Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
Thu gọn cột thông tin

[Tâm Lý - Xuất Bản] Sự Im Lặng Của Bầy Cừu | Thomas Harris (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:00:54 | Xem tất
2

Nhiều lông chim nổi trên dòng nước lờ đờ màu nâu sẫm, những lông vũ uốn quăn từ chuồng nuôi chim câu bay theo ngọn gió làm gợn sóng mặt sông.
Các nhân viên địa ốc rêu rao trên các bảng quảng cáo nhạt màu rằng những ngôi nhà trên đường Fell, con đường của Fredrica Bimmel, nằm trên một bến cảng. Sở dĩ có điều này bởi vì sân sau của những ngôi nhà đó nhìn ra một vùng nước tù đọng thuộc dòng sông Lucking, thành phố Belvedere, Ohio, một thành phố một ngàn hai trăm dân, ở phía đông Colombus.
Đây là một khu nghèo nàn. Vài ngôi nhà to lớn và cũ kỹ được các đôi vợ chồng trẻ mua với giá rẻ và tân trang bằng sự trợ giúp của nhiều lớp sơn, mà việc này càng làm cho các ngôi nhà khác trông thảm hại hơn. Nhà của gia đình Bimmel chưa được tân trang.
Clarice đứng một hồi lâu tại sân sau nhà của Fredrica, hai tay thọc trong túi áo mưa, ngắm nhìn các lông vũ trên mặt nước. Còn lại một ít tuyết cũ trên những cây lau sậy, với ánh xanh dưới bầu trời xám xịt của một ngày êm ả mùa đông này.
Clarice nghe phía sau lưng có tiếng của người cha của Fredrica đóng đinh trên các tấm ván các chuồng nuôi chim câu, được dựng ngay mép nước, đặt sát ngôi nhà. Cô chưa hề gặp mặt ông Bimmel. Những người láng giềng thờ ơ chỉ nói là ông ta đang ở nhà.
Clarice đang lo cho chính mình. Đêm qua, khi cô quyết định bỏ ngang khóa học để truy bắt Buffalo Bill, nhiều tiếng động xa lạ với tình hình đột nhiên im bặt. Bất ngờ, một sự im lặng thuần túy chiếm lấy tâm trí của cô, một sự yên tĩnh nào đó. Nhưng ở những nơi khác của não bộ, ở vùng ngoại vi, những ánh chớp của ý thức báo rằng cô là một đứa ngu xuẩn đang bỏ lớp học.
Những sự phiền lòng nhỏ nhặt trong ngày không hề ảnh hưởng gì đến cô, ngay cả mùi hôi trên chiếc phi cơ đưa cô đến Colombus, kể cả sự lộn xộn và thiếu năng lực của văn phòng cho thuê xe hơi. Cô đã gõ muốn sưng các ngón tay để cho các nhân viên làm việc khẩn trương hơn nhưng vẫn đem lại hiệu quả nào hết.
Clarice đã phải trả một giá rất đắt cái thời giờ bỏ ra tại đây nên muốn dùng nó sao cho có hiệu quả hơn. Vì bất cứ lúc nào, những người khác có thể thắng Crawford và tước đi tấm thẻ FBI trên tay cô, được dùng để chứng minh cuộc điều tra.
Cô phải khẩn trương lên, không nghĩ đến tại sao; lo nghĩ nhiều hơn đến tình huống khốn cùng của Catherine chỉ phá hỏng cái ngày này của cô. Chỉ nghĩ đến cô ta trong một khoảnh khắc hợp lý, chứ cứ tưởng tượng đến tình trạng hiện giờ cô ta phải chịu những gì đã xảy ra với Kimberly Emberg và Fredrica Bimmel, sẽ làm rối tung dòng suy nghĩ của cô.
Cơn gió thoảng đã ngừng thổi và mặt nước phẳng lặng như cái chết. Hãy giữ vững niềm tin nghe không, Catherine!
Clarice cắn môi. Nếu hắn sử dụng súng, cô hy vọng hắn sẽ giết cô ta ngay phát đầu tiên..
Hãy dạy cho chúng con tình thương và sự siêu thoát
Hãy dạy cho chúng con làm sao được bình thản.
Cô xoay người lại và đi giữa các hàng lồng chim, trên con đường được lót ván ngay trên bùn, về hướng tiếng búa. Có hàng trăm con chim câu với kích cỡ và màu sắc khác nhau; những con to lớn với đôi chân khoèo và nhiều con khác với cái bầu diều tròn trịa. Chúng đi qua đi lại trong chuồng, đôi mắt sáng ngời với cái đầu cứ cà giật hoặc dang đôi cánh rộng trước ánh nắng mờ nhạt và gù nhẹ khi cô đi ngang qua.
Cha của Fredrica Bimmel, ông Gustav Bimmel là một người to lớn với đôi hông rộng, đôi mắt xanh biếc đầm đìa nước mắt. Chiếc mũ đan phủ xuống tận lông mày. Ông đang đóng một chuồng chim trên một con ngựa thợ mộc ngay trước căn chòi để đồ nghề. Khi ông cúi đọc tấm thẻ FBI của cô, Clarice nhận thấy hơi thở ông sặc mùi vodka.
- Tôi không còn gì để nói nữa. Cảnh sát đã trở lại đây vào đêm hôm trước. Họ đã bắt tôi khai lại, đã đọc lại cho tôi nghe - Điều này đúng không, cái kia đúng không? - Tôi có trả lời với họ - Đúng rồi, mẹ kiếp, nếu không đúng, lần đầu tôi đâu có khai như thế cho mấy ông đâu.
- Thưa ông Bimmel, tôi đang cố gắng hình dung nơi mà... tên bắt cóc có thể nhìn thấy Fredrica, nơi mà hắn có thể chú ý đến cô ta và quyết định bắt cóc cô ta.
- Con gái tôi đi làm việc tại một cửa hàng ở Colombus bằng xe buýt. Cảnh sát nói con tôi có gặp ông chủ, nhưng nó không bao giờ trở về nhà nữa. Không ai biết nó có làm gì khác không. FBI đã kiểm tra các biên nhận thẻ tín dụng của nó, nhưng ngày hôm đó thì không có. Cô biết tất cả rồi mà, có đúng không?
- Về thẻ tín dụng thì phải, tôi có biết. Thưa ông Bimmel, ông còn giữ đồ đạc của Fredrica không và chúng được cất ở đâu vậy?
- Phòng của nó ở trên tầng thượng đấy.
- Tôi có thể xem qua không?
Ông phải nghĩ một lúc để tìm chỗ đặt cái búa xuống đâu, rồi nói:
- Được thôi, cô hãy đi theo tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:02:40 | Xem tất
3

Văn phòng của Crawford trong tổng hành dinh của FBI tại Washington, được sơn một màu xám nặng nề nhưng cửa sổ lại lớn.
Đứng gần đó, ông đang cố gắng giải mã cái danh sách vừa mới ra khỏi cái máy in chết tiệt mà đúng lý ra người ta đã phải vứt vào thùng rác từ lâu rồi.
Ông trở về thẳng từ nhà tang lễ và làm việc suốt cả buổi sáng, quấy nhiễu mấy người Na Uy để thúc họ gởi sơ đồ răng của người thủy thủ mất tích tên Klaus, hối thúc văn phòng San Diego hỏi cung tất cả những người tại nhạc viện đã từng quen biết Benjamin Raspail và giục giã ngành Hải Quan kiểm tra lại các danh sách nhập khẩu côn trùng sống bất hợp pháp.
Năm phút sau khi ông đến, John Golby, vị phụ tá giám đốc FBI, người chỉ huy mới của toán công tác đặc biệt liên ngành, ló đầu qua cánh cửa.
- Tất cả bọn tôi đều nghĩ đến anh đấy, Jack. Cảm ơn đã đến. Ngày tang lễ được ấn định chưa?
- Việc gác xác sẽ khởi sự vào đêm mai. Tang lễ sẽ cử hành vào chủ nhật lúc mười một giờ.
Golby gật đầu.
- Chúng tôi có làm một cuộc quyên góp cho Unicef. Anh có muốn chúng tôi điền tên Phyllis hay là Bella?
- Bella, John, anh hãy ghi tên Bella đi.
- Tôi có thể làm gì cho anh không, Jack?
Crawford lắc đầu.
- Tôi làm việc thôi. Bây giờ tôi chỉ còn biết đến công việc mà thôi.
- Tốt - Golby đáp lại và theo đúng ý nghĩ ông ta để trôi vài giây.
- Frederic Chilton yêu cầu được hưởng sự bảo vệ của cảnh sát liên bang.
- Thật phi thường, John à, thế có người nào đi gặp Everett Yow, vị luật sư của Raspail chưa? Tôi có nói chuyện này rồi mà. Có thể ông ta biết điều gì đó về các người bạn của Raspail cũng nên.
- Có rồi, họ làm công việc này hồi sáng nay. Tôi cũng vừa mới gởi một tin nhắn về việc này cho Burroughs. Ông giám đốc đã đưa tên Lecter vào danh sách bị truy nã đặc biệt. Này, Jack, nếu anh cần đến bất cứ điều gì... - Golby nhướng mày và đưa hai tay lên rồi biến mất.
Nếu anh cần đến bất cứ điều gì.
Crawford xoay mặt qua cửa sổ. Ông có một cảnh quang thật đẹp trên tòa nhà cũ của Bộ Bưu Điện, nơi ông đã trải qua thời gian thực tập, bên trái là tổng hành dinh cũ của FBI; vào ngay trao bằng tốt nghiệp, ông cùng những người khác đã diễu hành qua phòng làm việc của J. Edgar Hoover, đứng trên một cái thùng để bắt tay từng người một. Đó là lần duy nhất ông gặp mặt vị chỉ huy tối cao này, vì qua ngày hôm sau ông đã kết hôn với Bella.
Hai người quen biết nhau tại Livoume, bên Ý. Ông đang thi hành quân dịch, cô làm việc cho NATO và vào thời đó cô mang tên Phyllis. Một hôm, trong lúc họ đang dạo chơi trên bến cảng, có một thủy thủ la to “Bella”, và kể từ ngày ấy, đối với ông, cô luôn là “Bella”. Ông chỉ gọi cô bằng tên Phyllis khi nào hai người bất hòa.
Bella đã chết rồi. Điều đó đúng ra phải làm thay đổi cảnh quang trước cửa sổ. Thật không phải chút nào khi nó vẫn y như thế. Khốn nạn thật, tại sao bà lại chết trước tôi như thế chứ! Chúa ơi, con biết điều này sẽ xảy ra, nhưng nó vẫn nhức nhối quá.
Thế người ta đã nói gì về việc nghĩ hưu bắt buộc vào tuổi năm mươi lăm? Người ta đã quá si tình với Cơ quan, nhưng nó không bao giờ biết thương yêu người đâu. Ông đã là chứng nhân.
Cảm ơn Chúa. Bella đã giúp ông tránh được việc đó. Ông hy vọng là bà sẽ ở đâu đó và cảm thấy yên ổn. Ông hy vọng bà có thể đọc được những gì trong tim ông.
- Thưa ông Crawford, có một ông bác sĩ Danielson nào đó...
- Cám ơn - Ông chờ nối máy. - Jack Crawford nghe dây.
- Đường dây này an toàn không ông Crawford?
- An toàn chứ, ít ra từ phía tôi.
- Ông không cho thu băng cuộc nói chuyện này chứ ông Crawford?
- Không đâu bác sĩ Danielson, ông cứ nói mà không ngại gì cả.
- Tôi muốn xác định việc này không liên quan đến bất cứ bệnh nhân nào của John Hopkins hết.
- Hiểu rồi.
- Nếu các ông rút ra được một điều gì đó, tôi yêu cầu các ông phải nói rõ cho công chúng biết hắn không hề là một tên chuyển đổi giới tính và cũng không có mối liên quan nào với viện của chúng tôi.
- Tôi xin hứa. Ông có lời hứa danh dự của tôi đây. Tôi khẳng định điều này - Mày có nói đi không, thằng bị táo bón kia. Crawford có thể hứa cho ông ta cả cái mặt trăng cũng được.
- Hắn đã đánh gục Bác sĩ Purvis.
- Ai mới được?
- Hắn yêu cầu được phẫu thuật cách đây ba năm dưới cái tên John Grant, ở Harrisbourg, Pennsylvania.
- Hình dáng?
- Đàn ông da trắng, ba mươi mốt tuổi. Một thước tám mươi, tám mươi sáu ký. Hắn đến trình diện để làm trắc nghiệm. Kết quả rất tốt về mặt Weschler-Bellevue, chủ thể xuất sắc, nhưng về các trắc nghiệm tâm lý và các cuộc nói chuyện là một việc hoàn toàn khác. Nói cho đúng trắc nghiệm người-cây-nhà và cái TAT của hắn phù hợp với những gì trong tờ giấy mà ông đưa cho chúng tôi. Ông làm cho tôi nghĩ rằng đây là giả thuyết của Alan Bloom, nhưng đúng ra là của Hannibal Lecter có phải không?
- Ông cứ tiếp tục nói về tên Grant đó đi, bác sĩ.
- Dù sao thì ủy ban cũng đã loại bỏ hắn, nhưng khi chúng tôi họp để thảo luận về vấn đề này, sự việc đã được quyết định vì quá khứ của hắn.
- Quá khứ như thế nào?
- Chúng tôi luôn hỏi cảnh sát của thành phố mà người ứng viên đang sống. Thành phố Harrisbourg đang truy nã hắn về hai tội tấn công người đồng tính. Tên thứ hai sém chết. Địa chỉ của hắn chỉ là một nhà trọ gia đình mà thỉnh thoảng hắn mới đến ở đó. Cảnh sát đã tìm thấy dấu tay của hắn và một hóa đơn đổ xăng với số đăng ký xe hơi. Hắn không hề mang tên John Grant. Một tuần sau, hắn chờ Bác sĩ Purvis ra về và đánh gục ông ta vì tức giận.
- Thế tên hắn là gì?
- Tốt hơn để tôi đánh vần cho ông: J-A-M-E G-U-M-B.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:39:04 | Xem tất
Chương 18

1

Ngôi nhà hai tầng mang đầy vẻ tang tóc, với một mái bằng la ti được phết nhựa có vết rỉ sét ở máng xối tại những nơi mà nước mưa tràn ra. Các cây phong tự động mọc trong các máng xối, dường như đã chịu đựng nổi mùa đông khắc nghiệt. Các cửa sổ nhìn về hướng bắc, được che bằng mấy miếng nhựa.
Tại phòng khách nhỏ được sưởi ấm bằng một lò điện, có một người phụ nữ độ bốn mươi tuổi ngồi dưới thảm chơi với một đứa con nít.
- Đây là vợ tôi, - Bimmel nói trong khi họ đi ngang qua căn phòng. - Chúng tôi lấy nhau hồi Noel.
- Xin chào bà, - Clarice nói. Người phụ nữ thờ ơ mỉm cười với cô.
Lại trong cái hành lang lạnh giá: ở bất cứ đâu cũng có nhiều thùng gỗ được chất chồng đều ngang đầu người, giữa đó người ta có chừa một lối đi và chất đầy cả các phòng. Trong các thùng đó chứa toàn những vật dụng lỉnh kỉnh như chụp đèn, nắp lọ, giỏ mây, những số cũ của các tạp chí Reader’s Digest và National Geographic, những vợt tennis đứt dây, khăn trải giường, bao nệm xe được phủ trong một cái mền của những năm năm mươi hôi mùi nước đái chuột.
- Chúng tôi chuẩn bị dọn nhà, - Bimmel cho biết.
Gần cửa sổ, các thùng đã bạc màu vì ánh nắng mặt trời, còn trên các lối đi, các tấm thảm được trải ngẫu nhiên, đã sờn đến chỉ.
Ánh nắng mặt trời chiếu lốm đốm trên các bậc thang mà Clarice bước theo sau người cha của Fredrica trong bộ quần áo bốc mùi hôi trong cái không khí mát mẻ. Các thùng để trên bậc nghỉ được phủ một tấm nhựa.
Căn phòng mang xác của Fredrica thật nhỏ hẹp.
- Cô còn cần đến tôi nữa không?
- Một chốc nữa tôi muốn được nói chuyện với ông. Còn mẹ của Fredrica đâu? Trong hồ sơ có ghi “đã chết” nhưng không nói rõ khi nào.
- Mẹ của Fredrica à? Bà ta đã chết khi con bé được mười hai tuổi.
- Ra thế.
- Cô nghĩ mẹ nó đang ở dưới đó à? Trong khi tôi vừa nói với cô là chúng tôi mới lấy nhau hồi Noel. Cô nghĩ như thế có phải không? Tôi nghĩ cảnh sát hay có thói quen gặp toàn những người kỳ lạ. Bà ta không hề biết mặt Fredrica.
- Căn phòng vẫn được giữ nguyên như cũ phải không, ông Bimmel?
Có lẽ ông tức giận lắm nhưng không để lộ ra.
- Đúng vậy - Ông trả lời thật nhỏ nhẹ. - Không ai sờ mó gì cả. Rất ít người mặc vừa quần áo của con tôi. Nếu thấy cần, cô cứ bật lò sưởi lên, nhưng đừng quên tắt nó khi cô trở xuống.
Ông không muốn bước vào căn phòng này và bỏ đi xuống.
Clarice đứng đó một lúc, bàn tay nắm lấy cái núm cửa bằng sứ lạnh ngắt. Cô cần sắp xếp lại các ý nghĩ của mình trước khi ghi nhận các đồ đạc của Fredrica.
Tốt lắm, theo nguyên tắc, Buffalo Bill đã bắt đầu bằng Fredrica. Hắn dằn cái xác và bỏ nó xuống con sông gần nhà hắn. Hắn giấu cái này kỹ hơn mấy cái khác, hắn chỉ dằn đá cho mỗi cái này, bởi vì hắn muốn người ta tìm thấy mấy cái xác kia trước. Hắn muốn áp đặt cái ý nghĩ là hắn chọn các nạn nhân một cách ngẫu nhiên, trong các thành phố xa cách nhau trước khi người ta tìm được Fredrica, ở Belvedere. Hắn muốn đánh lạc hướng sự chú ý đến thành phố Belvedere. Bởi vì hắn sống tại đó hoặc tại Colombus.
Hắn đã bắt đầu bằng Fredrica. Người ta không thể bắt đầu ham muốn những thứ tưởng tượng. Sự ham muốn là một tội tầm thường, người ta ham muốn những thứ sờ mó được, những thứ mà người ta thấy hàng ngày. Hắn đã thấy Fredrica hàng ngày.
Vậy cuộc sống hàng ngày của Fredrica là như thế nào? Nào hãy bắt đầu đi.
Clarice mở cửa ra. Căn phòng lặng thinh có mùi ẩm mốc. Trên bức tường, tờ lịch năm ngoái vẫn còn để ở tháng Tư. Fredrica đã chết được mười tháng rồi.
Trong một góc, có đĩa thức ăn mèo, khô cứng và đen thui.
Clarice, một nhà trang trí nội thất lão luyện, rất thành thạo về đồ lạc son, đứng ngay giữa căn phòng, từ từ nhìn quanh cô. Fredrica xoay xở khá hay với những gì sẵn có. Các màn cửa sổ bằng vải bông, và đánh giá theo các đường viền, cô ta đã dùng các vải phủ bàn ghế cũ.
Một áp phích hình Madonna đang trình diễn trên sân khấu, một cái khác của Deborah Harry và Blondie. Trên bàn làm việc, Clarice thấy có nhiều miếng băng dính với màu sặc sỡ mà Fredrica dùng để dán lên tường. Không phải là tay chuyên nghiệp nhưng nó vẫn đẹp hơn những lần thử nghiệm đầu tiên của chính cô.
Trong một bối cảnh khác, căn phòng của Fredrica sẽ đẹp mắt hơn. Nhưng trong cái nhà ảm đạm này, cái vẻ tươi đẹp đó đã lạc điệu, đượm một chút gì đó tuyệt vọng.
Không có hình của Fredrica trong phòng.
Clarice tìm thấy một tấm trong cuốn niên giám của trường, trên kệ một tủ sách nhỏ.
Trong tập album hình của Fredrica, có nhiều lời đề tặng. “Cho người bạn thân nhất của tôi” và “Cho một cô gái tuyệt vời”, “Để nhớ các giờ hóa học” và “Mày có nhớ đến các buổi bán bánh của chúng ta không?!!”
Không biết Fredrica có đưa bạn về đây không? Không biết cô có một người bạn khá thân nào để bước lên cái cầu thang này, dưới cái mái nhà bị dột không. Có một cái dù dựng cạnh cái cửa.
Trên tấm hình này, người ta thấy Fredrica đứng ở hàng đầu của một ban nhạc. Cô ta to con với đôi vai rộng, nhưng cô mặc đồng phục trông đẹp hơn mấy người khác; cô có nước da thật đẹp. Những nét không đều đặn phối hợp nhau để tạo một khuôn mặt dễ thương, nếu căn cứ theo các tiêu chuẩn thông thường.
Và Kimberly Emberg cũng thế, cô ta không phải thuộc loại mà người ta có thể gọi là quyến rũ, không dành cho bọn săn gái, và cả hai hay ba nạn nhân khác cũng thế.
Trái lại, Catherine Martin là một thiếu nữ to con và đẹp, và cô phải chú ý đến trọng lượng của mình khi đến độ tuổi ba mươi.
Mày nên nhớ cách hắn đánh giá một cô gái không giống như những tên đàn ông khác. Hắn không hề quan tâm đến sắc đẹp. Điều cần nhất là họ phải trẻ và to lớn.
Clarice tự hỏi không biết đối với hắn phụ nữ có phải chỉ là những “miếng da” thôi, cũng giống như đối với mấy thằng đần, họ chỉ là “mấy con lỗ” thôi.
Trong lúc ngắm nhìn các tấm hình, cô ý thức đến thân hình của chính mình, đến khoảng không mà nó che lấp, đến hình dáng và khuôn mặt, đến hiệu quả mà chúng tạo ra, đến quyền lực của chúng, của cặp vú, của cái bụng săn cứng, của cặp giò dài. Có thể nào cái kinh nghiệm của riêng cô sẽ giúp cô hiểu được Fredrica không?
Clarice tự ngắm mình trong tấm gương lớn dựng đứng sát bức tường ở cuối phòng. Nhưng cô biết sự khác biệt này sẽ tác động như một cái khuôn so với cách nghĩ của cô. Nhưng điều này có ngăn cản việc cô hiểu gì về Fredrica không?
Thế Fredrica muốn tạo cho mình một hình dáng nào đây? Những thèm muốn của cô ta là gì và cách cô thỏa mãn chúng? Cô muốn thay đổi cái gì cho chính bản thân cô vậy?
Có hai hay ba chương trình ăn uống, cách chữa bệnh bằng nước trái cây, bằng cơm và một lý thuyết điên rồ mà theo đó người ta không được vừa ăn và uống trong cùng một bữa ăn.
Vài câu lạc bộ ăn kiêng... mà Buffalo Bill canh chừng các thành viên để chọn những cô gái to con? Rất khó kiểm chứng. Clarice biết trong hồ sơ có ghi hai nạn nhân là thành viên các loại câu lạc bộ đó và người ta cũng đã kiểm tra danh sách thành viên. Một nhân viên FBI của văn phòng Kansas City, cái văn phòng truyền thông của dân Bự Con của FBI và vài cảnh sát viên lực lưỡng đã trà trộn vào các câu lạc bộ ăn kiêng của các thành phố mà các nạn nhân đã sống. Cô không biết Catherine có tên trong loại hình hoạt động đó không. Chắc Fredrica không có khả năng để cho phép mình thuộc loại xa xỉ này.
Cũng có nhiều số của Người Thiếu nữ Đẹp Bự Con, tờ tạp chí của những người phụ nữ vạm vỡ. Khuyên người ta “hãy đến New York để bạn có thể gặp những người từ nhiều nơi khác mà tình trạng to con của bạn lại là một ưu thế rất được ưa chuộng”. Tốt rồi. Một khả năng khác “Làm một chuyến du lịch đến Ý hoặc nước Đức, những nơi mà bạn không bao giờ chịu cảnh lẻ loi trong hơn hai mươi bốn tiếng đồng hồ”. Ba láp. Chỉ còn thiếu điều Fredrica đi gặp Buffalo Bill nữa thôi, mà với hắn tình trạng to con của cô ta là “một ưu thế rất được ưa chuộng”.
Fredrica đã cố thoát thân bằng cách nào đây? Cô ta có trang điểm, có rất nhiều loại kem và thuốc dưỡng da. Điều này tốt đây, mày nên dùng ưu điểm này. Clarice cảm thấy giật mình khi nhận ra mình đang cổ vũ cho Fredrica, làm như thể hoàn cảnh chưa quá muộn vậy.
Các nữ trang của cô ta thuộc loại rẻ tiền, đựng trong một hộp thuốc lá. Một ghim cài mạ vàng, chắc của mẹ cô ta. Cô ta đã thử cắt mấy găng tay bằng ren để bắt chước Madonna, nhưng chúng bị tưa hết, vì đây là loại ren được dệt bằng máy.
Có một máy hát dĩa hiệu Decca của những năm năm mươi với một con dao nhíp được cột vào trên tay hát để tăng sức nặng, nhiều đĩa cũ các bài hát tình tứ của Zamfir, ông thầy của loại sáo hàng mà ống không đều nhau.
Khi cô giật sợi dây để bật đèn trong tủ quần áo, Clarice giật mình trước mớ quần áo của Fredrica. Cô ta có ít y phục thôi nhưng khá lịch thiệp và thời trang. Khi nhìn kỹ hơn, Clarice mới hiểu vì sao. Chính Fredrica may những thứ đó và rất khéo tay, các đường viền được giấu dưới một lớp vải dày và các ve áo được nối thật sít sao. Các ni được chồng trong góc tủ. Phần lớn chúng đều thuộc loại “dễ thực hiện”, nhưng cũng có hai hoặc ba cái hiệu Vogue thuộc loại cao cấp.
Chắc cô ta đã mặc những thứ đẹp nhất cho cuộc phỏng vấn xin việc. Không biết cô đã mặc gì đây? Clarice lật hồ sơ ra. Đây rồi. “Lần cuối cùng người ta đã nhìn thấy cô ta trong một bộ y phục xanh lá cây.” Coi nào ông nhân viên cảnh sát, “một bộ y phục xanh lá cây” có nghĩa gì thế?
Điểm yếu trong tủ quần áo của Fredrica là các đôi giày, cô ta chỉ có vài đôi, và với sức nặng của mình, chúng mau chóng bị biến dạng. Đôi giày mọi đã trở thành hình thuẩn. Cô ta có sử dụng miếng lót khử mùi trong các đôi giày vải. Các lỗ xỏ dây của đôi giày thể thao đã méo hết.
Có thể Fredrica có tập thể dục đôi chút, bởi vì cô ta có mấy bộ quần áo chạy bộ rất lớn hiệu Juno, nữ thần của những phụ nữ có gia đình.
Catherine Martin cũng có vài cái quần hiệu Juno.
Clarice ngồi lên mép giường, hai tay khoanh lại và nhìn chăm chăm vào cái tủ quần áo được bật đèn sáng.
Juno là một nhãn hiệu rất phổ biến, được bán trong nhiều cửa hàng đặc biệt dành cho phụ nữ to con. Bất cứ một thành phố trung bình nào ít lắm cũng có tiệm thời trang dành cho những người phụ nữ vạm vỡ.
Có thể nào Buffalo Bill đã canh chừng và chọn một người để sau đó theo dõi cô ta không?
Có thể nào hắn đã cải trang để đến đây? Tất cả các tiệm dành cho phụ nữ lớn con ít khi được mấy tên cải trang lui tới và cả mấy tên đồng tính thích mặc quần áo phụ nữ.
Cái ý nghĩ Buffalo Bill muốn thay đổi giới tính chỉ mới được khai thác sau này thôi, từ khi Bác sĩ Lecter nói cho Clarice biết giả thiết của ông ta. Thế hắn đã ăn mặc như thế nào?
Tất cả các nạn nhân của hắn đều phải mua quần áo trong các cửa hàng dành cho phụ nữ to con, Catherine Martin mặc cỡ bốn mươi bốn, nhưng những người khác thì không và chắc Catherine cũng phải mua mấy cái áo tròng cổ số lớn hiệu Junon trong loại cửa hàng như thế.
Catherine Martin có thể mặc đồ cỡ bốn mươi bốn nhưng lại là nạn nhân mảnh mai nhất, Fredrica, người đầu tiên thì to lớn hơn nhiều. Hắn sẽ làm gì với Catherine Martin đây? Catherine có một bộ ngực đồ sộ, nhưng cô ta cũng không mập đến như thế. Có thể nào Buffalo Bill đã sụt cân không? Không chừng hồi sau này, hắn đã ghi tên vào một câu lạc bộ ăn kiêng cũng nên? Có thể xem Kimberly Emberg gần như ở giữa hai người kia, cũng to con vậy nhưng thân hình tương đối mảnh khảnh hơn.
Clarice cố tình không muốn nghĩ đến Kimberly Emberg, nhưng hình ảnh của cô ta thoáng hiện trong đầu của cô trong giây phút. Cô thấy lại cảnh cô ta nằm trên bàn giải phẫu tại Potter. Buffalo Bill không hề quan tâm đếp đôi chân thon thon không lông lá tí nào và các ngón tay được sơn cẩn thận; hắn chỉ nhìn vào cái ngực lép là chán ngấy, nên lấy súng bắn một phát ngay đó.
Cửa phòng từ từ hé mở. Clarice thấy tim mình đập mau hơn. Một con mèo bước vào, một con mèo to có bộ lông màu đồi mồi với một con mắt màu vàng còn mắt kia thì xanh lơ. Nó nhảy lên giường cạ mình vào cô. Nó nhớ Fredrica.
Sự cô đơn. Những cô gái to con độc thân thường cô gắng thỏa mãn các sở thích của một ai đó.
Ngay từ lúc đầu, cảnh sát đã loại bỏ các câu lạc bộ hẹn hò. Buffalo Bill đã tìm được chăng một cách nào khác để lợi dụng sự cô đơn? Không gì có thể làm cho con người yếu mềm hơn sự cô độc, ngoại trừ tính tham lam.
Có thể sự cô độc đã giúp cho Buffalo Bill tiếp cận được Fredrica, nhưng không thể với Catherine. Catherine không hề cô độc.
Kimberly cô độc. Thôi mày đừng bắt đầu lại chứ. Kimberly, phục tùng và nhu nhược, xác chết cứng đờ ở bên kia thế giới, được lật úp trên bàn giải phẫu để cô có thể lấy dấu tay. Hãy thôi đi. Không thể nào ngừng lại được. Kimberly, cô độc, muốn được ưa thích, có đồng ý cho người ta lật người lại để có thể nghe được nhịp tim của một ai đó ở sau lưng cô ta không? Clarice tự hỏi không biết Kimberly có cảm nhận được râu đã cạ vào bả vai cô ta không?
Trước ánh đèn sáng của tủ quần áo, Clarice nhớ lại cái lưng tròn trịa của Kimberly và các mảng da hình tam giác đã mất.
Clarice nhìn các hình tam giác được vẽ bằng các đường vạch xanh trên vai của Kimberly, như trên ni của một bộ cánh. Cô nghĩ đi nghĩ lại ý tưởng này cho đến khi cô phát hiện ra lý do với một niềm vui dữ dội: LÀ ĐỂ LÀM MẤY MIẾNG XẾP NẾP. HẮN ĐÃ LẤY MẤY HÌNH TAM GIÁC ĐÓ ĐỂ NỚI RỘNG PHẦN DA Ở VÙNG HÔNG. THẰNG KHỐN NẠN NÀY BIẾT MAY: BUFFALO BILL CÓ HỌC MAY. HẮN KHÔNG CHỈ CẦN ĐẾN NHỮNG THỨ MAY SẴN.
Lecter nói gì rồi nhỉ? “Hắn làm một bộ quần áo nữ bằng những cô gái thật”. Ông ta đã hỏi gì mình? “Cô có biết may không Clarice?” Còn phải hỏi tôi có biết không.
Clarice ngả đầu ra sau một lúc và nhắm mắt lại. Lý giải một vấn đề cũng như đi săn vậy, là một thú vui man rợ mà mỗi người chúng ta đều có trong huyết quản.
Cô thấy có điện thoại trong phòng khách. Cô đang đi xuống tầng dưới thì giọng êm dịu của bà Bimmel gọi cô: cô có điện thoại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:40:41 | Xem tất
2

Bà Bimmel đưa ống nghe cho Clarice và ôm đứa bé đang khóc lên.
- Clarice Starling nghe đây.
- Jerry Burroughs đây, tôi…
- Nghe đây ông Burroughs, tôi nghĩ tên Buffalo Bill biết may. Hắn đã cắt mấy hình tam giác... khoan đã, tôi xin ông chờ cho một chút. Bà Bimmel, tôi nhờ bà đem đứa bé vào trong nhà bếp giùm. Tôi không thể nào nghe được với tiếng khóc của nó... Cám ơn... Jerry à, hắn biết may. Hắn đã cắt...
- Starling...
- Hắn cắt mấy miếng da hình tam giác đó để làm các xếp nếp, mấy miếng xếp nếp của bộ cánh, ông có hiểu tôi muốn nói gì không? Hắn giỏi lắm, hắn có nghề. Các ban nhận dạng phải truy tìm trong đám thợ may phạm tội, thợ may buồm, mấy cửa hàng bán mốt mới, thợ làm thảm... những người thợ làm cho các cửa hiệu có tiếng.
- Được rồi, tôi sẽ làm. Bây giờ đến lượt cô phải nghe tôi vì tôi có thể phải gác máy bất cứ lúc nào. Jack bảo tôi thông tin cho cô biết. Chúng tôi có một cái tên và một địa chỉ có vẻ hứa hẹn lắm. Biệt đội chống khủng bố đã bay từ Andrews rồi. Jack chuyển thông tin cho họ bằng đường dây mã hóa.
- Họ đến đâu?
- Calumet City, gần Chicago. Hắn tên là Jame, không có s; họ là Gumb, tên giả là John Grant, da trắng, ba mươi bốn tuổi, tám mươi lăm ký, tóc màu hạt dẻ, mắt xanh lơ. Jack nhận được tin từ Viện John Hopkins. Cái ý của cô, hình dáng biểu hiện sự khác biệt với các tên chuyển đổi giới tính, đã đánh động John Hopkins. Tên này đã xin đổi giới tính cách đây ba năm. Hắn đã đánh đập một vị bác bởi vì người ta từ chối cuộc giải phẫu. Bệnh viện chỉ có cái tên giả đó thôi và một địa chỉ tạm ở Harrisburg, Pennsylvania. Cảnh sát đã tìm thấy ở đó một hóa đơn đổ xăng với số đăng ký xe và chúng tôi đã lần thêm từ đó. Một lý lịch tư pháp đáng sợ, hồi mười hai tuổi, hắn đã giết chết ông bà của hắn và ở sáu năm trong một bệnh viên tâm thần. Người ta đã thả hắn ra cách đây mười sáu năm khi bệnh viện phải đóng cửa. Hắn không làm cho người ta chú ý đến hắn trong một thời gian dài. Hắn thích hành hung các tên đồng tính. Hắn đã làm chuyện này hai ba lần tại Harrisburg, sau đó mất tích thêm một lần nữa.
- Ông nói là Chicago à. Làm sao ông biết được điều này?
- Nhờ Hải quan. Họ có một hồ sơ về John Grant. Cách đây hai ba năm gì đó, hắn có đến lãnh một vali tại phi trường Los Angeles, được gởi từ Surinam, chứa toàn là kén còn sống. Người nhận mang tên John Grant, có một cửa tiệm tại Calumet City, cô hãy nghe cho kỹ nhé, tên là “Ông Da”. Mặt hàng bằng da. Có thể cái ý thợ may của cô là đúng đấy; tôi sẽ chuyển nó đến Chicago và Calumet. Chúng tôi chưa có địa chỉ cụ thể của tên Grant hoặc Gumb, tiệm đó dẹp rồi và chúng tôi đang bám sát theo hắn đây.
- Không có hình à?
- Chỉ là những tấm hình khi bắt hắn tại Scramento. Những cái này không giúp ích gì cả, lúc đó hắn mới có mười hai tuổi. Hắn giống một đứa bé ngoan. Hình này đã được fax đi gần khắp nơi.
- Tôi có thể đến đó không?
- Không. Chúng tôi có cảnh sát nữ tại Chicago và một nữ y tá để lo cho cô Martin trong trường hợp tìm được cô ta. Starling à, cô đến không kịp đâu.
- Và nếu như hắn cố thủ thì sao? Việc đó có thể...
- Sẽ không có việc điều đình đâu. Người tìm thấy hắn và tóm cổ hắn thôi. Crawford đã có phép tấn công vào nhà hắn rồi. Tên này là một trường hợp đặc biệt. Hắn đã từng chống cự lại cảnh sát khi còn nhỏ. Sau khi giết chết người ông rồi, hắn bắt người bà làm con tin và kết thúc một cách thảm hại, tôi có thể bảo đảm với cô như thế. Hắn bắt người bà làm lá chắn, đối mặt với cảnh sát trong khi một ông mục sư nói chuyện với hắn. Vì là đứa trẻ nên không ai nổ súng. Hắn đứng đằng sau người bà và đâm lút con dao vào trong lưng bà ta. Bác sĩ không cứu được bà ta nữa. Cô thử nghĩ xem, hắn đã dám làm chuyện đó khi mới có mười hai tuổi. Vì thế lần này sẽ không có việc điều đình hoặc phát súng thị uy. Có thể cô Martin đã chết rồi, nhưng cũng không chắc. Có thể hắn chưa chuẩn bị xong. Nếu hắn thấy chúng tôi đến, hắn sẽ giết cô ta ngay trước mặt chúng tôi, chỉ vì ác tâm mà thôi. Vì thế khi chúng tôi tìm thấy hắn, chúng tôi sẽ xông vào liền.
Gian phòng này nóng quá và hôi mùi nước tiểu con nít nữa.
Burroughs nói tiếp.
- Chúng tôi đang truy tìm hai cái tên này trong danh sách những người mua dài hạn tạp chí côn trùng học, ở nghiệp đoàn bán dao, với những tên tái phạm... không một ai sẽ rảnh tay cho đến khi nào vụ này kết thúc. Cô đang điều tra về những người quen biết với Fredrica Bimmel có phải không?
- Đúng vậy.
- Bộ Tư Pháp nói đây là một vụ gian khó, nếu chúng ta không bắt quả tang được hắn. Chúng ta phải bắt được hắn cùng cô Martin hoặc với những gì có thể nhận dạng được như là răng hay các ngón tay. Không cần phải nói là nếu hắn đã thủ tiêu cái xác của cô này rồi thì chúng ta phải tìm cho ra các nhân chứng đã thấy hắn đi cùng các nạn nhân... Cuộc điều tra của cô về Fredrica Bimmel cũng sẽ rất hữu ích cho chúng tôi đấy Starling. Thế Quantico đã sa thải cô rồi, phải không?
- Tôi cho là thế. Họ sẽ dành chỗ của tôi cho một ứng viên khác đang chờ được đào tạo lại, họ nói với tôi như thế.
- Nếu chúng tôi tóm được hắn tại Chicago, một phần là nhờ cô đấy. Quantico nghiêm khắc lắm, mà cũng là chuyện bình thường thôi, nhưng dù gì họ cũng phải chú ý đến vụ này nữa chứ. Đừng gác máy nhé!
Clarice nghe Burroughs nạt nộ một ai đó rồi lại nói tiếp.
- Không có gì đâu, họ sẽ đến Calumet City trong bốn mươi hoặc bốn mươi lăm phút nữa, tùy theo tốc độ của gió. Biệt đội SWAT sẽ tấn công nếu họ tìm thấy hắn trước chúng tôi. Cơ quan cho biết có khả năng có được bốn địa chỉ. Clarice, cô cứ việc tiếp tục tìm kiếm một manh mối nào đó để giúp chúng tôi có thể thu hẹp bớt phạm vi điều tra. Nếu cô tìm được một cái gì đó có liên quan đến Chicago hoặc Calumet thì cô nhớ báo cho tôi ngay nhé!
- Đồng ý.
- Bây giờ cô hãy nghe cho kỹ đây, vì sau đó tôi sẽ gác máy. Nếu chúng ta kết thúc được, nếu chúng ta tóm cổ được hắn tại Calumet City, cô sẽ về trình diện Quantico không chậm trễ vào lúc tám giờ sáng. Jack sẽ bảo vệ cho cô trước ủy ban, và cả Brigham. Cô cứ thử đi có mất gì đâu mà sợ.
- Này Jerry, còn một việc nữa: Fredrica Bimmel có quần áo thể thao hiệu Juno, đây là nhãn hiệu cho phụ nữ to con. Catherine Martin cũng thế. Biết đâu được, có thể hắn la cà các tiệm này để chọn các nạn nhân của mình. Thử điều tra tại Memphis, Akron hay các thành phố khác xem sao.
- Hiểu rồi. Cứ vui lên nhé!
Clarice bước ra ngoài sân chứa đồ tạp nham: cô đang ở Belvedere, Ohio, cách Chicago sáu trăm cây số, nơi xảy ra cuộc chiến. Làn gió lạnh thổi vào mặt khiến cô cảm thấy sảng khoái. Cô đưa một nắm tay lên trời, làm dấu hiệu khuyến khích biệt đội chống khủng bố. Cũng ngay lúc đó, cô cảm nhận gò má và cằm cứ run giật giật. Chuyện gì nữa vậy? Cô sẽ làm gì nếu cô tìm được một điều gì đó? Cô sẽ báo cho FBI ở Cleveland và Đội SWAT ở Colombus, cùng với cảnh sát Belvedere nữa chứ.
Cứu lấy người thiếu nữ, cứu lấy cô con gái của con mụ Thượng nghị sĩ Martin khốn nạn kia, và tất cả các cô khác sau đó là điều cô quan tâm nhất. Nếu họ thành công, mọi việc sẽ ổn thỏa.
Nếu họ đến không kịp lúc, nếu như họ khám, phá được một cái gì đó khủng khiếp thì, ít ra họ cũng phải bắt cho được Buffa... Jame Gumb, hay Ông Da, hoặc bất cứ cái tên nào mà người ta muốn đặt cho con quái vật đó.
Tuy nhiên, đến gần mục tiêu như thế, gần như chạm tay vào đó rồi, có được một ý thật hay nhưng trễ mất một ngày và nhận ra mình cách quá xa nơi bắt bớ, bị đuổi ra khỏi trường, quả thật đây là một thất bại cay đắng. Với cảm thức tội lỗi, Clarice nghĩ dòng họ Starling không hề gặp may trong suốt hai thế kỷ... rằng dòng họ Starling đã lang thang, bị đuổi khắp nơi, lạc mất trong màn sương của thời gian. Nhưng đây là tư tưởng của những kẻ chiến bại và cô xua đuổi nó thật quyết liệt.
Nếu người ta tìm thấy hắn nhờ vào hình dạng mà cô cưỡng đoạt từ Bác sĩ Lecter thì điều này cũng đáng để Bộ Tư Pháp phải quan tâm. Đã đến lúc cô phải nghĩ đến sự nghiệp của mình mà các niềm hy vọng cứ bị co rút như một bộ phận vô hình.
Dù chuyện gì có xảy ra đi nữa thì cái linh cảm xuất thần về cái ni của bộ cánh cũng đã đem lại cho cô niềm vui lớn nhất trong đời rồi. Đó là điều mà suốt đời cô không bao giờ quên được. Cô đã rút cho mình được chừng ấy can đảm trong kỷ niệm về mẹ cô cũng như của cha cô. Cô đã chiến thắng và đã giữ vững niềm tin về ông Crawford. Và đó là những thứ mà cô sẽ cất kỹ trong hộp đựng thuốc lá của mình.
Nhiệm vụ, bổn phận của cô, là phải nghĩ về Fredrica và tìm ra cách mà Gumb đã lôi cuốn cô ta. Nếu Buffalo Bill phải bị xét xử, bên công tố cần đến những sự kiện này.
Cô nghĩ về Fredrica, bị mắc bẫy ở đây trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Thế cô ta đã tìm cho mình lối thoát nào chưa? Những ước muốn của cô ta có phù hợp với Buffalo Bill không? Có phải chính điều này đã kéo hai người lại gần với nhau không? Thật khủng khiếp khi phải nghĩ hắn đã bắt đầu hiểu được cô ta từ kinh nghiệm của chính bản thân hắn, giống như một sự hòa hợp về cảm xúc và dù sao hắn cũng đã dùng đến da cô ta.
Tại bất cứ nơi nào, sẽ có một giờ trong ngày mà một góc nhìn và cường độ ánh sáng sẽ có ưu thế hơn. Khi người ta bị bí lối tại một điểm nào đó, người ta sẽ nghĩ đến thời cơ đặc quyền đó và chờ đợi. Có thể đúng cho trường hợp này, trong cái thời điểm giữa buổi chiều tại con sông Licking, ở phía sau Đường Fall. Có phải đó là thời điểm Fredrica mơ mộng không? Ánh nắng mờ nhạt đã tạo một ít sương mù trên bãi nước kia, đủ để thi vị hóa các tủ lạnh cũ và các lò bếp bị vứt bừa bãi trong các bụi cây, ở bên kia của khúc sông chết.
Một khúc ống bằng nhựa trắng chạy từ căn chòi của ông Bimmel ra đến mép sông. Ông loay, hoay cái gì đó và một lằn nước đỏ lòm phọt ra, vấy bẩn các phế tích còn lại của tuyết. Ông Bimmel bước ra nắng. Phần trước, của quần ông có dính mấy đốm máu và ông mang một túi nylon chứa đựng vài vật tròn màu xám hồng.
- Chim câu non ấy mà - Ông nói khi thấy Clarice nhìn ông - Cô có bao giờ ăn chưa?
- Chưa - cô trả lời và xoay lại nhìn mặt nước. - Tôi chỉ có ăn chim lớn mà thôi.
- Với mấy con này mình không sợ phải cắn nhầm lưỡi câu.
- Này ông Bimmel, ông có biết Fredrica có quen biết ai ở Calumet City hay vùng Chicago gì đó không?
Ông lắc đầu phủ nhận.
- Theo ông thì cô ta chưa bao giờ đến Chicago à?
- “Theo tôi” là có nghĩa gì vậy? Cô nghĩ rằng con gái tôi đi Chicago mà tôi không hề hay biết sao? Ngay cả việc đi Colombus, nó cũng phải nói cho tôi biết đấy.
- Thế cô ta có quen biết một người thợ may đàn ông, hay một thợ may buồm không?
- Nó may quần áo cho hàng tá người. Nó may cũng giỏi như mẹ nó vậy. Nó may cho các tiệm may quần áo phụ nữ mà tôi không thể nào nhớ hết tên được.
- Người bạn thân nhất của cô ta là ai vậy ông Bimmel? Cô ta đi xả hơi với ai vậy? Đi xả hơi; mình quên phứt chuyện này. Nếu với việc này mà ông ta cũng không chịu nói, ông ta thật dạn dày.
- Nó không đi xả hơi như mất con mấy nết kia đâu. Nó lúc nào cũng có công việc để làm. Trời đã không ban cho nó sắc đẹp, nhưng nó rất siêng năng.
- Theo ý ông, người bạn thân nhất của cô ta là ai.
- Tôi nghĩ chắc là Stacy Hubka, kể từ khi chúng còn bé. Mẹ của Fredrica luôn nói rằng Stacy quan hệ với Fredrica chỉ để có một ai đó làm bạn thôi. Tôi cũng không biết nữa.
- Tôi có thể gặp cô ta ở đâu?
- Stacy làm cho một công ty bảo hiểm, tôi nghĩ chắc cô ta vẫn còn làm ở đấy. Công ty Franklin.
Hai tay thọc trong túi, Clarice băng ngang cái sân đầy vết bánh xe hằn sâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:42:03 | Xem tất
3

Càng đi xa về hướng tây, người ta càng phản ứng nhanh hơn trước tấm thẻ FBI. Cái của Clarice chỉ có được cái nhướng mày chán chường của một nhân viên ở Washington. Tại Belvedere, Ohio, ông chủ công ty bảo hiểm Franklin đích thân tiếp cô. Chính ông thế chỗ của Stacy tại quầy tiếp tân và trả lời điên thoại và đề nghị Clarice vào ngồi trong cái ngăn được ông ta dùng làm phòng làm việc.
Stacy Hubka có khuôn mặt tròn được phủ một lớp lông tơ thật mịn, cao một thước sáu mươi với giày cao gót. Thỉnh thoảng cô ta kéo mấy lọn tóc bóng mượt với một cử chỉ kiểu cách và ngắm Clarice từ đầu đến chân khi cô không nhìn mình.
- Stacy... tôi có thể gọi cô là Stacy chứ?
- Dĩ nhiên rồi.
- Tôi muốn nghe cô nói tại sao một chuyện như thế có thể xảy ra với Fredrica Bimmel và làm sao tên đó có thể chú ý đến cô ta?
- Chuyện này hoàn toàn điên rồ. Để bị lột da như thế, quả là một cuộc dạo chơi không hay lắm, có phải không? Cô có thấy cô ta không? Hình như cô ta như miếng giẻ thì phải, giống như thể người ta...
- Này Stacy, có khi nào Fredrica nói với cô về một người nào đó ở Chicago hay Calumet City không?
Calumet City. Đôi mắt của Clarice cứ liếc nhìn cái đồng hồ, ở trên đầu của Stacy Hubka. Nếu Đội Chống khủng bố đến nơi trong bốn mươi phút thì họ sẽ đáp xuống phi trường trong mười phút nữa. Không biết cái địa chỉ của họ có chính xác không. Mày nên lo chuyện mày đang làm đi!
- Chicago à? Không, chúng tôi chỉ đi có một lần đến Chicago vào dịp Lễ Tạ ơn.
- Vào lúc nào?
- Lúc chúng tôi học lớp tám, như vậy là... cách đây chín năm. Ban nhạc chỉ đi đến đó và về ngay bằng xe ca.
- Cô đã nghĩ gì khi Fredrica bị mất tích hồi mùa xuân vừa rồi?
- Tôi chưa hay tin.
- Thế cô đang ở đâu khi hay tin đó? Và cô đã nghĩ gì?
- Buổi tối đó, Skip và tôi đi xem phim, sau đó đến tiệm Toad để uống rượu, đến lúc đó Pam Malavesi và những người khác, đến cho biết Fredrica đã mất tích. Skip có nói: chính Houdin cũng không thể nào làm cho Fredrica biến mất được. Và sau đó anh ta mới cắt nghĩa cho mọi người biết Houdin là ai và đang bô bô phô trương những hiểu biết của anh ta. Tôi nghĩ chắc cô ta đã chán ở nhà với người cha. Cô có thấy nhà của cô ta không? Quá chán có phải không? Ý tôi muốn nói là dù bây giờ cô ta có ở đâu đi nữa, tôi biết cô ta cũng sẽ bực mình vì cô đã thấy ngôi nhà rồi. Nó làm cho cô muốn cút ra khỏi đó, đúng không?
- Cô không bao giờ nghĩ rằng cô ta có thể bỏ trốn với một người nào đó à, cho dù việc đó có sai đi nữa?
- Skip nói đùa là chắc cô ta đã tìm được một người thích thịt dồi. Nhưng không, cô ta không hề quen biết ai như thế. Ý chị muốn nói. là vì chuyện đó à? Vì cái trò trẻ con của thời học sinh đó à? - Stacy đỏ mặt. - Không đâu, tụi tôi đâu có ác ý với cô ta. Cô ta không... mọi người đều rất tốt với cô ta khi anh chàng đó chết.
- Cô có làm việc chung với Fredrica không?
- Vào mùa hè, cô ta và tôi cùng Pam Malavesi và Jaronda Askew, chúng tôi làm việc tại Trung tâm thương mại khi còn học ở trường. Sau đó tôi và Pam đến tiệm Richard để xem người ta có mướn chúng tôi không, đó là tiệm bán quần áo thời trang và họ đã nhận tôi, sau đó đến Pam. Pam có nói với Fredrica là họ cần thêm một cô gái nữa, và thế là cô ta đến trình diện nhưng bà quản lý Bourdine có bảo “Cô hiểu cho Fredrica, chúng tôi cần một cô bán hàng mà các người khách có thể đồng hóa với chính mình, họ bước vào và nói tôi muốn mua một cái gì đó giống như thứ cô đang mặc đây và cô sẽ chỉ dẫn cho họ thấy hiệu quả của quần áo trên người họ. Nhưng nếu cô muốn có việc này và giảm bớt cân, cô hãy đến gặp tôi. Ngay lúc này đây, nếu cô biết chỉnh sửa quần áo, tôi có thể nhận cô vào làm thử. Tôi sẽ trình lại cho bà Lippman. - Bà Bourdine nói nhỏ nhẹ nhưng thật rạ mụ ta rất độc ác, mà - lúc đầu tôi không biết.
- Như thế Fredrica chỉnh sửa quần áo cho Richard, tiệm mà cô đã làm việc phải không?
- Khi nghe nói như thế, cô ta buồn lắm, nhưng vẫn chấp nhận. Bà Lippman vẫn làm công việc chỉnh sửa, bà là chủ và công việc thì nhiều hơn sức bà có thể làm, và như thế Fredrica làm cho bà. Bà Lippman may quần áo cho rất nhiều người, bà tạo mẫu váy nữa. Khi đến tuổi về hưu, cô con gái của bà ta không muốn bà tiếp tục công việc đó và chính Fredrica tiếp nhận hết các khách hàng. Cô ta chỉ làm công việc đó thôi và cô ta vẫn tiếp tục gặp tôi và Pam nữa. Chúng tôi đến nhà Pam ăn trưa, xem tivi, và chị thử nghĩ xem, cô ta mang theo việc để làm, không biết ngừng tay là gì.
- Thế cô ta có dịp làm tại cửa hàng để đo cho khách phải không? Cô ta gặp rất nhiều khách hàng, kể cả những người mua sỉ?
- Có vài lần, nhưng không thường xuyên. Không phải ngày nào tôi cũng làm hết.
- Còn bà Bourdine, bà ta làm mỗi ngày, bà ta có biết gì không?
- Có thể lắm.
- Fredrica không bao giờ nói với cô là cô ta làm việc cho một cửa hàng ở Chicago hay Calumet City tên là “Ông Da”, làm công việc lót các quần áo da chẳng hạn?
- Tôi không biết nữa, chính bà Lippman nhận các đơn đặt hàng.
- Cô chưa bao giờ thấy quần áo với nhãn hiệu đó à? Tại tiệm Richard hoặc ở một nơi khác?
- Không.
- Cô biết địa chỉ của bà Lippman không? Tôi muốn nói chuyện với bà ta.
- Bà ta chết rồi. Bà ta lui về ẩn cư tại Florida và chết tại đó, chính Fredrica cho tôi biết. Tôi không quen biết bà ta. Skip và tôi chỉ đến đón cô bạn của chúng tôi thôi khi cô ta có quá nhiều quần áo phải mang về. Cô có thể hỏi gia đình của bà ta. Tôi ghi địa chỉ cho cô đây.
Chết thật! Tất cả những gì Clarice muốn là các tin tức về Calumet City. Bốn mươi phút đó đã trôi qua. Đội chống khủng bố đã đến nơi. Cô đổi qua chỗ khác để không nhìn thấy cái đồng hồ và tiếp tục.
- Này Stacy, khi Fredrica mua quần chạy bộ hay áo len đan dài tay, cô ta lựa hiệu Juno ở đâu vậy?
- Cô ta may lấy tất cả quần áo của mình. Còn về áo len đan dài tay, tôi nghĩ cô ta mua tại cửa hàng Richard khi đến thời điểm người ta thích mặc loại áo thật rộng, xuống đến giữa đùi. Người ta có thể tìm mua ở bất cứ đâu. Vì cô ta may cho tiệm Richard nên được bớt tiền.
- Cô ta không bao giờ mua quần áo tại các cửa hàng dành cho phụ nữ to con sao?
- Chúng tôi đi đủ mọi loại cửa hàng để xem, cô biết tại sao mà. Cô ta đến những nơi đó để tìm ý tưởng mới, những kiểu thích hợp cho người to con.
- Và trong các tiệm đó, không có tên nào đến chọc ghẹo các người à? Fredrica không bao giờ có cảm tưởng rằng có một ai đó chăm chú theo dõi cô ta hay sao?
Stacy ngước mắt lên trần rồi lắc đầu phủ nhận.
- Không. Một hôm Skip và tôi có thấy trong một quán bar tại Colombus.
- Fredrica có đi chung với các người không?
- Dĩ nhiên là không. Chúng tôi đến đó... trong một dịp cuối tuần.
- Cô có thể ghi cho tôi tất cả địa chỉ của các cửa hàng dành cho người to con mà cô đi cùng Fredrica được không? Cô có thể nào nhớ hết không?
- Chỉ ở đây thôi hay luôn cả ở Colombus nữa?
- Ở đây và Colombus. Và luôn cả địa chỉ tiệm Richard nữa, tôi muốn nói chuyện với bà Bourdine.
- Tốt thôi. Thế làm một nhân viên FBI có thích không?
- Theo cá nhân tôi, thì rất thích.
- Chắc cô đi nhiều nơi lắm đúng không? Ý tôi muốn nói là những nơi hấp dẫn hơn ở đây?
- Có đôi khi.
- Chắc ngày nào cô cũng phải ăn mặc chỉnh tề, đúng không?
- Ừ, phải vậy. Phải ra vẻ đứng đắn mới được.
- Làm thế nào để trở thành nhân viên FBI?
- Trước hết là phải tốt nghiệp đại học, Stacy à.
- Chắc phải tốn tiền nhiều lắm.
- Đúng vậy. Nhưng người ta cũng có thể cố gắng đạt được một học bổng. Cô có muốn tôi gửi các tài liệu cho cô không?
- Có đấy. Tôi đang nghĩ đến việc này: Fredrica rất sung sướng khi tôi có được công việc này. Cô ta mừng đến phát điên lên được, cô ta không hề có được một công việc làm văn phòng, cô ta nghĩ đó là một cái gì ghê gớm lắm. Những tập hồ sơ này và Barry Manilow trên loa suốt cả ngày, cô ta cho đó là phi phàm. Không biết cô ta nhận thức được nó ra sao, con khờ đó! - Mắt của Stacy ửng lệ. Cô mở mắt thật to và ngước đầu ra sau để trang điểm lại.
- Còn danh sách của tôi?
- Tôi phải vào bàn làm việc của tôi mới được chứ. Tôi cần đến máy đánh chữ và cuốn niên giám điện thoại. - Cô bước ra ngoài, đầu vẫn ngửa lên, mắt nhìn lên trần nhà.
Khi Stacy vừa bước ra ngoài, Clarice liền chụp điện thoại, gọi Washington để hỏi tin tức.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:44:02 | Xem tất
Chương 19

1

Cũng ngay trong lúc đó, tại một điểm ở phía nam của hồ Michigan, một phản lực nhỏ dành cho doanh nhân hai mươi bốn chỗ ngồi bắt đầu hạ cánh xuống Calumet City, Illinois.
Mười hai thành viên của Biệt Đội chống khủng bố cảm thấy ruột gan lộn tùng phèo và có đây đó từ đầu này đến đầu kia lối đi vài cái ngáp ung dung có chủ ý.
Joe Randall, vị đội trưởng, ngồi ở phía trước buồng lái; tháo mũ liên lạc ra khỏi đầu và liếc qua tập ghi chú của mình trước khi lên tiếng. Ông tin rằng, mà cũng chính đáng thôi, toán của ông được huấn luyện chu đáo nhất thế giới. Nhiều thành viên trong toán của ông chưa được thử lửa, nhưng nói về mô phỏng và trắc nghiệm; đây đúng là những tay cự phách.
Randall bỏ rất nhiều thời gian đứng trên các lối đi của máy bay, nên không gặp khó khăn nào để giữ thăng bằng trong sự rung chuyển của lúc hạ cánh.
- Này các bạn, DEA, Đội Phòng Chống Ma Túy đã cung cấp cho chúng ta nhiều chiếc xe được ngụy trang. Một xe tải bán hoa và một của thợ ống nước. Vernon và Eddie, các anh hãy thay thường phục. Nếu chúng ta buộc phải dùng đến lựu đạn tê liệt, xin các bạn đừng quên mang mặt nạ vào.
Vernon thì thầm vào tai của Eddie:
- Nhớ bảo vệ cái má phình của mày nhé!.
- Tại sao? Ông ta có nói đến mông à? Tao cứ tưởng đã nghe là mặt mà! - Eddie đáp lại.
Vernon và Eddie, những người phải thực hiện việc tiếp cận đầu tiên, có mặc thêm một áo chống đạn thật mỏng dưới lớp quần áo dân sự. Những người còn lại có thể dùng một loại khác bền hơn, có thể chống được đạn.
- Bobbie, nhớ cung cấp cho mỗi tài xế một máy liên lạc, để chúng ta không gặp phải tình huống đang nói chuyện với bên DEA - Randall nói tiếp.
Cơ quan Phòng Chống Ma Túy thường dùng tần số siêu cao, còn FBI chỉ dùng tần số rất cao, việc này đã gây bao rắc rối trong quá khứ.
Họ được trang bị để đối mặt gần như với mọi tình huống, đêm cũng như ngày; với các bức tường họ dùng một hệ thống kéo lui đựợc; nếu muốn nghe, họ có những micro cực nhạy; nếu muốn nhìn họ dùng hệ thống hồng ngoại. Các loại vũ khí có tầm hoạt động trong đêm tối rất giống với những dụng cụ của một dàn nhạc, trong những chiếc hộp có hông phình lên. Người ta có thể nhận thấy chiến dịch này được chuẩn bị rất chính xác như một cuộc phẫu thuật.
Các thành viên thay bộ đồng phục bằng vải trong khi chiếc phi cơ tiếp tục hạ cánh.
Randall nhận tin tức từ Calumet City từ chiếc mũ liên lạc. Ông dùng tay che micro lại để nói:
- Này các bạn, chỉ còn có hai địa chỉ mà thôi. Chúng ta sẽ chọn cái tốt nhất, còn Đội SWAT của Chicago lấy cái kia.
Họ sẽ đáp xuống phi trường Lansing, ở phía đông nam Chicago, gần Calumet City hơn. Chiếc phi cơ liền nhận được phép hạ cánh. Viên phi công thắng hết sức mình để cho chiếc phi cơ ngừng lại ngay chỗ hai chiếc xe hơi đang đậu ở đầu đường băng, rất xa ga sân bay.
Cạnh chiếc xe tải, sự tiếp đón được giảm thiểu tối đa. Vị chỉ huy của DEA trao cho Randall một cái gì đó giống như việc giao hoa tận nhà. Đó là một cây búa sáu ký lô với cán được trang trí bằng như một bó hoa, còn phần trên thì bao bằng một lá nhôm màu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:45:33 | Xem tất
2

Vào cuối chiều hôm nay Gumb sẽ ra tay.
Đôi mắt vẫn tràn trề nước mắt, hắn cho hát đi hát lại cuộn băng video. Trên màn ảnh nhỏ, mẹ hắn đang leo lên rãnh trượt và cho rớt xuống hồ bơi. Nước mắt làm nhòa tầm nhìn của Jame Gumb, cho đến mức hắn có cảm tưởng chính mình cũng đang ở trong nước.
Trên bụng của hắn, một bình bonillotte nóng đang kêu ục ục, giống như bụng của con chó con khi nó nằm trên mình hắn.
Thật không thể chịu được nữa... cái mà hắn có dưới tầng hầm đang bắt Quý Báu làm con tin, đe dọa đến tính mạng của nó. Hắn biết Quý Báu đang đau khổ lắm. Hắn không chắc có thể giết chết cái đó trước khi nó làm cho Quý Báu bị thương nặng, nhưng vẫn phải cứ thử, không được chậm trễ nữa.
Hắn cởi hết quần áo ra và mặc áo choàng vào, vì hắn luôn trần truồng trong lúc làm công việc lột da, nên mình mẩy dính đầy máu như một đứa con nít mới chào đời.
Trong cái tủ đựng thuốc to lớn, hắn lấy ra chai thuốc dùng để chữa trị cho Quý Báu, trong cái ngày nó bị một con mèo cào. Hắn lấy thêm mấy miếng băng dính và cái vòng khớp mõm bằng nhựa mà vị bác sĩ thú y cho để ngăn nó cắn vào vết thương. Ở dưới tầng hầm có những miếng đè lưỡi mà hắn có thể dùng để cố định cái chân bị gãy và một bình xịt thuốc giảm đau để phòng trường hợp cái vật ngu xuẩn kia làm cho nó đau trước khi chết.
Một viên đạn bắn ngay đầu thì chỉ làm hư bộ tóc mà thôi. Quý Báu đáng hưởng được việc đó. Mái tóc là vật hiến sinh để cứu sống nó.
Hắn âm thầm bước xuống nhà bếp, nơi hắn sẽ bỏ đôi dép trước khi đi xuống cầu thang, dọc theo sát bức tường để không gây tiếng động.
Hắn sẽ không bật đèn. Một khi xuống đến dưới, hắn sẽ vào trong xưởng, mò mẫm đi trong bóng tối quen thuộc, cảm nhận được sự khác biệt của nền đất dưới đôi chân của hắn.
Tay áo hắn đụng phải cái lồng và nghe tiếng rít giận dữ của một con bướm đêm. Cái kệ đây rồi. Hắn lấy cây đèn hồng ngoại và đeo cặp kính hồng ngoại vào. Thế giới trước mắt hắn đã đổi qua màu lục. Hắn đứng im một lúc trong tiếng rì rào yên lòng của các bồn chứa, trong tiếng rít của các ống sưởi. Chủ nhân của tối tăm, chúa tể của bóng đêm.
Các con bướm được thả tự do, để lại nhiều vệt phấn quang trước mắt hắn; các cánh mượt như nhung, khi vỗ trong đêm tối, chạm nhẹ vào mặt của hắn như một hơi thở nhẹ.
Hắn kiểm tra khẩu Python lại, nạp đạn cỡ 38 vào. Các viên đạn bay thẳng vào trong đầu sẽ giết chết cô ta ngay tức khắc. Nếu cái vật đó vẫn còn đứng, hắn sẽ nhắm ngay vào đỉnh đầu, viên đạn, không giống như một viên Magnum, có ít cơ may xé toạc hàm dưới và như thế làm hư da ở vùng ngực.
Không một tiếng động, hai đầu gối quỳ xuống, các móng tay và chân bám vào các lati cũ, hắn tiến lại gần cái giếng; Bước âm thầm trên nền đất, nhưng không quá chậm vì hắn không muốn để cho mùi của hắn có thời giờ bay xuống đến con chó nhỏ trong đáy giếng.
Miệng giếng tỏa ánh sáng màu lục. Hắn phân biệt rõ các viên đá và ngay cả vân của nắp gỗ. Hắn đưa cây đèn lên và cúi xuống. Họ đây rồi. Cái vật đó đang nằm nghiêng một bên như một con tép khổng lồ. Có thể đang ngủ gà ngủ gật. Quý Báu thì cuốn người tròn sát vào nó, chắc cũng đang ngủ. Trời ơi, cầu xin cho nó không chết.
Cái đầu để trần. Bắn vào cổ... hấp dẫn quá... cứu lấy bộ tóc. Không, nguy hiểm quá.
Gumb khum người xuống nữa để nhìn cho thật rõ đáy giếng. Cái nòng tuyệt đẹp của khẩu Python cho phép hắn ngắm thật chính xác. Chỉ cần giữ cái vật đó trong tia đèn hồng ngoại. Hắn nhắm vào thái dương, nơi mà tóc đã dính lại vì mồ hôi.
Hắn không bao giờ biết được con chó được báo động vì một tiếng động hay một mùi nào đó, nhưng Quý Báu nhảy chồm lên sủa inh ỏi, Catherine Baker Martin liền ôm nó lại và chụp lấy tấm thảm phủ lên mình họ. Chỉ còn là những khối u đang cựa quậy dưới tấm thảm, làm cho hắn không thể nào phân biệt đâu là con chó đâu là vật kia. Hắn không tài nào xác định Catherine là khối u nào nữa.
Nhưng hắn thấy Quý Báu nhảy lên. Hắn thấy cái cẳng nó không bị sao hết và hiểu được một điều: Catherine Baker Martin không thể nào làm hại con chó con. Một sự nhẹ nhõm tuyệt vời! Bởi vì cô ta dám chia sẻ các cảm xúc của hắn nên phải bắn vào đôi chân của cô ta thôi, sau đó kết liễu bằng một viên đạn vào đầu. Không cần phải cẩn trọng nữa.
Hắn bật đèn lên, tất cả đèn dưới tầng hầm và lấy thêm cái đèn chiếu phòng hờ. Bây giờ hắn hoàn toàn tự chủ và lý luận hết sức sáng suốt... khi băng ngang qua xưởng, hắn sẽ cho nước chảy chút ít trong bồn rửa để cho máu không vì lý do gì có thể làm nghẽn hệ thống ống được.
Ngay lúc hắn bước đến các bậc và mang theo đèn chiếu, sẵn sàng hành động, có tiếng nhấn chuông ở cửa.
Tiếng chuông rít lên và hắn phải đứng lại để suy nghĩ, tìm hiểu xem chuyện gì thế. Hắn đã không nghe nó từ nhiều năm rồi, hắn cũng không biết là nó vẫn còn hoạt động. Cái nắp chuông bằng kim loại đen đầy bụi, được gắn trong lồng cầu thang để cho nó được nghe thấy trong cả ngôi nhà, đang reo lên. Trong khi hắn đang nhìn nó, người ta lại nhấn chuông nữa, lần này thật lâu như không muốn ngừng. Hắn biết có một ai đó đang đứng ngoài cửa và nhấn vào cái nút có ghi chữ VĂN PHÒNG.
Họ sẽ bỏ đi thôi.
Gumb bật sáng cái đèn chiếu.
Họ không bỏ đi.
Có tiếng nói vang lên từ trong giếng mà hắn không thèm nghe. Tiếng chuông vẫn cứ reo.
Tốt hơn hết hắn nên lên đó xem coi có chuyện gì. Khẩu súng Python quá dài cho cái túi của áo choàng nên hắn để trên cái bàn làm việc.
Hắn đi nửa đường thì tiếng chuông im bặt. Hắn đứng lại chờ, không cử động. Im lặng. Hắn quyết định cứ đi xem. Ngay khi hắn vừa bước vào nhà bếp, một tiếng dộng mạnh vào cánh cửa sau, làm cho hắn giật mình. Tại gian bếp phụ có một khẩu súng săn mà hắn biết là đã nạp đạn.
Cánh cửa căn hầm được đóng chặt nên không ai có thể nghe được tiếng la muốn điếc tai ở bên dưới.
Người ta lại gõ cửa. Hắn hé mở cánh cửa, được giữ bằng dây xích an toàn.
- Tôi có nhấn chuông ở phía trước nhưng không thấy ai trả lời, - Clarice Starling nói. - Tôi đang tìm gia đình của bà Lippman, ông có thể giúp tôi không?
- Họ không còn ở đây nữa - Gumb trả lời và đóng cửa lại - Hắn vừa xoay lưng bỏ đi thì có tiếng gõ cửa nữa, lần này mạnh hơn.
Hắn lại hé cửa.
Người thiếu nữ trình cho hắn một tấm thẻ qua khe hở. Hắn đọc được Cơ Quan Điều Tra Liên Bang.
- Xin ông thứ lỗi, chúng tôi đang tìm cách liên lạc với gia đình Lippman. Tôi biết trước đây bà ta đã ở tại ngôi nhà này. Tôi xin ông hãy giúp chúng tôi.
- Bà Lippman đã chết từ lâu rồi. Theo tôi được biết, bà ta không hề có thân nhân gì hết.
- Vậy thì một chưởng khế hoặc một kế toán? Một người nào đó có tiếp cận với các sổ sách của bà ta? Thế ông có biết bà Lippman không?
- Biết sơ thôi, nhưng cô thật sự muốn gì ở bà ta?
- Tôi điều tra về cái chết của Fredrica Bimmel. Nhưng xin ông cho biết ông là ai?
- Jack Gordon.
- Ông có quen biết Fredrica Bimmel khi cô này còn làm việc cho bà Lippman không?
- Không, có phải một cô gái hơi to không? Có thể tôi có gặp cô ta nhưng không chắc lắm. Tôi không muốn tỏ ra vô lễ... nhưng tôi đang ngủ... Bà Lippman có một viên chưởng khế, tôi có tấm danh thiếp của ông ta ở đâu đây, để tôi xem coi có tìm được không. Cô có muốn vào không? Trời lạnh quá và con mèo tôi sẽ đến chường mặt trong giây lát. Nó sẽ chuồn mất trước khi tôi kịp bắt được nó.
Hắn bước về cái bàn ở cuối bếp, kéo một bức rèm qua và lục trong vài ngăn tủ. Clarice bước vào trong phòng và lấy cuốn sổ tay ra.
- Câu chuyện khủng khiếp đó. Tôi vẫn run mỗi khi nghĩ đến nó. Tôi hy vọng là người ta sẽ mau chóng bắt được tên hung thủ đó chứ.
- Chúng tôi đang nỗ lực đây. Thế ông đã mua lại ngôi nhà này sau khi bà Lippman chết phải không?
- Đúng vậy. - Gumb xoay lưng lại với Clarice và thò tay vào trong một ngăn tủ và quơ lung tung trong đó.
- Vậy ở đây còn giấy tờ gì không? Sổ sách gì đó?
- Không, không còn gì cả. Thế FBI có đầu mối nào chưa? Người ta nói đám cảnh sát ở đây không biết gì cả. Thế các người có một mô tả nào không, các dấu tay chẳng hạn?
Con nhân sư đầu lâu từ từ bò ra khỏi chiếc áo ngủ của hắn. Nó dừng lại ngay giữa lưng, gần vị trí của trái tim, sẵn sàng cất cánh bay đi.
Clarice bỏ cuốn sổ tay vào trong túi xách.
Gumb, cám ơn Trời, áo vét mình không có cài nút. Một lý do nào đó để đi ra ngoài, tìm một điện thoại. Không được, hắn biết mình là dân FBI, nếu mình bỏ đi ngay lúc này, hắn sẽ giết chết cô ta ngay. Phải tóm cổ hắn mới được. Điện thoại của hắn. Mình không thấy đâu cả, phải hỏi hắn thôi. Phải thiết lập sự liên kết và tóm cổ hắn thôi. Phải làm cho hắn té, ấn mặt hắn xuống đất trong khi chờ đợi cảnh sát. Đúng vậy, cứ làm đi. Hắn xoay lại kìa.
- Đây số điện thoại của ông ta đây. - Hắn chìa tấm danh thiếp ra.
Có lấy không?
- Hay lắm, cám ơn ông, ông Gordon. Ông vui lòng cho tôi gọi điện thoại được không?
Ngay lúc hắn để tấm danh thiếp xuống bàn, con bướm bay đi. Nó bay ngang qua đầu của hắn và đậu trên cái kệ cạnh bồn rửa.
Hắn nhìn thấy con bướm. Khi hắn thấy Clarice không nhìn con bướm mà mắt cô ta nhìn hắn chăm chăm, hắn hiểu ngay. Ánh mắt của họ cắt ngang nhau.
Gumb nghiêng đầu qua một bên và mỉm cười.
- Tôi có một máy điện thoại không dây trong nhà bếp. Để tôi đi lấy cho cô.
Không được! Hãy ra tay ngay đi. Trong nháy mắt, cô đã rút súng ra bằng một cử chỉ nhanh như chớp mà cô đã tập dượt không biết đến mấy ngàn lần và chỉa ngay ngực hắn.
- Không được cử động.
Hắn trề môi.
- Bây giờ hãy đưa tay lên, và từ từ thôi.
Phải đưa hắn ra ngoài đi và dùng cái bàn để ngăn giữa hai người. Một khi ra đến đường lộ, bắt hắn nằm dài xuống đất và hãy kêu cầu cứu.
- Gumb... Ông đã bị bắt. Ông hãy bước từ từ ra cửa đi.
Thay vì tuân theo, hắn bước ra khỏi căn phòng. Nếu hắn giả bộ thọc tay vào trong túi hay lấy một cái gì đó ở sau lưng hắn, nếu Clarice thấy một khẩu súng chẳng hạn, cô đã có thể bắn rồi. Nhưng hắn chỉ bình thản bước ra khỏi căn phòng mà thôi.
Cô nghe hắn chạy xuống cầu thang, cô vòng qua cái bàn để phóng theo sau. Ngay trên đầu cầu thang, không thấy ai hết, cầu thang được bật đèn sáng trưng. Một cái bẫy đây. Trong cầu thang, cô sẽ là một cái bia lý tưởng.
Từ trong giếng vang lên một tiếng la yếu như thể một tờ giấy bị xé đôi.
Cô không thích cầu thang, thật sự không thích chút nào hết, Clarice Starling mày hãy khẩn trương đi, hoặc là mày đi hoặc là không, đơn giản thế thôi.
Catherine Martin hét nữa, hắn đang giết cô ta đó và Clarice bước xuống, một tay trên thành cầu thang, khẩu súng chỉa thẳng về phía dưới: khẩu súng dịch chuyển theo đầu cô trong khi cô cố nhìn về hướng hai cánh cửa đối mặt nhau ngay dưới dó.
Đèn sáng rực ở phía dưới này, cô không thể nào đi vào một cánh cửa mà xoay lưng lại với cái kia. Mày cứ đi đi, mau lên, về bên trái, nơi có tiếng la. Tại tầng hầm, tránh xa ngay khung cửa, hai mắt cô mở to hơn bao giờ hết. Chỗ núp duy nhất là thành giếng: cô đi men theo bức tường, hai tay đưa thẳng ra phía trước cầm chắc khẩu súng, một ngón ghì cò, cô đi vòng qua thành giếng, không có ai hết.
Một tiếng la vang lên từ miệng giếng, và cả... một tiếng chó sủa. Cô bước lại gần, mắt không rời cánh cửa, cô liền liếc nhanh xuống cái lỗ. Cô nhìn thấy cô gái, ngước mắt lên trở lại, rồi nhìn xuống một lần nữa và nói những gì cô học được để làm yên lòng một con tin.
- FBI đây, cô được cứu rồi.
- Cứu à! MẸ KIẾP! Hắn có súng trường đấy. Hãy đưa tôi ra khỏi đây. HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY.
- Catherine ơi, mọi việc đều ổn rồi. Cô im đi. Cô có biết hắn đang ở đâu không?
- HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY. TÔI KHÔNG CẦN BIẾT HẮN ĐANG Ở ĐÂU. HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY.
- Tôi sẽ đưa cô ra khỏi đó. Cô im đi. Hãy giúp tôi. Cô im đi để tôi có thể nghe được. Cô cũng nên làm cho con chó im đi.
Cô ngồi xổm đằng sau thành giếng, nhìn về cánh cửa, tim đập như trống canh. Không thể bỏ một mình Catherine Martin ở lại một mình để đi tìm tiếp cứu trong khi cô không biết tên Gumb đang ở đâu. Cô bước trở lại cánh cửa, núp phía sau khung. Cô thấy chân cầu thang và xa hơn một chút một phần của cái xưởng.
Hoặc cô phải tìm tên Gumb, hoặc cô phải chắc là hắn đã trốn rồi, hoặc cô đưa Catherine Martin ra khỏi đó, cô không còn sự lựa chọn nào khác.
Cô xoay đầu lại, nhìn quanh nơi này.
- Catherine, Catherine, ở đây có cái thang nào không?
- Tôi không biết nữa. Tôi thức dậy thì đã thấy ở dưới này rồi. Hắn thả cái xô xuống đây bằng sợi dây.
Có một cái tời nhỏ được gắn trên một cây đà, nhưng trên đó không có dây.
- Catherine, tôi phải tìm một cái gì để đưa cô ra khỏi đó. Cô bước đi được không?
- Được, nhưng đừng bỏ tôi một mình.
- Tôi phải ra khỏi căn phòng này, chỉ một phút thôi.
- Đồ khốn, cô không được bỏ tôi một mình dưới cái lỗ này, nếu không mẹ tôi sẽ làm thịt cô đó và...
- Im đi Catherine. Tôi cần sự im lặng. Cô phải im vì lợi ích của cô đấy, hiểu không? - Một lát sau Clarice nói lớn hơn - Mấy người khác sẽ đến đây trong chốc lát thôi, vì thế cô phải im đi. Người ta sẽ đưa cô ra khỏi đó.
Phải có một sợi dây, nhưng ở đâu mới được? Phải đi tìm thôi.
Bằng một cái phóng người, cô đến được khung cửa của cái xưởng, các cánh cửa là điều tệ hại nhất, và không ngừng di chuyển dọc theo vách tường cho đến khi cô nhìn thấy toàn bộ căn phòng; nhiều thứ quen thuộc lắc lư trong các bể chứa nhưng cô không có thời giờ để tỏ ra ngạc nhiên. Cô hối hả băng ngang cái xưởng, đi lướt qua các bể chứa, bồn rửa và cái lồng: vài con bướm bay trong đó. Cô phớt lờ chúng.
Xa hơn có một hành lang tràn đầy ánh sáng. Cái tủ lạnh đột nhiên khởi động ở sau lưng cô, cô xoay người lại, hơi khum người, mắt quan sát khắp nơi, khẩu súng vẫn lăm lăm trên tay. Hành lang. Người ta chưa dạy cô cách liếc nhìn vào trong một hành lang. Đầu và súng cùng một lúc, nhưng thấp xuống một chút. Hành lang trống không. Ở đầu kia, một căn phòng sáng trưng. Phải chạy thật mau để vượt qua cái hành lang này, ngang qua một cánh cửa đóng để tới cánh cửa mở sáng trưng của căn phòng. Tường sơn trắng, sàn bằng gỗ sồi màu vàng. Nhất là không được đứng ngay khung cửa. Phải kiểm tra cho chính xác, đúng là các hình nhân, rằng mỗi hình nhân chỉ là một hình nhân thôi. Rằng mọi cử động trong tấm gương là của chính mày đấy.
Cánh cửa tủ lớn đang mở và trong đó không có gì cả. Ở đầu kia, một cánh cửa nhìn ra một khung tối đen, vẫn còn ở dưới tầng hầm. Không có dây, không có thang ở bất cứ đâu. Bên kia chỉ là bóng tối dày đặc. Cô đóng cánh cửa đó lại, lấy một cái ghế chẹn ngay tay nắm và đẩy một bàn máy may sát vào. Cô đã lên tìm kiếm một cái điện thoại nếu cô có thể biết chắc là hắn không còn hiện diện ở trong phần của tầng hầm này.
Đi trở ra hành lang, cô đứng lại ngay trước cánh cửa bị đóng chặt. Phải đứng đối diện với các bản lề. Phải mở nó ra chỉ bằng một cái đạp thôi. Cánh cửa đập vào trong tường, không có ai ở phía sau. Một buồng tắm cũ. Tại đó một sợi dây, mấy cái móc và một cua roa. Phải kéo Catherine lên hay đi tìm một điện thoại, ở dưới đáy giếng cô ta không sợ bị lạc đạn. Nhưng nếu Clarice chết thì Catherine cũng sẽ chết theo. Chỉ còn cách là đem Catherine theo để tìm điện thoại thôi.
Clarice không muốn ở trong cái buồng tắm này. Hắn có thể xuất hiện bất ngờ và tạt ướt hết người cô. Cô bước ra nhìn hai bên hành lang và trở vào để lấy sợi dây. Có một bồn tắm lớn, chứa gần đầy một thứ thạch cao đỏ và khô cứng. Một bàn tay và cổ tay ló ra ngoài, bàn tay đã khô queo và đen, các móng được sơn đỏ. Ở cổ tay là một cái đồng hồ dễ thương. Clarice nhìn thấy tất cả mọi thứ chỉ với cái liếc mắt, sợi dây, bồn tắm, bàn tay, cái đồng hồ.
Sự cử động khó nhận biết của con côn trùng trên kim gió là hình ảnh cuối cùng mà cô thấy được trước khi đèn bị tắt hết.
Tim đập mạnh đến mức làm cho cô đau cả vùng ngực và hai cánh tay. Bóng tối, choáng váng, cần phải sờ vào một cái gì đó, bờ của bồn tắm. Cái buồng tắm. Phải ra khỏi đây không chậm trễ. Nếu hắn tìm được cánh cửa, hắn có thể tưới căn phòng này mà không có chỗ nào để núp cả. Trời ơi, phải ra khỏi đây. Cúi người xuống và đi ra bậc nghỉ. Không có một ánh sáng nào hết. Không hề có ánh sáng. Chắc hắn đã gỡ cầu chì ra rồi; thế công tơ đặt ở đâu? Nó nằm ở đâu mới được? Gần cầu thang. Lúc nào cũng được đặt gần cầu thang. Như thế thì hắn sẽ đến từ đó và hắn ở giữa Catherine và mình.
Catherine Martin bắt đầu rên rỉ lại.
Chờ ở đây à? Cho đến bao giờ? Có thể hắn đã đi mất rồi? Hắn biết là sẽ không có sự tiếp cứu nào cả. Đúng, hắn biết điều đó. Nhưng rồi đây, người ta sẽ nhận thấy sự mất tích của mình. Đêm nay, các cầu thang đều ở hướng kia, hướng của những tiếng la. Đi thôi.
Cô bước đi, không gây tiếng động, vai chỉ phớt nhẹ vách tường, quá nhẹ để gây tiếng động, một bàn tay đưa ra trước còn khẩu súng thì ở ngang tầm thắt lưng, cô tiến bước trong cái hành lang tối đen. Ngừng lại coi, nghe đi. Lại là cái xưởng. Cô cảm thấy không gian cứ lớn dần. Một căn phòng thật rộng. Ngồi xổm xuống, hai tay đưa thẳng ra trước, nắm chặt khẩu súng. Mày biết khẩu súng hướng về đâu rồi, không cao đến ngang tầm của mắt, xuống một chút nữa. Ngừng lại đi, lắng tai nghe xem. Đầu, thân hình và các tay xoay quanh cùng một lúc như cái tháp. Ngừng lại, nghe xem.
Trong bóng tối dày đặc, tiếng rít của các ống nước sưởi ấm, nước nhỏ từng giọt một.
Một mùi dê đực nồng nặc bay vào mũi cô.
Catherine vẫn cứ rên rỉ.
Gumb với cặp mắt kính hồng ngoại, đang đứng sát vào tường. Không có cơ may nào để cô vập phải hắn, một cái bàn lớn nằm giữa hai người. Hắn rọi khắp người Clarice với cây đèn pin hồng ngoại. Người quá nhỏ để có thể dùng được bất cứ thứ gì. Lúc trong nhà bếp, hắn nhớ lại bộ tóc của cô, một mớ tóc tuyệt đẹp và điều này chỉ mất có một phút mà thôi. Hắn có thể lấy nó ngay nếu hắn muốn. Để nó lên ngay trên cái đầu của hắn. Hắn sẽ cúi người xuống cái giếng và nói “Cúc cu, tôi đây mà!”
Thật buồn cười khi thấy cô ta di chuyển mà cố không gây tiếng động. Cái hông phớt vào bồn rửa, cô bước tới thật chậm, hướng về những tiếng la, khẩu súng chỉa thẳng ra trước. Thật vui khi đuổi bắt cô ta trong một thời gian dài... Hắn chưa bao giờ làm việc này với một vật có vũ khí. Hắn sẽ vô cùng thích thú, nhưng tiếc thay, bây giờ không phải lúc. Tiếc thật!
Một phát ngay mặt. Rất dễ khi chỉ cách chưa đầy ba thước. Ngay tức thì.
Hắn lên cò khẩu Python, cạch-cạch và cái hình bóng đó mờ dần để trở nên mỗi lúc một lớn hơn và xanh lè trước mắt hắn. Khẩu súng rớt khỏi tay của hắn, lưng hắn đập mạnh xuống đất, và thật mạnh bạo, cây đèn pin văng đi và hắn nhìn thấy cái trần. Clarice nằm dài dưới đất, gần như không thấy được gì cả, điếc tai vì hai phát súng, lỗ tai vẫn còn lùng bùng, làm việc thật khẩn trương trong bóng tối trong khi hắn chưa thể nghe được cô. Cô bật văng hai viên đạn ra, đưa ngón tay sờ xem coi chúng văng ra hết chưa và đưa tay xuống thắt lưng để lấy kẹp đạn dự phòng, thay nó mà không cần đụng vào đó, xoay khẩu súng lại và đóng cơ bẩm lại. Cô vừa bắn bốn phát. Hai lần hai phát. Hắn chỉ bắn được có một lần thôi. Cô đã mò thấy các vỏ đạn mà cô đã bắn. Để chúng ở đâu bây giờ? Trong cái túi nhỏ đựng đạn dự phòng. Cô đứng im. Phải di chuyển trước khi hắn có thể nghe được.
Tiếng lên cò một khẩu súng không hề giống với bất cứ loại tiếng nào khác hết. Cô đã bắn ngay khi nghe âm thanh đó, không cần nhìn thấy gì khác hơn là các tia chớp phát ra từ các nòng súng. Cô hy vọng bây giờ hắn sẽ bắn trật hướng vì tia chớp sẽ giúp cho cô có thể nhắm được. Giờ cô bắt đầu nghe được rồi dù các lỗ tai vẫn bị ù.
Nhưng tiếng gì đó? Giống tiếng rít quá vậy? Có phải một ấm nước đang sôi không, nhưng không liên tục. Mà cái gì thế nhỉ? Giống như hơi thở quá. Có phải là mình không? Đúng là hơi thở rồi. Đây là tiếng của một vết thương ở ngực. Mình đã bắn trúng ngay ngực hắn rồi. Hắn đã học cách bít vết thương ngực lại, để một cái gì lên đó để không cho không khí lọt qua được, một tấm vải dầu hoặc một túi nylon, rồi buộc thật chặt. Tiếp đến thở lại cho đầy buồng phổi. Như thế đấy, cô đã bắn trúng ngực hắn. Bây giờ làm cái gì đây? Chờ đợi sao?
Phải để cho hắn mất máu và ngất đi mới được.
Gò má cô rát quá, Clarice không dám sờ tay vào. Nếu cô đã bị thương, cô không được mó tay vào đó.
Tiếng rên rỉ lại phát ra từ trong giếng. Catherine khóc, và nói lảm nhảm cái gì đó. Clarice phải chờ thôi. Cô không dám lên tiếng trả lời cho cô ta. Cô không thể cử động và nói chuyện được.
Ánh sáng vô hình của Gumb chiếu sáng trần nhà. Hắn cố gắng dịch chuyển, nhưng không được và hắn cũng không thể cử động được cái đầu của mình. Một con Actias luna lớn của Mã Lai bay gần đụng trần, thấy ánh đèn hồng ngoại, liền bay vòng vòng trở xuống theo chùm tia sáng. Chỉ một mình Gumb thấy nó đập cánh.
Và còn tiếng hút vào. Clarice nghe giọng nói ghê sợ của Gumb, tiếng thở hắt trong đêm tối.
- Cô cảm thấy... thế nào… khi... biết mình... đẹp như thế?
Và thêm một âm thanh khác nữa. Tiếng òng ọc, một hơi thở hắt và tiếng rít ngưng lại.
Clarice cũng biết rõ âm thanh đó. Một hôm, cô đã nghe âm thanh này trong bệnh viện, lúc cha cô chết.
Cô lấy tay mò cạnh bàn và đứng lên. Mò mẫm, cô bước theo tiếng động của Catherine, tìm thấy các bậc thang và bước lên trong bóng tối.
Có một cây đèn cầy trong ngăn tủ trong nhà bếp. Đốt nó lên, cô tìm được công tơ điện ở gần cầu thang và vẫn giật mình khi cô bật đèn sáng trở lại. Để tắt được công tơ, hắn phải rời khỏi tầng hầm bằng một ngã khác và trở xuống ở phía sau lưng cô.
Clarice phải kiểm tra lại cho chắc là hắn đã chết rồi. Cô nhắm mắt lại cho quen với ánh sáng trước khi trở xuống cái xưởng. Cô nhìn thấy đôi chân trần lòi ra dưới cái bàn thợ. Cô không rời mắt khỏi bàn tay để gần khẩu Python trước khi đá nó văng ra xa. Hắn mở mắt trao tráo - nằm trên một vũng máu dày đặc, hắn đã chết vì một viên đạn bắn xuyên thủng ngực bên phải. Clarice nhìn qua chỗ khác. Hắn chắc thế nào cũng mặc vài thứ có trong tủ quần áo.
Cô bước lại bồn rửa, để khẩu Magnum xuống cái giá để ráo nước, rửa hai bàn tay của mình với nước lạnh, rồi lau đến cái mặt với bàn tay ướt. Không có máu. Cô phải đi vòng qua cái xác để lấy khẩu Python.
Đến ngay miệng giếng, cô nói:
- Catherine, hắn đã chết rồi. Hắn không thể nào hại cô được nữa. Tôi đi lên gọi điện thoại đây...
- Không! HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY! HÃY ĐƯA TÔI RA KHỎI ĐÂY!
- Cô nghe đây, hắn đã chết thật rồi. Súng của hắn đây này. Cô có nhớ không? Bây giờ tôi đi gọi cảnh sát và lính cứu hỏa. Tôi sợ không thể đưa cô ra khỏi đây mà không làm cho cô té xuống lại.
Đám phóng viên đến ngay sau lính cứu hỏa và trước cả cảnh sát Belvedere. Viên đại úy, quá phẫn nộ vì các đèn chiếu, đuổi hết đám phóng viên lên trên và ra khỏi căn hầm mà ông cho đặt một giàn giáo để đưa Martin lên khỏi giếng, vì ông không tin tưởng vào cái tời được gắn trên dầm nhà của Gumb. Một người lính cứu hỏa xuống dưới giếng và đeo một đai nịt cứu hộ cho Catherine. Cô trồi lên, con chó ôm trong tay và muốn giữ nó ngay khi cô được đưa vào xe cứu thương.
Tại bệnh viện, người ta không cho con chó vào. Một người lính cứu hỏa được lệnh đưa nó đến Cơ quan bảo vệ súc vật, nhưng anh ta lại thích đem nó về nhà mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:47:15 | Xem tất
3

Tại phi trường Washington, ngay giữa đêm khuya, có khoảng năm mươi người đang chờ đợi chuyến bay từ Colombus đến. Phần lớn họ đến đón thân nhân của mình và đều tỏ vẻ mệt mỏi và quạu quọ, vạt áo bỏ ra ngoài quần hết phân nửa.
Ardelia Mapp bỏ thời giờ ngắm cho kỹ Clarice khi cô bước xuống phi cơ. Vẻ mặt cô thật uể oải với hai quầng thâm dưới mắt. Vài điểm thuốc súng còn dính lại trên gò má. Clarice nhìn thấy cô bạn mình và chạy đến ôm chầm lấy.
- Thế nào cô bạn già, - Ardelia hỏi, - mày có hành lý không.
Clarice lắc đầu phủ nhận.
- Thôi chúng ta đi chứ, Jeff đang chờ đấy.
Và cả Jack Crawford cũng đang chờ, chiếc xe của ông đậu phía sau chiếc xe tải con. Đêm vừa qua ông đã ở nhà của gia đình Bella.
- Tôi... cô có tưởng tượng được những gì cô đã làm không? Một kỳ tích đấy cô bé. - Ông sờ vào gò má Clarice. - Cái gì thế này?
- Thuốc súng ấy mà. Bác sĩ nói nó sẽ tự động biến mất trong hai ba ngày nữa... tốt hơn hết không nên cố chùi sạch nó.
Crawford ôm cô vào trong vòng tay của mình, chỉ một khắc thôi, rồi đẩy ra và hôn lên trán cô.
- Cô có tưởng tượng được không chứ? - ông lặp lại. - Cô hãy về trường đi, ngủ một giấc cho thật đã. Về ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Chiếc xe tải con mới này thật tiện nghi, được thiết kế để thực hiện những cuộc canh chừng lâu dài. Clarice và Ardelia lên ngồi ở phía sau thùng xe.
Vì không có Jack Crawford trên xe, nên Jeff lái thật nhanh. Anh ta về đến Quantico trong một thời gian kỷ lục.
Clarice nhắm mắt lại. Sau ba cây số, Ardelia khều vào đầu gối cô: cô vừa khui hai chai Coca nhỏ, đưa cho Clarice một chai và lấy một chai rượu Jack Daniels nửa lít từ trong túi xách.
Họ uống một hơi dài Coca rồi đổ rượu Whisky thế vào chỗ đó. Họ dùng ngón cái để bít miệng chai lại rồi lắc thật mạnh.
- Aaaà - Clarice thốt lên sau khi uống một ngụm nước pha này.
- Mấy cô đừng làm đổ trong xe cho tôi nhờ. - Jeff nói.
- Anh không phải lo - Ardelia đáp lại. Rồi nói nhỏ cho một mình Clarice nghe. - Tao muốn mày thấy cái mặt của anh chàng Jeff này trong lúc chờ tao trước cửa hàng bán rượu. Tao bảo đảm với mày là anh ta lúng túng vô cùng.
Rượu Whisky bắt đầu tác động vào Ardelia thư giãn phần nào, cô hỏi:
- Chuyện mày đến đâu rồi Clarice?
- Tao cũng không biết nữa, Ardelia.
- Mày có phải trở lại đó không?
- Có thể một ngày nào đó trong tuần tới nhưng tao hy vọng là không. Viên công tố ở Colombus có nói chuyện với cảnh sát ở Belvedere. Tao phải khai đủ mọi thứ.
- Tao có vài tin mừng cho mày đây. Hồi tối này bà Thượng nghị sĩ Martin có gọi điện từ Bệnh viện Bethesda, mày có biết là người ta đã đưa Catherine về New York không? Về mặt thể chất, cô ta ổn rồi. Hắn đã không động gì đến cô ta hết. Còn về mặt tinh thần, họ chưa biết như thế nào: cô ta vẫn đang được theo dõi. Mày không có gì phải lo về phía trường học. Crawford và Brigham có gọi điện cho tao. Krendler vừa xin rút hồ sơ của ông ta lại. Cơ chế vận hành của những người đó thật hết ý, thật hoàn hảo thay vào chỗ trái tim, mày biết mà. Clarice à, mày đừng nghĩ rằng mày có thể ngủ yên trên chiến thắng nghe không. Chỉ đơn giản là thay vì ngày vào lúc tám giờ sáng mai mày phải thi về các thủ tục khám xét nhà, thì mày được dời nó lại vào sáng thứ ba với môn thể dục. Như thế mình có nguyên một cuối tuần để ôn lại bài.
Về gần đến Quantico, chai rượu nửa lít đã cạn, họ bỏ cái vỏ chai vào trong một thùng rác tại bãi đậu xe.
- Có cái anh chàng Pilcher, Tiến sĩ Pilcher của Viện Smithsonian có gọi điện ba lần. Anh ta bắt tao hứa là phải báo cáo lại cho mày biết.
- Anh ta không phải là tiến sĩ.
- Mày nghĩ là có một chút kết quả nào không?
- Có thể lắm, tao cũng chưa biết nữa.
- Anh ta có vẻ vui tính. Tao quyết định tính khôi hài là một đức tính cần thiết của người đàn ông, ý tao muốn nói là không kể đến tiền bạc và vốn kiên nhẫn của chính mày.
- Đúng và cả phép xã giao nữa. Mày không được quên điều này Ardelia.
- Không sai, và mấy thằng con hoang đó phải hiểu thế nào là trung thực.
*
Clarice đi như người chết rồi từ vòi sen lên giường ngủ.
Ardelia đọc sách trong lúc chờ cho hơi thở của người bạn mình trở nên đều hơn để tắt đèn. Clarice giật mình trong giấc ngủ và cơ mặt giật mạnh một cái, khiến cô mở mắt thức dậy.
Cái cảm tưởng về căn phòng trống trơn đánh thức Ardelia vào lúc hừng sáng. Cô bật đèn lên: Clarice không có trong giường. Hai túi quần áo dơ cũng biến mất, cô biết phải tìm Clarice ở đâu.
Trong hầm giặt ấm áp, Clarice ngủ gật, tựa người vào cái máy giặt đang rung rung, trong mùi thuốc tẩy và thuốc làm mềm quần áo. Clarice thích môn tâm lý học hơn trong khi Ardelia thì nghiêng về môn luật và chính cô này mới hiểu rằng cái máy này mới giống một trái tim khổng lồ đang đập và tiếng rì rào của nước gợi nhắc lại âm thanh mà một bào thai có thể nghe được, và đó cũng là kỷ niệm cuối cùng của hòa bình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:49:12 | Xem tất
Chương 20

1

Jack Crawford thức dậy rất sớm trên chiếc đi văng của phòng làm việc của mình và nghe tiếng ngáy của những thành viên gia đình bên vợ ông. Trước khi sức nặng của những công việc thường nhật đè nặng lên vai mình, trong cái khoảnh khắc tự do nhỏ nhoi này, ông nhớ lại, không phải về cái chết của Bella, mà những lời nói cuối cùng của bà với ánh mắt trong suốt và bình thản “Chuyên gì đang xảy ra ngoài sân vậy?”
Ông cầm cái muỗng dùng múc hạt của Bella, và trong chiếc áo ngủ, ông bước ra cho chim ăn, đúng với những gì ông đã hứa với bà. Để lại mẩu tin nhắn cho gia đình bên vợ, ông âm thầm rời khỏi ngôi nhà trước khi mặt trời mọc. Từ trước đến giờ, ít nhiều gì ông cũng tỏ ra hòa thuận với cha mẹ của Bella, và sự hiện diện của họ đã khử trừ được sự im lặng của ngôi nhà này, nhưng ông lại cảm thấy vui khi được ẩn náu tại Quantico.
Ông lướt đọc các bản tin đến trong lúc đêm qua và chờ số báo đầu tiên của buổi sáng thì Clarice đến tì mũi vào cửa kính văn phòng ông. Ông dẹp bớt một ít hồ sơ để làm chỗ cho cô ngồi và cả hai ngồi im lặng theo dõi tin trên tivi. À đây rồi!
Quang cảnh bên ngoài ngôi nhà của tên Gumb với cái cửa hàng trống không và các cửa sổ được sơn trắng tinh, có song sắt che chắn. Clarice khó lòng mà nhận ra được.
Cái tháp của nỗi kinh hoàng, người phát thanh viên gọi như thế.
Những hình ảnh quá tương phản, rung rung, của cái giếng và tầng hầm đổi qua các máy ghi hình của dân truyền hình và những người lính cứu hỏa đang tức giận xua đuổi những người quay phim. Các con bướm đêm, tức giận vì các đèn chiếu, sà xuống họ, một con bướm đêm rớt xuống đất, nằm ngửa, hai cánh đập mạnh trong cái co giật cuối cùng.
Catherine Martin từ chối nằm lên cáng và bước ra xe cứu thương, người cô được trùm lên một áo vét cảnh sát, cái mõm con chó lòi ra khỏi ve áo.
Một cảnh nhìn ngang của Clarice, đầu cúi xuống, tay thọc trong túi quần, phóng thật nhanh đến chiếc xe.
Phim này được cắt nối lại để loại bỏ những hình ảnh của những dụng cụ chết chóc. Tại nơi sâu thẳm nhất của tầng hầm, các máy quay phim chỉ cho thấy các tầng nấc khác nhau, được rắc vôi trắng xóa, những căn phòng mà Gumb thực hiện các tác phẩm của hắn. Cho đến lúc này, người ta đã tìm được sáu cái xác.
Crawford nghe Clarice khịt mũi đến hai lần. Bản tin bị quảng cáo làm gián đoạn.
- Chào cô Starling.
- Xin chào ông.
- Ông chưởng lý ở Colombus có gởi bản fax lời khai của cô hồi đêm qua. Cô phải ký vào hai bản để gửi trả về cho ông ta… Như vậy, cô có đến nhà của Fredrica Bimmel để gặp Stacy Hubka, và từ đó hỏi cung bà Bourdine tại cửa hàng mà Bimmel làm việc, tiệm Thời Trang Richard, và bà Bourdine đã cung cấp cho cô địa chỉ nhà cũ của bà Lippman.
Clarice gật đầu.
- Stacy Hubka có đến đó đôi ba lần để tìm Fredrica nhưng chính người bạn trai cô ta lái xe và những chỉ dẫn của cô ta quá mơ hồ. Bà Bourdine có địa chỉ chính xác.
- Bà Bourdine không có nói với cô là có một người đàn ông trong nhà bà Lippman sao?
- Không.
Bản tin lại tiếp tục. Bệnh viện Hải quân Bethesda. Khuôn mặt của bà Thượng nghị sĩ Martin, được quay qua khung cửa kính xe limuzin.
- Đêm qua Catherine rất tỉnh táo. Nó đã ngủ rất sâu vì được uống thuốc an thần. Chúng tôi rất mừng là mọi việc đã kết thúc. Không, như tôi đã nói, nó chỉ bị choáng mà thôi nhưng rất sáng suốt. Nó chỉ bị bầm vài nơi và có một ngón tay bị gãy. Nó cũng bị mất nước. Cám ơn.
Bà ta vỗ vai người tài xế.
- Cám ơn, không, đêm qua nó có nói với tôi về con chó, nhưng tôi cũng chưa biết sẽ phải làm gì, vì chúng tôi đã có hai con rồi.
Phim được kết thúc bằng một lời khai không đáng quan tâm của một chuyên gia về stress, đã khám Catherine sau đó.
Crawford tắt máy.
- Cô thấy chương trình này như thế nào, Clarice?
- Tôi cảm thấy như bàng hoàng, ông thì không à?
Crawford gật đầu và nói tiếp ngay:
- Bà Thượng nghị sĩ Martin có gọi tôi hồi đêm qua. Bà ta muốn gặp cô. Và Catherine cũng thế, ngay khi cô ta có thể đi được.
- Tôi vẫn ở đây mà.
- Và cả Krendler nữa, ông ta muốn đến đây. Ông ta đã xin rút lại hồ sơ rồi.
- Nhưng nghĩ kỹ lại, tôi không có mặt ở đây.
- Một lời khuyên nhé, Clarice. Hãy tiếp bà Thượng nghị sĩ đi. Hãy để cho bà ta bày tỏ lòng biết ơn của bà ta đi, hãy để cho bà ta ghi điểm với cô. Lòng biết ơn có mạng sống ngắn ngủi lắm. Một ngày nào đó cô có thể cần đến bà ta, theo cách cô hành động như bây giờ.
- Ardelia cũng nói thế với tôi.
- Mapp, cô bạn chung phòng với cô đó phải không? Ông giám đốc có nói với tôi là đã quyết định cho cô thi vào sáng thứ ba. Có vẻ như cô ta chỉ thua có một điểm rưỡi người đối thủ tầm cỡ Stringfellow của cô ta thì phải.
- Để trở thành thủ khoa của khóa học à?
- Nhưng anh chàng Stringfellow đó ghê gớm lắm đấy. Anh ta nói cô ta sẽ không đứng đầu mãi lớp học được đâu.
- Như thế anh ta phải đấu tranh thôi.
Trong sự rối ren trên bàn làm việc của Crawford, có hình con gà mái bằng giấy mà Lecter đã làm. Crawford ấn lên cái đuôi và con gà bắt đầu mổ.
- Chính Lecter mới là người chiến thắng, ông ta đang đứng đầu danh sách của những người bị truy nã gắt gao nhất cả nước. Nhưng người ta sẽ không bắt được ông ta đâu, trong một thời gian dài. Cô nên đề phòng mới được.
Clarice gật đầu.
- Hiện giờ ông ta có rất nhiều việc phải làm. Đến khi ông ta rảnh rỗi đôi chút, ông ta sẽ bắt đầu vui đùa đây. Phải nói điều này: cô phải biết là ông ta sẽ đối xử với cô giống như tất cả những người khác.
- Tôi cho rằng ông ta không bao giờ giăng bẫy với tôi, đó là một điều khốn nạn, vả lại tôi sẽ không còn phải trả lời các câu hỏi của ông ta nữa. Nhưng, nếu trước mắt ông, tôi không còn lợi ích nào nữa thì ông ta đã làm rồi.
- Cô ráng giữ các thói quen tốt của mình, đó là những gì tôi muốn nói với cô. Mỗi khi cô phải ra ngoài, nhớ trình thẻ cho quầy tiếp tân, mọi thông tin liên quan đến những dịch chuyển của cô sẽ được thông báo cho bất cứ người nào không được xác minh. Tôi sẽ đặt máy điện thoại của cô vào hệ thống nghe lén, nếu điều này không làm cho cô bực mình. Điều này sẽ được bảo mật.
- Tôi sẽ không làm gì để ông ta đến tìm tôi.
- Nhưng cô có nghe những gì tôi vừa nói không?
- Thưa có, tôi nghe rõ rồi.
- Cô hãy cầm các lời khai và đọc lại cho kỹ đi. Cô có thể thêm bớt gì tùy thích. Khi nào cô xong, chúng tôi sẽ chứng thực chữ ký của cô. Tôi rất hãnh diện về cô đấy, Clarice. Cả Brigham và luôn cả ông giám đốc.
Crawford tiễn cô ra đến cửa. Cô để ông lại một mình ở phía sau để bước đi trong cái hành lang trống vắng. Ông cố nói theo:
- Clarice ơi, cha cô đang ngắm nhìn cô đấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 11:51:18 | Xem tất
2

Các phương tiện truyền thông đại chúng quan tâm đến Jame Gumb suốt nhiều tuần liền. Các phóng viên báo chí tái lập lại cuộc đời của hắn, bằng cách truy lục vào kho lưu trữ của quận Scramento:
Mẹ của hắn đã mang thai được một tháng khi bà thất bại trong việc tranh Hoa hậu Scramento vào năm 1948. Cái tên “Jame” trong giấy khai sinh của hắn có vẻ như là một nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch mà không người nào chịu chỉnh sửa lại.
Biết mình không thể nào trở thành tài tử điện ảnh được, mẹ hắn ta chìm trong rượu:
Hai tuổi, hắn được giao cho một gia đình làm con nuôi.
Hai tạp chí tâm lý học kết luận rằng tuổi ấu thơ đó cắt nghĩa cho hành động giết chết phụ nữ trong căn hầm của hắn, để lột da họ. Các từ điên và độc ác không hề xuất hiện trong các bài báo đó.
Cuốn phim thi hoa hậu mà Jame Gumb thường xem cho thấy bà mẹ thật sự của hắn, nhưng người phụ nữ trong cảnh tại hồ bơi lại là một người xa lạ, như việc kiểm chứng bằng số đó cho thấy.
Gumb được mười tuổi khi ông bà ngoại kéo hắn ra khỏi gia đình cha mẹ nuôi, và hắn đã giết chết hai người này hai năm sau đó.
Trong thời gian ở trong dưỡng trí viện, hắn học được nghề may mà hắn thật sự có một năng khiếu nhất định.
Cuộc đời nghề nghiệp của hắn có nhiều chỗ khuyết. Các phóng viên khám phá được ít nhất hai nhà hàng mà hắn làm công việc kế toán, và tiếp đến hắn làm đây đó cho công nghiệp may mặc. Bất chấp những gì Benjamin Raspail đã nói, người ta không thể chứng minh là vào thời đó hắn đã bắt đầu giết người.
Hắn làm nhân viên bán hàng trong cửa hàng làm các món trang sức bằng bươm bướm, khi hắn làm quen với Raspail và sống một thời gian với người nhạc sĩ này. Đến lúc đó hắn bắt đầu đam mê loài bướm ngày và đêm, và cả thời gian biến hóa của chúng nữa.
Khi Raspail chia tay với hắn, hắn giết chết người tình mới của Raspail, cắt đầu và lột đi một phần da.
Một thời gian lâu sau đó, hắn gặp lại Raspail ở vùng ven biển Đông. Raspail giới thiệu hắn với Bác sĩ Lecter.
Việc này được chứng minh trong tuần lễ sau cái chết của Gumb, khi FBI tịch thu được từ gia đình Raspail những cuộn băng cát sét những buổi chữa trị của Bác sĩ Lecter.
Nhiều năm trước, khi người ta bắt đầu giam giữ Bác sĩ Lecter, tòa án đã giao trả lại các cuộn băng những buổi chữa trị cho các nạn nhân, và họ đã tiêu hủy chúng. Ngoại trừ gia đình cà khịa của Raspail đã giữ chúng lại với hy vọng có thể sử dụng được chúng để thưa kiện về cái di chúc. Vì những cuốn băng đầu tiên chỉ chứa đựng toàn những kỷ niệm mơ hồ của thời học sinh, nên họ không quan tâm nữa. Sau những bài phóng sự về Jame Gumb, họ nghe phần còn lại và gọi điện cho Everett Yow để hăm dọa ông này là họ sẽ dùng những cuộn băng này để xin hủy bỏ tờ di chúc. Viên luật sư này gọi điện cho Clarice Starling.
Trong tất cả những cuốn băng này, có cái của lần chữa trị cuối cùng mà trong thời điểm đó Lecter đã giết chết Raspail. Cô cũng biết được Raspail đã kể khá nhiều về Jame Gumb.
Bác sĩ Lecter đã khám phá được việc Gumb rất si mê loài bướm đêm, và trước kia hắn đã lột da người, hắn đã giết chết Klaus, hắn có làm việc cho một cửa hàng bán đồ bằng da tại Calumet City có tên là “Ông Da”, và hắn làm tiền một phụ nữ già ở Belvedere chuyên may phần lót của hiệu may này. Một ngày nào đó hắn sẽ đoạt hết tiền của bà này thôi, Raspail đã tiên đoán như thế.
- Khi Lecter biết được nạn nhân thứ nhất là dân của thành phố Belvedere và cô ta đã bị lột da, ông đã hiểu ngay chính hắn là thủ phạm, - Crawford nói với Clarice trong khi họ đang nghe lại các cuốn băng cát sét. - Nếu Chilton không chõ mũi vào thì ông ta đã giao Gumb cho chúng ta rồi và làm ra vẻ mình là một thiên tài.
- Ông ta đã gợi ý cho tôi biết, bằng một mảnh giấy được kẹp trong hồ sơ, rằng việc lựa chọn các nơi phạm tội là do ngẫu hứng. Và tại Memphis, ông ta có hỏi tôi có biết may không. Thế ông ta làm vậy với mục đích gì?
- Ông ta chỉ muốn đùa thôi. Bác sĩ Lecter đã thích đùa giỡn từ rất lâu rồi.
Người ta không bao giờ tìm lại được các cuốn băng của Jame Gumb và các hoạt động của hắn trong những năm tiếp theo sau cái chết của Raspail được tái hiện lại, từng đoạn một, từ những lá thư kinh doanh, hóa đơn đổ xăng và những thông tin được dân buôn bán cung cấp.
Khi bà Lippman qua đời trong một chuyến đi đến Florida với Gumb, hắn thừa hưởng tất cả: cả ngôi nhà cũ kỹ với cái cửa hàng trống trơn, và nhất là tầng hầm mênh mông, cộng thêm một số tiền kha khá. Hắn nghỉ làm tại cửa hàng “Ông Da” nhưng vẫn giữ trong một thời gian khá lâu một căn hộ tại Calumet City và dùng cái địa chỉ thương mại để nhận lãnh các kiện hàng dưới cái tên John Grant. Hắn giữ liên lạc với các khách hàng ưa thích và tiếp tục đi thăm viếng các cửa hàng trong vùng như lúc hắn còn làm việc cho cửa hiệu “Ông Da”, lấy số đo cho những bộ quần áo mà hắn may tại Belvedere. Chính trong những chuyến đi như thế mà hắn lựa chọn được các nạn nhân của hắn và vứt bỏ xác của họ, chiếc xe tải con chạy liên tục hàng nhiều giờ trên xa lộ và quần áo bằng da treo lủng lẳng ở thùng sau xe, trong một cái túi bằng cao su chứa đựng một cái xác.
Tầng hầm tạo cho hắn một sự tự do tuyệt vời. Nhiều gian phòng để đùa giỡn và nhiều phòng để làm việc. Trước tiên, là để chơi thôi, truy đuổi những người phụ nữ trần truồng trong cái mê cung tối đen, tạo những tác phẩm vui nhộn trong những hầm sâu nhất mà hắn đã đóng kín lại, chỉ mở cửa để rắc thêm một ít vôi sống mà thôi.
Fredrica Bimmel khởi sự giúp đỡ cho bà Lippman khoảng một năm trước khi bà này chết. Cũng vì đến đây để xin việc làm mà cô ta làm quen với Jame Gumb, Fredrica không phải là nạn nhân đầu tiên của hắn, nhưng là người đầu tiên mà hắn giết để lột da.
Người ta tìm thấy các lá thư của Fredrica Bimmel gửi cho Gumb trong ngôi nhà của tên này.
Clarice khó nhọc lắm mới đọc hết các bức thư đó được, vì chúng chứa đựng quá nhiều hy vọng và một khao khát tình yêu ghê rợn; và cũng vì các dấu hiệu cảm xúc của Gumb mà người ta có thể suy đoán từ những câu trả lời “Người bạn thân bí mật ơi, tôi yêu anh. Tôi không nghĩ trong một ngày nào đó tôi có thể nói lời này, nhưng điều êm dịu hơn là được nghe nó rót vào tai tôi”.
Thế khi nào hắn để lộ bộ mặt thật của hắn? Cô ta có tìm thấy được tầng hầm không? Bộ mặt của Fredrica đã như thế nào khi thấy hắn đã thay đổi và hắn đã giữ cô ta sống trong bao lâu nữa?
Điều tệ hại hơn là Fredrica và Gumb cho đến phút cuối vẫn là bạn của nhau vì cô ta vẫn còn viết thư cho hắn khi bị nhốt ở dưới đáy giếng.
Các phóng viên báo giật gân đã đặt cho Gumb cái tên “Ông Da”, họ đã tức giận vì không nghĩ ra được ngay từ lúc đầu nên đã khởi sự lại câu chuyện ngay từ lúc bắt đầu.
Clarice đã được bảo vệ khỏi đám báo chí ngay tại trung tâm Quantico nhưng mấy tờ lá cải đó đã khai thác nguồn thông tin mà cô đã cung cấp cho họ.
Tờ National Tatler mua lại của Bác sĩ Frederick Chilton cuốn băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa Clarice và Bác sĩ Hannibal Lecter. Ông ta bình luận cuộc nói chuyện này trong một loạt bài dưới nhan đề “Vị Hôn Thê của Dracula” và gợi ý rằng Clarice đã tiết lộ nhiều điều về mặt tính dục cho Lecter để đổi lấy những thông tin của ông ta, và điều này khiến cho Clarice nhận được lời đề nghị của Lời nói êm dịu, tạp chí của điện thoại hồng.
Tờ tuần báo People đăng một bài ngắn và có thiện cảm với Clarice, với những bức ảnh được chụp tại trường đại học Virginie và Tổ Ấm dòng Luther ở Bozeman. Tấm hình đẹp nhất của của con ngựa cái Hannah, đang kéo chiếc xe chở mấy đứa trẻ con trong những ngày cuối đời của nó.
Clarice cắt tấm hình của Hannah để bỏ vào trong bóp của mình, ngoài ra cô không giữ gì khác.
Cô đang trên đường bình phục.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách