Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tâm Lý - Xuất Bản] Sự Im Lặng Của Bầy Cừu | Thomas Harris (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 2-2-2013 20:42:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

1

Clarice Starling tựa người trên cái bàn đánh bạc của FBI, cố theo dõi buổi thuyết trình về cách rửa tiền trong giới cờ bạc. Ba mươi sáu giờ đã trôi qua từ khi cảnh sát Baltimore đã ghi nhận lời khai của cô, sau đó cho cô ra về với lời nhắc nhở án mạng không phải là một tội liên bang.
Trong buổi tin chiều tối chủ nhật, người ta có thể thấy Clarice đang phải đối phó với những người quay phim của đài truyền hình, và bây giờ chắc chắn cô sẽ gặp rắc rối. Không một lời nào về Crawford hoặc đến văn phòng Baltimore. Có vẻ như báo cáo của cô đã rơi xuống vực thẳm.
Cái sòng bạc nhỏ mà cô đang chứng kiến đã hoạt động được một thời gian trước khi bị FBI bắt và biến thành một dụng cụ dạy học rồi. Căn phòng nhỏ dài này chứa nhiều cảnh sát đến từ khắp nơi; Clarice nhã nhặn từ chối những chiếc ghế của hai cảnh sát kỵ binh Canada và của một thám tử Scotland Yard.
Các bạn đồng nghiệp của cô đang ở trong hành lang của trường, tìm kiếm tóc trên một tấm thảm thực thụ của “căn phòng án mạng tính dục” và các vân tay trong “Ngân Hàng American Standard”. Clarice đã bỏ ra rất nhiều giờ cho loại thực tập đó, và với tư cách là sinh viên ngành pháp y, người ta nghĩ tốt hơn hết nên gởi cô đến dự buổi thuyết trình dành cho nhân viên cảnh sát vãng lai.
Cô tự hỏi không biết người ta tách cô ra khỏi các bạn đồng nghiệp của cô vì một lý do nào khác không: có thể người ta không chừng muốn tống khứ cô mất.
Tựa chỏ trên bàn xúc xắc, Clarice cố chú ý đến cách rửa tiền trong giới cờ bạc. Nhưng cô không ngừng tự nhủ là ngoài các cuộc họp báo, FBI rất ghét thấy nhân viên của họ trên tivi.
Bác sĩ Hannibal Lecter là đề tài ưa thích của đám truyền thông đại chúng nên cảnh sát Baltimore không ngần ngại ném tên ông ta cho cánh phóng viên. Clarice không ngờ được thấy mình xuất hiện nhiều lần trên tivi trong chương trình tin tức tối chủ nhật... “Starling của FBI”, đang dùng tay quay con đội và chơi đánh vào cánh cửa gara trong khi người quay phim đang cố chui qua đó. Và sau đó “nhân viên Liên bang Starling” với tay quay trên tay đang hăm dọa những người đang có mặt.
Jonetta Johnson của đài WPIK, tiết lộ từ dầu đến cuối là Clarice đã làm được cuộc khám phá khủng khiếp kia nhờ vào “các mối liên hệ bí ẩn với một người đàn ông mà cảnh sát gọi là... một quái vật!” Hiển nhiên có một ai đó trong bệnh viện đã thông tin cho cô ta biết mà.
VỊ HÔN THÊ CỦA FRANKENSTEIN! Hàng tít chạy dài trên tờ National Tattler trên các sạp báo siêu thị.
FBI chưa có một thông báo chính thức nào cả nhưng trong nội bộ cơ quan, các lời gièm pha tha hồ truyền tai nhau, Clarice biết chắc điều này.
Trong lúc ăn sáng, một trong những người bạn của Clarice, một thanh niên trẻ sặc mùi dầu thơm, gọi cô bằng tên “Melvin Pelvis”, một lối chơi chữ với cái tên Melvin Purvis - nhân viên số 1 của FBI dưới thời ông Edgar Hoover trong khoảng thời gian những năm 30. Ardelia Mapp có nói một cái gì đó làm cho anh ta xanh mặt và bỏ luôn bữa điểm tâm còn nguyên vẹn.
Clarice đang sống trong một tâm trạng kỳ lạ mà người ta sẵn sàng vất bỏ tất cả mọi thứ. Suốt hai bốn tiếng đồng hồ, cô đang chờ việc sắp đến, nhưng cô nhất quyết sẽ tranh đấu đến cùng trong một chừng mực nào đó có thể có được.
Vừa nói vừa cho hòn bi lăn, nhưng người thuyết trình không hề làm rớt nó. Trong lúc nhìn anh ta, Clarice tự nhủ chắc trong suốt cuộc đời anh ta không bao giờ biết ném một trái banh. Ngay lúc này anh ta gọi “Clarice Starling!”
- Vâng - cô đáp lại.
Người thuyết trình hất cằm ra cánh cửa ở phía sau cô. Đây rồi. Tương lai của cô đang làm cho đôi chân cô nặng trĩu khi cô quay mặt lại. Đó là Brigham đang chỉ vào cô trong đám đông. Ông ra hiệu cho cô theo ông.
Trong một khắc, cô nghĩ người ta sẽ sa thải cô, nhưng điều này không thuộc chức năng của Brigham mà.
- Lên đường, Starling! Thế dụng cụ cho hiện trường của cô đâu rồi?
- Trong phòng của tôi, dãy C.
Cô phải bước thật nhanh để có thể đi ngang hàng anh ta. Anh ta mang một túi lớn đựng dụng cụ lấy dấu tay, thứ dành cho công việc thật sự chứ không phải loại để thực tập, và một túi nhỏ khác bằng vải bố.
- Cô sẽ đi cùng Jack Crawford. Hãy lấy đồ đạc cho một đêm. Có thể tối nay cô sẽ trở về nhưng cũng không chắc lắm.
- Thế chúng ta đi đâu đây?
- Đến bang Virginie. Hồi lúc rạng đông, những người săn vịt thấy một xác chết trôi trên sông Elk. Một nạn nhân khác của Buffalo Bill. Cảnh sát địa phương đang trục cô ta lên bờ. Mấy tay cảnh sát đó đúng là tay mơ và Jack không thể mong đợi ở họ để có thêm chi tiết. - Brigham đứng lại ở dãy C. - Ông ta muốn có một người nào đó biết lấy dấu tay của một người chết trôi. Cô đã làm thực tập viên trong phòng thí nghiệm rồi phải không, cô có thể làm được việc đó chứ?
- Được, nhưng hãy để cho tôi kiểm tra lại dụng cụ trước đã.
Brigham giữ hai miệng túi rộng mở trong khi Clarice lấy mấy cái mâm ra. Các cây kim chích và các lọ đã có đầy dủ, nhưng chưa có máy chụp hình.
- Tôi cần một máy Polaroid chụp chi tiết, máy CU-5, thêm phim và pin.
- Tôi sẽ lấy cho cô những thứ đó.
Anh ta đưa cho cô cái túi nhỏ bằng vải bố, với cả một trọng lượng của nó, cô mới hiểu tại sao chính anh ta lại đón cô.
- Cô chưa được trang bị súng phải không?
- Chưa.
- Như thế cô phải cần đến nguyên một bộ đấy. Đó là tất cả những thứ mà cô phải mang đến trường bắn. Khẩu súng ngắn là của tôi. Một khẩu Smith, giống như khẩu dùng để tập bắn, nhưng được chỉnh sửa lại hoàn toàn. Tôi nay cô hãy tập bắn không đạn trong phòng ngủ. Trong mười phút nữa tôi sẽ tới bằng xe với máy chụp hình, ở phía sau dãy C. Nghe đây, không có phòng vệ sinh trên chiếc Xuồng Xanh đâu, tôi khuyên cô nên tranh thủ trước. Nào khẩn trương đi, Starling!
Cô định hỏi thêm một câu gì đó nhưng anh ta đã đi mất rồi.
Nếu Crawford thân hành thì đích thực là Buffalo Bill rồi. Nhưng Xuồng Xanh là cái quái gì mới được? Thôi, tốt nhất ta nên bắt tay vào việc thật nhanh chóng, cô thầm nghĩ.
- Thật không dễ dàng chút nào...
- Thôi được rồi - Brigham ngắt ngang khi cô bước lên xe. Nếu có ai đó muốn biết cô có mang vũ khí không thì sẽ thấy cái u dưới áo vét của cô. Cô mang một khẩu súng ngắn trong một cái bao dẹp, được giắt sát hông, cộng thêm một kẹp, đạn ở bên kia thắt lưng.
Brigham phóng xe với tốc độ cho phép đến đường băng của Quantico.
Anh ta tằng hắng.
- Có một điều cô nên nhớ là người ta không quan tâm đến chính trị trong khi bắn súng.
- Thật sao?
- Cô làm đúng khi muốn bảo vệ cái gara kia ở Baltimore. Cô đang lo về chuyện thấy mình trên tivi có phải không?
- Tôi có lý do để lo không?
- Những gì tôi nói sẽ là những bí mật của hai chúng ta, đồng ý không?
- Đồng ý.
Brigham chào trả theo kiểu quân đội người nhân viên điều hành lưu thông.
- Khi bảo cô đi theo ngày hôm nay, Jack muốn chứng tỏ với mọi người là ông tin tưởng nơi cô - anh nói. - Trong trường hợp ông trưởng phòng hành chánh có hồ sơ trước mặt, ông ta sẽ sôi ruột gan lên, cô hiểu tôi muốn nói gì chứ?
- Mmmmm.
- Crawford là một người không hề sợ biểu lộ quan điểm của mình. Ông đã cho giới chức có thẩm quyền biết là cô làm đúng khi bảo vệ hiện trường. Ông đã thả cô trần truồng... ý tôi muốn nói là không có quyền hạn hữu hình, và ông cũng đã nói lên điều này. Hơn nữa, cảnh sát Baltimore đã mất khá nhiều thời gian để đến đấy. Crawford cần sự trợ giúp ngay tức thì và ông ta phải chờ hơn một tiếng đồng hồ để Jimmy Price tìm cho ông một nhân viên phòng giảo nghiệm. Cô có mặt đúng lúc lắm, Starling. Một phụ nữ chết trôi cũng không phải là một cuộc giải trí. Nếu ai đó muốn nghĩ đây là một hình phạt thì tùy ý họ... Cô biết không, Crawford là người rất tế nhị, nhưng ông không muốn mất thời giờ để giải thích, vì thế mà tôi kể cho cô nghe hết những điều này. Nếu làm việc với Crawford thì phải biết hành xử ra sao, cô hiểu không?
- Chưa rõ lắm.
- Ông còn có nhiều mối lo âu khác hơn là Buffalo Bill. Vợ ông ta đau rất nặng... Có thể nói là đang hấp hối... Họ đã sống với nhau thật hạnh phúc thật lâu dài.
- Cám ơn anh đã cho tôi biết những điều này.
Brigham nói tiếp khi họ đến ngay đường băng.
- Khi kết thúc khóa học về vũ khí, tôi sẽ nói hai hay ba điều quan trọng, cô cố gắng có mặt nhé, Starling!
- Tôi sẽ có mặt.
- Hãy nghe đây, những điều tôi muốn chỉ bảo có thể cô sẽ không cần đến. Tôi thật sự hy vọng thế. Nhưng cô rất có khiếu, Starling. Nếu cô buộc phải bóp cò, cô có đủ khả năng làm được. Hãy tập cho giỏi đi.
- Đồng ý.
- Đừng bao giờ bỏ nó vào trong túi xách.
- Rõ rồi.
Một chiếc Breechcraft hai động cơ già cỗi đang chờ trên đường băng, đèn vị trí bật sáng và cửa được mở sẵn. Một cánh quạt đang quay làm ngã rạp đám cỏ gần đó.
- Có phải đây là cái Xuồng Xanh không?
- Phải.
- Nó vừa cũ và nhỏ nữa.
- Nó thật sự cũ lắm đấy - Brigham nói thật vui vẻ - Biệt đội chống ma túy đã bắt nó ở Florida cách đây nhiều năm rồi, khi nó rơi trong vùng Everglades. Tôi hy vọng Gramm và Rudman không biết là chúng ta đang sử dụng nó, bởi vì đúng lý chúng ta phải đi bằng xe ca. - Anh đậu ngay cửa máy bay và lấy hành lý của Clarice ở băng sau xuống. Anh giao hết cho cô và bắt tay cô.
Và làm ra vẻ không cố ý, Brigham nói:
- Xin Chúa phù hộ cho cô, Starling - Lời nói có vẻ kỳ quặc từ miệng của một Thủy quân Lục chiến. Dường như anh ta buột miệng nói nên đỏ mặt.
- Cám ơn... cám ơn nhiều, anh Brigham.
Crawford mặc áo tay ngắn và đeo kính râm, đang ngồi trên ghế người phi công phụ. Ông xoay mặt về phía Clarice khi nghe tiếng cánh cửa đóng lại.
Cô không thấy được mắt ông sau đôi kính màu khói và bất ngờ nhận ra cô không hề biết gì về người này. Mặt Crawford xanh và lầm lầm, giống như một rễ cây mà một chiếc xe ủi đất vừa bật gốc lên.
- Cô hãy ngồi xuống và đọc cái này - Ông nói thay lời chào hỏi.
Một tập hồ sơ dày được đặt trên chiếc ghế cạnh ông. Trên bìa có chữ BUFFALO BILL. Clarice ôm nó vào người trong khi chiếc Xuồng Xanh nổ liên hồi, rung rung và bắt đầu lăn bánh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 2-2-2013 20:44:17 | Chỉ xem của tác giả
2

Các mép đường băng mờ dần và biến mất. Ở hướng Đông, ánh nắng ban mai ném một mũi tên ánh sáng xuống Vịnh Chesapeake trong khi chiếc phi cơ nhỏ phóng lên trời xanh.
Clarice Starling nhìn thấy trường Quantico và căn cứ quân sự Quantico. Trên con đường tập quân sự, hình bóng bé nhỏ của các Thủy quân lục chiến chạy thật mau.
Thì ra hình ảnh nhìn từ trên cao là thế!
Cô liên tưởng đến buổi chiều, sau giờ tập tác xạ, cô đang bước đi với những suy nghĩ miên man trong hành lang Hogan tối tăm và vắng tanh, cô nghe phi cơ bay ngang qua trong tiếng gầm rú; và một khi im lặng được vãn hồi, cô nghe tiếng la hét trên bầu trời đen. Đó là toán nhảy dù thực tập nhảy dù đêm, gọi nhau ơi ới trong khi từ từ hạ xuống trong bóng tối. Cô tự hỏi không biết cảm giác như thế nào khi đang chờ lệnh nhảy để lao mình trong đêm tối và tiếng rít của gió.
Chắc nó cũng hơi giống như thế này.
Cô mở tập hồ sơ ra.
Với những gì người ta biết được, Buffalo Bill đã thực hiện năm vụ án mạng. Trong mười tháng sau này, hắn đã ít nhất bắt cóc, giết và lột da một phụ nữ. (Clarice đọc các báo cáo giảo nghiệm và đọc chậm lại ở những đoạn về lượng histamin tự do xác nhận hắn đã giết họ trước khi làm những việc khác).
Sau khi hành động, hắn ném xác xuống sông. Nhưng không bao giờ trong cùng một dòng sông, ở hạ lưu của một ngã tư xa lộ và mỗi lần như thế lại xảy ra tại một tiểu bang khác nhau. Mọi người đều biết Buffalo Bill dịch chuyển nhiều lắm. Và chỉ thế thôi, trừ việc có thể hắn có một khẩu súng ngắn, với sáu đường khương tuyến và sáu hộc đạn, có thể là một khẩu Colt... hoặc một bản sao của Colt. Những dấu vết được tìm thấy trên các viên đạn cho thấy hắn thích bắn loại đạn cỡ 38 đặc biệt với một nòng dài hơn của khẩu 357.
Dòng nước chảy xóa hết các dấu vân tay, không để lại bất cứ dấu tích nào của tóc hoặc những mảnh vải có thể được dùng làm tang chứng.
Có thể hắn là người da trắng; vì thông thường các tên sát nhân hàng loạt thích giết người trong nhóm bộ tộc của hắn và tất cả các nạn nhân cũng là da trắng; và hắn là đàn ông bởi vì cho đến giờ chưa có một tên sát nhân hàng loạt nào là phụ nữ.
Hai người chuyên trách chuyện vặt ở New York đã cho chạy tít một bài thơ của E.C.Cummings “Buffalo Bill”: ... vậy Thần Chết, bà yêu anh ta như thế nào, thằng con trai với đôi mắt xanh đó của bà?
Có thể chính Crawford đã dán lời trích dẫn trên vào mặt trong của tập hồ sơ.
Không có một liên quan hợp lý nào giữa nơi Buffalo Bill bắt cóc các nạn nhân với nơi mà hắn vứt xác họ cả.
Có khi người ta tìm được cái xác khá sớm để có thể xác định thật chính xác ngày giờ chết; điều đó giúp cho cảnh sát biết thêm thông tin về tên giết người: Bill chỉ giết từ bảy đến mười ngày sau khi bắt cóc họ. Như vậy hắn phải có một nơi để giam giữ họ, một nơi mà hắn có thể hoạt động trong bí mật. Hắn không phải là một tên vô gia cư. Mà đúng hơn là một con czéténidé, một loài nhện ở trong hang; hắn có một chỗ ẩn trốn ở đâu đó.
Điều làm cho dân chúng hoảng sợ hơn là hắn giam các nạn nhân của hắn trong vòng một tuần hay hơn trong khi biết chắc hắn sẽ giết họ.
Hai người bị treo cổ, ba bị giết bằng súng. Theo khám nghiệm, hắn không ngược đãi hoặc hãm hiếp họ và các báo cáo giảo nghiệm không bao giờ đề cập đến bất cứ một thay đổi đặc trưng của bộ phận sinh dục, nhưng các chuyên gia pháp y nhấn mạnh là họ gần như không thể quả quyết việc đó với những thi hài bị hư hỏng quá nhiều.
Tất cả các nạn nhận được tìm thấy đều trần truồng. Trong hai trường hợp, quần áo của nạn nhân được cắt đôi ở sau lưng và quăng trên vệ đường, không xa nơi cư ngụ của họ.
Clarice nhìn vào các hình ảnh mà không hề bối rối. Những người chết trôi là những xác khó đương đầu. Nhất là trường hợp của những nạn nhân bị giết trên không trung. Những lăng nhục mà họ phải gánh chịu cộng thêm việc phơi bày cho thiên hạ và trước những cái nhìn dửng dưng, sẽ làm bạn phẫn nộ, nếu bạn có thể cảm nghĩ như thế.
Nhưng ở đây, không một ai muốn như thế. Các nạn nhân không còn cả da trên người, khi người ta tìm thấy họ ở các bờ đầy rác của một con sông, giữa các bình xăng không và túi nylon. Mặt của những nạn nhân trong lúc giá lạnh gần như nguyên vẹn. Clarice phải cố nhớ lại không phải sự đau đớn đã làm hếch môi lên; chính rùa và các loài cá, trong lúc rỉa cái xác, đã tạo hình dáng đó. Bill chỉ lột da ngực và không bao giờ đụng đến các chi.
Sẽ dễ chịu hơn khi trong phi cơ không nóng đến thế, Clarice tự nhủ, và chiếc phi cơ chết tiệt này không lắc lư và ánh mặt trời chói chang không làm cho cô nhức nhối như một cơn đau đầu.
Người ta sẽ bắt hắn thôi. Clarice bám vào ý nghĩ này để có thể chịu được cái không khí càng lúc càng ngạt thở trong chiếc phi cơ và những tin tức khủng khiếp đang được chất đống trên đôi chân cô. Cô sẽ giúp họ kết thúc vụ này. Đến lúc đó người ta có thể cất cái hồ sơ vào trong hộc tủ và không còn nghĩ gì tới nữa.
Cô ngắm nhìn cái ót của Crawford. Cô là thành viên của một toán thật giỏi, rất cần để chống lại Buffalo Bill. Crawford đã thành công trong việc bắt được ba tên giết người hàng loạt. Tại trường, người ta đánh giá Will Graham, viên thám tử xuất sắc nhất trong toán của Crawford, là một anh hùng; và cũng là một anh hùng nghiện rượu tại bang Florida, với khuôn mặt bị biến dạng thật kinh khủng.
Có thể Crawford cảm nhận được cái nhìn của Clarice vào ngay ót của mình. Ông bước ra khỏi chiếc ghế. Khi ông cất cặp kính râm và mang cái mắt kính hai tròng, cô mới tìm thấy lại người đàn ông cô từng quen biết.
Mắt ông lướt từ Clarice qua tập hồ sơ rồi ngược lại. Một cái gì đó thoáng qua trên mặt ông.
- Tôi nóng quá, cô có thế không? - Ông hỏi - Bobby ơi, người ta đang chết thiêu ở trong này đây - Ông hét với người phi công. Người này bấm một cái nút và không khí lạnh ùa vào. Vài bông tuyết được hình thành trong cái không khí ẩm thấp, bay rớt trên tóc của Clarice.
Bây giờ mới đúng là người thợ săn Crawford trong một ngày đẹp trời của mùa đông. Ông mở bản đồ của các khu vực vùng trung tâm và miền đông của Hoa Kỳ. Các điểm nhỏ rải rác chỉ định nơi người ta đã tìm thấy các xác chết, giống hình một chòm sao lặng thinh và ngoằn ngoèo không khác gì chòm sao Orion.
Crawford rút cây bút máy ra và đánh dấu vào vị trí cuối cùng, điểm đến của họ.
- Sông Elk khoảng mười cây số về hướng nam quốc lộ 79 - Ông cho biết - Lần này chúng ta gặp may đấy. Cái xác bị kẹt vào một dây câu đáy của mấy người đi câu đặt. Cảnh sát địa phương nghĩ cái xác không ở dưới nước quá lâu. Họ đã đem cái xác đến Potter, thủ phủ của quận. Chúng ta phải mau chóng xác định cho được lý lịch nạn nhân để tìm các nhân chứng của cuộc bắt cóc. Ngay khi có được vân tay, chúng ta sẽ chuyển chúng đi bằng fax - Crawford nghiêng đầu để nhìn Clarice qua cặp kính.
- Jimmy Price nói cô biết lấy dấu vân tay của một người chết đuối.
- Tôi chưa hề làm trực tiếp trên một người chết trôi bao giờ. Tôi có lấy dấu các bàn tay mà ông ta nhận được mỗi ngày trong thư tín. Nhưng một số lớn là của những người chết trôi.
Những người chưa bao giờ làm việc trực tiếp dưới sự chỉ huy của Jimmy Price sẽ cho ông ta là một người hay cau có. Nói đúng ra thì ông ta là một ông già thật hung tợn. Trong các tiết học về pháp y, Clarice đã hết sức đau khổ dưới quyền chỉ huy của ông trưởng ban dấu tay phòng thí nghiệm tại Washington.
- Ông già Jimmy nhân hậu - Crawford nói một cách trìu mến - Nhưng người ta đã gọi cái công việc đó là như thế nào, nhỉ?
- “Sự ghê tởm”, dù có nhiều người thích gọi bằng “Igor” hơn, vì từ mà người ta viết trên tạp dề bằng cao su phát cho mỗi người.
- Bây giờ tôi nhớ ra rồi.
- Người ta thường nói: bạn chỉ cần tưởng tượng mình đang phẫu thuật một con ếch đi.
- Ra thế.
- Sau đó người ta mang tới một cái gói. Các học viên kia sẽ nhìn bạn, có vài người mau chóng rời khỏi máy bán nước ngọt, với hy vọng bạn sẽ tha hồ nôn mửa. Nhưng tôi hoàn toàn có thể lấy dấu vân tay của một người chết đuối. Mà nói cho đúng...
- Tốt rồi, bây giờ hãy nhìn đây. Nạn nhân đầu tiên của ông ta được tìm thấy tại sông Blackwater, bang Missouri, gần Lone Jack hồi tháng sáu vừa qua. Một cô Bimmel nào đó, sự mất tích đã được báo hai tháng trước tại Belvedere, Ohio, vào ngày 15 tháng tư. Người ta không thể nói gì nhiều hơn được, vì phải mất gần ba tháng cho mỗi công việc nhận dạng cô ta. Người kế tiếp bị hắn bắt cóc tại Chicago, trong tuần thứ ba của tháng tư. Người ta tìm được nạn nhân trong con sông Wabash, Indiana, mười ngày sau, còn nguyên vẹn đến mức người ta có thể nói chính xác những gì đã xảy ra với cô ta. Sau đó, chúng ta có một người da trắng khoảng hai mươi tuổi. Bị ném xuống Rolling Fork gần quốc lộ 75, cách khoảng sáu mươi cây số về hướng nam Louisville, Kentucky. Người này không thể nhận dạng được. Kế tiếp là một cô Varmer nào đó, bị bắt cóc tại Evansville, Indiana, được tìm thấy trong con sông Embarras, ngay cạnh quốc lộ 70, về hướng đông bang Illinois.
- Sau đó, hắn đi xuống sâu về miền nam và bỏ cái xác thứ năm trong con sông Conasauga, gần Damascus, Géorgie, không xa quốc lộ 75. Đây là hình ảnh của cô ta trong ngày nhận bằng cấp. Cô này tên Kittridge, sống tại Pittsburg. Tuy nhiên có một điều khó khăn là không một ai nhìn thấy mặt của hắn. Ngoại trừ việc người ta tìm thấy các xác chết cạnh một quốc lộ, chúng ta không có một dấu vết nào cả.
- Nếu ông đi ngược các quốc lộ từ các nơi hắn đã vứt xác các nạn nhân thì những con đường đó có hội tụ được không?
- Không.
- Và nếu người ta đặt giả thuyết rằng hắn vứt một cái xác này để bắt ngay một cô gái khác cùng trong chuyến đi đó? Hắn bắt đầu vứt cái xác này xuống nước để phòng trường hợp hắn có thể gặp rắc rối với lần bắt cóc sau. Nếu người ta bắt hắn về tội bạo hành, hắn có thể được tại ngoại sau khi đóng tiền bảo lãnh, với điều kiện là không có cái xác trong xe. Hoặc nếu người ta vẽ một đường thẳng giữa chỗ tìm thấy xác với nơi bắt cóc kế tiếp xem sao? Đáng lý ông phải thử phương cách này.
- Đây là một ý kiến rất hay, nhưng hắn cũng đã như thế. Nếu hắn làm đúng hai công việc đó trong một chuyến đi, hắn sẽ di chuyển theo hình chữ chi. Chúng tôi đã thực hiện các mô phỏng trên máy điện toán: trước tiên làm như thể hắn đi theo xa lộ về hướng tây, sau đó về hướng đông, rồi với những phối hợp khác với các ngày hợp lý nhất mà chúng tôi đoán là hắn có thể sẽ vứt cái xác và thực hiện vụ bắt cóc khác. Nếu chúng ta đưa hết những sự kiện này vào trong máy điện toán, chúng ta sẽ chẳng được gì cả. Hắn sống tại miền đông, đó là lời giải đáp của máy. Hắn không theo chu kỳ của mặt trăng. Những ngày xảy ra các vụ bắt cóc không khớp với các ngày hội họp các đảng tại những thành phố liên quan. Không, Starling, hắn đã dự trù mọi thứ.
- Ông có nghĩ hắn quá tinh ranh để có thể nghĩ đến việc tự sát không.
Crawford gật đầu ưng thuận.
- Quá khôn ngoan. Hắn đã tìm ra phương cách để thỏa mãn các nhu cầu của mình và nhất định sẽ khai thác đến cùng. Tôi sẽ không đặt cược vào một vụ tự sát đâu.
Crawford rót một ly nước từ trong bình thủy và đưa cho viên phi công. Ông đưa một ly khác cho Clarice và bỏ thêm một viên Alka-Seltzer trong ly của mình.
Clarice cảm thấy lộn ruột gan khi chiếc phi cơ bắt đầu hạ cánh.
- Một hay hai nhận xét đây, Starling. Tôi mong chờ ở cô một sự giám định thật hoàn hảo, nhưng chưa phải hết đâu. Cô không thích nói nhiều và tôi cũng thế. Điều này rất hay. Tuy nhiên, đừng bao giờ chờ có một sự kiện mới rồi mới báo cho tôi biết những gì cô nghĩ. Không hề có câu hỏi ngu xuẩn. Cô sẽ thấy những gì tôi bỏ qua và tôi muốn cô nói điều đó với tôi. Có thể cô có năng khiếu cho việc này. Đây là cơ hội để học hỏi đấy.
Tim muốn lộn ra ngoài, nhưng vẻ mặt thật chăm chú, Clarice tự hỏi không biết từ bao giờ Crawford muốn giao công việc này cho cô, hay ông ta muốn thử thách cô. Quả thật ông là một vị chỉ huy chứa đựng nhiều điều khó hiểu nhất.
- Phải quan sát xem hắn đã đi đâu, người ta bắt đầu có một mối liên hệ nào đó với hắn - Crawford nói tiếp - Thật khó tin nhưng không phải lúc nào người ta cũng ghét hắn. Vì thế, nếu có một chút may mắn nào, cô nên chú ý đến một điều gì đó. Nếu việc này xảy ra, cô phải báo cho tôi biết ngay, nghe không Starling?
- Thêm một việc nữa. Một án mạng đã là một việc khá hoang mang rồi nên việc điều tra không nên làm cho rắc rối hơn thêm. Cô đừng để cho vài ba cảnh sát viên gây ấn tượng. Cô hãy sống bằng cái đầu của mình. Hãy suy nghĩ cho kỹ. Hãy tách biệt vụ án mạng với những gì đang xảy ra quanh cô. Cô không nên gán cho hắn bất cứ một hình mẫu nào, hoặc cho là hợp lý bất cứ mọi hành vi nào của hắn. Hãy giữ cho tinh thần rộng mở và tự nhiên hắn sẽ đến với cô.
- Lời nhận xét cuối cùng: một vụ điều tra như vụ này đúng là một việc làm nát óc. Nó đan chéo các quyền xét xử mà có khi chúng lại được chỉ đạo bởi những kẻ thua cuộc. Trước hết phải biết hòa thuận với họ, để họ không giấu chúng ta bất cứ điều gì. Chúng ta sẽ đến Potter ở miền Tây của bang Virginie. Tôi không hề biết những người đang chờ đón chúng ta. Có thể họ rất tốt, nhưng cũng có thể họ xem chúng ta như là nhân viên thuế vụ vậy.
Viên phi công nhấc nón bay lên và nói nhưng không xoay người lại:
- Chúng ta đến rồi Jack, anh vẫn ngồi sau đó phải không?
- Đúng vậy. Hết giờ học rồi Starling.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 2-2-2013 20:47:38 | Chỉ xem của tác giả
3

Nhà tang lễ Potter là một ngôi nhà lớn nhất vùng với khung sườn bằng gỗ được sơn trắng trên đường Potter, tại Potter, Virginie, nó cũng được dùng làm nhà xác cho cảnh sát của quận Rankin. Viên pháp y là bác sĩ đa khoa của thành phố, bác sĩ Akin. Nếu nghi ngờ cái chết của ai đó thì ông sẽ gởi xác đến Trung tâm Y Khoa tại Claxton, ở quận kế cận, để cho viên pháp y khác có kinh nghiệm giảo nghiệm hơn phân xét.
Trong chiếc xe cảnh sát đến đón họ tại phi trường, trong suốt cuộc hành trình Clarice phải ngồi chúi người về phía cái lưới sắt ngăn đôi chiếc xe để có thể theo dõi được người tài xế, là phụ tá cảnh sát trưởng, để báo cáo các sự kiện lại cho Crawford.
Tang lễ bắt đầu cử hành. Trên các bậc thềm nhà và trên lề đường được trang hoàng cây hoàng dương trơ trụi, thân nhân và bạn bè của người quá cố đứng chờ trong bộ cánh trang nghiêm nhất của họ. Cầu thang và ngôi nhà vừa mới được sơn lại, hơi nghiêng về một phía khác nhau.
Trong bãi đậu xe ở phía sau, nơi đậu các xe tang, hai người bạn trẻ và một người già hơn, đang đứng chờ dưới một cây du trụi lá cùng hai nhân viên cảnh sát. Thời tiết chưa đủ lạnh để cho hơi thở của họ bốc thành hơi.
Clarice biết nhiều về cuộc đời của họ và cô nhận ra ngay với cái nhìn đầu tiên. Họ đến từ những ngôi nhà mà người ta có nùi giẻ thay cho tủ quần áo. Cha mẹ của những người đàn ông này treo quần áo trong những túi ở phía sau xe rờ moóc của họ. Cô biết thời ấu thơ của người già nhất trong đám này, một bơm nước nằm ngay trước cửa ra vào và vào mùa xuân, ông ta phải lội trong bùn cho đến đường cái để đón xe buýt chở học sinh với đôi giày được cột đính lại và treo tòn teng trên cổ, giống như người cha của ông ta đã làm trước ông ta vậy. Họ mang thức ăn trong các túi giấy dính đầy mỡ vì đã sử dụng quá nhiều lần rồi, và sau khi ăn xong họ lại xếp lại và nhét sau túi quần jeans.
Cô tự hỏi không biết Crawford có biết điều này không.
Trong xe không có tay mở cửa ở phía sau, Clarice khám phá ra điều này khi thấy người tài xế cùng Crawford xuống xe và tiến về phía sau ngôi nhà. Cô phải đập vào cửa kính cho đến khi một viên phụ tá khác đang đứng dưới cái cây nhìn thấy và người tài xế phải đi trở lại, mặt đỏ gay vì ngượng.
Đám đàn ông nhìn cô đi ngang qua và một người nói “Chào bà...” Cô đáp trả bằng cái gật đầu và nụ cười miễn cưỡng, để tiến lại nơi Crawford đang đứng ngay dưới cổng.
Khi cô đã đi khá xa, một trong đám người này gãi cằm và nói:
- Chắc cô ta tưởng mình bảnh lắm đây.
- Nếu cô tưởng mình ngon lắm thì tôi cũng đồng ý với cô ta - một người khác đáp lại - Tôi sẵn sàng đi cùng cô ta ngay.
- Tao thì thích một trái dưa hấu mát lạnh hơn, - một người khác kết luận.
Crawford đã bắt đầu nói chuyện với viên phụ tá thứ nhất của ông cảnh sát trưởng, một người nhỏ thó gân guốc với cặp kính có khung sắt và đôi ủng kiểu “Romeo”.
Họ đi vào trong một hành lang mờ tối có tiếng rì của một máy bán nước uống; nhiều vật dụng linh tinh được kê sát tường, một máy may bàn đạp, một xe đạp ba bánh, một cuộn ống nước, một màn sáo bằng vải được cuốn lại. Trên tường có treo một bức họa thuốc nước màu được thể hiện nữ thánh Cécile đang đánh đàn đại phong cầm.
- Cám ơn anh đã báo cho chúng tôi nhanh như thế - Crawford nói.
- Có ai đó tại văn phòng công tố đã báo cho các vị. Tôi biết chắc không phải ông cảnh sát trưởng - Ông Perkin đã đi du lịch đến Hawaii với bà Perkin rồi. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy trên điện thoại hồi tám giờ sáng nay, mà bên đó là ba giờ sáng. Ông ấy nói sẽ gọi lại cho tôi sau nhưng còn dặn tôi: điều chủ yếu là phải xem coi có phải là một thiếu nữ trong vùng không. Cũng có thể là do các phần tử xấu đem đến vứt ở đây. Đó là mục tiêu trước mắt của chúng tôi. Chúng tôi đã nhận được nhiều xác rồi từ Phenix City, bang Alabama.
- Chính về điều này mà chúng tôi có thể giúp mấy anh đây. Nếu...
- Tôi vừa tiếp ông chỉ huy Charleston trên điện thoại. Ông ta sẽ gởi toán điều tra án mạng đến chúng tôi, Toán SEC. Ông ta sẽ hỗ trợ cho chúng tôi tất cả sự trợ giúp mà chúng tôi cần. Chúng tôi sẽ tiếp các vị khi nào chúng tôi rảnh, và chúng ta sẽ hợp tác với nhau trong chừng mực có thể được, nhưng hiện giờ thì...
- Này ông Cảnh sát trưởng, loại án mạng tính dục này có nhiều khía cạnh mà tôi muốn trao đổi giữa chúng ta đàn ông với nhau thôi, ông hiểu ý tôi chứ? - Crawford nói và hất cằm về phía Clarice. Ông đẩy Clarice vào trong một căn phòng bề bộn và đóng cửa lại. Clarice cố che giấu nỗi ác cảm của mình trước mặt đám cảnh sát viên này. Cắn răng lại, cô chăm chú nhìn bức tranh Thánh Cécile, nhưng vẫn dò xét những gì đang được trao đổi đằng sau cánh cửa. Cô nghe họ nói lớn tiếng hơn và lõm bõm nhận ra một cuộc trò chuyện qua điện thoại. Họ trở ra ngoài hành lang chưa đầy bốn phút sau đó.
Viên phụ tá thứ nhất mím môi lại.
- Oscar, anh hãy đi tìm bác sĩ Akin cho tôi. Ông ấy gần như bị buộc phải tham dự lễ tang. Nói với ông ấy là tôi đã nói chuyện với Claxton trên điện thoại rồi.
Viên pháp y bước vào phòng làm việc nhỏ, một chân để trên ghế, gõ gõ một cây quạt vào hàm răng, ông có một cuộc nói chuyện ngắn với viên pháp y của Claxton. Sau đó, tất cả họ đều đồng ý.
Trong căn phòng ướp xác bốn tường được dán giấy hình bông hồng lớn, trần nhà được trang trí bằng đường chỉ theo loại nhà có khung sườn gỗ mà cô biết rất rõ. Tại đây Clarice Starling tìm được một bằng chứng xác thực của sự hiện hữu của Buffalo Bill.
Cái túi nhựa có dây kéo đựng cái xác là vật hiện đại duy nhất trong căn phòng này. Nó được đặt trên cái bàn ướp xác cũ kỹ bằng sứ mà hình bóng của nó được phản chiếu nhiều lần trên các cửa tủ kính đựng vài dụng cụ y khoa và chai lọ đựng hóa chất.
Crawford đi lấy máy truyền dấu tay trong chiếc xe trong khi Clarice lấy đồ nghề ra đặt trên cái bệ của một chậu rửa lớn được gắn sát tường.
Có quá nhiều người trong căn phòng này. Viên phụ tá thứ nhất và đám cảnh sát kia đã vào hết trong này, dường như họ muốn ở lại đây. Tại sao Crawford không vào để bảo họ ra vậy?
Giấy dán trên tường bắt đầu dợn sóng khi ông bác sĩ mở quạt trần đầy bụi.
Clarice Starling đứng ngay cạnh bồn rửa, phải can đảm hơn một lính thủy quân lục chiến nhảy dù mới có thể đứng đây được. Hình ảnh này hiện trong đầu có thể giúp cô đôi chút, nhưng lại làm cô đau nhói.
Mẹ cô, cũng đứng trước một bồn rửa, đang rửa máu dính trên nón của cha cô, và trong lúc cho nước chảy trên đó, bà nói: “Con đừng quá lo Clarice à, mọi việc đều ổn thỏa. Nói với mấy anh và chị con đi rửa tay đi để ăn trưa. Hai mẹ con mình nói chuyện với nhau một lúc rồi sẽ ăn sau.”
Cô lấy khăn choàng ra để cột quanh đầu không khác một bà nữ hộ sinh tỉnh lẻ. Cô lấy trong túi ra một cặp găng tay phẫu thuật. Khi cô mở miệng để nói câu đầu tiên từ khi đến Potter, giọng của cô mang âm sắc giọng mũi khác thường và hơi lớn tiếng đến mức Crawford phải bước lại gần cửa để nghe.
- Này các ông! Xin hãy nghe tôi đây. Bây giờ tôi muốn các ông để tôi ở một mình trong này với cái xác - Cô đưa hai tay về phía trước trong lúc mang bao tay vào. - Tôi có công việc phải hoàn tất vì lợi ích của nạn nhân. Các vị đã đưa cô ta đến đây và tôi biết chắc cha mẹ cô ta sẽ cảm ơn quý vị nếu họ có mặt ở đây. Bây giờ xin quý vị hãy ra hết đi để tôi lo cho nạn nhân.
Crawford thấy họ bỗng nhiên trở nên im lặng và lễ phép, ông nghe họ thì thầm “Thôi nào Jess, chúng ta hãy ra ngoài sân đi”. Crawford nhận thấy không khí cũng đã thay đổi trước sự hiện diện của cái xác: dù nạn nhân là ai đi nữa, dù cô ta đến từ đâu đi nữa, con sông đã đưa cô ta đến cái xó xỉnh này; và giờ đây cô ta nằm đó, bất lực trong cái nhà tang lễ miền quê này và chỉ có Clarice mới có được mối quan hệ đặc quyền với cô ta. Tại nơi này, cô là người thừa hưởng của những người phụ nữ đầy khôn ngoan, những tổ tiên chữa lành được bệnh chỉ với những bà nông dân chất phác trông nom các bệnh nhân và sau đó tắm rửa, mặc quần áo cho những người chết mà thôi.
Bây giờ chỉ còn Crawford, Clarice và vị bác sĩ ở lại với nạn nhân. Bác sĩ Akin và Clarice nhìn nhau như thể họ nhận ra nhau vậy. Thật kỳ lạ, cả hai vừa có vẻ thỏa mãn và vừa ngượng ngùng.
Crawford lấy trong túi ra một hũ dầu VapoRub và đưa cho họ. Thấy vị bác sĩ và ông sếp của mình thoa nó lên ngay trước mũi, cô cũng bắt chước làm theo.
Xoay lưng lại, cô lấy máy chụp hình ra và để nó lên bồn rửa. Cô nghe ở sau lưng cô tiếng dây kéo người ta kéo xuống.
Clarice nháy mắt để nhìn chăm chăm vào các bông hồng trên tường, hít một hơi thật dài rồi thở ra, xong cô mới dám quay đầu lại để nhìn vào cái xác.
- Đáng lẽ người ta phải bọc hai bàn tay cô ta bằng bao giấy mới đúng - cô nói - Đó là điều tôi sẽ làm một khi tôi xong việc. - Thật cẩn thật, theo đúng cách đã học để tách đôi hình ảnh, cô bắt đầu chụp hình.
Nạn nhân là một thiếu nữ có đôi hông rộng, cao một thước sáu mươi. Tại nơi không có da, nước sông đã làm thịt bạc màu, nhưng nước rất lạnh và hiển nhiên cái xác bị ngâm trong đó chỉ vài ngày thôi. Từ một đường thẳng, ngay dưới hai vú cho đến đầu gối, không còn mảng da nào hết; nó tương ứng với phần còn lại của thân thể được cái quần và một sợi nịt lớn che kín.
Giữa hai cái vú nhỏ, ngay trên xương ức, là nguyên nhân rõ ràng gây ra cái chết, một vết thương bị rách thịt hình ngôi sao, lớn bằng một bàn tay.
Cái đầu tròn đã bị lột da.
- Bác sĩ Lecter có báo trước rằng hắn sẽ bắt đầu lột da đầu các nạn nhân - Clarice cho biết.
Crawford, hai tay khoanh lại, đứng nhìn cô chụp hình.
- Hãy chụp các lỗ tai bằng máy Polaroid đấy.
Ông đi quanh cái xác và trề môi. Clarice tháo một bao tay ra để có thể lòn một ngón tay dưới bắp chân cô ta. Một đoạn dây câu có ba lưỡi, đan nhau rối nùi, quấn quanh phần dưới cái chân, đã giữ cái xác trong dòng nước.
- Cô thấy gì, Starling?
- Cô ta không phải là dân ở đây - lỗ tai cô ta được bấm ba lỗ và móng tay có sơn. Lông chân cô ta, ông có thấy là chúng quá mịn không? Tôi nghĩ cô ta nhổ lông chân và lần cuối cùng cách đây hai tuần lễ. Cả nách cũng thế. Hãy nhìn đây, cô ta làm bạc màu lông măng ở môi trên. Đây là một thiếu nữ hay chăm sóc hình thể của mình, nhưng thời gian sau này đã không làm được điều đó.
- Thế còn vết thương?
- Chưa biết nữa. Tôi có thể nói đó là lỗ ra của viên đạn nếu không có vòng ăn mòn và dấu của nòng súng ở phía trên kia.
- Hay lắm, Starling. Đó là lỗ vào của viên đạn, được bắn rất gần xương ức. Sức mạnh của viên đạn, khi xuyên qua xương và da, đã làm thịt nổ banh thành hình ngôi sao quanh cái lỗ.
Nhạc cây đại phong cầm trỗi lên ở bên kia bức tường, lễ tang bắt đầu.
- Một cái chết khủng khiếp - bác sĩ Akin nhận xét với cái gật đầu - Tôi phải đi dự tang lễ này một chút. Gia đình nạn nhân muốn tôi tiễn đưa thi hài cho đến nơi. Lamar sẽ đến giúp quý vị sau khi anh ta đánh xong bản nhạc. Xin các vị hãy giữ nguyên các tang chứng cho tôi để gởi đến ông pháp y ở Claxton, được không ông Crawford?
Khi vị bác sĩ đi rồi, Clarice mới nói:
- Cô ta có hai móng tay bị gãy đến chảy máu ở bàn tay trái, hình như có đất và nhiều hạt gì đó cứng, dưới mấy móng kia. Tôi có thể lấy vài mẩu chứ?
- Hãy lấy vài hạt cát và một ít sơn móng tay. Chúng ta sẽ nói lại chuyện này một khi chúng ta đã có được kết quả.
Lamar, nhân viên của nhà tang lễ, với sắc mặt hồng hào, có lẽ nhờ rượu whisky, bước vào trong khi cô đang lấy mẫu.
- Chắc trước đây cô làm móng thì phải - anh ta nói.
Họ hài lòng khi nhận thấy không có dấu của móng trong lòng bàn tay, dấu hiệu là giống như những người khác, cô ta đã chết trước khi mọi việc khác xảy ra.
- Để lấy dấu vân tay, cô có muốn lật úp cô ta lại không? - Crawford lên tiếng hỏi.
- Như thế sẽ dễ hơn nhiều.
- Hãy bắt đầu bằng hai hàm răng đi, sau đó Lamar sẽ giúp cô lật úp xác nạn nhân xuống.
- Chỉ chụp vài tấm ảnh hay một biểu đồ của răng? - Clarice gắn các thiết bị đặc biệt vào ống kính máy chụp vân tay, và mừng thầm là các dụng cụ cần thiết đều có trong túi xách.
- Chỉ vài tấm hình thôi. Không có phim X quang thì một biểu đồ răng có thể dẫn đến nhầm lẫn đấy. Các tấm hình sẽ giúp cho chúng ta loại bớt hai hoặc ba người mất tích.
Tuân theo các chỉ dẫn của Clarice, Lamar với đôi bàn tay nhạc sĩ, từ từ cạy miệng của nạn nhân ra và kéo môi trên lên trong khi cô đặt máy Polaroid sát vào mặt để chụp cận cảnh các răng phía trước. Với các răng hàm, cô phải cần đến một tấm kính phản chiếu vòm miệng, và canh ánh đèn qua hai cái má, để biết chắc đèn flash chiếu sáng bên trong miệng. Trong lúc học, cô chỉ thấy vị giáo sư pháp y biểu diễn mà thôi.
Clarice chờ cho tấm hình đầu tiên của răng hàm in ra rồi, cô mới chỉnh lại ánh sáng để chụp tiếp. Cái thứ hai rõ hơn và đến cái thứ ba thì hoàn hảo.
- Cô ta có cái gì đó trong cuống họng - Clarice nói.
Crawford nhìn tấm ảnh. Nó cho thấy một vật sẫm màu, hình tròn, ngay đằng sau màn hầu.
- Đưa cho tôi cây đèn.
- Mỗi lần người ta kéo một cái xác ra khỏi nước, có nhiều khi người ta tìm thấy lá hoặc nhiều thứ khác trong miệng - Lamar nói trong khi chiếu đèn cho Crawford nhìn vào trong miệng.
Clarice lấy cái kẹp lớn trong túi xách ra và nhìn Crawford qua cái xác. Ông gật đầu. Cô chỉ mất có một giây để lấy cái đó ra.
- Cái gì thế, một loại vỏ đậu phải không? - Crawford hỏi.
- Thưa ông không, đây là một cái kén của côn trùng. - Lamar nói rất đúng. Clarice bỏ nó vào trong một cái lọ.
- Phải để cho ông kỹ sư canh nông xem qua cái này mới được - Lamar góp ý.
Một khi lật úp cái xác xuống, lấy dấu vân tay trở thành một trò chơi trẻ con. Clarice nghĩ chắc cô sẽ gặp nhiều rắc rối lắm, nhưng rốt cuộc cô không cần phải dùng đến các phương pháp bơm chích tỉ mỉ và phiền toái, cô cũng không cần đến ngay cả bao ngón tay. Cô sử dụng mấy tấm thẻ thật mỏng được gắn trên một dụng cụ hình cái xỏ giày. Như thế cô thu được một loạt hình dấu vân chân để phòng hờ trường hợp để đối chứng, người ta muốn so với những dấu chân được lấy khi đứa bé mới ra đời.
Ở xương vai mất hết hai mảnh da hình tam giác. Clarice tiếp tục chụp hình.
- Cô hãy đo luôn đi, Clarice - Crawford ra lệnh - Hắn đã làm bị thương cô gái ở Akron khi cắt quần áo cô ta; nó còn lớn hơn vết sướt một chút, nhưng nó cũng tương xứng với các vết cắt áo cánh được tìm thấy trên vệ đường. Cái này mới đấy, tôi chưa hề thấy bao giờ.
- Có vẻ như một vết phỏng ở bắp chân - Clarice nhận xét.
- Mấy người già cũng thường bị như thế - Lamar nói xen vào.
- Cái gì? - Crawford thốt lên.
- TÔI NÓI LÀ MẤY NGƯỜI GIÀ CŨNG THƯỜNG BỊ NHƯ THẾ. - Lamar nói lớn.
- Tôi nghe anh mà, tôi muốn anh cắt nghĩa rõ hơn. Chuyện gì với mấy người già vậy?
- Nhiều khi mấy người già chết vì một cái gối hơ nóng trên bụng, và cái này làm cho họ bị phỏng dù nó không nóng lắm. Nhưng khi người ta chết, một cái gối nóng cũng làm phỏng được vậy. Bởi vì ở chỗ đó không còn sự tuần hoàn nữa.
- Chúng ta sẽ yêu cầu ông pháp y ở Claxton kiểm tra xem có phải xảy ra sau khi chết không - Crawford nói với Clarice.
- Có thể là ống xả hơi - Lamar lại nói tiếp.
- MỘT ỐNG XẢ... một ống xả hơi. Lần Billie Pétrie bị bắn chết, người ta thẩy hắn vào trong thùng xe của hắn. Để tìm hắn, người vợ lái xe đi khắp nơi suốt hai, ba ngày như thế. Khi người ta mang hắn về đây, dưới thùng xe, cái ống xả nóng quá mức, đã làm hông hắn bị phỏng. Tôi không bao giờ để thức ăn trong thùng xe, bởi vì nó làm chảy nước đá.
- Đúng là một ý nghĩ tuyệt vời, Lamar; tôi muốn anh làm việc với tôi. Vậy anh có biết những người đã vớt cô ta lên không?
- Là hai anh em Jabbo Franklin và Bubba.
- Họ làm những gì?
- Chúng kiếm chuyện đánh lộn với Moose; chúng thường gây gổ với những người không làm gì chúng. Mỗi khi hắn bước vào trong quán của Moose để uống rượu, hắn thường hay bắt tôi phải đàn bản Filipino Baby cho hắn nghe. Hắn lãnh tiền trợ cấp cựu chiến binh và mỗi năm đều phải đi cai nghiện vào lúc Giáng sinh. Đã từ mười lăm năm rồi, tôi chờ cái ngày thấy hắn nằm trên cái bàn này đây.
- Chúng ta cần tiêm một lượng sérotonine tại những nơi mà lưỡi câu đã móc vào thịt - Crawford nói. - Tôi sẽ viết ít chữ cho vị pháp y mới được.
- Các lưỡi câu nằm sát nhau quá - Lamar nhận xét.
- Anh muốn nói gì vậy?
- Các anh em Franklin dùng dây câu đáy với các lưỡi câu nằm quá sát nhau, là điều bất hợp pháp. Cũng chính vì vậy bọn chúng chờ cho đến sáng hôm nay để gọi điện báo.
- Ông cảnh sát trưởng nói chúng săn vịt kia mà.
- Tôi không ngạc nhiên khi chúng kể như thế. Bọn chúng sẽ nói với ông là chúng cũng có đâu một lần với Duke Keomoka tại Honolulu, và thuộc nhóm của Satellite Monroe. Ông cũng có thể tin điều này nếu ông thích. Ông cứ đi dạo với cái túi dệt và bọn chúng sẽ dẫn ông đi săn chim mỏ nhát nếu đó là loại chim ưa thích của ông. Hơn nữa chúng còn tặng ông thêm một ly rượu nặng rất tồi.
- Thế theo anh, điều gì đã xảy ra?
- Đám anh em Franklin dùng dây câu đáy, và sợi này là của bọn chúng với các lưỡi câu bất hợp pháp. Chúng đang định kéo lên xem có câu được cá không đấy.
- Điều gì khiến anh tin như thế?
- Cô em này chưa tới giờ nổi lên.
- Đúng vậy.
- Nếu chúng không kéo dây câu lên, người ta không thể tìm thấy xác cô này. Bọn chúng về nhà, sợ đến chết người luôn, và cuối cùng họ cũng phải báo cho cảnh sát. Tôi nghĩ chắc ông phải báo cho nhân viên tuần kiểm ngư nghiệp chứ?
- Tôi nghĩ thế.
- Chúng thường lang thang với cái máy điện thoại quay tay giấu dưới băng chiếc xe Ramcharger của chúng; ở đây nếu ông sử dụng thứ đó sẽ bị phạt nặng lắm đấy, nếu không phải đi tù.
Crawford chau mày.
- Để điện thoại cho cá - Clarice cắt nghĩa - Cá sẽ bị giật chết nếu người ta thả hai sợi dây xuống dòng nước chảy và quay tay quay. Chúng sẽ nổi lên mặt nước và chỉ còn việc vớt chúng nữa thôi.
- Đúng phóc - Lamar nói - thế cô ở vùng này sao?
- Nhiều nơi sử dụng cách đó mà - Clarice đáp lại.
Cô rất muốn nói một điều gì đó trước khi họ kéo kín cái túi nhựa lại, làm một cử chỉ hoặc cho thấy rằng cô không dửng dưng. Nhưng cô chỉ lắc đầu và lo dọn dụng cụ vào trong túi xách.
Khi cái xác và những rắc rối không thành vấn đề nữa, cô mới ý thức được công việc mình vừa làm xong. Clarice tháo găng ra và đưa hai tay vào vòi nước. Nước không được mát lắm. Lamar đang đứng nhìn cô, rồi bỏ đi ra ngoài hành lang. Sau đó anh ta trở vào với một lon nước ngọt ướp thật lạnh và đưa cho cô.
- Không, cám ơn - cô nói.
- Không phải để uống đâu, mà hãy để vào sau ót đấy. Cái lạnh sẽ làm cho cô dễ chịu. Với tôi, lúc nào cũng được cả.
Chỉ với thời gian Clarice cần để gắn dính miếng băng keo vào mảnh giấy gởi cho ông pháp y, máy truyền dấu tay để trên bàn bắt đầu kêu lách cách.
Tìm được một nạn nhân quá nhanh như thế, đúng là dịp may hiếm thấy. Crawford muốn nhận diện cô ta ngay để có thể bắt đầu tìm kiếm các nhân chứng của các vụ bắt cóc khác. Phương pháp của ông ta buộc không ít người phải hợp tác, nhưng nó rất hiệu quả.
Crawford có một máy truyền dấu tay hiệu Litton Policefax. Trái với các máy fax kia của FBI, máy Policefax có thể kết nối với hầu hết các sở cảnh sát tại các thành phố lớn. Các phiếu dấu tay mà Clarice đã lắp ráp lại chỉ mới vừa khô thôi.
- Nạp vào máy đi, Starling. Cô rất khéo tay trong vụ này mà.
Nhớ đừng làm bẩn chúng, đó là nghĩa của câu nói trên và Clarice tuân theo. Thật khó để quấn một tấm thẻ được kết nối bằng nhiều miếng nhỏ, quanh một cái trục trong khi sáu máy điện báo đang chờ.
Crawford đang liên lạc với tổng đài của FBI và máy điện báo tại Washington.
- Dorothy, mọi người xong chưa? Tốt rồi quý vị, chúng tôi sẽ mở máy vào đúng một giờ hai mươi, một giờ hai mươi. Các người có đồng ý không? Atlanta, các anh thế nào rồi? Tốt, bắt đầu truyền hình ảnh đi!
Cái máy quay thật chậm để cho hình ảnh rõ nét, vừa gởi dấu tay người chết đến máy điện báo của FBI và cho cả sở cảnh sát vùng phía đông. Nếu Chicago, Detroit, Atlanta hoặc một trong các thành phố khác có được thông tin này, cuộc điều tra sẽ bắt đầu chỉ vài phút sau đó.
Sau đó Crawford gởi hình răng và hình khuôn mặt của nạn nhân với cái đầu được quấn trong một khăn bông để đề phòng trường hợp đám báo chí vớ được những tài liệu này.
Ba thanh tra cảnh sát hình sự của Virginie đến Charleston ngay lúc họ lên đường. Crawford bắt tay họ và phân phối các bản đồ có ghi số bí mật của Trung Tâm Thông Tin Tội Phạm Quốc Gia. Clarice quan sát một cách thích thú hiệu quả mà Crawford có được nhờ biết cách khai thác tình bạn hữu của nam giới. Họ sẽ gọi cho ông ngay khi họ có tin tức gì mới và ông có thể tin tưởng họ được. Tốt rồi, cám ơn ngàn lần. Nhưng đó chưa chắc là tình bạn hữu của nam giới đâu, cô tự nhủ, vì cô cũng có thể làm được việc đó.
Lamar đứng tại cổng, vẫy tay chào tạm biệt trong khi Crawford và Clarice rời xa với viên phụ tá cảnh sát trưởng để đến sông Elk. Lon nước ngọt còn lạnh nên Lamar cầm nó vào trong văn phòng để rót cho mình một ly nước giải khát.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 2-2-2013 21:55:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5

1

Jeff, anh cho tôi xuống phòng thí nghiệm nhé! - Crawford lệnh cho người tài xế - Sau đó anh chờ nhân viên Starling trước cửa Smithsonian. Cô ta sẽ về Quantico.
- Dạ rõ, thưa ông thanh tra.
Họ đến phi trường và băng qua sông Potomac ngược chiều với dòng lưu thông của chiều tối.
Người tài xế trẻ dường như sợ Crawford lắm, nên lái xe với sự cẩn thận quá đáng. Crawford biết điều này; mọi người đều biết, tại trường, người nhân viên cuối cùng dưới quyền của Crawford, đã làm vài chuyện ngu ngốc, hiện giờ đang điều tra các vụ trộm vặt tại các căn cứ ra đa ở vùng Địa Cực.
Tâm trạng của Crawford không được vui. Chín giờ đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc chuyển các dấu tay và hình ảnh, nhưng nạn nhân vẫn chưa được nhận diện. Clarice và ông đã vô vọng khám xét cây cầu và cả các bờ của con sông với cảnh sát của Virginie cho đến khi trời tối.
Tại phi trường, ông có gọi điện để yêu cầu một nữ y tá đêm đến nhà ông.
Chiếc limuzin của FBI êm một cách tuyệt vời so với chiếc Xuồng Xanh; giờ đây người ta có thể nói chuyện mà không cần phải hò hét gì hết.
- Khi đem các dấu tay dấn ban nhận dạng, tôi sẽ đưa qua máy điện báo trực tiếp và máy Latent Descriptor Index - Crawford báo - Anh chuẩn bị cho tôi một bản đính kèm vào hồ sơ. Một bản đính kèm chớ không phải một 302 nghe không! Anh biết làm cái đó chứ?
- Dạ biết.
- Thí dụ tôi là Danh Mục, anh có gì mới để báo cáo cho tôi?
Anh ta cần một ít thời gian để thu gom các dữ liệu. Cũng may lúc đó Crawford có vẻ đang chú tâm đến Đài Kỷ niệm Jefferson họ đang đi ngang qua.
Máy Latent Descriptor Index của hệ thống điện toán nhận dạng so sánh các đặc tính của một vụ án mạng chưa được giải quyết với những thói quen kỳ quặc được biết của các tên giết người được lưu trữ trong bộ nhớ. Nếu nó tìm thấy những điểm tương đồng, nó sẽ đề nghị những tên khả nghi và cho ra các dấu tay của chúng. Đến lúc đó, người ta mới so sánh với những cái được thấy tại hiện trường. Cảnh sát hiện giờ chưa có dấu tay của Buffalo Bill, nhưng Crawford không muốn đứng trước sự bất ngờ.
Hệ thống này cần các chi tiết ngắn gọn và chính xác. Clarice cố làm hết sức mình.
- Phụ nữ da trắng, từ hai mươi tám đến ba mươi hai tuổi, bị giết bằng súng, bụng và đùi bị lột da...
- Starling, Danh Mục biết rõ hắn chỉ giết các thiếu nữ da trắng và lột da họ - phải nói rõ là “lột da”. Nó cũng biết là hắn ném họ xuống sông, nhưng chưa biết có chi tiết mới trong vụ sau cùng. Điều mới là gì vậy, Starling?
- Đây là nạn nhân thứ sáu, và là người đầu tiên bị lột da đầu, người đầu tiên thiếu mất mấy miếng da hình tam giác ở xương bả vai, người đầu tiên có một vết đạn ở ngay ngực, người đầu tiên có một cái kén trong cuống họng.
- Cô quên mất các móng tay bị gãy.
- Thưa sếp không, người thứ hai bị gãy móng tay.
- Cô nói đúng. Nghe đây, trong bản báo cáo cô phải ghi chú rằng cái kén là một chi tiết mật. Chúng ta sẽ sử dụng nó để loại bỏ những lời thú tội không đúng.
- Tôi tự hỏi không biết hắn đã làm chuyện này chưa, bỏ một cái kén hoặc một con côn trùng. Người ta dễ dàng không thấy điều này trong lúc giảo nghiệm, nhất là đối với người chết trôi. Ông biết mà, vị bác sĩ thực hiện cuộc giải phẫu nhận thấy nguyên nhân cái chết, muốn kết thúc cho mau... chúng ta có thể nào kiểm tra chi tiết này không?
- Nếu thấy cần thiết. Các bác sĩ pháp y chắc chắn sẽ nói là họ không bỏ qua bất cứ điều gì. Jane Doe, cô gái ở Cincinnati, vẫn còn trong tủ lạnh của nhà xác. Tôi sẽ yêu cầu họ kiểm tra lại một lần nữa, nhưng bốn người trước thì được chôn cất rồi. Một lệnh quật mồ sẽ làm xôn xao dư luận. Chúng ta buộc phải nhờ đến bốn bệnh nhân đã chết của bác sĩ Lecter, để biết chắc vì sao mà chết đã. Tôi bảo đảm với cô chỉ riêng các gia đình nạn nhân thôi cũng đã gây cho chúng ta không ít rắc rối rồi. Nếu cần tôi sẽ làm như thường, nhưng trước đó, hãy chờ xem chúng ta có được gì với Viện Smithsonian hay không đã.
- Một tên giết người lột da đầu của nạn nhân, hẳn rất hiếm thấy, có phải không?
- Đúng vậy, rất hiếm.
- Nhưng bác sĩ Lecter nói là Buffalo Bill sẽ làm việc đó. Làm sao ông ta có thể biết được chứ?
- Ông ta không biết gì cả.
- Dù sao thì cũng chính ông ta nói ra điều đó mà.
- Việc này không có gì đặc biệt cả, Starling. Về phần tôi, tôi không hề ngạc nhiên chút nào. Tôi có thể nói là hiếm thấy cho đến khi vụ Mengel xảy ra. Cô có nhớ không? Hắn đã lột da người đàn bà đó. Hai hoặc ba tên sát nhân khác liền bắt chước hắn ngay. Báo chí đã đưa ra lời nhận xét trong các bài nói về Buffalo Bill, rằng tên giết người này không hề lột da đầu các nạn nhân của hắn, nên không lạ gì điều này đã gợi ý cho hắn. Ông ta không nói khi nào việc đó xảy ra, vì thế ông ta có ít cơ may để nói sai. Nếu chúng ta bắt được Buffalo Bill trước khi bất cứ một nạn nhân nào của hắn bị lột da đầu, ông ta sẽ nói là chúng ta đã bắt được hắn trước khi hắn thực hiện việc dó.
- Bác sĩ Lecter cũng có nói Buffalo Bill ở trong một ngôi nhà chứ không phải một căn hộ. Về điểm này, chúng ta không có bất cứ một manh mối nào hết. Tại sao ông ta lại nói thế?
- Hai điều này không giống nhau chút nào. Có thể ông ta có lý và ông ta nói cho chúng ta biết tại sao, nhưng ông ta chỉ lòe cô thôi. Đó là điểm yếu duy nhất của ông ta mà tôi biết được.
- Ông ta có nói tôi phải đặt câu hỏi mỗi khi tôi không hiểu... vậy xin ông cắt nghĩa cho tôi đi.
- Đồng ý. Có phải hai nạn nhân đã bị treo cổ không? Dấu dây buộc quanh cổ mà. Xương cổ trật khớp... đó là tất cả các dấu hiệu của một vụ treo cổ. Vì lẽ đó nên mọi người đều biết và kể cả ông ta. Đối với Lecter, rất khó cho một người nào đó làm trái ý nghĩ của ông ta. Có hàng tá người tự treo cổ tại các nắm cửa. Có khi họ tự thắt cổ trong lúc ngồi nữa kìa. Nhưng rất khó để treo cổ một người khác... dù cho nạn nhân có bị trói đi nữa, vì người đó có thể tựa chân vào một cái gì đó. Với một cái thang thì việc này không thể được rồi. Người đó không thể nào tự leo lên các bậc thang với đôi mắt bịt kín và sẽ không bao giờ bước lên đó nếu thấy nút thòng lọng. Cách duy nhất là dùng cầu thang. Nó không làm cho người ta sợ. Người ta có thể cho là người đó đi vệ sinh chẳng hạn, hoặc đưa người đó lên lầu với một cái khăn trùm kín đầu; rồi tròng thòng lọng được cột trên tay vịn cầu thang vào cổ người đó và đẩy người đó té xuống khi bước đến bậc cuối cùng. Người ta chỉ có thể làm việc đó trong một ngôi nhà mà thôi. Một tên ở California đã làm cho màn kịch này trở nên phổ biến đấy. Nếu Bill không có cầu thang, hắn sẽ giết họ bằng cách khác rồi. Bây giờ cô hãy cho tôi biết tên của người phụ tá thứ nhất và vị chỉ huy cao nhất của cảnh sát bang đi.
Clarice tìm thấy các tên này trong cuốn sổ tay bằng cách cắn cây đèn trong miệng.
- Tốt lắm. Khi nào cô thảo tờ báo thị tầm nã, cô đừng quên gọi các nhân viên cảnh sát bằng tên của họ. Khi họ nghe tên của họ, điều đó giúp họ nhớ đến cô và khi họ biết được điều gì mới họ sẽ báo cho cô ngay. Cô nghĩ gì về vết phỏng ở bắp chân?
- Mọi thứ đều tùy thuộc nếu nó xảy ra sau cái chết.
- Và nếu đúng như trường hợp đó thì sao?
- Như thế nghĩa là hắn có một xe tải nhỏ, một xe chở hàng hoặc một xe tải nhỏ không mui.
- Tại sao?
- Bởi vì vết phỏng nằm ngay bắp chân.
Họ vừa đến bộ chỉ huy mới của FBI mà không người nào gọi là Tòa nhà J. Edgar Hoover.
- Ngừng ở đây đi Jeff - Crawford nói - Không cần vô đó. Anh hãy ở ngoài xe, anh chỉ cần mở thùng xe thôi. Nào Starling, hãy chỉ cho tôi coi.
Cô bước xuống trong khi Crawford lấy cặp hồ sơ và máy fax.
- Buffalo Bill chở cái xác trong một chiếc xe khá lớn để có thể cho nạn nhân nằm dài - cô nói - Đó là phương cách duy nhất để cho đôi chân của nạn nhân nằm trên sàn xe, ngay trên ống xả khói. Trong một cái thùng như thế này, cái xác phải được co mình qua một bên, và...
- Đúng vậy, tôi cũng nghĩ sự việc phải xảy ra như vậy.
Đến lúc này Clarice mới hiểu Crawford cho cô xuống xe để có thể nói chuyện chỉ hai người thôi.
- Khi tôi nói với người phụ tá thứ nhất là tôi không muốn trao đổi các chi tiết trước mặt phụ nữ, điều đó có làm cho cô bực mình không?
- Đương nhiên là có rồi.
- Đó chỉ là cái cớ thôi. Tôi chỉ muốn nói chuyện riêng với anh ta.
- Tôi biết.
- Tốt - Crawford đậy nắp thùng xe lại rồi bỏ đi.
- Thưa ông Crawford, thật nghiêm trọng đây.
Ông xoay người lại và chăm chú nghe cô nói.
- Đám cảnh sát biết mặt ông - cô nói tiếp - Họ quan sát mọi hành động và cử chỉ của ông - Nói xong, cô nhún vai và đưa hai bàn tay không ra trước. Điều này đúng và ông không thể chối cãi được.
Crawford xem xét vấn đề một cách lạnh lùng và thật khách quan.
- Tôi sẽ cố ghi nhận điều này, Starling. Bây giờ cô hãy lo cho con vật chết tiệt của cô đi.
- Thưa ông, vâng.
Cô đứng nhìn ông đi xa, một người trung niên, mang nhiều vật dụng, quần áo nhàu nát vì cuộc hành trình, với các lai quần dính đầy bùn của con sông, đang trở về nhà để đương đầu với những gì đang đón chờ ông ta.
Ngay lúc này đây, Clarice có thể làm bất cứ điều gì cho ông. Đó là một phần thiên tư của Crawford.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 3-2-2013 07:35:07 | Chỉ xem của tác giả
2

Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Smithsonian của Washington, đã đóng cửa từ nhiều giờ rồi, nhưng một người bảo vệ vẫn đứng chờ Clarice ở ngay cửa vì Crawford đã điện báo trước.
Tòa nhà được chiếu sáng mờ ảo và bất động một cách kỳ lạ. Không gian chỉ có hình bóng to lớn của bức tượng, đứng đối diện với cửa ra vào.
Người hướng dẫn Clarice, một người da đen cao lớn, mặc đồng phục bảo vệ trắng tinh của Smithsonian. Khi anh ta ngước mặt lên ánh đèn thang máy, Clarice nhận thấy mặt anh ta rất giống với bức tượng. Ý nghĩ phù phiếm này khiến cô thư giãn đôi chút, giống như xoa bóp một cơn chuột rút vậy.
Tầng thứ hai, ngay trên một con voi to lớn trắng được nhồi bông, bị hạn chế với công chúng, là văn phòng của nhân chủng học và côn trùng học. Các chuyên gia nhân chủng học gọi đây là tầng ba, còn đối với những người bên côn trùng học thì đây chỉ là tầng hai. Vài bác học thuộc ban nông nghiệp nói họ có bằng chứng đây là tầng năm. Mỗi bộ phận sử dụng một phần của tòa nhà cũ kỹ cùng các phần phụ thuộc và phần được chia.
Clarice bước theo người hướng dẫn trong một mê cung hành lang không được sáng cho lắm, giữa các thùng gỗ đầy những mẫu vật thuộc nhân chủng học. Trên các nhãn nhỏ có ghi rõ những thứ được chứa đựng trong đó.
- Có hàng ngàn người trong các thùng đó - người bảo vệ cho biết - Bốn mươi ngàn mẫu vật.
Trong lúc bước tới, anh ta dùng cây đèn pin để rọi các số phòng làm việc và cho ánh đèn chạy dài trên các nhãn.
Các dụng cụ mang trẻ con và sọ của người Dayak nhường chỗ cho loài rệp và rời khỏi địa phận Con Người để bước qua một thế giới xưa và có trật tự hơn của loài Côn Trùng. Bây giờ trên tường treo đầy những hộp kim loại lớn được sơn màu xanh lá lợt.
- Ba mươi triệu côn trùng, cộng thêm các loài nhện. Nhưng cô không được gom chúng với nhau - người bảo vệ dặn cô - Các chuyên gia về nhện sẽ không bao giờ tha thứ cho cô đâu. Đây rồi, ngay tại văn phòng có đèn đấy. Nhưng cô đừng có ý định ra về một mình nghe không. Nếu họ không đưa cô về, cô hãy gọi số này đây, đó là phòng bảo vệ, tôi sẽ đến rước cô. - Nói xong anh ta chìa một tấm danh thiếp và bỏ đi.
Cô đang ở ngay trung tâm của bộ phận côn trùng học, trong một hành lang hình tròn, nằm rất cao trên con voi được nhồi bông. Chỉ có văn phòng đèn sáng mới mở cửa.
- Đến phiên mày, Pilch! - Giọng một người đàn ông bị kích thích la lên. - Đến lượt mày đấy.
Clarice đứng ngay thềm cửa. Hai người đàn ông ngồi tại một bàn thí nghiệm đang đánh cờ vua. Khoảng ba mươi, một người gầy tóc nâu, người kia tròn trịa với mớ tóc hung thật dày. Họ chú tâm vào bàn cờ và hình như không nhận thấy sự hiện diện của Clarice. Kể cả của con bọ hung có sừng thật to đang, bò giữa các con cờ.
Khi con vật bò đến bờ của bàn cờ, người gầy thốt lên:
- Đến lượt mày đó Roden!
Người tròn trịa cho con tượng tiến tới và xoay đầu con bọ hung lại để cho nó bò về hướng kia.
- Nếu con vật bò đến ngay góc thì có như thế không?
- Đương nhiên rồi - người tóc hung thốt lên mà không thèm nhìn cô. - Thế cô chơi theo cách nào vậy? Cô cho nó bò qua hết bàn cờ à? Thế đối thủ của cô là ai vậy, một tên lười biếng có phải không?
- Tôi mang một mẫu côn trùng đến như ông thanh tra Crawford đã gọi điện trước đây.
- Tôi không hiểu tại sao chúng tôi không nghe tiếng còi hụ - người tròn trịa đáp lại - Người ta bắt chúng tôi chờ suốt cả đêm để nhận dạng một con côn trùng cho FBI. Côn trùng là lãnh địa của chúng tôi. Không có ai nói đến mẫu của ông thanh tra Crawford cả. Ông ta nên đưa cái mẫu của ông ta cho bác sĩ của ông ta. Đến phiên mày Pilch!
- Lần khác có thể tôi thích xem hai anh đánh cờ đấy - Clarice nói - nhưng đây là một vụ cấp bách.
- Đến lượt anh Pilch!
Người tóc nâu xoay đầu qua nhìn, thấy cô đang đứng tựa vào thành cửa, tay cầm cặp đựng hồ sơ. Anh liền bỏ con bọ hung vào trong một cái hộp có đựng gỗ mục và phủ lên mình nó một lá cải.
Khi anh ta đứng lên cô mới thấy anh ta rất cao.
- Tôi tên Noble Pilcher - anh ta nói - Còn thằng này là Albert Roden. Cô cần nhận diện một con côn trùng phải không? Sẵn sàng phục vụ cô - Khuôn mặt của anh ta thật thân thiện, nhưng có một chút gì đó đáng ngại trong đôi mắt đen tuyền và quá sát gần nhau, có thể một con hơi lé, phản chiếu ánh sáng hơi khác lạ. Anh ta không đưa tay ra bắt. - Cô là...?
- Clarice Starling.
- Bây giờ hãy xem coi cô đem đến cho chúng tôi cái gì đây.
Roden tiến lại gần để nhìn.
- Cô tìm thấy nó ở đâu vậy? Cô đã giết nó bằng khẩu súng của cô rồi phải không? Cô có thấy mẹ của nó không?
Clarice tự nhủ tên Roden này đáng nhận một quả đấm vào ngay hàm mới được.
- Thôi đi - Pilcher nói xen vào - Cô nói cho chúng tôi biết cô tìm thấy nó ở đâu. Nó được đính vào cái gì, một nhánh cây hoặc trên một cái lá, hay nó nằm ngay dưới đất?
- Thì ra chưa ai báo gì cho các anh sao?
- Ông giám đốc có yêu cầu chúng tôi ở lại sau giờ đóng cửa để nhận dạng một con côn trùng cho FBI.
- Có bảo chúng tôi, không có yêu cầu - Roden chỉnh lại - Ông ta bảo chúng tôi ở lại sau giờ đóng cửa.
- Điều này thường xảy ra với chúng tôi - Pilcher nói tiếp - Cho Hải quan hoặc Bộ Nông nghiệp.
- Nhưng chưa bao giờ đến lúc nửa đêm như thế này - Roden nhấn mạnh.
- Tôi phải tiết lộ cho các anh vài điều về một vụ án mạng. Tôi chỉ có thể nói cho các anh biết với điều kiện các anh không được tiết lộ gì hết trước khi nó được giải quyết. Rất quan trọng đây. Có liên quan đến rất nhiều mạng người. Thế thưa bác sĩ Roden, anh có thể hứa với tôi rằng anh sẽ giữ im lặng không?
- Tôi không phải là bác sĩ. Tôi có phải ký một văn hiện gì không?
- Không cần. Lời hứa của anh cũng đủ rồi. Anh chỉ cần ký cho tôi một biên nhận nếu anh muốn giữ mẫu vật này.
- Dĩ nhiên tôi sẽ giúp cô. Tôi không cần biết.
- Còn bác sĩ Pilcher?
- Đúng vậy. Anh ta không cần biết.
- Tôi có thể tin nơi anh chứ?
- Tôi sẽ không nói gì cả.
- Pilcher và tôi không phải là bác sĩ. Nói về bằng cấp, chúng tôi ngang nhau. Nhưng cô nhận thấy là anh ta để cho cô gọi anh ta là bác sĩ - Roden chống ngón cái vào cằm như muốn nhấn mạnh nét nghiêm túc của mình - Cô hãy cho chúng tôi tất cả các chi tiết. Cái cô nghĩ không quan trọng có thể là trọng yếu đối với một chuyên gia.
- Con vật này được tìm thấy trong cuống họng của một phụ nữ bị sát hại... Tôi không biết tại sao. Người ta tìm thấy thi hài ở con sông Elk, Virginie; cô ta chết cách đây vài ngày.
- Chính là Buffalo Bill, tôi có nghe trên đài - Roden nói.
- Người ta có nói đến con côn trùng không?
- Không, nhưng người ta nói tại con sông Elk. Cô đến từ đó, nên đến trễ phải không?
- Đúng.
- Chắc cô mệt lắm rồi. Cô có muốn một tách cà phê không? - Roden đề nghị.
- Không, cám ơn.
- Một ly nước vậy?
- Không mà.
- Hay một lon Coca?
- Không gì hết, cám ơn. Chúng tôi muốn biết người phụ nữ đó bị nhốt ở đâu và bị giết chết tại đâu. Chúng tôi hy vọng con côn trùng này có một kiểu cư trú đặc trưng, hoặc hạn chế về mặt địa lý, các anh hiểu không, chúng tôi muốn biết nó đến từ đâu. Tôi xin các anh giữ mật, bởi vì nếu tên sát nhân đã cố ý đặt con côn trùng tại nơi chúng tôi tìm thấy, thì chỉ một mình hắn biết sự kiện này và chúng tôi dùng nó để loại bỏ những lời thú tội sai trái của hắn ta làm cho chúng tôi mất thời giờ. Hắn đã giết chết ít nhất là sáu phụ nữ, nên chúng tôi phải đua với thời gian.
- Cô có nghĩ hiện giờ hắn đang giữ một người phụ nữ khác trong khi chúng ta đang xem xét con côn trùng này không? - Roden hỏi. - Mắt anh ta trợn trừng và cái miệng há hốc, đến mức cô có thể nhìn thấy bên trong, gợi cho cô một kỷ niệm mới đây.
- Tôi không biết nữa - Giọng cô hơi chói tai - Tôi không biết nữa, - cô lặp lại câu nói ít cảm xúc hơn. - Hắn sẽ bắt đầu lại khi có thể.
- Nếu vậy, chúng ta phải bắt tay cho mau mới được - Pilcher tuyên bố - Cô đừng lo, chúng tôi biết công việc mình phải làm mà. Cô đang ở trong tay những người đáng tin cậy đấy.
Nói xong anh ta dùng cây kẹp dài để lấy cái vật màu nâu ra khỏi cái lọ và để nó xuống một tờ giấy trắng dưới ánh đèn. Anh ta kéo một cái kính lúp thật lớn được gắn trên một tay di động.
Con côn trùng với thân hình dài giống một xác ướp. Một vỏ bọc gần trong suốt mà các đường viền làm cho người ta nghĩ đến một quan tài. Các phần phụ còn đính với thân, có vẻ như được khắc vậy. Cái mặt nhỏ xíu của nó đượm một chút gì đó khôn ngoan.
- Trước hết, đây không phải là một con vật mà trong lúc bình thường, lại chui vào trong một xác chết, và nó không thuộc loại sống trong nước - Pilcher nói - Tôi không biết cô có hiểu chút ít gì về côn trùng không, và nếu cô muốn, chúng tôi cho cô biết tất cả các chi tiết.
- Các anh cứ nghĩ tôi chưa biết gì hết. Hãy cho tôi biết tất cả đi.
- Đồng ý. Đây là một con nhộng loại sâu bọ hai cánh, một con vật chưa thành thục trong cái kén của nó - cái kén chứa đựng nó trong khi nó biến đổi từ ấu trùng thành một con vật trưởng thành - Pilcher giải thích.
- Một cái kén bằng kitin phải không Pilch? - Roden nhăn mũi để đưa cặp kính lên cao.
- Tôi nghĩ đúng vậy. Anh có muốn tham khảo cuốn CHU về các con vật chưa thành thục không? Tốt rồi, đây là loại nhộng trần của một loài lớn đấy. Phần lớn các con côn trùng tiến hóa đều phải trải qua giai đoạn nhộng này. Rất nhiều loài trong số đó phải qua mùa đông như thế này.
- Quyển sách hay kính lúp Pilcher?
- Kính lúp. - Pilcher đặt mẫu vật trên mặt của kính hiển vi và cúi người xuống với que thông trên tay. - Chúng ta bắt đầu: không có cơ quan hô hấp rõ rệt trên vùng bụng và lưng, có lỗ thở ngay ngực giữa và bụng; chúng ta hãy bắt đầu với cái này.
- Coi naaàooo - Roden thì thầm trong khi lật các trang của quyển sách nhỏ - Có hàm chuyên dùng không?
- Không.
- Có hai mảnh ngoài hàm, trên vùng trước bụng không?
- Có, có.
- Râu nằm ở đâu?
- Giáp với bờ trên của cánh. Hai cặp cánh, cái trong bị che phủ hoàn toàn. Chỉ ba đoạn bụng dưới là ở ngoài. Có mấy cơ bìu nhỏ và nhọn, chắc là một loại của họ bộ cánh phấn.
- Đó là những gì quyển CHU cho biết - Roden xác nhận.
- Đây là họ bươm bướm - Pilcher cắt nghĩa - Người ta có thể tìm thấy khắp nơi.
- Sẽ không dễ nếu các cánh vẫn còn ướt. Tôi phải đi tìm sách mới được. Tôi nghĩ chắc không thể ngăn quý vị nói về tôi trong lúc tôi không có mặt.
- Tôi cũng nghĩ như thế - Pilcher đáp lại - Roden là một con người được lắm - anh nói với Clarice, ngay khi người bạn anh ta bước ra khỏi phòng.
- Tôi không nghi ngờ điều dó.
- Thật đấy. - Pilcher có vẻ vui thích - Chúng tôi học chung với nhau; trong thời đại học chúng tôi làm tất cả những việc lặt vặt mà chúng tôi có thể tìm được. Roden tìm được một việc mà anh ta phải ở dưới một mỏ than để canh chừng sự phân rã prôton. Chỉ có điều anh ta ở trong tối quá lâu. Nhưng anh ta khỏe lắm. Với điều kiện là không ai đề cập đến prôton cả.
- Tôi sẽ cố tránh đề tài đó.
Pilcher rời xa vùng ánh sáng chói chang.
- Họ bộ cánh phấn là một họ lớn lắm đấy. Có khoảng ba mươi ngàn loại bươm bướm ngày và một trăm ba mươi ngàn loại đêm. Tôi muốn rút nó ra khỏi cái kén quá đi, buộc phải vậy thôi để thu hẹp phạm vi điều tra.
- Đồng ý. Nhưng anh có thể lấy ra mà không làm hư không?
- Tôi nghĩ là được. Cô hãy nhìn đi, nó bắt đầu muốn chui ra ngoài trước khi chết. Có một vết rách không đều trên cái kén, đây này. Chắc phải mất một ít thời gian.
Pilcher xé cho lớn cái vết rách tự nhiên và thật nhẹ nhàng lôi con côn trùng ra. Hai cánh, còn dính với thân hình, và ướt mèm. Trải hai cánh ra cũng khó như trải một khăn giấy Kleenex ướt được vò thành cục. Không có hình vẽ gì rõ rệt cả.
Roden đã trở lại với mấy quyển sách trên tay.
- Sẵn sàng chưa? - Pilcher hỏi - Tốt lắm. Xương đùi của đốt đầu ở ngực bị che khuất.
- Còn lông thì sao?
- Không có lông. Cô làm ơn tắt ngọn đèn đó được không, cô Starling?
Cô đứng cạnh cái công tắc trên tường, chờ Pilcher bật sang cây bút pin của anh ta và đưa nó ra xa cái bàn để chiếu thẳng vào con vật. Mắt của con côn trùng sáng lên trong bóng tối, phản chiếu lại tia sáng nhỏ bé.
- Một con bướm đêm - Roden lên tiếng.
- Có thể lắm, nhưng là loại nào đây? Nhờ cô bật đèn lại giùm. Đây là loại ngài đêm, cô Starling, một con bướm đêm - Thế có bao nhiêu loại ngài đêm vậy Roden?
- Hai ngàn sáu trăm… và tất cả được mô tả.
- Thường chúng không lớn như thế này. Tốt rồi. Bây giờ hãy cho chúng tôi xem anh biết làm gì đây, anh bạn già của tôi!
Đầu tóc bù xù của Roden bao phủ cái kính hiển vi.
- Bây giờ chúng ta phải xem xét lớp da của nó để tìm được chủng loại, về mặt này, Roden tài lắm.
Clarice có cảm tưởng không khí bây giờ có chút gì đó hòa nhã hơn.
Roden phản ứng lại bằng một cuộc tranh luận thật hăng say với Pilcher về cách bố trí các cục u của thời ấu trùng trên con vật mẫu, có được xếp thành hình tròn hay không. Và cuộc tranh luận trở nên sóng gió khi đề cập đến sự hiện diện của lông trên bụng.
- Con Erebus odora - cuối cùng Roden kết luận.
- Chúng ta hãy đi kiểm tra xem - Pilcher nói.
Mang con vật mẫu theo, họ dùng thang máy xuống tầng có con voi trắng và bước vào một phòng tứ giác chứa đầy hộp màu xanh lá. Đây là một hành lang rộng lớn được chia thành hai tầng để có thể tạo đủ chỗ cho loại côn trùng của viên Smithsonian. Họ bước đến chỗ dành cho bướm đêm. Pilcher coi lại các ghi chú của mình và dừng lại ngay trước một cái hộp cao khoảng một mét rưỡi.
- Chúng ta phải thật cẩn thận với những thứ này - anh ta nói trong lúc tháo cánh cửa nặng bằng kim loại để đặt nó xuống đất - Nếu chẳng may nó rớt xuống chân thì không thể nào đặt chân xuống đất trong nhiều tuần lễ đấy.
Anh ta cho ngón tay trỏ chạy trên các ngăn tủ, rồi chọn một cái và kéo nó ra.
Clarice nhìn thấy nhiều trứng bé nhỏ và một cái kén trong một ống đựng đầy cồn và một con côn trùng trưởng thành làm mẫu. Một con bướm lớn màu nâu đậm, thân hình lông lá, hai cái râu mảnh mai, có chiều ngang khoảng mười lăm phân.
- Con Erebus odora đây rồi - Pilcher nói - Con phù thủy đen.
Roden lật vài trang.
- Một loại của miền nhiệt đới, mà khi đến mùa thu, đi ngược lên tận Canada - anh ta đọc.
Ấu trùng sống trên cây keo và những loại cây tương tự. Có nguồn gốc từ đảo Ăng ti và miền nam Hoa Kỳ, được xem là có hại tại Hawaii.
Mẹ kiếp, Clarice thầm chửi.
- Thật điên rồ - cô nói lớn tiếng - Nó được tìm thấy ở khắp mọi nơi sao!
- Đợi một chút coi... đúng, ở miền cực nam Florida và miền nam Texas.
- Khi nào?
- Vào tháng năm và tháng tám.
- Coi nào... cái mẫu của cô phát triển nhiều hơn cái của chúng tôi và rất mới. Nó bắt đầu xé rách cái kén để chui ra. Tại quần đảo Ăng ti và Hawaii thì tôi có thể hiểu được, nhưng tại đây đang là mùa đông. Đáng lý nó còn phải chờ thêm ba tháng mới có thể bay được. Trừ phi việc đó xảy ra tình cờ trong một nhà kính, hoặc có ai đó nuôi nó.
- Nuôi bằng cách nào?
- Trong một cái lồng trong không khí nóng với lá keo để cho ấu trùng có đủ thời gian tạo thành kén. Không khó chút nào.
- Đó là cách tiêu khiển phổ biến không? Ngoài những người chuyên nghiệp, có nhiều người khác làm như thế không?
- Không, chỉ duy nhất các nhà côn trùng học đang cố thu được những con hoàn hảo, có thể vài nhà sưu tầm nào đó. Ngoài ra còn có công nghiệp tơ lụa, họ cũng nuôi loại bướm đêm, nhưng không phải là loại này.
- Chắc phải có loại sách chuyên môn và các hội đoàn bán trang thiết bị chứ!
- Đương nhiên và chúng tôi nhận được phần lớn là các ấn phẩm đó.
- Tôi sẽ soạn cho cô một mớ - Roden nói - Hai hay ba đồng nghiệp của tôi có đặt mua dài hạn loại ấn phẩm đó. Họ khóa chúng trong tủ và ai muốn xem qua đều phải trả hai mươi lăm xu. Với những người này, chúng ta phải chờ đến sáng mai.
- Tôi sẽ cho người đến lấy, xin cám ơn, anh Roden.
Pilcher cho chụp lại các tham khảo liên quan đến con Erebus odora và đưa cho cô cùng con vật.
- Tôi sẽ đưa cô xuống dưới.
Họ đứng chờ thang máy.
- Phần nhiều, người ta thích bươm bướm ngày hơn và ghét loại bướm đêm - anh cho biết. Nhưng những con này lại... lý thú hơn, đáng chú ý hơn.
- Và cũng tàn phá hơn.
- Chỉ vài loại, có thể là nhiều hơn, nhưng chúng có nhiều cách sống khác nhau. Như chúng ta vậy. - Im lặng suốt một tầng lầu - Có một loài - đúng ra là hơn một - chỉ sống nhờ nước mắt mà thôi. Chúng chỉ ăn và uống nước mắt, không gì khác hết.
- Loại nước mắt gì? Nước mắt của ai vậy?
- Của loài động vật có vú to xác. Như chúng ta vậy - Hồi xưa, bất cứ thứ gì thuộc về đêm đều được xem là ác hại... Đây là công việc chính của cô sao, việc truy lùng Buffalo Bill đấy?
- Tôi cố hết sức mình.
Pilcher đưa lưỡi liếm môi, giống như con mèo chui xuống cái mền vậy.
- Cô có khi nào ra ngoài để ăn một cái bánh mì kẹp pho mát và uống một chai bia, hoặc một ly rượu vang ngon không?
- Những lúc sau này thì không.
- Cô nghĩ sao nếu tôi mời cô đi uống một ly gì đó với tôi ngay bây giờ? Có một quán nước không xa đây.
- Không được, nhưng chính tôi sẽ mời anh một khi công việc này kết thúc... đương nhiên là cả anh Roden nữa.
- Điều này không có vẻ gì là tự nhiên cả - Pilcher đáp lại - Và khi đến thềm nhà, anh nói tiếp - Tôi hy vọng cô sớm kết thúc vụ này, cô Starling.
Cô hối hả bước đến chiếc xe đang chờ cô.
Clarice thấy thư tín và nửa thanh sôcôla trên giường mình. Ardelia Mapp đã ngủ rồi.
Cô đem máy đánh chữ xuống hầm giặt quần áo, để một tờ giấy trắng có giấy than vào trong máy. Cô đã sắp xếp lại trong đầu các thông tin về con Erebus odora trên đường về Quantico, và ngay lúc này cô thảo thật nhanh bản báo cáo của mình.
Sau đó cô ăn phần sôcôla và viết một tin ngắn cho Crawford đề nghị ông đối chiếu các danh sách những người đặt mua các ấn phẩm về côn trùng học của những thành phố gần nơi xảy ra các vụ bắt cóc, với những kẻ phạm tội của FBI cộng thêm hồ sơ của các tên tội phạm về tính dục của Metro Dade, San Antonio và Houston, nơi mà loài bướm đêm rất dễ tìm.
Còn một việc quan trọng cô không thể quên là: hỏi Lecter tại sao ông ta nghĩ tên sát nhân bắt đầu lột da đầu các nạn nhân.
Cô trao bản báo cáo cho người bảo vệ đêm và đi ngủ trong khi vẫn nghe thì thầm các giọng nói của suốt ngày nay và hơi thở nhẹ nhàng của Ardelia. Trong sự lúc nhúc của những hình ảnh trong đêm tối, cô thấy cái khuôn mặt nhỏ bé thật khôn ngoan của con bướm đêm. Đôi mắt như phát sáng này đã nhìn thấy được mặt của Buffalo Bill.
Ngoài hình dáng khôi hài mà viện Smithsonian luôn để lại, trong đầu cô xuất hiện cái ý nghĩ cuối cùng, đoạn kết của ngày làm việc: Trong cái thế giới lạ lùng này, phân nửa cái thế giới hiện tại đang chìm trong bóng đêm, tôi phải truy tìm một vật gì đó sống bằng nước mắt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 3-2-2013 07:36:26 | Chỉ xem của tác giả
3

Tại Memphis, bang Tennessee, Catherine và bạn trai của cô đang ngồi trong nhà của anh chàng, xem chương trình tivi và hút vài hơi cần sa. Các đoạn quảng cáo càng lúc càng nhiều hơn.
- Em hơi đói đây, anh có muốn em đi lấy bắp rang không? - cô hỏi.
- Để anh đi cho, đưa chìa khóa đây.
- Anh ngồi yên đó. Bằng mọi cách em phải kiểm tra xem mẹ có gọi không đã.
Catherine Baker Martin đứng lên khỏi cái đi văng. Cô là một thiếu nữ cao lớn, thể tạng rất tốt, da thịt rắn chắc, với khuôn mặt đẹp và tóc thật dày. Cô tìm đôi giày dưới cái bàn thấp và ra khỏi nhà.
Cái đêm tháng Hai này ẩm và lạnh hơn. Một ít sương mù đến từ sông Mississipi, trôi bồng bềnh ngang tầm người trên bãi đậu xe rộng lớn. Tại điểm cao nhất trên đường chân trời, cô thấy một vầng trăng lưỡi liềm nhỏ bé, nhợt nhạt và cong như một lưỡi câu bằng xương. Ngước đầu lên để nhìn như thế làm cho cô choáng váng. Cô bước ra bãi đậu xe, đi về cánh cửa nhà cô cách đó khoảng một trăm thước.
Một chiếc xe tải màu nâu đậu gần đấy, giữa các xe cắm trại và các rờ moọc tàu. Cô để ý đến nó vì giống các xe giao hàng thường đem các thùng quà biếu của mẹ cô.
Lúc cô đi ngang qua đó, một ánh đèn được bật sáng trong sương mù… Trên mặt đường, có một chân đèn có chụp, chiếu sáng một ghế bành được bọc bằng vải có in hình bông hoa đỏ thật lớn, giống như chúng vừa mới nở trong sương mù.
Catherine nháy mắt nhiều cái và tiếp tục bước đi. Nó có vẻ siêu thực quá, cô nghĩ có thể là do cỏ mà ra. Nhưng hình ảnh đó vẫn cứ kéo dài. Chắc một người nào đó đang dọn nhà đến. Hoặc dọn đi không chừng. Có nhiều người làm như thế tại Khu Biệt Thự Stonehinge. Bức rèm nhúc nhích và cô thấy con mèo của cô đang cong lưng, cọ mình vào kính cửa sổ.
Ngay lúc cô muốn đút chìa vào trong ổ khóa, cô xoay đầu lại. Một người đàn ông bước xuống từ phía sau xe. Trong ánh đèn, cô thấy một cánh tay gã bị băng bột và treo trên băng chéo. Cô vào trong nhà và đóng cửa lại.
Catherine vén màn cửa sổ nhìn ra; người đàn ông đó cố kéo chiếc ghế bành lên xe tải. Gã giữ nó bằng cánh tay lành lặn và cố nhấc cái ghế lên bằng cái đầu gối. Cái ghế rớt xuống. Gã đứng lên và chùi ngón tay dính đất vào quần.
Cô bước trở ra.
- Để tôi giúp ông một tay - Cô nói bằng một giọng ân cần.
- Thật thế sao? Xin cảm ơn - Một giọng hết sức căng thẳng. Không phải giọng của dân địa phương.
Ánh đèn chiếu sáng phần dưới mặt gã, làm biến dạng các nét, nhưng cô thấy rất rõ thân hình của gã. Gã mặc quần kaki được ủi thẳng và một loại áo da nai được mở rộng trước ngực đầy tàn nhang. Cằm và gò má hoàn toàn trơ trụi, láng như da của đàn bà vậy; hai mắt chỉ là hai điểm long lanh trong vùng tối của gò má.
Gã nhìn cô chăm chăm và điều này làm cô bối rối. Khi cô bước lại gần họ, nhiều khi cánh đàn ông phải ngạc nhiên vì thân hình của cô và có người che giấu phản ứng của mình hay hơn người khác.
- Tốt lắm - Gã nói.
Người gã thoát ra một mùi vô cùng khó chịu và cô nhận thấy trên áo gã dính đầy lông, mà vài sợi trên vai và ở cánh tay đều quăn.
Họ dễ dàng khiêng cái ghế lên sàn của chiếc xe tải.
- Chúng ta hãy đẩy nó về phía trước, cô nhé! - Gã leo vào bên trong để dịch chuyển vài món đồ, vài cái chậu lớn người ta thường dùng để thay nhớt xe và một cái tời nhỏ quay tay.
Họ đẩy cái ghế bành đến sát các băng ghế.
- Quần áo cô mặc là cỡ bốn mươi bốn phải không? - Gã hỏi.
- Xin lỗi, ông muốn nói gì?
- Cô có thể đưa cho tôi cuộn dây thừng được không? Ngay dưới chân cô đó.
Khi cô vừa khom người xuống, gã đập vào ót cô bằng cánh tay băng bột. Cô tưởng mình vừa đụng đầu, và cánh tay bó bột đó đập một lần nữa. Gã tiếp tục đánh, lần này ngay phía sau lỗ tai, nhưng không mạnh lắm, cho đến khi cô té nhào trên cái ghế bành, lăn xuống sàn xe và nằm bất tỉnh.
Người đàn ông đứng canh cô một lúc, sau đó tháo miếng băng bột và cái khăn chéo ra. Hắn nhanh chóng thu hồi cái đèn và đóng cánh cửa sau xe lại.
Hắn xoay người Catherine lại và với ngọn đèn pin nhìn số của chiếc áo cánh.
- Hay lắm, hắn thốt lên.
Hắn cắt đôi cái áo ở phía sau lưng bằng kéo y khoa và lấy cái áo ra, kế đến còng hai tay cô ra sau lưng. Hắn trải một bấm bạt xuống sàn xe và quấn nó quanh người cô.
Cô không mặc áo lót. Hắn dùng ngón tay sờ nắn hai vú to lớn của cô, để đánh giá sức nặng và độ mềm dẻo của chúng.
- Hay lắm.
Cô có một vết mút hồng ở ngay vú trái. Hắn liếm ngón tay mình để chà lên đó, giống như cách gã đã làm với cái ghế bành và gật đầu khi thấy cái vết đó từ từ biến mất. Hắn mới lật người cô lại và xem xét cái sọ bằng cách bới mớ tóc dày của cô. Miếng băng bột có nhồi bông không làm cho cô bị thương.
- Hhhaaay lllaắmm - hắn lặp lại. Hắn còn phải thực hiện một chuyến đi rất dài để về đến nhà và hắn nghĩ không cần phải băng cô ta lại.
Tại cửa sổ, con mèo của Catherine Baker Martin nhìn ánh đèn sau của chiếc xe xa dần.
Điện thoại reo lên phía sau nó. Trong phòng ngủ, máy trả lời ghi nhận cuộc gọi khi ngọn đèn báo đỏ nhỏ chớp tắt trong bóng tối,
Mẹ của Catherine vừa gọi và bà là thượng nghị sĩ của bang Tenessee, người trẻ nhất của Hoa Kỳ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 3-2-2013 08:05:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

1

Trong thập niên tám mươi, thời đại vàng son của bọn khủng bố, tất cả mọi thứ được chuẩn bị để đương đầu với bất cứ cuộc bắt cóc nào liên quan đến một thành viên của Quốc hội.
Vào hai giờ bốn mươi lăm sáng, nhân viên chỉ huy văn phòng FBI tại Memphis, báo về bộ chỉ huy Washington việc cô con gái duy nhất của Thượng nghị sĩ Ruth Martin được ghi nhận mất tích.
Đến ba giờ, hai chiếc xe thùng không dấu hiệu đặc biệt chui ra khỏi gara hần Buzzard Point, căn cứ hoạt động tại Washington. Một chiếc tiến về Quốc hội, nơi các chuyên gia đưa hệ thống điện thoại của thượng nghị sĩ Martin vào chế độ nghe lén, cùng các phòng điện thoại công cộng quanh đó. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đánh thức người nhân viên trẻ nhất của Ban An ninh của Quốc hội để ông ta ký giấy phép cần thiết.
Chiếc xe được trang bị kính phản chiếu và toàn bộ thiết bị canh chừng, đến đậu trên Đại lộ Virginia để chặn lối ra vào cổng chính Tòa nhà Watergate, nơi cư ngụ của thượng nghị sĩ Martin. Hai trong số người trên xe, đi vào tòa nhà để lắp đặt hệ thống nghe lén các điện thoại cá nhân của bà Thượng nghị sĩ.
Theo công ty điện thoại Bell Atlantic, thời gian cần thiết để truy ra bất cứ một cuộc gọi nào qua trung tâm điện thoại điện tử được ước tính là sáu mươi giây.
Biệt đội phản ứng nhanh tăng đôi số nhân viên để phòng hờ trường hợp có việc đòi tiền chuộc trong vùng Washington. Tất cả các cuộc trao đổi bằng điện đài đều được mã hóa để tránh sự hiện diện qua báo chí cho việc giao nộp tiền chuộc khả dĩ. Các phương tiện truyền thông đại chúng luôn tỏ ra vô trách nhiệm như đã từng xảy ra.
Biệt đội chống khủng bố được đặt trong tình trạng báo động thường trực, sẵn sàng cất cánh bất cứ lúc nào!
Mọi người đều hy vọng Catherine Baker Martin bị bọn chuyên nghiệp bắt cóc để đòi tiền chuộc, bởi với giả thuyết này có nhiều cơ may sống sót hơn.
Không một ai nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Một ít lâu sau khi trời sáng, một cảnh sát viên tại Memphis, đang truy tìm một kẻ rình mò được các cư dân trên Đại lộ Winchester bắt gặp, có chặn hỏi ông già lượm rác ở một vệ đường. Trên chiếc xe đẩy của ông, có một áo cánh phụ nữ hàng nút trước ngực còn được cài nhưng phần sau lưng bị cắt đôi. Nhãn hiệu của tiệm giặt ủi cho phép kết luận đây là áo của Catherine Baker Martin.
Jack Crawford vừa rời khỏi nhà ông, và đúng sáu giờ ba mươi sáng, điện thoại trên xe ông reo lần thứ nhì trong vòng hai phút.
- Chín hai mươi - hai bốn mươi.
- Bốn mươi, tôi chuyển Alpha 4 cho anh.
Crawford nhìn thấy một chỗ đậu xe trống và lái vào đó đậu lại để chú tâm vào cuộc gọi. Alpha 4 là ông giám đốc FBI.
- Jack, anh biết chuyện gì đã xảy ra với Catherine Martin không?
- Tôi vừa được nhân viên trực báo đây.
- Thế anh nghĩ gì về chiếc áo cánh?
- Buzzard Point đang trong tình trạng sẵn sàng can thiệp, và họ cũng đang kiểm soát hệ thống điện thoại. Áo cánh có bị cắt đôi không, chúng ta cũng chưa chắc đó là Bill. Nếu một tên nào đó bắt chước hắn ta, hắn sẽ đòi tiền chuộc. Thế ai đang canh chừng việc nghe lén và lục soát căn hộ, cảnh sát tiểu bang hay là chúng ta?
- Cảnh sát tiểu bang. Họ rất hữu hiệu. Phil Adler vừa gọi từ Nhà Trắng để cho tôi biết tổng thống “đang theo sát” vụ điều tra. Thêm một chiến tích khác của chúng ta sẽ không hại gì đâu, Jack à.
- Tôi cũng đã nghĩ đến điều này. Thế bà Thượng nghị sĩ đang ở đâu?
- Trên đường đến Memphis. Bà ta vừa gọi đến nhà tôi. Chắc tôi không cần phải nói nhiều với anh chứ?
- Tôi cũng nghĩ thế - Crawford đã gặp Thượng nghị sĩ Martin nhiều lần trong các buổi họp về ngân sách.
- Bà ta sẽ sử dụng đến ảnh hưởng của mình.
- Không thể trách bà ta về việc đó được.
- Đương nhiên rồi. Tôi nói với bà ta là chúng tôi sẽ làm hết mình, như chúng ta đã làm trước đây. Bà ta... bà ta biết tình trạng hiện nay của anh và để sẵn một chiếc phản lực Lear cho anh sử dụng. Hãy dùng nó, và trở về nhà anh vào lúc tối, nếu có thể được.
- Tốt lắm. Bà Thượng nghị sĩ là một người bướng bỉnh. Một khi bà ta muốn nhúng tay vào thì sẽ có đụng độ đấy.
- Tôi biết. Nếu thấy cần, anh cứ việc gọi trực tiếp cho tôi. Thế chúng ta có bao nhiêu thời gian vậy, Jack? Sáu đến bảy ngày phải không?
- Tôi không biết nữa. Nếu hắn hoảng hốt khi biết Catherine là ai, hắn có thể giết chết cô ta và thả xuống sông.
- Anh đang ở đâu vậy?
- Cách Quantico ba cây số.
- Thế một chiếc Lear có thể đáp xuống Quantico không?
- Được.
- Vậy trong hai mươi phút nữa nhé.
- Thưa ông, vâng.
Crawford quay một số điện thoại rồi cho xe chạy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 3-2-2013 08:08:19 | Chỉ xem của tác giả
2

Khó chịu trong người vì ngủ không yên giấc. Clarice Starling mặc áo ngủ và mang hài, với cái khăn trên vai đang chờ phòng tắm. Tin của vụ bắt cóc làm cho cô muốn nín thở.
- Trời ơi - cô thốt lên. Không được. Trong đó đủ rồi, nghe không! Phòng tắm đã bị bao vây. Hãy bước ra ngoài với quần lót cầm trên tay. Đây không phải là một cuộc diễn tập! Cô bước vào buồng tắm trước vẻ ngỡ ngàng của người đang chiếm cứ.
- Mày cút khỏi đây đi Gracie và để cục xà phòng lại cho tao.
Tai lắng nghe chuông điện thoại, cô chuẩn bị túi du lịch và để túi dụng cụ pháp y gần cánh cửa. Cô báo cho tổng đài biết cô hiện đang ở trong phòng mình và không đi ăn sáng. Không ai gọi hết. Mười phút sau giờ học, cô hối hả chạy đến Khoa nghiên cứu về thái độ con người.
- Ông Crawford đã lên đường đi Memphis cách đây bốn mươi lăm phút - cô thư ký nói với cô bằng một giọng nhỏ nhẹ - Burroughs cũng thế. Và cả Stafford của phòng thí nghiệm nữa.
- Ngày hôm qua tôi có nộp cho ông ta một bản báo cáo. Thế ông ta có để lại tin nhắn nào cho tôi không? Tên tôi là Clarice Starling.
- Vâng, tôi biết cô là ai mà. Tôi có ba thẻ với số điện thoại của cô và có nhiều cái khác nữa trên bàn làm việc ông ta. Không, ông ta không có để gì cho cô cả - Người phụ nữ nhìn mớ hành lý của Clarice - Nếu ông ta gọi về, tôi có phải nói gì với ông ta không?
- Ông ta có một số điện thoại nào đó tại Memphis không?
- Không. Chính ông ta sẽ gọi về. Thế cô không có giờ học trong ngày hôm nay sao? Cô còn là sinh viên có phải không?
- Đúng. Đúng. Đương nhiên rồi.
Sự trở lại lớp học muộn màng của Clarice không được dễ dàng cho lắm trước sự hiện diện của Gracie Pitman, người bạn mà cô đã tống khứ ra khỏi buồng tắm. Con đường đến chỗ ngồi của mình đối với Clarice dài vô tận. Cái lưỡi của Gracie có đủ thời giờ để xoay hai vòng trong miệng trước khi Clarice có thể hòa lẫn trong lớp học.
Bụng đói meo, cô phải ngồi đó hai tiếng đồng hồ để nghe bài giảng về “trát khám xét thiện ý, không kể đến quy tắc loại trừ trong trường hợp khám xét có bắt giữ người”, trước khi có thể mua một cái gì đó tại máy bán tự động.
Đến trưa, cô nhìn vào ngăn thư của mình nhưng không có tin nhắn nào cả.
Một ngày nào đó, khi người ta thức dậy và cảm thấy hoàn toàn đổi khác. Đối với cô, hôm nay là một ngày như thế. Cái xác trong nhà tang lễ tại Potter đã gây cho cô cảm tưởng như một sự trượt đất kiến tạo vậy.
Clarice có bằng cấp về tâm lý học và tội phạm học. Cuộc đời đã dạy cho cô rằng cái thế giới gớm ghiếc này đã ung dung tiêu hủy vài vật nào đó. Nhưng cô thật sự chưa bao giờ thử nghiệm cả. Giờ thì cô biết rồi: đôi khi một đôi vợ chồng cho một đứa trẻ ra đời với khuôn mặt bình thường, nhưng trí tuệ nó méo mó đến mức sự thỏa mãn các ham muốn của nó kết thúc bằng những gì cô thấy được trên cái bàn bằng sứ tại Potter, Virginie, trong một căn phòng được trang trí bằng những bông hồng to như bắp cải. Nhưng cái trí tuệ đó chắc còn tệ hại hơn các báo cáo giảo nghiệm. Chắc nó phải cứng rắn hơn sự hiểu biết được khắc sâu trong đó, nếu không vết thương đó không bao giờ lành được.
Công việc thường ngày của trường không giúp gì được cho cô. Cô có cảm tưởng sự thật thường nhật vẫn còn ở đâu đó tại chân trời; cô nghe được tiếng thì thầm mênh mông của nó giống như tiếng xì xào của một sân vận động xa xôi. Một tiếng động nhỏ cũng làm cho cô giật mình như tiếng của một đám sinh viên di chuyển ngoài hành lang, bóng của một cụm mây lướt trên sàn nhà, tiếng của một chiếc phi cơ.
Sau các tiết học, Clarice chạy rất nhiều vòng quanh các đường, sau đó cô đi bơi, cho đến khi hình ảnh của những người chết trôi làm cho cô không thể chịu được nước nữa.
Cô xem chương trình tin tức lúc bảy giờ tối với Ardelia cùng một chục sinh viên khác. Lúc đầu không có tin tức gì về vụ cô con gái của Thượng nghị sĩ Martin bị bắt cóc, nhưng bản tin đó đến ngay sau tin về hội nghị về giải trừ quân bị tại Genève.
Nó bắt đầu bằng một cảnh Khu Biệt Thự Stonehinge, được quay với một đèn chiếu của xe cảnh sát. Giới truyền thông, muốn khai thác tối đa vụ này và vì chưa có gì mới cả, nên cánh phóng viên phỏng vấn lẫn nhau ngay bãi đậu xe. Các giới chức có thẩm quyền của Memphis và quận Shelby, khó chịu trước những hàng micro, cúi đầu trước sự tấn công tàn bạo và ồn ào của các đèn flash và hiệu ứng Larsen, nói ra những điều mà họ không hề biết. Khi các điều tra viên bước vào hoặc ra khỏi nhà của Catherine Baker Martin, đám phóng viên ảnh đang núp chui đầu qua khe cửa để sau đó lui bước thật mau giữa các máy quay phim mini của truyền hình.
Một tiếng reo hò ngắn vang lên trong phòng giải lao của trường khi gương mặt của Crawford hiện lên ở khung cửa sổ căn hộ. Clarice chỉ cười mỉm.
Không biết Buffalo Bill có xem chương trình này không. Hắn sẽ nghĩ gì khi thấy mặt của Crawford? Chắc hắn không biết ông là ai đâu.
Những người khác đều nghĩ thế nào Buffalo Bill cũng xem chương trình này. Kế đến người ta thấy thượng nghị sĩ Martin được quay trực diện, một mình trong căn phòng con gái bà; trên tường, một lá cờ hiệu của Trường Đại Học Southwestern, các hình trang trí và một bản văn về sự bình đẳng của các quyền lợi.
Bà là một người to lớn với những nét thô kệch, không duyên dáng.
- Tôi xin nói với người đang bắt giữ con gái tôi. - Bà tiến lại gần máy quay phim hơn, gây ra một hình ảnh mờ bất ngờ, và nói như thể bà không phải đang nói chuyện với một tên khủng bố. - Nếu anh muốn, anh có thể thả con gái tôi ra về bình yên vô sự. Nó tên Catherine. Nó rất dễ thương và tính tình rộng rãi. Tôi van xin anh, hãy thả con gái tôi đi; tôi van anh đấy, hãy thả nó ra và đừng có làm hại nó. Anh đang làm chủ tình hình. Chính anh là người chỉ huy. Tôi biết anh có thể biểu lộ tình thương và lòng trắc ẩn. Anh có thể che chở nó chống lại bất cứ điều gì có thể làm tổn thương đến nó. Anh có cơ hội thật tuyệt vời để chứng minh cho thế giới thấy được anh cũng có thể biểu hiện được lòng nhân từ của anh và anh cũng đủ cao thượng để đối xử với những người khác tốt hơn cách mà thế giới đã đối xử với anh. Con gái tôi tên Catherine.
Bà thượng nghị sĩ quay mặt khỏi máy quay trong khi đài truyền hình chiếu một đoạn phim cho thấy một bé gái đang chập chững bước đi, tay nắm vào mớ lông dày của một con chó chăn cừu xứ Êcốt.
- Phim này cho thấy Catherine khi nó còn bé. Hãy thả nó ra đi - bà thượng nghị sĩ lặp lại - Hãy thả nó ra bình yên vô sự, bất cứ ở đâu, và tôi xin hứa sẽ giúp đỡ và xem anh như người bạn thân thiết của tôi.
Tiếp đến là một loạt ảnh Catherine Martin lúc tám tuổi, trên tay lái của một chiếc thuyền buồm; chiếc tàu đang nằm trong ụ và người cha đang sơn tàu lại. Hai tấm hình mới chụp gần đây, một chụp đứng thẳng người còn cái kia thì chụp gần.
Khuôn mặt của bà thượng nghị sĩ chiếm lại màn hình.
- Tôi xin hứa trước toàn quốc tôi sẽ giúp đỡ anh không có bất cứ một hạn chế nào, mỗi khi anh cần. Tôi có đủ khả năng để làm việc đó. Tôi là Thượng nghị sĩ nước Hoa Kỳ, và là thành viên của Ủy Ban các lực lượng vũ trang. Tôi đang tham gia rất tích cực cái mà người ta gọi là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nếu có một ai đó xen vào công việc của anh, tôi sẽ chấm dứt việc đó. Anh có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào, cả đêm lẫn ngày. Con gái tôi tên Catherine. Tôi van anh đấy, hãy cho thấy sức mạnh của anh đi. Hãy thả Catherine ra về bình yên vô sự.
- Trời ơi, thật độc đáo quá - Clarice thốt lên. Cô đang run như tàu lá. - Không thể nào tài hoa hơn thế được.
- Cái gì? Về chuyện “Chiến Tranh Các Vì Sao” hả? - Ardelia hỏi - Nếu người ngoài hành tinh đang cố kiểm soát những ý nghĩ của Buffalo Bill từ hành tinh xa xôi của chúng, ngài Martin có thể che chở cho hắn ta sao, đó là lời bịp bợm của bà ta sao?
Clarice gật đầu xác nhận.
- Những người tâm thần phân liệt kiểu hoang tưởng có loại ảo giác đó: họ nghĩ cái thế giới này bị đám người ngoài hành tinh kiểm soát. Nếu đó là kiểu suy nghĩ của Buffalo Bill, có thể điều này sẽ làm cho hắn chui ra khỏi hang. Bà ta phi thường quá phải không? Cho là điều tệ hại nhất đi nữa, hắn cũng cho Catherine được vài ngày an toàn. Cả luôn cảnh sát. Mà có thể không. Crawford nghĩ hắn sẽ giữ họ trong một thời gian ngày càng ngắn hơn. Nhưng người ta có thể thử điều này và cả nhiều việc khác nữa.
- “Tôi sẽ thử mọi cách, nếu nó liên quan đến con gái tôi”. Tại sao bà ta cứ lặp đi lặp lại tên “Catherine” vậy? Tại sao cứ nhắc mãi tên cô ta?
- Bà ta đang cố làm cho hắn thấy Catherine là một con người. Người ta nghĩ chắc hắn phải cố làm mất tính cách con người, phải xem các nạn nhân như những đồ vật để có thể mổ xẻ họ. Những tên giết người hàng loạt, ít ra một số trong bọn chúng được tra hỏi trong trại giam, đã nói như thế. Chúng có cảm tưởng như làm điều đó đối với một con búp bê vậy.
- Thế mày có nghĩ ai là tác giả của bài phát biểu của bà thượng nghị sĩ không?
- Có thể lắm, chắc là bác sĩ Bloom. - Người ta chiếu trên màn hình cuộc phỏng vấn bác sĩ Alan Bloom của trường Đại học Chicago, về những tên giết người hàng loạt vài tuần trước đây.
Ông từ chối so sánh Buffalo Bill với Francis Dolarhyde hoặc với Garrett Hobbs, hoặc với đám tội phạm khác cùng loại. Ông ta không dùng từ “Buffalo Bill”. Nói chung, ông ta không nói thêm gì mới, nhưng ông là một chuyên gia giỏi nhất về vấn đề đó, và đài truyền hình muốn cho thấy khuôn mặt ông ta.
Bài phóng sự kết thúc bằng vài câu sau cùng:
- Chúng ta không thể hăm he hắn với một cái gì đó tồi tệ hơn những gì hắn phải đương đầu hàng ngày. Nhưng những gì chúng ta có thể làm được, đó là kêu gọi hắn đến với chúng ta. Bằng tất cả lòng thành thật, chúng ta có thể hứa với hắn một phương pháp chữa trị thoải mái và một sự yên lòng hoàn toàn.
- Ai trong chúng ta mà không cần đến yên lòng chứ? - Ardelia bảo - Tao là người trước tiên. Một chút thiếu hụt êm dịu của sự sáng suốt của tao và vài việc tầm phào hời hợt, tao thích thế lắm. Ông ta không có nói gì với họ hết, nhưng chắc ông ta cũng không làm cho Buffalo Bill phải bực mình.
- Tao không thể không nghĩ đến con bé ở Virginie được; trong một lúc, cứ cho là trong ba mươi phút đi, và rồi sau đó cổ tao lại bị nghẹn. Màu sơn móng tay của cô ta, hãy giúp tao đừng nghiền ngẫm việc đó nữa.
Trong bữa ăn tối, Ardelia, nổi hứng vô tận bất ngờ của mình, đã làm cho Clarice quên đi nỗi sầu muộn của cô bằng cách làm mê hoặc những lỗ tai tò mò với sự so sánh các vần chéo của Stevie Wonder và Emilie Dickinson.
Khi về phòng mình. Clarice thấy một tin nhắn trong thùng thư: Hãy gọi điện cho Albert Roden và một số điện thoại.
- Đây là bằng chứng lý thuyết của tao đúng - cô nói với Ardelia trong khi họ lên giường ngủ với một quyển sách.
- Lý thuyết gì?
- Mày làm quen với hai anh chàng, và không phải anh chàng tốt gọi điện cho mày.
- Tao biết điều đó.
Điện thoại reo. ..
Mapp hất cây bút chì để ngay trước mũi cô ta.
- Nếu là Hot Bobby Lowrance, nói tao đang ở tại thư viện và tao sẽ gọi lại vào sáng mai.
Là Crawford gọi từ trên máy bay.
- Starling, hãy lấy những gì cần thiết cho hai đêm và đến gặp tôi ngay lập tức. À không cần đến túi dụng cụ đâu, chỉ cần quần áo thôi.
- Tôi sẽ gặp ông ở đâu?
- Tại Viện Smithsonian. - Và ông ta tiếp tục nói chuyên với một ai khác trước khi gác máy.
- Là Jack Crawford - Clarice nói khi đặt túi đi du lịch lên giường.
Mapp đưa đầu lên khỏi quyển Luật tố tụng tội phạm Liên Bang. Cô nhìn Clarice soạn túi xách, một trong hai con mắt to của cô nhắm lại.
- Tao không muốn xía vào chuyện của người khác - cô nói.
- Tao không nghi ngờ gì về điều đó - Clarice biết chuyện gì đang chờ mình.
Ardelia đã bảo đảm việc xuất bản tờ Tạp Chí Luật tại trường đại học Maryland bằng cách làm ban đêm. Cô ta đứng nhì trong lớp và ngốn gần hết các sách giáo khoa.
- Theo lý thuyết, mày có một kỳ thi về Luật Hình sự vào ngày mai và một kỳ kiểm tra thể dục trong hai ngày sắp tới. Ông Crawford phải biết mày có nguy cơ ở lại lớp. Nếu ông ta nói rằng - Làm công việc tốt đấy, sinh viên Starling - thì mày không được trả lời - Thật là vinh hạnh cho tôi - Mày phải nhìn thẳng vào bộ mặt tượng đá Phục Sinh của ông ta mà nói - Tôi mong rằng, chính ông phải làm sao cho tôi không phải bị đào tạo lại vì vắng mặt vài tiết học. Mày có nghe tao nói không?
- Tao có thể dự kỳ thi mà - Clarice đáp lại trong khi mở cây kẹp tóc bằng răng.
- Tốt thôi, nhưng nếu mày thi trượt là vì mày không có thời giờ học, thế mày có nghĩ họ sẽ không cho mày theo một khóa đào tạo lại hay sao? Mày xem thường tao quá phải không? Con ngốc kia, bọn chúng sẽ quăng mày vào trong phân như một con gà chết vậy! Sự biết ơn có mạng sống ngắn lắm, Clarice ơi!
Trên đường xa lộ bốn làn xe, Clarice lái chiếc Pinto cũ kỹ của mình với tốc độ mà các bánh dẫn không còn bám trên mặt đường. Mùi dầu nóng và ẩm mốc, tiếng lẻng kẻng của sắt vụn, tiếng cọt kẹt của thanh truyền động, làm cô nhớ lại những kỷ niệm xưa về chiếc pick-up của cha cô: cô chen vào sát người ông trong khi các anh chị mặc sức hò hét.
Ngay lúc này đây, khi cô đang lái xe trong đêm tối và các đường vạch trắng lướt nhanh dưới xe cô. Cô có dư thời giờ để suy nghĩ. Các nỗi sợ đang bao lấy cổ của cô, còn các kỷ niệm mới hơn thì chen vào cạnh cô được.
Clarice lo sợ người ta đã phát giác ra xác của Catherine Baker Martin. Khi khám phá ra lý lịch của cô ta, có thể Bill đã hốt hoảng. Có thể hắn đã giết chết cô và nhét một con côn trùng trong cuống họng cô ta.
Có thể Crawford đem con côn trùng đó về cho người ta nhận dạng. Nếu không, tại sao lại hẹn tại Viện Smithsonian? Nhưng bất cứ người nào cũng có thể mang con vật đó đến viện bảo tàng mà, một nhân viên đưa thư của FBI chẳng hạn. Và ông ta lại còn bảo chuẩn bị đồ ngủ cho hai đêm.
Cô hiểu việc Crawford không thể nói rõ trên một đường dây không an toàn, nhưng nó vẫn làm cho cô bực mình.
Cô bắt một làn sóng điện dành cho tin tức và gặp ngay lúc thông báo thời tiết. Không có thông tin mới. Chỉ là sự lặp lại nhàm chán của của chương trình truyền hình lúc bảy giờ tối. Con gái của thượng nghị sị Martin đã mất tích. Người ta tìm được cái áo cánh của cô bị cắt đôi phía sau lưng, theo kiểu của Buffalo Bill. Không có nhân chứng. Nạn nhân tại Virginie vẫn chưa được nhận diện.
Bang Virginie. Trong những kỷ niệm của cô về nhà tang lễ ở Potter. Có một điều đáng nhớ nhất. Một cái gì đó bền vững sáng chói giữa các lời tiết lộ mà cô có thể giữ chặt nó như một lá bùa hộ mệnh. Tại nơi bồn rửa kia, cô đã có được sức mạnh khi nhớ về kỷ niệm của mẹ cô. Clarice đã lớn lên giữa những người anh và có được kinh nghiệm nhờ các đặc ân đến từ người cha quá cố; cô rất ngạc nhiên, xúc động vì cái kho tàng mà chính cô phải tự khám phá ra.
Cô đậu chiếc Pinto ở sau tòa nhà J. Edgar Hoover. Hai toán nhân viên truyền hình đang cắm chốt trên lề; trước ánh sáng của các đèn chiếu, đám phóng viên có vẻ quá chỉnh tề. Họ thực hiện các phóng sự của họ trước hình nền của Bộ chỉ huy FBI. Clarice tránh vùng sáng đó và đi bộ trong khoảng cách vài trăm mét ngăn cách Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Smithsonian.
Vài cửa sổ còn bật đèn sáng trên cái tòa nhà cũ kỹ đó. Một xe tải con của cảnh sát quận Baltimore đang đậu trên lối đi hình vòng cung. Sau cô, Jeff, người tài xế của Crawford đang chờ trên một chiếc xe tải con dùng trong việc theo dõi. Khi anh ta thấy Clarice đến, anh ta nói cái gì đó trên bộ đàm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 3-2-2013 08:10:41 | Chỉ xem của tác giả
3

Người bảo vệ đưa Clarice lên tầng hai, ngay trên con voi trắng được nhồi bông của viện. Cánh cửa của cầu thang máy mở ra trước cái hành lang rộng lớn trong ánh đèn yếu ớt, nơi Crawford đang đứng chờ một mình, hai tay thọc trong túi áo khoác.
- Chào cô Starling.
- Xin chào ông - cô đáp lại.
Crawford nói với người bảo vệ đứng sau cô.
- Cám ơn anh, chúng tôi biết đường rồi.
Vai kề vai, Crawford và Clarice bước đi giữa các chồng thùng đựng mẫu nhân chủng học. Vài ngọn đèn hiếm hoi vẫn còn sáng. Với bộ dạng hơi khòm, vẻ suy tư của Crawford, Clarice ý thức rằng Crawford muốn đặt tay lên vai cô.
Cô chờ cho ông nói một cái gì đó. Cuối cùng cô cũng đứng lại, hai tay thọc trong túi, và hai người đối mặt nhau trong sự im lặng của đống hài cốt.
Crawford đứng tựa vào chồng thùng và hít một hơi thật sâu.
- Có thể Catherine Martin vẫn còn sống - Ông nói.
Clarice gật đầu nhưng không ngước mặt lên. Có thể ông ta sẽ gặp ít khó khăn hơn để nói chuyện với cô nếu cô không nhìn ông. Ông ta có vẻ cứng rắn đấy, nhưng có một cái gì đó đang làm ông lo lắng. Cô tự hỏi không biết vợ ông ta chết chưa. Hay chỉ đơn thuần vì ông ta quá mệt sau một ngày ở cạnh bà mẹ đau khổ của Catherine.
- Không có một dấu vết gì tại Memphis cả - Ông nói - Tôi nghĩ chắc hắn đã bắt cóc cô ta tại bãi đậu xe. Không ai thấy gì hết. Cô ta đã vào trong nhà rồi, sau đó cô ta trở ra vì một lý do nào đó. Cô ta không định ở ngoài lâu, vì cô ta để cánh cửa hé mở bằng cách kéo chốt để cho cánh cửa không đóng lại. Chùm chìa khóa của cô ta còn để trên cái tivi. Trong căn hộ, không thứ gì bị xáo trộn cả. Tôi nghĩ chắc cô ta ở trong nhà không lâu. Cô ta còn chưa bước đến máy trả lời tự động, vẫn còn đang nhấp nháy trong phòng ngủ cô ta cho đến khi người bạn trai gọi cảnh sát. - Crawford thờ ơ đặt bàn tay trên một thùng hài cốt, nhưng sau đó rút lại thật mau.
- Như vậy, cô ta vẫn còn ở trong tay hắn. Đám truyền thông đại chúng đã đồng ý không phát đi các thông tin này trong giờ tin tức buổi tối, bác sĩ Bloom nghĩ rằng điều đó sẽ khiến cho hắn giết cô ta mau hơn đấy. Nhưng bằng cách nào đó, vài tờ lá cải sẽ làm thôi.
- Trong lần bắt cóc trước, người ta tìm thấy khá sớm một y phục bị cắt đôi ở sau lưng để có thể xác định đây là một nạn nhân của Buffalo Bill, trong lúc cô ta vẫn còn sống. Clarice nhớ lại trình tự ngược thời gian được đóng khung đăng trên trang nhất của các báo lá cải giật gân. Mười tám ngày trôi qua trước khi người ta tìm thấy được cái xác trôi trên một con sông.
- Catherine Baker đang ở trong phòng hóa trang của Bill và có thể chúng ta có một tuần, Starling. Mức tối đa vì Bloom cho rằng kỳ hạn càng ngày càng bị rút ngắn lại.
Đối với Crawford, đây quả là một bài diễn văn dài. Cái trích dẫn mang vẻ sân khấu của “phòng hóa trang” làm cho Clarice bực mình, cô đang chờ ông đề cập đến điểm chính.
- Nhưng cô biết không, Staring, lần này có thể chúng ta có một ít may mắn đây.
Clarice ngước mắt lên, chăm chú và tràn đầy hy vọng.
- Chúng ta tìm được một con côn trùng khác. Mấy người bạn cô, Pilcher và... người kia...
- Roden.
- ... Phải, họ đang nhận diện nó.
- Ở đâu vậy?... tại Cincinnati à? Cô gái mà chúng ta đang còn giữ trong tủ lạnh à?
- Không. Hãy đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho. Tôi rất muốn biết cô nghĩ gì.
- Khoa côn trùng học nằm ở bên kia, ông Crawford.
- Tôi biết mà.
Họ đến cửa khoa nhân chủng học. Ánh đèn và tiếng nói xuyên qua cửa kính. Cô bước vào.
Ở ngay giữa căn phòng, ba người đàn ông trong áo choàng trắng đang làm việc quanh cái bàn dưới ánh sáng chói chang. Clarice không thấy họ đang làm gì. Jerry Burroughs của Khoa thái độ, nhìn qua vai của họ và ghi chép. Một mùi quen quen bao phủ căn phòng.
Một trong ba người đó đứng lên để bước đến bồn rửa và cô mới thấy được một cái mâm bằng inox được đặt trên bục lát, “Klaus”, cái đầu mà cô tìm được trong kho hàng tại Baltimore.
- Con côn trùng nằm trong cuống họng của Klaus - Crawford nói - Chờ một chút, Starling. Thế nào Jerry, anh đã liên lạc được trung tâm chưa?
Burroughs đọc các ghi chú của anh ta trong điện thoại. Anh lấy tay che micro lại.
- Rồi Jack, họ đang sấy khô hình của Klaus.
Crawford chụp lấy điện thoại.
- Bobby, không cần phải chờ Interpol. Hãy chuyển tấm hình bằng điện báo cùng bản báo cáo y khoa, cho các nước Bắc Âu, Bộ chỉ huy RAF và Hà Lan. Anh nhớ nói Klaus có thể là một thủy thủ tàu buôn. Anh cũng nhớ nếu Sở sức khỏe quốc gia có thể có một hồ sơ về vụ bể gò má. Hãy gọi cái đó, là sao rồi nhỉ... cung gò má. Chuyển luôn hai lược đồ răng, một cho toàn thế giới và một cho Hiệp hội răng. Họ sẽ định cho nó một tuổi, nhưng hãy nhấn mạnh rằng đây chỉ là một phỏng đoán, vì người ta không thể làm gì hơn được với các đường nối của sọ. - Nói xong, ông đưa điện thoại lại cho Burroughs. - Đồ đạc của cô đâu rồi, Starling?
- Trong phòng bảo vệ.
- Chính Viện John Hopkins tìm ra con côn trùng - Crawford cho biết trong khi họ chờ thang máy - Họ khám nghiệm cái đầu cho cảnh sát Baltimore. Nó nằm trong cuống họng giống y đúc với con côn trùng tại Potter.
- Giống con côn trùng tại Potter.
- Cô cười à. Viện John Hopkins đã tìm thấy trong ngày hôm nay vào lúc mười chín giờ. Ông công tố viên gọi điện cho tôi trong lúc tôi đang ở trên máy bay. Họ đã gởi hết mọi thứ, Klaus và tất cả những thứ khác để chúng ta có thể xem xét tại chỗ. Họ cũng muốn biết ý kiến của bác sĩ Angel về tuổi của Klaus và biết hắn bị bể gò má vào lúc mấy tuổi. Họ làm giống như ta, họ tham khảo ý kiến của Viện Smithsonian.
- Hãy chờ xem, tôi phải suy nghĩ mới được. Ông vừa nói có thể Buffalo Bill đã giết chết Klaus cách đây nhiều năm rồi phải không?
- Cô cho là gượng gạo quá có phải không? Một sự trùng hợp quá kỳ lạ phải không?
- Ngay lúc đó thì đúng thế.
- Hãy nghiền ngẫm thêm một chút nữa coi.
- Chính nhờ bác sĩ Lecter mà tôi tìm được Klaus.
- Rồi sao.
- Lecter nói người bệnh nhân của ông, Benjamin Raspail, khẳng định chính mình đã hạ sát hắn. Nhưng Lecter nói đây chỉ là một vụ nghẹt thở tính dục ngẫu nhiên thôi.
- Đó là điều ông ta nói.
- Ông nghĩ rằng bác sĩ Lecter biết vì sao Klaus chết mà không phải do Raspail và cũng không phải là một vụ nghẹt thở do một hành vi tính dục, phải không?
- Klaus có một con côn trùng trong cuống họng, cô gái ở Potter có một con côn trùng trong cuống họng. Đây là lần đầu tôi thấy một vụ như thế này. Tôi chưa bao giờ nghe nói và cũng chưa hề đọc bất cứ ở đâu. Thế cô nghĩ gì?
- Tôi đang nghĩ về việc ông bảo tôi đem quần áo cho hai ngày. Ông muốn tôi đi hỏi Lecter có phải không?
- Cô là người duy nhất ông ta chịu nói chuyện. - Crawford có vẻ buồn khi ông nói thêm - Tôi cho là cô đồng ý chứ?
Cô chỉ gật đầu.
- Thế thì đi, chúng ta sẽ nói tiếp trên đường đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 3-2-2013 08:13:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

1

Trước khi chúng tôi bắt Lecter về tội giết người, ông ta đã hành nghề thật xuất sắc khoa tâm lý học trong nhiều năm - Crawford nói, - Ông ta đã làm nhiều cuộc giám định tâm lý học cho các tòa án của Maryland, Virginie và nhiều tiểu bang khác của miền đông duyên hải. Ông ta đã gặp rất nhiều kẻ điên phạm tội. Ai có thể biết ông ta có thả một tên nào đó, chỉ cho vui thôi. Đó có thể là nguồn thông tin của ông ta. Vả lại ông ta biết Raspail rất rõ, mà hắn có thể tiết lộ cho ông ta nhiều thứ trong những buổi chữa trị. Có thể hắn đã nói cho ông ta biết ai đã giết Klaus.
Crawford ngồi đối mặt với Clarice ở đằng sau chiếc xe tải đang chạy hết tốc lực trên quốc lộ 95 về hướng Baltimore. Chắc Jeff đã nhận được lệnh phải chạy hết ga.
- Lecter đã đề nghị sự giúp đỡ của ông ta mà không cần tôi phải lên tiếng. Ông ta đã làm việc đó và nó không mang lại kết quả gì khả quan cả; lần cuối cùng ông ta “giúp đỡ” Will Graham nhận lấy mấy nhát dao trên mặt, bởi vì việc đó làm cho ông ta vui.
- Nhưng với một con côn trùng trong họng của Klaus, một con côn trùng trong họng của cô gái ở Potter, thì tất nhiên tôi phải quan tâm rồi. Alan Bloom chưa hề nghe nói đến điều này, cả tôi cũng thế. Vậy cô có gặp một việc gì tương tự như thế không, Starling? Mấy lúc sau này, cô đọc các tạp chí nhiều hơn tôi mà.
- Không, chưa bao giờ. Nhét một vật gì đó thì có, chứ một con côn trùng thì không.
- Để bắt đầu, có hai việc. Trước nhất, chúng ta đặt giả thuyết cho rằng bác sĩ Lecter thật sự biết một cái gì đó cụ thể. Kế đến, chúng ta biết là ông ta chỉ tìm thú vui cho mình thôi. Chúng ta không được quên điều này. Phải làm sao cho ông ta muốn cho Buffalo Bill bị bắt trước khi hắn giết chết Catherine Martin. Thú vui và các lợi ích ông ta có thể rút ra được, phải được xem xét theo chiều hướng đó. Chúng ta không có cách nào để hăm dọa ông ta được, người ta đã lấy đi hết các sách và bàn cầu của ông ta rồi.
- Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta trình hết sự việc và đề nghị tặng cho ông ta một cái gì đó, một phòng giam có cửa sổ chẳng hạn? Đó là thứ ông ta yêu cầu khi đề nghị giúp chúng ta.
- Giúp chúng ta. Không phải tố giác một người nào đó. Việc tố giác không cho phép ông ta biểu hiện sự hiểu biết của mình. Dường như cô chưa thuyết phục được ông ta lắm. Cô muốn nói sự thật cho ông ta biết. Hãy nghe đây, Lecter không có vội. Ông ta theo dõi vụ này như một trận cầu. Nếu chúng ta yêu cầu ông ta tố giác, ông ta sẽ chờ đợi. Ông ta không làm ngay đâu.
- Dù để nhận được một phần thưởng? Một cái gì đó mà ông ta sẽ không có được nếu Catherine Martin chết đi?
- Có thể chúng ta sẽ nói là chúng ta biết ông ta biết tên thủ phạm và muốn ông ta tố giác hắn. Điều làm cho ông ta vui hơn nữa là cố gắng nhớ lại, trong nhiều ngày liền, làm kích thích niềm hy vọng của thượng nghị sĩ Martin và để cho Catherine phải chết. Sau đó ông ta hành hạ bà mẹ của nạn nhân kế tiếp và kế tiếp, làm như thể ông ta sắp nhớ ra vậy, mà điều này còn lý thú hơn một cửa sổ. Ông ta sống nhờ những thứ đó, sống bằng thứ đó.
- Starling biết không, tôi không nghĩ con người khi già sẽ khôn ngoan hơn, nhưng người ta tránh được nhiều thứ. Và điều đó là có thể với chúng ta trong trường hợp này.
- Như vậy, tôi phải làm cho Lecter nghĩ rằng tôi đến gặp ông ta đơn thuần vì sự trực giác và các hiểu biết của ông ta.
- Đúng thế.
- Tại sao ông nói ra hết tất cả các lời giải thích đó? Tại sao không chỉ đơn giản nói cho tôi biết những gì tôi phải hỏi ông ta?
- Tôi rất thành thật với cô. Và tôi cũng sẽ làm như thế một khi cô có được một vị trí quan trọng, về lâu về dài, chỉ có điều đó mới tồn tại thôi.
- Vậy tôi không được nói việc tìm thấy con côn trùng trong cuống họng của Klaus và cả mối liên hệ giữa Klaus với và Buffalo Bill.
- Không. Cô trở lại gặp ông ta bởi sự kiện ông ta tiên đoán việc Buffalo Bill lột da đầu đã gây ấn tượng mạnh cho cô. Tôi không muốn nghe nói đến ông ta nữa, và cả Bloom cũng thế. Nhưng tôi cho cô toàn quyền quyết định. Cô có quyền cung cấp cho ông ta vài đặc ân nào đó mà chỉ có ngài thượng nghị sĩ Martin mới có thể có được. Ông ta phải hiểu là ông ta phải gấp rút lên vì lời đề nghị đó sẽ chấm dứt nếu Catherine chết. Trong trường hợp này bà thượng nghị sĩ sẽ không còn quan tâm đến ông ta nữa. Nếu ông ta thất bại, chính là vì ông ta không đủ khôn lanh và không biết đủ nhiều để thực hiện được những gì ông ta hứa, chớ không phải vì ông ta nói sai các điều tiết lộ của chính ông ta để chống lại chúng ta.
- Thế bà thượng nghị sị sẽ không còn quan tâm đến ông ta nữa à?
- Tốt hơn hết, dưới lời tuyên thệ, cô có thể nói là không biết câu trả lời của vấn đề này.
- Tôi hiểu rồi. Như vậy là bà thượng nghị sĩ chưa biết gì hết. Ông này gan cùng mình. Hiển nhiên ông rất ngại một sự can thiệp, sợ việc bà thượng nghị sĩ phạm sai lầm khi muốn liên hệ trực tiếp với bác sĩ Lecter.
- Cô tin như thế thật sao?
- Đúng vậy. Làm sao ông ta có thể hướng chúng ta khá rõ ràng đến Buffalo Bill mà không cho thấy ông ta biết chính xác rất nhiều việc được? Làm sao ông ta có thể làm được điều đó chỉ với trực giác cùng những hiểu biết theo lý thuyết mà thôi?
- Tôi không rõ nữa, Starling. Có thể ông ta có dư thời giờ để suy nghĩ. Thời gian cần thiết để chúng ta tìm thấy nạn nhân thứ sáu của chúng ta.
Điện thoại có máy gây nhiễu reo lên và nhấp nháy cho một loạt cuộc gọi mà Crawford đã yêu cầu với tổng đài của FBI.
Trong suốt hai mươi phút sau đó, ông ta nói chuyện với các thanh tra cảnh sát Hà Lan và Hiến binh Hoàng gia mà ông ta quen, một cấp chỉ huy cảnh sát Đan Mạch đã từng học ở Quantico, đang làm phụ tá cho ông sếp Ban An ninh Chinh trị của cảnh sát Đan Mạch. Ông làm cho Clarice phải ngạc nhiên khi nói chuyện bằng tiếng Pháp với ban trực đêm của cảnh sát Bỉ. Với mọi người, ông cắt nghĩa rằng phải nhận dạng Klaus và các đồng bọn càng sớm càng tốt. Mỗi thẩm quyền xét xử đã nhận được lời yêu cầu trên máy télex riêng của Interpol, nhưng cộng một cuộc gọi trực tiếp, nó sẽ không nằm tại máy trong nhiều giờ liền.
Clarice hiểu rằng Crawford sử dụng chiếc xe tải này vì hệ thống điện thoại vô tuyến có trang bị hệ thống gây nhiễu, nhưng ông sẽ làm việc hữu hiệu tại văn phòng của mình. Ông phải làm trò ảo thuật với cuốn sổ tay con trên cái bàn tí xíu trong ánh sáng yếu ớt và cả hai đều tưng lên mỗi khi chiếc xe cán lên dải nhựa đường. Clarice chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trường, nhưng cô biết, thông thường cấp trưởng của một sở không bao giờ di chuyển trên một chiếc xe tải cho một cuộc chạy đua như thế này. Ông vẫn có thể ra lệnh bằng điện thoại vô tuyến như thường, nhưng cô rất mừng là ông đã không làm như thế.
Clarice có cảm tưởng sự im lặng và yên tĩnh của chiếc xe, thời gian ấn định cho công tác này được thực hiện có phương pháp, và ông phải trả giá rất đắt. Những gì Crawford nói trên điện thoại đã xác nhận điều này.
Bây giờ ông đang nói với ông giám đốc.
- Thưa ông, không. Việc đó có thức tỉnh họ không?... Trong bao lâu? Thưa ông không. Không. Không có micro. Tommy à, tôi xin nhận lấy trách nhiệm và muốn như thế. Tôi không muốn cô ta có micro trên người. Và bác sĩ Bloom cũng đồng ý như thế. Anh ấy bị kẹt lại tại phi trường O’Hare vì sương mù. Anh ta sẽ trở về ngay khi có thể. Đồng ý.
Sau đó Crawford có một cuộc nói chuyện bí mật với cô y tá đang ở nhà ông ta. Sau khi gác máy, ông nhìn xuyên qua cửa sổ, ra bên ngoài tối đen gần cả một phút, một tay để trên đầu gối, cầm cặp kính bằng hai ngón tay: khuôn mặt ông ta, được các chiếc xe chạy ngược chiều chiếu sáng, có vẻ như trần trụi. Kế đến ông đeo kính vào và xoay qua Clarice.
- Chúng ta có được Lecter trong ba ngày. Nếu chúng ta không có được kết quả nào, thì cảnh sát Baltimore sẽ quấy nhiễu ông ta cho đến khi một tòa án sẽ tống khứ họ.
- Quấy nhiễu ông ta? Lần này sẽ không mang lại kết quả gì hơn lần sau cùng đâu.
- Ông ta đã cho họ cái gì thế? Một con gà bằng giấy phải không?
- Phải, một hình xếp origami. - Cái đó vẫn còn nằm trong túi xách của Clarice. Cô kéo thẳng ra để cho nó mổ trên cái bàn nhỏ.
- Tôi không chê trách gì cảnh sát Baltimore hết. Ông ta là tù nhân của họ mà. Nếu người ta tìm được Catherine trong một con sông, họ có thể nói cho bà mẹ biết rằng họ đã làm đủ hết mọi cách rồi.
- Bà Thượng nghị sĩ Martin ra sao rồi?
- Bà ta rất can đảm nhưng đau khổ lắm. Bà là một phụ nữ thông minh, cương quyết và đầy lý trí. Cô sẽ thích bà ta thôi, Starling.
- Thế Viện John Hopkins và Ban Hình sự Baltimore có giữ bí mật về con côn trùng được tìm thấy trong cuống họng của Klaus không? Chúng ta có thể ngăn cản đám báo chí đề cập đến việc này không?
- Ít nhất là trong ba ngày.
- Chắc không dễ chút nào.
- Chúng ta không thể tin tưởng Frederick Chilton hoặc với nhân viên của bệnh viện được. Nếu Chilton biết được thì cả thế giới cũng sẽ biết. Ông ta tất nhiên sẽ biết cô có ở đây, chỉ đơn thuần làm một công việc để giúp cho cảnh sát Baltimore, bằng cách lý giải vụ án của Klaus, mà chuyện này không hề liên quan gì với Buffalo Bill cả.
- Cũng vì thế mà tôi phải đến muộn sao?
- Đó là cách duy nhất tôi có thể ban cho cô. Sẵn đây, vụ con côn trùng trong họng của cô gái ở Potter sẽ được các báo đăng vào ngày mai đấy. Cái tin này bị rò rỉ từ văn phòng điều tra những vụ chết bất thường của Cincinnati, vì vậy nó không còn là bí mật nữa. Cô có thể nói cho Lecter biết chi tiết này và nó sẽ không quan trọng một khi ông ta không biết là chúng ta tìm thấy một con khác trong họng của Klaus.
- Chúng ta có thể đề nghị gì với ông ta?
- Tôi đang nghĩ đây - Crawford trả lời trong khi nhấc điện thoại lên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách