|
Tác giả |
Đăng lúc 11-9-2011 12:58:20
|
Xem tất
Vân Tiên Lo Sợ Cho Tương Lai
35..Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi?
Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa?
Hay là bối rối việc nhà?
40..Hay là đức bạc hay là tài sơ?
Bấy lâu lòng những ước mơ,
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
45..Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an."
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
"Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
50..Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
Song đường, tuổi hạc đã cao",
55..Xin thầy nói lại âm hao, con tường."
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự, dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
60..Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
Số con hai chữ khoa kỳ,
65..Khôi tinh đã rạng, Tử vi thêm lòa.
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
Bao giờ cho tới Bắc phương,
Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh.
70..Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiến trình chẳng sai.
Trong cơn bĩ cực thái lai,
Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn."
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
75..Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên cát nhất phương,
Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
80..Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phi nguyền tôi ngay.
Chú thích:
35. Tôn sư (si): thầy học đáng kính trọng. Chữ sư chính âm đọc là chữ si, ta đọc chệnh ra sư.
38. Khoa kỳ: kỳ thi cử. Ðây nói thời kỳ thi đỗ.
40. Ðức bạc: đức mỏng, không được bao nhiêu; Tài sơ: sơ là thô sơ, ý nói không giỏi.
44. Minh: Rõ ràng.
46. Ðăng trình: lên đường.
48. Án: Bàn đọc sách.
53. Tiểu sinh: học trò nhỏ tuổi, tiếng xưng hô khiêm tốn.
54. Tuổi hạc: Hạc là loài chim sống lâu, tiêu biểu tuổi già.
55. Âm hao: Tin tức.
57. Tiền đường: nhà trước, nhà trên.
58. Nhân cơ tàng sự: nhân cơ hội coi trăng mà ngụ ý việc người trong lời nói bí ẩn để chỉ bảo Vân Tiên.
66. Ngựa chạy đường xa: ý nói thân thế Vân Tiên còn phải trải nhiều gian khổ, như con người, như con ngựa còn phải chạy hoài trên khoảng đường xa.
68. Bắc phương: phương Bắc, tính theo thập can, thuộc về \"nhâm\" và \"quý\". Bắc phương gặp chuột: tức \"nhâm\" gặp \"tí\", ám chỉ năm \"nhâm tí\". Mấy câu này cụ thể hóa \"máy trời\" và việc coi trăng mà Vân Tiên chưa hiểu rõ. Ðại ý là: Vân Tiên tuổi ngọ, cái tuổi còn nhiều vận hạn, đến năm Mão học thành tài đi lập công danh, nhưng năm dậu gặp tai nạn, phải đến năm Nhâm Tí mới công danh trọn vẹn. Ðối chiếu với tiểu sử Nguyễn Ðình Chiểu thì năm sinh nhằm năm Nhâm Ngọ (1822, tuổi ngựa), năm thi đỗ là Quý Mão (1843, Thỏ vừa ló bóng), năm bị mù là Kỷ Dậu (1849 - gà đã gáy tan), đúng với sự việc trong mấy câu này. Trong Lục Vân Tiên, tác giả đã tự thuật thân thế mình.
71. Tiến trình: bước đường trước mắt, tức là tương lai.
72. Bĩ cực thái lai: cái cùng đến hết mức thì cái thông trở lại, hết khổ đến sướng.
73. Việc ai chớ sờn: chớ sờn lòng về việc làm của người đời (ám chỉ những việc lừa đảo, bất nhân của Trịnh Hâm và Võ Công sau này).
75. Keo sơn: hai chất dẻo, dính dùng để gắn đồ vật. Người ta thường dùng để chỉ sự bẳn chặt khăng khít trong tình bạn bè. Ở đây có nghĩa là gắn bó đinh ninh.
78. Thiên các nhất phương: mỗi người một phương.
81. Tử Lộ: tên của Trọng Do, một hiền triết đời Xuân thu, học trò Khổng Tử, nhà nghèo, thường đội gạo thuê, lấy tiền nuôi mẹ.
82. Cá nước: Chỉ sự gặp gỡ mà tương đắc với nhau, như cá với nước. Ở đây chỉ sự thi đỗ, công danh thành đạt.
83. Phi nguyền: thỏa lòng. Cả hai câu ý nói: biết bao giờ cá nước gặp duyên, công danh thành toại, để con người trung hiếu sẽ làm rạng rỡ gia đình và thỏa chí giúp vua giúp nước.
|
|