Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Thơ] Lục Vân Tiên | Nguyễn Đình Chiểu

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 23-9-2011 12:48:54 | Chỉ xem của tác giả
Thấy tượng Lục ông nhớ con



    Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng.
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
    Công rằng: "Nào bức tượng xưa?
1290.Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn."
    Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chưng vóc vạc đều in con mình.
    Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
1295."Thương con phận bạc lắm thay,
Nguyền xưa còn đó, con rày đi đâu?"
    Kiều công chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
    Kiếm lời khuyên giải với nàng:
1300."Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
    Người đời như bóng phù du,
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.
    Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,
Cũng chưa nên nghĩa tao khang đâu mà.
1305.Cũng như cửa sổ ngựa qua,
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền?"
    Nàng rằng: "Trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ."
    Công rằng: "Chút nặng tình xưa,
1310.Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
    Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi?
    Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng nầy.
1315.Bây giờ con lại thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
    Ngửa than: "Đất rộng trời cao,
Tre còn măng mất lẽ nào cho cân."
    Lục ông từ tạ lui chân,
1320.Kiều công sai kẻ gia thần đưa sang.


Chú thích:

1301. Phù du: con vờ, một thứ côn trùng có cánh, hay bay trên mặt nước, sống một thời gian rất ngắn. Nói đời ngắn, sống một đời người ngắn ngủi.
1303. Ðồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu, chỉ vợ chồng.
1305. Cửa sổ ngựa qua: nói đời người chóng qua như bóng ngựa chạy qua cửa sổ.
1308. Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ: dẫu tóc bạc tuổi già cũng phải giữ lấy mối tơ.
1311. Cáo tạ: cũng như cáo từ, từ tạ với chủ nhân xin về.
1312. Dám chịu: dám nhận.
1318. Tre còn măng mất: nói cha già thì còn, con trẻ thì đã chết.
1320. Gia thần: người hầu hạ trong nhà quan.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 23-9-2011 18:18:17 | Chỉ xem của tác giả
Vì đau buồn Nguyệt Nga nhuốm bệnh



    Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng.
    Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầu.
1325.Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
    Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời!
    Thuở xưa giữ dạ ghi lời,
1330.Thương người quân tử biết đời nào phai?
    Tiếc thay một bậc anh tài,
Nghề văn, nghiệp võ nào ai dám bì?
    Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!
1335.Thương vì hai tám trên đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
    Thương vì chưa đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danh.
    Thương vì đôi lứa chưa thành,
1340.Vùa hương bát nước ai dành ngày sau?
    Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
    Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là?


Chú thích:

1333. Ðèn sách lòng ghi: ký chú việc đèn sách.
1340. Vùa hương: bình hương.
1343. Dương gian: khoảng có mặt trời chiếu tức cõi sống.
1344. Âm cung: âm phủ, chỗ toàn bóng tối, tức cõi chết; Thành thân: nên vợ nên chồng, nói: sống không lấy được nhau, không biết chết xuống cõi âm có được thành vợ thành chồng không?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 23-9-2011 20:03:11 | Chỉ xem của tác giả
Kiều công khuyên nhủ con



1345.Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
    Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
Gẫm trong còn mất là đường xưa nay.
    Đàn cầm ai khéo dứt dây,
1350.Chẳng qua con tạo đổi xây không thường."
    Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy cánh giữa đường ai hay.
    Nay đà loan phụng rẽ bầy,
Nệm nghiêng gối chích phận nầy đã cam.
1355.Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người.
    Thân con còn đứng giữa trời,
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi."
    Kiều công trong dạ chẳng vui:
1360."Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"


Chú thích:

1347. Cưu mang: ôm ấp, bận bịu, lo ngại.
1353. Loan phụng: hai chữ chim thường dùng để tượng trưng cho vợ chồng đôi lứa tốt đẹp.
1354. Gối chích: gối chếch (lệch). Nệm nghiêng gối chích: nói loan phụng phải rẽ nhau, tình cảm đổi thay đột ngột giống như nệm gối bị xô lộn mà nghiêng lệch đi. Chữ Hán cũng dùng: khi trầm (gối nghiêng).
1356. Sông Ngân: xem chú thích ở câu 245, 246. Cầu Lam: chữ Hán: Lam kiều, tức cầu trên ngòi Lam (Lam Khê) ở huyện Lam Ðiền tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Theo sách Thái Bình quảng ký. Bùi Hàng đời Ðường gặp bà tiên Vân Kiều cho bài thơ, trong có chữ Lam Kiều, sau Hàng đến trạm Lam Kiều, khát nước, vào xin một bà lão gần đấy, được Vân Anh, con gái bà đưa nước ngọc dịch (thứ nước tiên) cho uống. Hàng thấy Vân Tiên tuyệt đẹp, muốn lấy, bà lão bảo: bà cần dùng cối ngọc và chầy ngọc để gia (luyện) thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên) nếu có những thứ ấy làm sính lễ thì gả cho. Hàng về tìm được cối chầy ngọc đưa đến lại ở đấy giã thuốc tiên cho bà một trăm ngày, rồi Hàng lấy Vân Anh và hai vợ chồng cùng thành tiên (Truyện Kiều: "Chầy sương chưa nệm cầu Lam"), sương tức thuốc huyền sương.
1360. Tiết: xem chú thích ở câu 6 và câu 164.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 23-9-2011 20:28:49 | Chỉ xem của tác giả
Thái sư hỏi vợ cho con, bị Nguyệt Nga từ chối



    Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
    Nghe đồn con gái Kiều công,
Tuổi vừa hai tám, tơ hồng chưa xăng.
1365.Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước kết đàng sui gia.
    Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà Thái sư.
    Thái sư chẳng biết rộng suy,
1370.Ðem điều oán giận sớm ghi vào lòng.


Chú thích:

1362. Thái sư: chức quan to nhất triều đình.
1364. Xăng: xe chặt, gắn bó.
1366. Mai chước (mối chước): người làm mối trong việc lấy vợ, lấy chồng.
1368. Lễ nghi: các cuộc lễ có nghi thức chương trình, cũng có nghĩa là các lễ vật. Ðây là các lễ vật mà Thái sư đưa đến để hỏi vợ cho con.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 23-9-2011 20:31:22 | Chỉ xem của tác giả
Hận Kiều gia, Thái sư đem Nguyệt Nga cống giặc



    Phút đâu giặc mọi làm hung,
Ô Qua quốc hiệu, binh nhung dấy loàn.
    Đánh vào tới ải Đồng Quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần.
1375.Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra.
    Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vội vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng:
    "Thưở xưa giặc mọi dấy loàn,
1380.Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa.
    Muốn cho khỏi giặc Ô Qua,
Đưa con gái tốt giao hòa thời xong.
    Nguyệt Nga là gái Kiều công,
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
1385.Nàng đà có sắc khuynh thành,
Lại thêm rất bậc tài tình hào hoa.
    Đưa nàng về nước Ô Qua,"
Phiên Vương ưng dạ ắt là bãi binh,
    Sở Vương nghe tấu thuận tình,
1390.Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành.
    Sắc phong Kiều lão Thái khanh:
Việc trong nhà nước trẫm đành cậy ngươi.
    Nguyệt Nga nàng ấy nên người,
Lựa ngày tháng chín, hai mươi cống Hồ."


Chú thích:

1372. Ô Qua: Theo Gia Định Thông chí thì ở miền Châu Ðốc - Hà Tiên trước kia thường có giặc Qua Oa ở ngoài biển vào cướp phá. Quân Miến Ðiện xưa, còn gọi là Ô Đỗ cũng hay đe dọa miền Hà Tây, Châu Ðốc. Có thể là Nguyễn Ðình Chiểu đã nhớ lại những giặc xâm lược này mà đặt tên nước Ô Qua chăng; Binh nhung: binh sĩ, cũng có nghĩa là khí giới. Ðây chỉ binh sĩ. Dấy loàn: làm loạn. Nói nước Ô Qua đem quân quẫy nhiễu cõi biên.
1373. Ðồng Quan: một cửa ải hiểm yếu ở biên giới Hán Hồ.
1374. Lưỡng ban: hai ban văn võ. Quần thần: bầy tôi trong một triều đình.
1377. Cừu: thù hằn.
1385. Khuynh thành: nghiêng thành. Lý Diên Niên đời Hán có câu ca: "Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (có bản chép là "Nhất tiếu"... "tái tiếu"...), nghĩa là một cái nhìn làm nghiêng thành, hai cái nhìn làm nghiêng nước (hay một cái cười... hai cái cười...), nói: cái nhìn (hay cái cười) của người con gái đẹp khiến vua chúa phải say mê đến nỗi mất thành mất nước. Do đó, người ta thường dùng danh từ "khuynh thành", "khuynh quốc" để chỉ những người con gái có sắc đẹp.
1386. Hào hoa: hào là khí phách khác người, hoa là văn vẻ tỏ dạng.
1390. Châu phê: vua hạ bút son phê vào tờ chiếu chỉ (châu: son).
1394. Cống Hồ: đem dâng cho nước Hồ (tức nước Hung Nô ở phía Bắc Trung Quốc, người Trung Quốc thường gọi là nước Hồ).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 24-9-2011 07:21:15 | Chỉ xem của tác giả
Vì thủ tiết, Nguyệt Nga định quyên sinh



1395.Kiều công vâng lệnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
    Nguyệt Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
    Thất tình trâm nọ biếng cài,
1400.Dựa mành bỏ xả tóc dài ngồi lo:
    "Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi ngươi Diên Thọ họa đồ gây nên.
    Hạnh Ngươn sau cũng khỏi miền,
Bởi chưng Lư Kỷ cựu hiềm còn ghi.
1405.Hai nàng chẳng đã phải đi,
Một là ngay chúa, một vì thảo cha.
    Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
Thương vua nhà Hớn, vốn đà quyên sinh.
    Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì Linh,
1410.Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha."
    Tới nay phận bạc là ta,
"Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
    Tình phu phụ, nghĩa quần thần,
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên.
1415.Nghĩa tình nặng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
    Sao sao một thác thời xong,
Lấy mình báo chúa, lấy lòng sự phu."


Chú thích:

1401. Chiêu Quân: Vương Tường tự là Chiêu Quân, một cung nhân của Nguyễn đế nhà Hán, sau bị gã cho vua Hung Nô. Ði thuyền vào quá nội địa Hung Nô, Chiêu Quân nhảy xuống sông Hắc Hà tự tử. "Chiêu Quân cống Hồ" một đề tài thường được các nhà thơ văn xưa nay ca ngợi thương tiếc.
1403. Hạnh Ngươn (Nguyên): một nhân vật trong truyện Nhị Ðộ Mai. Cũng như Chiêu Quân, Hạnh Nguyên bị bắt đi cống Hồ và cũng tự tử nhưng có người cứu vớt.
1404. Cựu hiềm: thù cũ.
1406. Ngay chúa: trung với vua. Thảo cha: hiếu với cha. Nói một đằng Chiêu Quân, một đằng Hạnh Nguyên theo mệnh cha, hai người phải trọng đạo trung với đạo hiếu mà đành đi hiến thân cho nước Hồ.
1408. Quyên sinh: vứt bỏ cái mạng sống, tự tử.
1412. Chung thân: trọn đời, đến khi chết.
1414. Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên: nói nghĩa vua tôi cũng như ơn (tình) vợ chồng cùng phải giữ cho trọn vẹn.
1418. Sự phu: thờ chồng. Nói: chết đi thì mới có thể được cả hai bề: báo chúa, thờ chồng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 24-9-2011 11:48:20 | Chỉ xem của tác giả
Nguyệt Nga xin cha được trả nghĩa đáp tình



    Kiều công nương gối đang lo,
1420.Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
    Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh.
    "Chẳng qua là việc triều đình,
Nào cha có muốn ép tình chi con?"
1425.Nàng rằng: "Còn kể chi con,
Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
    Thương cha tuổi tác đã cao,
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
    Tuổi già bóng xế nhành dâu,
1430.Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
    Công rằng chẳng xá việc nhà,
"Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
    Hôm nay đã tới mồng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành."
1435.Nàng rằng: "Việc ấy đã đành.
Còn lo hai chữ ân tình cho xong."


Chú thích:

1421. Trướng tiền: trước màn.
1422. Thân danh: thân mình và danh dự.
1428. Ấm lạnh buổi nào biết đâu: nói không biết lúc nào khoẻ lúc nào ốm.
1429. Bóng xế nhành dâu: như nói bóng xế về Tây. Sách Hoài Nam Tử nói: mặt trời xế về Tây, gác bóng trên ngọn cây, gọi là "tang du" (tang: cây dâu, du: một loài cây cao, gỗ bền chắc, thường dùng chế khí cụ). Người sau mượn dùng hai chữ "tang du" này để chỉ phương Tây hay ví với tuổi già.
1434. Tống hành: tiễn người lên đường.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 24-9-2011 13:09:58 | Chỉ xem của tác giả
Nguyệt Nga thăm Lục ông, cúng Vân Tiên



    "Con xin sang lạy Lục ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
    Ngỏ cho nhân nghĩa vẹn tuyền,
1440.Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau."
    Kiều công biết nghĩ trước sau,
Dạy đem tiền bạc cấp hầu đưa đi.
    Lục ông ra rước một khi,
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
1445.Ngày lành giờ ngọ đăng đàn,
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
    Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
    Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
1450."Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay?"
    Bảy ngày rồi việc làm chay,
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
    "Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
Đã đành một chữ má hồng vô duyên.
1455.Rày vua gả thiếp về Phiên,
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
    Chẳng chi cũng gọi là dâu,
Muốn lo việc nước, phải âu việc nhà.
    Một ngày một bước một xa,
1460.Của nầy để lại cho cha dưỡng già."
    Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.


Chú thích:

1445. Ðăng đàn: lên đàn tế lễ.
1447. Bức tượng: đây là bức tranh truyền thần.
1456. Cửu tuyền: chín suối, chỉ dưới đất sâu, tức cõi chết, cũng như nói "hoàng tuyền" (suối vàng).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 24-9-2011 16:51:53 | Chỉ xem của tác giả
Thấy thảm cảnh, các quan nhỏ lệ



    Các quan xe giá bộn bề,
Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay.
1465.Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
    Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
    Công rằng: "Thật dạ xót xa,
1470.Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu."
    Nàng rằng: "Non nước cao sâu,
Từ đây cách khỏi, khôn hầu thấy cha.
    Thân con về nước Ô Qua
Đã đành một nỗi làm ma đất người.
1475.Hai phương Nam Bắc cách vời,
Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
    Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha."
    Kiều công hạt lụy nhỏ sa,
1480.Các quan ai thấy cũng là tình thương.
    Chẳng qua việc ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.
    Buồm trương, thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón, ngùi ngùi đứng trông.


Chú thích:

1463. Xe giá: xe dùng cho vua, gia đình vua, hoặc các bậc vương hầu. Ðây Nguyệt Nga được coi là vợ vua Phiên, nên các quan đưa xe giá đến đón một cách rộn rịp.
1464. Thể nữ (con gái): con gái hầu trong cung vua, tức cung nữ. Ðây Nguyệt Nga đã coi là hoàng hậu phi, nên con gái đưa đến hầu nàng, cũng gọi là thể nữ.
1466. Bảo hộ: giữ gìn, hộ vệ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 24-9-2011 18:06:48 | Chỉ xem của tác giả
Kiều Nguyệt Nga tự vẫn



1485.Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộng, đùng đùng sóng xao
    Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờ.
    Trên trời lặng lẽ như tờ,
1490.Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
    Than rằng: "Nọ nước kìa non,
Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu?"
    Quân hầu đều ngủ đã lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình:
1495."Vắng người có bóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
    Vân Tiên anh hỡi có hay,
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng."
    Than rồi lấy tượng vai mang,
1500.Nhắm chừng nước chảy vội vàng nhảy ngay.


Chú thích:

1485. Ải Ðồng: cửa ải Ðồng Quan.
1490. Tóc tơ: kết tóc xe tơ, tức tình nghĩa vợ chồng.
1494. Rèm châu: chính nghĩa là một thứ rèm bện bằng ngọc châu, sau thường dùng để chỉ chung những thứ rèm quý.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách