Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Thơ] Lục Vân Tiên | Nguyễn Đình Chiểu

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 26-9-2011 18:34:29 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên đỗ trạng nguyên



1735.Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kỳ.
    Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
    Trở về thưa với xuân đường,
1740.Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra.
    Vân Tiên dự trúng khôi khoa,
Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay,
    Nhớ lời thầy nói thật hay:
"Bắc phương gặp chuột con rày nên danh."
1745.Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.


Chú thích:

1736. Ôn nhuần: ôn tập lại cho thấm nhuần thêm; Ứng kỳ: theo kỳ thi mà đi thi.
1740. Kinh sư: kinh đô.
1741. Khôi khoa: đỗ đầu khoa, ở đây là đỗ trạng nguyên.
1746.Y mão (mạo): áo mũ của vua ban; Hiển vinh về nhà: lệ thi thời xưa, những người thi đỗ tiến sĩ, sau khi đỗ, nhà vua có ban mũ, áo, cờ và tấm biển khắc bốn chữ "Ân tứ vinh quy", nghĩa là ơn vua cho được vẻ vang trở về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 26-9-2011 19:44:10 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên xin Hớn Minh làm phó tướng



    Xảy nghe tin giặc Ô Qua,
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
    Sở vương phán trước ngai vàng,
1750.Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong.
    Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh.
    Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
1755.Ngày xưa mắc án đày di,
Phải về nương náu từ bi ẩn mình."
    Sở vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
    Sắc phong phó tướng bình di.
1760.Tiên, Minh, tương hội xiết gì mừng vui.
    Nhất thinh phấn phát oai lôi,
Tiên phong hậu tập trống hồi tấn binh.
    Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ binh tặc phá thành Ô Qua,
1765.Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.


Chú thích:

1748. Quan ải: cửa ải nước nọ sang nước kia.
1750. Chỉ: lệnh của vua. Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước. Dẹp loàn: dẹp loạn.
1752. Ðề binh: đem binh đi đánh giặc.
1754. Kình: đối địch lại (kình địch). Trương Phi: một danh tướng đời Tam quốc, có sức mạnh, giỏi đánh trận, kết nghĩa anh em với Lưu Bị.
1756. Từ bi: yêu đương và thương xót người, tiêu biểu của đạo Phật. Ở đây là cửa Phật.
1760. Tương hội: gặp nhau, sum họp cùng nhau.
1761. Nhất thinh (thanh) phấn phát oai lôi: lôi là sấm, một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm, làm phấn khởi mọi người.
1762. Tiên phong: toán quân xông trận ở mặt nước. Hậu tập: toán quân tiếp ứng và đánh bọc phía sau. Tấn binh: tiến binh (chữ tiến chính âm là tấn). Nói các toán quân tiên phong hậu tập nghe lệnh truyền trống đánh, đều phấn khởi mà tiến lên.
1764. Binh tặc: dẹp giặc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 26-9-2011 21:16:47 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên, Hớn Minh phá giặc



    Phút đâu binh đáo quan thành,
Ô Qua xem thấy xuất thành cự đang.
    Tướng Phiên hai gã đường đường,
1770.Một chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần Long.
    Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ, tướng hung lạ lùng.
    Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh chàng Hỏa Hổ, Thần Long một hồi.
1775.Hớn Minh chùy giáng dường lôi,
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
    Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
    Hớn Minh sức chẳng dám kình,
1780.Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
    Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô.
    Một mình lướt trận xông vô,
Thấy ngươi Cốt Đột biến hô yêu tà.
1785.Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
    Ba quân gươm giáo đều giơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan,
    Phép tà Cốt Đột hết phương,
1790.Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
    Trung, tiền, tả, hữu lưỡng biên,
Trạng nguyên, Cốt Đột đánh liên tối ngày.
    Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo.
1795.Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao.
    Chạy ngang qua núi Ô sào,
Phút đâu con ngựa sa hào, thương ôi!
    Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
1800.Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.


Chú thích:

1767. Binh đáo quan thành: binh đến trước thành cửa quan.
1768. Cự đang (đương): chống địch lại.
1771. Nguyên nhung: nguyên soái chỉ huy toàn quân.
1780. Hóa phép: dùng phép yêu quái để đánh trận. Hai câu này nói: Hớn Minh thấy Cốt Ðột hóa phép, sức không địch được, phải thoát mình trở lui.
1781. Kim khôi: khôi là thứ mũ dùng khi ra trận, đời cổ chế bằng da, đời sau chế bằng sắt, và cũng chế bằng đồng hay dát vàng gọi là kim khôi.
1800. Phản hồi bổn quân: trở về toán quân của mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 27-9-2011 12:42:44 | Chỉ xem của tác giả
Bị lạc, Vân Tiên hỏi thăm bà lão



    Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
    Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đàng núi phút đà tam canh.
1805.Một mình trong chốn non xanh,
Biết ai mà hỏi lộ trình trở ra.
    Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
    Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi.
1810."Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi,
    Quan Âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
    Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau?"
1815.Khôn trông mồng bảy đêm thâu,
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao.
    Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau.
    Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
1820.Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
    Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng."
    Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
1825.Lão bà lật đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
    Vân Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là quốc trạng triều đình sai ra.
    Đem binh dẹp giặc Ô Qua,   
1830.Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây."


Chú thích:

1814. Dạ đài: lâu đài đêm, đêm có nghĩa là tối tăm, chỉ nơi tối tăm của người chết. "Dạ đài" cũng như "tuyền đài" (đài suối vàng, tức là lâu đài dưới đất), nghĩa chính là "cái mả", mà nghĩa bóng là nói cõi âm, cõi chết.
1815. Mồng bảy đêm thâu (thu): đêm mồng bảy tháng bảy mùa thu.
1816. Bầy quạ đội cầu đưa sao: sao chỉ hai sao Khiên Ngưu và Chức Nữ. Nguyệt Nga nói, mình với Vân Tiên, khôn mong gặp nhau như Chức Nữ gặp Ngư.
1817. Nam Tào: theo thần thoại, Nam Tào và Bắc Ðẩu là hai vị thần giữ sổ sinh tử của trần gian.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 27-9-2011 20:49:05 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên trùng phùng cùng Nguyệt Nga



    Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già."
    Vân Tiên ngồi nhắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
1835.Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
    Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tính danh cho tường."
    Lão bà chẳng dám lời gian:
1840."Tượng nầy vốn thiệt chồng nàng ngồi đây."
    Tiên rằng: "Nàng xích lại đây,
Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe."
    Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
1845.Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
    Rằng: "Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
    Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
1850."Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
    Chàng đà về chốn cửu tuyền.
Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng."
    Vân Tiên nghe nói hỏi phăng:
"Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?"
1855.Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay,
    Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
    Để lời thệ hải minh sơn,
1860.Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
    Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ."
    Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ,
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
1865.Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài,
Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua."
    Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.
    Ân tình càng kể càng ưa,
1870.Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.


Chú thích:

1838. Tính danh: họ tên.
1843. Kiêng dè: dè dặt, thận trọng.
1852. Gió trăng: chỉ thói dâm tà xấu xa.
1853. Phăng: lần (phăng mối chỉ). Hỏi phăng: hỏi lần cho biết.
1859. Thệ hải minh sơn: thề bể hẹn non, tức là chỉ bể chỉ núi mà thề: lời nói của mình bền vững như núi như bể.
1866. Khúc nôi: hay khúc nhôi, những chi tiết của sự việc, lai lịch khúc chiết. Ðầu bài: như nói câu chuyện. Nói câu chuyện lai lịch thế nào, xin bày tỏ cho biết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 27-9-2011 21:17:26 | Chỉ xem của tác giả
Hớn Minh đem quân đón Vân Tiên



    Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
   Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
1875.Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
    Minh rằng: "Tẩu tẩu ở đâu,
Cho em ra mắt chị dâu thế nào?"
    Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
1880.Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
    Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã qua miền Ô Qua.
    May đâu sum hiệp một nhà.
Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào."
1885.Tiên rằng: "Nàng tính thế nào?"
Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
    Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
Lệnh tha tội trước mới nên về nhà."
    Trạng nguyên từ giã lão bà,
1890.Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
    "Ta về đem bức tượng nầy,
Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà."
    Tiên, Minh lên ngựa trở ra,
Đem binh trở lại trào ca đề huề.


Chú thích:

1872. Can qua: mộc và mác, đồ binh khí. Nói: quân gia kéo đến xung quanh rừng, la liệt những binh khí.
1877. Tẩu tẩu: chị dâu, dùng theo tiếng bạch thoại Trung Quốc. Ðây Hớn Minh coi Nguyệt Nga như chị dâu, nên xưng hô như thế.
1884. Khải ca hồi trào: hát khúc ca thắng trận trở về triều.
1994. Trào ca: triều đình, triều ban. Ðề huề: dắt tay nhau cùng đi. Nghĩa bóng là thân thiện mà dìu dắt nhau.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 28-9-2011 13:07:20 | Chỉ xem của tác giả
Cửu trùng hiểu thấu mọi lẽ



1895.Sở Vương nghe trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
    Sở Vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng ngài trạng nguyên.
    Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
1900.Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
    Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sinh Trạng giúp trong nước nhà.
    Phải chi trước có Trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ."
1905.Lệnh truyền mở yến trà đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô Qua rồi.
    Trạng nguyên quỳ tấu một hồi.
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
    Sở Vương nghe tấu ngỡ ngàng,
1910.Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
    Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu."


Chú thích:

1905. Trà đô: nơi đô thị có triều đình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 28-9-2011 20:34:21 | Chỉ xem của tác giả
Minh quân phán xét mọi điều



    Thái sư trước bệ quỳ tâu:
"Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì.
1915.Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân."
    Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng ra trưng làm bằng.
    Sở vương xem tượng phán rằng:
1920."Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
    Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
    Dầu cho nhật nguyệt rõ ràng,
Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
1925.Ngay gian sao cũng có trời,
Việc nầy vì trẫm nghe lời nên oan,
    Trạng nguyên tâu trước trào đàng.
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
    Trịnh Hâm là đứa gian tà,
1930.Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen."
    Sở vương phán trước bệ tiền:  
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi.
    Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.
1935.Hán xưa có gã Đổng Công,
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
    Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay cũng khác nào đời xưa.
    Thấy người trung chính chẳng ưa,
1940.Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
    Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà."
    Sở vương phán trước trào ca,
Thái sư cách chức về nhà làm dân.
1945.Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
    Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
    Kiều công xưa mắc tội oan,
1950.Trẫm cho phục chức làm quan Đông Thành.
    Trạng nguyên dẹp giặc đã thành,
Kiệu trương tán phụng cho đành vinh hoa.


Chú thích:

1914. Qua mâu: giáo mác. Dấy động qua mâu: dấy binh xâm phạm.
1916. Khi quân: dối vua, lừa vua. Tội khi quân là tội to thời xưa.
1922. Dân thứ: cũng như dân chúng. Nói: thiếu gì con gái nhân dân mà lại phải dùng đến nàng.
1924. Chậu úp: do chữ Hán "phú bồn", sách Bảo phác tử có câu "Tam quan bất chiếu phú bồn chi nội", nghĩa là ánh tam quang (mặt trời, mặt trăng và các vì sao) không soi vào được trong lòng cái chậu úp. Người ta thường nói: "Phú bồn chi oan": cái oan chậu úp, là chỉ sự oan ức không giải bày được. Nói hai câu này: dù sáng suốt như mặt trời, mặt trăng mà không xét đến nỗi oan tối tăm thì cũng mang tiếng xấu với đời.
1928. Trữ dưỡng: chứa chấp và nuôi nấng.
1930. Ghe phen (tiếng miền Nam): nhiều phen, có phen.
1932. Tướng ngỏ: "ngỏ" có nghĩa là trung, giải bày cả tấm lòng thành thực với vua.
1934. Chín trùng: do chữ "cửu trùng": chín trùng cửa. Sở Từ có câu: Quân chi môn dĩ cửu trùng", nghĩa là cửa nhà vua những chín trùng, nói vua ở một nơi sâu thẳm. Nhân thế người ta gọi nơi vua ở hay bản thân vua là "cửu trùng". Ðây nói: thái sư muốn cướp ngôi vua.
1935. Ðổng Công: Ðổng Trác.
1936. Nhà Lưu: nhà họ Lưu, tức nhà Hán.
1945. Bạo thần: kẻ bầy tôi tàn ác.
1946. Xử phân pháp hình: Theo hình phép nhà nước mà trị tội.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 28-9-2011 21:36:15 | Chỉ xem của tác giả
Vân Tiên bỏ qua thù xưa



    Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
1955.Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu, đều vui, đều cười.
    Trạng nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ác các người tính sao?"
    Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
1960.Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh.
    Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
    Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan."
1965.Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi.
    Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dầu cho có sống làm gì nên thân?"
    Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,
1970.Vốn em mới dại một lần xin dung.
    Trạng rằng: "Hễ đấng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
    Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi."
1975.Hâm rằng: "Khỏi giết rất vui,"
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
    Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
    Hớn Minh, Tử Trực vào tâu,
1980.Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh quy.
    Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.


Chú thích:

1966. Giết ruồi đâu xứng gươm vàng: nói người quân tử không thàm giết kẻ tiểu nhân, cũng như gươm vàng không đáng đem mà giết ruồi cho bẩn gươm. Câu này do câu ca dao: "Ðạn đâu bắn sẻ gươm đâu chém ruồi".
1967. Vô nghì: phi nghĩa, bạc ác.
1970. Dung: tha cho.
1978. Chai bề: một từ ngữ hình dung cái bộ mặt ê chệ khi bị nhơ nhuốc. Sề: một thứ rổ, đan bằng tre nứa, dùng đựng đồ vật. Sề thịt trâu: nói như cái rổ thịt trâu trông nhầy nhụa, ê chệ.
1980. Vinh quy: vẻ vang trở về. Thời xưa, những người thi đỗ tiến sĩ, được vua ban mũ áo, cờ biển cho vẻ vang mà trở về, và được nhân dân tổ chức cuộc đón rước long trọng. Kịp chầu vinh quy: kịp thời (buổi, lúc) vinh quy. Trước đây Vân Tiên thi đỗ xong, chưa được vinh quy, phải đi đánh giặc ngay, nên nay mới xin vua cho kịp thời trở về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 29-9-2011 12:45:15 | Chỉ xem của tác giả
Trời xanh có mắt



    Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
1985.Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.
    Võng điều, gươm bạc, lọng xanh,
Trạng nguyên, Tử Trực, Hớn Minh lên đàng.
    Trịnh Hâm về tới Hàn Giang,
1990.Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
    Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.
    Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
1995.Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
    Của đi khuyên giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
    Hiềm chưa thuê đặng người ta,
2000.Còn đương thơ thẩn vào ra Đại Đề.
    Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc, lo bề tế riêng:
    "Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
Thảo tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay."
2005.Đọc văn nhớ tới chau mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
    Người ngay Trời Phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
    Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
2010.Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.
    Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
"Ông nầy sao giống Vân Tiên cũng kỳ?
    Ông nào mất xuống âm ty,
Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
2015.Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải ngươi đồng tử mắc nàn chốn ni?"
    Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn.
    "Ai dè còn thấy bổn quan,
2020.Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi."
    Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum họp tại nơi Ðại Ðề
    Đoạn thôi xe giá ra về,
Tuần du phút đã gần kề Hàn Giang.


Chú thích:

1984. Rước về Nguyệt Nga: tức là rước Nguyệt Nga về. Câu này cũng như câu: "Vợ Tiên là chị Trực" ở phần trên, đảo ngữ gò ép để cho có vần.
1992. Báo ứng: giả lại xứng đáng những việc mình làm. Theo thuyết nhà Phật: làm điều thiện thì gặp thiện, làm điều ác thì gặp ác, đó là lẽ báo ứng. Rất ưng: rất phải, rất đúng.
1995. Mộ phần: mồ mả, cũng như phần một.
1998. Hài cốt: xương người chết. Tiểu đồng đi khuyên giáo được một số tiền, định thuê người đưa hài cốt chủ (người chết mà tiểu đồng nhận nhầm là Vân Tiên) về chôn ở quê nhà.
2004. Thiềng: do tiếng "thành" đọc chệch.
2010. Bài vị: mảnh gỗ hay giấy có đề tên tuổi người chết để thờ cúng.
2018. Từ ngằn: từ độ ấy đến nay.
2019. Bổn quan: bản quan, cũng như bản chức, tiếng tự xưng hô của người làm quan thời trước. Ở đây là tiếng của tiểu đồng xưng Vân Tiên.
2024. Tuần du: đi chơi để xem xét. Chữ "tuần" nguyên trước nghĩa là đi mà xem xét, như nói "tuần du" "tuần thú" (sự đi xem xét các nước chư hầu của thiên tử thời xưa), sau lại dùng thêm nghĩa: đi qua lại mà xem xét, như nói "tuần tiễu" (về quân sự), "tuần cảnh" (về cảnh sát).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách