Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mozilla199
Thu gọn cột thông tin

[Lãng Mạn] When He Was Wicked | Julia Quinn

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:30:58 | Xem tất
tiếp chương 3

Ngoại trừ việc là bây giờ nó còn được phủ thêm một lớp tội lỗi nữa — cứ như là anh chưa có đủ cái đó lúc John còn sống. Cô đang đau đớn, và cô đang nhớ nhung, và anh cần phải an ủi cô, chứ không phải ham muốn cô. Chúa ơi, John thậm chí còn chưa lạnh ở trong mồ. Anh là loại quỷ dữ gì khi cừ thèm khát vợ anh ấy vậy?

Người vợ có mang của anh ấy.

Anh đã thay thế vị trí của John ở rất nhiều mặt. Anh sẽ không hoàn tất sự phản bội bằng cách thay thế vị trí của anh ấy đối với cả Francesca.

Và thế là anh tránh xa. Không hoàn toàn; như thế thì lộ liễu quá, và hơn nữa, anh không thể làm thế, không thể khi mẹ anh và mẹ John đang ở Ngôi nhà Kilmartin. Thêm nữa, tất cả mọi người đều trông vào anh để quản lý các công việc của bá tước, mặc dù tước vị không thể trở thành của anh trong ít nhất sáu tháng nữa.

Anh đã làm việc đó, dù vậy. Anh không để ý đến tiểu tiết, không bận tâm khi dùng vài giờ mỗi ngày coi sóc cái tài sản có thể sẽ thuộc về người khác. Đó là việc nhỏ nhất anh có thể làm cho John.

Còn với Francesca. Anh không thể buộc mình làm bạn với cô, không thể theo cái cách mà anh nên làm, nhưng anh có thể đảm bảo các vấn đề tài chính của cô luôn ổn thỏa.

Nhưng anh biết là cô không hiểu. Cô thường đến gặp anh trong khi anh làm việc trong phòng làm việc của John ở Ngôi nhà Kilmartin, cắm cúi với những báo cáo đến từ những người quản lý đất đai và luật sư. Và anh có thể chắc rằng cô đang tìm lại sự thân thiết ngày xưa của họ, nhưng đơn giản anh không thể làm thế được.

Cứ gọi anh yếu đuối, gọi anh là nông cạn. Nhưng anh không thể làm bạn của cô. Chưa thể, dù sao đi nữa.

“Ông Stirling?”

Michael nhìn lên. Người hầu của anh đang ở cửa, đi cùng là một người chạy việc mặc đồng phục xanh lục và vàng không lẫn vào đâu được của Ngôi nhà Kilmartin.

“Có tin cho ngài,” người chạy việc nói. “Từ mẹ ngài.”

Michael đưa tay ra khi người chạy việc bước qua phòng, tự hỏi không biết lần này là việc gì. Dường như mẹ anh vẫn gọi anh đến Ngôi nhà Martin hai ngày một lần.

“Bà nói việc rất gấp,” người chạy việc nói thêm khi anh ta đặt chiếc phong bì vào tay Michael.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:33:03 | Xem tất
Gấp, hử? Cái này mới. Michael liếc nhìn người chạy việc và người hầu, ánh mắt nghiêm nghị của anh rõ ràng có ý bảo họ lui, và rồi, khi căn phòng đã vắng người, anh liếc con dao mở thư vào phong bì.

Đến nhanh, là tất cả những gì ghi ở đó. Francesca đã mất đứa bé.

Michael suýt chết khi anh lao đến Ngôi nhà Kilmartin, phi trên lưng ngựa với tốc độ chóng mặt, mặc kệ những tiếng quát của những người đi đường giận dữ khi anh suýt làm họ mất đầu trong lúc vội vã.

Nhưng giờ anh đã ở đây, đứng trong sảnh, và hoàn toàn không biết phải làm gì.

Sẩy thai? Chuyện này thực sự là chuyện của đàn bà. Anh phải làm gì chứ? Đó là một bi kịch, và anh cảm thấy thật tệ cho Francesca, nhưng họ nghĩ anh có thể nói gì? Tại sao họ muốn anh ở đây?

Và rồi anh ngỡ ra. Anh giờ đã là bá tước. Thế là xong. Chậm mà chắc, anh sắp sống cuộc sống của John, lấp đầy tất cả các ngóc ngách cái thế giới từng thuộc về anh họ anh.

“Ôi, Michael,” mẹ anh nói, bước vội ra sảnh. “Mẹ rất mừng con ở đây.”

Anh ôm bà, hay tay anh vòng quanh bà gượng gạo. Và anh nói cái gì đó hoàn toàn vô nghĩa kiểu như, “Thật là một bi kịch,” nhưng gần như là anh chỉ đứng đó, cảm thấy mình ngốc nghếch và chẳng hợp nơi hợp lúc chút nào.

“Cô ấy thế nào?” cuối cùng anh hỏi, khi mẹ anh đã lui lại.

“Bị sốc,” bà trả lời. “Nó khóc suốt.”

Anh nuốt khan, muốn được nới lỏng cái cà vạt của mình vô cùng. “Ừm, cái đó có thể đoán được,” anh nói. “Con—con—“

“Nó dường như không thể ngừng được,” Helen chen vào.

“Khóc?” Michael hỏi.

Helen gật đầu. “Mẹ không biết phải làm thế nào.”

Michael nghe hơi thở của mình. Đều đặn. Chậm. Vào và ra.

“Michael?” Mẹ anh đang nhìn anh chờ đợi câu trả lời. Có thể là chờ đợi một chỉ dẫn.

Làm như anh biết phải làm gì vậy.

“Mẹ nó đã qua đây,” Helen nói, khi mà rõ ràng Michael sẽ không nói gì. “Bà ấy muốn Francesca quay về Nhà Bridgerton.”

“Francesca có muốn không?”

Helen nhún vai buồn bã. “Mẹ không nghĩ là nó biết. Thật là một cú shock.”

“Đúng vậy,” Michael nói, lại nuốt khan. Anh không muốn ở đây. Anh muốn đi khỏi.

“Bác sĩ đã nói chúng ta không được di chuyển nó vài ngày, trong bất cứ trường hợp nào,” Helen thêm.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:34:05 | Xem tất
Anh gật đầu.

“Và tất nhiên, bọn mẹ đã gọi con.”

Tất nhiên? Chẳng có gì là tất nhiên trong chuyện này cả. Anh chưa bao giờ cảm thấy lạ lẫm hơn, hoàn toàn không biết phải nói gì hay làm gì.

“Giờ con là Kilmartin,” mẹ anh nói khẽ.

Anh gật đầu lần nữa. Chỉ một cái. Đó là tất cả những gì anh có thể làm để xác nhận.

“Mẹ phải nói là mẹ—“ Helen ngừng lại, môi bà cong lên theo một kiểu kỳ lạ, đột ngột. “Ừm, một người mẹ thì luôn muốn cả thế giới cho con mình, nhưng mẹ không— mẹ sẽ không bao giờ—“

“Mẹ đừng nói,” Michael nói giọng khàn đặc. Anh chưa sẵn sàng để nghe bất cứ ai nói đây là một chuyện tốt. Và có Chúa, nếu ai đó chúc mừng anh...

Ừm, anh sẽ không chịu trách nhiệm vì đã thô bạo.

“Nó đòi gọi con,” mẹ anh nói.

“Francesca?” anh hỏi, đôi mắt anh mở lớn vì ngạc nhiên.

Helen gật đầu. “Nó nói nó muốn gặp con.”

“Con không thể,” anh nói.

“Con phải.”

“Con không thể.” Anh lắc đầu, sự hoảng hốt làm cho cử động của anh nhanh quá mức. “Con không thể vào đó.”

“Con không thể bỏ nó,” mẹ anh nói.

“Cô ấy chưa bao giờ là của con để mà bỏ.”

“Michael!” Helen há mồm. “Sao con có thể nói điều như thế?”

“Mẹ,” anh nói, cố gắng một cách tuyệt vọng hướng câu chuyện sang hướng khác, “cô ấy cần một phụ nữ. Con thì làm gì được?”

“Con có thể làm bạn nó,” Helen nói thật nhẹ, và anh cảm thấy mình lại như mới tám tuổi, bị mắng vì một sai sót nông nổi.

“Không,” anh nói, và giọng anh làm anh phát khiếp. Giọng anh như một con thú bị thương, đau đớn và hoảng loạn. Nhưng có một điều mà anh chắc chắn. Anh không thể gặp cô. Không phải bây giờ. Chưa được.

“Michael,” mẹ anh nói.

''Không,'' anh lại nói. ''Con sẽ... Ngày mai, con sẽ...'' Và anh bước ra cửa với duy nhất câu ''Hỏi thăm cô ấy hộ con.''

Và anh chuồn, thằng nhát gan là anh.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:35:25 | Xem tất
Chapter 4


...Chị chắc chuyện đó cũng không đáng phải cường điệu quá như thế. Chị không phải chuyên gia để biết hoặc hiểu về tình yêu lãng mạn giữa chồng và vợ, nhưng chắc chắn nó không toàn năng đến mức mất đi người này sẽ hủy hoại hoàn toàn người kia. Em mạnh mẽ hơn em nghĩ đấy, em gái ạ. Em chắc chắn sẽ sống được tốt khi không có cậu ấy, dù điều này có thể chẳng có ý nghĩa gì.

—của Eloise Bridgerton gửi em gái, Nữ bá tước Kilmartin, ba tuần sau lễ cưới của Francesca

Tháng sau đó, Michael chắc mẩm, thực sự là bản sao gần nhất của địa ngục trần gian mà một con người có thể trải qua.

Với mỗi buổi lễ mới, tất cả những giấy tờ anh nhận ra mình đang ký với tên Kilmartin, hay những cái “thưa đức ngài” mà anh buộc phải chịu đựng, như thể linh hồn John đang bị đẩy dần ra xa vậy.

Rồi sẽ sớm thôi, Michael nghĩ một cách trống rỗng, rồi anh ấy sẽ như chưa bao giờ tồn tại. Ngay cả đứa bé—lẽ ra sẽ là phần cuối cùng John để lại trên đời—cũng đã mất.

Và tất cả những gì từng là của John giờ thuộc về Michael.

Trừ Francesca.

Và Michael định sẽ giữ nguyên như vậy. Anh sẽ không — không, anh không thể bồi thêm cho anh họ mình sự sỉ nhục cuối cùng đó.

Anh sẽ phải gặp cô, tất nhiên, và anh sẽ dùng những lời an ủi tốt nhất, nhưng bất kể anh có nói gì, đó cũng không phải là câu trả lời đúng, và cô sẽ chỉ quay đầu và nhìn thẳng vào bức tường.

Anh không biết phải nói gì. Nói trắng ra, anh thấy nhẹ nhõm vì cô không bị thương tổn nhiều hơn là thấy buồn rầu vì đứa bé đã mất. Những bà mẹ—mẹ anh, mẹ John, và mẹ Francesca— đã cảm thấy cần phải kể lại với anh về cái vụ máu me đó chi tiết đến mức phát sợ, một trong những cô hầu thậm chí đã giở những tấm trải giường dính máu ra, cái mà ai đó đã giữ lại để chứng minh rằng Francesca đã bị sẩy thai.

Ngài Winston đã gật đầu vẻ hài lòng nhưng rồi lại thêm vào rằng ông ta sẽ để mắt đến nữ bá tước, để đảm bảo rằng những tấm trải giường đó thực sự là của cô, và bụng cô không to ra. Đây không phải là lần đầu tiên có người cố lợi dụng luật về quyền thừa kế, ông ta nói thêm.

Michael muốn quẳng người đàn ông nhỏ bé lắm mồm đó ra ngoài cửa sổ, nhưng thay vào đó, anh chỉ mời ông ta ra cửa. Anh không còn hơi sức đâu để mà giận dữ kiểu đó nữa, có vẻ vậy.

Anh vẫn chưa dọn vào ở Ngôi nhà Kilmartin. Anh vẫn chưa sẵn sàng cho việc này, và cái ý nghĩ sống ở đó với những người phụ nữ làm anh muốn ngạt thở. Anh sẽ phải làm như thế sớm thôi, anh biết; đó là điều bá tước cần làm. Nhưng bây giờ, anh thấy đủ thỏa mãn với căn hộ nhỏ của mình.

Và đó là nơi anh đang ở, trốn tránh các trách nhiệm, khi Francesca cuối cùng cũng tìm đến anh.

“Michael?” cô nói, khi người hầu của anh đã dẫn cô vào phòng khách nhỏ.

“Francesca,” anh trả lời, choáng váng vì sự xuất hiện của cô. Cô chưa bao giờ đến đây. Chưa bao giờ khi John còn sống, và đương nhiên là cả sau đó. “Cô làm gì ở đây thế?”

“Tôi muốn gặp anh,” cô nói.

Thông điệp ẩn là: Anh đang tránh mặt tôi.

Đó là sự thật, đương nhiên, nhưng tất cả những gì anh nói là, “Ngồi xuống đi.” Và rồi hơi muộn: “Xin mời.”

Việc này có đứng đắn không? Cô ở trong căn hộ của anh? Anh không chắc. Hoàn cảnh và vị trí của họ thật kỳ quặc, thật lộn xộn đến mức anh không thể biết quy tắc hay nghi thức nào được áp dụng cho họ nữa.

Cô ngồi, và không làm gì cả ngoài việc vuốt vuốt các ngón tay trên chiếc váy của mình trong cả phút, và rồi cô ngước nhìn anh, đôi mắt cô nhìn vào mắt anh với sự cương quyết đến mức đau nhói, và nói, “Tôi nhớ anh.”

Những bức tường như ép lại xung quanh anh. “Francesca, tôi—”

“Anh từng là bạn tôi,” cô nói đầy vẻ trách móc. “Ngoài John, anh là bạn thân nhất của tôi, và giờ tôi chẳng còn biết anh là ai nữa.”

“Tôi—” Ôi, anh cảm thấy như một thằng ngốc, hoàn toàn bất lực và bị hạ gục bởi một đôi mắt xanh và cả núi tội lỗi.

Tội lỗi về cái gì, anh thậm chí không còn biết chắc nữa. Dường như cái đó đến từ thật nhiều nguồn, từ thật nhiều hướng, đến nỗi anh không thể ghi nhớ nổi nữa.

“Có chuyện gì với anh vậy?” cô hỏi. “Tại sao anh tránh mặt tôi?”

“Tôi không biết,” anh trả lời, bởi vì anh không thể nói dối cô và bảo là anh không như vậy. Cô quá thông minh để anh có thể làm thế. Nhưng anh cũng không thể nói cho cô hay sự thật.

Đôi môi cô run lên, và rồi cô cắn nhẹ môi dưới. Anh nhìn chằm chằm vào đó, không thể rời mắt khỏi miệng cô, tự căm ghét bản thân vì sự khao khát chợt ập đến trong anh.

“Anh đáng ra phải là bạn tôi,” cô thì thầm.

“Francesca, đừng.”

“Tôi đã cần anh,” cô nói khẽ. “Tôi vẫn cần anh.”

“Không cô không cần,” anh trả lời. “Cô có các mẹ, và những chị em của cô nữa.”

“Tôi không muốn nói chuyện với chị em của tôi,” cô nói, giọng cô trở nên quyết liệt. “Họ không hiểu được.”

“Ừm, tôi chắc chắn cũng không hiểu,” anh bật lại, sự tuyệt vọng làm cho giọng anh như có góc cạnh.

Cô chỉ nhìn anh chằm chằm, sự trách cứ hiện lên trong đôi mắt.

“Francesca, cô—“ Anh muốn giơ hai tay lên trời nhưng thay vào đó anh chỉ khoanh tay lại. “Cô— cô sẩy thai.”

“Tôi biết điều đó,” cô nói gằn.

“Tôi biết gì về chuyện đó cơ chứ? Cô cần phải nói chuyện với một phụ nữ.”

“Anh không thể nói là anh rất tiếc sao?”

“Tôi đã nói tôi rất tiếc!”

“Anh không thể thực sự nghĩ vậy sao?”

Cô muốn gì ở anh? “Francesca, tôi thực sự nghĩ thế.”

“Tôi rất giận dữ,” cô nói, giọng cô càng tăng vẻ dữ dội, “và tôi buồn, và tôi đau khổ, và tôi nhìn anh và tôi không hiểu tại sao anh không như vậy.”

Trong một lúc anh không hề cử động. “Đừng bao giờ nói như vậy,” anh thì thầm.

Mắt cô ánh lên vẻ giận dữ. “Ừm, anh có cách thể hiện điều đó thật hay ho đấy. Anh chẳng bao giờ đến, anh chẳng bao giờ nói chuyện với tôi, và anh không hiểu—“

“Cô muốn tôi hiểu cái gì?” anh bật ra. “Tôi có thể hiểu được cái gì? Vì Ch—“ Anh dừng lại trước khi chửi thề và quay lưng lại phía cô, dựa người vào bậu cửa sổ.

Sau lưng anh Francesca chỉ ngồi im lặng, im lặng như chết. Và rồi, cuối cùng, cô nói, “Tôi không biết sao tôi lại đến. Tôi sẽ đi.”

“Đừng đi,” anh nói giọng khàn khàn. Nhưng anh không quay người lại.

Cô không nói gì; cô không hiểu ý anh là gì.

“Cô vừa mới đến,” anh nói, giọng anh nhát gừng và gượng gạo. “Cô nên uống một tách trà đã, ít ra thế.”

Francesca gật đầu, mặc dù anh vẫn không nhìn cô.

Và họ cứ như vậy trong vài phút, quá lâu, cho đến khi cô không thể chịu đựng sự im lặng thêm nữa. Chiếc đồng hồ tích tắc ở góc phòng, và làm bạn với cô chỉ có cái lưng của Michael, và tất cả những gì cô có thể làm là ngồi đó nghĩ và nghĩ và băn khoăn tại sao cô lại đến đây.

Cô muốn gì ở anh?

Cuộc sống của cô sẽ dễ dàng hơn sao nếu cô biết.

“Michael,” cô nói, tên anh tuột ra khỏi môi cô trước khi cô kịp nhận ra.

Anh quay người. Anh không nói, nhưng trả lời cô bằng anh mắt.

“Tôi...” Tại sao cô lại gọi anh? Cô muốn gì? “Tôi...”

Nhưng, anh vẫn không nói. Chỉ đứng đó và đợi cô sắp xếp lại các ý nghĩ, và làm cho mọi việc càng trở nên khó khăn hơn.

Và rồi, nó trào ra, trong sự sợ hãi của cô. “Tôi không biết tôi phải làm gì bây giờ,” cô nói, nghe giọng mình đang vỡ ra. “Và tôi rất giận, và...” Cô dừng lại, thở dốc—bất cứ cái gì có thể ngăn những giọt nước mắt.

Phía bên kia, Michael mở miệng, nhưng chỉ một chút, và rồi ngay cả thế, chẳng có lời nào thoát ra.

“Tôi không biết tại sao nó lại ra thế này,” cô nấc lên. “Tôi đã làm gì? Tôi đã làm gì chứ?”

“Không gì cả,” anh đảm bảo với cô.

“Anh ấy đã đi, và anh ấy sẽ không trở về, và tôi thật... thật...” Cô ngước nhìn anh, cảm thấy sự đau đớn và giận dữ đang hiện dần trên mặt mình. “Thật không công bằng. Thật không công bằng khi đó lại là tôi chứ không phải ai khác, và thật không công bằng nếu đó là bất cứ ai, và thật không công bằng vì tôi đã để mất—“ Và rồi cô nghẹn lại, và tiếng thở dốc trở thành những tiếng khóc thút thít, và tất cả những gì cô có thể làm là khóc.

“Francesca,” Michael nói, quỳ xuống bên cạnh chân cô. “Tôi rất tiếc. Tôi thực sự rất tiếc.”

“Tôi biết,” cô nấc, “nhưng điều đó cũng chẳng làm chuyện này khá hơn.”

“Không,” anh lẩm bẩm.

“Và cũng không làm nó trở nên công bằng.”

“Không,” anh lại nói.

“Và nó không— Nó không—“

Anh không cố nói nốt câu hộ cô. Cô mong anh làm vậy; bao năm nay cô đã mong anh làm như vậy, bởi vì có thể như thế anh sẽ nói cái gì đó không phải, và có thể như thế cô sẽ không dựa vào anh, và có thể như thế cô sẽ không để cho anh ôm cô.

Nhưng ôi, Chúa ơi, cô nhớ cảm giác được ôm biết bao.

“Tại sao anh lại đi?” cô khóc. “Tại sao anh không thể giúp tôi?”

“Tôi muốn thế— Cô không—“ Và rồi cuối cùng anh chỉ nói, “Tôi không biết phải nói gì.”

Cô đang đòi hỏi anh quá nhiều. Cô biết vậy, nhưng cô chẳng quan tâm. Cô thật quá phát ốm vì cô đơn rồi.

Nhưng ngay lúc đó, ít ra trong một chốc, cô không cô đơn. Michael ở đó, và anh đang ôm cô, và cô cảm thấy ấm áp và an toàn lần đầu tiên sau bao nhiêu tuần. Và cô chỉ khóc. Cô khóc nước mắt của bao tuần qua. Cô khóc vì John và cô khóc vì đứa bé cô sẽ không bao giờ được biết.

Nhưng trên hết cô khóc cho chính mình.

“Michael,” cô nói, sau khi đã hồi lại đủ để nói. Giọng cô vẫn còn run rẩy, nhưng cô nói được tên anh, và cô biết cô còn phải nói thêm nữa.

“Gì cơ?”

“Chúng ta không thể cứ mãi như thế này.”

Cô cảm thấy có gì đó thay đổi trong anh. Cái ôm của anh chặt hơn, hoặc là nó đã lỏng hơn, nhưng có cái gì đó không còn như cũ. “Như thế nào?” anh hỏi, giọng anh khàn và lưỡng lự.

Cô lùi lại để có thể nhìn anh, thấy nhẹ nhõm khi cánh tay của anh buông thõng xuống, và cô không phải cựa mình thoát ra. “Như thế này,” cô nói, mặc dù cô biết anh không hiểu. Hoặc là anh có hiểu, nhưng anh chỉ giả vờ không biết. “Như khi anh lờ tôi đi,” cô tiếp tục.

“Francesca, tôi—“

“Theo một khía cạnh nào đó, đứa bé cũng như con của anh,” cô buột miệng.

Anh tái mặt, tái như xác chết. Đến mức cô không thể thở nổi trong một lúc.

â€œÝ cô là gì?” anh nói khẽ.

“Nó sẽ cần một người cha,” cô nói, nhún vai vẻ bất lực. “Tôi—anh—đó sẽ phải là anh.”

“Cô có anh trai,” anh ho lên.

“Họ không biết John. Không theo cái cách anh biết.”

Anh lùi ra, đứng dậy, và như thể chưa đủ, lùi lại hết mức anh có thể, đến tận bên cửa sổ. Mắt anh hơi ánh lên, và trong một thoáng cô có thể thề là trông anh như một con thú sập bẫy, bị dồn vào chân tường và đang hoảng sợ, đợi cú kết liễu cuối cùng.

“Tại sao cô lại nói với tôi về việc này?” anh nói, giọng anh vô hồn và thấp.

“Tôi không biết,” cô nói, nuốt vào một cách khó khăn. Nhưng cô biết. Cô muốn anh đau khổ như cô đã đau khổ. Cô muốn anh đau theo tất cả những cách mà cô đã đau. Như thế là không công bằng, như thế là không tốt, nhưng cô không thể cưỡng lại được và cô cũng không cảm thấy cần phải xin lỗi về việc đó.

“Francesca,” anh nói, và giọng anh thật lạ, trống rỗng và sắc nhọn, và không giống bất cứ cái gì cô từng nghe.

Cô nhìn anh, nhưng cô quay đầu thật chậm, sợ phải nhìn cái cô có thể thấy trên gương mặt anh.

“Tôi không phải John,” anh nói.

“Tôi biết điều đó.”

“Tôi không phải John,” anh lại nói, to hơn, và cô tự hỏi liệu anh thậm chí đã nghe thấy cô nói chưa.

“Tôi biết.”

Mắt anh nheo lại và nhìn chăm chú vào cô với sự quyết liệt đến mức nguy hiểm. “Nó không phải đứa bé của tôi, và tôi không thể là cái mà cô cần.”

Và trong cô, có cái gì đó bắt đầu chết. “Michael, tôi—“

“Tôi sẽ không thay thế vị trí của anh ấy,” anh nói, và anh không quát lên, nhưng nghe như có vẻ anh muốn thế.

“Không, anh không thể. Anh—“

Và rồi, bằng một cử động chớp nhoáng đến mức đáng sợ, anh đã ở bên cô, rồi anh túm lấy vai cô và lôi cô đứng dậy. “Tôi sẽ không làm thế,” anh kêu lên, và anh lắc cô, và rồi giữ cô đứng yên, và rồi lại lắc cô. “Tôi không thể là anh ấy. Tôi sẽ không là anh ấy.”

Cô không thể nói, không thể thốt ra một từ, không biết phải làm gì.

Không biết anh là ai.

Anh thôi lắc cô, nhưng những ngón tay anh bấu sâu vào vai cô khi anh nhìn chằm chằm xuống cô, đôi mắt màu bạc của anh cháy lên một cái gì đó đáng sợ và buồn. “Cô không thể yêu cầu tôi điều đó,” anh thở dốc. “Tôi không thể làm được.”

“Michael?” cô thì thầm, nghe thấy cái gì đó thật kinh khủng trong giọng mình. Sự sợ hãi. “Michael, làm ơn thả tôi ra.”

Anh không, nhưng cô cũng không chắc anh đã nghe thấy cô. Đôi mắt anh như đã đi lạc mất, và anh dường như ở một nơi thật xa, không thể với tới.

“Michael!” cô nói lần nữa, và giọng cô lớn hơn, hoảng loạn.

Và rồi, bỗng nhiên, anh làm như cô nói, và anh lật bật lùi lại, gương mặt anh là tấm chân dung của sự ghét bỏ bản thân. “Tôi xin lỗi,” anh nói khẽ, nhìn chằm chằm vào hai bàn tay mình như thể chúng là những vật lạ. “Tôi rất xin lỗi.”

Francesca nhích ra phía cửa. “Tôi nên đi,” cô nói.

Anh gật đầu. “Phải.”

“Tôi nghĩ—“ Cô ngừng lại, nghẹn lời khi cô nắm lấy quả đấm cửa, xiết lấy nó như thể nó là vật cứu rỗi của cô. “Tôi nghĩ chúng ta không nên gặp nhau một thời gian.”

Anh gật đầu nhát gừng.

“Có thể...” Nhưng cô không nói gì nữa. Cô không biết phải nói gì. Nếu cô hiểu được chuyện gì vừa xảy ra giữa họ thì cô có thể tìm ra lời để nói, nhưng giờ thì cô quá quay cuồng và sợ hãi để có thể nghĩ ra được.

Sợ hãi, nhưng tại sao? Cô chắc chắn không sợ anh. Michael sẽ không bao giờ làm đau cô. Anh sẽ hy sinh cả mạng sống vì cô nếu đến lúc phải như thế; cô khá chắc chắn về việc đó.

Có thể cô chỉ sợ ngày mai. Và ngày tiếp theo đó. Cô đã mất tất cả mọi thứ, và giờ có vẻ cô đã mất cả Michael, và cô hoàn toàn không chắc cô sẽ phải làm thế nào để chịu đựng tất cả những cái đó.

“Tôi sẽ đi,” cô nói, cho anh một cơ hội cuối cùng để ngăn cô lại, để nói gì đó, để nói bất cứ điều gì có thể xua tan tất cả những chuyện kia.

Nhưng anh không. Anh thậm chí còn không gật đầu. Anh chỉ nhìn cô, đôi mắt anh im lặng đồng ý.

Và Francesca đi. Cô bước ra khỏi cửa và ra khỏi ngôi nhà của anh. Và cô leo lên cỗ xe của cô và về nhà.

Và cô không nói một lời nào. Cô bước lên cầu thang vào leo lên giường.

Nhưng cô không khóc. Cô cứ nghĩ là cô nên khóc, cứ nghĩ là cô có thể muốn thế.

Nhưng tất cả những gì cô làm là nhìn chằm chằm lên trần nhà. Cái trần nhà, ít nhất, cũng không thấy phiền vì ánh mắt của cô.

Tại căn hộ của anh ở khu Albany, Michael vớ lấy chai whiskey và tự rót cho mình một ly, mặc dù cái liếc qua đồng hồ cho biết vẫn chưa quá trưa.

Anh đã chìm xuống sâu hơn, ít ra điều đó cũng rõ ràng.

Nhưng có cố gắng mấy, anh cũng không thể biết anh có thể làm gì hơn. Chẳng phải là anh cố ý làm cô đau đớn, và chắc chắn anh đã không ngừng lại, suy nghĩ và quyết định Ồ đúng, tôi thực sự tin là tôi nên cư xử như một thằng khốn, nhưng dù cho phản ứng của anh có vội vàng và bột phát, anh không nghĩ anh có thể cư xử theo bất cứ cách nào khác.

Anh tự biết bản thân mình. Anh không phải lúc nào cũng—và dạo này thì còn thường xuyên—thích bản thân mình, nhưng anh biết mình. Và khi Francesca quay lại nhìn anh với đôi mắt xanh thẳm không đáy đó, và nói, “Theo một khía cạnh nào đó, đứa bé cũng như con của anh,” cô đã làm anh tan nát đến tận tâm hồn.

Cô không biết.

Cô không hề biết.

Và chỉ cần cô không biết về tình cảm của anh đối với cô, chỉ cần cô không hiểu tại sao anh không có cách nào khác ngoài việc tự ghét bản thân mình trên mỗi bước anh thay thế John, anh sẽ không thể ở gần cô. Bởi vì cô sẽ còn nói những điều như thế.

Và đơn giản là anh không biết mình có thể chịu đựng đến mức nào.

Và thế là, trong khi đứng trong phòng làm việc của mình, cơ thể anh căng ra vì đau khổ và tội lỗi, anh nhận ra hai điều.

Điều đầu tiên thì dễ. Whisky chẳng hề giúp anh giảm đau đớn, và nếu như rượu whiskey hai mươi lăm năm, lấy thẳng từ Speyside, không làm cho anh cảm thấy khá hơn, thì chẳng có gì trên đất Anh này có thể làm được.

Điều đó dẫn đến việc thứ hai, cái này thì chẳng dễ chút nào.

Nhưng anh phải làm thôi. Hiếm khi những sự lựa chọn trong cuộc đời anh lại rõ ràng đến thế. Thật đau, nhưng là rõ ràng một cách đau đớn.

Và thế là anh đặt ly của mình xuống, hai lóng tay thứ chất lỏng vẫn còn lại trong đó, và anh bước qua sảnh về phía phòng ngủ của mình.

“Reivers,” anh nói, khi gặp anh chàng người hầu đang đứng bên tủ quần áo của mình, cẩn thận gấp một chiếc cà vạt, “anh thấy Ấn Độ thế nào?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:37:13 | Xem tất
Chapter 5

...cô sẽ thích ở đây. Không phải vì cái nóng, tôi nghĩ thế; có vẻ không ai thích cái nóng cả. Nhưng những thứ còn lại sẽ làm cô bị mê hoặc. Những màu sắc, những hương vị, mùi hương trong không khí—chúng sẽ làm cho người ta có cảm giác như mơ ảo kỳ lạ và quyến rũ và đôi khi trở nên khó yên, gây nghiện. Và hơn hết, tôi nghĩ cô sẽ thích những khu vườn. Chúng khá giống những công viên ở London, ngoại trừ chúng xanh hơn và tươi tắn hơn, với đầy những loại hoa đẹp nhất cô từng thấy. Cô từng luôn thích được ở giữa thiên nhiên; cô sẽ mê mẩn điều này, tôi khá chắc chắn như vậy.

—của Michael Stirling (Bá tước Kilmartin mới) gửi Nữ bá tước Kilmartin, một tháng sau khi anh đến Ấn Độ

Francesca muốn một đứa con.

Cô đã muốn thế khá lâu, nhưng chỉ mấy tháng gần đây cô mới có thể tự thú nhận như vậy, có thể đặt tên cho cái cảm giác khao khát dường như luôn cùng cô ở bất cứ nơi đâu cô đi.

Việc này bắt đầu khá vô tình, với cái đau nhói khe khẽ trong tim khi cô đọc lá thư của Kate, vợ anh trai cô, lá thư đầy những tin tức về bé gái Charlotte của họ, sắp tròn hai tuổi và đã nghịch ngợm hết cách chữa.

Nhưng cái đau nhói đó ngày càng trở nên tệ, thành một cái gì đó giống sự đau đớn hơn, khi Daphne chị cô tới Scotland thăm, mang theo cả bốn đứa nhỏ nhà chị ấy. Francesca chưa hề nghĩ một đám trẻ có thể hoàn toàn thay đổi một ngôi nhà như vậy. Những đứa trẻ nhà Hasting đã thay đổi đến cả không khí của Kilmartin, mang đến sức sống và tiếng cười mà Francesca nhận ra nơi đây đã thiếu bao năm qua.

Và rồi chúng đi, và tất cả lại yên lặng, nhưng không phải là bình yên.

Chỉ là trống trải.

Từ đó trở đi, Francesca đã thay đổi. Cô nhìn thấy một cô bảo mẫu đẩy một cái xe nôi, và tim cô đau. Cô liếc thấy một con thỏ chạy qua cánh đồng và không thể không nghĩ rằng lẽ ra cô đang chỉ nó cho một ai đó thấy, một ai đó thật nhỏ. Cô đến Kent chơi Giáng sinh với gia đình, nhưng khi đêm xuống, tất cả các cháu trai cháu giá của cô đã đi ngủ, cô cảm thấy quá cô đơn.

Tất cả những gì cô có thể nghĩ là cuộc đời cô đang trôi đi, và nếu cô không sớm làm cái gì đó, cô sẽ chết như thế này.

Cô đơn.

Không phải không hạnh phúc—cô không phải như thế. Thật lạ, cô đã quen với chuyện góa bụa và tìm thấy thói quen đủ thoải mái và thỏa mãn trong cuộc sống. Đó là một điều cô chưa bao giờ tin là có thể xảy ra trong những tháng khủng khiếp ngay sau cái chết của John, nhưng cô đã làm được, bằng cách thử và thử, và tìm thấy chỗ của mình trong thế giới này. Và đi cùng nó, là một chút bình yên.

Cô thích cuộc sống làm Nữ bá tước Kilmartin—Michael vẫn chưa lấy vợ, và thế là cô giữ nguyên trách nhiệm cũng như tước vị. Cô yêu Kilmartin, và cô quản lý nó mà không hề bị Michael can thiệp; chỉ thị của anh trước lúc rời đất nước bốn năm trước là cô có thể quản lý lãnh địa theo cách cô thấy hợp lý, và khi cú shock vì anh ra đi đã dịu lại, cuối cùng cô nhận ra đó là món quà quý giá nhất anh có thể đem lại cho cô.

Điều đó đã cho cô một cái gì đó để làm, cái gì đó để hướng tới.

Một lý do để thôi nhìn chằm chằm lên trần nhà.

Cô có bạn bè, và cô có gia đình, cả Stirling và Bridgerton, và cô có một cuộc sống đầy đủ, ở Scotland và London, nơi cô ở vài tháng mỗi năm.

Vì thế cô đáng ra phải hạnh phúc. Và cô có hạnh phúc, gần như thế.

Cô chỉ muốn một đứa con.

Cô đã tốn kha khá thời gian để có thể tự thú nhận như vậy. Mong ước này dường như có hơi thiếu chung thủy với John; nó sẽ không phải là con của anh, dù sao đi nữa, và ngay cả bây giờ, khi anh đã mất bốn năm, thật khó tưởng tượng một đứa bé không có những đường nét của anh thoáng trên khuôn mặt.

Và điều đó có nghĩa là, đầu tiên và tiên quyết, cô sẽ phải tái giá. Cô sẽ phải đổi họ và đính ước với một người đàn ông khác, sẽ phải thề đặt anh ta lên hàng đầu trong trái tim và chung thủy, và trong khi ý nghĩ đó không còn làm tim cô quặn đau, có vẻ nó hơi... ừm... lạ lẫm.

Nhưng cô nghĩ có một vài điều mà một người đàn bà đơn giản phải bỏ lại phía sau, và một ngày Tháng hai lạnh lẽo, khi cô nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ ở Kilmartin, nhìn ngắm tuyết chầm chậm phủ một tấm vải trắng quanh những cành cây, cô nhận ra đây là một trong những điều đó.

Có rất nhiều chuyện trong cuộc đời này mà người ta phải e ngại, nhưng sự lạ lẫm không nên nằm trong số đó.

Và thế là cô quyết định gói ghém đồ đạc và xuống London sớm hơn một chút năm nay. Cô thường dự mùa lễ hội ở đó, dành thời gian bên gia đình, mua sắm và dự những buổi hòa nhạc, xem kịch và làm tất cả những việc mà tóm lại là không thể làm tại vùng quê Scotland. Nhưng mùa này sẽ khác. Cô cần một tủ quần áo mới, là một. Cô đã thôi để tang khá lâu, nhưng cô vẫn chưa hoàn toàn rũ bỏ những bộ đồ màu xám và xanh tái của giai đoạn nửa tang, và cô chắc chắn không quan tâm đến thời trang theo cách mà một phụ nữ ở vị trí cô nên như thế.

Đã đến lúc mặc đồ màu xanh. Màu xanh sáng, đẹp, màu hoa ngô. Đó là màu ưa thích của cô nhiều năm trước, và cô cũng đủ kiêu để mặc màu đó và chờ đợi người ta khen rằng nó hợp với màu mắt cô đến thế nào.

Cô sẽ mua đồ màu xanh, và đúng rồi, màu hồng và vàng nữa, và thậm chí có thể là—có cái gì đó trong tim cô run lên háo hức trước ý nghĩ đó—màu đỏ tía.

Cô sẽ không phải là một cô gái trẻ chưa chồng lần này. Cô sẽ là một bà góa có thể tái giá, và những quy định sẽ khác đi.

Nhưng mục đích thì vẫn thế.

Cô sẽ đến London để tìm cho mình một người chồng.

Đã quá lâu rồi.

Michael biết rằng việc trở về Anh của anh lẽ ra phải từ lâu rồi, và nó là một trong những thứ có thể bị lờ đi thật dễ dàng đến mức ngạc nhiên. Theo như những lá thư của mẹ anh, đến được với anh một cách thường xuyên lạ thường, lãnh địa đang rất thịnh vượng dưới sự quản lý của Francesca. Không người dưới quyền nào có thể buộc tội anh đã bỏ mặc họ, và nhìn chung, tất cả những ai anh để lại phía sau đều đang sống tốt với sự vắng mặt của anh hơn là nếu anh ở bên cạnh để giúp họ.

Thế nên chẳng có gì để cảm thấy có lỗi cả.

Nhưng một người đàn ông cũng chỉ có thể chạy trốn số phận lâu đến vậy thôi, và khi anh đánh dấu năm thứ ba của mình ở vùng nhiệt đới, anh phải thừa nhận rằng sự mới mẻ của một cuộc sống xa lạ đã nhạt đi, và nếu phải nói thẳng, anh bắt đầu phát ốm vì cái thời tiết này. Ấn Độ đã cho anh một mục đích, một chỗ trong cuộc đời để vượt xa khỏi hai thứ duy nhất anh từng rất giỏi—chiến đấu và chơi bời. Anh đã lên tàu với không gì cả ngoài cái tên của một người bạn chiến đấu đã chuyển đến Madras ba năm trước đó. Trong vòng một tháng anh đã có một vị trí trong chính quyền và nhận ra mình đang đưa ra những quyết định quan trọng, thi hành các đạo luật và chính sách thực sự thay đổi cuộc sống của con người.

Lần đầu tiên, Michael cuối cùng cũng có thể hiểu tại sao John lại say mê công việc của anh ấy trong Nghị viện Anh đến thế.

Nhưng Ấn Độ không làm anh hạnh phúc. Nó đã cho anh một chút yên bình, điều này có vẻ hơi mâu thuẫn, bởi vì trong mấy năm vừa rồi anh đã suýt chết ba lần, bốn nếu tính cả lần chạm trán với cô công chúa Ấn Độ mang dao đó (Michael vẫn nghĩ rằng anh đã có thể tước vũ khí của cô ta mà không làm cô bị thương, nhưng cô ta, anh phải thú thật, có một cái nhìn chết chóc trong đôi mắt, và anh từ lâu đã học được rằng người ta không bao giờ được đánh giá thấp một người đàn bà khi cô ta tin rằng—dù có sai đến mức nào—cô ta bị khinh bạc.)

Bỏ những giai thoại nguy hiểm chết chóc sang một bên, mặc dù vậy, thời gian anh ở Ấn Độ đã mang lại cho anh một cảm giác cân bằng nào đó. Anh cuối cùng đã làm được cái gì đó cho mình, đã tự mình làm được cái gì đó.

Nhưng quan trọng nhất, Ấn Độ đã mang lại cho anh sự bình yên bởi vì anh không phải sống với suy nghĩ thường trực rằng Francesca chỉ ở ngay sau góc đường kia.

Cuộc đời không hẳn tốt hơn với hàng ngàn dặm giữa anh và Francesca, nhưng chắc chắn nó đã dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, đã đến lúc phải đối mặt với sự khó khăn khi có cô ở gần, và thế là anh gói ghém đồ đạc, thông báo với anh chàng người hầu vừa thở phào nhẹ nhõm của anh rằng họ sẽ quay về Anh, đặt vé một khoang hạng sang bên mạn phải chiếc Princess Amelia, và về nhà.

Anh sẽ phải đối diện với cô, tất nhiên. Chẳng có cách nào thoát khỏi chuyện đó. Anh sẽ phải nhìn vào đôi mắt xanh từng luôn ám ảnh anh và cố làm bạn với cô. Đó là thứ duy nhất cô muốn trong những ngày đen tối sau cái chết của John, và đó là điều duy nhất anh hoàn toàn không thể làm cho cô.

Nhưng có thể giờ đây, với khả năng hàn gắn của thời gian và khoảng cách, anh có thể cố được. Anh không ngu đến mức hy vọng rằng cô đã thay đổi, rằng anh sẽ nhìn cô và nhận ra rằng anh không còn yêu cô nữa—điều đó, anh chắc chắn, sẽ không bao giờ xảy ra. Nhưng Michael đã quen nghe thấy từ “Bá tước Kilmartin” mà không phải ngoái nhìn ra sau lưng để tìm anh họ mình. Và có thể giờ đây, khi nỗi đau không còn quá mới nguyên, anh có thể ở bên Francesca bằng tình bạn, mà không cảm thấy như thể anh là tên kẻ trộm, âm mưu đánh cắp cái anh đã thèm khát bấy lâu.

Và hy vọng là cả cô nữa, đã sống tiếp, và sẽ không đòi hỏi anh làm tròn những trách nhiệm của John theo mọi cách ngoại trừ một thứ.

Nhưng dù sao, anh cũng mừng vì lúc đó sẽ là Tháng ba khi anh xuống tàu ở London, quá sớm trong năm để Francesca xuống dự mùa lễ hội.

Anh là một người đàn ông can đảm; anh đã chứng minh điều đó không biết bao lần, trong và ngoài chiến trường. Nhưng anh cũng là một người đàn ông trung thực, đủ trung thực để thú nhận là cái ý nghĩ phải đối mặt với Francesca thật đáng sợ theo một cách mà chẳng có chiến trường đất Pháp hay con hổ răng sắc nào có thể so được.

Có thể, nếu anh may mắn, cô sẽ quyết định không xuống London dự mùa lễ hội.

Chẳng phải thế thì thật may mắn sao.

Thật tối, và cô không thể ngủ, và căn nhà lạnh đến mức khổ sở, và tệ nhất là, tất cả đều do lỗi của cô. Ồ, được rồi, bóng tối thì không phải. Francesca tin là cô không phải nhận lỗi vì chuyện đó. Đêm là đêm, dù sao đi nữa, và cô sẽ quá ngông cuồng nếu nghĩ rằng cô có dính líu gì đó đến chuyện mặt trời lặn xuống. Nhưng đó là lỗi của cô khi căn nhà không có đủ thời gian để chuẩn bị đón cô đến. Cô đã quên gửi lời nhắn rằng cô định xuống London sớm hơn một tháng, và kết quả là, Ngôi nhà Kilmartin vẫn đang hoạt động với số người làm ít nhất, và dự trữ than và sáp ong thì thiếu đến mức đáng báo động.

Tất cả sẽ khá hơn ngày mai, sau khi người hầu và ông quản gia lao như điên ra các cửa hàng ở Bond Street, nhưng bây giờ thì Francesca đang run lên trong giường của mình. Đó là một ngày lạnh cóng đến mức kinh khủng, với một trận gió dữ dội làm cho nó trở nên lạnh hơn nhiều so với bình thường vào đầu Tháng ba. Người quản gia đã định chuyển tất cả chỗ than còn lại vào cho lò sưởi của Francesca, nhưng dù có là nữ bá tước hay không, cô cũng không thể để cho những người trong nhà chết cóng vì mình. Hơn nữa, phòng ngủ của nữ bá tước rộng mênh mông, và rất khó để làm ấm nó hoàn toàn trừ phi tất cả căn nhà cũng ấm luôn.

Thư viện. Đúng rồi. Nó nhỏ và ấm cúng, và nếu Francesca đóng cửa lại, một ngọn lửa trong lò của nó đủ để làm căn phòng dễ chịu và ấm áp. Hơn nữa, ở đó có một cái ghế trường kỷ cô có thể nằm. Nó nhỏ, nhưng cô cũng thế, và nó chẳng thể tệ hơn là chết cóng trong phòng ngủ của chính cô.

Ý đã quyết, Francesca nhảy ra khỏi giường và lao qua màn không khí lạnh ban đêm về phía cái áo khoác, đang vắt trên lưng một chiếc ghế. Nó hoàn toàn không đủ ấm—Francesca đã không nghĩ cô cần cái gì đó dày hơn—nhưng ít ra còn hơn là không có gì, và, cô nghĩ bình thản, ăn xin thì chẳng thể chọn lựa nhiều, đặc biệt khi những ngón chân người ta sắp rụng ra vì lạnh.

Cô vội vàng xuống cầu thang, đôi tất len dày cộp của cô trượt và tuột đi trên những bậc thang trơn bóng. Cô lập cập xuống hai bậc cuối cùng, may mà xuống đến đất trên đôi chân, rồi chạy theo tấm thảm dẫn tới thư viện.

“Lửa lửa lửa,” cô lẩm bẩm một mình. Cô sẽ rung chuông gọi ai đó ngay khi cô vào thư viện. Họ sẽ nhóm được một ngọn lửa sáng rực ngay thôi. Cô sẽ kiếm lại được cảm giác trên mũi, những ngón tay của cô sẽ không còn cái màu xanh phát ốm kia nữa và—

Cô đẩy mở cánh cửa.

Một tiếng thét ngắn, ngắt quãng vọt ra khỏi môi cô. Đã có lửa trong lò, và một người đàn ông đứng cạnh đó, im lặng sưởi ấm hai bàn tay anh ta.

Francesca với loạn xạ ra xung quanh để kiếm cái gì đó—bất cứ thứ gì—cô có thể dùng làm vũ khí.

Và rồi anh tay quay lại.

“Michael?”

Anh không biết cô sẽ ở London. Khỉ thật, anh thậm chí không để ý rằng cô có thể sẽ ở London. Chẳng phải là cái đó sẽ thay đổi gì, nhưng ít ra anh cũng được chuẩn bị. Anh sẽ không biến nét mặt mình thành một cái cười méo mó lờ đờ, hoặc ít nhất đảm bảo rằng anh sẽ ăn mặc một cách hoàn hảo và chìm đắm vào vai một tay chơi hết cách chữa.

Nhưng không, anh ở đây, chỉ há miệng nhìn cô, cố không nhận ra rằng cô đang chẳng mặc gì ngoài một cái áo khoác đêm đỏ thẫm và một cái váy dài, thật mỏng và suôn đến mức anh có thể nhìn thấy hình dáng của—

Anh nuốt vào. Không nhìn. Không được nhìn.

“Michael?” cô nói khẽ lần nữa.

“Francesca,” anh nói, bởi vì anh phải nói gì đó. “Cô đang làm gì ở đây?”

Và cái đó dường như lôi cô trở lại với suy nghĩ và cử động. “Tôi đang làm gì ở đây?” cô nhắc lại. “Tôi không phải người đáng ra đang ở Ấn Độ. Anh đang làm gì ở đây?”

Anh nhún vai bất cần. “Nghĩ là đã đến lúc về nhà.”

“Anh không thể viết thư sao?”

“Cho cô?” anh hỏi, nhướng một bên mày. Đó là, mà anh có ý như vậy, một cú trúng đích. Cô đã không viết cho anh lấy một lá thư trong khi anh đí. Anh đã gửi cho cô ba lá thư, nhưng khi rõ ràng là cô không định trả lời, anh đã gửi tất cả tin tức cho mẹ anh và mẹ John.

“Cho bất cứ ai,” cô trả lời. “Ai đó có thể ở đã đây và đón anh.”

“Cô đang ở đây,” anh chỉ ra.

Cô nhăn mặt với anh. “Nếu tôi biết anh đến, tôi đã chuẩn bị căn nhà sẵn sàng cho anh.”

Anh nhún vai. Cử động đó dường như thể hiện đúng cái hình ảnh anh cố gắng hết mức để đạt được. “Nó đủ sẵn sàng rồi.”

Cô vòng tay ôm lấy người mình, ngăn anh không thấy được ngực cô, việc đó, anh phải thừa nhận, có lẽ là điều tốt nhất. “Ừm, anh lẽ ra nên viết,” cuối cùng cô nói, giọng cô hơi cao trong không khí ban đêm. “Đó chỉ là phép lịch sự.”

“Francesca,” anh nói, khẽ quay mặt về phía khác để có thể tiếp tục xoa tay bên ngọn lửa, “cô có biết một lá thư mất bao lâu để đến được London từ Ấn Độ không?”

“Năm tháng,” cô trả lời rành rọt. “Bốn, nếu như gió thuận.”

Khỉ thật, cô ấy nói đúng. “Cứ cho là thế,” anh nói vẻ bực bội, “đến khi tôi quyết định trở về, việc gửi thông báo trước cũng chẳng có ích mấy. Lá thư có thể đã rời Ấn Độ trên cùng một con tàu với tôi.”

“Thật sao? Tôi tưởng tàu khách thường chậm hơn những con tàu chở thư.”

Anh thở dài, ngoái nhìn cô qua vai. “Tàu nào cũng chở thư cả. Và hơn nữa, chuyện đó có thực sự quan trọng không?”

Trong thoáng chốc anh nghĩ cô sẽ trả lời có, nhưng rồi cô nói khẽ, “Không, tất nhiên là không. Điều quan trọng là anh đã ở nhà. Mẹ anh sẽ rất mừng.”

Anh quay người đi để cô không thể thấy nụ cười chẳng có vẻ gì vui của anh. “Đúng thế,” anh lẩm bẩm, “tất nhiên.”

“Và tôi—“ Cô dừng lại, hắng giọng. “Tôi cũng rất vui vì anh đã về.”

Nghe như thể cô đang cố tự thuyết phục mình tin như vậy, nhưng Michael quyết định làm một quý ông lần này và không chỉ điều đó ra. “Cô có lạnh không?” thay vào đó anh hỏi.

“Không lạnh lắm,” cô nói.

“Cô nói dối.”

“Chỉ một chút.”

Anh bước sang bên, dành chỗ cho cô lại gần ngọn lửa hơn. Khi anh không nghe thấy cô tiến lại gần, anh đưa tay về phía chỗ trống.

“Tôi nên quay về phòng mình,” cô nói.

“Vì Chúa, Francesca, nếu cô lạnh, thì cứ đến bên ngọn lửa. Tôi không cắn đâu.”

Cô nghiến răng và bước tới, bên cạnh anh gần ánh lửa. Nhưng cô ở hơi chếch sang bên một chút, giữ một chút khoảng cách giữa họ. “Trông anh ổn,” cô nói.

“Cô cũng thế.”

“Cũng khá lâu rồi.”

“Tôi biết. Bốn năm, tôi tin vậy.”

Francesca nuốt khan, ước sao chuyện này không khó khăn đến vậy. Đây là Michael, vì chúa. Lẽ ra nó không nên khó khăn. Phải, họ đã chia tay rất tệ, nhưng đó là những ngày đen tối ngay sau cái chết của John. Họ đều đang đau đớn lúc đó, những con thú bị thương cắn xé bất cứ ai chúng gặp. Lẽ ra bây giờ phải khác. Có chúa chứng giám cô đã thường xuyên nghĩ về thời khắc này. Michael sẽ không thể xa cách mãi mãi, tất cả bọn họ đều biết vậy. Nhưng khi cơn giận dữ ban đầu của cô đã qua, cô hy vọng rằng khi anh thực sự trở về, họ có thể quên đi bất cứ điều gì khó chịu đã xảy ra giữa họ.

Và lại làm những người bạn. Cô cần cái đó, hơn cả cô từng nhận ra.

“Anh có kế hoạch gì không?” cô hỏi, phần nhiều bởi vì sự im lặng thật kinh khủng.

“Bây giờ, tất cả những gì tôi có thể nghĩ là làm ấm người,” anh lẩm bẩm.

Cô mỉm cười với chính mình. “Trời quá lạnh cho thời gian này của năm.”

“Tôi đã quên mất rằng ở đây có thể lạnh đến mức đáng nguyền rủa,” anh rên lên, xoa tay vào nhau thật nhanh.

“Người ta thường nghĩ họ sẽ không bao giờ thoát khỏi ký ức về một mùa đông Scotland,” Francesca thì thầm.

Anh quay sang cô, một nụ cười ranh mãnh hé ra bên khóe miệng. Anh đã thay đổi, cô nhận ra. Ồ, có những sự khác biệt rõ ràng—những cái ai cũng sẽ nhận ra. Anh rám nắng, đến mức kinh khủng, và tóc anh, lúc nào cũng đen như màn đêm, giờ đã có thêm vài nhánh màu bạc lạ lùng.

Nhưng còn có nhiều hơn thế nữa. Anh ngậm miệng theo một kiểu khác, chặt hơn, nếu cái đó có nghĩa, và sự duyên dáng mượt mà, uyển chuyển đã không còn. Anh từng luôn có vẻ thật thoải mái, thật dễ chịu với chính mình, nhưng giờ anh... căng thẳng.

Gượng gạo.

“Cô sẽ nghĩ,” anh lầm bầm, và cô chỉ nhìn anh trống rỗng, quên mất rằng anh đang trả lời câu gì cho đến khi anh thêm, “tôi về bởi vì tôi không thể chịu được cái nóng thêm nữa, và giờ tôi ở đây, chuẩn bị chết vì lạnh.”

“Sắp đến mùa xuân rồi,” cô nói.

“À, đúng, mùa xuân. Với những cơn gió chỉ hơi lạnh cóng, trái với những cơn gió băng giá của mùa đông.”

Cô bật cười vì câu đó, hài lòng một cách kỳ lạ vì có cái gì đó để mà cười trong sự có mặt của anh. “Ngôi nhà sẽ khá hơn ngày mai,” cô nói. “Tôi vừa mới đến tối nay, và cũng như anh, tôi quên gửi lời nhắn trước. Bà Parrish đảm bảo với tôi ngôi nhà sẽ được dự trữ đầy đủ ngày mai.”

Anh gật đầu, rồi quay lại để sưởi cái lưng. “Cô đang làm gì ở đây?”

“Tôi?”

Anh đưa tay chỉ một lượt căn phòng trống, như thể khẳng định.

“Tôi sống ở đây,” cô nói.

“Cô thường không xuống cho đến Tháng tư.”

“Anh biết chuyện đó?”

Trong một thoáng, trông anh như có vẻ ngượng. “Những lá thư của mẹ tôi chi tiết một cách ngạc nhiên,” anh nói.

Cô nhún vai, rồi nhích gần hơn một chút về phía ngọn lửa. Cô không nên đứng gần anh như vậy, nhưng kệ xác, cô vẫn khá lạnh, và cái áo khoác mỏng của cô chẳng giúp chống chọi lại hơi lạnh được mấy.

“Cái đó là câu trả lời sao?” anh nói thật chậm.

“Tôi chỉ thấy thích thế,” cô nói ráo hoảnh. “Đó chẳng phải là đặc quyền của một quý cô sao?”

Anh lại quay người, có lẽ để làm ấm bên hông, và rồi anh đối diện với cô.

Và dường như anh đang ở gần kinh khủng.

Cô nhích người, chỉ một inch gì đó; cô không muốn anh nhận ra cô không thoải mái với sự gần gũi của anh.

Cũng như cô không muốn tự thú nhận với mình như vậy.

“Tôi tưởng đặc quyền của một quý cô là được thay đổi ý định,” anh nói.

“Đặc quyền của một quý cô là được làm bất cứ cái gì cô ta muốn,” Francesca nói thật ngang ngạnh.

“Tôi thua,” Michael lẩm bẩm. Anh lại nhìn cô, lần này kỹ hơn. “Cô không hề thay đổi.”

Đôi môi cô hé ra. “Sao anh có thể nói thế?”

“Bởi vì trông cô giống hệt như tôi vẫn nhớ.” Và rồi, một cách quỷ quái, anh phẩy tay về phía bộ đồ ngủ hớ hênh của cô. “Ngoại trừ quần áo của cô, tất nhiên.”

Cô há hốc miệng và lùi lại, vòng tay ôm lấy mình chặt hơn.

Anh cảm thấy hơi bệnh, nhưng khá hài lòng vì đã làm cô bực. Anh cần cô tránh xa ra, xa khỏi tầm với của anh. Cô sẽ cần phải đặt ra các ranh giới.

Bởi vì anh không chắc anh có thể làm được như vậy.

Anh đã nói dối khi nói rằng cô không hề thay đổi. Có cái gì đó khác ở cô, một cái gì đó hoàn toàn không đoán trước.

Cái gì đó làm anh run rẩy đến tận tâm hồn.

Nó là một cảm giác về cô—tất cả chỉ là trong đầu anh, thật thế, nhưng không kém phần dữ dội. Có một cảm giác được cho phép, một ý thức khủng khiếp, như tra tấn, rằng John đã đi rồi, đã thực sự hoàn toàn đi rồi, và thứ duy nhất ngăn Michael đưa tay ra chạm vào cô chính là lương tâm của anh.

Chuyện này gần như rất buồn cười.

Gần như.

Và cô ở đó, vẫn chẳng hề biết, hoàn toàn không hay rằng người đàn ông đang đứng bên cô chẳng muốn gì hơn là lột tất cả những lớp lụa kia khỏi thân thể cô và đặt cô xuống bên ngọn lửa. Anh muốn dang hai đùi cô ra, chìm sâu vào cô, và—

Anh cười u ám. Bốn năm, có vẻ, đã chẳng làm nguội đi cái mơ ước không thích hợp của anh được bao nhiêu.

“Michael?”

Anh nhìn sang phía cô.

“Có gì buồn cười vậy?”

Câu hỏi của cô, chính là nó. “Cô sẽ không hiểu đâu.”

“Cứ thử xem,” cô khích.

“Ồ, tôi nghĩ là không.”

“Michael,” cô dí thêm.

Anh quay sang cô và nói với vẻ lạnh lùng cố ý,

“Francesca, có những điều cô sẽ không bao giờ hiểu.”

Đôi môi cô mở ra, trong một thoáng trông cô như vừa bị đánh một cú.

Và anh cảm thấy tệ hại như thể anh vừa làm điều đó.

“Nói ra một điều như vậy thật là tệ,” cô thì thào.

Anh nhún vai.

“Anh đã thay đổi rồi,” cô nói.

Điều đáng buồn là, anh không. Không theo bất cứ cách nào có thể làm cuộc đời anh dễ chịu đựng hơn. Anh thở dài, tự ghét bản thân bởi vì anh không thể chịu được khi cô ghét anh. “Tha lỗi cho tôi,” anh nói, luồn tay vào tóc mình. “Tôi mệt, và tôi lạnh, và tôi là một thằng khốn.”

Cô mỉm cười với câu đó, và trong một thoáng họ như đi ngược lại thời gian. “Không sao cả,” cô nói một cách ân cần, chạm vào cánh tay anh. “Anh vừa có một chuyến đi dài.”

Anh hít vào một hơi. Cô vẫn hay làm thế này—chạm vào cánh tay anh một cách thân mật. Không bao giờ khi ra ngoài, tất nhiên, và hiếm khi ngay cả khi họ chỉ có hai người. John thường ở đó; John luôn ở đó. Và nó luôn luôn—luôn luôn—làm anh run lên.

Nhưng chưa bao giờ đến mức này.

“Tôi cần đi ngủ,” anh nói khẽ. Anh thường là bậc thầy trong việc che giấu sự bất thường, nhưng anh chưa được chuẩn bị để gặp cô tối nay, và hơn nữa, anh mệt kinh khủng.

Cô thu tay về. “Sẽ không có phòng sẵn sàng cho anh đâu. Anh nên ngủ ở phòng tôi. Tôi sẽ ngủ ở đây.”

“Không,” anh nói, với nhiều sức hơn anh dự định. “Tôi sẽ ngủ ở đây, hoặc là... địa ngục,” anh lầm bầm, sải bước qua phòng để giật cái chuông. Làm Bá tước Kilmartin để làm cái quái gì nếu anh không thể có một phòng ngủ sẵn sàng trong đêm?

Hơn nữa, rung chuông cũng có nghĩa là một người hầu sẽ đến trong vòng vài phút, và như thế có nghĩa là anh sẽ không đứng đây một mình với Francesca.

Chẳng phải là họ chưa bao giờ ở một mình với nhau trước đây, nhưng chưa bao giờ vào ban đêm, và chưa bao giờ cô mặc đồ ngủ, và—

Anh lại giật cái chuông.

“Michael,” cô nói, giọng cô gần như có vẻ thích thú. “Tôi đảm bảo là họ đã nghe thấy anh lần đầu tiên.â€â€œÔi, 

“Phải, ừm, một ngày thật dài,” anh nói. “Bão trên eo biển và đủ thứ chuyện.”

“Anh sẽ phải kể cho tôi về chuyến đi của anh sớm,” cô nói nhẹ nhàng.

Anh nhìn sang phía cô, nhướng mày. “Tôi đã có thể viết thư cho cô về cái đó.”

Đôi môi cô cong lên một chốc. Đó là vẻ mặt anh đã thấy không biết bao lần trên gương mặt cô. Cô đang cố tìm lời, quyết định xem có nên chọc anh với cái tính hóm hỉnh đã thành huyền thoại của cô.

Và rõ ràng là cô đã quyết định thôi, bởi vì thay vào đó cô nói, “Tôi đã rất giận anh vì anh đi.”

Anh hít một hơi. Hãy tin Francesca khi cô quyết định nói ra sự thật phũ phàng thay vì một câu bắt bẻ thô bạo.

“Tôi xin lỗi,” anh nói, và anh thực sự nghĩ vậy, mặc dù anh sẽ không thay đổi bất cứ việc làm nào của mình. Anh cần đi. Anh phải đi. Có thể điều đó đồng nghĩa với việc anh là một thằng nhát gan; có thể anh không được đàn ông cho lắm. Nhưng anh chưa sẵn sàng để làm bá tước. Anh không phải John, không bao giờ có thể là John. Và dường như đó là điều duy nhất mọi người muốn ở anh.

Ngay cả Francesca nữa, theo cái cách nửa vời của riêng cô.

Anh nhìn cô. Anh khá chắc cô vẫn không hiểu tại sao anh lại ra đi. Cô có thể nghĩ là cô hiểu, nhưng sao cô hiểu được? Cô không biết rằng anh yêu cô, không thể hiểu được anh cảm thấy tội lỗi thế nào khi sống cuộc sống của John.

Nhưng chẳng cái nào là lỗi của cô cả. Và khi anh nhìn cô, đứng đó, mong manh và kiêu hãnh khi cô nhìn chằm chằm vào ngọn lửa, anh nói lại lần nữa.

“Tôi xin lỗi.”

Cô chấp nhận lời xin lỗi của anh bằng một cái gật đầu thật khẽ. “Tôi lẽ ra nên viết thư cho anh,” cô nói. Rồi cô quay sang anh, đôi mắt cô tràn ngập nỗi buồn và có thể một chút dấu hiệu của sự xin lỗi. “Nhưng sự thật là, tôi không cảm thấy muốn như vậy. Nghĩ đến anh làm tôi nghĩ đến John, và tôi nghĩ tôi không cần thiết phải nghĩ về anh ấy quá nhiều lúc đó.”

Michael không giả vờ hiểu, nhưng anh vẫn gật đầu.

Cô mỉm cười đăm chiêu. “Chúng ta đã thật vui vẻ, ba chúng ta, phải không?”

Anh lại gật đầu. “Tôi nhớ anh ấy,” anh nói, và anh ngạc nhiên vì cảm giác thật dễ chịu khi nói điều đó ra.

“Tôi từng luôn nghĩ sẽ rất tuyệt khi cuối cùng anh lấy vợ,” Francesca thêm. “Anh sẽ chọn ai đó thật thông minh và vui tính, tôi chắc chắn. Và bốn chúng ta đã có thể vui vẻ đến mức nào.”

Michael ho lên. Có vẻ đó là hành động hợp lý nhất.

Cô nhìn lên, thoát ra khỏi cơn mơ màng. “Anh bị cảm lạnh à?”

“Có thể. Tôi sẽ ốm thập tử nhất sinh trước Thứ bảy, tôi chắc thế.”

Cô nhướng mày. “Tôi mong là anh không hy vọng tôi chăm sóc anh.”

Đúng cái mở đầu anh cần để hướng cuộc nói chuyện của họ theo hướng anh cảm thấy dễ chịu nhất. “Không cần thiết,” anh nói và phẩy tay. “Tôi sẽ chẳng cần đến ba ngày để thu hút một bầy phụ nữ không phù hợp để quan tâm tới tất cả các nhu cầu của tôi.”

Đôi môi cô khẽ cong lên, nhưng rõ ràng cô thấy thích thú. “Vẫn thế, tôi hiểu rồi.”

Anh nhếch mép cười với cô. “Chẳng ai thực sự thay đổi cả, Francesca.”

Cô nghiêng đầu sang một bên, hất đầu về phía sảnh, nơi họ có thể nghe thấy ai đó đang tiến về phía họ với những bước chân nhanh nhẹn. Người chạy việc tới, và Francesca lo mọi việc, để cho Michael không phải làm gì ngoài việc đứng bên ngọn lửa, trông hơi có uy khi anh gật đầu đồng ý.

“Chúc ngủ ngon, Michael,” cô nói, sau khi người chạy việc đã đi làm những gì cô bảo.

“Chúc ngủ ngon, Francesca,” anh nói khẽ.

“Thật tốt được gặp lại anh,” cô nói. Và rồi, như thể cô cần phải khẳng định điều đó với một người trong bọn họ—anh không biết chắc là ai, cô thêm, “Thực sự là như vậy.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:39:54 | Xem tất
Chapter 6

…Tôi xin lỗi vì đã không viết thư. Không, không phải vậy. Tôi không xin lỗi. Tôi không muốn viết. Tôi không muốn nghĩ về—

—của Nữ bá tước Kilmartin gửi cho Bá tước Kilmartin mới, một ngày sau khi nhận được thư của anh cho cô, bị xé thành từng mảnh, rồi thấm đẫm nước mắt

Khi Michael tỉnh dậy sáng hôm sau, Ngôi nhà Kilmartin dường như đã trở lại và hoạt động xứng tầm là ngôi nhà của một bá tước. Có lửa trong tất cả các lò, và một bữa sáng thật tuyệt đã được bày ra trong phòng ăn thân mật, với trứng chưng, thịt nguội, thịt muối, xúc xích, bánh mì nướng với bơ và mứt, và món yêu thích của anh, cá thu rán.

Tuy vậy, Francesca thì không thấy đâu cả.

Khi anh hỏi về cô, anh được đưa cho một mảnh giấy gấp cô để lại cho anh sáng hôm đó. Có vẻ cô cảm thấy sẽ có miệng lưỡi đàm tiếu việc họ ở riêng với nhau tại Ngôi nhà Kilmartin, và thế là cô quay về nhà mẹ đẻ tại Số Năm, Bruton Street, cho đến khi Janet hoặc Helen từ Scotland xuống. Tuy nhiên, cô có mời anh đến thăm ngày hôm đó, vì cô chắc họ có nhiều việc để bàn.

Và Michael nghĩ là cô nói đúng, vì thế sau khi anh xong bữa sáng (nhận ra, một cách thật ngạc nhiên, rằng anh cũng hơi nhớ món sữa chua và bánh dosas trong bữa sáng Ấn Độ của mình), anh bước ra ngoài và đến Số Năm.

Anh chọn đi bộ; cũng chẳng phải xa lắm, và không khí đã ấm lên đáng kể kể từ sau những trận gió băng giá hôm trước. Nhưng trên hết, anh chỉ muốn nhìn ngắm cảnh thành phố, để nhắc mình nhớ lại nhịp điệu của London. Anh chưa bao giờ nhận ra những mùi vị và âm thanh đặc trưng của thủ đô trước đây, cái cách tiếng lóc cóc của vó ngựa hòa với tiếng rao vui vẻ của những người bán hoa và những giọng ồm ồm lịch sự. Có tiếng bước chân anh trên vỉa hè, và mùi lạc rang, và vị xút thoảng trong không khí, tất cả hòa vào tạo thành một cái gì đó đặc trưng của London.

Điều này gần như hấp dẫn không thể cưỡng lại nổi, thật là lạ, bởi vì anh nhớ từng cảm thấy hệt như vậy khi đặt chân xuống Ấn Độ bốn năm trước. Không khí ẩm ướt, sực nức mùi hương liệu và hoa, đã làm choáng váng mọi giác quan của anh. Nó có cảm giác như một cuộc tấn công, làm cho anh lơ mơ và mất phương hướng. Và trong khi phản ứng của anh với London không kịch tính quá như thế, anh vẫn cảm thấy hơi giống một người lạ, những giác quan bị tràn ngập với các mùi hương và âm thanh lẽ ra không lạ lẫm đến vậy.

Anh đã thành một người lạ trên mảnh đất của chính mình? Điều đó có vẻ quá quái dị, thế mà, khi anh bước theo những con phố đông đúc của London tại khu buôn bán sang trọng nhất, anh không thể không nghĩ mình quá nổi bật, rằng bất cứ ai nhìn thoáng thấy anh cũng biết anh thật khác biệt, khác so với hình ảnh người Anh của họ.

Hoặc, anh nuốt khan, khi nhìn thấy bóng mình trong cửa kính một cửa hiệu, có thể là do cháy nắng.

Sẽ mất hàng tuần để nó nhạt đi. Hàng tháng, có lẽ vậy.

Mẹ anh sẽ phát hoảng lên thôi.

Ý nghĩ đó làm anh mỉm cười. Anh khá thích làm mẹ anh phát hoảng. Anh chưa bao giờ đủ lớn để việc đó thôi không còn thú vị nữa.

Anh rẽ sang Bruton Street và bước qua vài ngôi nhà tới Số Năm. Anh từng đến đây, tất nhiên. Mẹ Francesca luôn định nghĩa từ “gia đình” theo nghĩa rộng nhất có thể, và thế là Michael nhận ra mình được mời đến cùng với John và Francesca trong một số sự kiện của gia đình Bridgerton.

Khi anh đến, Bà Bridgerton đã ngồi sẵn trong căn phòng khách màu xanh và kem, uống một tách trà bên bàn giấy cạnh cửa sổ. “Michael!” bà kêu lên, đứng dậy với sự quý mến rõ rệt. “Thật vui được gặp cháu!”

“Bà Bridgerton,” anh nói, nắm lấy tay bà và đặt lên đó một nụ hôn lịch thiệp.

“Không ai làm việc đó như cháu,” bà nói vẻ hài lòng.

“Người ta phải luyện tập miếng tốt nhất của mình,” anh thì thào.

“Và bác phải nói với cháu là những quý bà các bác ở một độ tuổi nhất định đánh giá rất cao việc cháu làm như thế.”

“Độ tuổi nhất định đó là...” Anh cười ranh mãnh. “... ba mươi mốt?”

Bà Bridgerton là kiểu phụ nữ càng nhiều tuổi càng đáng yêu, nhưng nụ cười của bà với anh làm cho bà như tỏa sáng. “Cháu luôn luôn được chào đón ở ngôi nhà này, Michael Stirling.”

Anh mỉm cười và ngồi xuống cái ghế lưng cao bà ra hiệu mời anh ngồi.

“Ôi trời,” bà nói và khẽ nhăn mặt. “Bác phải xin lỗi. Bác đoán là bây giờ bác nên gọi cháu là Kilmartin.”

“Michael cũng hoàn toàn ổn,” anh đảm bảo với bà.

“Bác biết đã bốn năm rồi,” bà nói tiếp, “nhưng bác không được gặp cháu...”

“Bác có thể gọi cháu bằng bất cứ tên gì bác muốn,” anh nói nhẹ nhàng. Thật lạ. Cuối cùng anh cũng quen được gọi là Kilmartin, quen với việc danh hiệu của anh đã thay thế họ của mình. Nhưng đó là ở Ấn Độ, nơi không ai từng biết anh chỉ như là Ông Stirling bình thường, và có thể quan trọng hơn, không ai biết John như là một bá tước. Nghe đến danh hiệu của mình phát ra từ miệng Violet Bridgerton có vẻ hơi làm cụt hứng, đặc biệt bởi vì bà, giống như nhiều bà mẹ vợ khác, thường gọi John như là con đẻ của mình.

Nhưng nếu bà có cảm thấy sự khó chịu bên trong anh, bà chẳng để lộ một dấu hiệu nào hết. “Nếu cháu dễ tính như thế,” bà nói, “thì bác cũng sẽ phải vậy. Hãy gọi bác là Violet. Cũng đến lúc cháu làm thế rồi.”

“Ồ, cháu không thể,” anh nói vội. Và anh thực sự nghĩ vậy. Đây là Quý bà Bridgerton. Bà là... Ừm, anh không biết bà là thế nào, nhưng bà không thể chỉ là Violet đối với anh.

“Bác nhất quyết thế, Michael,” bà nói, “và bác chắc cháu cũng biết là bác thường được theo ý mình.”

Sẽ chẳng có cách nào anh thắng được cuộc tranh luận này, thế nên anh chỉ thở dài và nói, “Cháu không biết cháu có thể hôn tay một Violet không. Có vẻ thân mật quá mức, bác không nghĩ vậy sao?”

“Thách cháu dám thôi làm việc đó.”

“Người ta sẽ đàm tiếu,” anh cảnh báo với bà.

“Bác tin danh tiếng của bác chịu được chuyện đó.”

“A, nhưng danh tiếng của cháu thì sao?”

Bà cười lớn. “Cháu là thằng nhãi ranh ma.”

Anh ngả người trên ghế. “Cái đó cũng không tệ.”

“Cháu muốn uống trà không?” Bà đưa tay về phía cái ấm sứ trên mặt bàn bên kia phòng. “Trà của bác nguội rồi, nhưng bác rất sẵn lòng gọi thêm.”

“Cháu cũng muốn một chút,” anh thú thực.

“Bác tưởng cháu hỏng mất vị giác rồi, sau bao nhiêu năm ở Ấn Độ,” bà nói, đứng dậy và đi qua phòng để kéo chuông.

“Chúng không giống nhau,” anh nói, cũng vội đứng dậy. “Cháu không thể giải thích, nhưng chẳng có gì có vị giống trà nước Anh.”

“Do chất lượng nước, cháu có nghĩ thế không?”

Anh mỉm cười kín đáo. “Chất lượng của người phụ nữ rót trà.”

Bà cười phá lên. “Cháu, quý ngài, cần một cô vợ. Ngay lập tức.”

“Ồ, thật vậy ư? Tại sao?”

“Bởi vì với tình trạnh hiện tại của cháu, rõ ràng cháu là mối nguy hiểm cho những phụ nữ không chồng ở khắp nơi.”

Anh không thể cưỡng lại câu chọc ghẹo cuối cùng. “Cháu hy vọng bác tự gồm mình vào hàng ngũ đó, Violet.”

Và rồi một giọng nói đến từ phía cửa: “Anh đang trêu ghẹo mẹ tôi đấy à?”

Đó là Francesca, tất nhiên, xuất hiện không chê vào đâu được trong bộ váy buổi sáng màu xanh tái điểm một dải ren Bỉ khá cầu kỳ. Trông cô như đang cố ra vẻ nghiêm khắc với anh.

Và không hoàn toàn thành công.

Michael cho phép đôi môi mình cong lên thành một nụ cười bí hiểm khi anh nhìn hai người phụ nữ ngồi xuống. “Tôi đã đi cả thế giới, Francesca, và tôi có thể nói không cần nghĩ ngợi gì, rằng có rất ít phụ nữ mà tôi muốn trêu ghẹo hơn là mẹ cô.”

“Bác đang mời cháu đến ăn tối ngay đấy,” Violet thông báo, “và bác sẽ không chấp nhận câu trả lời là không.”

Michael cười lên. “Cháu rất vinh hạnh.”

Phía bên kia, Francesca lẩm bẩm, “Anh thật không thể sửa được.”

Anh chỉ nở với cô một nụ cười uyển chuyển. Thế này thật hay, anh quyết định vậy. Buổi sáng diễn ra đúng như anh hy vọng, anh và Francesca quay lại với những thói quen và vai trò cũ của họ. Anh một lần nữa lại làm tay chơi bất cần và cô giả vờ mắng anh, và tất cả lại như trước lúc John chết.

Anh đã rất ngạc nhiên đêm qua. Anh không nghĩ sẽ gặp cô. Và anh không thể chắc cái vẻ ngoài anh tạo ra vẫn còn nguyên.

Và không phải tất cả những cái đó là đóng kịch. Anh luôn hơi bất cần, và có thể anh là một kẻ hay tán tỉnh hết cách cứu. Mẹ anh rõ ràng thích nói rằng anh đã quyến rũ các bà các cô từ khi anh bốn tuổi.

Vấn đề là khi anh ở bên Francesca, điều tối quan trọng là khía cạnh đó trong tính cách của anh được thể hiện và giữ nguyên, để cô không bao giờ nghi ngờ cái nằm sâu bên dưới.

“Kế hoạch của cháu là gì khi giờ cháu đã về?” Violet hỏi.

Michael quay nhìn bà với một vẻ mặt anh biết là có vẻ trống rỗng. “Cháu không chắc, thực là vậy,” anh nói, hơi xấu hổ khi tự thú nhận với mình rằng đó là sự thật. “Cháu nghĩ sẽ cần chút thời gian để biết người ta trông đợi gì ở cháu với vai trò mới.”

“Bác chắc Francesca có thể hỗ trợ cháu trong chuyện đó,” Violet nói.

“Chỉ khi cô ấy muốn thế,” Michael nói khẽ.

“Tất nhiên,” Francesca nói, hơi nhích sang một bên khi một cô hầu mang vào một khay trà. “Tôi sẽ giúp anh theo bất cứ cách nào anh cần.”

“Nhanh thật đấy,” Michael lẩm bẩm.

“Bác điên vì trà,” Violet giải thích. “Uống suốt ngày. Những cô hầu bây giờ luôn để nước gần sôi trên bếp.”

“Anh uống một chút chứ?” Francesca hỏi, bởi vì cô vừa lãnh việc rót trà.

“Có, cảm ơn,” Michael trả lời.

“Không ai biết về Kilmartin như Francesca,” Violet nói, với tất cả niềm tự hào của một bà mẹ. “Nó sẽ là vô giá đối với cháu.”

“Cháu chắc là bác đúng,” Michael nói, nhận lấy tách trà từ Francesca. Cô đã nhớ cách anh uống—sữa, không đường. Vì lý do nào đó, việc này làm anh thật dễ chịu. “Cô ấy đã làm nữ bá tước sáu năm, và trong bốn năm, cô ấy còn phải làm cả bá tước nữa.” Với cái liếc đáng ngại của Francesca, anh nói thêm, “Theo tất cả các cách ngoại trừ cái tên. Ồ, thôi nào, Francesca, cô phải nhận ra rằng đó là sự thật.”

“Và,” anh thêm, “đó là một lời khen. Tôi nợ cô một món nợ lớn hơn tôi có thể có bao giờ trả được. Tôi đã không thể ở lại đó lâu như vậy nếu tôi không biết rằng lãnh địa đã được giao phó vào một đôi tay có năng lực.”

Francesca đỏ mặt, và điều đó làm anh ngạc nhiên. Trong những năm anh biết cô, anh có thể đếm trên đầu ngón tay những lần anh thấy đôi má cô ửng hồng.

“Cảm ơn anh,” cô thì thầm. “Cũng không khó lắm, tôi đảm bảo với anh.”

“Có thể, nhưng việc đó vẫn đáng trân trọng vậy.” Anh nâng tách trà lên môi, để cho hai phụ nữ hướng câu chuyện từ đó.

Và họ đã làm. Violet hỏi anh về thời gian ở Ấn Độ, và trước khi anh kịp nhận ra, anh kể cho họ về những cung điện và những nàng cô chúa, những đoàn lữ hành và cà ri. Anh bỏ qua những tên cướp và sốt rét, vì nghĩ rằng chúng không phải chủ đề thích hợp cho một cuộc nói chuyện trong phòng khách.

Sau một lúc anh nhận ra mình đang rất vui vẻ. Có thể, anh nghĩ, nhớ lại thời gian đó trong khi Violet nói gì đó về buổi dạ hội chủ đề Ấn Độ bà đã dự vài năm trước, có thể anh đã quyết định đúng.

Về nhà có thể thực sự là một điều hay.

Một giờ sau, Francesca nhận ra mình đang nắm cánh tay Michael, dạo bước qua Hyde Park. Mặt trời đã xuyên qua những đám mây, và khi cô tuyên bố cô không thể cưỡng lại thời tiết đẹp, Michael không còn cách nào khác là đưa cô đi dạo.

“Thật giống ngày xưa,” cô nói, ngửa mặt lên hướng về phía mặt trời. Gần như chắc chắn cô sẽ bị rám nắng kinh khiếp, hoặc ít nhất cũng bị tàn nhang, nhưng cô nghĩ là cô sẽ luôn trông như đồ sứ bên cạnh Michael, làn da anh chỉ rõ đây là một người mới trở về từ vùng nhiệt đới.

“Việc đi dạo, ý cô là vậy?” anh hỏi. “Hay là việc cô đã khiến cho tôi phải đi cùng cô một cách thành thạo.”

Cô cố giữ vẻ mặt thản nhiên. “Cả hai, tất nhiên. Anh thường hay đưa tôi ra ngoài mà. Mỗi khi John bận.”

“Đúng là tôi có như vậy.”

Họ bước đi trong im lặng một lúc, và rồi anh nói, “Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy cô đã đi sáng nay.”

“Tôi hy vọng anh hiểu tại sao tôi phải đi,” cô nói. “Tôi không muốn thế, tất nhiên; quay về nhà mẹ đẻ khiến tôi cảm thấy như lại quay ngay về thời trẻ con.” Cô cảm thấy đôi môi mình mím lại khó chịu. “Tôi yêu bà, tất nhiên, nhưng tôi đã khá quen với việc điều hành gia đình của riêng mình.”

“Cô có muốn tôi ra ở chỗ khác không?”

“Không, tất nhiên là không,” cô nói nhanh. “Anh là bá tước. Ngôi nhà Kilmartin thuộc về anh. Hơn nữa, Helen và Janet chỉ chậm hơn tôi một tuần; họ sẽ đến ngay thôi, và lúc đó tôi lại có thể dọn về lại.”

“Cố lên, Francesca. Tôi chắc chắn cô sẽ chịu đựng được.”

Cô liếc anh một cái. “Chẳng phải là một chuyện mà anh—hay bất cứ người đàn ông nào, trong vấn đề này— có thể hiểu được, nhưng tôi thích mình là một phụ nữ có chồng hơn làm một cô gái mới trình làng. Mỗi khi tôi ở Số Năm, với cả Eloise và Hyacinth ở đó, tôi có cảm giác như thể tôi lại trở lại mùa lễ hội đầu tiên, với tất cả những phép tắc và quy định cho người tham dự.”

“Không phải tất cả,” anh chỉ ra. “Nếu điều đó đúng, cô sẽ không được phép ra ngoài với tôi lúc này.”

“Đúng,” cô thừa nhận. “Đặc biệt là với anh, tôi nghĩ vậy.”

“Và cái đó có nghĩa là gì đây?”

Cô cười lớn. “Ồ, thôi nào, Michael. Anh không nghĩ là tiếng tăm của anh tự dưng được gột sạch chỉ bởi vì anh đã ra nước ngoài bốn năm đấy chứ?”

“Francesca—“

“Anh là huyền thoại rồi.”

Trông anh có vẻ kinh hãi.

“Đó là sự thật,” cô nói, tự hỏi sao anh lại ngạc nhiên vậy. “Chúa ơi, phụ nữ vẫn còn nói chuyện về anh.”

“Không phải với cô, tôi hy vọng thế,” anh lẩm bẩm.

“Ồ, đặc biệt là với tôi.” Cô mỉm cười ma mãnh. “Tất cả bọn họ đều muốn biết khi nào anh định trở về. Và chắc chắn sẽ còn tệ hơn khi tin anh về được đồn ra. Tôi phải nói rằng, đó là một vai trò thật kỳ cục—người bạn tâm sự của tay chơi khét tiếng nhất London.”

“Bạn tâm sự, hử?”

“Anh sẽ gọi nó là cái gì nữa?”

“Không, không, bạn tâm sự là một từ hoàn toàn thích hợp. Chỉ là nếu cô nghĩ tôi đã tâm sự tất cả mọi thứ với cô...”

Francesca ném cho anh một vẻ mặt cáu kỉnh. Đúng là kiểu của anh, để cho câu nói ngắt giữa chừng một cách đầy ẩn ý, để cho trí tưởng tượng của cô sôi lên với những câu hỏi. “Tôi coi như thế có nghĩa là,” cô lầm bầm, “anh chưa nói hết cho chúng tôi về những chuyện ở Ấn Độ.”

Anh chỉ mỉm cười. Ma mãnh.

“Được thôi. Cho chép tôi, nếu vậy, chuyển cuộc nói chuyện sang một hướng đứng đắn hơn. Anh định làm gì, khi anh đã về? Anh có lãnh ghế trong Nghị viện không?”

Trông anh có vẻ như chưa nghĩ đến chuyện đó.

“John sẽ muốn như vậy,” cô nói, biết rằng mình đang mưu mô khủng khiếp.

Michael nhìn cô u ám, và đôi mắt anh cho cô biết rằng anh không thích chiến thuật của cô.

“Anh cũng sẽ phải lấy vợ,” Francesca nói.

“Cô định đóng vai bà mối cho tôi phải không?” anh nói vẻ cáu bẳn.

Cô nhún vai. “Nếu anh muốn thế. Tôi chắc chắn tôi không thể làm việc đó tệ hơn anh.”

“Chúa ơi,” anh rên, “tôi vừa về được một ngày. Chúng ta có cần bàn chuyện này bây giờ không?”

“Không, tất nhiên là không,” cô thừa nhận. “Nhưng phải sớm. Anh không trẻ thêm tí nào đâu.”

Michael nhìn chăm chăm vào cô như bị choáng. “Tôi không thể tưởng tượng sẽ để cho ai khác nói với tôi theo kiểu đó.”

“Đừng quên mẹ anh,” cô nói với một nụ cười thỏa mãn.

“Cô,” anh nói khá lớn, “không phải mẹ tôi.”

“Ơn chúa vì điều đó,” cô đáp trả. “Tôi sẽ chết vì đau tim hàng năm trước rồi. Tôi không biết sao bà có thể chịu được.”

Anh đứng lại giữa đường. “Tôi không tệ đến thế.”

Cô nhún vai rất nhẹ. “Thật sao?”

Và anh không biết nói gì. Hoàn toàn không biết nói gì. Đây là một cuộc nói chuyện họ đã nói không biết bao nhiêu lần, nhưng giờ đây có cái gì đó khác. Giọng cô dường như có góc cạnh, một cú đâm trong những lời nói của cô mà chưa từng bao giờ có trước đây.

Hoặc có thể chỉ vì anh chưa bao giờ nhận ra cái đó.

“Ồ, đừng trông có vẻ choáng váng như vậy, Michael,” cô nói, với tay qua và vỗ vỗ cánh tay anh. “Tất nhiên là anh có danh tiếng tệ hại. Nhưng anh luôn luôn hấp dẫn, và thế nên anh luôn được tha thứ.”

Đó có phải là cách cô nghĩ về anh không, anh tự hỏi. Và tại sao anh lại ngạc nhiên chứ? Đó chính là hình ảnh anh đã xây dựng nên.

“Và bây giờ anh là bá tước,” cô nói tiếp, “các bà mẹ sẽ đổ lên đổ xuống để ghép anh với những cô con gái quý giá của họ.”

“Tôi thấy lo,” anh nói khẽ trong hơi thở. “Rất lo.”

“Anh nên thế,” cô nói, chẳng hề có một chút cảm thông nào hết. “Đó sẽ là một cuộc nhồi nhét điên loạn, tôi đảm bảo. Anh thật may là tôi đã kéo mẹ tôi sang một bên sáng nay và bắt bà thề sẽ không quăng Eloise và Hyacinth về phía anh. Bà cũng sẽ làm thế đấy,” cô thêm, rõ ràng đang hứng thú với câu chuyện.

“Tôi nhớ hình như cô thường thích thú với việc quăng chị em cô về phía tôi.”

Môi côi hơi xoắn lại. “Đó là mấy năm trước rồi,” cô nói, vung tay trong không khí như thể cô có thể xua đi những câu nói đó khỏi đầu óc anh. “Hai người sẽ không bao giờ hợp.”

Anh chưa bao giờ muốn tán tỉnh bất cứ ai trong số chị em của cô, nhưng anh không thể cưỡng lại cơ hội được chọc ghẹo Francesca một chút. “Eloise,” anh hỏi, “hay Hyacinth?”

“Cả hai,” cô nói, với đủ độ gắt gỏng để làm anh cười. “Nhưng tôi sẽ kiếm cho anh một ai đó, đừng lo.”

“Tôi có lo không?”

Cô tiếp tục như thể anh chưa nói gì. “Tôi nghĩ tôi sẽ giới thiệu anh với Penelope bạn Eloise.”

“Cô Featherington?” anh hỏi, lờ mờ nhớ lại một cô gái hơi đẫy đà và chẳng bao giờ nói gì.

“Chị ấy cũng là bạn tôi, tất nhiên,” Francesca thêm. “Tôi tin là anh sẽ thích chị ấy.”

“Cô ấy đã học nói rồi à?”

Cô lườm anh. “Tôi sẽ bỏ qua câu đó. Penelope hoàn toàn là một quý cô đáng yêu và rất thông minh một khi chị ấy vượt qua sự ngượng ngùng lúc đầu.”

“Và cái đó thì mất bao lâu?” anh lầm bầm.

“Tôi nghĩ chị ấy sẽ bổ sung cho anh rất tốt,” Francesca tuyên bố.

“Francesca,” anh nói, hơi cao giọng, “cô sẽ không làm mối cho tôi, đã rõ chưa nhỉ?”

“Ừm, ai—“

“Và đừng có nói ai đó sẽ phải làm việc đó,” anh chen vào. Thật sự, cô vẫn là cuốn sách để mở như năm xưa. Cô luôn luôn muốn sắp xếp cuộc đời của anh.

“Michael,” cô nói, câu nói phát ra như một tiếng thở dài quá ra vẻ chịu đựng, hơn là cô có quyền được tỏ ra như vậy.

“Tôi vừa mới về được một ngày,” anh nói. “Một ngày. Tôi mệt, và tôi chẳng quan tâm mặt trời có hé ra không—tôi vẫn lạnh chết đi được, và đồ đạc của tôi thậm chí còn chưa được giở ra. Làm ơn làm phước cho tôi ít nhất một tuần đã, trước khi cô bắt đầu lên kế hoạch cho đám cưới của tôi.”

“Một tuần, vậy nhé?” cô nói vẻ ranh mãnh.

“Francesca,” anh nói, giọng anh nhuốm vẻ cảnh cáo.

“Được thôi,” cô nói lảng. “Nhưng đừng có bảo là tôi không nói trước với anh. Một khi anh quay trở lại giới quý tộc, và các quý cô trẻ dồn anh vào chân tường đợi các bà mẹ tới ra đòn kết liễu—“

Anh run lên trước hình ảnh đó. Và vì biết rằng dự đoán của cô có thể đúng.

“— anh sẽ cầu xin sự cứu giúp của tôi,” cô kết thúc, nhìn anh với một vẻ mặt thỏa mãn đáng bực mình.

“Tôi chắc là tôi sẽ,” anh nói, nở một nụ cười kẻ cả với cô mà anh biết cô rất ghét. “Và khi điều đó xảy ra, tôi hứa với cô tôi sẽ hoàn toàn quy phục, với sự hối tiếc, đau khổ, hổ thẹn, và bất cứ cảm giác khó chịu nào cô muốn gán cho tôi.”

Và thế là cô cười phá lên, làm trái tim anh ấm lên nhiều hơn quá nhiều so với anh đáng ra nên cho phép. Anh luôn có thể làm cô cười.

Cô quay sang anh và mỉm cười, rồi vỗ vỗ cánh tay anh. “Thật tốt khi có anh trở về.”

“Thật tốt được trở về,” anh nói. Anh tự buột ra câu đó, nhưng anh nhận ra mình thực sự nghĩ vậy. Thật tốt. Khó khăn, nhưng tốt. Nhưng ngay cả sự khó khăn cũng không đáng để phàn nàn. Nó chắc chắn chẳng phải là chuyện gì anh không quen thuộc.

Họ đã vào khá sâu trong Hyde Park, và chung quanh đã trở nên đông đúc hơn.  Những cái cây chỉ vừa mới đâm chồi, nhưng không khí vẫn đủ lạnh để những người đi dạo không phải tìm kiếm bóng râm.

“Tôi lẽ ra nên mang bánh mỳ cho lũ chim,” Francesca nói khẽ.

“Ở hồ Serpentine?” Michael hỏi với vẻ ngạc nhiên. Anh từng hay đi dạo trong Hyde Park với Francesca, và họ thường tránh khu vực bờ hồ Serpentine như tránh dịch. Ở đó lúc nào cũng đầy các cô bảo mẫu và trẻ em, hò hét như lũ mọi con (thường các cô bảo mẫu hét to hơn cả bọn trẻ) và Michael có ít nhất một người quen từng lãnh nguyên một ổ bánh mỳ vào đầu.

Dường như chẳng ai nói với những mầm non cricket tương lai rằng người ta nên chia nhỏ cái bánh mỳ thành những miếng dễ điều khiển hơn—và đỡ nguy hiểm hơn.

“Tôi thích ném bánh mỳ cho lũ chim,”  Francesca nói, hơi có vẻ bao biện. “Hơn nữa, sẽ chẳng có nhiều trẻ con lắm vào hôm nay đâu. Vẫn còn hơi lạnh.”

“Chưa bao giờ ngăn được John và tôi,” Michael nói khiêu khích.

“Đúng, ừm, các anh là người Scotland,” cô trả lời. “Máu trong người các anh cũng đông sẵn một nửa rồi.”

Anh cười. “Một đám cuồng nhiệt, người Scot chúng tôi.” Cái đó có pha một chút đùa cợt. Với quá nhiều sự kết hôn qua lại, gia đình này ít nhất cũng mang máu Anh nhiều như máu Scotland, thậm chí còn hơn, nhưng do Kilmartin nằm ở những hạt gần biên giới, nhà Stirling bám lấy dòng máu Scotland của họ như một tấm huân chương danh dự.

Họ tìm thấy một cái ghế băng không xa hồ Serpentine và ngồi xuống, thảnh thơi ngắm những con vịt trên mặt nước.

“Cô có thể nghĩ chúng nên tìm một nơi ấm hơn,” Michael nói. “Pháp, có thể thế.”

“Và bỏ lỡ chỗ thức anh bọn trẻ ném cho chúng?” Francesca mỉm cười tinh quái. “Chúng đâu có ngu.”

Anh chỉ nhún vai. Anh sẽ quá lố nếu giả vờ có chút kiến thức nào đó về hành vi của chim muông.

“Anh thấy thời tiết ở Ấn Độ thế nào?” Francesca hỏi. “Nó có nóng như người ta nói không?”

“Còn hơn thế,” anh trả lời. “Hoặc có thể không. Tôi không biết. Tôi nghĩ sự mô tả là hoàn toàn chính xác. Vấn đề là, chẳng người Anh nào thực sự hiểu được ý họ cho đến khi anh ta đến đó.”

Cô nhìn anh tò mò.

“Nó nóng hơn cả cô có thể tưởng tượng,” anh nói, thẳng tuột.

“Nghe có vẻ... Ừm, tôi chẳng biết nghe có vẻ ra làm sao,” cô thú nhận.

“Cái nóng chẳng thể gây khổ sở bằng lũ côn trùng.”

“Nghe thật khiếp,” Francesca kết luận.

“Có thể cô sẽ không thích đâu. Không nếu định ở dài, dù sao đi nữa.”

“Nhưng tôi thích du lịch,” cô nói khẽ. “Tôi luôn định như thế.”

Cô trở nên im lặng, gật đầu một cách lơ đãng, cằm cô đưa lên và xuống thật lâu đến mức anh chắc cô đã quên mất mình đang làm vậy. Rồi anh nhận ra đôi mắt cô đang dán vào đâu đó ở xa xa. Cô đang ngắm cái gì đó, nhưng có chết anh cũng không thể hình dung là cái gì. Chẳng có gì thú vị ở trong khung cảnh đó, chỉ là một cô bảo mẫu cau có đang đẩy chiếc xe nôi.

“Cô đang nhìn gì vậy?” cuối cùng anh hỏi.

Cô không nói gì, chỉ tiếp tục nhìn chằm chằm.

“Francesca?”

Cô quay sang anh. “Tôi muốn một em bé.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:42:33 | Xem tất
Chapter 7

...từng hy vọng đến giờ sẽ nhận được một lá thư của cô, nhưng tất nhiên thư từ vô cùng không đảm bảo khi phải chuyển đi xa như vậy. Chỉ mới tuần trước tôi nghe chuyện về một kiện thư đã hai năm vừa được chuyển đến; nhiều người nhận trong số đó đã quay về Anh rồi. Mẹ tôi viết rằng cô đã khá và phục hồi hoàn toàn sau thử thách vừa rồi; tôi rất mừng được nghe thấy vậy. Công việc của tôi ở đây luôn đầy thách thức và thỏa mãn. Tôi đã đến ở hẳn ngoài thành phố, giống như phần lớn những người Châu Âu ở tại Madras này. Dù sao, tôi cũng thích đi thăm thành phố; vẻ ngoài của nó hơi giống ở Hy Lạp; hoặc đúng hơn, giống cái tôi tưởng tượng về Hy Lạp, vì tôi chưa bao giờ đến đó. Bầu trời thật xanh, xanh đến mức chói mắt, gần như là thứ xanh nhất tôi từng thấy.

—của Bá tước Kilmartin gửi cho Nữ bá tước Kilmartin, sáu tháng sau khi anh đến Ấn Độ

“Cô nói gì cơ?”

Cô làm anh choáng váng. Anh thậm chí đang lắp bắp. Cô không nói cái đó ra để chờ đợi phản ứng kiểu như vậy từ anh, nhưng giờ anh đang ngồi đó, miệng anh há ra và đờ đẫn, cô không thể không cảm thấy hơi khoái chí trong thoáng chốc.

“Tôi muốn một em bé,” cô nói với một cái nhún vai. “Có gì đáng ngạc nhiên về chuyện đó sao?”

Đôi môi anh động đậy trước khi có thể phát ra tiếng. “Ừm...không...nhưng...”

“Tôi đã hai mươi sáu.”

“Tôi biết cô bao nhiêu tuổi,” anh nói, hơi gắt.

“Tôi sẽ hai mươi bảy cuối Tháng tư này. Tôi không nghĩ có gì kỳ cục khi tôi có thể muốn một em bé.”

Đôi mắt anh vẫn còn thoáng chút thẫn thờ. “Không, đương nhiên là không, nhưng—“

“Và tôi không cần phải giải thích với anh!”

“Tôi không yêu cầu cô làm thế,” anh nói, nhìn cô chằm chằm như thể cô vừa mọc thêm hai cái đầu.

“Tôi xin lỗi,” cô nói khẽ. “Tôi phản ứng thái quá.”

Anh không nói gì, điều đó làm cô phát cáu. Ít nhất, anh cũng có thể phản bác cô. Có thể đó là một lời nói dối, nhưng đó vẫn là một việc làm tử tế và lịch sự.

Cuối cùng, chỉ vì sự im lặng thật khó mà chịu nổi, cô lẩm bẩm, “Rất nhiều phụ nữ muốn có con.”

“Phải,” anh nói, ho lên. “Tất nhiên. Nhưng... cô không nghĩ đầu tiên cô có thể cần một người chồng trước đã?”

“Tất nhiên.” Cô xuyên thủng anh bằng một cái lườm cáu kỉnh. “Anh nghĩ tại sao tôi lại xuống London sớm chứ?”

Anh nhìn cô trống rỗng.

“Tôi đang đi sắm một anh chồng,” cô nói, nói với anh như thể anh là thằng ngớ ngẩn.

“Nói nghe mới con buôn làm sao,” anh lầm bầm.

Cô cong môi. “Nó đúng như thế. Và vì bản thân mình, có lẽ anh tốt nhất là nên quen với cái đó đi. Đó chính xác là cách các quý cô sắp sửa nói về anh đấy.”

Anh lờ đi đoạn cuối của câu nói. “Cô có quý ông cụ thể nào trong đầu không?”

Cô lắc đầu. “Chưa. Nhưng tôi nghĩ ai đó sẽ xuất hiện khi tôi bắt đầu tìm kiếm.” Cô cố ra vẻ vui vẻ về chuyện này, như sự thực, giọng cô đã thấp xuống và nhỏ đi. “Tôi chắc các anh tôi có bạn bè,” cuối cùng cô chỉ còn lẩm bẩm.

Anh nhìn cô, rồi khẽ duỗi người và nhìn chằm chằm ra mặt nước.

“Tôi đã làm anh choáng,” cô nói.

“Ừm... phải.”

“Bình thường, tôi sẽ rất thích như thế,” cô nói, đôi môi cô xoắn lại vẻ chua chát.

Anh không trả lời, nhưng khẽ đảo mắt.

“Tôi không thể khóc thương John mãi được,” cô nói. â€œÝ tôi là, tôi có thể, và tôi sẽ, nhưng...” Cô dừng lại, ghét vì thấy mình sắp khóc. “Và tệ nhất là, biết đâu tôi thậm chí không thể có con. Tôi đã mất hai năm để có mang với John, và hãy nhìn xem tôi đã làm hỏng đến cỡ nào.”

“Francesca,” anh nói gay gắt, “cô không được tự trách mình vì vụ sảy thai.”

Cô cười cay đắng. “Anh có thể tưởng tượng được không? Cưới ai đó chỉ để kiếm một đứa bé và rồi chẳng thể có được?”

“Chuyện đó vẫn hay xảy ra với mọi người,” anh nói nhẹ nhàng.

Đó là sự thật, nhưng điều đó chẳng làm cô cảm thấy khá hơn. Cô có quyền lựa chọn. Cô không cần phải lấy chồng; cô sẽ được chu cấp đầy đủ—và tự do thoải mái—nếu cô vẫn là một bà góa. Nếu cô lấy chồng—không, khi cô lấy chồng—cô sẽ phải toàn tâm toàn ý với chuyện đó—nó sẽ không phải vì tình yêu. Cô sẽ không có một cuộc hôn nhân như cô từng có với John; một người đàn bà đơn giản là không thể tìm được một tình yêu như vậy hai lần trong đời.

Cô sẽ lấy chồng để có một đứa bé, và chẳng có gì đảm bảo là cô sẽ có.

“Francesca?”

Cô không nhìn anh, chỉ ngồi đó và chớp mắt, cố lờ đi những giọt nước mắt đang cháy lên bên khóe mắt.

Michael đưa ra chiếc khăn tay; nhưng cô không muốn chấp nhận cử chỉ đó. Nếu cô nhận lấy chiếc khăn, thì cô sẽ phải khóc. Sẽ chẳng có gì ngăn cô được.

“Tôi phải sống tiếp,” cô nói vẻ bướng bỉnh. “Tôi phải. John đã đi rồi, và tôi—“

Và rồi điều kỳ lạ nhất xảy ra. Chỉ có điều, kỳ lạ không thực sự là từ thích hợp. Choáng váng, có thể, hoặc làm thay đổi, hoặc có thể là chẳng có từ nào để miêu tả sự ngạc nhiên làm cho mạch đập trong cơ thể người ta biến mất, làm cho họ bất động, không thể thở nổi.

Cô quay nhìn anh. Lẽ ra đó là một việc thật đơn giản. Cô chắc chắn đã quay nhìn Michael trước đây, hàng trăm... không, hàng ngàn lần. Anh có thể đã ở Ấn Độ bốn năm vừa rồi, nhưng cô biết rõ khuôn mặt anh, và cô biết nụ cười của anh. Thực sự, cô biết tất cả mọi điều về anh—

Chỉ có điều lần này thì khác. Cô quay nhìn anh, nhưng cô không hề nghĩ trước rằng anh đã xoay sang nhìn cô sẵn. Và cô không nghĩ rằng anh lại ở gần đến mức cô có thể nhìn thấy những tia màu chì than trong đôi mắt anh.

Nhưng trên hết, cô không hề biết trước rằng ánh mắt của cô sẽ chạy xuống đôi môi anh. Chúng đầy đặn, căng, và có hình dạng thật đẹp, và cô đã biết hình dạng của chúng rõ chẳng kém gì môi của cô, ngoại trừ việc cô chưa bao giờ thực sự nhìn vào chúng, nhận ra rằng chúng không thực sự đồng màu, hoặc đường cong môi dưới của anh trông hấp dẫn biết bao, và—

Cô đứng dậy. Vội vàng đến mức cô suýt nữa mất thăng bằng. “Tôi phải đi,” cô nói, ngạc nhiên vì giọng cô vẫn nghe như bình thường chứ không phải như của một con quỷ đáng sợ. “Tôi có một cuộc hẹn. Tôi quên mất.”

“Tất nhiên,” anh nói, đứng dậy bên cạnh cô.

“Với người thợ may váy,” cô nói thêm, như thể chi tiết sẽ làm cho lời nói dối của cô thuyết phục hơn. “Tất cả quần áo của tôi đếu có màu nửa tang.”

Anh gật đầu. “Chúng không hợp với cô.”

“Anh thật tử tế khi nêu cái đó ra,” cô nói vẻ gắt gỏng.

“Cô nên mặc màu xanh,” anh nói.

Cô gật đầu nhát gừng, vẫn hơi mất thăng bằng và bấn loạn.

“Cô ổn chứ?” anh hỏi.

“Tôi ổn,” cô bật ra. Và rồi, bởi vì chẳng ai có thể bị lừa bởi giọng nói của cô, cô nói thêm, cẩn thận hơn, “Tôi ổn. Tôi đảm bảo với anh. Tôi chỉ ghét bị trễ hẹn.” Cái đó thì đúng, và anh biết điều đó ở cô, thế nên hy vọng là anh sẽ chấp nhận lý do đó cho sự cáu gắt của cô.

“Tốt thôi,” anh nói với vẻ đồng ý, và Francesca nói chuyện luôn miệng trên đường về Số Năm. Cô phải thể hiện một bộ mặt bình thường, cô cuống cuồng nhận ra. Cô không thể để cho anh đoán chuyện gì đã xảy ra trong cô trên băng ghế cạnh hồ Serpentine.

Cô luôn biết, tất nhiên, rằng Michael rất đẹp trai, thậm chí đẹp trai một cách đáng ngại. Nhưng tất cả điều đó chỉ là một khái niệm trừu tượng. Michael đẹp trai, cũng như anh Benedict của cô cao, và mẹ cô có đôi mắt đẹp.

Nhưng bỗng nhiên... Nhưng bây giờ...

Cô nhìn anh, và cô thấy cái gì đó hoàn toàn mới.

Cô thấy một người đàn ông.

Và điều đó làm cô sợ chết khiếp.

Francesca thường tuân theo triết lý rằng hướng hành động tốt nhất là hành động nhiều hơn, thế nên khi cô về đến Số Năm sau cuộc đi dạo, cô tìm mẹ và nói với bà rằng cô cần gặp người thợ may ngay lập tức. Dù sao thì tốt hơn hết vẫn là làm cho lời nói dối của cô trở thành sự thật càng sớm càng tốt.

Mẹ cô thì quá vui sướng được thấy Francesca thoát khỏi những bộ đồ xám và xanh tái nửa tang của cô, và thế là chỉ chưa đầy một giờ trôi qua trước khi họ ngồi thoải mái trong cỗ xe duyên dáng của Violet, thẳng tiến tới những cửa hiệu sang trọng trên Bond Street. Bình thường, Francesca sẽ rất không thích sự can thiệp của Violet; cô hoàn toàn đủ sức chọn riêng cho mình một tủ quần áo, xin cám ơn, nhưng hôm nay cô thấy sự có mặt của mẹ cô dễ chịu lạ lùng.

Không phải mẹ cô thường không làm cô dễ chịu. Chỉ là Francesca hay thích sự tự do của mình hơn, và cô thích không bị người ta nghĩ đến như “một trong những cô con gái nhà Bridgerton”. Và theo một cách hơi lạ, chuyến đi đến chỗ thợ may này có vẻ hơi ngượng ngập. Phải cần một cuộc tra tấn đầy đủ mới có thể làm cô thừa nhận điều này, nhưng Francesca, thực sự là, đang sợ chết khiếp.

Ngay cả nếu cô chưa quyết định đã đến lúc tái giá, việc rũ bỏ những bộ đồ bà góa đánh dấu một sự thay đổi lớn, và đó không phải điều cô chắc chắn mình đã sẵn sàng.

Cô nhìn xuống ống tay áo khi ngồi trong cỗ xe. Cô không thể nhìn thấy lớp vải của chiếc váy—nó bị che bởi cái áo khoác—nhưng cô biết nó có màu xanh tái. Và có cái gì đó dễ chịu ở nó, cái gì đó chắc chắn và có thể tin tưởng. Cô đã mặc màu đó, hoặc màu xám, ba năm nay. Và luôn là một màu đen trong năm trước đó. Nó như một tấm phù hiệu, cô nhận ra, một kiểu đồng phục. Người ta chẳng bao giờ phải lo lắng xem mình là ai khi mà quần áo của họ đã oang oang khẳng định điều đó.

“Mẹ à?” cô nói, trước khi cô nhận ra mình có một câu hỏi.

Violet quay nhìn cô với một nụ cười. “Gì cơ, con gái?”

“Tại sao mẹ không bao giờ tái giá?”

Đôi môi Violet khẽ mở ra, và trước sự kinh ngạc của Francesca, đôi mắt bà sáng lên. “Con có biết là,” Violet nói khẽ, “đây là lần đầu tiên một người trong các con hỏi mẹ điều đó?”

“Không thể thế được,” Francesca nói. “Mẹ có chắc không?”

Violet gật đầu. “Không ai trong các con từng hỏi mẹ. Mẹ phải nhớ chứ.”

“Không, không, tất nhiên mẹ sẽ nhớ,” Francesca nói thật nhanh. Nhưng chuyện này thật... lạ. Và thật vô ý, đúng thế. Sao không ai hỏi Violet về chuyện này chứ? Dường như với Francesca đó là câu hỏi nóng bỏng nhất có thể tưởng tượng được. Và ngay cả nếu không người con nào của Violet quan tâm đến câu trả lời cho sự tò mò của họ, chẳng nhẽ họ không nhận ra điều đó quan trọng đến thế nào với bà?

Họ có muốn hiểu về mẹ của họ không? Thực sự hiểu bà?

“Khi cha con mất...” Violet nói. “Ừm, mẹ không biết con còn nhớ được đến đâu, nhưng chuyện đó xảy ra rất đột ngột. Chẳng ai trong chúng ta đoán trước được cả.” Bà cười thật buồn, và Francesca tự hỏi không biết cô có bao giờ có thể cười về cái chết của John, ngay cả nếu nó thấm đẫm sự đau thương.

“Một vết ong đốt,” Violet nói tiếp, và Francesca nhận ra rằng ngay cả bây giờ, hơn hai mươi năm sau cái chết của Edmund Bridgerton, mẹ cô vẫn có vẻ ngạc nhiên khi bà nói về chuyện đó.

“Ai mà nghĩ chuyện đó có thể xảy ra chứ?” Violet nói, lắc đầu. “Mẹ không biết con nhớ được bao nhiêu về cha, nhưng cha con là một người đàn ông rất to lớn. Cao bằng Benedict và có thể có đôi vai còn rộng hơn. Con sẽ không thể nghĩ là một con ong...” Bà dừng lại, lôi ra một chiếc khăn tay trắng mới cứng và đưa lên môi trong khi bà hắng giọng. “Ừm, việc đó thật khó đoán. Mẹ không biết phải nói gì thêm, ngoại trừ...” Bà quay sang phía con gái với đôi mắt sáng suốt đến đau nhói. “Ngoại trừ là mẹ nghĩ con có thể hiểu rõ hơn ai hết.”

Francesca gật đầu, thậm chí không cố giấu đi cảm giác cay xè trong đôi mắt cô.

“Dù sao,” Violet nói dứt khoát, rõ ràng muốn tiếp tục, “sau cái chết của cha, mẹ đã quá... choáng váng. Mẹ cảm giác như đang bước đi trong đám sương mù. Mẹ hoàn toàn không rõ mẹ sống thế nào trong năm đầu tiên đó. Hay ngay cả năm ngay sau đó. Thế nên mẹ thậm chí không thể nghĩ đến chuyện kết hôn.”

“Con biết,” Francesca nói khẽ. Và cô thực sự biết.

“Và sau đó... ừm, mẹ không biết chuyện gì xảy ra nữa. Có thể vì mẹ chẳng gặp ai mà mẹ muốn chia sẻ cuộc đời cùng. Có thể mẹ quá yêu cha con.” Bà nhún vai. “Có thể mẹ chẳng thấy cần thiết. Mẹ ở một vị trí rất khác so với con, dù gì đi nữa. Mẹ già hơn, đừng có quên chuyện đó, và đã là mẹ của tám đứa con rồi. Và cha con đã sắp xếp công việc rất ổn. Mẹ biết chúng ta sẽ chẳng phải lo lắng về cái gì.”

“John cũng sắp xếp công việc ở Kilmartin một cách hoàn hảo,” Francesca nói nhanh.

“Tất nhiên nó đã làm vậy,” Violet nói, vỗ vỗ bàn tay cô. “Tha lỗi cho mẹ. Mẹ không có ý khác. Nhưng con không có tám đứa con, Francesca.” Đôi mắt bà dường như hơi thay đổi, chuyển thành một màu xanh còn sâu hơn. “Và con còn khá nhiều thời gian ở phía trước để có thể sống một mình.”

Francesca gật đầu gượng gạo. “Con biết,” cô nói. “Con biết. Con biết, nhưng con không thể... con không thể...”

“Con không thể làm sao?” Violet hỏi dịu dàng.

“Con không thể...” Francesca nhìn xuống. Cô không biết tại sao, nhưng vì lý do nào đó cô không thể rời mắt khỏi sàn xe. “Con không thể tránh khỏi cảm giác rằng con đang làm điều gì đó sai, rằng con đang nhạo báng John, nhạo báng cuộc hôn nhân của chúng con.”

“John sẽ muốn con được hạnh phúc.”

“Con biết. Con biết. Tất nhiên anh ấy sẽ muốn. Nhưng mẹ không thấy sao—“ Cô ngước nhìn lên lần nữa, đôi mắt cô đang tìm kiếm gì đó trên gương mặt mẹ cô, cô không biết là cái gì— có thể là sự đồng tình, có thể chỉ là sự yêu thương, bởi vì có cái gì đó thật dễ chịu khi tìm kiếm thứ mà cô biết cô sẽ tìm thấy. “Con thậm chí sẽ không tìm kiếm nó,” cô nói thêm. “Con sẽ không tìm được ai như John. Con đã chấp nhận điều đó. Và nếu kết hôn dù không được như vậy thì thật là sai trái.”

“Con sẽ không tìm thấy ai như John, đó là sự thật,” Violet nói. “Nhưng con có thể sẽ tìm thấy một người cũng hợp với con không kém, chỉ là theo một cách khác.”

“Mẹ đã không tìm thấy.”

“Không, mẹ không,” bà đồng ý, “nhưng mẹ cũng đã không cố gắng tìm. Mẹ thậm chí chẳng tìm.”

“Mẹ có mong là mẹ đã tìm không?”

Violet mở miệng, nhưng không có âm thanh nào phát ra, ngay cả hơi thở. Cuối cùng bà nói, “Mẹ không biết, Francesca. Mẹ thực sự không biết.” Và rồi, bởi vì khoảnh khắc đó thực sự cần một tiếng cười, bà thêm, “Mẹ chắc chắn không muốn có thêm đứa con nào nữa!”

Francesca không thể không mỉm cười. “Con có muốn,” cô nói khẽ. “Con muốn một đứa con.”

“Mẹ đã nghĩ con muốn.”

“Tại sao mẹ không bao giờ hỏi con về chuyện đó?”

Violet nghiêng đầu sang một bên. “Vì sao con không bao giờ hỏi mẹ tại sao mẹ không tái giá?”

Đôi môi của Francesca há ra. Cô lẽ ra không nên ngạc nhiên đến vậy trước sự nhạy cảm của mẹ cô.

“Nếu con là Eloise, mẹ nghĩ mẹ có thể đã nói gì đó,” Violet nói thêm. “Hay là bất cứ chị em nào của con, nếu điều đó quan trọng. Nhưng con—“ Bà mìm cười nhớ lại. “Con không giống như vậy. Con chưa bao giờ như thế. Ngay cả khi là một đứa bé con đã tách mình ra. Và con cần có khoảng cách của con.”

Một cách bột phát, Francesca đưa tay ra xiết lấy bàn tay mẹ cô. “Con yêu mẹ, mẹ có biết không?”

Violet mỉm cười. “Mẹ hơi nghi đấy.”

“Mẹ!”

“Được rồi, tất nhiên là mẹ biết. Sao con có thể không yêu mẹ khi mà mẹ yêu con đến như thế chứ?”

“Con chưa nói ra,” Francesca nói, cảm thật tệ vì sự thiếu sót của mình. “Dù sao cũng không phải là gần đây.”

“Không sao cả.” Violet xiết lại tay cô. “Con có những việc khác cần phải nghĩ.”

Và vì lý do nào đó câu đó làm Francesca khẽ cười khúc khích. “Có vẻ hơi nói giảm quá, con phải nói vậy.”

Violet chỉ cười.

“Mẹ?” Francesca buột miệng. “Con có thể hỏi mẹ thêm một câu không?”

“Đương nhiên.”

“Nếu con không tìm thấy ai đó—không giống John, tất nhiên, nhưng vẫn không hợp với con bằng anh ấy. Nếu con không tìm thấy một người như vậy, và con lấy ai đó con khá thích, nhưng có thể là không yêu... liệu có được không?”

Violet im lặng một lúc trước khi bà đáp lại. “Mẹ e rằng chỉ có con mới biết câu trả lời cho chuyện đó,” cuối cùng bà nói. “Mẹ sẽ không bao giờ nói không, đương nhiên. Nửa giới quý tộc—hơn cả một nửa, trong thực tế—có những cuộc hôn nhân như vậy, và khá nhiều trong số họ hoàn toàn hài lòng. Nhưng con sẽ phải tự có sự phán xét của mình khi điều đó đến. Mọi người đều khác nhau, Francesca. Mẹ nghĩ con biết cái đó hơn bất cứ ai. Và khi một người đàn ông cầu hôn con, con sẽ phải nhận xét anh ta theo những điểm tốt của anh ta chứ không phải dựa trên những tiêu chuẩn bất kỳ con đặt ra từ trước.”

Bà nói đúng, tất nhiên, nhưng Francesca đã quá phát ốm khi cuộc sống trở nên quá bừa bộn và phức tạp đến mức nó không phải là câu trả lời cô đang tìm kiếm.

Và chẳng có cái nào giải quyết được vấn đề đang nằm sâu trong tim cô. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô thực sự gặp ai đó làm cô cảm thấy như cô từng cảm thấy với John? Cô không thể hình dung ra cô sẽ gặp; thực sự, điều đó rất rất khó có khả năng.

Nhưng nếu cô có gặp thì sao? Cô phải sống sao với bản thân mình lúc đó?

Có một cái gì đó làm người ta khá thỏa mãn khi có một tâm trạng tệ hại, thế nên Michael quyết định để cho tâm trạng mình chìm xuống hoàn toàn.

Anh đá một hòn sỏi suốt dọc đường về nhà.

Anh gầm gừ với bất kỳ ai va vào anh trên phố.

Anh giật mở cửa chính với sự dữ dằn đến mức làm cho nó đập mạnh vào bức tường đá đằng sau. Hoặc đúng hơn là anh có thể đã làm thế, nếu như tay quản gia nghiêm nghị của anh không quá tinh nhạy và mở cánh cửa ra trước khi những ngón tay của Michael thậm chí kịp chạm vào tay nắm.

Nhưng anh đã tưởng tượng giật nó mở tung, và điều đó cũng có chút gì đấy thỏa mãn.

Và rồi anh bước nhanh lên cầu thang về phòng—nơi vẫn còn có cảm giác quá giống phòng của John, tất nhiên anh chẳng thể làm được gì về chuyện đó ngay lúc ấy—và giật phắt đôi ủng ra.

Hoặc đã cố làm thế.

Khỉ thật.

“Reivers!” anh gào.

Người hầu của anh xuất hiện—hoặc đúng hơn, cứ như anh ta vừa hiện hình—nơi cửa ra vào.

“Vâng, thưa ngài?”

“Anh giúp tôi với đôi ủng chứ?” Michael nói lè nhè, cảm thấy mình giống như trẻ con. Ba năm trong quân đội và bốn năm ở Ấn Độ, và anh không thể tháo đôi ủng khốn kiếp của chính mình? Ở London có cái gì mà khiến một người đàn ông trở thành thằng ngốc hay kêu ca vậy trời? Anh lờ mờ nhớ rằng Reivers cũng từng phải tháo ủng cho anh hồi anh ở London ngày trước.

Anh nhìn xuống. Đó là đôi ủng lạ. Kiểu khác, anh đoán, cho dịp khác, và Reivers luôn rất tự hào một cách ngớ ngẩn với công việc của anh ta. Anh ta đã—

“Reivers?” Michael nói với một giọng thật thấp. “Anh lấy đôi ủng này ở đâu ra?”

“Thưa ngài?”

“Đôi ủng. Tôi không nhận ra chúng.”

“Chúng ta vẫn chưa nhận được tất cả các hòm của ngài từ trên tàu, thưa ngài. Ngài chưa có cái gì thích hợp cho London, thế nên tôi đã tìm những cái này trong số đồ đạc của ngài bá tước trước—“

“Chúa ơi.”

“Thưa ngài? Tôi vô cùng xin lỗi nếu chúng không hợp với ngài. Tôi nhớ rằng hai ngài cùng một cỡ chân, và tôi nghĩ ngài sẽ muốn—“

“Hãy tháo chúng ra đi. Ngay bây giờ.” Michael nhắm mắt lại và ngồi vào một cái ghế da—ghế da của John—ngạc nhiên trước sự chua chát của việc đó. Cơn ác mộng tệ hại nhất của anh đã thành sự thật, theo nghĩa trần trụi nhất.

“Tất nhiên, thưa ngài.” Reivers trông có vẻ đau khổ, nhưng ai ta nhanh chóng tháo đôi ủng ra.

Michael gãi gãi chóp mũi bằng ngón trỏ và ngón cái rồi thở ra một hơi thật dài trước khi nói tiếp. “Tôi không muốn dùng bất cứ vật gì trong tủ của ngài bá tước trước,” anh nói với vẻ mệt mỏi. Thật sự, anh không biết tại sao quần áo của John vẫn còn ở đây; chỗ đó lẽ ra đã được đem cho những người hầu hoặc làm từ thiện hàng năm nay rồi. Nhưng anh nghĩ đó là quyết định của Francesca, không phải của anh.

“Tất nhiên, thưa ngài. Tôi sẽ lo việc đó ngay.”

“Tốt,” Michael khịt mũi.

“Tôi khóa chúng lại chứ ạ?”

Khóa lại? Chúa ơi, những thứ đó có phải thuốc độc đâu. “Tôi chắc cứ để chúng ở chỗ cũ là ổn,” Michael nói. “Chỉ đừng có đưa ra cho tôi dùng.”

“Dạ.” Reivers nuốt vào, và yết hầu anh ta nhô lên đầy căng thẳng.

“Gì vậy, Reivers?”

“Chỉ là tất cả những vật dụng của Ngài Kilmartin trước đều vẫn ở cả đây.”

“Ở đây?” Michael hỏi một cách trống rỗng.

“Ở đây,” Reivers xác nhận, liếc một lượt quanh phòng.

Michael thừ người trên ghề. Không phải là anh muốn xóa sạch những gì gợi nhắc đến anh họ anh khỏi trái đất này; chẳng ai nhớ John bằng anh, không ai cả.

Ừm, có thể là trừ Francesca, anh thừa nhận, nhưng cái đó khác.

Nhưng anh thật không biết sẽ sống cuộc sống của mình thế nào khi nó bị bao quanh hoàn toàn đến mức nghẹt thở bởi những vật dụng của John. Anh đã có danh hiệu của anh ấy, dùng tiền của anh ấy, sống trong nhà anh ấy. Chẳng nhẽ anh phải mang cả đôi giày chết tiệt của anh ấy luôn?

“Gói chúng lại,” anh nói với Reivers. “Ngày mai. Tôi không muốn bị làm phiền tối nay.”

Và hơn nữa, anh có lẽ nên nói với Francesca về ý định của mình.

Francesca.

Anh thở dài, đứng dậy khi người hầu đã đi. Chúa ơi, Reivers đã quên mang theo đôi ủng. Michael nhặt chúng lên và đặt chúng ra ngoài cửa. Anh có thể đang phản ứng thái quá, nhưng kệ xác, anh chỉ không muốn nhìn chằm chằm vào đôi ủng của John suốt sáu giờ tới.

Sau khi đóng cánh cửa với một tiếng cách chắc gọn, anh bước một cách vô thức về phía cửa sổ. Bậu cửa sổ rộng và sâu, và anh dựa hẳn vào đó, nhìn qua lớp rèm mỏng về phía khung cảnh đường phố bên dưới. Anh gạt tấm vải mỏng sang một bên, đôi môi anh cong lên thành một nụ cười cay đắng khi anh nhìn một cô hầu dắt theo một em bé trên vỉa hè.

Francesca. Cô ấy muốn một em bé.

Anh không biết tại sao anh lại ngạc nhiên đến thế. Nếu anh nghĩ về chuyện đó một cách bình tĩnh, anh lẽ ra sẽ không như vậy. Cô là một phụ nữ, vì Chúa; tất nhiên cô sẽ muốn có con. Chẳng phải tất cả họ đều thế sao? Và trong khi anh chưa bao giờ tự ngồi xuống và nói với mình rằng cô sẽ khóc than John mãi mãi, anh cũng chưa bao xem xét cái ý nghĩ rằng cô có thể muốn tái giá một ngày nào đó.

Francesca và John. John và Francesca. Họ là một cặp, hoặc ít nhất họ đã từng như vậy, và mặc dù cái chết của John, thật đáng buồn, đã làm cho việc tưởng tượng người này không có người kia trở nên dễ dàng hơn, nghĩ đến một người cùng với ai đó khác lại là một chuyện khác hẳn.

Và rồi tất nhiên còn cả cái vụ nổi da gà của anh nữa, mà đó là phản ứng chung của anh với ý nghĩ Francesca cùng với một người đàn ông khác.

Anh rùng mình. Hay là run rẩy? Khỉ thật, anh hy vọng đó không phải là run.

Anh nghĩ đơn giản là anh sẽ phải quen với ý tưởng đó. Nếu Francesca muốn có con, thì Francesca cần một người chồng, và anh chẳng thể làm cái quái gì về chuyện đó. Sẽ tốt hơn, anh nghĩ, nếu cô đã quyết định như vậy và giải quyết cái chuyện đáng ghét này từ năm ngoái, đỡ cho anh phải buồn nôn khi chứng kiến toàn bộ cái trò tán tỉnh diễn ra. Nếu cô đi và cưới từ năm ngoái, thì chuyện này đã xong, kết thúc, xong là xong.

Hết chuyện.

Nhưng giờ anh sẽ phải chứng kiến. Thậm chí có thể là cho lời khuyên.

Khỉ thật.

Anh lại run lên. Khốn nạn. Có thể anh chỉ bị lạnh. Dù sao cũng đang là tháng ba, và là một tháng ba lạnh, ngay cả với ngọn lửa trong lò.

Anh kéo kéo cà vạt, nó đang bắt đầu trở nên chặt kinh khủng, rồi giật tuột nó ra. Trời ạ, anh cảm thấy như quỷ, vừa nóng vừa lạnh, và chuếnh choáng lạ lùng.

Anh ngồi xuống. Dường như đó là việc làm tốt nhất.

Và rồi anh thôi giả vờ mình vẫn ổn, lột hết quần áo ra và bò vào giường.

Đêm nay sẽ là một đêm dài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:46:01 | Xem tất
Chapter 8

… thật tuyệt mừng hay được nghe tin của anh. Tôi rất vui khi anh vẫn ổn. John sẽ rất tự hào. Tôi nhớ anh. Tôi nhớ anh ấy. Tôi nhớ anh. Vài bông hoa vẫn còn nở. Chẳng phải thật hay khi vẫn còn có hoa nở?

—của Nữ bá tước Kilmartin cho Bá tước Kilmartin, một tuần sau khi nhận được lá thư thứ hai cho cô, bản nháp đầu tiên, không bao giờ hoàn thành, không bao giờ được gửi

“Chẳng phải Michael đã nói cậu ấy sẽ cùng ăn tối với chúng ta tối nay sao?”

Francesca ngước nhìn mẹ cô, bà đang đứng trước mặt cô với đôi mắt lo lắng. Cô đang nghĩ về đúng chuyện đó, phải nói thật, và băn khoăn không biết cái gì đã ngăn anh lại.

Cô đã mất gần cả ngày lo lắng vì anh sẽ đến, mặc dù anh hoàn toàn không hay biết rằng cô đã rất khổ sở vì cái giây phút ở trong công viên đó. Có chúa, anh ấy có thể còn không nhận ra là đã có một “giây phút”.

Đó là lần đầu tiên trong đời Francesca cảm thấy biết ơn vì sự ngờ nghệch nói chung của đàn ông.

“Phải, anh ấy đã nói sẽ đến,” cô trả lời, khẽ cựa quậy trên ghế. Cô đã đợi một lúc trong phòng khách cùng với mẹ và hai chị em của cô, lơ đãng để thời gian trôi qua cho đến khi vị khách của họ tới.

“Chúng ta có nói giờ cho cậu ấy chưa?” Violet hỏi.

Francesca gật đầu. “Con đã nhắc lại cho anh ấy khi anh ấy thả con xuống đây sau cuộc đi dạo trong công viên.” Cô khá chắc chắn về cuộc nói chuyện đó; cô nhớ rõ ràng đã cảm thấy hơi xốn xang trong ruột khi họ nói về vụ này. Cô không muốn gặp lại anh—dù sao cũng không sớm quá như thế—nhưng cô có thể làm gì? Mẹ cô đã đưa ra lời mời.

“Có thể anh ấy chỉ đến muộn thôi,” đó là Hyacinth, em gái út của Francesca. “Em không ngạc nhiên đâu. Kiểu như anh ấy thì luôn đến muộn.”

Francesca ngay lập tức quay sang em gái. “Cái đó là có ý gì?”

“Em đã nghe tất cả về tiếng tăm của anh ấy.”

“Tiếng tăm của anh ấy thì có liên quan gì?” Francesca hỏi vẻ gay gắt. “Và dù sao, em thì biết gì về cái đó chứ? Anh ấy rời nước Anh hàng năm trời trước khi em biết cúi chào kìa.”

Hyacinth nhún vai, dũi cái kim vào miếng vải thêu vô cùng lộn xộn của mình. “Người ta vẫn nói về anh ấy,” cô nói tỉnh bơ. “Các quý cô ngất đi như những đứa ngốc khi chỉ mới nghe đến tên anh ấy, nếu chị cần biết.”

“Chẳng có cách ngất nào khác cả,” người chen vào là Eloise, người, mặc dù lớn hơn Francesca đúng một tuổi, vẫn chưa có chồng.

“Ừm, có thể anh ấy là tay chơi,” Francesca nói vẻ tinh quái, “nhưng anh ấy luôn đúng giờ quá mức.” Cô chưa bao giờ có thể cho phép ai nói xấu về Michael. Cô có thể thở dài và rên rỉ và chỉ trích những sai sót của anh, nhưng hoàn toàn không thể chấp nhận được khi Hyacinth, người chỉ biết về Michael hoàn toàn dựa trên tin đồn và nghe bóng gió, đưa ra một nhận xét vội vàng như vậy.

“Mặc kệ em tin hay không,” Francesca nói gắt, bởi vì không đời nào cô để cho Hyacinth kết thúc, “nhưng anh ấy sẽ không bao giờ muộn một bữa tối ở đây. Anh ấy vô cùng tôn trọng mẹ.”

“Thế còn đối với chị thì sao?” Hyacinth nói.

Francesca lườm em gái, người đang nhếch mép với tấm vải thêu của mình. “Anh ấy—“ Không, cô sẽ không làm trò này. Cô sẽ không ngồi đây và cãi nhau với em gái mình, không khi mà có thể đang có chuyện gì đó không ổn. Michael, dù cho những thói xấu của anh, luôn lịch sự và tế nhị hết mức, hoặc ít ra anh đã luôn như vậy khi cô có mặt. Và anh sẽ không bao giờ đến ăn tối—cô liếc nhìn chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi—trễ hơn ba mươi phút. Không, ít nhất, nếu anh không nhắn lại.

Cô đứng dậy, vuốt thẳng chiếc váy xám của mình thật nhanh. “Con sẽ đến Ngôi nhà Kilmartin,” cô thông báo.

“Một mình?” Violet hỏi.

“Một mình,” Francesca nói chắc chắn. “Đó là nhà của con, dù gì đi nữa. Con không nghĩ sẽ có ai đàm tiếu nếu con chỉ ghé qua thật nhanh.”

“Phải, phải, tất nhiên,” mẹ cô nói. “Nhưng đừng có ở lại lâu quá.”

“Mẹ, con là một bà góa. Và con không định ở lại qua đêm. Con chỉ muốn xem tình hình của Michael. Con sẽ ổn, con đảm bảo với mẹ.”

Violet gật đầu, nhưng với vẻ mặt của bà, Francesca có thể thấy rằng bà muốn nói nhiều hơn. Đã như thế này bao năm nay rồi—Violet muốn tiếp tục đóng vai bà mẹ chăm sóc cô con gái trẻ góa chồng của bà, nhưng bà cố nhịn, cố tôn trọng sự tự do của cô.

Bà không phải lúc nào cũng có thể nhịn không can thiệp, nhưng bà đã cố, và Francesca biết ơn vì sự cố gắng đó.

“Chị có muốn em đi cùng không?” Hyacinth hỏi, mắt cô sáng lên.

“Không!” Francesca nói, ngạc nhiên vì giọng cô có vẻ dữ dội hơn cô tưởng. “Em muốn đến đó làm quái gì?”

Hyacinth nhún vai. “Tò mò. Em muốn gặp Tay chơi vui vẻ.”

“Em đã gặp anh ấy rồi,” Eloise chỉ ra.

“Phải, nhưng đã lâu lắm rồi,” Hyacinth nói với một cái thở dài thượt, “từ trước khi em hiểu tay chơi là gì.”

“Con vẫn không hiểu cái đó bây giờ,” Violet nói sẵng.

“Ồ, nhưng con—“

“Con không” Violet nhắc lại, “hiểu tay chơi nghĩa là gì.”

“Được thôi.” Hyacinth quay sang phía mẹ với một nụ cười ngọt ngào đến phát ốm. “Con không biết tay chơi là gì. Con cũng không biết tự mặc quần áo và đánh răng.”

“Con đúng là đã thấy Polly giúp nó mặc váy tối hôm qua,” Eloise lẩm bẩm trên chiếc ghế sofa.

“Chẳng ai có thể tự mặc váy buổi tối cả,” Hyacinth ném trả.

“Con đi đây,” Francesca thông báo, mặc dù cô khá chắc rằng chẳng ai nghe cô.

“Chị đang làm gì đấy?” Hyacinth hỏi.

Francesca đứng lại cho đến khi nhận ra Hyacinth đang không nói với cô.

“Chỉ kiểm tra răng em thôi,” Eloise nói đầy ngọt ngào.

“Các cô bé!” Violet kêu, mặc dù Francesca không thể nghĩ rằng Eloise sẽ tiếp nhận cái đó một cách vui vẻ, khi chị ấy đã hai mươi bảy.

Và đúng là chị ấy không thích, nhưng Francesca lợi dụng sự lộn xộn và cãi cọ sau đó như một cơ hội để chuồn ra khỏi phòng và yêu cầu một người chạy việc gọi chiếc xe cho cô.

Đường phố không đông lắm; vẫn còn sớm, và giới quý tộc sẽ không ra khỏi nhà đến các buổi tiệc và vũ hội trong ít nhất một hoặc hai giờ nữa. Cỗ xe di chuyển thật nhanh giữa Mayfair, và trong chưa đầy mười lăm phút Francesca đã bước lên các bậc cấp phía trước Ngôi nhà Kilmartin ở St. James. Như thường lệ, một người chạy việc mở cửa trước khi cô kịp nhấc tay nắm, và cô vội vào trong.

“Kilmartin có ở đây không?” cô hỏi, nhận ra một sự ngạc nhiên nhỏ rằng đây là lần đầu tiên cô gọi Michael bằng tên đó. Cái đó thật lạ, cô nhận ra, và cũng hay, đúng thế, nó bật ra khỏi miệng cô thật tự nhiên. Có thể đã đến lúc họ quen với sự thay đổi. Anh giờ là bá tước, và anh sẽ không bao giờ chỉ là Ông Stirling nữa.

“Tôi tin vậy,” người chạy việc trả lời. “Ông ấy về sớm chiều nay, và tôi vẫn chưa thấy ông ấy đi.”

Francesca nhíu mày, rồi gật đầu cho anh ta lui trước khi bước lên những bậc thang. Nếu Michael thực sự ở nhà, anh phải đang ở trên lầu; nếu anh ở dưới phòng làm việc, người chạy việc sẽ nhận ra sự có mặt của anh.

Cô lên đến tầng hai, rồi sải bước dọc hành lang tới khu phòng của bá tước, đôi chân mang ủng của cô bước đi êm ái trên tấm thảm Aubusson dày cộm. “Michael?” cô gọi khẽ, khi cô đến phòng anh. “Michael?”

Chẳng có câu trả lời, thế là cô bước tới gần cánh cửa hơn, và cô nhận ra nó không đóng hẳn. “Michael?” cô lại gọi, chỉ to hơn một chút xíu. Chẳng hay ho gì khi gào tên anh trong nhà. Hơn nữa, nếu anh đang ngủ, cô không muốn đánh thức anh dậy. Anh có thể mệt sau chuyến đi dài và đã quá kiêu để có thể nói ra điều đó khi Violet mời anh tới dùng bữa tối.

Vẫn chẳng có gì, và cô đẩy cánh cửa mở ra thêm vài inch. “Michael?”

Cô nghe thấy tiếng gì đó. Một tiếng sột soạt, có thể. Có thể là một tiếng rên.

“Michael?”

“Frannie?”

Đó chắc chắn là giọng anh, nhưng không hề giống bất cứ cái gì cô từng nghe phát ra từ môi anh.

“Michael?” Cô vội vào phòng để thấy anh đang co ro trên giường, trông ốm yếu hơn bất cứ ai cô từng thấy. John, tất nhiên, chưa bao giờ ốm. Anh ấy chỉ đi ngủ một đêm và chết.

Thế đấy.

“Michael!” cô thở dốc. “Có chuyện gì với anh thế?”

“Ồ, không có gì nhiều,” anh thều thào. “Cảm lạnh, tôi nghĩ thế.”

Francesca nhìn xuống anh với đôi mắt nghi ngờ. Mái tóc đen của anh bết vào trán, da anh đỏ lên và lốm đốm, và sức nóng tỏa ra từ cái giường gần như làm cô nín thở.

Đấy là chưa nói anh ngửi có vẻ thật ốm. Đó là cái mùi kinh khủng, mùi mồ hôi, hơi chua, cái kiểu mùi mà, nếu có màu, sẽ là cái màu xanh làm người ta buồn nôn. Francesca đưa tay ra chạm vào trán anh, rụt lại ngay với sức nóng của nó.

“Đây không phải là cảm lạnh,” cô nói rành rọt.

Đôi môi anh căng ra cố làm thành một nụ cười xấu xí. “Cảm lạnh nặng?”

“Michael Stuart Stirling!”

“Chúa ơi, cô nói nghe như mẹ tôi.”

Cô không hoàn toàn cảm thấy như mẹ anh, đặc biệt sau chuyện xảy ra ở công viên, và cô cũng hơi nhẹ nhõm khi thấy anh yếu đuối và kém hấp dẫn đến mức này. Nó làm cái cảm giác cô cảm thấy từ chiều bớt xù xì đi một chút.

“Michael, có chuyện gì với anh thế?”

Anh nhún vai, rồi vùi mình sâu hơn dưới những tấm chăn, cả cơ thể anh run lên vì dùng quá nhiều sức.

“Michael!” Cô với tay ra và túm lấy vai anh. Cũng không quá dịu dàng. “Đừng có giở trò mọi khi của anh với tôi. Tôi biết chính xác cách làm của anh. Anh luôn giả vờ chẳng có gì quan trọng, chẳng có gì làm đáng làm anh bận tâm—“

“Thực sự chẳng cần bận tâm,” anh nói. “Cả cô nữa. Đơn giản thôi mà, thật đấy.”

“Michael!” Cô có thể tát anh nếu như anh không quá ốm như thế kia. “Anh sẽ không cố làm giảm nhẹ chuyện này, anh có hiểu tôi không? Tôi nhất quyết yêu cầu anh nói cho tôi biết có chuyện gì xảy ra với anh!”

“Tôi sẽ khá hơn ngày mai,” anh nói.

“Ồ, phải,” Francesca nói, với tất cả sự mỉa mai cô có thể, và nói thật là, cũng kha khá.

“Tôi sẽ,” anh khăng khăng, liên tục thay đổi tư thế, mỗi cử động xen lẫn với một tiếng rên. “Ngày mai tôi sẽ khỏe.”

Có cái gì đó trong cách nói của anh làm Francesca cảm thấy rất lạ. “Thế còn ngày sau đó thì sao?” cô hỏi, đôi mắt cô nheo lại.

Một tiềng cười khó khăn phát ra đâu đó dưới lớp chăn. “Sao cơ, lúc đó thì tôi sẽ lại ốm như một con chó chứ sao, tất nhiên.”

“Michael,” cô lại nói, cô giữ giọng mình thật thấp, “có chuyện gì với anh thế?”

“Cô vẫn chưa đoán được à?” Anh thò đầu ra từ dưới tấm chăn, và trông anh thật ốm đến nỗi cô muốn khóc. “Tôi bị sốt rét.”

“Ôi, Chúa ơi,” Francesca thở, thực sự lùi lại một bước. “Ôi, Chúa ơi.”

“Lần đầu tiên tôi nghe thấy cô kêu trời,” anh nói. “Có lẽ tôi nên cảm thấy hãnh diện vì đó là do tôi.”

Cô không biết sao anh có thể bỡn cợt trong lúc như vậy.

“Michael, tôi—“ cô đưa tay ra, rồi lại thu tay về, không biết phải làm gì.

“Đừng lo,” anh nói, cuộn người lại tròn hơn khi cơ thể anh dúm lại vì một đợt run mới. “Cô không thể lây từ tôi đâu.”

“Tôi không thể sao?” Cô chớp mắt. â€œÝ tôi là, tất nhiên là không.” Và ngay cả nếu cô có thể, điều đó không nên ngăn cô chăm sóc anh. Anh là Michael. Anh là... ừm, có vẻ thật khó để định nghĩa xem anh là gì của cô, nhưng họ có một mối liên hệ không thể phá vỡ, hai người, và dường như bốn năm và hàng ngàn dặm chẳng làm được gì nhiều để thay đổi chuyện đó.

“Nó là do khí hậu,” anh nói với giọng mệt mỏi. “Cô phải hít chướng khí mới có thể bị bệnh. Đó là tại sao họ gọi nó là sốt rét. Nếu cô có thể bị lây từ người khác, cái đám chúng tôi đã truyền bệnh cho cả nước Anh rồi.”

Cô gật đầu với sự giải thích của anh. “Anh có... anh có...” Cô không thể hỏi được; cô không biết hỏi thế nào.

“Không,” anh nói. “Ít nhất tôi không nghĩ vậy.”

Cô cảm thấy mình rũ ra vì nhẹ nhõm, và cô cần phải ngồi xuống. Cô không thể tưởng tượng thế giới không có anh. Ngay cả khi anh đi, cô vẫn biết anh đang ở đó, cùng chung một hành tinh với cô, cùng bước trên một mặt đất. Và ngay cả những ngày ngay sau khi John chết, khi cô ghét anh vì đã bỏ cô, ngay cả khi cô giận anh đến mức muốn khóc—cô vẫn cảm thấy chút an ủi vì biết anh còn sống và vẫn khỏe, và sẽ quay về với cô ngay lập tức, nếu cô yêu cầu.

Anh ở đây. Anh còn sống. Và khi John đã mất... Ừm, cô không biết mọi người làm sao có thể nghĩ đến việc cô mất cả hai người.

Anh lại run lên, thật dữ dội.

“Anh có cần thuốc không?” cô hỏi, chú ý trở lại. “Anh có thuốc không?”

“Tôi uống rồi,” anh nói.

Nhưng cô phải làm gì đó. Cô cũng không ghét bản thân đến mức nghĩ rằng cô có thể đã làm gì đó để ngăn chặn cái chết của John—ngay cả trong lúc đau đớn nhất cô cũng chưa đến mức đó—nhưng cô đã luôn thấy ghét khi tất cả chuyện đó xảy ra lúc không có mặt cô. Đó, thực sự, là điều hệ trọng duy nhất John làm mà không có cô. Và ngay cả nếu Michael chỉ ốm thôi, và sẽ không chết, cô sẽ không để cho anh chịu đựng một mình.

“Để tôi lấy cho anh một cái chăn nữa,” cô nói. Không đợi anh trả lời, cô vội bước qua cánh cửa nối sang khu phòng của cô và kéo tấm chăn khỏi giường mình. Nó có màu hồng của hoa hồng và gần như chắc chắn sẽ xúc phạm cái cảm giác đàn ông của anh khi anh bắt đầu có cảm giác trở lại, nhưng chuyện đó, cô quyết định, là chuyện của anh.

Khi cô quay lại phòng anh, anh nằm thật yên đến mức cô nghĩ anh đã ngủ, nhưng anh cố tỉnh lại và nói cám ơn khi cô phủ tấm chăn lên trên người anh.

“Tôi có thể làm gì nữa?” cô hỏi, kéo một cái ghế gỗ đến bên giường anh và ngồi xuống.

“Không gì cả.”

“Phải có việc gì đó,” cô khăng khăng. “Chắc chắn chúng ta sẽ không chỉ đợi chuyện này qua đi.’

“Chúng ta sẽ,” anh nói yếu ớt, “đợi chuyện này qua đi.”

“Tôi không thể tin điều đó là thật.”

Anh mở một mắt. “Cô định thách thức cả một nền y học sao?”

Cô nghiến răng và nhổm lên khỏi ghế. “Anh có chắc anh không cần thêm thuốc chứ?”

Anh lắc đầu, rồi rên lên vì dùng quá sức. “Không cần trong vài giờ nữa.”

“Nó ở đâu?” cô hỏi. Nếu việc duy nhất cô thực sự có thể làm là tìm xem thuốc ở đâu và chuẩn bị sẵn sàng khi cần đến nó, thì vì Chúa, cô ít nhất cũng sẽ làm vậy.

Anh nhích đầu một chút sang bên trái. Francesca dõi theo cử động đến một cái bàn nhỏ bên kia phòng, nơi có một lọ thuốc đứng trên một tờ báo gấp lại. Cô đứng dậy ngay và tới lấy nó, đọc nhãn thuốc khi quay trở lại ghế. “Quinine,” cô lẩm bẩm. “Tôi đã nghe tới cái này.”

“Thuốc thần kỳ,” Michael nói. “Người ta bảo vậy.”

Francecsa nhìn anh nghi ngờ.

“Nhìn tôi này,” anh nói với một nụ cười nửa miệng—và yếu ớt. “Bằng chứng sống động.”

Cô lại săm soi lọ thuốc, nhìn thứ bột trong đó dịch chuyển khi cô nghiêng lọ. “Tôi vẫn chưa bị thuyết phục.”

Một bên vai anh cố cử động ra vẻ vô tư. “Tôi vẫn chưa chết.”

“Cái đó không buồn cười chút nào.”

“Không, đó là cái duy nhất buồn cười,” anh sửa lại. “Chúng ta phải cười khi có thể. Thử nghĩ xem, nếu tôi chết, tước vị sẽ chuyển sang—Janet nói thế nào nhỉ—cái—“

“Nhánh Dabenham tệ hại trong gia tộc,” họ cùng nói, và dù Francesca không thể tin được, cô đã thực sự mỉm cười.

Anh luôn có thể làm cô cười.

Cô với tay ra và nắm lấy tay anh. “Chúng ta sẽ vượt qua chuyện này,” cô nói.

Anh gật đầu, và rồi anh nhắm mắt lại.

Nhưng ngay khi cô nghĩ anh đã ngủ, anh thì thầm, “Có cô ở đây vẫn tốt hơn.”

Sáng hôm sau Michael đã cảm thấy như sống lại đôi chút, và nếu anh vẫn chưa được như bình thường, thì ít nhất vẫn khá hơn nhiều so với đêm trước. Francesca, anh phát hoảng khi nhận ra, vẫn ngồi trên cái ghế gỗ cạnh giường anh, đầu cô nghiêng về một bên như say rượu. Trông cô không thoải mái theo mọi cách mà người ta có thể trông không thoải mái, từ cái cách cô ngồi trên ghế đến cái góc nghiêng kỳ quặc của cái cổ và thân hình vặn vẹo lạ kỳ của cô.

Nhưng cô đang ngủ. Thậm chí còn ngáy, cái này làm anh cảm thấy thật dễ thương. Anh chưa bao giờ tưởng tượng được cô ngáy, và thật buồn phải nói rằng, anh đã tưởng tượng cô ngủ không biết bao nhiêu lần mà kể.

Anh nghĩ là anh đã hy vọng quá hão huyền rằng anh có thể dấu cô bệnh của mình; cô quá nhạy bén và tất nhiên cũng quá tọc mạch. Và dù cho anh muốn cô không lo lắng vì mình, sự thật là, anh đã được an ủi vì sự có mặt của cô đêm qua. Anh không nên thế, hoặc ít nhất anh không nên cho phép mình như thế, nhưng anh không thể đừng được.

Anh nghe thấy cô trở mình và quay sang nằm nghiêng để nhìn rõ hơn. Anh chưa bao giờ nhìn cô tỉnh dậy, anh nhận ra. Anh không chắc tại sao anh nghĩ điều này lạ đến vậy; cũng chẳng phải anh đã được chứng kiến nhiều thời khắc riêng tư của cô trước đây. Có thể bởi vì trong tất cả những giấc mơ của anh, trong tất cả sự mơ tưởng của anh, anh chưa bao giờ tưởng tượng về điều này—tiếng khò khè khẽ trong cổ cô khi cô trở mình, tiếng thở dài khi cô ngáp, hoặc ngay cả sự lay động thật khẽ của đôi mi cô khi chúng hé ra.

Cô thật đẹp.

Anh biết vậy, tất nhiên, anh đã biết điều đó bao nhiêu năm nay, nhưng chưa từng cảm nhận nó rõ rệt đến thế, sâu tận trong xương tủy đến vậy.

Chẳng phải vì mái tóc của cô, mái tóc dày, những lọn sóng màu hạt dẻ mượt mà anh hiếm khi được có cơ may nhìn chúng rủ xuống. Và thậm chí cũng không phải vì đôi mắt của cô, xanh sáng lên đến mức đàn ông đã xúc động đến nỗi phải làm thơ—Michael nhớ lại, trong sự thích thú của John. Cũng chẳng phải vì khuôn mặt cô hay khuôn xương; nếu đúng thế, anh đã phải phát cuồng vì sự đáng yêu của tất cả các cô gái nhà Bridgerton; họ giống nhau như những hạt đậu, ít nhất ở vẻ bên ngoài.

Đó là vì cái gì đó trong cách cô cử động.

Cái gì đó trong cách cô thở.

Cái gì đó trong cái cách cô đơn giản là tồn tại.

Và anh không nghĩ anh có bao giờ có thể vượt qua điều đó.

“Michael,” cô lẩm nhẩm, dụi đi giấc ngủ từ đôi mắt.

“Chào buổi sáng,” anh nói, hy vọng cô nhầm tiếng khàn trong giọng anh là do mệt mỏi.

“Trông anh khá hơn.”

“Tôi cảm thấy khá hơn.”

Cô nuốt vào trước khi cô nói, “Anh đã quen chuyện này.”

Anh gật đầu. “Tôi sẽ không đi quá xa đến mức nói rằng tôi không phiền với căn bệnh, nhưng đúng, tôi đã quen với nó. Tôi biết phải làm gì.”

“Nó sẽ còn tiếp tục bao lâu nữa?”

“Cũng khó nói. Tôi sẽ bị sốt hai ngày một lần cho đến khi nó... dừng. Một tuần tất cả, có thể hai. Ba nếu tôi đen đủi đến mức tệ hại.”

“Và rồi sao?”

Anh nhún vai. “Rồi tôi đợi và hy vọng nó sẽ không xảy ra lần nữa.”

“Nó có thể thế sao?” Cô ngồi thẳng dậy. “Không bao giờ trở lại?”

“Nó là một căn bệnh kỳ lạ, thất thường.”

Đôi mắt cô nheo lại. “Đừng có nói là nó giống như một người đàn bà.”

“Tôi chưa hề nghĩ thế cho đến khi cô nói ra.”

Đôi môi cô khẽ mím lại, rồi dãn ra khi cô hỏi, “Đã bao lâu rồi kể từ lần trước anh...” Cô chớp mắt. “Anh gọi nó sao?”

Anh nhún vai. “Tôi gọi là lên cơn. Chắc chắn là nó có cảm giác như vậy. Và đã sáu tháng rồi.”

“Ừm, vậy là tốt!” Cô cắn môi dưới. “Phải không?”

“Nếu tính đến chuyện trước lần trước chỉ có ba tháng, thì đúng, tôi nghĩ thế.”

“Chuyện này xảy ra thường xuyên cỡ nào?”

“Đây là lần thứ ba. Tóm lại, nó cũng không quá tệ nếu so với những cái tôi đã thấy.”

“Liệu tôi có nên an tâm vì điều đó không?”

“Tôi có,” anh nói thẳng băng. “vì tôi là hình mẫu của đức tính của người theo đạo Thiên chúa.”

Cô bất chợt đưa tay ra và sờ trán anh. “Anh mát hơn nhiều rồi,” cô nhận xét.

“Đúng, tôi sẽ. Đây là một căn bệnh rất ổn định. Ừm, ít ra là khi cô đang ốm. Sẽ tốt hơn nếu tôi biết lúc nào tôi sẽ bị lên cơn lại.”

“Và anh sẽ thực sự lên cơn sốt trong vòng một ngày nữa? Đúng y như thế?”

“Đúng y như thế,” anh khẳng định.

Cô dường như suy nghĩ về điều đó một lúc, rồi nói, “Anh sẽ không thể giấu gia đình về chuyện này, đương nhiên.”

Anh thực sự cố ngồi dậy. “Vì Chúa, Francesca, đừng nói với mẹ tôi và—“

“Họ sẽ đến bất cứ hôm nào bây giờ,” cô chen vào. “Khi tôi rời Scotland, họ nói họ sẽ chỉ chậm hơn tôi một tuần, và anh biết Janet đấy, cái đó thực sự có nghĩa là chỉ ba ngày. Anh có thực sự hy vọng họ không nhận ra rằng anh khá dễ dàng—“

“Không dễ dàng,” anh chen vào thật nhanh.

“Kiểu gì cũng thế,” cô nói gọn lỏn. “Anh có thực sự nghĩ họ sẽ không nhận ra anh ốm như chết cứ hai ngày một lần? Vì trời, Michael, hãy nghĩ là họ có một chút trí thông minh đi.”

“Được rồi,” anh nói, thả người xuống gối. “Nhưng không ai nữa. Tôi không có mong ước trở thành tên quái của London.”

“Anh chẳng phải người đầu tiên bị sốt rét.”

“Tôi không muốn ai thương hại cả,” anh bật ra. “Đặc biệt là cô.”

Cô lui lại như thể bị đánh, và tất nhiên anh cảm thấy như một tên khốn.

“Tha lỗi cho tôi,” anh nói. â€œÝ tôi khác.”

Cô lườm anh.

“Tôi không muốn sự thương hại của cô,” anh nói lại, “nhưng sự chăm sóc và cầu chúc tốt đẹp của cô luôn được chào đón.”

Đôi mắt cô không nhìn anh, nhưng anh có thể nói rằng cô đang cố quyết định xem có nên tin anh không.

“Tôi thật lòng,” anh nói, và anh không còn sức để giấu đi sự mệt mỏi trong giọng nói. “Tôi mừng vì cô ở đây. Tôi từng trải qua chuyện này.”

Cô nhìn qua thật nhanh, như thể cô có một câu hỏi, nhưng có chết, anh cũng không biết đó là gì.

“Tôi đã trải qua chuyện này,” anh lại nói, “và lần này... khác. Tốt hơn. Dễ dàng hơn.” Anh thở một hơi dài, nhẹ nhõm vì đã tìm được từ thích hợp. “Dễ dàng hơn. Nó dễ dàng hơn.”

“Ồ,” Cô nhúc nhích trên ghế. “Tôi thật... mừng.”

Anh liếc qua cửa sổ. Chúng được che bởi những tấm rèm dày, nhưng anh có thể thấy những tia nắng lọt qua khe ở bên cạnh. “Mẹ cô sẽ không lo lắng cho cô chứ?”

“Ôi, không!” Francesca thốt lên, nhảy dựng lên nhanh đến mức bàn tay cô đập vào chiếc bàn cạnh giường. “Ôi ôi ôi”

“Cô không sao chứ?” Michael hỏi lịch sự, bởi vì rõ ràng cô không làm sao cả.

“Ôi...” Cô đang rảy rảy tay, cố làm dịu cơn đau. “Tôi quên mất mẹ tôi. Bà chờ tôi về từ đêm qua.”

“Cô không gửi tin nhắn sao?”

“Tôi có,” cô nói. “tôi nói với bà là anh ốm, nhưng bà nhắn lại và nói sẽ ghé qua vào buổi sáng để giúp. Mấy giờ rồi? Anh có đồng hồ không? Tất nhiên anh có đồng hồ.” Cô quay thật nhanh về phía chiếc đồng hồ nhỏ trên lò sưởi.

Đây từng là phòng John; nó vẫn là phòng John, theo rất nhiều cách. Tất nhiên cô phải biết chiếc đồng hồ ở đâu.

“Mới tám giờ,” cô nói và thở phào. “Mẹ không bao giờ dậy trước chín giờ trừ phi có việc khẩn cấp, và hy vọng bà không coi chuyện này là như vậy. Tôi đã cố không quá tỏ ra hoảng hốt trong tin nhắn.”

Nếu bạn biết Francesca, nó sẽ được viết với tất cả sự bình tĩnh lạnh lùng mà cô nổi tiếng sở hữu. Michael mỉm cười. Cô có thể đã nói dối rằng cô đã thuê người chăm sóc.

“Chẳng cần thiết phải lo lắng,” anh nói.

Cô quay nhìn anh với đôi mắt lạ lùng. “Anh nói anh không muốn ai biết anh bị sốt rét.”

Môi anh mở ra. Anh chưa bao giờ mơ rằng cô sẽ xem trọng ý muốn của anh đến thế. “Cô sẽ giấu việc này với mẹ cô?” anh hỏi khẽ.

“Tất nhiên. Đó là quyết định của anh xem có nói với bà không, không phải là của tôi.”

Việc này thật cảm động, thậm chí có cảm giác âu yếm—

“Tôi nghĩ anh bị điên,” cô nói nhanh.

Ừm, có thể âu yếm không hẳn là từ thích hợp.

“Nhưng tôi sẽ tôn trọng ý muốn của anh.” Cô đặt tay lên hông và nhìn anh với ánh mắt chỉ có thể tả là bực bội. “Sao anh có thể nghĩ là tôi sẽ làm khác nhỉ?”

“Tôi không biết,” anh lẩm bẩm.

“Thật tình, Michael,” cô gầm gừ. “Tôi không biết có chuyện gì với anh nữa.”

“Không khí ẩm ướt?” anh cố đùa.

Cô ném cho anh một Cái Nhìn. Viết hoa.

“Tôi sẽ quay về chỗ mẹ tôi,” cô nói, đeo đôi ủng ngắn màu xám của cô vào. “Nếu tôi không về, anh có thể chắc chắn mẹ tôi sẽ xuất hiện với cả một khoa trong Cao đẳng Y khoa Hoàng gia theo sau.”

Anh nhướng một bên mày. “Có phải bà từng làm vậy khi cô ốm?”

Cô phát ra một âm thanh nửa như khịt mũi, nửa như gầm gừ, và hoàn toàn cáu kỉnh. “Tôi sẽ quay lại sớm. Đừng có đi đâu.”

Anh giơ hai bàn tay lên, đưa tay một cách châm biếm về chiếc giường bệnh.

“Ừm, tôi sẽ không quá tin ở anh,” cô lầm bầm.

“Niềm tin của cô về sức mạnh siêu phàm thực là cảm động.”

Cô dừng lại trước cửa. “Tôi thề, Michael, anh là bệnh nhân thập tử nhất sinh dễ gây nổi cáu nhất mà tôi từng biết.”

“Tôi sống để phục vụ cô!” anh gọi với ra vì cô đã ra ngoài hành lang, và anh chắc mẩm nếu cô có cái gì đó để ném vào cánh cửa, thì cô đã làm rồi. Với hết sức lực.

Anh nằm lại xuống gối và mỉm cười. Anh có thể là một bệnh nhân gây nổi cáu, nhưng cô cũng là một người chăm sóc quái gở.

Với anh cái đó hoàn toàn ổn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:50:00 | Xem tất
Chapter 9

…có thể những lá thư của chúng ta đã không gặp nhau, nhưng có vẻ như là cô chỉ không muốn nói chuyện. Tôi chấp nhận và mong cô luôn khỏe. Tôi sẽ không làm phiền cô nữa. Tôi hy vọng là cô biết tôi vẫn đang lắng nghe, nếu có lúc nào cô đổi ý.

—của Bá tước Kilmartin gửi tới Nữ bá tước Kilmartin, tám tháng sau khi anh đến Ấn Độ

Thật không dễ giấu căn bệnh của anh. Giới quý tộc không phải là vấn đề; Michael chỉ cần từ chối tất cả các lời mời, và Francesca đã phao tin rằng anh muốn ổn định tại ngôi nhà mới của mình trước khi đảm nhận vị trí trong xã hội.

Những người hầu thì khó hơn một chút. Họ nói chuyện, tất nhiên, và thường là nói với những người hầu nhà khác, nên Francesca phải đảm bảo chỉ những người hầu cận trung thành nhất mới được phép vào phòng bệnh của Michael. Việc đó thật khó, đặc biệt là khi cô đang không chính thức sống tại Ngôi nhà Kilmartin, ít nhất là cho đến khi Janet và Helen đến, mà Francesca vô cùng hy vọng là sẽ sớm.

Nhưng phần khó nhất, những người luôn tò mò một cách khủng khiếp và rất khó để giấu, lại là gia đình Francesca. Giữ kín một bí mật trong nhà Bridgerton chưa bao giờ là một việc dễ dàng, và giữ bí mật với tất cả bọn họ thực là, nói ngắn gọn, một cơn ác mộng khủng khiếp.

“Tại sao chị đến đó mỗi ngày?” Hyacinth hỏi trong bữa sáng.

“Chị sống ở đó,” Francesca trả lời, rồi cắn một miếng muffin, dấu hiệu mà người bình thường sẽ nhận ra là cô không muốn nói chuyện.

Hyacinth, tuy thế, lại chưa bao giờ được biết đến như một người bình thường. “Chị sống ở đây,” cô cãi.

Francesca nuốt vào, rồi nhấp một ngụm trà, sự chậm trễ là để cô giữ được vẻ bình thản. “Chị ngủ ở đây,” cô nói lạnh nhạt.

“Đó chẳng phải là định nghĩa của nơi người ta sống sao?”

Francesca trát thêm mứt vào cái muffin của mình. “Chị đang ăn, Hyacinth.”

Em út của cô nhún vai. “Em cũng thế, nhưng chuyện đó không ngăn cản em có một cuộc nói chuyện thông minh.”

“Tôi sẽ giết nó,” Francesca nói chẳng với một ai cụ thể. Điều đó có thể là điều hay, bởi vì chẳng có ai khác có mặt hết.

“Chị đang nói với ai thế?” Hyacinth hỏi.

“Chúa,” Francesca nói cộc lốc. “Và chị thực sự tin chị đã được phép của đấng thiêng liêng cho phép được giết em.”

“Hừm,” là câu trả lời của Hyacinth. “Nếu mà dễ thế, thì em đã xin phép xóa sổ một nửa giới quý tộc từ đời nào rồi.”

Francesca kết luận ngay lúc đó rằng không phải tất cả các câu nói của Hyacinth đều cần được đáp lại. Thực tế là, rất ít.

“Ồ, Francesca!” giọng Violet vang lên, may sao đã xen ngang vào câu chuyện. “Con đây rồi.”

Francesca ngước lên và thấy mẹ cô bước vào phòng ăn sáng, nhưng trước khi cô kịp nói lấy một từ, Hyacinth đã phun ngay, “Francesca đang chuẩn bị giết con.”

“Thế thì mẹ đến vừa kịp lúc nhỉ,” Violet nói, ngồi xuống ghế. Bà quay sang Francesca. “Con có định qua Ngôi nhà Kilmartin sáng nay không?”

Francesca gật đầu. “Con sống ở đó.”

“Con nghĩ chị ấy sống ở đây,” Hyacinth nói, thêm một lượng kha khá đường vào trong ly trà của mình.

Violet lờ cô đi. “Mẹ nghĩ mẹ sẽ đi cùng con.”

Francesca suýt nữa đánh rơi cái nĩa. “Tại sao?”

“Mẹ muốn gặp Michael,” Violet nói với một cái nhún vai rất lịch lãm. “Hyacinth, con đưa cho mẹ mấy cái muffin được không?”

“Con không biết kế hoạch hôm nay của anh ấy là gì,” Francesca nói nhanh. Michael vừa lên cơn đêm hôm qua—lần lên cơn thứ tư của anh, nói một cách chính xác, và họ hy vọng nó sẽ là lần cuối của đợt này.  Nhưng mặc dù đến giờ anh có thể đã hồi lại kha khá, rất có thể trông anh vẫn tệ hại. Da của anh—ơn Chúa—đã không chuyển sang màu vàng, Michael đã nói với cô rằng đó thường là dấu hiệu khi căn bệnh chuyển sang giai đoạn nguy hiểm đến tính mạng, nhưng anh vẫn còn có vẻ ốm yếu kinh khủng, và Francesca biết rằng nếu mẹ cô chỉ nhìn anh một cái thôi, bà sẽ phát hoảng. Và giận điên lên.

Violet Bridgerton không thích bị giấu chuyện gì. Đặc biệt khi chuyện đó quan trọng và người ta có thể dùng cụm từ “sống chết” để tả về nó mà không bị coi là quá cường điệu.

“Nếu cậu ấy không rảnh thì mẹ chỉ cần quay đầu và đi về thôi,” Violet nói. “Mứt, Hyacinth.”

“Em sẽ đi nữa,” Hyacinth nói.

Ôi, Chúa ơi. Con dao của Francesca lướt qua ngay trên chiếc muffin của cô. Cô sẽ phải trói em gái mình lại và kéo lê đi. Đó là giải pháp duy nhất.

“Mẹ không phiền nếu con đi cùng, phải không?” Hy­acinth hỏi Violet.

“Không phải em có kế hoạch với Eloise sao?” Francesca hỏi thật nhanh.

Hycinth ngừng lại, nghĩ ngợi, chớp mắt vài lần. “Em không nghĩ vậy.”

“Đi mua sắm? Ở tiệm bán mũ?”

Hyacinth mất một lúc nữa để lục lại trong trí nhớ của mình. “Không, thực sự em khá chắc chắn là em không. Em vừa mua một cái mũ mới tuần trước. Rất đẹp, thật đấy. Màu xanh, với cái vành màu nâu làm khéo vô cùng.” Cô liếc lát bánh mỳ nướng của mình, nhìn nó một lúc, rồi với lấy lọ mứt cam. “Em mệt vì đi mua sắm rồi,” cô nói thêm.

“Không phụ nữ nào mệt vì đi mua sắm cả,” Francesca nói, có vẻ hơi tuyệt vọng.

“Người phụ nữ này có. Hơn nữa, ngài bá tước—“ Hyacinth tự dừng lại, quay sang mẹ cô. “Con gọi anh ấy là Michael được không?”

“Con phải hỏi cậu ấy,” Violet trả lời, cắn một miếng trứng.

Hyacinth quay lại phía Francesca. “Anh ấy đã trở lại London cả vài tuần nay, và em thậm chí chưa gặp anh ấy. Bạn bè em cứ hỏi em về anh ấy suốt, và em chẳng có gì để nói cả.”

“Tán chuyện là không đứng đắn, Hyacinth,” Violet nói.

“Đấy không phải là tán chuyện,” Hyacinth trả lời. “Đấy là phổ biến thông tin một cách trung thực.”

Francesca thực sự cảm thấy cằm mình vừa rớt ra. “Mẹ,” cô nói, lắc đầu, “mẹ đúng là nên dừng ở con số bảy.”

“Đứa con, ý con là vậy?” Violet hỏi, vừa nhấp trà. “Đôi khi mẹ cũng tự hỏi.”

“Mẹ!” Hyacinth kêu.

Violet chỉ mỉm cười với cô. “Muối?”

“Mẹ cần đến tám lần mới làm đúng được,” Hyacinth tuyên bố, đẩy lọ muối về phía mẹ cô với sự kém duyên dáng rõ rệt.

“Và cái đó có phải có nghĩa là con cũng muốn có tám đứa con?” Violet hỏi ngọt ngào.

“Chúa ơi, không,” Hyacinth nói. Với cảm xúc thật mạnh mẽ. Và cô cùng với Francesca, không ai có thể nhịn không cười khúc khích sau câu đó.

“Kêu trời là không lịch sự, Hyacinth,” Violet nói, với cái giọng giống như khi bà bảo Hyacinth không được tán chuyện.

“Tại sao bọn mẹ không ghé qua sớm một chút vào đầu buổi chiều nhỉ?” Violet hỏi Francesca, khi khoảnh khắc vui vẻ trôi qua.

Francesca liếc nhìn lên chiếc đồng hồ. Cái đó nghĩa là cô chỉ có khoảng một giờ để làm cho Michael trông coi được một chút. Và mẹ cô đã nói bọn mẹ. Nghĩa là nhiều hơn một người. Nghĩa là bà sẽ đưa Hyacinth đi theo, người có khả năng biến một tình thế kỳ cục trở thành một cơn ác mộng sống.

“Con sẽ đi bây giờ,” Francesca buột miệng, đứng dậy thật nhanh. “Để xem anh ấy có rảnh không.”

Trước sự ngạc nhiên của cô, mẹ cô cũng đứng dậy. “Mẹ sẽ tiễn con ra cửa,” Violet nói. Chắc chắn.

“Err, mẹ sẽ?”

“Phải.”

Hyacinth bắt đầu đứng dậy.

“Một mình,” Violet nói, thậm chí không liếc Hyacinth một cái.

Hyacinth ngồi xuống lại. Ngay cả cô cũng đủ khôn để biết rằng không nên tranh cãi khi mẹ cô kết hợp nụ cười điềm tĩnh đó với một giọng nói đanh thép.

Francesca để mẹ ra khỏi phòng trước cô, và họ đi trong im lặng cho đến khi ra tới tiền sảnh, nơi cô đứng đợi người chạy việc lấy áo khoác cho mình.

“Con có chuyện gì muốn nói với mẹ không?” Violet hỏi.

“Con không hiểu ý mẹ.”

“Mẹ nghĩ là con có.”

“Con đảm bảo với mẹ,” Francesca nói, nhìn mẹ với vẻ ngây thơ, “con không có.”

“Con đã dành khá nhiều thời gian ở Ngôi nhà Kilmartin,” Violet nói.

“Con sống ở đó,” Francesca giải thích, tưởng như phải đến lần thứ một trăm.

“Không phải là lúc này, và mẹ lo người ta sẽ nói.”

“Chưa có ai nói gì về chuyện đó cả,” Francesca đáp. “Con chưa thấy gì trong mục tin đồn, và nếu người ta nói về chuyện đó, con chắc một người trong chúng ta đã phải nghe rồi.”

“Chỉ vì người ta đang im lặng không có nghĩa là họ sẽ vẫn như vậy vào ngày mai,” Violet nói.

Francesca thở ra một hơi đầy bực bội. “Con cũng chẳng phải là một cô gái trong trắng chưa bao giờ lấy chồng.”

“Francesca!”

Francesca khoanh tay. “Con xin lỗi vì đã nói thẳng, mẹ à, nhưng đó là sự thật.”

Người chạy việc tới đúng lúc đó với chiếc áo khoác của Francesca và thông báo với cô rằng cỗ xe sẽ ngay lập tức sẵn sàng ở đằng trước nhà. Violet đợi cho đến khi anh ta ra ngoài đợi nó tới, rồi quay sang Francesca và hỏi, “Chính xác thì quan hệ của con và bá tước là gì?”

Francesca thở hắt. “Mẹ!”

“Đó không phải là một câu hỏi ngốc nghếch,” Violet nói.

“Đó là câu ngốc nghếch nhất—không, đúng hơn là ngớ ngẩn nhất— con từng được nghe. Michael là em họ con!”

“Cậu ấy từng là em họ của chồng con,” Violet sửa lại.

“Và anh ấy cũng là em họ con nữa,” Francesca nói thật gắt. “Và bạn con. Trời ơi, trong tất cả mọi người… con thậm chí không thể tưởng tượng… Michael!”

Nhưng sự thật là, cô có thể tưởng tượng. Trận ốm của Michael đã ngăn điều đó lại; cô đã quá bận bịu chăm sóc và giúp cho anh khỏe lại, đến nỗi cô đã có thể tránh nghĩ đến giây phút liêu xiêu đó trong công viên, khi cô nhìn anh và có cái gì đó trong cô sống dậy.

Một cái gì đó mà cô từng chắc mẩm đã chết ở trong cô từ bốn năm trước.

Nhưng khi nghe mẹ cô nhắc đến chuyện đó… Chúa ơi, điều đó thật khủng khiếp. Không đời nào, không đời nào cô có thể cảm thấy bị hấp dẫn bởi Michael. Điều đó thật sai trái. Điều đó thực sự sai trái. Điều đó… ừm, nó đơn giản là rất sai trái. Chẳng có từ nào để tả nó tốt hơn.

“Mẹ,” Francesca nói, cố giữ giọng đều đều, “Michael không cảm thấy khỏe. Con đã nói với mẹ rồi.”

“Bảy ngày thì cũng hơi lâu cho một trận cảm lạnh đấy.”

“Có thể là cái gì đó từ Ấn Độ,” Francesca nói. “Con không biết. Con nghĩ anh ấy gần bình phục rồi. Con đã giúp anh ấy ổn định tại London này. Anh ấy đã đi xa rất lâu và như mẹ đã nhận thấy, anh ấy có nhiều trách nhiệm mới trong cương vị bá tước. Con nghĩ nhiệm vụ của con là phải giúp anh ấy với những việc này.” Cô nhìn mẹ cô với một vẻ mặt cương quyết, khá hài lòng với bài nói của mình. Nhưng Violet chỉ nói, “Mẹ sẽ gặp con trong một giờ nữa,” và bước đi.

Để lại Francesca với cảm giác hoảng loạn thực sự.

Michael đang hưởng thụ chút thời gian thanh thản và yên tĩnh—cũng chẳng phải anh không được yên, nhưng bệnh sốt rét chẳng cho phép cơ thể được thảnh thơi nhiều—thì Francesca xông qua cánh cửa buồng ngủ, mắt mở to và thở không ra hơi.

“Anh có hai lựa chọn,” cô nói, hoặc đúng hơn, phều phào.

“Chỉ có hai thôi?” anh lẩm bẩm, mặc dù anh chẳng biết cô đang nói về chuyện gì.

“Đừng có đùa.”

Anh chuyển mình sang tư thế ngồi. “Francesca?” anh hỏi thật cẩn thận, bởi vì đó là kinh nghiệm của anh, rằng người ta luôn phải thận trọng khi có một phụ nữ đang có vấn đề.

“Cô có ổn—“

“Mẹ tôi sắp đến,” cô nói.

“Đây?”

Cô gật đầu.

Đó chẳng phải hoàn cảnh lý tưởng nhưng cũng chưa phải cái gì đáng để Francesca phản ứng rối tinh lên như thế. “Tại sao?” anh hỏi thật lịch sự.

“Bà nghĩ—“ Cô ngừng lại, lấy hơi. “Bà nghĩ—Ôi, trời ơi, anh sẽ không tin đâu.”

Khi cô không giải thích thêm về cái đó, anh mở to mắt và đưa tay làm một cử chỉ tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn, như thể nói—Có thể kể rõ hơn không

“Bà nghĩ,” Francesca nói, nhún vai khi cô quay nhìn anh, “rằng chúng ta đang có quan hệ.”

“Chỉ sau một tuần trở lại London,” anh lẩm bẩm đầy vẻ suy tư. “Tôi nhanh hơn là tôi tưởng.”

“Sao anh có thể đùa về việc này chứ?” Francesca hỏi.

“Sao tôi có thể không đùa?” anh đáp trả. Nhưng tất nhiên cô sẽ không bao giờ có thể cười vì một chuyện như thế. Với cô đó là điều không thể tưởng tượng. Với anh đó là...

Ừm, một thứ hoàn toàn khác hẳn.

“Tôi đang chết khiếp,” cô tuyên bố.

Michael chỉ mỉm cười và nhún vai với cô, mặc dù anh bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy. Bình thường, anh không hy vọng Francesca sẽ nghĩ về anh theo cách đó, nhưng cái phản ứng khiếp sợ kia không thực sự làm một anh chàng cảm thấy thoải mái với tính đàn ông của mình.

“Hai lựa chọn của tôi là gì?” anh bỗng hỏi.

Cô chỉ nhìn anh chằm chằm.

“Cô đã nói tôi có hai lựa chọn.”

Cô chớp mắt, và lẽ ra trông cũng khá ngơ ngác đáng yêu, nếu như anh không quá bực mình với sự tức tối của cô để có thể nghĩ về cô một cách hào phóng như thế. “Tôi... không nhớ,” cuối cùng cô nói. “Ôi trời ơi,” cô rên rỉ. “Tôi phải làm gì?”

“Ngồi xuống có thể là một khởi đầu tốt,” anh nói, đủ to để đầu cô quay phắt về phía anh. “Dừng lại và suy nghĩ đi, Frannie. Đây là chúng ta. Mẹ cô sẽ nhận ra bà ngốc nghếch đến thế nào một khi bà bỏ thêm thời gian suy nghĩ về điều đó.”

“Đó là điều tôi đã nói với mẹ,” cô trả lời thật vội. â€œÝ tôi là, vì chúa. Anh có thể tưởng tượng được không?”

Thực ra, anh có thể, và cái đó đã luôn là chút vấn đề.

“Đó là thứ khó hình dung nhất ,” Francesca lầm bầm, đi qua đi lại trong phòng. “Cứ làm như là tôi—“ Cô xoay người, phẩy tay về phía anh với một cử động thật mạnh. “Cứ làm như là anh—“ Cô dừng lại, đặt hai tay lên hông, rồi rõ ràng đã từ bỏ cố gắng đứng yên và lại tiếp tục đi lại trong phòng. “Sao bà có thể nghĩ đến chuyện như vậy chứ?”

“Tôi không tin là tôi từng thấy cô bực tức đến thế này,” Michael bình phẩm.

Cô ngừng lại giữa chừng và nhìn anh chằm chằm như thể anh là tên ngốc. Với hai cái đầu.

Và có thể là một cái đuôi.

“Cô thực sự nên cố bình tĩnh lại,” anh nói, mặc dù anh biết lời nói của anh sẽ có hiệu quả hoàn toàn ngược lại. Phụ nữ ghét bị khuyên nên bình tĩnh lại, đặc biệt là phụ nữ như Francesca.

“Bình tĩnh lại?” cô nhắc lại, nhìn anh như thể bị ám bởi cả đàn thiên thần thịnh nộ. “Bình tĩnh lại? Chúa ơi, Michael, anh vẫn còn sốt hả?”

“Không hề,” anh nói điềm tĩnh.

“Anh có hiểu tôi đang nói với anh cái gì không?”

“Cũng kha khá,” anh bật ra, lịch sự cỡ như bất cứ người đàn ông nào có thể phản ứng khi bị xúc phạm đến tính đàn ông của anh ta.

“Chuyện này thật điên rồ,” cô nói. “Hoàn toàn điên rồ. Ý tôi là, nhìn anh mà xem.”

Thiệt tình, cô có thể chỉ cần vớ lấy một con dao và lia một nhát vào háng anh. “Cô biết không, Francesca,” anh nói với sự nhẹ nhàng hết cỡ, “có rất nhiều phụ nữ ở London sẽ rất vui lòng được, người ta nói thế nào nhỉ, có quan hệ tình cảm với tôi.”

Miệng cô, vẫn đang mở sau tràng liên thanh vừa rồi, ngậm chặt lại.

Anh nhướng đôi lông mày và dựa lại vào gối. “Một số người sẽ gọi đó là đặc quyền.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2012 23:51:11 | Xem tất
Cô lườm anh.

“Một số phụ nữ,” anh nói, thừa biết rằng anh không bao giờ nên nhử cô với một chủ đề như vậy, “thậm chí còn dụng đến tay chân chỉ để có cơ hội—“

“Thôi đi!” cô gắt. “Chúa ơi, Michael, cái cách nhìn nhận thế mạnh của bản thân theo kiểu thổi phồng quá mức như vậy chẳng hấp dẫn đâu.”

“Tôi nghe bảo rằng tôi xứng đáng như vậy,” anh nói với một nụ cười uể oải.

Khuôn mặt cô đỏ rực lên.

Anh khá thích cảnh tượng đó. Anh có thể yêu cô, nhưng anh ghét những gì cô vừa làm với anh, và anh không rộng lượng đến nỗi không thỉnh thoảng cảm thấy thỏa mãn khi nhìn cô khổ sở kiểu này.

Đó chỉ là một phần nhỏ so với những gì anh cảm thấy mỗi ngày, dù sao chăng nữa.

“Tôi không có mong muốn được nghe về những khám phá tình ái của anh,” Francesca nói cứng.

“Hay thật, cô thường luôn hỏi tôi về cái đó.” Anh dừng lại, nhìn cô nhăn nhó. “Cô vẫn hay hỏi tôi cái gì nhỉ?”

“Tôi không—“

“Kể cho tôi chuyện gì đó xấu xa đi” anh nói, với cái giọng như thể anh vừa mới nhớ ra, trong khi đương nhiên là anh chưa bao giờ quên bất cứ cái gì cô nói với anh. “Kể cho tôi chuyện gì đó xấu xa đi,” anh lại nói, lần này chậm hơn. “Đúng nó rồi. Cô cũng khá thích khi tôi xấu xa. Cô luôn tò mò về những khám phá của tôi.”

“Đó là trước khi—“

“Trước cái gì, Francesca?” anh hỏi.

Có một khoảng dừng hơi kỳ cục trước khi cô nói. “Trước chuyện này,” cô lẩm bẩm. “Trước bây giờ, trước tất cả mọi chuyện.”

“Tôi có cần phải hiểu câu đó không?”

Câu trả lời của cô chỉ là một cái lườm.

“Được thôi,” anh nói, “tôi nghĩ tôi nên sẵn sàng cho chuyến viếng thăm của mẹ cô. Chuyện đó không phải là vấn đề lớn lắm.”

Francesca nhìn anh nghi ngờ. “Nhưng trông anh thật kinh khủng.”

“Tôi biết có một lý do tại sao tôi lại yêu quý cô đến thế,” anh nói vẻ lạnh nhạt. “Người ta không cần phải lo sẽ bị ảo tưởng về bản thân khi có cô ở gần.”

“Michael, nghiêm túc đi.”

“Thật buồn, tôi đang nghiêm túc.”

Cô cau mặt với anh.

“Tôi có thể đứng dậy bây giờ,” anh bảo cô, “và để lộ cho cô thấy những phần trên cơ thể tôi mà tôi nghĩ cô sẽ không muốn xem, hoặc là cô có thể đi ra và đợi sự xuất hiện hoành tráng của tôi ở tầng dưới.”

Cô chuồn.

Điều đó làm anh khó hiểu. Francesca mà anh biết không chuồn khỏi bất cứ cái gì.

Hoặc là, nếu phải nói, cô sẽ không rời đi mà không cố gắng nói một câu cuối.

Nhưng trên hết, anh không thể tin là cô để cho anh tự do gọi mình là hoành tráng.

Francesca không bao giờ phải chịu đựng cuộc viếng thăm của mẹ. Chưa đầy hai mươi phút sau khi cô rời phòng ngủ của Michael, một lời nhắn từ Violet chuyển đến thông báo rằng anh trai Colin của cô—người vừa đi du lịch tại vùng Địa Trung Hải hàng tháng trời—mới trở về London, và Violet phải hoãn chuyến thăm lại. Rồi, tối đó, như Francesca đã dự đoán ngay khi Michael vừa bắt đầu lên cơn, Janet và Helen tới London, giải quyết mối lo của Violet về Francesca và Michael và việc họ thiếu người giám sát.

Các bà mẹ—như Francesca và Michael đã quen gọi từ lâu—rất mừng trước sự xuất hiện bất ngờ của Michael, mặc dù chỉ một cái nhìn vào thân hình ốm yếu của Michael đã biến họ thành những bà mẹ lo lắng cuống cuồng, đến mức Michael phải kéo Francesca sang một bên và van xin cô đừng để anh lại một mình với bất cứ ai trong hai bà. Thực tế, thời gian hai bà tới thật là trùng hợp may mắn, vì Michael đã có một ngày khá khỏe trong sự có mặt của họ trước khi bị quật ngã bởi một cơn sốt hầm hập khác. Francesca đã kéo họ sang bên, trước lần lên cơn dự kiến tiếp theo và giải thích về tính chất của căn bệnh, để khi họ chứng kiến cơn sốt rét với sự huy hoàng khủng khiếp của nó, họ đã được chuẩn bị.

Và không giống như Francesca, họ dễ thuyết phục hơn—không, đúng hơn là rất sẵn sàng—giữ bí mật về căn bệnh của anh. Thật khó tưởng tượng rằng một bá tước giàu có và mạnh khỏe lại có thể không phải là một con cá to đối với những quý cô chưa chồng ở London, nhưng sốt rét sẽ không phải một lợi thế khi người ta tìm một cô vợ.

Và nếu có một điều Janet và Helen quyết tâm được thấy trước khi năm nay kết thúc, thì đó là được nhìn Michael đứng trước một nhà thờ, chiếc nhẫn của anh nằm chắc chắn trên tay một nữ bá tước mới.

Francesca thực sự nhẹ nhõm khi được ngồi xuống và nghe các bà mẹ thuyết giảng cho anh về việc lấy vợ. Ít nhất điều đó cũng hút sự chú ý của họ khỏi cô. Cô không biết họ sẽ phản ứng thế nào với kế hoạch cưới xin của riêng cô—cô tưởng tượng họ sẽ vui mừng cho cô—nhưng điều cuối cùng cô muốn là có thêm hai bà mẹ mai mối cố gắng ghép đôi cô với tất cả các anh chàng độc thân tội nghiệp.

Chúa ơi, cô đã phải chịu đủ rồi, với mẹ của chính cô, người chắc chắn sẽ không thể cưỡng lại sự hấp dẫn khi được xen vào khi Francesca đã nói rõ ý muốn tìm một người chồng trong năm nay.

Và thế là Francesca dọn về lại Ngôi nhà Kilmartin, và cả gia đình Stirling cuộn tròn lại thành một cái kén nhỏ, Michael từ chối tất cả những lời mời, với lời hứa hẹn rằng anh sẽ tham gia trở lại một khi đã ổn định sau chuyến đi dài. Ba quý bà thỉnh thoảng cũng ra ngoài giao lưu trong giới, và mặc dù Francesca đã đoán trước được những câu hỏi về ngài bá tước mới, ngay cả cô cũng chưa được chuẩn bị, trước số lượng và sự thường xuyên của chúng.

Tất cả mọi người, dường như vậy, đều phát điên vì Tay chơi vui vẻ, đặc biệt khi bây giờ anh còn nhuốm vẻ huyền bí.

Ồ, và được thừa kế danh hiệu bá tước. Không được quên cái đó. Hay là hàng trăm ngàn bảng đi kèm với nó.

Francesca lắc đầu khi nghĩ về chuyện ấy. Thực sự ngay cả Bà Radcliffe (Ann Radcliffe –mời các bạn tra wiki :D) cũng không thể tạo ra được một người hùng hoàn hảo hơn. Nơi đây sẽ như một nhà thương điên sau khi anh hồi phục.

Và rồi, bỗng nhiên, anh lành bệnh.

Được rồi, Francesca nghĩ chắc nó cũng không phải là bỗng nhiên; những cơn sốt đã đều đặn giảm cường độ và thời gian. Nhưng thực sự có vẻ như một hôm trông anh đang xanh xao nhợt nhạt, và ngày tiếp theo anh đã lại là người khỏe mạnh và vui vẻ, lăng xăng trong nhà, háo hức được trốn ra ngoài nắng.

“Quinine,” Michael nói với một cái nhún vai lười biếng khi cô nói về sự thay đổi vẻ ngoài của anh tại bữa sáng. “tôi sẽ uống cái thứ đó sáu lần một ngày nếu như nó không có vị tởm đến thế.”

“Làm ơn chú ý ngôn từ, Michael,” mẹ anh nói khẽ, xiên một chiếc xúc xích bằng cái nĩa.

“Mẹ đã nếm thử quinine chưa, Mẹ?” anh hỏi.

“Tất nhiên là chưa.”

“Mẹ nếm thử đi,” anh gợi ý, “và lúc đó chúng ta sẽ thử xem ngôn từ của mẹ như thế nào.”

Francesca cười khúc khích dưới tấm khăn ăn.

“Bác đã nếm rồi,” Janet thông báo.

Tất cả các con mắt đều hướng về bà. “Mẹ đã?” Francesca hỏi. Ngay cả cô cũng chưa liều đến thế. Cái mùi không thôi cũng đủ để cô luôn phải đảm bảm chiếc lọ được vặn chặt kín.

“Tất nhiên,” Janet trả lời. “Mẹ tò mò.” Bà quay sang Helen. “Nó tởm thật.”

“Tệ hơn cái món thuốc tự chế Đầu bếp làm cho chúng ta năm ngoái để chữa, ờ...” Helen nhìn Janet rõ ràng với ý nói bà biết ý tôi là gì.

“Tệ hơn nhiều,” Janet khẳng định.

“Mẹ có pha nó ra với nước không?” Francesca hỏi. Thứ bột lẽ ra phải được hòa với nước tinh khiết, nhưng cô đoán Janet có thể chỉ đơn giản cho một chút lên đầu lưỡi.

“Tất nhiên. Không nên như vậy sao?†làm thế

“Một số người thích hòa nó với rượu gin,” Michael nói.

Helen rùng mình.

“Nó cũng chẳng thể tệ hơn là uống không,” Janet nói.

“Dù có thế,” Helen nói, “nếu người ta định hòa nó với rượu, người ta ít ra cũng có thể chọn một loại whiskey kha khá.”

“Và làm phí chỗ whiskey?” Michael hỏi, cho vào miệng vài thìa trứng đầy.

“Nó không thể tệ đến thế,” Helen nói.

“Nó có,” Michael và Janet đồng thanh.

“Thật đấy,” Janet thêm. “Tôi không thể tưởng đến việc làm hỏng thứ rượu whiskey ngon lành theo cách đó. Gin sẽ là một thứ vừa đẹp.”

“Mẹ đã bao giờ nếm rượu gin chưa?” Francesca hỏi. Dù sao, nó cũng không được xem là một thứ rượu thích hợp cho tầng lớp trên, đặc biệt là cho phụ nữ.

“Một hay hai lần,” Janet thú nhận.

“Và con thì ở đây, tưởng là mình đã biết tất cả mọi điều về mẹ,” Francesca lẩm bẩm.

“Mẹ có bí mật của mẹ,” Janet nói tỉnh bơ.

“Thật là một câu chuyện kỳ cục cho bàn ăn sáng,” Helen nói.

“Cũng đúng,” Janet đồng ý. Bà quay sang cậu cháu. “Michael, bác rất mừng thấy cháu dậy, trông ổn và khỏe mạnh như vậy.”

Anh nghiêng đầu, cảm ơn vì lời khen.

Bà chấm khóe miệng một cách duyên dáng với chiếc khăn ăn. “Nhưng giờ cháu phải lãnh trách nhiệm của một bác tước nữa.”

Anh rên lên.

“Đừng có dỗi như thế,” Janet nói. “Chẳng ai định treo ngón tay cháu lên đâu. Tất cả những gì bác định nói là cháu phải đến hiệu may và đảm bảo kiếm được quần áo buổi tối tử tế.”

“Bác có chắc cháu không thể hiến ngón tay mình thay vào đó?”

“Chúng là những ngón tay đáng yêu,” Janet trả lời, “nhưng bác tin chúng có ích cho nhân loại hơn khi được dính vào bàn tay cháu.”

Michael nhìn vào mắt bà với cái nhìn chăm chăm. “Để xem. Cháu có trong lịch làm việc—lần đầu tiên sau khi rời khỏi giường bệnh, cháu phải nói thêm— một cuộc hẹn với ngài thủ tướng về việc cháu tiếp quản vị trí trong nghị viện, một cuộc gặp với luật sư của gia đình để cháu có thể xem xét tình trạng các cổ phần tài chính của chúng ta, và một cuộc nói chuyện với người quản lý bất động sản chính của gia đình, người mà cháu được biết sẽ xuống London với mục đích chính là thảo luận về tình hình tất cả bảy khu đất của ta. Vào lúc nào, cháu muốn hỏi, cháu có thể nhét thêm một anh thợ may vào nữa?”

Ba quý bà đều không nói nên lời.

“Có thể cháu nên báo với ngài thủ tường là cháu sẽ dời ông ấy lại đến Thứ năm?” anh hỏi thật từ tốn.

“Anh có những cuộc hẹn này từ khi nào?” Francesca hỏi, hơi xấu hổ vì cô quá ngạc nhiên trước sự chăm chỉ của anh.

“Cô nghĩ tôi đã bỏ cả tuần chỉ nhìn chăm chăm lên trần nhà thôi sao?”

“Ừm, không,” cô trả lời, mặc dù sự thật cô cũng không biết cô nghĩ anh đã làm gì. Đọc sách, cô nghĩ vậy. Đó là việc cô có thể đã làm.

Khi không ai nói gì thêm, Michael đẩy chiếc ghế của mình lùi lại. “Nếu các quý bà cho phép tôi,” anh nói, đặt khăn ăn xuống, “Tôi tin là chúng ta đã đồng ý rằng tôi có một ngày bận rộn phía trước.”

Nhưng anh còn chưa kịp đứng dậy khỏi ghế khi Janet khẽ nói, “Michael? Người thợ may.”

Anh đờ người.

Janet mỉm cười với anh thật ngọt ngào. “Ngày mai cũng hoàn toàn chấp nhận được.”

Francesca nghĩ cô đã nghe thấy răng anh nghiến vào nhau.

Janet chỉ nghiêng đầu khẽ sang một bên. “Cháu thực sự cần quần áo buổi tối. Chắc chắn cháu không dám mơ đến chuyện bỏ lỡ buổi dạ hội sinh nhật Quý bà Bridgerton chứ?”

Francesca nhanh chóng xiên một miếng trứng cho vào miệng để anh không nhận ra cô đang cười. Janet thật tinh quái khủng khiếp. Buổi tiệc sinh nhật mẹ cô là sự kiện duy nhất Michael sẽ vui lòng cảm thấy có nghĩa vụ phải tham dự. Bất cứ chỗ nào khác anh cũng sẽ nhún vai bỏ qua không thèm để tâm.

Nhưng Violet?

Francesca không nghĩ vậy.

“Là lúc nào?” anh thở dài.

“Mười một tháng tư,” Francesca trả lời ngọt ngào. “Tất cả mọi người sẽ có mặt.”

“Tất cả?” anh nhắc lại.

“Cả gia đình Bridgerton.”

Anh tươi lên trông thấy.

“Và tất cả mọi người khác,” cô nhún vai thêm vào.

Anh nhìn cô thật lâu. “Định nghĩa từ tất cả mọi người đi.”

Mắt cô nhìn lại mắt anh. “Tất cả mọi người.”

Anh ngồi phịch xuống ghế. “Tôi sẽ không có cớ gì để khước từ sao?”

“Tất nhiên là con có,” Helen nói. “Con đã có, đúng hơn là thế. Tuần trước. Chúng ta gọi nó là sốt rét.”

“Và con thì ngồi đây mong được khỏe lại,” anh lẩm bẩm.

“Đừng sợ,” Janet nói. “Cháu sẽ có một thời gian tuyệt vời, bác chắc chắn.”

“Và có thể gặp một quý cô đáng yêu,” Helen thêm vào thật có ích làm sao.

“À, phải,” Michael lẩm bẩm, “đừng quên mục đích thực sự của cuộc đời tôi.”

“Đó không phải là một mục tiêu tệ,” Francesca nói, không thể cưỡng lại cơ hội nhỏ được trêu anh.

“Ồ, thật sao?” anh hỏi, quay đầu lại để nhìn cô. Đôi mắt anh gặp mắt cô với sự chính xác đáng sợ, để lại cho Francesca một cảm giác không dễ chịu, rằng có thể cô không nên chọc tức anh.

“Ờ, thật vậy,” cô nói, bởi vì cô không thể thoái lui nữa rồi.

“Thế còn mục đích của cô là gì?” anh hỏi thật duyên dáng.

Từ bên khóe mắt, Francesca có thể thấy Janet và Helen nhìn họ nói chuyện với sự tò mò rõ rệt không che dấu.

“Ồ, cái này cái nọ,” Francesca nói với một cái phẩy tay vô tư. “Hiện tại, là chỉ kết thúc bữa sáng của tôi. Nó thật ngon, anh đồng ý không?”

“Trứng chưng với gia vị là các bà mẹ nhiều chuyện?”

“Đừng có quên cả chị họ anh nữa,” cô nói, tự đá mình dưới gầm bàn ngay khi câu đó buột ra khỏi miệng. Tất cả mọi thứ trong cách cư xử của anh như gào lên là đứng có chọc tức anh, nhưng cô không thể dừng được.

Có ít việc trên đời này mà cô thích hơn việc chọc tức Michael Stirling, và những lúc như thế này thật quá ngon lành để có thể cưỡng lại.

“Và cô sẽ tham dự mùa lễ hội này thế nào?” Michael hỏi, hơi nghiêng đầu với một vẻ mặt ra vẻ kiên nhẫn phát kinh.

“Tôi nghĩ tôi sẽ bắt đầu bằng cách dự tiệc sinh nhật mẹ tôi.”

“Và cô sẽ làm gì ở đó?”

“Gửi lời chúc mừng.”

“Chỉ thế thôi?”

“Ừm, tôi sẽ không hỏi tuổi của bà, nếu đó là điều anh đang hỏi,” Francesca trả lời.

“Ồ, không,” Janet nói, theo sau là câu nói cũng chẳng kém nhiệt tình của Helen, “Đừng có làm thế.”

Cả ba quý bà đều quay sang Michael với cùng một vẻ mặt chờ đợi. Dù sao cũng đã đến lượt anh nói.

“Con đi đây,” anh nói, chiếc ghế của anh rít trên sàn nhà khi anh đứng dậy.

Francesca mở miệng để nói thêm câu gì đó chọc tức, bởi vì ý định đầu tiên của cô là muốn trêu chọc anh mỗi khi anh ở trong tâm trạng như vậy, nhưng cô chẳng biết nói gì cả.

Michael đã thay đổi.

Chẳng phải là anh từng vô trách nhiệm. Chỉ bởi vì anh đã chẳng phải gánh trách nhiệm gì hết. Và cô thực sự chưa từng nghĩ đến việc anh có thể gánh vác tốt đến mức nào khi anh trở lại Anh.

“Michael,” cô nói, giọng nói nhẹ nhàng của cô ngay lập tức làm anh chú ý, “chúc may mắn với Ngài Liverpool.”

Đôi mắt anh gặp mắt cô, và có cái gì như sáng lên trong đó. Một dấu hiệu của sự cảm kích, có thể là biết ơn.

Hoặc có thể nó chẳng phải cái gì cụ thể đến vậy. Có thể đó chỉ là một khoảnh khắc không lời của sự thấu hiểu.

Giống như thứ cô từng có với John.

Francesca nuốt vào, thấy không thoải mái với nhận thức bất ngờ đó. Cô với lấy tách trà của mình bằng một động tác thật chậm rãi và khéo léo, như thể khả năng điều khiển cơ thể của cô sẽ có tác động tới cả tâm trí.

Chuyện gì vừa xảy ra thế?

Anh ấy chỉ là Michael thôi, phải không?

Chỉ là bạn cô, là người bạn tâm sự lâu năm của cô.

Vậy chưa phải là tất cả sao?

Không phải sao?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách