Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: love_milk_tea9
Thu gọn cột thông tin

[Thơ] Lục Vân Tiên | Nguyễn Đình Chiểu

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 14-9-2011 19:39:00 | Xem tất
Vân Tiên ghé nhà Võ Công gặp bạn



    Màn trời gấm trải biết bao
340.Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười.
    Quận thành nhắm kiểng xem người,
Cảnh xinh như vẽ, người tươi như dồi.
    Hàn Giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thư.
345.Võ Công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.
    Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.
    Mày tằm, mắt phụng, môi son,
350.Mười phân cốt cách, vuông tròn mười phân.
    Những e kẻ Tấn, người Tần,
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.
    Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Nầy dâu Nam Giản, nọ trai đông sàng.
355.Công rằng: "Ngãi tế mới sang,
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà".
    Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia
Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì".
    Công rằng: "Con dốc xuống thi,
360.Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
    Gần đây có một họ Vương,
Tên là Tử Trực văn chương tót đời.
    Cha đà sai trẻ qua mời,
Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
365.Thấp cao, cao thấp, biết tài,
Vầy sau bạn trước (trúc) cùng mai mới mầu".
    Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
    Công rằng: "Nầy bớ hai con!,
370.Thơ hay làm đặng, rượu ngon thưởng liền".
    Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu "bình thủy hữu duyên" làm đề.
    Song song hai gã giao kề,
Lục, Vương, hai họ đua nghề một khi.
375.Cho hay kỳ lại gặp kỳ,
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.
    Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng, thẻ bạc đã đành làm nên.
    Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
380.Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
    Thiệt trang lương đống đã đành,
Khá khen hai họ tài lành hòa hai."
    Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy".
385.Tình cờ mà gặp nhau đây,
"Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.
    Nay đà nên nghĩa đệ huynh
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau".


Chú thích:

342. Dồi: trau dồi, như nghĩa dồi phấn.
346. Cầm, sắt: hai thứ đàn người ta thường gảy để hòa nhịp với nhau, tiêu biểu tình vợ chồng hòa hợp. Duyên cầm sắt: như nói duyên vợ chồng.
351. Tấn, Tần: hai nước ở đời Xuân Thu bên Trung Quốc. Kẻ Tấn người Tần: mỗi người một xứ khác nhau.
352. Ngẫu: một đôi, một lứa. Giai: tốt đẹp. "Chữ ngẫu gần chữ giai" tức là hai chữ này ghép lại với nhau, thành một danh từ "giai ngẫu", một lối nói bóng trong văn chương (Truyện Nhị Độ Mai: "Chữ tư để dưới chữ tương ngày nay", nói bóng danh từ "tương tư"). Võ công nói: ai ngờ con mình với Vân Tiên lại kết thành "giai ngẫu", nghĩa là một lứa đôi tốt đẹp).
354. Nam Giản: dòng suối (khe) phía Nam. Thơ Thái Tần Kinh Thi tả người phụ nữ cần lao thanh thiết, đi hái rau tần (một thứ rau nước) ở dòng suối phía Nam đưa về làm lễ dâng cúng tổ tiên; Ðông sàng: giường bên Ðông. Khích Giám (có sách chép là Hi Giám) đời Tấn, sai người nhà đến Vương Ðạo kén rễ, các con cháu họ Vương nghe tin, ai cũng làm ra vẻ đứng đắn nghiêm chỉnh, chỉ có Vương Hi Chi là nằm ưỡn bụng trên tấm giường bên Ðông mà ăn bánh ngọt một cách tự nhiên, như không hay biết gì, Khích Giám là người giỏi bèn gả con cho Hi Chi (sau Hi Chi thành một nhà văn, và chữ viết rất tốt, có "thiếp Lan Ðình" cùng một số bút tích lưu truyền đời sau). Do đó, người ta gọi là con rễ "đông sàng".
355. Ngãi (nghĩa) tế: con rễ có nghĩa.
357. Nhạc gia: gia đình bố mẹ vợ.
358. Ðại khoa: đại đăng khoa là thi đỗ. Tiểu khoa: đăng khoa là cưới vợ (cưới vợ cũng là một việc mừng như thi đỗ).
366. Trúc, mai: hai thứ cây quý về đức tính, cốt cách thanh cao. Ý nói: về sau kết bạn cùng nhau rất tốt.
372. Bình thủy hữu duyên: bèo nước có duyên. Nói: gặp gỡ nên duyên, trong sự bèo nước tình cờ (như bèo trôi theo nước không định chỗ nào), cũng như "Bình thủy tương phùng".
375. Kỳ: người lạ thường nói tài giỏi.
376. Bạch Hàm: Yến Bạch Hạm (chữ này chính âm là "hạm" tác giả đặt âm "hàm" cho dễ đọc). Như Hoành (hành): Binh Như Hành. Hai nhân vật nổi tài thi sĩ trong truyện "Bình Sơn Lãnh Yến".
377. Ðơn (đan) quế: cây quế đỏ (da đỏ). Ðậu Vũ Quân đời Tống, có năm con đều thi đỗ hiển đạt người ta khen là năm nhành đan quế. Ðây nói Vân Tiên và Tử Trực là hai người con tài giỏi của hai nhà họ Lục và họ Vương.
381. Lương đống: rường cột. Nói người tài cao đức cả giúp được việc nước.
384. Én hộc: chim én và chim hộc (ngỗng trời), én là loài chim nhỏ, bay thấp, hộc và loài chim to, bay cao. Ðây là Tử Trực tự khiêm, nói mình tài kém, không sánh được với Vân Tiên là người tài cao.
388. Thượng trình: lên đường.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-9-2011 20:20:22 | Xem tất
Võ Thể Loan Tiễn Vân Tiên



    Phút xem trăng đã đứng đầu,
390.Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
    Võ Công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
    "Ngày mai vừa rạng chân trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình."
395.Gọi là chút nghĩa tống tình,
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau."
    Bóng trăng vừa lộ cành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
    Ra đi vừa thuở bình minh,
400.Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung.
    Thưa rằng: "Quân tử phó công,
Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây thơ.
    Tấm lòng thương gió nhớ mưa,
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời."
405."Ngày nay thánh chúa trị đời
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng
    Quản bao chút phận má hồng
Phòng khuê vò võ đợi trông khôn lường
    Chàng dầu cung quế xuyên dương,"
410."Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng.
    Xin đừng tham đó bỏ đăng,
Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn."
    Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà nhen mấy lò.
415.May duyên rủi nợ dễ phô,
Chớ nghi Ngô Khởi, hãy lo Mãi Thần."
    Thể Loan vội vã lui chân,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường An.


Chú thích:

394. Lê đình: sân có trồng cây lê.
395. Tống tình: tình tiễn biệt.
400. Liễm dung: nghiêm chỉnh, dáng điệu để tỏ lòng kính trọng.
401. Phó công: đi công việc.
402. Bồ liễu: tức cây thủy dương, nó thuộc giống dương liễu, nên gọi là bồ liễu hay bồ dương (nhiều người giải là cỏ bồ và cây liễu là sai), thể chất yếu ớt, ngày xưa ví với phụ nữ.
406. Linh phụng: chim phượng khôn thiêng; Ngô đồng: một loại cây cao lớn đẹp đẽ, thuyết cao cổ, chim phượng thường đậu cây này. "Phượng hoàng đậu cây ngô đồng" tượng trưng người tài giỏi ở một địa vị xứng đáng. Ðây Thể Loan mong Lục Vân Tiên lập được công danh xứng được với tài của mình.
409. Cung quế: cung trăng. Người xưa bảo trên cung trăng có cây đan quế (quế đỏ), và thường ví sự khi thi đỗ như bẻ quế cung trăng. Xuyên dương: bắn thủng lá dương liễu. Dưỡng Do Cơ người nước Sở (đời Xuân Thu), bắn rất giỏi, từng đứng xa trăm bước bắn vào lá cây dương liễu (lá nhỏ lắm) trăm phát trúng cả trăm. Tích Xuyên dương này thường mượn dùng để chỉ sự thi đỗ, vì người học giỏi như người bắn giỏi vậy.
410. Tào khương: là bã rượi và cám gạo, thức ăn xấu, người nghèo thường dùng. Tống Hoằng đời Ðông Hán, làm chức Ðại Tư Không, là người có uy đức trong đám quần thần, vua Quang Vũ muốn ông bỏ vợ để lấy chị gái mình là Hồi Dương công chúa, ông trả lời rằng: "Tào khang chi thê, bất khả hạ dường" (người vợ đã cùng ăn ở kham khổ với mình, không thể ruồng rẫy được). Câu nói này được người sau truyền tụng và nhân gọi vợ là người "tào khang".
411. Ðó, đăng: hai dụng cụ làm bằng tre, nứa để bắt cá.
413. Nhen: nhóm.
415. Phô: nói ra, bày ra. Nói: may thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, tức như làm hay thì gặp hay, làm dở thì gặp dở, lẽ đó bày ra rành rày.
416. Ngô Khởi: người nước Vệ, giỏi binh pháp, khi nước Tề đánh nước Lỗ, Lỗ muốn dùng Khởi là tướng quân chống Tề, nhưng có ý nghi ngại, vì Tề là nước quê của vợ Khởi, Khởi nghe biết, bèn giết chết vợ để tỏ mình không vị gì nước Tề. Người thời ấy bảo Khởi "giết vợ để cầu làm tướng" (sát thê cầu tướng) thật là con người phụ bạc tàn ác; Mãi Thần: họ Chu, người đời Hán, nhà nghèo mà ham học, vừa đi kiếm củi vừa đọc sách nghêu ngao ở dọc đường, vợ lấy làm xấu hổ, và cũng không kham nổi cảnh nghèo khổ của Mãi Thần, bỏ đi lấy người khác, sau Mãi Thần hiển đạt vợ lại xin về, Mãi Thần lấy bát nước đổ xuống đất, bảo vợ hốt đầy lại được thì sẽ sum họp, vợ hổ thẹn thắt cổ chết. Ý nói câu này: chớ ngờ tôi như Ngô Khởi và nàng cũng nên nghĩ đến việc vợ Mãi Thần.
418. Trường An: tên kinh đô đời nhà Hán, về sau kinh đô nói chung.   
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-9-2011 21:15:34 | Xem tất
Vân Tiên gặp Vương Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm



    Xa xa vừa mấy dặm đường
420.Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
    Trải qua thủy tú, sơn kỳ,
Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.
    Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
425.Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.
    Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua.
    Cùng nhau bàn bạc gần xa,
430.Chữ tài chữ mệnh xưa hòa ghét nhau.
    Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây."
    Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau."
435.Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
    Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
    Phút đâu gặp bạn cố tri,
440.Đều bày tên họ môt khi mới tường.
    Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.  
    Một người ở quận Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
445.Hai người lại gặp hai người,
Ðều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
    Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao."
    Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
450.Làm thơ mới biết bậc nào tài năng."
    Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề
    Quán rằng: "Thịt cá ê hề",
Khô lân, chả phụng bộn bề thiếu đâu.
455.Kìa là thuốc lá ướp ngâu,
Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
    "Để khi đãi khách giầu sang,
Đãi người văn vật, đãi trang anh hùng."
    Bĩ bàng trà rượu đã xong,
460.Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ,
    Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
    Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.


Chú thích:

420. Vầy đoàn: họp thành đoàn.
421. Thủy tú sơn kỳ: nước đẹp, núi lạ, nói cảnh đẹp.
422. Cá nhảy, rồng bay: cá vượt Vũ Môn hóa rồng. Rồng bay lên mây làm mưa làm gió. Chỉ sự trổ tài đua sức người thư sinh.
424. Tiên tử: người tiên; Bồng Lai: chỗ tiên ở. Theo thần thoại, ba hòn núi ở ngoài bể Bột (bể phía Ðông) gọi là Bồng Lai. Phương Trượng và Doanh Châu, có các tiên ở và nhiều thuốc trường sinh bất tử.
425. Tình hoài: tình và lòng, cũng như nói tâm tình (Hoài là cái ôm ấp ở trong lòng, chữ này sóng đôi với chữ tình, thuộc nghĩa danh từ chứ không thuộc nghĩa động từ).
428. Cửa Võ: Vũ Môn, tức Long môn. Long môn là hai nhỏm núi đá đứng sững hai bên bờ trên một khúc sông Hoàng Hà (Trung Quốc), như hình cái cửa, cửa này nguyên trước chật hẹp, khi ông Hạ Vũ trị thủy có đục phá cho rộng thêm ra, nên gọi là Vũ Môn (cửa ông Vũ). Sách Tam Tần Ký nói: Long Môn là nơi dữ sóng, cá khó vượt qua, nếu vượt qua được thì sẽ hóa rồng, Sách Thủy Kinh nói: tiết tháng ba, cá chép vượt qua được Long Môn hóa rồng; người đời Ðường bảo những sĩ tử thi đỗ là "nhảy qua Long Môn". Theo sách Ðại Nam Nhất Thống Chí thì nước ta cũng có Vũ Môn, ở dãy núi Khai Trướng (Giăng Màn) thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, là một dòng suối ba bậc, tương truyền: mỗi năm đến tháng tư, mưa to, có nước nguồn thì cá chép ngược dòng "vượt Vũ Môn để hóa rồng", ca dao đã nói: "Tháng ba cá đi ăn thề, tháng tư cá về, cá vượt Vũ Môn". Truyền thuyết này rất phổ biến trong văn thơ, cũng như trong dân gian.
430. Tài, mệnh ghét nhau: thuyết cũ cho rằng người có tài thì không có phận.
432. Giỡn sóng, chơi mây: Nói con rồng khi ở vực sâu thì giỡn sóng, khi lên trời cao thì chơi mây, mặc sức vẫy vùng. Hai câu này đại : dù hiển đạt ra giúp nước hay chưa hiển đạt còn ở nhà, tùy hoàn cảnh mà thi thố chí mình, chỉ cần có tài, bất chấp số mệnh (muốn phản lại thuyết tài mệnh ghét nhau ở trên).
433. Hồng hộc: chim hồng, chim hộc, tức là vịt trời và ngỗng trời, loại chim bay xa và bay cao.
436. Kinh địa: đất kinh đô.
439. Cố tri: người bạn quen biết đã lâu nay, bạn cũ. Ở đây nói xa nhau lâu ngày nên quên mặt.
444. Tác chừng: tuổi chừng.
452. Cho bề: cho nhiều, như nghĩa "bề bộn". Bề bề: nhiều lắm, tục ngữ: "Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay ".
454. Khô lân: nem làm bằng thịt con kỳ lân, một loài thú tưởng tượng.
455. Ướp ngâu: ướp hoa ngâu, thứ hoa bé nhỏ như hạt kê, màu vàng rất thơm.
456. Ve: bình nhỏ; Tuyết điểm: không rõ nghĩa. Có lẽ chè có lấm tấm trắng, hoặc phơn phớt màu trắng; Cúc hương: hương thơm mùi cúc.
458. Văn vật: có học tức văn hóa, hay có nhiều nhân tài và chế độ hay, như nói: người văn vật, đất văn vật.
459. Bĩ bàng: đầy đủ, sung túc (tiếng miền Nam).
464. Viết tùng cổ thi: viết theo thơ cổ. nói "cóp" của người xưa cổ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 15-9-2011 12:37:29 | Xem tất
Tâm sự người chủ quán



465.Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
    Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ."
    Cười người Tôn Tẫn không lừa,
470.Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên.
    Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?"
    Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
475.Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương."
    Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
    Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
480.Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
    Ghét đời Kiệt, Trụ, mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
    Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
485.Ghét đời Ngũ Bá phân vân,
Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
    Ghét đời Thúc Quý phân băng,
Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng rối dân.
    Thương là thương đức thánh nhân,
490.Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn
    "Thương thầy Nhan Tử dở dang,"
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
    Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
495.Thương thầy Ðổng Tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
    Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước, lại lui về cày.
    Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
500.Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
    Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
    Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương."


Chú thích:

468. Ðồ thơ: tức đồ thư, sách vở câu này nói: con người chẳng có tài gì về sách vở (chẳng biết sách vở gì cả, vô học). Có người giải: Ðồ thơ tức đồ thi: bôi thơ, nói không biết làm thơ, như người bôi vẽ ra giấy, nhưng theo văm phạm chữ Hán, chưa thấy lối đặt như thế.
469, 470. Tôn Tẫn, Bàng Quyên: hai tướng tài thời Chiến quốc. Hai người cùng học Quy Cốc tử, kết nghĩa với nhau, nhưng về sau Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, lập mưu cắt xương đầu gối của Tôn Tẫn (có sách chép là cắt chân). Không lừa: không chọn lọc, nói không biết chọn bạn. Trước đà thấy máy: máy là máy trời; nói Quỉ Cốc tử đã bảo trước Tôn Tẫn nên phòng ngừa Bàng Quyên, nhưng Tôn Tẫn vẫn hững hờ không lưu , nên bị Bàng Quyên lừa hại. Hai câu này nói: chơi bạn nên để ý tới tình bạn, kẻo xảy ra ta nạn như việc Tôn Tẫn, Bàng Quyên.
472. Tuyền: toàn: trọn vẹn. nói những việc trong kinh sử, có hay có dở, không thể nào toàn được.
479. Tầm phào: không có nghĩa lý, vu vơ, hão huyền, tiếng thường dùng ở miền Nam.
481. Kiệt, Trụ: Vua Kiệt đời Hạ, vua Trụ đời Thương. Hai vua tàn ác có tiếng, bị nhân dân oán ghét mà mất ngôi. Mê dâm: mê là trong lòng mê ám, dâm là việc tà dâm (càn bậy).
483. U, Lệ: U vương và Lệ vương hai vua đời nhà Chu, làm nhiều việc bạo ngược vô đạo; Ða đoan: nhiều mối, lôi thôi, nhiều việc.
485. Ngũ Bá: năm vua Bá. Cuối đời nhà Chu (đời Xuân thu), năm vua chư hầu mạnh lớn, tức Tề Hoàn công. Tấn Văn công, Tống Tương công, Trần Mục công, Sở Trang vương, kế tiếp nhau nổi lên làm bá chủ nhất thời, gọi là "Ngũ bá". Ngũ bá đều dựa trên uy lực, giả dối nhân nghĩa, kéo bè nước này đánh nước kia, gây chiến tranh hại dân.
487. Thúc Quý: đời suy loạn nói chung. Bài phú "Bạch lộc động" của Chu Hi đời Tống, trong có chữ "Thúc quý", tuy tác giả dùng chỉ chung đời suy loạn, nhưng cái thời gian xảy ra mà tác giả thuật đó, vẫn là thời gian "Ngũ quý", vậy 'Thúc quý" cũng có thể giải là đời suy loạn "Ngũ quý" được "Ngũ quý" tức "Ngũ đại", năm triều đại khởi lên cuối đời Ðường, hồi ấy nước Trung Quốc bị chia cắt nghiêng đổ (phân băng), dân rất khổ vì chiến tranh liên miên.
488. Ðầu: đầu hàng.
489. Ðức thánh nhân: Tức Khổng Tử, ông đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuôn, để tìm cách đạo hành của mình mà không được.
491. Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học trò Khổng Tử thông minh và hiếu học, đức hạnh vào bậc nhất, nhưng chết sớm, năm chết mới 32 tuổi (đây nói 31 tuổi, có lẽ chép nhầm), thầy và bạn rất thương tiếc.
493. Gia Cát: chữ này chính âm là Chư Cát (họ hai chữ), Chư Cát Lượng tên tự Khổng Minh, người đời Tam quốc, có tài chính trị, nhất là binh pháp làm quân sư cho Lưu Bị, chỉ muốn khôi phục cơ nghiệp nhà Hán, nhưng khi Khổng Minh chết, nước vẫn còn bị chia ba.
494. Hán mạt: cuối đời Hán, tức đời Tam quốc (Thục, Ngụy, Ngô, ba nước phân tranh).
495. Ðổng Tử: Ðổng Trọng Thư, một nhà đại nho đời Hán, có tài đức hơn người vua Hán cử làm Giang Ðô tướng, nhưng rồi lại giáng chức và có lần bị bắt giam, sau ông cáo quan về.
497. Nguyên Lượng: Ðào Tiêm, tên tự là Nguyên Lượng, một nhà cao ẩn đời Tấn. Trước có làm quan Lệnh (tri huyện), huyện Bành Trạch, vì không chịu quỵ lụy quan trên, ông treo ấn bỏ quan về ở ẩn, có làm bài thơ "Quy khứ lai từ" (Về đi thôi) để tỏ chí mình.
499. Hàn Dũ: Người đời Ðường, đỗ tiến sĩ, làm đến chức Lại Bộ Thị Lang. Vì làm biểu can vua Ðường đừng mê tín đạo Phật (vua rước xương Phật vào trong cung để cúng lễ), nên bị giáng chức và đày đi xa. Ông là người đạo đức văn chương nổi tiếng, có nhiều tác phẩm hay truyền lại, các học giả coi ông như Thái Sơn (ngọn núi cao hơn các núi khác) Bắc đẩu (chòm sao sáng hơn các sao).
501. Liêm, Lạc: Chu Ðôn Di ở Liêm Khê và học trò là hai anh em Trinh Hiệu, Trinh Di ở Lạc Dương, ba người là nhà triết học nổi tiếng đời Tống, có ra làm quan nhưng không đắc dụng, lại trở về dạy học.
502. Giáo dân: dạy dỗ chúng dân.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 15-9-2011 19:32:29 | Xem tất
Chủ quán tranh luận cùng Tử Trực



505.Trực rằng: "Chùa rách phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
    Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
    Quán rằng: "Nghiêu, Thuấn thuở xưa,"
510.Khó khăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.
    "Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,"
Một mình một núi, ai hầu chi ai.
    Ông Y, ông Phó ôm tài,
Kẻ cày, người cuốc đoái hoài chi đâu?
515.Thái công xưa một cần câu,
Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
    Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
Cày mây, cần nguyệt tả tơi áo cầu.
    Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
520.Gió trăng một túi, công hầu chiêm bao.
    "Người nay có khác xưa nào?
Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn."


Chú thích:

505. Chùa rách Phật vàng: Tục ngữ "Chùa đất phật vàng", chùa xấu mà bụng tốt. Nói nhân tài sinh ở chỗ nghèo hèn.
506. Kinh luân: khi làm tơ kéo từng mối ra mà chia gọi là kinh, so các sợi mà hợp lại gọi là luân; nghĩa bóng: sự sửa sang, sắp đặt khéo. Có tài kinh luân là có tài tổ chức, tài trị nước.
508. Làm mưa: Kinh thư có câu: "Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm vũ", nghĩa là như năm đại hạn, dùng người là trận mưa rào, nói người hiền tài ra cứu dân giúp nước, cũng như trận mưa giải cơn hạn vậy. Nói hai câu này: ông quán thương dân khổ (nắng hạ) sao không ra giúp dân (làm mưa)?
509. Nghiêu, Thuấn: hai vua đời cổ Trung Quốc, có đức tính tốt chính hay, dân nước được thái bình thịnh vượng, làm tiêu biểu cho các vua hiền đời sau. Thời ấy, Nghiêu, Thuấn đã có quan niệm: nước là của chung nhân dân, và trị nước phải người có tài đức, nên đều không truyền ngôi cho con mà truyền cho người hiền.
510. Sào phủ, Hứa Do: hai nhà hiền triết thời vua Nghiêu, ở ẩn, cày ruộng tự túc. Vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do. Do không nhận trốn lên núi Cơ Sơn. Sau vua Nghiêu lại sai người đến mời ra làm Cửu Châu Trưởng. Do không muốn nghe, cho lời nói đó làm bẩn tai mình, bèn xuống sông Ðĩnh Thủy rửa tai. Vừa lúc ấy thì Sào Phủ cho trâu xuống uống nước, Hứa Do kể chuyện cho bạn nghe, Sào Phủ liền dắt trâu lên trên dòng cho trâu uống, vì sợ uống nước ngay chỗ bẩn đó làm bẩn miệng trâu. Câu này nói: giỏi như Nghiêu, Thuấn thuở xưa cũng không thể đem phu quý mà thay đổi hai nhà hiền triết.
511. Di Tề: Bá Di, Thúc Tề, hai con vua nước Cô-Trúc, chư hầu nhà Thương. Bá Di là con cả, Thúc Tề là con thứ ba, khi cha mất dặn lập Thúc Tề lên ngôi, nhưng Thúc Tề nhường ngôi Bá Di, vì Bá Di là trưởng. Bá Di không nghe, bảo phải theo mệnh cha, rồi bỏ trốn đi. Thúc Tề cũng không nhận ngôi mà bỏ đi, người trong nước lập con trai thứ hai làm vua. Khi Vũ Vương đánh Trụ (vua nhà Thương), Di, Tề dằng cương ngựa mà can ngăn, bảo tôi đánh vua là lỗi đạo (Vũ Vương là chư hầu, Trụ là thiên tử). Sau Vũ Vương thắng được Trụ, diệt nhà Thương lập nên nhà Chu. Di, Tề không thèm ăn gạo thóc của nhà Chu, lên ẩn núi Thủ Dương, kiếm rau vi mà ăn, rồi chết đói ở đó; Châu (nhà Chu): chữ này thường đọc là Chu, nhưng chính âm là Châu, và chữ Do (Hứa Do) ở câu trên cũng chính là âm Dâu, vậy cả hai chữ đều nên đọc là theo âm chính cho có vần.
512. Ai hầu chi ai: nói khổ.
513. Y, Phó: Y Doãn và Phó Duyệt, hai nhà hiền tướng đời Thương, trước đều ôm tài đi ở ẩn. Y Doãn cày ruộng kiếm ăn, vua Thang ba lần mời ra làm tướng, mãi ông mới chịu ra, giúp Thang gây dựng cơ nghiệp nhà Thương. Phó Duyệt là nghề đắp tường thuê, vua Cao Tông nhà Ân (tức nhà Thương) sai người đi cầu về, lập làm tướng, có chính sự hay, nước trị dân yên.
515. Thái Công: ông chính họ Khương, tên Thượng, tên tự là Tử Nha, tổ tiên đời trước có công được phong đất Lã, nên theo đất phong cũng gọi là Lã Thượng. Bậc đại hiền tài cuối đời Thương, tuổi đã hơn tám mươi, thường ngồi câu cá trên sông Vị. Văn Vương (tổ nhà Chu) đi săn, gặp ông, rước về, nói: "Ngô Thái Công vọng tử cửu hĩ", nghĩa là cha tôi mong ông đã lâu (trước cha Văn Vương thường mong có bậc thánh nhân đến giúp nhà Chu, nay được Thái Công, quả như điều mong muốn đó), nhân gọi ông là Thái Công Vọng (sau chuyển ra Lã Vọng), rồi lập làm Quân Sư, tôn làm Thái Công (cha), làm Thượng Phụ (người kính trọng ngang với cha). Thái Công đã giúp Văn Vương và con là Vũ Vương lập nên nghiệp lớn nhà Chu.
517. Nghiêm Lăng: Nghiêm Quang, tên tử là Tử Lăng, một ẩn sĩ đời Hán, bạn thân với Lưu Tú (dòng dõi vua Hán). Khi Tú dẹp được loạn Vương Mãng (Mãng cướp ngôi nhà Hán), lên làm vua tức là Quang Vũ, Tử Lăng đổi họ tên đi ẩn náu, Quang Vũ sai người tìm kiếm mãi mới thấy ông mặc áo cừu ngồi câu cá trên một cái đầm ở nước Tề. Quang Vũ mời ra làm quan, mấy lần Tử Lăng đều kiên quyết từ chối. Sau cùng, Quang Vũ khẩn khoản mãi, Tử Lăng có ra chuyện trò với Quang Vũ mấy ngày (Tử Lăng nằm cùng giường với vua, gác chân lên bụng vua) rồi lại về, trọn đời cày ruộng nơi Phú Xuân và câu cá ở bến sông Ðồng Giang gần bên núi. Ðã mấy đua bơi: ý nói đã bao lâu vẫy vùng nơi sông núi mình ở.
518. Cày mây cần nguyệt: cày trong mây (trong núi), câu dưới trăng. Nói cày ruộng câu cá với cảnh mây trăng thanh cao ẩn dật. Tả tơ áo cầu: cầu (chữ này ta thường đọc là "cừu", nhưng chính âm là "cầu") là áo làm bằng da thú (như dê, cừu, cáo...). nói Tử Lăng ngồi câu lâu năm, áo cừu đã rách náo...).
519. Trần Ðoàn: tên tư là Ðồ Nam, hiệu Hi Di, người đời Tống, ẩn núi Hoa Sơn, tinh môn học Dịch, tài đoán số mệnh, tu luyện đạo tiên, không ăn cơm gạo, giấc ngủ thường trăm ngày chưa dậy. Vua Thái Tông nhà Tống mấy lần mời ra làm quan, Trần Ðoàn không nhận, có bài tạ biểu lời lẻ rất kiên quyết.
520. Công hầu chiêm bao: coi chừng công hầu như giấc chiêm bao.
522. Ra, vào: ra giúp nước hay đi ở ẩn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 15-9-2011 20:23:31 | Xem tất
Chủ quán chê cười Kiệm, Hâm



    Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm."
525."Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao."
    Quán rằng:"Sấm chớp mưa rào,
Ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
    Sông trong cá lội thảnh thơi,
530.Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
    Uổng thay đàn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cười."
    Tiên rằng:"Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ đặng bảy người Trước Lâm."
535."Cùng nhau kết bạn đồng tâm,"
Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
    Công danh phú quí màng chi,
Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.
    Rừng nhu biển thánh mênh mông,
540.Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay."
    Quán rằng: "Đó biết lòng đây,
Lời kia đã cạn, rượu nầy thưởng cho."
    Kiệm, Hân là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
545.Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.


Chú thích:

528. Ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời: do chữ Hán "tỉnh đế oa": ếch đáy giếng, và "tọa tỉnh quan thiên": ngồi trong giếng xem trời, dùng chỉ những người kiến thức nhỏ hẹp. Hai câu này nói: Trịnh Hâm là kẻ kiến thức hẹp hòi, như ếch ngồi đáy giếng, chỉ trông thấy một khoảng trời nhỏ bé, còn biết gì đến những trạng thái biến động, sấm chớp mưa rào trên cái bầu trời bao la rộng lớn kia.
530. Xem hai con mắt sáng ngời như châu: mắt chỉ mắt cá, châu là ngọc châu (ngọc trai), do câu chữ Hán "ngu mục hỗn châu": mắt cá lẫn ngọc châu (cái giả tráo lộn với cái thực). Hai câu này đại ý: người ở đời, tốt xấu hay dở, thường mập mờ hay lừa dối, cũng như cá lội trong nước, hai mắt trông sáng như ngọc châu, nó chỉ là cái mắt cá đó thôi. Ðây chỉ Kiệm, Hâm bề ngoài coi như vẻ người ăn học, thế mà lại là kẻ dốt nát ngu ngốc.
531, 532: Ðàn gảy tai trâu, nước xao đầu vịt: do hai câu tục ngữ (xao là dội), ý nói: người ngu dốt không hiểu lời nói hay, như trâu không biết nghe đàn; người ngoan cố không thu lẽ phải, như đầu vịt trụi lông không thấm được nước.
534. Trước lâm: rừng trúc. Do điển cũ: "Trúc lâm thất hiền": bảy người hiền ở rừng trúc, tức Kê Khang, Nguyễn Tịch, Nguyễn Hàm, Sơn Ðào, Hướng Tú, Vương Nhung, Lưu Linh) (cùng người đời Tấn). Bảy ông này tính tình phóng đạt, thường họp nhau chơi bời ở rừng trúc, đàm luận học thuyết Lão, Trang, uống rượu quên đời. Ðây nói ông quán cũng là hạng người ẩn dật như bảy ông Trúc lâm.
536. Khi cầm, khi thi: cầm là đàn, thi là thơ.
539. Rừng nhu: rừng nho (chữ "nho" chính là âm "nhu"). Rừng nhu biển thánh: nói đạo học cao rộng như Khổng Tử.
543. So đo: tâm địa chật hẹp, tén mén.
545. Ðầu công: thành công bậc nhất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 15-9-2011 20:56:42 | Xem tất
Đến lúc thi, mẹ mất Vân Tiên phải trở về



    Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
    Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
550.Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.
    Vân Tiên vừa bước chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
    Khai phong mới tỏ sự cơ,
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
555.Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
Trời Nam, đất Bắc xót xa đoạn tràng.
    Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công danh.
    Những lăm công toại danh thành,
560.Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
    Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở, liệu thời quy lai.
    Tiểu đồng thở vắn than dài,
"Trời ơi! trời nỡ phụ tài người ngay."
565.Trực rằng: "Đã đến nỗi nầy,
Tiểu đồng, bậu hãy làm khuây giải phiền.
    Sớm mai thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay.
    Bây giờ kíp rước thợ may,
570.Sắm đồ tang phục, nội ngày cho xong.
    Dây rơm, mũ bạc, áo thùng,
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm."
    Tiên rằng: "Mẹ Bắc con Nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
575.Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi bớt dặm, lấy chi bớt đàng."
    Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng kẻ đi.


Chú thích:

550. Chàng ràng: dàng dênh, dênh dang.
553. Khai phong: mở thứ gì bọc kín. Ở đây là mở thư.
554. Dật dờ: tâm hồn bị xúc động mạnh nên chập chờn như nửa tỉnh nửa mê.
556. Ðoạn tràng: đứt ruột.
559. Công toại danh thành: toại là nên, cũng như nghĩa chữ "thành". Nói vừa nên sự nghiệp vừa có danh vọng.
560. U minh: tối tăm (minh: mờ), đây chỉ cõi chết.
562. Quy lai: Trở lại, quay về.
571. Dây rơm: bằng rơm. Mũ bạc: mũ trắng. Áo thùng: áo thụng, áo tộng tay.
572. Sách Văn Công: sách Gia Lễ của Chu Văn Công tức Chu Hy đời Tống, dạy lễ nghi về tang chế, cưới xin v.v...
575. Không cánh không vi: nói mình không mọc được cánh như chim, mọc được vi (vẩy) như cá để bay thẳng hay bơi thẳng về nhà một mạch cho nhanh chóng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:44:42 | Xem tất
Mọi người an ủi Vân Tiên



    Việc trong trời đất biết chi,
580.Sao dời, vật đổi còn gì mà trông.
    Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
    Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột đau.
585.Thương thay chín chữ cù lao,
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
    Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương."
    Ai ai trông thấy cũng thương,
590.Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường lập thân.
    Dẫu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
    Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
595.Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại, mấy lần xông pha.
    Xảy đâu bạn tác vừa ra,
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm mà đưa Tiên.
    Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
600.Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau."
    Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương.
    Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
605.Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.


Chú thích:

580. Sao dời vật đổi: do câu chữ Hán "vật hoán di tinh": vật đổi sao dời, nói cảnh đổi thay, thời tiết cũng chuyển dời ("sao" là chỉ thời tiết, người xưa thường tính thời tiết theo cái vòng chuyển vần của 28 vì sao trên trời). Một thành ngữ chỉ sự biến đổi nói chung.
584. Chín chiều ruột đau: do câu văn của Tư Mã Thiên: "Trường nhất nhật nhi cửu hồi": ruột quặn chín trong vòng một ngày, nói người ta mỗi khi có sự đau thương, ruột thường bị quặn lại nhiều vòng (chín vòng chỉ là nói nhiều vòng thôi). Câu "Quặn đau chín khúc" ở phần dưới đây (câu 1-182) cũng nghĩa là quặn đau chín vòng chứ không phải chín đoạn ruột.
585. Chín chữ cù lao (cửu tự cù lao): tức chín chữ: sinh (sinh đẻ ra), cúc (nuôi nấng nói chung), phủ (vỗ về, vuốt ve), xúc (giữ gìn, xem xét), trưởng (chăm nuôi cho lớn), dục (dạy dỗ cho nên người), cố (quay lại nhìn con, quyến luyến mỗi khi đi ra), phục (đi ra rồi lại trở lại, quấn quít không nỡ rời bỏ), phúc (bế ẵm, ấp ủ) ở thơ Lục Nga Kinh Thi nói chín cái công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi con.
586. Ba năm nhũ bộ (tam thiên nhũ bộ): ba năm bú mớm (cho bú sữa, mớm cơm).
588. Thiên hương: hương trời. "Thiên hương" và "Quốc sắc" là những danh từ dùng để chỉ người đàn bà có tài sắc, ở đây không rõ nghĩa, có lẽ tác giả định nói mẹ hiền của Lục Vân Tiên.
592. Phong trần: gió bụi, chỉ sự gian khổ ở đời.
597. Bạn tác: bạn cùng lứa cùng tuổi.
602. Mây bạc: Ðịnh Nhân Kiệt đời Ðường, khi đi làm quan xa, thường hay nhớ cha mẹ, một hôm lên núi Thái Hàng trông về quê hương, thấy đám mây trắng bay lững lờ, ông bùi ngùi nói: "Nhà cha mẹ ta ở dưới đám mây kia". Do đó, danh từ "mây bạc" (mây trắng) được dùng để chỉ sự mong nhớ cha mẹ.
606. Bôn ba: nghĩa chính: làn sóng chảy mạnh (chảy xiết); nghĩa bóng: chạy đuổi theo vất vả làm một việc gì hoặc có cầu cạnh điều gì.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:16:20 | Xem tất
Chủ quán tặng thuốc thần



    Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,"
Đưa ba huờn thuốc để phòng hộ thân.
    "Chẳng may gặp lúc gian truân,
610.Đương khi quá đói, thuốc thần cũng no."
    Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần."
    Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây."
615."Non xanh nước biếc vui vầy,"
Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan.
    Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi, lánh đàng thị phi."
    Nói rồi quày quả ra đi,
620.Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
    Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn.
    Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành.
625.Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
    Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
    Nào hay nước chảy hoa trôi,
630.Nào hay phận bạc như vôi thế này.
    Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
    Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dậy khoa trường còn xa.
635.Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu."


Chú thích:

613. Câu này: nói lòng này còn lo ngại, chưa biết việc biến đổi như thế nào .
614. Tị trần: tránh bụi, tức tránh cuộc đời huyên náo, xấu xa.
618. Thị phi: phải trái, lời khen chê.
619. Quày quả: vội vã.
624. Dưỡng dục sinh thành: công cha mẹ sinh ra, nuôi lớn, dạy dỗ nên người.
630. Phận bạc: Phận mỏng. Tiếng "bạc" ở đây không phải là trắng nhưng khi dùng tiếng này thì liên tưởng đến "bạc" là trắng nên đem ví với vôi. Truyện Kiều: "Phận sao bạc như vôi".
631. Ðường mây: con đường ở trên mây, tức đường công danh (được lên địa vị cao, nên gọi là mây).
633. Lâm việc: tới khi có việc (lâm là tới).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 12:54:52 | Xem tất
Vì khóc quá nhiều Vân Tiên bị mù



    "Thế sao chẳng bớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi, giòng châu thêm nhuần.
    E khi mang bệnh nửa chừng.
640.Trông nom khó liệu, giữa rừng khôn toan."
    Tiên rằng: "Khô héo lá gan!"
Ôi thôi! Con mắt đã mang lấy sầu.
    Mịt mù nào thấy chi đâu,
Chân đi đã mỏi, mình đau như dần.
645.Có thân phải khổ vì thân,
Thân ôi! Thân biết mấy lần chẳng may!
    Đồng rằng: "Trời đất có hay?,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
    Một mình nhắm trước xem sau,
650.Xanh xanh bờ cõi, dàu dàu cỏ cây.
    Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang."
    Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn.


Chú thích:

638. Thêm nhuần: ướt thêm. Nói mình đã mỏi mệt mà lại thêm khóc mãi.
642. Ðã lấy mang sầu: nói mắt đã bị bệnh.
654. Ðồng Văn: ở tỉnh Biên Hòa, huyện Phước Chánh xưa có cái chợ Ðồng Văn.  
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách