như làm rung rinh mặt đất dưới chân tôi.

Khi gặp Kumiko sau đó, nàng hỏi tôi có ấn tượng thế nào về ông anh trai. Tôi không thể thành thật trả lời nàng được. Tôi muốn hỏi về chiếc mặt nạ hắn ta mang, về "cái gì đó" bị vặn xoắn một cách phi tự nhiên ẩn dưới cái mặt nạ đó. Tôi muốn kể với nàng tất cả những gì tôi nghĩ về anh trai nàng. Nhưng tôi chẳng nói gì. Tôi cảm thấy mình sẽ không bao giờ có thể truyền đạt những điều đó với nàng, rằng nếu tôi không thể diễn đạt ý mình một cách rõ ràng thì tốt hơn là đừng để lộ gì cả.

- Anh ấy đúng là khác người thật, - tôi nói. Tôi muốn bổ sung gì đó, nhưng không tìm ra lời. Nàng cũng không gặng hỏi thêm, chỉ im lặng gật đầu.

Cảm giác của tôi về Wataya Noburu từ đó đến nay vẫn không thay đổi. Anh ta vẫn tiếp tục khiến thần kinh tôi phừng phừng như trước; nó như một cơn sốt nhẹ chẳng bao giờ chịu buông tha tôi. Nhà tôi chưa bao giờ có tivi, nhưng không hiểu vì sự ngẫu nhiên kỳ quái thế nào mà dù ở bất cứ đâu, mỗi khi tôi nhìn tivi là lại thấy Wataya Noburu đang chễm chệ trên đó mà phát ngôn với khán giả. Hễ tôi ngồi đợi trong phòng khám bác sĩ, cầm tờ tạp chí lên mà lật bâng quơ thì y như rằng có bức ảnh Wataya Noburu ở đó, cùng với một bài anh ta viết. Tôi cảm thấy như thể trong từng ngóc ngách của cả thế giới này đều có Wataya Noburu chực sẵn đợi tôi.

Đành vậy. Phải chấp nhận thực tế. Tôi căm ghét cái gã này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:11:39 | Xem tất


Chương 7

Hiệu Giặt Là Hạnh Phúc

Kano Creta Xuất Hiện


Tôi mang một chiếc blouse và một chiếc váy của Kumiko đến hiệu giặt cạnh nhà ga. Thường thì tôi mang quần áo bẩn tới hiệu giặt ngay góc phố gần nhà, không phải vì thích chỗ đó hơn mà đơn giản là gần hơn. Thỉnh thoảng Kumiko cũng đến hiệu giặt gần nhà ga. Buổi sáng đi làm nàng ghé qua đó vứt quần áo bẩn, chiều về thì tạt vào lấy. Chỗ này đắt hơn một chút, nhưng theo Kumiko thì họ giặt sạch hơn chỗ gần nhà. Những bộ đồ đẹp nhất, nàng luôn luôn mang tới đó giặt dù hơi bất tiện. Chính vì vậy mà hôm đó tôi quyết định đạp xe đến đó, vì tôi nghĩ nàng hẳn sẽ thích giặt đồ của mình ở đó hơn.

Ra khỏi nhà, tôi mặc quần vải bông mỏng màu xanh lá cây, mang đôi giày tennis muôn thuở, vận áo thun màu vàng dành cho các fan của Van Hallen mà Kumiko được một hãng băng đĩa tặng. Chủ hiệu giặt hôm nay vẫn mở dàn JVC to hết cỡ như khi tôi đến lần trước. Sáng nay anh ta nghe một đĩa của Andy Williams. Khi tôi bước vào, Bài hát đám cưới ở Havaii vừa dứt và Hoàng hôn Canada mới dạo đầu. Vừa vui vẻ huýt sáo theo tiếng nhạc, chủ nhân vừa hí hoáy viết gì đó vào sổ bằng bút bi, động tác của anh ta vẫn mạnh mẽ, quả quyết như lần trước. Trên chồng đĩa chất trên giá, tôi thấy những cái tên như Sergio Mendes, Berr Laempert và ban 101 Strings. Hẳn anh ta là người mê thể loại jazz nhẹ. Bỗng dưng tôi nghĩ: những tín đồ thứ thiệt của loại jazz "nặng đô" như Albert Ayler, Don Cherry, Cecil Taylor hẳn sẽ không bao giờ trở thành chủ một hiệu giặt gần nhà ga. Nhưng cũng có thể họ làm được. Chỉ có điều họ sẽ không là một ông chủ hiệu giặt vui vẻ và hạnh phúc.

Khi tôi đặt chiếc blouse màu xanh có in hoa và chiếc váy màu xanh xám nhạt lên quầy, anh ta trải rộng ra xem qua rồi viết lên biên lai "blouse và váy". Chữ viết anh ta rõ ràng, nắn nót. Tôi thích những chủ hiệu giặt viết chữ rõ ràng. Và nếu họ thích Andy Williams thì lại càng hay.

- Ông Okada phải không? - Tôi đáp rằng phải. Anh ta viết tên tôi, xé liên thứ nhì đưa cho tôi. - Thứ Ba tuần sau có, lần này ông đừng quên ghé lấy đấy nhé. Mấy món này của bà Okada phải không?

- Ừ.

- Màu đẹp lắm, - anh ta nói.

Bầu trời trĩu mây xám xịt. Dự báo thời tiết cho hay sẽ có mưa. Đã quá 9 rưỡi sáng, nhưng vẫn còn rất nhiều người che ô xách cặp vội vã bước về phía các bậc tam cấp nhà ga. Ấy là những người đi làm muộn. Buổi sáng nóng nực và ẩm ướt, nhưng điều đó chẳng có gì khác với những người này, ai nấy đều chỉnh tề com lê, chỉnh tề cà vạt, chỉnh tề giày đen bóng. Tôi thấy nhiều người trạc tuổi tôi, nhưng chẳng ai trong họ diện áo thun Van Hallen. Mỗi ngườu đều đeo huy hiệu công ty trên ve áo, dưới nách cấp một tờ Thời báo Kinh tế Nhật bản. Chuông reo, nhiều người tất tả lao lên các bậc thang. Đã lâu tôi không nhìn thấy những người như vậy.

Đạp xe về nhà, bất chợt tôi nhận ra mình đang huýt sáo bản Hoàng hôn Canada.

Kano Malta gọi điện lúc 11 giờ trưa.

- Xin chào. Chẳng hay đây có phải nhà của ông Okada Toru không ạ? - cô ta hỏi.

- Vâng, tôi Okada Toru đây. - Ngay từ câu chào đầu tiên, tôi đã nhận ra Kano Malta.

- Tên tôi là Kano Malta. Lần trước ông thật tử tế đã nhận lời gặp tôi. Không biết chiều nay ông có dự định làm gì không?

- Không, tôi đáp. Tôi mà có kế hoạch gì thì chẳng khác nào con chim di cư có cổ phiếu vậy.

- Nếu vậy thì em gái tôi, Kano Creta, sẽ đến gặp ông lúc 1 giờ chiều.

- Kano Creta? - tôi hỏi bằng giọng khô khan.

- Vâng. Lần trước hẳn là tôi đã cho ông xem ảnh của cô ấy.

- Dĩ nhiên tôi nhớ. Chỉ có điều...

- Tên cô ấy là Kano Creta. Cô ấy sẽ đến gặp ông với tư cách đại diện của tôi. 1 giờ chiều có tiện cho ông không?

- Được, - tôi nói.

- Cô ấy sẽ đến, - Kano Malta nói rồi gác máy.

Kano Creta?

Tôi hút bụi sàn nhà rồi chỉnh trang nhà cửa đâu ra đó. Tôi cột hết báo thành một bó rồi ném vào trong tủ. Tôi cho những băng cát-xét vứt vung vãi vào hộp rồi xếp ngay ngắn lên giá. Tôi rửa hết chỗ bát đĩa chất đống trong bếp. Rồi tôi tắm vòi hoa sen, xịt dầu thơm, thay quần áo sạch. Tôi pha cà phê mới rồi ăn trưa; bánh sandwich với thịt xông khói và trứng luộc. Tôi ngồi trên ghế sofa mà đọc tờ Tạp chí gia đình, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ xem bữa tối sẽ nấu món gì. Tôi đánh dấu mục giới thiệu cách làm món xà lách bằng rong biển với đậu phụ, rồi viết các thứ cần dùng ra một tờ giấy đặng khi đi mua hàng thì cầm theo. Tôi mở radio. Micheal Jackson đang hát bài Billy Jean. Tôi nghĩ về hai chị em Kano Malta và Lano Creta. Hai chị em lấy hai cái tên đến là ngộ ngĩnh! Nghe cứ như một cặp nghệ sĩ hài vậy. Kano Malta, Kano Creta.

Cuộc sống của tôi đang chuyển hướng một cách kỳ lạ, đó là điều chắc chắn. Con mèo đi mất. Những cuộc gọi lạ lùng của một người đàn bà kỳ lạ. Tôi đã gặp một cô gái lạ, và bắt đầu lui tới một căn nhà không người ở. Wataya Noburu đã hãm hiếp Kano Creta. Kano Malta đã tiên đoán đúng rằng tôi sẽ tìm thấy cà vạt. Kumiko bảo tôi rằng tôi không cần phải kiếm việc làm.

Tôi tắt radio, trả tờ Tạp chí gia đình lên kệ sách rồi uống một tách cà phê khác.

° ° °


Kano Creta nhấn chuông đúng 1 giờ không sai một mảy may. Cô ta trông hoàn toàn giống như ảnh chụp: một phụ nữ nhỏ nhắn chừng 25, 26 tuổi, thuộc típ ngưới trầm lặng. Cô duy trì được một cách tài tình dáng vẻ của một phụ nữ thập niên sáu mươi. Cũng cái kiểu tóc "bồng" tôi từng thấy trong các bộ phim thời đó, đầu mút các sợi tóc hơi xoăn lên. Tóc trước trán hất ngược về phía sau, được giự lại bằng một cái kẹp tóc to, lấp lánh. Lông mày cô ta tô sắc nét bằng bút chì, mỹ phẩm làm tăng thêm bóng mờ bí ẩn cho cặp mắt, còn son môi tái tạo hoàn hảo cái màu được ưa chuộng vào thời đó. Trông như thể chỉ cần ấn vào tay cô ta một chiếc micro là lập tức cô sẽ cất tiếng hát Johnny Angel.

Cô ăn mặc giản dị hơn rất nhiều so với trang điểm. Một bộ đồ công sở đúng nghĩa, thực tế, không màu mè: áo blouse trắng, váy xanh lục bó sát, không nữ trang. Cô kẹp dưới nách một chiếc xắc sơn mài màu trắng, mang đôi giày trắng mũi nhọn bé tí. Đôi gót giày mảnh và sắc lẹm như đầu bút chì, trông như đồ chơi búp bê. Tôi hầu như muốn tỏ lời khen cô ta đã có thể đi đến nhà tôi trên đôi giày ấy.

Vậy là Kano Creta đây. Tôi dẫn cô vào nhà, mời cô ngồi lên sofa, đun lại ấm cà phê rồi rót cho cô một tách. Cô đã ăn trưa chưa? - tôi hỏi. - Trông cô có vẻ đói. Không, cô chưa ăn.

- Nhưng xin ông đừng lo, - cô ta vội nói thêm. - Buổi trưa tôi luôn ăn rất ít.

- Có thật không? Đừng khách sáo nhé. Làm vài cái sandwich thì có gì khó đâu. Tôi vẫn quen nấu nướng, làm việc này việc nọ mà.

Kamo Creta khẽ lắc đầu.

- Ông tử tế quá, nhưng thật tình tôi không ăn. Xin đừng lo. Một tách cà phê là đủ lắm rồi.

Song tôi vẫn dọn lên một đĩa bánh quy để phòng xa. Kano Creta ăn liền ngay bốn chiếc, tỏ vẻ rất ngon miệng. Tôi ăn hai chiếc rồi uống cà phê.

Cô ta có vẻ thoải mái hơn sau khi ăn bánh và uống cà phê.

- Hôm nay tôi đến đây với tư cách đại diện cho chị tôi, Kano Malta, - cô nói. Dĩ nhiên Kano Creta không phải là tên thật của tôi. Tên thật của tôi là Setsuko. Tôi lấy cái tên Creta từ khi làm trợ lý cho chị tôi. Biệt danh dùng trong công việc mà thôi. Creta là tên xưa của đảo Crete, nhưng tôi chẳng có liên quan gì đến đảo Crete cả. Tôi chưa đến đó bao giờ. Chị tôi đã lấy tên Malta, thành thử chị chọn tên Creta cho tôi để hai cái tên đi với nhau thành cặp. Chẳng hay ông đã tới đảo Crete bao giờ chưa, thưa ông Okada?

- Chẳng may là chưa, - tôi đáp. - Tôi chưa hề đến Crete mà cũng không định đến đó trong tương lai gần.

- Tôi thì muốn đến Crete một lúc nào đó, - Kano Creta vừa nói vừa gật đầu, vẻ hết sức nghiêm trang. - Crete là hòn đảo Hy lạp gần châu Phi nhất. Đó là một hòn đảo lớn, từng có một nền văn minh phồn thịnh vào thời cổ đại. Chị tôi Malta thì có đến Crete. Chị bảo nơi đó thật tuyệt. Gió mạnh, mật ong thì cực ngon. Tôi rất mê mật ong.

Tôi gật đầu. Tôi thì chẳng thích mật ong đến thế.

- Tôi đến đây là có một việc muốn nhờ ông, - Kano Creta nói. - Tôi muốn lầy một mẫu nước trong nhà ông.

- Nước? - tôi hỏi. - Cô muốn nói nước ở vòi ấy à?

- Nước ở vòi là được rồi, - cô ta nói. - Song nếu gần đây có cái giếng nào thì tôi cũng muốn lấy nước ở đó nữa.

- Tôi e rằng gần đây chẳng có cái giếng nào đâu. Thật ra thì có một cái, nhưng lại nằm trong sân nhà người khác, và lại cạn từ lâu rồi. Chẳng còn tí nước nào cả.

Kano Creta nhìn tôi với vẻ khó hiểu.

- Có đúng là cái giếng đó không còn nước không? Ông có chắc không?

Tôi nhớ lại âm thanh đùng đục khi Kasahara May ném viên gạch xuống cái giếng nơi căn nhà không người ở kia.

- Cái giếng ấy đúng là cạn mà. Tôi tin chắc thế.

- Tôi hiểu, - Kano Creta nói. - Thôi được. Tôi sẽ chỉ lấy nước ở vòi thôi, nếu ông không phiền.

Tôi dẫn cô ta xuống bếp. Từ trong chiếc túi xách sơn mài màu trắng cô ta rút ra hai cái lọ con, loại người ta vẫn cùng để đựng thuốc. Cô lấy nước vào đầy một lọ rồi đậy nắp lại hết sức cẩn thận. Cô bảo cô muốn lấy nước từ đường ống cấp nước cho bồn tắm. Tôi dẫn cô ta vào buồng tắm. Hoàn toàn không bối rối trước những chiếc đồ lót và tất chân mà Kumoko đang phơi trong đó, Kano Creta mở vòi nước đong đầy vào chai kia. Đậy nắp xong, cô lật úp lại để kiểm tra xem có bị rò không. Hai nắp lọ có phân màu rất rõ: màu xanh dương cho nước trong bồn tắm, màu xanh lục cho nước trong bếp.

Trở lại sofa ngoài phòng khách, cô ta cho hai cái lọ vào một túi đông lạnh nhỏ bằng nhựa, phong kín lại rồi cho túi nhựa vào chiếc xắc sơn mài, cái khóa kim loại với một tiếng cách khô khốc. Cử động của hai bàn tay cô hết sức thuần thục, rõ ràng cô đã làm việc này nhiều lần rồi.

- Cám ơn ông rất nhiều, - Kano Creta nói.

- Chỉ có thế thôi à? - tôi hỏi.

- Vâng, hôm nay thế là đủ, - cô nói. Cô vuốt thẳng váy, kẹp xắc vào dưới nách rồi dợm đứng dậy.

- Đợi chút đã, - tôi nói, hơi bối rối. Tôi không ngờ cô ta lại bỏ về đột ngột như vậy. - Cô có thể nán lại thêm một chút được không? Vợ tôi muốn biết con mèo đang ở đâu. Nó đi mất gần hai tuần nay rồi. Nếu cô có biết gì, xin cho tôi được rõ.

Vẫn kẹp chiếc xắc sơn mài màu trắng ở dưới nách, cô ta gật đầu nhanh mấy cái. Khi cô ta làm vậy, những đuôi tóc xoăn nhẹ của cô ta bập bềnh gợi nhớ đến sự thanh thoát của thập niên sáu mươi. Mỗi khi cô chớp mắt, hai hàng lông mi giả của cô động đậy lên xuống chậm rãi như những cái quạt cán dài trong tay các cô nô tì ở mấy bộ phim về Ai cập thời cổ đại.

- Nói thật với ông, chị tôi bảo đây sẽ là một câu chuyện dài hơn nhiều so với ta tưởng lúc đầu.

- Dài hơn ta tưởng lúc đầu?

Cụm từ "chuyện dài hơn" khiến tôi hình dung một cây sào dài cắm giữa sa mạc, ngút tầm mắt không còn bất cứ vật nào khác. Mặt trời càng lặn thì bóng sáo càng kéo dài ra, dài ra mãi, cho tới khi đầu mút của nó vươn ra xa tít đến nỗi mắt trần không thấy được.

- Chị ấy bảo vậy, - Kano Creta nói tiếp. - Chuyện này sẽ không chỉ dừng lại ở việc con mèo đi mất.

- Tôi không hiểu gì cả. Chúng tôi chỉ nhờ chị em cô mỗi một việc là tìm con mèo. Chỉ có thế thôi. Nếu con mèo đã chết, chúng tôi cũng muốn biết chắc. Tại sao "chuyện sẽ không dừng ở đó" chứ? Tôi chẳng hiểu gì hết.

- Tôi cũng không, - Kano Creta nói. Cô đặt tay lên chiếc kẹp tóc trên đầu, dịch về phía sau một chút. - Nhưng xin ông hãy tin ở chị tôi. Tôi không nói rằng chị ấy gì cũng biết. Nhưng một khi chị ấy đã báo "chuyện sẽ còn dài" thì nhất định là chuyện sẽ còn dài, ông hẵng biết cho như thế.

Tôi gật đầu, không nói gì. Tôi không thể nói thêm gì nữa.

- Thưa ông Okada, hiện giờ ông có bận gì không ạ? Ông có định làm gì từ đây cho đến hết buổi chiều không? - Nhìn thẳng vào mắt tôi, Kano Creta lại đổi giọng lễ phép kiểu cách.

- Không, - tôi nói, - tôi chẳng định làm gì cả.

- Vậy thì không biết ông có cảm phiền nghe tôi kể đôi điều về bản thân không? - Kano Creta hỏi. Cô ta đặt chiếc xắc sơn mài màu trắng xuống sofa rồi đặt hai bàn tay lên chiếc váy xanh, nơi đầu gối, tay nọ xấp trên tay kia. Móng tay cô cắt khéo, sơn màu hồng thật đẹp. Cô không đeo chiếc nhẫn nào.

- Vâng, xin mời cô cứ kể, - tôi nói. Và thế là dòng chảy cuộc đời tôi lại đang ngoặt sang những hướng ngày càng lạ lùng hơn nữa - như đã được tiên báo trước từ cái khoảnh khắc Kano Creta bấm chuông nhà tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:15:22 | Xem tất


Chương 8  
Chuyện Dài Của Kano Creta

Khảo Sát Bản Chất Của Cái Đau



- Tôi sinh ngày 29 tháng Năm, - Kano Creta bắt đầu kể, - và vào tối sinh nhật năm hai mươi tuổi, tôi quyết định tính sổ cuộc đời mình.

Tôi đặt một tách cà phê trước mặt cô. Cô cho kem vào rồi khuấy một cách uể oải. Không cho đường. Tôi thì uống cà phê đen, như mọi khi. Đồng hồ trên kệ sách tiếp tục gõ khô khốc lên bức tường thời gian.

Kano Creta nhìn chằm chằm vào tôi rồi nói:

- Không biết liệu tôi có nên kể từ đầu không - tôi sinh ra ở đâu, về gia đình tôi...

- Cô muốn kể gì cũng được, tuỳ cô thôi. Cô thấy kể thế nào tiện nhất thì cứ kể.

- Tôi là con thứ ba trong gia đình, - cô nói. - Chị Malta và tôi còn có một người anh trai. Cha tôi là chủ một bệnh viện ở tỉnh Kanawaga. Nhà tôi chẳng có gì gọi là những "vấn đề gia đình" mà chỉ là một gia đình bình thường như bao gia đình khác. Cha mẹ tôi rất nghiêm khắc, tin tưởng mạnh mẽ vào giá trị của lao động. Cha mẹ khá là khắt khe với ba anh em tôi, nhưng cũng cho chúng tôi có được đôi chút tự lập trong những chuyện nhỏ nhặt. Anh em tôi chẳng thiếu thốn thứ gì, song cha mẹ cho rằng không nên cho con cái có thừa tiền tiêu vào những thứ xa xỉ. Nói chung, từ bé cha mẹ đã dạy tôi sống thanh đạm.

Chị Malta lớn hơn tôi năm tuổi. Ở chị ngay từ bé đã có cái gì đó khác người. Chị ấy có khả năng tiên đoán nhiều chuyện. Chị biết ở phòng bao nhiêu đấy có bệnh nhân nào vừa chết, hoặc nếu ai đó đánh rơi ví thì chị biết chính xác tìm ở đâu sẽ thấy, vân vân. Đầu tiên ai cũng thích thú, cho rằng đó là một năng khiếu có ích, nhưng chẳng mấy chốc cha mẹ tôi lại đâm lo. Ba mẹ ra lệnh cho chị không được nói về "những việc không có cơ sở thực tế rõ ràng" khi có mặt người ngoài. Cha tôi lo là lo cho cái ghế giám đốc bệnh viện của mình, ông không muốn người ta nghe nói chuyện con gái ông có những khả năng siêu nhiên. Từ đó trở đi chị Malta tự khóa mồm mình. Chị không những thôi nói về "những việc không có cơ sở thực tế rõ ràng" mà còn hiếm khi dự phần vào những cuộc trò chuyện bình thường nhất.

Tuy nhiên, chị lại cởi mở tấm lòng với tôi. Hai chị em tôi rất thân nhau. Chị ấy thường dặn trước: "Đừng nói với ai là chị đã báo trước với em nhé", rồi chị sẽ khẽ khàng nói đại loại như là "Sẽ có một đám cháy dưới phố" hoặc "Sức khỏe của bà dì sống ở Setagaya sẽ còn tệ hơn nữa". Chị hễ đã nói là đúng. Hồi đó tôi còn nhỏ nên chỉ thích thú vô cùng. Tôi không thấy có gì đáng sợ hay kỳ quái cả. Thậm chí đến giờ tôi vẫn nhớ, tôi hay lẵng nhẵng bám theo chị từng bước, đòi chị nói cho nghe những lời "sấm truyền" của chị.

Chị càng lớn thì những năng lực đặc biệt kia càng mạnh, nhưng chị chẳng biết dùng chúng vào việc gì hay nuôi dưỡng chúng ra sao, điều đó khiến chị hết sức khổ sở. Chị không biết xin lời khuyên nhủ của ai, không biết nhờ ai chỉ dẫn xem chị làm gì. Điều đó khiến chị trở thành một cô bé rất cô độc. Chị phải tự mình giải quyết mọi việc. Chị phải tự mình tìm lời giải cho mọi vấn đề. Trong gia đình, chị không hạnh phúc. Chẳng có lấy một lần nào chị tìm được bình an trong tâm hồn. Chị phải đè nén năng lực của mình, ỉm chúng đi. Chẳng khác gì trồng một cái cây to lớn, mạnh mẽ trong một chiếc chậu con. Nó không tự nhiên. Không đúng chỗ. Chị chỉ biết mỗi một điều: cần phải thoát khỏi chỗ này, càng sớm càng tốt. Chị tin rằng ở nơi nào đó vẫn có một thế giới thích hợp với chị, nơi chị có thể sống đúng cuộc đời mình. Thế nhưng chị phải nhẫn nhịn đợi đến khi tốt nghiệp trung học.

Chị quyết định không vào đại học mà đi nước ngoài sau khi rời trường. Song, dĩ nhiên, cha mẹ tôi là những người bình thường, sống một đời giản dị, nên họ không dễ gì cho chị làm vậy. Thế là chị tôi ra sức làm việc, tích cóp một số tiền đủ cần rồi trốn khỏi nhà. Nơi đầu tiên chị đến là Hawaii. Chị sống ở đảo Kauai trong hai năm. Chị ấy đọc được ở đâu đó rằng bờ biển phía Bắc của Kauai có một nơi mang những nguồn nước thần diệu. Ngay từ khi đó chị ấy đã nuôi một mối quan tâm to lớn đối với nước. Chị ấy tin rằng sự tồn tại của con người phụ thuộc rất nhiều vào các thành tố của nước. Chính vì vậy chị đến sống ở Kauai. Lúc ấy có một cộng đồng híp-pi cư ngụ trong nội địa hòn đảo. Chị ấy sống như một thành viên trong cộng đồng đó. Nước ở đó có tác động to lớn đến khả năng ngoại cảm của chị. Nhờ uống nước ấy, chị đạt được sự hài hòa hơn giữ năng lực tâm linh với thể xác vật chất. Chị viết thư kể cho tôi điều đó tuyệt diệu đến nhường nào; thư của chị làm tôi thật hạnh phúc. Nhưng chẳng bao lâu sau vùng đất đó không còn làm chị thỏa mãn nữa. Quả thật đó là một xứ sở tươi đẹp, bình yên, con người ở đó xa lạ với vật dục mà chỉ tìm kiếm bình an nội tâm. Thế nhưng, họ phụ thuộc quá nhiều vào tính dục và ma túy. Chị tôi không cần những thứ đó. Sau khi sống hai năm ở Kauai, chị bỏ đi.

Từ đó chị sang Canada, đi đây đó vòng quanh miền Bắc nước Mỹ, rồi tiếp tục đến châu Âu. Đi đến đâu chị đều thử mẫu nước đến đó, ở một vài nơi chị cũng tìm thấy những thứ nước tuyệt diệu, nhưng không ở đâu có thứ nước hoàn hảo cả. Thế là chị lại đi, đi mãi. Mỗi khi hết tiền chị lại hành nghề chiêm tinh, giúp người ta tìm vật đánh rơi hay người thân đi lạc. Người ta trả tiền cho chị, dù chị không muốn lấy tiền. Chị cho rằng những năng lực trời cho thì không nên đáng đổi bằng lợi lộc vật chất. Tuy nhiên, vào lúc ấy đó là kế sinh nhai duy nhất của chị. Chị đi đến đâu người ta cũng nghe tiếng chị. Chị kiến tiền không khó. Thậm chí chị còn giúp cảnh sát điều tra một vụ án ở Anh. Một cô bé bị mất tích, chị tìm ra nơi cái xác bị giấu. Chị còn tìm thấy găng tay của kẻ sát nhân cách đó không xa. Hắn bị bắt và nhận tội. Báo nào cũng đưa tin chuyện ấy. Lúc nào tôi sẽ cho ông xem mấy bài báo tôi cắt giữ lại. Thế là chị tôi cứ lang thang khắp châu Âu như thế, cho tới khi dừng chân ở Malta. Đã gần năm năm từ khi chị rời Nhật Bản, nơi này hóa ra lại là đích cuối cho cuộc truy tìm nước của chị. Chắc là chính chị ấy có kể cho ông chuyện này?

Tôi gật đầu.

- Suốt những năm tháng bôn ba khắp thế giới Malta vẫn thường xuyên gửi thư cho tôi. Dĩ nhiên, có những lúc hoàn cảnh khiến chị không thể viết thư, song hầu như tuần nào tôi cũng nhận được một bức thư dài của chị trong đó chị kể chị đang ở đâu, làm gì. Chị em tôi vẫn rất thân thiết với nhau. Dù xa xôi cách trở bao nhiêu, chị em tôi vẫn có thể chia sẻ cảm xúc với nhau qua những lá thư của chị. Mà thư mới tuyệt làm sao chứ! Giá như đọc được, ông sẽ thấy chị ấy là người tuyệt vời đến thế nào. Qua thư, tôi có thể gặp gỡ hàng bao nhiêu thế giới khác, hàng bao nhiêu con người thú vị. Thư của chị khích lệ tôi biết chừng nào! Chúng giúp tôi trưởng thành. Vì vậy, tôi sẽ luôn luôn biết ơn sâu sắc đối với chị tôi. Tôi không hề phủ nhận những gì chị đã làm cho tôi. Nhưng nói gì thì nói, thư cũng chỉ là thư. Khi tôi bước vào tuổi mới lớn, những năm tháng đủ những vấn đề phức tạp, khi tôi cần chị hơn bao giờ hết, chị lại luôn luôn ở nơi nào đó xa lắc xa lơ. Tôi không thể nào vươn tay ra để bắt gặp bàn tay chị ở bên tôi. Ở nhà, tôi hết sức cô đơn. Một mình một cõi. Những năm vị thành niên của tôi đầy rẫy những đau đớn - tôi sẽ kể với ông sau. Tôi không biết nhờ ai khuyên nhủ, bảo ban. Theo nghĩa đó tôi cũng cô đơn như chị Malta ngày trước. Giá như chị ở gần tôi khi đó thì hẳn đời tôi đã khác bây giờ. Chị hẳn sẽ khuyên bảo tôi, khích lệ, cứu giúp tôi. Nhưng giờ đây nhắc lại chuyện đó để làm gì? Cũng như Malta đã phải tìm con đường riêng cho mình, tôi phải tìm đường cho riêng tôi. Thế là năm tròn hai mươi tuổi, tôi quyết định tự sát.

Kano Creta cầm tách, uống chỗ cà phê còn lại:

- Cà phê ngon quá, - cô nói.

- Cám ơn, - tôi đáp, cố tỏ vẻ càng tự nhiên càng tốt. - Tôi mời cô ăn gì nhé? Tôi có luộc mấy quả trứng.

Cô ngần ngừ một chút rồi nói cô muốn ăn một quả. Tôi mang trứng và muối từ trong bếp ra rồi rót thêm cà phê cho cô. Không chút vội vã, Kano Creta và tôi bắt đầu bóc vỏ trứng rồi vừa ăn vừa uống cà phê. Nửa chừng thì chuông điện thoại reo, nhưng tôi không trả lời. Sau khi reo được mười lăm, mười sáu lần gì đó, chuông ngừng. Suốt thời gian đó, Kano Creta có vẻ như không hề nghe thấy chuông điện thoại.

Ăn quả trứng xong, Kano Creta rút từ trong chiếc xắc sơn mài màu trắng ra một chiếc khăn tay nhỏ để lau miệng. Rồi cô kéo thẳng diềm váy.

- Khi đã quyết định tự sát, tôi muốn để lại thư tuyệt mệnh. Tôi ngồi nơi bàn suốt một tiếng đồng hồ, cố viết ra cho được lý do khiến mình muốn chết. Tôi muốn nói rõ rằng không một ai có lỗi, rằng mọi lý do đều nằm ở bên trong tôi. Tôi không muốn gia đình cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm vì một lỗi lầm không phải của họ.

Nhưng tôi không viết hết được bức thư. Tôi cố viết lại, viết lại nữa, song mỗi thư mới lại càng tệ hơn thư trước. Khi đọc lại cái mình vừa viết, tôi thấy nó nghe thật xuẩn ngốc, thậm chí khôi hài nữa. Tôi càng cố làm cho nghiêm chỉnh, nó càng trở nên lố bịch. Cuối cùng tôi quyết định chẳng viết gì hết.

Tôi cảm thấy thật ra chuyện rất đơn giản. Tôi thất vọng với cuộc đời mình. Tôi không chịu nổi nữa hàng bao nhiêu kiểu đau mà cuộc đời liên tục bắt tôi phải chịu. Tôi đã phải chịu đau suốt hai mươi năm. Đời tôi chẳng khác gì hơn là một nguồn đau đớn không dứt. Nhưng tôi đã gắng chịu đựng. Tôi hoàn toàn tin tưởng mình đã nỗ lực đến cùng để chịu đựng cái đau. Tôi có thể tự hào tuyên bố không có gì mạnh hơn những nỗ lực của tôi. Tôi sẽ không đầu hàng mà chiến đấu đến cùng. Nhưng đúng ngày tròn hai mươi tuổi, tôi đi đến một kết luận giản dị: sống như thế không đáng. Cuộc sống không đáng cho ta phải mất nhiều sức lực đến vậy.

Cô ngừng nói, ngồi vuốt vuốt một hồi mấy góc chiếc khăn tay để trên đùi. Khi cô nhìn xuống, hai hàng mi dài đổ những cái bóng mềm mại lên khuôn mặt.

Tôi hắng giọng. Tôi cảm thấy mình phải nói gì đó, nhưng không biết nói gì, nên tôi lặng thinh. Đằng xa, tôi nghe tiếng kêu của con chim vặn dây cót.

- Cái đau là nguyên nhân khiến tôi quyết định tự sát, - Kano Creta nói. - "Đau" ở đây không phải theo nghĩa bóng mà là nghĩa đen. Hoàn toàn không phải ẩn dụ, mà là cái đau thể xác, thuần túy về thể xác. Cái đau giản đơn, thường tình, trực tiếp, vật lý, song chính vì vậy càng là cái đau buốt nhói: nào nhức đầu, đau răng, nào đau khi đến kỳ kinh nguyệt, nào đau lưng dưới, nào tê vai, nào sốt, nào đau cơ, nào bỏng, nào tê cóng, náo chuột rút, nào bong gân, nào bầm tím, vân vân. Suốt đời, tôi luôn phải chịu đứng những cái đau thể xác ngày càng thường xuyên, ngày càng dữ dội hơn cái đau của kẻ khác. Răng tôi chẳng hạn. Dường như từ khi tôi ra đời chúng đã mang sẵn gen khuyết tật rồi. Chúng làm tôi đau đớn từ năm này sang năm khác. Dù tôi có đánh răng cẩn thận cách mấy, hay đánh răng bao nhiêu lần một ngày đi nữa, hoặc dù tôi đã tuyệt đối kiêng ăn đồ ngọt, vẫn chẳng ăn thua gì. Răng tôi thảy đều sâu hết, chẳng chừa cái nào. Đã vậy, thuốc gây tê hình như không có tác dụng với tôi. Đến phòng răng luôn luôn là một cơn ác mộng. Đau đớn không lời nào tả nổi. Tôi sợ đến chết được. Rồi lại những kỳ kinh nguyệt khủng khiếp. Nặng nề khôn xiết kể. Mỗi lần như vậy, suốt một tuần tôi đau đến nỗi như có ai đó đang xoáy mũi khoan vào người tôi. Lại nữa đầu tôi cứ ong ong. Ông không thể hình dung nó là thế nào đâu, ông Okada ạ, đau đến làm tôi phải trào nước mắt ra ấy. Tháng nào cũng vậy, có một tuần tôi cứ bị hành hạ suốt bởi cái đau không chịu nổi đó.

Khi đi máy bay, đầu tôi như thể nứt toác ra vì áp suất không khí thay đổi. Bác sĩ nói ấy là do cấu trúc tai của tôi, rằng chuyện đó thường xảy ra nếu tai trong nhạy cảm với thay đổi áp suất. Chuyện đó cũng hay xảy ra mỗi khi tôi lên xuống thang máy. Tôi không thể đi thang máy trong các tòa nhà cao tầng. Đau đến nỗi đầu tôi sắp vỡ toác ra thành nhiều mảnh và máu sẽ phụt ra có vòi. Thế rồi đến bao tử. Mỗi tuần nó lại đau ít nhất một lần, đau quằn quại, đau như xé ruột xé gan, khiến buổi sáng tôi không sao dậy nổi. Bác sĩ không tài nào tìm được nguyên nhân. Một số người cho rằng đó chỉ là bệnh tưởng. Song, cứ cho là bệnh tưởng đi nữa, cái đau vẫn sờ sờ, không dứt. Dù có đau đến mấy, tôi cũng không thể nằm nhà không đi học. Nếu như mỗi khi đau gì đó tôi lại nghỉ học thì hầu như tôi sẽ chẳng bao giờ đi học cả.

Chi cần khẽ đụng vào một cái gì đó là người tôi thâm tím ngay. Mỗi khi tự ngắm mình trong gương ở buồng tắm, tôi chỉ muốn khóc. Khắp người tôi đầy những vết bầm dập đến nỗi trông tôi cứ như một quả táo thối. Tôi không muốn bất cứ ai thấy tôi mặc đồ tắm. Theo như tôi nhớ, chính vì lý do này mà cả đời tôi hầu như chẳng bao giờ đến hồ bơi. Lại còn một chuyện nữa: ấy là kích thước hai bàn chân tôi không bằng nhau, bên to bên nhỏ. Bất cứ khi nào mua giày mới, bên chân to lại đau khủng khiếp, cho tới khi giày nong ra vừa đủ mới thôi.

Vì tất cả những điều đó, tôi hầu như không chơi thể thao. Hồi ở trung học, có lần lũ bạn lôi tôi đi trượt băng. Tôi bị ngã, bị thương ở mạng sườn nặng đến nỗi từ đó trở đi cứ đến mùa đông là lại đau ghê gớm. Như thể ai đâm tôi bằng một cây kim to, dày. Đã bao nhiêu lần, đang ngồi trên ghế, tôi cố đứng lên thì ngã lăn quay ra đất.

Tôi còn bị táo bón nữa. Cứ ba, bốn hôm một lần, hễ vào nhà vệ sinh là phải cắn răng chịu đau. Rồi lại đau bả vai. Cơ căng lên cho tới khi cứng như đá. Đau đến nỗi đứng không đứng được, nhưng nằm cũng không khá hơn. Tôi hình dung nỗi khổ của tôi hẳn cũng giống như một hình phạt ở Trung Hoa mà tôi đọc ở đâu đó. Người ta nhét tội nhân vào một cái hộp suốt mấy năm trời. Những khi vai đau nhất, tôi gần như không thở được.

Tôi còn có thể kể thêm cả một danh sách dài nhiều cái đau khác mà tôi phải chịu trong đời, nhưng sẽ khiến ông chán thôi, ông Okada ạ, nên chi tôi dừng ở đây. Tôi chỉ muốn ông hiểu rằng thân thể tôi thực sự là cuốn sách mẫu cho mọi thứ đau trên đời. Tôi từng phải chịu mọi thứ đau người ra có thể tưởng tượng ra. Tôi đâm ra nghĩ rằng tôi đã bị ai nguyền rủa độc địa, rằng đời thật không công bằng. Lẽ ra tôi có thể cứ tiếp tục cắn răng chịu đựng nếu những người khác trên thế giới này cũng phải chịu đau như thế, nhưng họ thì không. Vì vậy tôi không chịu nổi. Cái đau được phân phối không công bằng. Tôi thử hỏi mọi người rằng đau là gì, nhưng chẳng ai biết cái đau thực sự nó là thế nào cả. Hầu hết thiên hạ trên đời này sống mà chẳng mấy khi biết đến cái đau, ít nhất là không phải biết nó ngày ngày. Khi hiểu ra điều đó (hồi đó tôi mới lên trung học), tôi buồn đến nỗi cứ khóc mãi, không sao nín được. Sao lại là tôi kia chứ? Tại sao chính tôi chứ không ai khác phải chịu một gánh nặng khủng khiếp nhường này? Chính lúc đó, chính ở đó, tôi chợt thấy muốn chết.

Song, đồng thời một ý nghĩ khác nảy đến với tôi. Điều này không thể kéo dài vĩnh viễn. Một sáng nào đó thức dậy, cái đau sẽ biến mất, đột ngột, không sao giải thích được, khi đó cả một cuộc đời mới thật bình an, không mảy may đau đớn sẽ mở ra trước mắt tôi. Tuy nhiên, tôi chẳng mấy tin điều đó sẽ xảy ra thật.

Thế là tôi thổ lộ những ý nghĩ đó với chị tôi. Tôi nói với chị: Em không muốn tiếp tục sống mà phải chịu đau như vậy nữa. Em phải làm gì? Chị suy nghĩ một lát rồi trả lời như thế này: "Nhất định là ở em có cái gì đó không ổn. Nhưng chị không biết là cái gì. Chị cũng không biết em cần phải làm gì nữa. Năng lực của chị chưa đủ để phán đoán về những việc như vậy. Chị chỉ biết một điều là em phải cố sống ít nhất tới hai mươi tuổi. Hãy cố chịu đựng cho tới hai mươi tuổi, chừng đó hãy quyết định. Làm vậy sẽ tốt hơn."

Thế là tôi quyết định tiếp tục sống đến khi hai mươi tuổi. Nhưng thời gian trôi qua, tình hình vẫn không khá lên chút nào. Còn tệ hơn là khác. Cái đau ngày một khốc liệt. Điều đó chỉ cho tôi ngộ ra một điều: "Cơ thể phát triển đến đâu, cái đau cũng lớn lên đến đấy". Tuy nhiên, tôi vẫn chịu đau được tám năm. Tôi vẫn sống suốt thời gian đó, cố gắng nhìn vào phương diện tốt đẹp của cuộc đời. Tôi không ta thán với ai. Tôi gắng sức giữ nụ cười, ngay cả khi đang đau đớn nhất. Tôi tự rèn cho mình một kỷ luật, ấy là luôn giữ vẻ ngoài bình thản ngay cả khi đau đến mức tôi chật vật lắm mới đứng vững. Khóc lóc than vãn chẳng làm bớt đau mà chỉ khiến tôi trông càng khốn khổ hơn. Tôi nỗ lực hết mình, chính vì vậy mà mọi người yêu mến tôi. Họ thấy tôi là một cô bé trầm lặng, dễ mến. Tôi chiếm được lòng tin cậy của người lớn và bạn bè cùng trang lứa. Lẽ ra tôi đã có một cuộc sống thật mỹ mãn, một thời niên thiếu thật đẹp, nếu như không có cái đau. Nhưng cái đau luôn ở đó. Nó theo tôi như bóng với hình. Chỉ cần tôi quên nó đi một phút, lập tức nó sẽ lại tấn công một bộ phận khác của cơ thể tôi.

Ở trường tôi gặp một bạn trai, và vào mùa hè ngay năm đầu trung học tôi đã mất trinh. Ngay cả điều này - mà tôi cũng đoán trước được - chỉ làm cho tôi đau đớn. Một bạn gái có kinh nghiệm trấn an tôi rằng khi đã quen thì sẽ không đau nữa, nhưng điều đó không xảy ra. Bất cứ khi nào ngủ với anh ấy, tôi lại đau đến chảy nước mắt. Một hôm tôi bảo bạn trai tôi rằng tôi không muốn ngủ với anh ấy nữa. Tôi nói với anh ấy: "Em yêu anh, nhưng em không bao giờ muốn phải chịu đau thế này nữa". Anh ấy bảo anh chưa hề nghe ai nói năng vớ vẩn đến vậy. "Em đa cảm quá đấy thôi, - anh ấy nói.- Cứ thư giãn đi, rồi sẽ hết đau ngay ấy mà. Thậm chí còn dễ chịu là khác. Ai cũng vậy, chẳng lẽ em lại không? Cứ cố hết sức xem, sẽ thấy ngay thôi. Đừng có giở trò con nít đi. Em toàn lấy chuyện "đau" này, "đau" nọ để chống chế. Đừng mè nheo nữa, chẳng ích gì đâu".

Khi nghe nói vậy, tất cả những gì tôi đã phải chịu đựng suốt ngần ấy năm thật sự nổ bùng lên trong tôi. "Anh thì biết quái gì về đau với đớn kia chứ? - tôi quát lên với anh ta. - Cái đau của em không phải là đau thường. Em thì em biết đau là thế nào. Em đau không còn thiếu thứ gì. Một khi em đã nói đau thì nghĩa là thật sự đau!" Tôi cố giải thích bằng cách liệt kê ra tất cả các loại đau mà tôi từng phải nếm, nhưng anh ta vẫn chẳng hiểu một tí gì. Thật khó lòng hiểu được đau thực sự là thế nào trừ phi bản thân người ta phải chịu đựng cái đau thực sự. Thế là chúng tôi chia tay nhau.

Chẳng bao lâu sau chuyện đó là ngày sinh nhật tôi. Suốt hai mươi năm trời tôi đã chịu đựng bao đau đớn, luôn đau đáu niềm hy vọng rằng rồi sẽ đến một bước ngoặt, nhưng điều đó không xảy ra. Tôi thất vọng ê chề. Tôi muốn chết sớm hơn. Tôi đã đi đường vòng hóa ra chỉ để kéo dài thêm nỗi đau đớn này.

Nói đến đây Kano Creta ngừng lại thở một hơi dài. Trên bàn trước mặt cô là chiếc đĩa đựng vỏ trứng và tách cà phê đã uống hết. Trên đùi cô là chiếc khăn tay mà cô đã cẩn thận gấp lại gọn gàng. Như sực nhớ đến thời gian, cô đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ trên kệ.

- Xin ông thứ lỗi, - cô nói khẽ bằng giọng khô khan. - Tôi không định nói lâu như vậy. Tôi đã chiếm mất quá nhiều thời gian của ông rồi. Tôi sẽ không dám làm phiền ông thêm nữa. Tôi không biết phải xin lỗi ông thế nào vì đã buộc ông nghe mãi câu chuyện chán ngắt này.

Cô vơ lấy chiếc xắc sơn mài màu trắng rồi đứng dậy khỏi ghế sofa.

Việc này khiến tôi chưng hửng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:26:16 | Xem tất

- Đợi chút đã, - tôi bối rối thốt lên. Tôi không muốn cô ta ngưng ngang câu chuyện như thế. - Nếu cô áy náy vì chiếm mất thời gian của cô thì xin cố chớ ngại. Tôi rảnh suốt chiều nay. Một khi cô đã kể cho tôi đến thế này rồi thì sao không kể cho rốt? Chuyện của cô còn dài, tôi tin chắc vậy.

- Dĩ nhiên là còn, - cô vừa nói vừa nhìn xuống tôi, cả hai bàn tay nắm chặt quai xắc. - nãy giờ tôi chỉ mới kể xong đoạn mở đầu thôi.

Tôi đề nghị cô chờ một chút rồi xuống bếp. Đứng trước bồn rửa bát, tôi dành chút thời gian để hít thở hai hơi dài. Sau đó tôi lấy hai chiếc cốc trong tủ, cho nước đá vào rồi rót đầy nước cam cất trong tủ lạnh. Tôi đặt hai chiếc cốc lên một cái khay con rồi bưng lên phòng khách. Tôi làm tất cả các động tác trên một cách cố tình chậm rãi, song khi lên đến nơi, tôi thấy cô ta vẫn đứng nguyên trong tư thế cũ. Tuy nhiên, khi tôi đặt hai cốc nước cam trên bàn, dường như cô đã nghĩ lại. Cô lại ngồi lên ghế sofa, đặt chiếc xắc sang một bên.

- Ông thực sự muốn tôi kể chuyện cho đến hết sao? - cô hỏi.

- Dĩ nhiên rồi.

Cô uống hết nửa cốc nước cam rồi kể tiếp.

- Dĩ nhiên là tôi đã tự sát nhưng không thành. Nếu không thì tôi đã chẳng ngồi đây uống nước cam với ông, thưa ông Okada. - Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, và tôi khẽ mỉm cười tán thành. - Giá như tôi đã chết đúng theo kế hoạch thì mọi chuyện hẳn đã giải quyết xong rồi. Chết có nghĩa là ý thức không còn nữa, tôi sẽ không bao giờ phải chịu đau đớn nữa. Đó chính là điều tôi muốn. Thế nhưng, thật không may, tôi đã chọn sai cách chết.

Vào 9 giờ tối ngày 29 tháng Năm, tôi đến phòng anh tôi hỏi mượn xe. Đó là một chiếc Toyota MR2 mới toanh, nên anh ấy tỏ vẻ rất khổ sở nếu phải cho tôi mượn. Nhưng tôi chẳng bận tâm đến điều đó. Anh ấy không thể từ chối được, bởi chính tôi đã cho anh ấy mượn tiền mua chiếc xe này. Tôi lấy chìa khóa rồi lái loanh quanh khoảng nửa giờ. Chiếc xe chỉ mới chạy chưa đầy 1.800 cây số. Chỉ cần nhấn ga một chút mà nó vọt như tên bắn. Đó chính là chiếc xe lý tưởng cho mục đích của tôi. Tôi lái đến tận sông Tama ở ngoại ô thành phố, ở đó tôi gặp một bức tường đá mà tôi đã chú ý tìm từ trước. Đó là loại tường bao quanh một biệt thự lớn, nằm ở cuối một ngõ cụt. Tôi lùi lại rõ xa để lấy đà rồi nhất ga hết cỡ. Hẳn tôi đã cho xe đâm sầm vào bức tường với tốc độ 150 cây số một giờ, rối bất tỉnh.

Tuy nhiên, thật không may cho tôi, bức tường lại không rắn như tôi tưởng. Nhà thầu quá hà tiện nên đã không cố định bức tường cho tới nơi tới chốn. Bức tường sụp xuống, nửa trước xe bẹp dúm. Chỉ có thế. Bởi bức tường quá mềm nên hấp thụ hết lực va chạm. Thế chưa hết, trong cơn bấn loạn, tôi đã quên mở đai an toàn.

Thế là tôi thoát khỏi cái chết. Thậm chị tôi hầu như không bị thương. Và, điều lạ nhất là tôi hầu như không thấy đau đớn gì hết. Đó là điều kỳ quái nhất. Người ta đưa tôi vào bệnh viện để băng cái xương duy nhất bị gãy. Cảnh sát đến điều tra, nhưng tôi bảo họ tôi chẳng nhớ gì sất. Tôi bảo chắc là do tôi định nhấn phanh song lại nhằm sang nhấn ga. Và họ tin lời tôi. Tôi chỉ mới hai mươi tuổi, mới lấy bằng lái được sáu tháng. Ngoài ra, trông tôi chẳng giống loại người toan tự tử. Ai đời tự tử mà vẫn thắt đai an toàn chứ?

Khi xuất viện tôi phải đương đầu với vài chuyện rắc rối. Trước hết tôi phải trả hết chỗ nợ còn lại cho chiếc MR2 mà tôi đã biến thành đống kim loại vụn. Thật xui xẻo, khi làm hồ sơ với công ty bảo hiểm lại xảy ra một nhầm lẫn nào đó, thế là người ta không chịu trả tiền bảo hiểm cho chiếc xe.

Để tự sát, đáng lẽ tôi phải thuê một chiếc xe có bảo hiểm, song bây giờ hiểu ra điều đó thì quá muộn rồi. Dĩ nhiên vào lúc đó tôi chẳng còn tâm trí đâu để nghĩ tới chuyện bảo hiểm này kia. Tôi không hề nghĩ rằng xe của anh trai tôi sẽ không được bảo hiểm hay việc tự sát của tôi sẽ không thành. Tôi đã đâm xe vào một bức tường đá với tốc độ 150 cây số một giờ mà vẫn sống, thật không tin được.

Ít lâu sau tôi nhận được một hóa đơn của hiệp hội quản lý nhà đòi bồi thường cho bức tường đá. Họ đòi 1.364.294 yên . Trả ngay lập tức. bằng tiền mặt. Tôi không còn cách nào khác ngoài mượn của cha tôi. Ông sẵn sàng cho tôi vay, nhưng yêu cầu tôi phải hoàn lại cho ông. Ông là người rất chi li về tiền bạc. Ông bảo rằng tôi phải chịu trách nhiệm về sự cố này, nên ông muốn tôi hoàn tiền lại cho ông đúng hạn, không thiếu một yên. Thật ra lúc đó tiền nong ông cũng chẳng dư dả gì. Ông đang mở rộng bệnh viện, nên bản thân ông cũng đang đau đầu về việc huy động tiền cho dự án.

Tôi lại nghĩ đến chuyện tự sát. Lần này tôi sẽ chọn cách chắc ăn nhất. Tôi sẽ nhảy từ tầng thứ mười lăm tòa nhà hành chính của trường đại học. Lần này thì không thể phạm sai lầm nữa. Tôi thử nhiều lần. Tôi chọn cái cửa sổ thích hợp nhất. Tôi đã sắp sửa nhảy xuống.

Nhưng có cái gì đó níu tôi lại. Có một cái gì đó là lạ, một cái gì đó lấn cấn ở trong tôi. Đúng vào giây cuối cùng, "cái gì đó" ấy gần như đã lôi ngược tôi lại từ trên thành cửa sổ. Tuy nhiên, phải một thời gian khá lâu sau tôi mới hiểu ra "cái gì đó" là gì.

Tôi không còn đau gì nữa.

Tôi hầu như không còn đau gì nữa từ sau sự cố nọ. Xảy ra dồn dập hết chuyện này đến chuyện khác, tôi hầu như không còn tâm trí để nhận ra rằng cái đau đã biến mất khỏi cơ thể tôi. Không còn đau ruột, không còn đau khi hành kinh, không còn nhức đầu, không còn đau dạ dày. Thậm chí khi cái xương sườn gãy cũng hầu như không đau. Tôi không biết tại sao điều đó lại xảy ra được. Nhưng thực tế là: cái đau đã hoàn toàn biến mất.

Tôi quyết định tạm thời hẵng cứ tiếp tục sống. Tôi chợt muốn biết, dù chỉ một chút thôi, rằng thế nào là sống mà không phải đau đớn gì. Rồi nếu muốn chết thì lúc nào mà chẳng được.

Nhưng nếu tiếp tục sống thì tôi phải trả nợ cho cha. Tổng công, tôi nợ đến hơn ba triệu yên. Để trả được nợ, tôi đi làm điếm.

- Làm điếm?!

- Đúng vậy, - Kano Creta nói, như thể điều đó chẳng có gì ghê gớm cả. - Tôi cần phải có tiền trong một thời gian ngắn. Tôi muốn trả nợ càng sớm càng tốt, mà tôi thì chẳng biết cách nào khác để kiếm tiền ngoài cách đó. Tôi quyết định làm việc đó không chút do dự. Vấn đề là tôi đã quyết chí chết, và tôi vẫn đang nuôi ý định chết, không sớm thì muộn. Chẳng qua vì tò mò muốn biết sống mà không phải đau đớn gì là thế nào nên tôi mới tiếp tục sống thôi, nhưng hoàn toàn chỉ là tạm thời. So với chết thì chuyện bán mình kia có sá gì.

- Tôi hiểu ý cô, - tôi nói.

Đá trong cốc nước cam của cô ta đã tan, Kano Creta chậm rãi dùng ống hút khuấy rồi nhấp một ngụm.

- Tôi hỏi cô một câu được không? - tôi hỏi.

- Vâng, xin ông cứ hỏi.

- Cô có hỏi ý kiến chị về việc này không?

- Lúc ấy chị ấy đang tu tập ở đảo Malta. Trong thời gian tu tập, chị ấy không chịu cho tôi biết địa chỉ. Chị ấy không muốn tôi làm chị ấy mất tập trung. Trong suốt ba năm chị ấy sống ở Malta, thực sự là tôi không thể nào viết thư cho chị ấy.

- Tôi hiểu, - tôi nói. - Cô dùng thêm ít cà phê nhé?

- Vâng, - Kano Creta nói.

Tôi xuống bếp đun lại cà phê. Trong khi chời đợi, tôi vừa nhìn đăm đăm vào cánh quạt thông gió vừa hít thở sâu vào mấy cái. Khi cà phê đã nóng, tôi rót vào hai chiếc tách mới, cho vào khay kèm theo một đĩa bánh quy sôcôla rồi bưng lên phòng khách. Chúng tôi ăn uống một hồi.

- Lần cô thử tự sát là khi nào vậy? - tôi hỏi.

- Lúc đó tôi hai mươi tuổi. Đó là sáu năm trước đây vào tháng Năm 1978.

Tháng Năm 1978 là tháng mà Kumiko và tôi kết hôn. Vậy là, đúng vào tháng hai vợ chồng tôi làm đám cưới, Kano Creta đã toan tự sát còn Kano Malta thì đang tu tập ở đảo Malta.

- Tôi đến khu lân cận có nhiều quán bar, lại gần người đàn ông đầu tiên có vẻ đường được một chút mà tôi thấy, ngả giá, rồi đến khách sạn ngủ với ông ta. - Kano Creta nói. - Việc làm tình không còn làm tôi đau đớn về thể xác nữa. Nhưng cũng không có khoái lạc. Chỉ đơn thuần là vận động cơ thể. Tôi cũng chẳng thấy tội lỗi gì ở chuyện làm tình để kiếm tiền. Tôi bị vây bọc trong sự tê liệt về cảm xúc, một sự vô cảm sâu hun hút đến mức nhìn không thấy đáy đâu.

Tôi kiếm được bộn tiền bằng cách đó, chỉ trong một tháng đầu đã được gần một triệu yên. Với tốc độ đó tôi có thể trả hết nợ chỉ trong vòng ba, bốn tháng. Ngày nào cũng vậy, học ở trường xong là tôi về nhà, tối đến lại ra khỏi nhà, rồi về nhà muộn nhất là mười giờ đêm. Tôi bảo cha mẹ rằng tôi làm hầu bàn, chẳng ai nghi ngờ gì cả. Dĩ nhiên, họ sẽ thắc mắc nếu tôi hoàn tiền lại qua nhiều tiền như vậy cùng một lúc, vì vậy tôi quyết định mỗi tháng chỉ hoàn lại ông 10.000 yên, chỗ còn lại gửi ngân hàng.

Nhưng rồi một đêm nọ, khi tôi đang mồi chài khách gần nhà ga, có hai người đàn ông túm lấy tôi từ đằng sau lưng. Đầu tiên tôi ngỡ đó là cảnh sát, nhưng rồi tôi nhận ra chúng là bọn xã hội đen. Chúng lôi tôi vào một hẻm vắng, hăm doạ tôi bằng một món gì đó giống như con dao, rồi đưa tôi về sào huyệt của chúng. Chúng đẩy tôi vào một căn phòng mãi phía sau, lột hết áo quần tôi, trói chặt cổ tay tôi lại rồi thay nhau hãm hiếp tôi trước ống kính máy quay video. Suốt thời gian đó tôi nhắm mắt, cố không nghĩ gì cả. Việc đó với tôi không khó, bởi tôi chẳng cảm thấy gì hết - đau đớn không, khoái lạc cũng không.

Sau đó chúng cho tôi xem cuộn băng và bảo tôi rằng nếu không muốn bất cứ ai nhìn thấy thì tôi phải nhập hội với chúng và làm việc cho chúng. Chúng tịch thu thẻ sinh viên trong ví tôi. Chúng bảo nếu tôi từ chối làm theo ý chúng, chúng sẽ gửi một bản sao cuộn băng cho cha mẹ tôi để tống tiền. Tôi không còn cách nào khác. Tôi bảo chúng rằng tôi sẽ làm như chúng bảo, rằng với tôi chuyện đó chẳng quan trọng gì. Mà thật, lúc đó không có bất cứ cái gì là quan trọng đối với tôi. Chúng nói rõ rằng nếu tôi nhập hội với chúng, thu nhập của tôi sẽ giảm vì chúng sẽ thu bảy mươi phần trăm, song bù lại tôi sẽ không phải mất công tự tìm khách hàng, cũng không còn phải nơm nớp sợ cảnh sát. Chúng sẽ tìm cho tôi những vị khách sộp. Song nếu tôi vẫn tiếp tục tự kiếm khách hàng thì sẽ đến lúc người ta bắt gặp tôi bị bóp cổ đến chết trong một căn phòng khách sạn nào đó.

Từ đó trở đi tôi không phải đứng đường nữa. Tôi chỉ việc mỗi tối đến "văn phòng" của chúng, ở đó chúng sẽ bảo tôi đến khách sạn nào. Chúng gửi đến tôi những khách hàng sộp thật, đúng như chúng hứa. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi được chúng biệt đãi. Có thể là vì tôi trông quá ngây thơ. Tôi có cái vẻ con nhà lành mà các cô gái khác không có. Hẳn là nhiều khách hàng thích loại gái "không có vẻ chuyên nghiệp lắm" này. Các cô khác phải tiếp ba hay bốn khách mỗi ngày, nhưng tôi thì chỉ cần một khách là đủ, nhiều lắm là hai. Các cô khác phải mang theo máy nhắn tin, bất cứ khi nào "văn phòng" gọi là tất tả phải đến khách sạn hạng xoàng nào đó để ngủ với những người đàn ông không rõ nhân thân. Tôi thì lại luôn luôn được hẹn ở một khách sạn hạng sang, thậm chí đôi khi ở một biệt thự. Khách hàng của tôi thường là người lớn tuổi, hiếm khi gặp người trẻ.

"Văn phòng" trả tiền tôi mỗi tuần một lần, không nhiều như lúc tôi còn làm ăn một mình, nhưng cộng thêm tiền boa của khác hàng thì cũng khá. Dĩ nhiên, một số khách hàng có những ý thích kỳ quái, nhưng tôi chẳng nề gì. Yêu cầu của khách càng quái gở thì tiền boa lại càng cao. Tôi bắt đầu có một số khách quen, cũng chính họ thường là những người boa rất rộng tay. Tôi mở mấy tài khoản để giữ tiền. Nhưng tới khi đó tiền không còn làm tôi bận tâm. Chỉ là những dãy số thôi. Tôi sống chỉ vì một điều duy nhất, ấy là kiểm chứng xem có thật tôi đã hoàn toàn mất cảm giác không.

Sáng nào thức dậy tôi cũng nằm đó, nghiệm xem có đúng là cơ thể mình không cảm thấy bất cứ cái gì có thể gọi là đau. Tôi mở mắt, chằm chặp tập trung tư tưởng, thế rồi tôi bắt đầu kiểm tra cảm giác trong cơ thể mình từ đầu xuống chân, từng cơ quan một. Tôi hoàn toàn không đau gì cả. Liệu quả thật là không có gì đau, hay là có đau đấy nhưng tôi không cảm thấy? Tôi chẳng biết. Dù thế nào đi nữa, cái đau đã biến mất. Nhưng không chỉ cái đau: trên thực tế, tôi không còn cảm giác gì nữa. làm viêc đó xong, tôi ra khỏi giường, vào phòng tắm đánh răng. Rồi tôi cởi đồ ngủ và tắm bằng vòi hoa sen nóng. Thân thể tôi nhẹ bỗng một cách đáng sợ. Nó nhẹ tênh, như không khí, như không còn là thân xác tôi nữa. Tôi cảm thấy như linh hồn mình đã nhập vào một cơ thể không phải của tôi. Tôi nhìn thân thể mình trong gương, nhưng giữa tôi với cái thân thể tôi trong gương kia là một khoảng cách xa vời vợi và khủng khiếp.

Cuộc sống không biết thế nào là đau đớn: nó chính là điều tôi từng mơ ước ngần ấy năm ròng, nhưng giờ đây có nó, tôi lại không thấy có chỗ cho mình trong đó. Giữa cuộc sống đó với tôi có một sự cách ngăn rạch ròi, điều đó khiến tôi bối rối vô cùng. Tôi cảm thấy như mình không gắn liền với thế giới - cái thế giới mà tôi từng căm ghét và vẫn đang căm ghét tận đáy lòng, cái thế giới mà tôi nguyền rủa vì sự bất công của nó, song nó là cái thế giới nơi ít nhất tôi còn biết mình là ai. Giờ đây thế giới ấy không còn là thế giới, tôi cũng không còn là tôi nữa.

Tôi bắt đầu khóc rất nhiều. Buổi chiều tôi hay dến công viên - Vườn Hoàng gia Shinjuku hay công viên Yoyogi-, ngồi trên bãi cỏ mà khóc. Tôi thường khóc suốt một, hai tiếng đồng hồ, nức nở rất to. Người qua kẻ lại nhìn tôi, nhưng tôi chẳng màng. Tôi ước gì lần ấy, đêm 29 tháng Năm, giá như tôi chết đi thì tốt biết bao! Nhưng bây giờ thậm chí chết cũng không chết được. Trong nỗi vô cảm này, thậm chí tôi không đủ sức tự giết mình. Tôi không cảm thấy gì hết: đau đớn không, niềm vui không. Mọi cảm giác và cảm xúc đã ra đi. Và tôi thậm chí không còn là tôi nữa.

Kano Creta hít một hơi dài rồi nén lại một lát. Sau đó cô cầm tách cà phê lên, nhìn nó đăm đăm một hồi, khẽ lắc đầu rồi lại đặt tách xuống đĩa.

- Chính trong khoảng thời gian đó tôi gặp Wataya Noburu.

- Wataya Noburu? Hắn là khách của cô sao?

Kano Creta im lặng gật đầu.

- Nhưng mà... - tôi đã toan nói, nhưng dừng lại để lựa lời. - Tôi không hiểu lắm ở chỗ này. Hôm trước chị cô có kể với tôi rằng Wataya Noburu đã hãm hiếp cô. Phải chăng chuyện đó không liên quan gì với những gì cô đang kể với tôi lúc này?

Kano Creta nhặt chiếc khăn tay đang đặt trên đùi mà lau miệng lần nữa. Rồi cô nhìn thẳng vào tôi. Trong mắt cô có cái gì đó khiến tôi bất an.

- Xin lỗi lại làm phiền ông, tôi có thể xin ông thêm một tách cà phê không? - cô hỏi.

- Dĩ nhiên, - tôi nói. Tôi đặt tách của cô lên khay rồi mang xuống bếp. Trong khi đợi cà phê sôi, tôi tựa mình vào giá phơi bát đĩa, hai tay thọc vào túi quần. Khi tôi mang cà phê trở lại phòng khách, Kano Creta không còn trên ghế sofa. Chiếc xắc, chiếc khăn tay, mọi dấu hiệu hữu hình của cô đã biến mất. Tôi ra ngoài phòng đợi, đôi giày cô ta cũng không còn ở đó nữa.

Ái chà chà, tôi nghĩ.
--------------------------------
1.Khoảng gần 11.000 đô la Mỹ - BTN
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:28:33 | Xem tất


Chương 9
Thiếu Điện Trầm Trọng Và Những Ống Ngầm

Kasahara May Khảo Cứu Bản Chất Của Tóc Giả



Sáng hôm sau, tiễn Kumiko đi làm xong, tôi đi đến hồ bơi. Bơi buổi sáng là tốt nhất, bởi vắng người. Đi bơi về tôi đun ít cà phê rồi ngồi uống trong bếp, vừa uống vừa ôn lại câu chuyện kỳ quặc chưa kể hết của Kano Creta, cố nhớ lại từng chi tiết trong cuộc đời cô theo trình tự thời gian. Tôi càng nhớ lại thì câu chuyện càng có vẻ kỳ quặc, nhưng hoạt động của bộ não tôi mỗi lúc một chậm dần, tôi bắt đầu buồn ngủ rũ. Tôi bèn lên phòng khách, nằm xuống sofa, nhắm mắt lại. Chẳng mấy chốc tôi đã thiếp đi. Và tôi nằm mơ.

Tôi mơ thấy Kano Creta. Tuy nhiên, trước khi cô ta xuất hiện, tôi mơ thấy Kano Malta. Malta đội chiếc mũ kiểu Tyrol gắn một cái lông chim to màu sắc sặc sỡ. Xung quanh cô có rất nhiều người (tuồng như một cái đại sảnh nào đó), nhưng tôi nhận ra ngay Kano Malta nhờ chiếc mũ của cô. Cô đang ngồi một mình nơi quầy bar. Trước mặt cô là một ly cocktail Tropical, nhưng tôi không nhớ liệu cô có uống không.

Tôi mặc com-lê, đeo cà vạt chấm hạt đỗ. Ngay khi nhìn thấy Kano Malta, tôi đã cố đi về phía cô, nhưng đám đông cứ ngáng đường tôi. Đến khi tôi tới được chỗ quầy bar thì cô đã đi mất. Ly cocktail Tropical vẫn còn nguyên trên quầy, trước mặt chiếc ghế cô ngồi ban nãy. Tôi ngồi vào ghế bên cạnh rồi gọi một ly Scotch có đá. Người phục vụ quầy bar hỏi tôi muốn uống loại Scotch nào, tôi liền bảo "Cutty Sark". Thật ra thì với tôi loại nào cũng được, nhưng Cutty Sark là cái tên đầu tiên nảy ra trong đầu tôi.

Anh ta chưa kịp đưa ly rượu thì tôi cảm thấy có một bàn tay nắm lấy tay tôi từ phía sau, cái đụng chạm nhẹ nhàng đến nỗi dường như người đó đang nắm một vật gì rất đỗi mỏng manh, có thể vỡ vụn ra bất cứ lúc nào. Tôi quay lại và thấy một người đàn ông không có mặt. Có thật là anh ta không có mặt hay không, tôi không biết, nhưng ở chỗ lẽ ra là khuôn mặt chỉ bao trùm một bóng tối đen ngòm, và tôi không thể biết có cái gì đằng sau nó. - Lối này, thưa ông Okada, - hắn nói. Tôi có nói, nhưng chưa kịp mở mồm thì hắn đã bảo: "Mời ông đi với tôi. Chúng ta có ít thời gian lắm. Xin ông vội lên cho." Vẫn nắm tay tôi, hắn rảo bước len qua đám đông, bước ra một hành lang. Tôi đi theo hắn dọc hành lang, không cưỡng lại. Nói gì thì nói, hắn biết tên tôi. Cũng chẳng phải tôi đang để một kẻ hoàn toàn xa lạ dẫn đi đâu tùy ý. Phải có nguyên nhân và mục đích nào đó trong chuyện này.

Đi dọc hành lang một lúc, người không mặt dừng lại trước một cánh cửa. Con số ghi trên cánh cửa là 208. - Cửa khóa. - Xin ông hãy mở ra. - Tôi làm theo, mở cửa ra. Phía sau cánh cửa là một căn phòng rộng. Xem ra nó là một phần của dạng phòng suite 1 trong khách sạn kiểu xưa. Trần cao, treo một chùm đèn kiểu cổ. Đèn không thắp sáng. Một ngọn đèn tường hắt ra ánh sáng lờ mờ, nguồn sáng duy nhất trong phòng. Các rèm cửa kéo kín mít.

- Nếu ông muốn whisky thì bao nhiêu cũng có, thưa ông Okada. Ông thích Cutty Sark phải không? Xin mời, uống bao nhiêu cũng được. - Hắn chỉ về phía một cái tủ âm cạnh cửa ra vào rồi lặng lẽ đóng cửa lại, để tôi một mình. Tôi đứng giữa phòng một hồi lâu, không biết phải làm gì.

Một bức tranh sơn dầu lớn treo trên tường. Đó là tranh vẽ một dòng sông. Tôi nhìn nó một lát, hy vọng sẽ trấn tĩnh lại. Trăng đang lên trên dòng sông. Ánh trăng tỏa xuống phía bên kia sông, nhưng trăng mờ đến nỗi tôi không nhìn rõ được cảnh trí ở đó. Chỉ thấy những đường viền mơ hồ nhập nhoạng mà thôi.

Bỗng nhiên tôi thấy thèm whisky ghê gớm. Tôi toan mở chiếc tủ âm để lấy rượu theo lời gã đàn ông không mặt, nhưng không mở được. Cái giọng như là cửa tủ hóa ra chỉ là những cánh cửa giả làm rất khéo. Tôi thử hết kéo lại đẩy những chỗ lồi ra, nhưng tủ vẫn đóng im ỉm.

- Không dễ mở đâu, thưa ông Okada, - Kano Creta nói. Tôi nhận ra rằng cô đang đứng đó, vẫn trong bộ y phục đầu thập niên 1960. - Phải mất một thời gian nữa nó mới mở. Hôm nay thì không được đâu. Ông đừng cố làm gì.

Cô trút hết quần áo dễ dàng như mở một hộp đậu rồi đứng đó trần truồng trước mặt tôi, không hề báo trước hay giải thích. "Chúng ta có ít thời gian lắm, thưa ông Okada, hãy cố làm cho xong việc này càng nhanh càng tốt. Tôi xin lỗi vì phải vội vã thế này, song tôi có lý do riêng. Tới được đây cũng đã khó khăn lắm rồi". Thế rồi cô lại gần tôi, mở khóa quần tôi, thế rồi, như thể đó là việc tự nhiên nhất trên đời, cô lôi dương vật của tôi ra. Cụp đôi mắt đeo lông mi giả xuống, cô ngoạm nó vào miệng gọn lỏn. Miệng cô rộng hơn tôi tưởng nhiều. Bên trong miệng cô, tôi lập tức cương cứng. Khi cô cử động lưỡi, những đuôi tóc loăn xoăn của cô khẽ rung rung như trong làn gió nhẹ, mơn man hai bắp đùi tôi. Tôi chẳng thấy gì khác ngoài mái tóc và hai hàng mi giả của cô. Tôi ngồi trên giường, cô thì quỳ gối, vùi mặt vào chỗ đũng quần tôi. - Dừng ngay, - tôi nói. - Wataya Noboru sẽ đến bất cứ lúc nào. Tôi không muốn gặp hắn ở đây.

Kano Creta rút miệng ra khỏi dương vật tôi rồi nói: - Đừng lo. Chúng ta còn nhiều thì giờ, ít nhất là để làm việc này.

Cô đánh đầu lưỡi lên dương vật tôi. Tôi không muốn xuất tinh, nhưng không các nào kìm lại được. Tôi cảm thấy như bị hút hết tinh khí ra khỏi mình. Môi và lưỡi cô ta quấn lấy da thịt tôi như những sinh thể nhớp nháp trơn nhẫy. Tôi không chịu được nữa, tôi xuất tinh. Tôi mở mắt ra.

Thế đấy. Tôi xuống buồng tắm, giặt cái quần lót vấy bẩn rồi đứng hồi lâu dưới vòi hoa sen nóng, cẩn thật gột cho sạch hết cái cảm giác dinh dính mà giấc mơ để lại. Đã bao nhiêu năm rồi từ khi tôi gặp mộng tinh lần cuối? Tôi cố nhớ lại chính xác nhưng đành chịu thua, đã lâu quá rồi.

Tôi vừa ra khỏi phòng tắm, đang lau người thì điện thoại reo. Ấy là Kumiko. Sau một giấc mơ ân ái với người đàn bà khác, tôi cảm thấy hơi căng thẳng khi phải nói chuyện với nàng.

- Giọng anh lạ lắm, - nàng nói. - Có chuyện gì vậy? - Sự nhạy cảm của nàng đối với những chuyện như thế này thật đáng sợ.

- Có gì đâu, - tôi nói. - Anh đang ngủ. Em gọi làm anh thức dậy.

- Thế à? - nàng nói. Tôi cảm thấy rõ sự hoài nghi của nàng qua ống nghe, điều đó khiến tôi càng căng thẳng hơn.

- Thôi được, em xin lỗi, em chỉ muốn báo rằng hôm nay sẽ về muộn một tí, - Kumiko nói. - Có thể tới 9 giờ rưỡi mới về. Em sẽ đi ăn ngoài.

- Được thôi, - tôi nói. - Anh ăn tối một mình vậy. Đừng lo cho anh.

- Em xin lỗi mà, - nàng nói, như thể sau khi ngẫm nghĩ điều đó. Nàng ngừng một lát, rồi mới gác máy.

Tôi nhìn cái ống nghe thêm vài giây. Rồi tôi xuống bếp gọt một quả táo.

° ° °


Suốt sáu năm từ khi lấy Kumiko, tôi chưa hề ngủ với người đàn bà nào khác. Nói vậy không có nghĩa là tôi không bao giờ thèm muốn hoặc có cơ hội ngủ với một người đàn khác. Đơn giản là tôi không bao giờ để mình bị cuốn theo dù có cơ hội đi nữa. Tôi không biết tại sao, có lẽ vì dục tính không nằm trong số những việc ưu tiên trong đời tôi.

Tôi chỉ có một lần duy nhất tình cờ qua đêm với một người đàn bà khác. Cô ta thuộc típ đàn bà tôi thích, và tôi cũng biết cô ta sẵn sàng ngủ với tôi nếu có dịp. Nhưng rốt cuộc tôi chẳng làm gì cô ta cả.

Khi cô ta phải thôi việc để lấy chồng (cô phải chuyển đến Kyushu, nơi chồng cô ta đang làm việc), tôi cùng một số đồng nghiệp mời cô đi uống bữa rượu chia tay. Sau đó cô ta và tôi đi cùng một chuyến tàu về nhà, và do đã khuya nên tôi tiễn cô ta về tận căn hộ nơi cô ở. Đến trước cửa, cô mời tôi vào uống một tách cà phê. Tôi thì chỉ lo nhỡ chuyến tàu cuối, nhưng tôi biết có thể hai chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại nhau, mà tôi thì cũng thích uống chút cà phê cho tỉnh rượu, thế là tôi quyết định vào. Nhà cô ta thật điển hình cho căn hộ của gái độc thân. Nó có một cái tủ lạnh hơi quá to so với một người, một chiếc máy nghe đĩa đặt trên giá sách. Một người bạn đã tặng cô chiếc tủ lạnh này. Cô thay bộ đồ khác cho thoải mái ở phòng bên rồi pha cà phê dưới bếp. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà trò chuyện.

Đến một lúc, khi hai chúng tôi không còn chuyện gì để nói, cô chợt hỏi, như thể ý nghĩ đó vừa nảy ra với cô:

- Anh thử nói em nghe, anh có sợ nhất một cái gì không, một cái gì cụ thể ấy?

- Chắc là không, - tôi nghĩ một chút rồi nói. Tôi vốn sợ đủ thứ trên đời, nhưng sợ nhất một cái gì đó thì không.

- Còn em?

- Em sợ những ống ngầm, - cô nói, hai tay bó gối. - Chắc anh biết ống ngầm chứ?

- Kiểu như cống thoát nước phải không? - tôi không biết định nghĩa thế nào cho thật chính xác.

- Vâng, nhưng ở dưới lòng đấy ấy. Ống dẫn nước thải dưới lòng đất. Cống nước thải, phía trên có nắp đậy, nước chảy ở dưới, đen kịt.

- Anh hiểu. Ống ngầm thoát nước.

- Em sinh trưởng ở vùng quê, tỉnh Fukushima. Có một dòng suối chảy ngay cạnh nhà em, một dòng chảy nhỏ, chỉ là một cái rãnh tiêu nước ngoài đồng. Đến một quãng, nó chảy vào một cống ngầm chui xuống lòng đất. Hình như chuyện đó xảy ra khi em đang chơi với vài đứa trẻ khác. Lúc đó em mới hai, ba tuổi gì đó. Mấy đứa kia cho em vào một cái thuyền con rồi thả theo dòng suối. Có lẽ trò ấy chúng chơi suốt, nhưng hôm ấy trời mưa, nước dâng rất cao. Thuyền rời xa chúng và đưa em thẳng tới chỗ miệng cống ngầm. Nếu như không có một bác nông dân tình cờ đi ngang qua trông thấy thì chắc em đã bị hút tọt vào trong đó rồi, chừng đó thì chẳng ai còn tìm thấy em nữa.

Cô di di ngón tay trỏ trên miệng như để kiểm tra xem mình có còn sống không.

- Tới giờ em vẫn còn nhớ như in chuyện đó. Em nằm ngửa, bị dòng nước cuốn đi băng băng. Hai bên bờ suối sừng sững phía trên em như hai bức tường đá cao chót vót, trên đầu là trời xanh. Trời trong, xanh đến nhức mắt. Em bị dòng nước cuốn phăng đi. Càng lúc càng xa, càng lúc càng nhanh. Mãi em vẫn không hiểu như thế là thế nào. Nhưng rồi đột nhiên em bừng hiểu: rằng đằng kia là bóng tối. Bóng tối thực sự. Chẳng mấy chốc nó sẽ xộc tới hút em xuống. Em cảm thấy một bóng tối lạnh ngắt bắt đầu vây bọc lấy mình. Đó là ký ức đầu đời của em.

Cô nhấp một ngụm cà phê.

- Em sợ đến chết được, - cô nói. - Sợ không thể nào chịu nổi. Sợ giống như ngày đó, khi em bị dòng nước cuốn phăng phăng đến đó, mà đã đến đó rồi thì không ra được nữa.

Cô lấy trong xắc tay ra một điếu thuốc, cho vào giữa miệng, dùng diêm châm lửa rồi thở một hơi dài, chậm rãi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy cô hút thuốc.

- Em đang nói về đám cưới của em phải không? - tôi hỏi.

- Đúng vậy, - cô đáp. - Về đám cưới.

- Có vấn đề gì đặc biệt không? - tôi hỏi. - Một vấn đề gì cụ thể?

Cô lắc đầu.

- Vấn đề gì cụ thể thì không; toàn những chuyện vặt vãnh ấy mà... - cô nói.

Tôi không biết nói gì với cô, nhưng trong tình thế này tôi cần phải nói gì đó.

- Anh nghĩ là bất cứ ai khi sắp lấy vợ lấy chồng đều có cảm giác đó, không nhiều thì ít. "Trời, nhỡ ra mình đang phạm một sai lầm nghiêm trọng thì sao!" Chuyện ấy bình thường lắm, không cảm thấy thế mới là lạ. Dù gì thì chọn một người để sống suốt đời với nhau là một quyết định lớn. Thành thử cảm thấy sợ cũng tự nhiên thôi, nhưng không nên sợ thái quá như vậy.

- Nói thì dễ, "Ai cũng cảm thấy như vậy. Ai cũng như nhau", - cô nói.

Đã quá mười một giờ. Tôi phải tìm cách nào đó kết thúc cuộc trò chuyện này cho êm đẹp rồi đi khỏi đây. Nhưng tôi chưa kịp nói gì thì bỗng nhiên cô yêu cầu tôi ôm lấy cô.

- Tại sao? - tôi hỏi, đâm ra cảnh giác.

- Để sạc pin cho em, - cô nói.

- Sạc pin cho em?

- Cơ thể em hết điện rồi. Đã mấy hôm nay em không ngủ được. Hễ sắp thiu thiu ngủ là em sực tỉnh, sau đó thì không thể nào ngủ lại được nữa. Mà cũng không suy nghĩ gì được. Mỗi khi em như vậy, cần phải có người nạp pin cho em. Nếu không em sẽ không sống nổi. Thật đấy.

Tôi nhìn thẳng vào mắt cô, tự hỏi liệu cô có còn say không, nhưng đấy vẫn là cặp mắt bình thản, thông minh của cô. Còn lâu cô mới say.

- Nhưng tuần sau em lấy chồng rồi. Em có thể bảo anh ấy ôm em bao nhiêu tùy ý. Đêm nào cũng ôm. Có vậy người ta mới lấy nhau chứ. Em sẽ chẳng bao giờ hết điện nữa.

- Vấn đề là em cần ngay bây giờ, - cô nói. - Không phải ngày mai, không phải tuần sau, tháng sau. Em đang hết điện ngay bây giờ đây.

Môi mím chặt, cô nhìn đăm đăm hai bàn chân mình. Hai bàn chân đều tăm tắp. Nhỏ nhắn, trắng muốt, mười móng chân xinh xắn. Dường như cô quả thực đang muốn ai đó ôm mình, thế là tôi dang tay ôm cô vào lòng. Thật kỳ quặc. Với tôi, cô chỉ là một đồng nghiệp có năng lực, dễ mến. Chúng tôi làm việc trong cùng một cơ quan, hay kể chuyện cười cho nhau nghe, thỉnh thoảng rủ nhau đi uống vài ly. Nhưng ở đây, ngoài công việc, trong căn hộ của cô, thân thể cô nằm gọn trong vòng tay tôi, hai chúng tôi chẳng gì hơn là những khối thịt nồng ấm. Chúng tôi vẫn thường đóng những vai mình được phân trên sân khấu công ty, nhưng khi bước xuống khỏi sân khấu, vứt bỏ lại những hình ảnh mà chúng tôi phóng chiếu lên ở đó, hai chúng tôi chỉ còn là những khối thịt bất định, vụng về, những súc thịt ấm được trang bị thêm hệ tiêu hóa, tim, não và cơ quan sinh dục. Tôi vòng tay ôm quanh lưng cô, cặp vú cô ép chặt vào ngực tôi. Cặp vú to và mềm hơn tôi vẫn hình dung. Tôi ngồi trên sàn nhà, lưng tựa vào tường, cả thân thể cô tì vào người tôi. Chúng tôi ôm nhau trong tư thế đó một hồi lâu, không nói một lời.

- Được chưa? - tôi hỏi, bằng một giọng nghe như không phải của tôi. Như thể ai đó đang nói thay cho tôi vậy.

Cô không nói gì, nhưng tôi cảm thấy cô gật đầu.

Cô đang mặc áo len dệt kim và váy mỏng dài đến gối, nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra rằng bên dưới cô hoàn toàn chẳng mặc gì. Thế là tôi gần như là tự động cương cứng lên. Hình như cô cũng biết điều đó. Tôi nghe hơi thở ấm áp của cô trên cổ mình.

Rốt cuộc tôi đã không ngủ với cô. Nhưng tôi vẫn phải "sạc pin" cho cô mãi tới 2 giờ sáng. Cô nài tôi ở lại cho tới khi nào cô ngủ đươc. Tôi bế cô vào giường, ấn cô vào trong chăn. Nhưng mãi mà cô vẫn thức. Cô thay đồ ngủ, và tôi vẫn cứ ôm cô, "sạc pin" cho cô. Trong vòng tay tôi, tôi cảm thấy hai bầu má cô nóng bừng, tim cô đập mạnh. Tôi không biết mình làm vậy có đúng không, nhưng tôi chẳng biết phải làm gì khác trong tình thế này. Việc đơn giản nhất hẳn là ngủ với cô ta, nhưng tôi ra sức xua cái khả năng đó ra khỏi tâm trí. Bản năng mách bảo tôi chớ làm vậy.

- Xin anh đừng ghét em vì chuyện này, - cô nói. - Điện của em còn ít quá. Em không chịu nổi.

- Đừng lo, - tôi nói. - Anh hiểu mà.

Tôi biết mình nên gọi điện về nhà, nhưng tôi có thể nói gì với Kumiko đây? Tôi không muốn nói dối, nhưng tôi biết việc sẽ không thể nào giải thích chuyện này cho nàng hiểu. Vả chăng, gọi cũng chẳng ích gì. Điều gì tới thì sẽ tới. Tôi rời căn hộ của cô ta lúc 2 giờ sáng, về đến nhà thì đã 3 giờ. Khó khăn lắm mới tìm được taxi.

Dĩ nhiên là Kumiko nổi giận đùng đùng. Nàng đang ngồi bên bàn bếp, vẫn thức chong chong, đợi tôi. Tôi nói tôi ra ngoài uống rượu và chơi mạt chược với mấy tay đồng nghiệp ở cơ quan. Gọi điện về nhà nhắn một tiếng, có khó gì đâu, sao anh không gọi? nàng hỏi. Chả hiểu thế nào mà anh không nghĩ ra, tôi nói. Nàng không tin, và lời nói dối thấy ngay là quá lộ liễu. Đã nhiều năm nay tôi không chơi mạt chược, lại nữa tôi vốn dĩ không biết nói dối trong bất kỳ trường hợp nào. Rốt cuộc tôi đành thú nhận sự thật. Tôi kể cho nàng toàn bộ câu chuyện từ đầu tới cuối - dĩ nhiên là trừ chi tiết cương cứng -, cố lặp đi lặp lại và nhấn mạnh rằng tôi tuyệt chẳng làm gì cô kia.

Kumiko không nói năng gì với tôi suốt ba ngày liền. Thực sự là không một lời nào. Nàng ngủ ở phòng khác, ăn cũng một mình. Đây là cuộc khủng hoảng căng nhất từ khi chúng tôi lấy nhau. Nàng quả thật giận tôi lắm, và tôi rất hiểu tâm trạng này ra sao.

Sau ba ngày không hé răng, Kumiko hỏi tôi: - Nếu anh ở vào địa vị của em thì anh nghĩ sao? - Đó là câu đầu tiên của nàng. - Nếu như em cũng mãi ba giờ sáng Chủ nhật mới về nhà mà thậm chí không thèm gọi điện thoại? "Em đã nằm trên giường suốt với một gã đàn ông, nhưng anh đừng lo, em chẳng làm gì hết, tin em đi mà. Em chỉ sạc lại pin cho anh ta thôi. Thôi nào, mình ăn sáng rồi đi ngủ nhé". Nếu em nói thế, liệu anh có nổi điên lên không? Liệu anh có tin em không?

Tôi lặng thinh.

- Mà anh thì còn tệ hơn thế! - Kumiko nói tiếp. - Anh đã nói dối em. Anh bảo nào là anh uống rượu, nào là anh chơi mạt chược. Nói dối như cuội! Sao anh có thể nghĩ rằng em sẽ tin anh không ngủ với ả đó cơ chứ?

- Anh xin lỗi là đã nói dối, - tôi nói. - Lẽ ra anh không bao giờ nên làm vậy. Chỉ vì anh thấy giải thích sự thật thì khó quá. Anh muốn em tin một điều: thực sự là anh đã không làm gì sai cả.

Kumiko tựa đầu lên bàn. Tôi cảm thấy như không khí trong phòng đang dần dần mỏng đi.

- Anh không biết nói gì nữa, - tôi nói. - Anh không biết giải thích cách nào hơn là xin em hãy tin anh.

- Thôi được. Nếu anh muốn em tin anh thì em tin, - nàng nói. - Nhưng em muốn anh nhớ một điều: rồi sẽ có lúc em làm một chuyện tương tự như thế. Chừng đó thì em muốn anh hãy tin em. Em có quyền đó.

Kumiko chưa hề sử dụng cái quyền đó. Thỉnh thoảng tôi lại thử hình dung mình sẽ cảm thấy ra sao nếu nàng làm vậy. Hẳn là tôi sẽ tin nàng, nhưng phản ứng của tôi chắc chắn cũng sẽ phức tạp, khó lường như phản ứng của Kumiko. Sao cứ phải làm một việc như thế, để làm gì chứ? Đó chính là điều mà hôm đó Kumiko đã nghĩ về tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-8-2012 20:30:51 | Xem tất


- Chim vặn dây cót ơi, - có tiếng gọi tôi từ ngoài vườn. Đó là Kasahara May.

Vừa lau tóc tôi vừa ra ngoài hiên. Cô bé đang ngồi vắt vẻo trên ban công mà cắn móng tay. Cô vẫn đeo cặp kính hoa râm như khi tôi gặp lần đầu, mặc quần vải bông màu kem, áo phông đen. Tay cô cầm một chiếc dập ghim.

- Em trèo qua đó, - cô vừa nói vừa chỉ bức tường bêtông. Rồi cô phủi bụi bám vào quần. - Em cứ đoán hú họa: chắc nhà này đây. May quá, đúng là nhà anh! Thử nghĩ mà xem, nhỡ em trèo vào nhầm nhà thì sao!

Cô rút trong túi ra một gói Hope, châm một điếu.

- Công việc thế nào hở Chim vặn dây cót?

- Làng nhàng thế thôi.

- Em sắp đi làm đây, - cô nói. - Đi với em đi? Bọn em làm việc theo nhóm hai người, mà nếu em cặp với một người quen thì tố-ố-ốt quá! Phải một tay lạ hoắc thì thể nào cũng hạch hỏi đủ thứ, nào "Em mấy tuổi rồi", rồi lại "Sao không đi học?" Mệt lắm! Mà nhỡ ra gặp một thằng bệnh hoạn tính dục thì gay to. Chuyện gì cũng có thể xảy ra mà, anh biết đấy! Nào, đi với em nhé. Chim vặn dây cót. Làm ơn đi mà!

- Có phải đó là công việc mà em có lần kể với anh không, điều tra gì gì đó cho hãng làm tóc giả ấy?

- Đấy đấy, - cô nói. - Anh chỉ phải làm mỗi một việc là đếm số người hói đầu ở khu Ginza, từ một giờ đến bốn giờ. Dễ như ăn ớt ấy! Mà cũng có ích cho anh nữa. Cứ cái kiểu này thì lúc nào đấy anh cũng sẽ hói đầu thôi; bây giờ tạm thời còn tóc, anh nên tìm hiểu một chút đi là vừa.

- Ừ, nhưng còn em? Lỡ giám thị trường đi kiểm tra học sinh trốn học mà nhìn thấy em làm việc này ở Ginza giữa giờ học thì em tính sao?

- Có sao đâu, em sẽ bảo là em đang điều tra thực địa để nghiên cứu xã hội học. Em nói thế bao nhiêu lần rồi, hiệu nghiệm lắm đấy.

Do chưa định làm gì vào buổi chiều nên tôi quyết định đi cùng cô bé xem sao. Kasahara May gọi điện về công ty báo rằng chúng tôi sẽ tới. Trên điện thoại, cô chuyển thành một phụ nữ trẻ rất đoan trang nền nã:

- Vâng, thưa ông, tôi muốn lập nhóm với anh ấy, đúng vậy, vâng, cám ơn ông rất nhiều, vâng, tôi hiểu, vâng, chúng tôi sẽ đến vào đúng giữa trưa.

Tôi để lại mấy chữ cho Kumiko nhắn rằng tôi sẽ về trước 6 giờ, phòng trường hợp nàng về sớm, rồi ra khỏi nhà cùng với Kasahara May.

Hãng làm tóc giả nằm ở khu Shinbashi. Trên xe điện ngầm, Kasahara May giải thích cho tôi cách tiến hành điều tra. Chúng tôi sẽ đứng ở một góc phố mà đếm tất cả những người hói (hay những người đang rụng tóc) đi ngang qua. Chúng tôi phải phân loại cho tùy theo mức độ hói: C là những người mới rụng chút ít, B là đã rụng nhiều, A là hoàn toàn hói. May rút trong cặp hồ sơ ra một cái bìa gấp rồi mở ra chỉ cho tôi xem ảnh mẫu của ba giai đoạn.

- Anh hiểu rồi chứ, đầu nào xếp vào loại nào ấy mà? Em không đi vào chi tiết đâu. Phải mất cả ngày đấy. Nhưng anh cũng hiểu đại khái chứ, đầu nào xếp loại nào ấy?

- Tàm tạm, - tôi nói, nhưng chẳng tỏ ra tự tin cho lắm.

Bên cạnh Kasahara May có một quý ông béo núc ních ra dáng dân công sở, cái đầu dứt khoát là thuộc loại B; quý ông cứ liếc mãi cái bìa có những tấm ảnh mẫu trên tay Kasahara May, vẻ bồn chồn ra mặt, nhưng cô bé dường như hoàn toàn không chú ý đến ông ta.

- Em sẽ đảm nhiệm việc phân loại, còn anh đứng cạnh em cầm tờ điều tra. Anh chỉ việc ghi vào A, B hay C, em bảo gì anh ghi nấy. Chỉ có vậy thôi. Dễ mà, phải không?

- Nói chung thì dễ, - tôi nói. - Nhưng điều tra như vậy rồi thì để làm gì?

- Em chả biết, - cô nói. - Họ làm vậy ở khắp Tokyo - ở Shinjuku, Shibuya, Aoyama. Chắc họ muốn tìm hiểu xem khu nào có nhiều người hói nhất. Hoặc họ muốn biết tỷ lệ A, B, C trong dân số. Ai mà biết được? Họ có nhiều tiền quá không biết xài đâu cho hết ấy mà. Cho nên họ mới vung tiền ra làm mấy trò như vậy. Nghề tóc giả lãi ối tiền đấy. Nhân viên của họ được hưởng lương hậu hỹ hơn mấy công ty kinh doanh thương mại nhiều. Anh biết vì sao không?

- Không. Vì sao?

- Tóc giả đâu có dùng được lâu. Em cá là anh không biết: tóc giả chỉ dùng được hai năm, cùng lắm là ba năm. Tóc giả làm càng tốt, chất lượng càng cao thì càng chóng phải thay. Nói gì thì nói, nó là sản phẩm tiêu dùng ấy mà. Ấy là vì nó vừa khít đầu của người ta quá thành thử tóc bên dưới lại càng mọc thưa hơn nữa. Mà hễ tóc thưa hơn thì lại phải mua bộ tóc giả mới cho khớp. Anh cứ thử nghĩ xem: Giả dụ anh đội tóc giả, thế rồi hai năm sau không dùng được nữa, liệu anh có nghĩ: Chà, tóc giả này hết xài được rồi. Không đội được nữa. Nhưng mua cái mới thì đắt quá, nên từ mai mình sẽ đi làm không đội tóc giả. Liệu anh có nghĩ thế không?

Tôi lắc đầu. - Chắc là không, - tôi nói.

- Dĩ nhiên rồi. Một khi đã phải đội tóc giả là cứ phải đội mãi. Như là số trời bắt vậy rồi. Cho nên hội làm tóc giả mới phất to thế. Nói thì em cũng chả muốn nói, nhưng thật ra họ chẳng khác gì bọn buôn lậu thuốc phiện. Đã mắc câu của họ thì cứ thế làm khách hàng của họ cả đời. Anh đã bao giờ nghe nói tới anh chàng hói nào bỗng dưng lại mọc tóc chưa? Em thì chưa bao giờ nghe. Tóc giả tệ lắm cũng nửa triệu yên một bộ, oách thì phải tới một triệu. Thế mà cứ hai năm anh phải mua một bộ mới! Trời ạ! Ngay cả xe hơi cũng xài được lâu hơn thế, những bốn, năm năm. Anh lại còn có thể đổi xe mới nữa chứ!

- Anh hiểu, - tôi nói.

- Thế đã hết đâu, họ còn có cửa hiệu làm tóc nữa. Họ giặt tóc giả và cắt tóc thật cho khách hàng. Cứ tưởng tượng mà xem: làm sao anh có thể tới hiệu cắt tóc bình thường, ngồi xuống ghế, lột tóc giả ra rồi bảo người ta tỉa tóc cho anh được! Chỉ cần mấy cửa hiệu đó không thôi cũng đủ cho họ hốt bạc rồi!

- Chuyện gì em cũng rành quá nhỉ! - tôi nói, thật sự khâm phục cô. Ông bạn làm công sở thuộc loại B ngồi bên cạnh May lắng nghe chúng tôi như nuốt từng chữ.

- Có gì lạ đâu, - cô nói. - Mấy người ở công ty thích em lắm. Họ kể với em đủ thứ chuyện. Ngành kinh doanh này lãi khủng khiếp. Họ làm tóc giả ở Đông Nam Á và những nơi tương tự, vì nhân công rẻ. Họ mua cả tóc ở đó nữa, ở Thái Lan hay Philippin. Phụ nữ ở mấy xứ đó bán tóc cho các công ty làm tóc giả. Ở một số nơi, họ làm vậy để có tiền làm của hồi môn. Thế giới này kỳ quặc thật! Cái tay ngồi cạnh anh thật ra đang mặc tóc thật của cô nàng nào đó ở Indonesia đấy.

Một cách bản năng, cả quý ông công chức (loại B) lẫn tôi đều ngoài cổ nhìn những người khác ở trong toa.

° ° °


Chúng tôi dừng ở văn phòng công ty tại Shinbashi để lấy một phong bì to đựng phiếu điều tra và bút chì. Công ty này hẳn phải đứng hàng thứ hai trong số các hãng làm tóc giả, nhưng lại có vẻ yên ắng khác thường, thậm chí nơi cửa chính chẳng có lấy một cái biển tên để khách ra vào khỏi bở ngỡ. Cả phong bì lẫn mấy tờ phiếu điều tra đều không thấy đề tên công ty. Ở phòng phụ trách điều tra, tôi điền tên, tuổi, địa chỉ, trình độ học vấn vào một mẫu đăng ký làm bán thời gian. Cái văn phòng này im ắng đến lạ. Chẳng ai thét lác vào điện thoại, chẳng ai xắn tay áo lên hì hục gõ bàn phím. Mỗi nhân viên đều ăn mặc tươm tất, lặng lẽ tập trung làm việc của mình. Vốn là một công ty làm tóc gia nên quả thật chẳng ai ở đây bị hói đầu cả. Cũng có thể vài ba người đang đội sản phẩm của công ty, nhưng tôi chịu không phân biệt được ai tóc thật ai tóc giả. Trong tất cả các công ty tôi từng đến, đây là công ty kỳ lạ nhất.

Chúng tôi đi xe điện ngầm đến khu Ginza. Vẫn còn sớm và lại đang đói, nên chúng tôi ghé quán Dairy Queen làm một cái hamburger.

- Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, nếu bị hói thì anh có đội tóc giả không? - Kasahara May hỏi.

- Anh chưa biết, - tôi nói. - Anh không thích những việc rầy rà, mất thì giờ. Thành thử nếu bị hói chắc anh cũng để mặc thôi.

- Hay đấy, - cô vừa nói vừa dùng khăn giấu lau xốt cà chua dính trên miệng. - Thử nghĩ mà xem, người hói trông cũng đâu đến nỗi xấu như họ nghĩ. Theo em, chẳng việc gì phải lo sốt vó về nó như vậy.

- Ừ, - tôi nói.

° ° °


Suốt ba tiếng đồng hồ sau đó chúng tôi ngồi nơi lối xuống xe điện ngầm gần Tòa nhà Wako mà đếm những người đàn ông hói đi ngang qua. Nhìn xuống những cái đầu lên xuống cầu thang là cách chính xác nhất để xác định mức độ hói của bất kỳ cái đầu nào. Kasahara May thì nói "A", "B" hay "C", tôi thì ghi vào phiếu. Rõ là cô bé đã làm việc này nhiều lần rồi. Cô chẳng bao giờ lúng túng, ngập ngừng hay tự đính chính, mà phân loại từng cái đầu một cách cực kỳ nhanh chóng và chính xác, phát âm các chữ cái bằng giọng khe khẽ để người qua kẻ lại không để ý. Mỗi khi có một đám nhiều cái đầu hói cùng xuất hiện thì cô tuôn một tràng dài "CCBABCAACCBBB" như súng liên thanh. Đến một lúc, một ông cụ dáng người lịch lãm (bản thân ông có cả một đầu tóc bạc phơ như tuyết) dừng lại xem chúng tôi tác nghiệp. - Xin lỗi, - một hồi sau ông nói, - cho phép tôi hỏi quý vị đang làm gì đấy?

- Làm điều tra, - tôi đáp.

- Điều tra gì kia? - ông hỏi.

- Nghiên cứu xã hội học, - tôi đáp.

- CACABC, - Kasahra May nói.

Cụ ông lịch lãm xem chừng chẳng tin là mấy, nhưng ông chỉ quan sát chúng tôi thêm một lát rồi phẩy tay bỏ đi.

Khi cái đồng hồ Mitsukoshi phía bên kia đường chỉ đúng 4 giờ, chúng tôi kết thúc buổi điều tra và trở lại quán Dairy Queen làm một tách cà phê. Công việc này không tốn sức nhiều, thế mà cổ và vai tôi tê cứng đến là lạ. Có thể vì tính chất công việc, chúng tôi đếm những cái đầu hói một cách vụng trộm, nên tôi mang cảm giác có lỗi thế nào đó. Suốt quãng thời gian ngồi xe điện ngầm trở lại văn phòng công ty ở Shinbashi, tôi chợt nhận ra mình đang tự động phân loại A, B, C bất cứ cái đầu hói nào lọt vào tầm mắt, điều đó khiến tôi hầu như buồn nôn. Tôi muốn dừng ngay, nhưng cái quán tính nào đó đã bắt đầu vận hành rồi, không cưỡng lại được. Chúng tôi nộp các phiếu điều tra rồi nhận tiềng công, khá là hậu hỹ so với thời gian và công sức bỏ ra. Tôi ký biên nhận rồi đút tiền vào túi. Kasahara May và tôi đón xe điện ngầm đến Shinjuku, từ đó chuyển sang tuyến Odakyu để về nhà. Giờ cao điểm chiều đã bắt đầu. Khá lâu tôi mới đi lại trên một chuyến tàu đông khách thế này, song tôi chẳng có cảm giác bồi hồi gì mấy.

- Công việc không tồi chứ hở, - đứng cạnh tôi trên tàu, Kasahara May nói. - Việc nhẹ nhàng, thù lao lại khá.

- Ừ, - tôi nói, miệng mút keo chanh.

- Lần sau lại đi với em nhé? Mỗi tuần một lần.

- Sao lại không? - tôi nói.

- Này Chim vặn dây cót, anh biết không, - Kasahara May nói sau một thoáng im lặng, như thể có một ý nghĩ vừa đột ngột đến với cô, - em cá rằng sở dĩ người ta sợ bị hói là do hói đầu khiến họ nghĩ mình sắp tới số rồi. Ý em là, khi tóc bắt đầu rụng, người ta thấy như đời mình cũng đang tàn dần đi... như thể mình đã xoải một bước dài về phía cái chết, về phía miệng lỗ vậy.

Tôi ngẫm nghĩ một lát.

- Chắc hẳn cũng có một số người nghĩ thế, - tôi nói.

- Anh biết không, Chim vặn dây cót, thỉnh thoảng em tự hỏi chết dần từng tí một suốt một thời gian dài đằng đẵng thì như thế nào. Anh nghĩ sao?

Chưa hiểu cô muốn nói gì, tôi liền đổi thế nắm quai treo giữ thăng bằng mà nhìn thẳng vào mắt cô.

- Chết dần từng tí một... nghĩa là sao? Em cho một ví dụ cụ thể được không?

- Em chả biết nữa... Ví như anh bị nhốt trong bóng tối, tối như hũ nút, anh trơ trọi một mình, không đồ ăn, không nước uống, thế là anh chết từ từ...

- Thế thì kinh khủng lắm, - tôi nói. - Rất đau đớn. Anh chẳng muốn chết vậy tí nào.

- Nhưng chẳng phải đời là vậy sao, hở Chim vặn dây cót? Chẳng phải tất cả chúng ta đều bị nhốt trong bóng tối ở đâu đó, người ta lấy đi hết đồ ăn nước uống của chúng ta, thế là chết từ từ, chết dần chết mòn...?

Tôi phá lên cười.

- Em còn trẻ quá mà sao lại pessimistic thế, - tôi nói, dùng chữ tiếng Anh.

- Pessi... cái gì cơ?

- Pessimistic. Nghĩa là bi quan, chỉ nhìn vào khía cạnh đen tối của sự vật.

- Pessimistic, pessimistic... - cô lặp lại từ tiếng Anh mấy lần, rồi nhìn lên tôi với ánh mắt giận dữ. - Em mới có mười sáu tuổi, em chưa biết nhiều về thế giới này, nhưng có một điều em biết chắc chắn. Nếu như em bi quan thì những người lớn nào không bi quan trên đời này thảy đều là một lũ ngốc.

--------------------------------
1.Phòng khách sạn hạng sang, gồm một dãy nhiều phòng - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 19:52:13 | Xem tất


Chương 10
Mát Tay

Chết Trong Bồn Tắm

Sứ Giả Trao Kỷ Vật


Vợ chồng tôi chuyển đến căn nhà đang sống hiện nay kể từ mùa hè năm thứ hai sau khi lấy nhau. Căn hộ ở Koenji mà chúng tôi vẫn sống trước đó đã bị san phẳng để xây dựng lại. Chúng tôi tìm một căn hộ vừa rẻ tiền vừa tiện nghi để chuyển đi, nhưng với túi tiền của chúng tôi thì tìm một chỗ như vậy không dễ. Khi ông cậu tôi biết chuyện đó, ông liền đề nghị chúng tôi chuyển đến sống ở căn nhà của ông tại Setagaya. Căn nhà này ông mua từ hồi còn trẻ và từng sống ở đó mười năm. Ông muốn dỡ căn nhà cũ để xây một căn nhà mới đa chức năng hơn, nhưng quy chuẩn kiến trúc không cho phép ông xây đúng kiểu nhà ông muốn. Nghe đồn rằng quy định sẽ được nới lỏng; ông sẵn sàng đợi tới khi đó, nhưng nếu bỏ không căn nhà trong suốt thời gian đó thì ông vẫn phải nộp thuế, mà nếu cho người lạ thuê thì nhỡ đâu khi cần đòi nhà người ta lại không chịu đi. Ông chỉ cần chúng tôi trả tiền nhà đủ để nộp thuế, song đổi lại chúng tôi phải dọn đi trong vòng ba tháng khi nào ông yêu cầu. Chúng tôi chẳng có gì phản đối: chuyện thuế thiếc này nọ thì chúng tôi không rõ lắm, nhưng chúng tôi chộp ngay cơ hội này để được sống trong một căn nhà ra nhà, dù chỉ trong một thời gian không lâu, mà chỉ phải trả tiền thuê nhà như khi sống trong một căn hộ (mà là căn hộ rẻ tiền nữa chứ). Căn nhà ở rất gần bến xe gần nhất trên tuyến Odakyu, nhưng khu dân cư quanh đó rất chi là yên tĩnh, đã vậy lại còn có một khoảnh vườn nhỏ. Cho dù căn nhà không phải của chúng tôi, nhưng ngay khi dọn về, nó lập tức cho chúng tôi cảm giác từ nay chúng tôi thực sự là "gia chủ".

Ông cậu này, em của mẹ tôi, chẳng bao giờ đòi hỏi gì ở chúng tôi. Hẳn vì ông vốn là người tử tế, nhưng kiểu ông để mặc chúng tôi có cái gì đó hơi kỳ quặc. Dẫu sao, trong tất cả những người bà con, ông là người tôi yêu quý nhất. Ông từng tốt nghiệp một trường ở Tokyo rồi làm nghề phát thanh viên radio, nhưng được mười năm, một hôm ông tuyên bố "Đủ rồi!", đoạn ông thôi việc ở đài phát thanh mà đi mở một quán bar ở khu Ginza. Quán nhỏ và khiêm nhường thôi, nhưng lại rất nổi tiếng nhờ những món cocktail độc nhất vô nhị, và chỉ trong vài năm ông cậu đã có trong tay cả một loạt quán bar và nhà hàng. Mọi cơ sở của ông đều làm ăn hết sức phát đạt, dường như ông quả thật có duyên làm kinh doanh. Có lần, hồi tôi còn đi học, tôi đã hỏi tại sao ông đi đến đâu là thành công đến đó như vậy. Tại sao, cùng một địa điểm ở Ginza mà kẻ khác mở nhà hàng là thất bại, đến lượt ông mở cùng một loại nhà hàng đó thì lại thành công đến thế? Tại sao vậy? Ông liền xòe hai lòng bàn tay ra trước mặt tôi mà nói: "Cậu vốn mát tay mà", ông chỉ nói thế. Xét vẻ nghiêm trang của ông, tôi hiểu ông không đùa.

Có thể ông quả là "mát tay" thật, nhưng ông còn có cái tài tìm được những người có năng lực để làm việc cho ông. Ông trả lương cho họ rõ cao và đối xử với họ tử tế, đổi lại họ làm việc cho ông hết lòng hết dạ. "Mỗi khi cậu tìm được đúng người, cậu dúi ngay vào tay anh ta một nắm tiền và cho anh ta làm đúng sở trường của mình", có lần ông bảo tôi. "Cái gì mua được bằng tiền thì phải bỏ tiền mua, đừng đắn đo hơn thiệt. Hãy để dành tâm lực cho những cái mà tiền không mua được".

Ông lấy vợ muộn. Chỉ khi đã khá thành công về tài chính ở độ tuổi ngoài bốn mươi, ông mới chịu yên bề gia thất. Vợ ông từng ly dị chồng, trẻ hơn ông ba bốn tuổi và cũng có tài sản kha khá. Cậu chưa bao giờ kể cho tôi nghe đã gặp bà như thế nào, tôi chỉ có thể nói bà thuộc loại người trầm lặng, gia đình nền nếp. Họ không có con. Với người chồng trước bà cũng chẳng có con, có lẽ vì vậy mà hai vợ chồng ly dị. Dù thế nào thì thế, vào tuổi ngoại tứ tuần, cậu tôi giàu thì chưa hẳn đã giàu nhưng cũng không phải đầu tắt mặt tối vì chuyện tiền nong nữa. Ngoài lợi nhuận từ mấy nhà hàng và quán bar, ông còn có thu nhập từ mấy ngôi nhà và căn hộ cho thuê, lại còn lợi tức đều đặn từ mấy khoản đầu tư nữa. Dòng họ tôi, vốn mang truyền thống coi trọng những nghề danh giá và lối sống thanh bạch, có khuynh hướng coi cậu tôi như một thứ chiên ghẻ, trong khi bản thân ông cũng chẳng mặn mà gì với bà con họ hàng. Tuy nhiên, là cháu trai của ông, tôi luôn được ông quan tâm chăm sóc, nhất là sau khi mẹ tôi mất đúng vào năm tôi vào đại học và tôi đâm ra bất hòa với cha từ khi ông tục huyền. Khi tôi sống đời sinh viên nghèo kiết, một thân một mình ở Tokyo, cậu thường cho tôi ăn cơm tại một trong các nhà hàng của ông ở khu Ginza.

Hiện nay cậu tôi cùng vợ đang sống ở một căn hộ trên đồi ở Azabu, chả là ông cho rằng sống trong một biệt thự thì phiền phức quá. Tính ông không ưa xa hoa, nhưng ông cũng có một sở thích riêng. Đó là chơi xe quý hiếm. Ông có một chiếc Jaguar và một chiếc Alpha Romeo trong ga-ra, cả hai đều rất cổ, được chăm chút cực kỳ cẩn thận, ngời sáng như những đứa trẻ mới chào đời.


° ° °


Có lần, trong khi nói chuyện với cậu qua điện thoại về một chuyện khác, tôi nhân cơ hội hỏi xem ông biết gì về gia đình Kasahara May.

- Cháu bảo là Kasahara à? - Ông ngẫm nghĩ một chút. - Cậu chưa nghe bao giờ. Hồi sống ở đó cậu chưa lập gia đình, chẳng đi lại gì với hàng xóm xung quanh hết.

- Thật ra, cháu quan tâm là quan tâm tới căn nhà đối diện nhà họ cơ, cái nhà bỏ không bên kia ngõ, nhìn sang sân sau nhà Kasahara ấy, - tôi nói. - Nghe đâu hồi trước có người tên là Miyawaki sống ở đấy. Nay thì cửa đóng im ỉm.

- À, Miyawaki, ông ấy thì cậu biết. Hồi trước ông ấy có mấy cái nhà hàng kia. Có một cái cũng ở khu Ginza. Cậu gặp ông ấy vài lần vì công việc. Nhà hàng của ông ấy, nói thật với cháu, cũng làng nhàng thôi, nhưng địa thế thì tuyệt, làm ăn cũng được. Ông ta tính người cũng dễ chịu, nhưng có phần cậu ấm thế nào ấy. Hoặc cả đời ông ta chưa bao giờ biết làm lụng vất vả là gì, hoặc ông ta không nắm bắt được công việc, cậu chẳng biết, nhưng ông ta chưa bao giờ thực sự trưởng thành. Ai đó rỉ tai nói ngon nói ngọt với ông ta, thế là ông ta dốc hết tiền của ra mua những cổ phiếu đáng ngờ, thế là mất sạch sành sanh - nhà cửa, đất đai, nhà hàng, mất hết. Mà đã xui lại còn xui tận mạng: đúng lúc ông ta đang muốn mở nhà hàng mới nên đã đem thế chấp cả nhà, cả đất. Khác nào ông ta vừa dỡ đi cây cọc chống rào thì gió bỗng nổi lên, thế là sụp hết. Cậu nhớ đâu như ông ấy có hai đứa con gái đang tuổi đi học.

- Hẳn là ngôi nhà bị bỏ hoang từ đó đến nay, - tôi nói.

- Cháu bảo sao? Thật thế à? Vậy thì chắc người ta đã tịch biên nhà cửa với gia sản của ông ấy rồi. Cháu đừng có mà mua cái nhà ấy, dù người ta chào giá hời đến đâu đi nữa.

- Ai kia? Cháu ấy à? - tôi phá lên cười. - Cháu làm gì có tiền mua cái nhà như thế cơ chứ. Nhưng sao cậu nói vậy?

- Hồi mới mua nhà, ban đầu cậu đã xem cái nhà ấy kia. Nó có cái gì đó không ổn.

- Ý cậu là nhà có ma?

- Ma hay không chưa biết, nhưng cậu chưa hề nghe một chuyện gì tốt lành về cái nhà ấy cả, - cậu tôi nói. - Hồi trước chiến tranh có một ông sĩ quan khá tiếng tăm từng sống ở căn nhà đó. Đại tá gì gì ấy, sĩ quan cao cấp hẳn hoi. Quân đội dưới trướng ông ta ở Bắc Trung Hoa giành được đủ thứ huy chương, nhưng cũng làm nhiều chuyện kinh khủng ở đó, chẳng hạn như thủ tiêu năm trăm tù binh, buộc hàng vạn nông dân phải lao động khổ sai cho đến khi tới một nửa chết rục, vân vân. Người ta đồn đại những chuyện như thế, thực hư chẳng biết thế nào. Ngay trước khi chiến tranh chấm dứt ông ta bị triệu hồi về nước, khi Nhật đầu hàng thì ông ta đang ở Tokyo, và với từng ấy chuyện thì cầm chắc ông ta phải ra tòa án binh. Những vị nào tướng tả, nào sĩ quan từng tác oai tác quái ở Trung Hoa đều bị quân cảnh Mỹ lôi đi tuốt. Ra tòa thì ông ta không muốn. Ông ta không muốn bị bêu ra trước bàn dân thiên hạ, có khi còn bị treo cổ không chừng. Ông ta thà tự kết liễu đời mình còn hơn để điều đó xảy ra. Thế là một ngày kia, vừa thấy một tay quân cảnh Mỹ đỗ xịch xe jeep trước cửa nhà, ông ta bèn tự bắn vỡ sọ ngay tại chỗ. Lẽ ra ông ta thích tự rạch bụng theo lối samurai truyền thống hơn nhưng không đủ thì giờ. Vợ ông ta thì treo cổ trong bếp để "theo" ông ta về cõi chết.

- Chao ôi!

- Sau đó người ta mới biết, hóa ra đó chỉ là một tên quân cảnh mèng đang đi tìm con bồ. Hắn đi lạc, muốn hỏi đường. Cháu cũng biết rồi còn gì, hễ đã vào khu ấy là tìm đường cực khó. Biết được khi nào là lúc mình chết, chuyện đó không đơn giản đâu, ai cũng vậy thôi.

- Đúng đấy ạ.

- Sau đó căn nhà bị bỏ trống một thời gian, cho đến khi có một nữ minh tinh điện ảnh mua lại. Tên bà ấy chắc cháu không biết đâu. Bà ta đóng phim từ lâu rồi, vả lại cũng chẳng lấy gì làm nổi tiếng cho lắm. Bà ta sống ở đấy chừng mười năm gì đó. Bà ta độc thân, chỉ sống với cô hầu gái thôi. Vài năm trước khi chuyển đến nhà đó, bà ta mắc một chứng bệnh gì đấy về mắt. Bà ta nhìn cái gì đó, dù ở rất gần, cũng như trong màn sương. Nhưng nói gì thì nói, bà ta là nghệ sĩ: bà ta không thể đeo kính mà đóng phim được. Mà kính sát tròng thì hồi đó còn mới mẻ quá, chẳng tốt lắm, nên hầu như không ai dùng. Thành thử trước khi đóng cảnh nào, bà ta luôn luôn đến chỗ trường quay để học thuộc lòng xem mình đi từ A đến B, chẳng hạn từ tường đến cửa thì phải mất bao nhiêu bước. Nói chung bà ta vẫn thu xếp cách nào đó được, vì đó chỉ là những bộ phim cũ của hãng Shochiku, khá đơn giản, cảnh quay toàn trong nhà thôi. Hồi đó cái gì cũng thoải mái hơn bây giờ. Thế rồi một hôm, sau khi bà ta đã kiểm tra kỹ địa điểm quay rồi trở lại phòng thay đồ, có một tay quay phim trẻ không biết ất giáp gì nên đã di chuyển cái này một tí, cái kia một tí.

- Ôi trời ơi!

- Bà ta bước hụt chân, trượt ngã, sau đó thì không đi lại được nữa. Và thị lực của và ta càng tồi tệ hơn, đến gần như mù hẳn. Tội nghiệp: bà ta vẫn còn trẻ, vừa trẻ lại vừa đẹp. Dĩ nhiên là chẳng đóng phim đóng phiếc gì nữa. Bà ta chỉ còn làm được mỗi một việc là ngồi nhà. Thế rồi cô hầu gái cuỗm sạch tiền của bà ta mà bỏ trốn với một tay nào đó. Đó là cô hầu gái mà bà ta tin tưởng, bà ta cậy nhờ từ những việc cỏn con, thế mà nó cuỗm hết của bà ta: nào cổ phiếu, nào tiền tiết kiệm, khoắng sạch. Chuyện thật khủng khiếp! Cháu thử nghĩ xem bà ta làm gì nào?

- Chắc hẳn là kết cục không thể tốt lành gì phải không ạ?

- Hẳn thế rồi, - cậu tôi nói. - Bà ta vặn nước đầy bồn tắm, vục mặt vào để tự sát. Tự cháu hiểu rồi đó, phải quyết tâm mạnh mẽ đến nhường nào thì mới có thể chết như vậy.

- Chẳng có gì tươi sáng hạnh phúc cả.

- Hẳn là thế, chẳng có gì tươi sáng hạnh phúc cả. Ít lâu sau thì Miyawaki mua căn nhà ấy. Nhà thì rõ là đẹp, ai thấy mà chẳng thích. Xung quanh toàn những người đàng hoàng, nhà xây trên chỗ cao, nhiều ánh nắng, khuôn viên rộng rãi. Nhưng Miyawaki cũng nghe nói về những chuyện thê lương xảy ra với những người từng sống ở đó. Thế là ông ta giật sập nhà, trốc móng lên, xây lại một căn nhà mới. Thậm chí ông ta còn mới mấy tu sĩ Thần đạo đến để thanh tẩy nhà, xua đuổi tà ma. Nhưng chắc là chẳng ăn thua gì. Ai sống ở đó rồi cũng gặp toàn chuyện rủi. Trên thế gian này có những nơi như vậy, thế thôi. Cho không cậu cũng chả lấy.
° ° °
Mua hàng ở siêu thị về, tôi sắp xếp các thức để chuẩn bị làm bữa tối. Sau đó tôi mang quần áo giặt vào nhà, xếp lại cẩn thận, cho vào tủ. Trở lại bếp, tôi pha một tách cà phê. Ngày hôm nay thật thanh bình, điện thoại không reo lấy một lần. Tôi duỗi người trên đi-văng đọc sách. Chẳng ai quấy rầy tôi. Thỉnh thoảng con chim vặn dây cót lại kêu dưới sân sau. Đó là âm thanh duy nhất tôi nghe thấy trong cả ngày hôm đó.

Lúc 4 giờ chiều có ai đó nhấn chuông cửa. Đó là người đưa thư. "Thư lưu ký", anh ta vừa nói vừa đưa tôi một phong bì dày. Tôi cầm lấy rồi đóng con dấu của mình lên tờ biên nhận.

Đây không phải một phong bì bình thường. Nó làm bằng loại giấy gạo kiểu xưa; người gửi đã rất kỳ công điền tên và địa chỉ của tôi bằng bút lông, với những nét to, đen. Tên người gửi ở mặt sau phong bì là Mamiya Tokutaro, địa chỉ là đâu đó ở tỉnh Hiroshima. Cả cái tên này lẫn cái địa chỉ này, tôi hoàn toàn mù tịt. Song xét theo nét chữ bút lông, ông Mamiya Tokutaro này là người trọng tuổi. Ngày nay hầu như không ai còn viết được như thế nữa.

Tôi ngồi trên sofa, dùng kéo rạch phong bì ra. Cả bức thư cũng theo kiểu cổ như chiếc phong bì, viết trên giấy gạo bằng thứ chữ lưu loát của một người rõ ràng có học thức. Bản thân tôi thiếu một nền tảng học thức như vậy nên đọc rất chật vật. Đã vậy lời lẽ cũng theo lối cổ như chữ viết, cực kỳ lễ phép rườm rà, khiến đã khó đọc càng thêm khó, nhưng dần dần tôi cũng nắm được ý chung. Thư viết rằng ông Honda, nhà chiêm tinh mà trước kia Kumiko và tôi vẫn năng thăm viếng, đã qua đời hai tuần trước tại nhà riêng ở Meguro vì một cơn đau tim. Ông sống một mình, không có ai bên cạnh vào lúc lâm chung, nhưng các bác sĩ cho rằng ông đi nhanh, không quá đau đớn - âu là trong bất hạnh cũng có cái đó là may mắn vậy. Sáng ra bà giúp việc mới phát hiện ông đã chết, gục mặt xuống chiếc bàn thấp đặt trên lò sưởi chân. Người viết thư, ông Mamiya Tokutaro, từng đóng quân ở Mãn Châu với hàm trung úy, từng vào sinh ra tử cùng trung sĩ Honda Oishi nơi chiến địa. Giờ đây, theo di nguyện của người đã khuất, và do Honda không có ai là bà con thân thích còn sống sót, ông Mamiya nhận trách nhiệm trao lại những di vật của người quá cố. Trước khi chết, chính Honda đã để lại những hướng dẫn cực kỳ cẩn thận về việc này. "Bản di chúc rất ư chi tiết và tỉ mỉ cho thấy ông Honda đã dự cảm mình sắp chết. Di chúc ghi rõ rằng ông Honda sẽ vô cùng sung sướng nếu ông Okada Toru vui lòng nhận một vật nho nhỏ làm kỷ vật về ông ấy. Tôi có thể hình dung ông bận rộn đến thế nào, thưa ông Okada, nhưng, với tư cách một chiến hữu từng đồng cam cộng khổ với người đã khuất, bản thân cũng chỉ còn sống được dăm năm nữa thôi, tôi xin cam đoan với ông rằng tôi sẽ còn sung sướng hơn thế nữa nếu ông có thể vui lòng nhận cho món quà mọn này như một di vật nho nhỏ để nhớ về ông Honda quá cố." Cuối thư là địa chỉ tạm trú của ông Mamiya tại Tokyo, tại nhà một người nào đó cũng tên là Mamiya ở khu 2, Hongo, quận Bunkyo. Chắc ông ta đang tá túc ở nhà một người quen.

Tôi viết thư phúc đáp ở bàn bếp. Tôi đã định dùng lời lẽ ngắn gọn, giản dị, nhưng khi đã cầm lấy bút, mấy câu vắn tắt ấy không sao tuôn ra được. "Tôi đã rất may mắn được quen biết ông Honda quá cố, dù không lâu nhưng sinh thời ông tôi đã chịu ơn ông nhiều. Được tin ông ấy không còn nữa, ký ức về những ngày ấy lại tràn ngập lòng tôi. Dĩ nhiên, tuổi tác hai chúng tôi chênh lệch, chúng tôi gặp nhau cũng chỉ trong vòng vỏn vẹn một năm, nhưng tôi luôn cảm thấy ở người quá cố có một cái gì đó làm lay động sâu sắc trái tim con người. Thật lòng mà nói, tôi không thể nào ngờ ông Honda sẽ nêu đích danh tôi để nhận một kỷ vật từ ông ấy, tôi cũng chẳng dám tin mình xứng đáng nhận của ông ấy dù bất cứ cái gì, nhưng nếu đó là ý nguyện của người quá cố thì nhất định rằng tôi sẽ xin cung kính chấp nhận. Mời ông liên lạc với tôi bất cứ lúc nào tiện cho ông."

Khi thả tấm bưu thiếp vào hộp thư gần nhất, tôi chợt nhận ra mình đang lẩm bẩm bài thơ của ông Honda:

Chết là cách duy nhất

để mi được bơi tự do

Nomonhan.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2012 19:55:24 | Xem tất


Mãi gần 10 giờ tối Kumiko mới đi làm về. Nàng đã gọi điện từ trước 6 giờ để báo rằng hôm nay nàng sẽ lại về muộn, rằng tôi cứ ăn một mình, còn nàng thì sẽ ăn tạm đâu đó ở ngoài. Được thôi, tôi nói, đoạn làm một bữa tối đơn giản rồi ngồi ăn. Một lần nữa tôi lại ngồi nhà một mình đọc sách. Khi về, Kumiko nói nàng muốn uống vài hớp bia. Chúng tôi cùng uống một lon cỡ vừa. Nàng có vẻ mệt mỏi. Tì cùi chỏ trên mặt bàn, nàng tựa cằm lên hai bàn tay, năm thì mười họa mới lên tiếng trong khi tôi nói chuyện. Nàng có vẻ bị quá tải. Tôi kể với nàng rằng ông Honda đã chết. - Ồ, thật sao? - nàng vừa nói vừa thở dài. "Mà phải, ông ấy già quá rồi, lại gần như điếc nữa còn gì." Khi tôi nói rằng ông có để lại cho tôi một kỷ vật, nàng bị sốc, như thể có cái gì đó đột ngột từ trên trời rơi xuống vậy.

- Cho anh á? - nàng kêu lên, mày nhíu lại.

- Ừ. Lạ quá phải không?

- Hẳn là ông ấy thích anh.

- Sao có chuyện đó được? Anh có bao giờ thật sự trò chuyện với ông ấy đâu, - tôi nói. - Ít nhất là phần anh hầu như chẳng nói gì nhiều. Mà dù anh có nói, ông ấy cũng có nghe được gì đâu. Chúng mình bao giờ cũng chỉ ngồi nghe ông ấy kể chuyện, mỗi tháng một lần. Mà hầu như ông ấy chỉ kể chuyện trận Nomonhan thôi: nào họ ném cocktail Molotov, xe tăng nào cháy xe nào không, đại loại thế.

- Em không biết, - Kumiko nói. - Ắt là ông ấy phải thích cái gì đó ở anh. Em không hiểu những người như vậy trong đầu họ nghĩ gì.

Sau đó nàng lại im lặng. Im lặng thật căng thẳng sao đó. Tôi liếc nhìn lịch treo tường. Vẫn chưa đến kỳ của nàng. Hẳn có chuyện gì khó chịu xảy ra với nàng ở cơ quan chăng?

- Em làm mệt quá phải không? - tôi hỏi.

- Một chút thôi, - Kumiko nói sau khi nhấp một ngụm bia rồi nhìn đăm đăm vào chỗ bia còn lại trong cốc. Giọng nàng gần như có vẻ thách thức. - Em xin lỗi vì đã về muộn như thế, nhưng anh cũng biết làm báo thì bận rộn ra sao rồi. Với lại có phải bao giờ em cũng bận thế đâu. Ấy là em đã xin được làm thêm ít hơn mọi người rồi đấy. Họ biết em có chồng đang đợi ở nhà mà.

Tôi gật đầu.

- Anh không trách gì em. Anh biết rằng thỉnh thoảng em phải làm muộn. Anh chỉ lo em làm quá sức thôi.

Nàng tắm rất lâu. Tôi vừa uống bia vừa lật qua tờ tuần san mà nàng mua về.

Tôi thọc tay vào túi quần thì đụng thấy khoản tiền thù lao mà công ty tóc giả đã trả cho tôi, vẫn còn nguyên trong phong bì. Có một việc nữa tôi đã không làm, đó là kể cho Kumiko về công việc này. Chẳng phải tôi muốn giấu nàng, đơn giản là tôi đã bỏ qua cơ hội để nhắc tới chuyện đó, mà cơ hội khác thì không có nữa. Càng lúc tôi càng cảm thấy khó nói về việc này hơn, chẳng hiểu tại sao. Tất cả những gì tôi có thể nói sẽ là: "Anh gặp cô bé mười sáu tuổi kỳ quặc này ở dưới phố và cùng cô ta đi làm điều tra cho một hãng làm tóc giả. Người ta trả công cũng hậu." Và Kumiko có thể sẽ nói: "Thật à? Hay nhỉ", rồi thôi. Nhưng cũng có thể không phải. Nàng có thể sẽ muốn biết nhiều hơn về Kasahara May. Nàng có thể sẽ bận tâm tới chuyện tôi đánh bạn với một cô bé mười sáu tuổi. Thế là tôi sẽ phải kể với nàng về Kasahara May, kể hết, nào gặp cô ta ở đâu, khi nào, bằng cách nào. Mà tôi thì chẳng giỏi gì trong việc giải thích cho ra đầu ra đũa những chuyện như thế.

Tôi rút tiền ra khỏi phong bì rồi cho vào ví. Phong bì thì tôi vò nát ném vào sọt rác. Bí mật bắt đầu như vậy đây, tôi nghĩ. Người ta dựng nên những điều bí mật từng tí một. Tôi đã không hề chủ ý giữ bí mật chuyện Kasahara May với Kumiko. Quan hệ giữa tôi với cô bé không phải là chuyện gì to tát, thành thử kể ra hay không cũng chả có gì hậu quả ghê gớm cả. Tuy nhiên, khi đã chảy qua một kênh vi tế nào đó, nó liền bị phú bức màn bí mật mời mờ ảo ảo, dù ý định ban đầu của tôi là thế nào đi nữa. Chuyện Kano Creta cũng vậy. Tôi đã kể với Kumiko rằng em gái của Kano Malta đã đến nhà, rằng tên cô ta là Creta, rằng cô ta ăn mặc theo mốt thập niên 1960, rằng cô ta đã lấy mẫu nước nơi vòi nước. Nhưng tôi không nói gì về chuyện sau đó bỗng dưng cô ta bắt đầu kể tuốt tuột những điều thầm kín nhất với tôi, rồi đang kể nửa chừng thì biến mất mà không nói một lời. Đến chuyện Kano Creta thì đã quá xa rồi: hẳn tôi sẽ không tài nào chuyển tải được hết mọi chi tiết tinh tế của nó cho Kumiko được, thành thử tôi không kể. Hoặc, Kumiko chắc hẳn sẽ khó mà thích thú nếu biết được rằng Kano Creta đã nán lại rất lâu sau khi xong việc mà thổ lộ với tôi bao nhiêu là tâm sự riêng tư.

Thế là chuyện đó lại trở thành một bí mật khác nữa của tôi. Có thể Kumiko cũng có những bí mật kiểu như vậy và cũng không cho tôi biết. Dĩ nhiên bản thân tôi cũng có những bí mật riêng, nên tôi không thể trách nàng được. Giữa hai chúng tôi, chắc chắn tôi là kẻ có nhiều bí mật hơn. Kumiko có khuynh hướng nghĩ gì nói nấy. Nàng thuộc loại người nói đến đâu nghĩ đến đấy. Tôi thì khác.

Cảm thấy bất an vì những suy nghĩ đó, tôi đi xuống buồng tắm. Cửa mở toang. Tôi đứng nơi cửa nhìn Kumiko từ phía sau. Nàng đã thay bộ pyjama xanh, đang đứng trước gương lau tóc bằng khăn tắm.

- Về công ăn việc làm của anh, anh cứ nghĩ mãi. Anh đã nhờ bạn bè tìm giúp, bản thân anh cũng đã thử vài nơi. Việc thì có đấy, nên anh có thể đi làm bất cứ lúc nào. Nếu đã quyết định, anh có thể đi làm ngay ngày mai. Nhưng chính cái việc quyết ấy mới khó. Anh không biết nữa. Anh không biết liệu có nên hễ có việc làm là chộp lấy ngay như vậy không.

- Chính vì vậy mà em không ngừng nhắc anh hãy làm những gì mình muốn, - nàng vừa nói vừa nhìn tôi trong gương. - Có ai bắt anh tìm việc ngay lập tức đâu nào. Nếu anh không yên tâm về mặt kinh tế thì cứ yên trí đi. Còn nếu anh không thoải mái vì không có việc làm, nếu anh cảm thấy để mình em đi làm trong khi anh ở nhà làm nội trợ là một gánh nặng thì anh cứ đi làm đi, việc gì cũng được, tạm thế đã. Với em sao cũng được.

- Dĩ nhiên, đằng nào thì anh rồi cũng phải tìm được việc làm. Anh biết chứ. Em cũng biết. Anh không thể lông bông thế này mãi được. Sớm hay muộn anh cũng sẽ tìm được việc làm. Chỉ có điều ngay bây giờ anh không biết mình nên chọn loại công việc nào. Sau khi nghỉ việc, có một thời gian anh cứ hình dung mình sẽ tìm một việc khác cũng liên quan đến ngành luật. Anh có nhiều quan hệ trong lĩnh vực đó mà. Nhưng bây giờ anh không còn tâm trạng đó nữa. Thời gian càng trôi, anh lại càng ít quan tâm đến luật. Càng ngày anh càng cảm thấy đơn giản là công việc đó không hợp với mình.

Kumiko nhìn tôi trong gương. Tôi nói tiếp:

- Song, mình không muốn làm gì thì mình biết, còn mình muốn làm gì thì vẫn chịu không biết được. Anh có thể làm bất cứ việc gì nếu có ai đó bảo anh làm. Nhưng anh không hình dung được đâu mới chính là cái việc mà "mình muốn làm đây". Vấn đề của anh bây giờ là thế. Anh không hình dung được.

- Vậy thì, - Kumiko đặt khăn tắm xuống giường và quay lại nhìn tôi, - nếu anh đã chán luật rồi thì đừng làm luật nữa. Quên chuyện thi lấy bằng luật sư đi. Và đứng cuống lên về chuyện tìm việc nữa. Nếu anh chưa hình dung được thì hãy chờ đến khi nào hình dung được hẵng hay. Có sao đâu nào?

Tôi gật đầu.

- Anh chỉ muốn giải thích sao cho em hiểu đúng tâm trạng của anh thôi.

- Tốt, - nàng nói.

Tôi xuống bếp rửa cốc. Nàng từ buồng tắm bước vào, ngồi xuống bên bàn bếp.

- Anh thử đoán xem chiều nay ai gọi điện cho em, - nàng nói. - Ông anh em đấy.

- Thế à?!

- Anh ấy đang nghĩ đến việc ra tranh cử. Thật ra thì anh ấy đã quyết định làm như vậy rồi.

- Ra tranh cử á? - tôi sửng sốt đến nỗi cứng họng mất một lúc. - Ý em là tranh cử vào quốc hội à?

- Đúng vậy. Người ta yêu cầu anh ấy ra tranh cử chiếc ghế của ông bác em ở Niigata.

- Anh nghe nói ghế đó mặc nhiên sẽ thuộc về con trai của ông bác em kia mà 1?Anh ấy chả đang sắp từ chức khỏi ban giám đốc ở hãng Dentsu để quay về Niigata là gì?

Nàng bắt đầu dùng bông để ngoáy tai.

- Ban đầu định là vậy, nhưng ông anh họ em không muốn. Anh ấy có gia đình ở Tokyo, vả lại anh ấy hài lòng với công việc đang làm. Anh ấy không sẵn sàng từ bỏ một vị trí quan trọng đến thế ở công ty quảng cáo lớn nhất thế giới đặng quay về làm nghị sĩ ở chốn Niigata heo hút kia. Song lý do chính là vợ anh ấy phản đối. Chị ta không muốn anh hy sinh gia đình để theo nghiệp quan trường.

Ông bác của Kumiko đã qua bốn, năm nhiệm kỳ đại biểu hạ viện ở khu vực bầu cử đó tại Niigata. Tuy không hẳn là một chính trị gia nặng ký, ông cũng đã có một sự nghiệp khá rạng rỡ, thậm chí có lúc còn leo lên tới một chức vụ nhỏ trong nội các. Tuy nhiên, nay do tuổi già sức yếu, lại thêm bị bệnh tim nên ông không thể ra tranh cử trong kỳ bầu cử tới, nghĩa là một ai đó sẽ phải thay thế ông. Ông bác này có hai con trai, nhưng người con trưởng không bao giờ có ý định làm chính trị, cho nên hiển nhiên chỉ còn lại người con thứ.

- Giờ thì dân vùng đó nằng nặc đòi ông anh em về đó cho bằng được. Họ muốn có một người vừa trẻ vừa thông minh, năng nổ. Người nào có thể làm dân biểu nhiều nhiệm kỳ và có tài để trở thành nhân vật có vai vế trong chính phủ trung ương. Ông anh em có tên tuổi, anh ấy sẽ thu hút phiếu bầu của giới trẻ: thật chẳng chê vào đâu được. Dĩ nhiên, để cơm lành canh ngọt với chính quyền địa phương thì cũng không dễ, nhưng tổ chức ủng hộ anh ấy mạnh lắm, họ sẽ lo chuyện đó. Thêm nữa, nếu muốn thì anh ấy vẫn cứ sống ở Tokyo, chẳng có vấn đề gì. Anh ấy chỉ có mỗi một việc là đến kỳ bầu cử thì có mặt ở khu vực đó mà thôi.

Tôi khó hình dung được cảnh Wataya Noboru làm dân biểu Hạ viện.

- Em nghĩ sao về chuyện này? - tôi hỏi.

- Việc của anh ấy chẳng có liên quan gì đến em hết. Anh ấy muốn làm dân biểu Hạ viện hay muốn làm phi hành gia thì cứ việc làm, em chả quan tâm.

- Nhưng nếu vậy thì anh ấy bàn với em để làm gì?

- Anh nói buồn cười thật, - nàng nói bằng giọng khô khan. - Anh ấy chẳng bàn bạc gì với em hết. Anh ấy chẳng bao giờ bàn bạc với em bất cứ chuyện gì, anh biết mà. Anh ấy chỉ muốn báo cho em biết thôi. Dù gì cũng là người nhà.

- Anh hiểu. Có điều nếu ra ứng cử dân biểu thì chuyện anh ta đã ly dị và đang độc thân liệu có gây khó khăn gì không?

- Em cũng chả biết, - Kumiko nói. - Em chẳng biết gì về chính trị, bầu cử hay gì gì đó cả. Đơn giản là em không quan tâm. Nhưng đằng nào thì em cũng biết chắc anh ấy sẽ không bao giờ lấy vợ nữa. Sẽ không bao giờ lấy ai. Trước hết là lẽ ra anh ấy đừng bao giờ lấy vợ. Anh ta có cần chuyện đó đâu. Anh ta cần cái khác cơ. Anh ta theo đuổi một cái gì khác, cái gì đó hoàn toàn khác với những gì em hay anh cần. Điều đó thì em biết chắc.

- Thật à?

Nàng gói hai chiếc bông ngoáy tai dùng xong vào một tấm khăn giấy rồi ném vào sọt rác. Đoạn nàng ngẩng lên nhìn thẳng vào tôi.

- Có lần em thấy anh ta thủ dâm. Em vừa mở cửa bước vào thì thấy anh ta ở đó.

- Thì đã sao? Ai mà chẳng thủ dâm, - tôi nói.

- Không, anh không hiểu, - nàng nói. Rồi nàng thở dài. - Chuyện đó xảy ra đâu như khoảng hai năm sau khi chị em qua đời. Hồi đó ông anh em hình như đang học trung học, em thì khoảng tám tuổi. Sau khi chị của em mất, mẹ em cứ phân vân mãi giữa một đằng là vứt hết quần áo của chị gái em còn một đằng là giữ lại, cuối cùng mẹ quyết định giữ, may ra có vài thứ em có thể mặc được khi em lớn. Mẹ cất hết chỗ quần áo đó trong một chiếc hộp để trong tủ. Anh trai em đã lôi hết quần áo của chị gái ra, vừa hít lấy hít để vừa thủ dâm.

Tôi im lặng.

- Hồi đó em còn bé. Em chẳng biết gì về sex hết. Em thực sự không thể hiểu đích xác anh ấy đang làm gì, nhưng em vẫn hiểu rằng đó là một cái gì rất đồi bại, một cái gì đáng lẽ em không nên thấy, một cái gì sâu xa hơn nhiều so với vẻ về ngoài, - Kumiko lắc đầu.

- Wataya Noboru có biết là em thấy anh ta không?

- Dĩ nhiên. Anh ta và em nhìn thẳng vào mắt nhau.

Tôi gật đầu.

- Còn quần áo của chỉ em thì sao? Khi em lớn em có mặc không?

- Không đời nào, - nàng đáp.

- Thế em cho rằng anh ta phải lòng chị gái em?

- Em không biết. Thậm chí em không chắc anh ta có ham muốn tính dục đối với chị ấy không, nhưng chắc chắn là anh ta có một cái gì đó, và em ngờ rằng cho đến giờ anh ta vẫn không sao dứt bỏ được. Vì vậy em mới nói lẽ ra anh ta đừng bao giờ lấy vợ.

Kumiko lặng thinh. Hai chúng tôi không nói gì một hồi lâu. Rồi nàng nói:

- Theo nghĩa đó em nghĩ rằng anh ấy có một vài vấn đề nghiêm trọng về tâm lý. Dĩ nhiên trong chừng mực nào đó thì chúng ta ai mà chẳng có vấn đề về tâm lý, không nhiều thì ít, nhưng vấn đề của anh ta khác với của anh hay của em, mà nặng hơn. Chúng sâu sắc hơn và dai dẳng hơn nhiều. Mà anh ta thì chẳng đời nào muốn để những vết sẹo hay điểm yếu hay gì gì đó của mình cho bất cứ ai khác nhìn thấy. Không đời nào, anh có hiểu không? Mà lại bầu cử tới nơi rồi... Em lo lắm.

- Lo? Lo gì mới được chứ?

- Em không biết. Cứ lo lo thế thôi, - nàng nói. - Mà thôi, em mệt lắm rồi. Hôm nay không thể nghĩ thêm gì nữa. Đi ngủ thôi.

Trong khi đánh răng, tôi săm soi khuôn mặt mình trong gương. Đã hai tháng nay, kể từ khi thôi việc, tôi hiếm khi bước ra "thế giới bên ngoài". Tôi chỉ đi đi về về giữa nhà mình với mấy cửa hiệu ở gần, hồ bơi. Nếu không kể lần đến khu Ginza và cái khách sạn ở Shinagawa kia thì chỗ xa nhất mà tôi đến trong suốt thời gian qua hầu như là hiệu giặt là gần nhà ga. Và suốt cả thời gian đó tôi hầu như không gặp bất kỳ ai. Ngoài Kumiko, người duy nhất tôi có thể nói là đã "gặp" trong hai tháng qua là chị em Kano Malta, Kano Creta, và Kasahara May. Thật là một thế giới chật hẹp, một thế giới đứng yên, bất động. Nhưng nó càng chật hẹp càng tĩnh tại thì hình như lại càng đầy ắp những sự vật và con người chỉ có thể gọi là kỳ lạ. Dường như từng ấy vật và người luôn rình sẵn trong bóng tối, đợi đến khi tôi dừng lại. Và mỗi lần con Chim vặn dây cót đậu trong sân nhà tôi mà vặn dây cót thì thế giới càng đắm sâu và hỗn loạn hơn.

Tôi súc miệng rồi tiếp tục nhìn mặt mình thêm một lúc lâu nữa.

Tôi không có ý niệm gì, tôi tự nhủ. Tôi đã ba mươi tuổi, tôi đang đứng yên, thế mà tôi vẫn không có ý niệm gì.

Khi tôi từ buồng tắm vào phòng ngủ. Kumiko đã ngủ rồi.

--------------------------------
1.Một hiện tượng phổ biến ở chính trường Nhật, đó là khi một chính khách cao tuổi sắp về hưu, ông ta thường "thu xếp" cho một người con hoặc cháu mình được ứng cử tại khu vực bỏ phiếu của "nhà mình" - BTN.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách