Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Dị] Liêu Trai Chí Dị | Bồ Tùng Linh

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 27-5-2012 21:53:34 | Chỉ xem của tác giả
038. Người Lùn (Tiểu Nhân)


Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722), có người làm trò mang một cái hộp gỗ nhỏ, bên trong chứa người lùn chỉ cao khoảng một thước. Có ai cho tiền thì mở nắp hộp gọi người lùn ra ca hát. Khi tới huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông), quan huyện gọi vào công thự xét hỏi lai lịch người lùn. Ban đầu người lùn không dám nói, quan hỏi mãi mới nói ra làng xóm họ hàng. Thì ra là một đứa trẻ đi học, từ trường về bị người làm trò dụ dỗ làm cho mê man, lại đổ thuốc cho uống, tay chân chợt co rút lại, bị y bắt mang đi làm trò. Quan huyện nổi giận giết người làm trò, giữ đứa trẻ lại trong huyện, muốn chữa bệnh cho nhưng vẫn chưa tìm được cách nào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 27-5-2012 21:56:12 | Chỉ xem của tác giả
039. Lương Ngạn (Lương Ngạn)


Lương Ngạn người Từ Châu, bị bệnh nghẹt mũi cứ khụt khịt đã lâu không khỏi. Một hôm đi ngủ, vừa nằm xuống thì chợt thấy lỗ mũi bên trái ngứa ngáy vô cùng, bèn ngồi dậy khịt mạnh. Có một con vật văng ra rơi xuống đất, hình dạng như con chó, to bằng đầu ngón tay. Lại khịt thì văng ra một con nữa, khịt tất cả bốn lần văng ra bốn con, ngọ nguậy như sâu, bò lại ngủi hít lẫn nhau. Chợt bốn con quay ra cắn xé nhau, con mạnh ăn con yếu, cứ ăn xong lại dài ra thêm một chút. Trong nháy mắt chỉ còn có một con to bằng con chuột, thè lưỡi bò quanh, có vẻ còn thèm ăn nữa. Lương rất kinh ngạc, giơ chân giẫm, con vật theo ống quần bò lên, dần dần tới đùi. Lương phất tay áo phủi xuống nhưng nó bám rất chặt không chịu rơi, giây lát chui vào trong áo, bò lên hông. Lương hoảng sợ vội cởi áo ném xuống đất, đưa tay mò bắt thì con vật đã dính chặt vào lưng, lay không động, giật thì đau, kết thành một cục thịt lồi lên, nhắm mắt ngậm miệng, như một con chuột đang nằm vậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 27-5-2012 22:18:07 | Chỉ xem của tác giả
Quyển III


040. Hồng Ngọc (Hồng Ngọc)


Ông Phùng người huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) có một con trai tên Tương Như, cha con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính cứng cỏi mà vẫn nghèo. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu nối nhau chết, việc cơm nước giặt giũ đều phải tự làm lấy.

Một đêm Tương Như ngồi dưới trăng, chợt thấy người con gái láng giềng phía đông leo lên tường nhìn trộm. Sinh thấy nàng đẹp, tới gần thấy hơi cười bèn vẫy, nàng không tới cũng không đi, nài mãi mới trèo thang qua, liền ngủ với nhau. Hỏi tên họ, nàng nói “Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên Hồng Ngọc”. Sinh rất yêu thương, hẹn cùng kết duyên mãi mãi. Nàng ưng thuận, từ đó đêm đêm thường tới. Được nửa năm, một đêm ông Phùng tỉnh giấc nghe trong phòng con có tiếng cười nói, nhìn vào thấy cô gái nổi giận gọi sinh ra mắng “Quân súc sinh làm gì thế? Nghèo túng thế này đã không chịu khổ lại còn học thói đàng điếm à? Người ta biết thì ngươi mất hết danh dự, người ta không biết thì ngươi cũng giảm thọ” Sinh quỳ xuống nhận lỗi, khóc nói đã hối hận. Ông Phùng mắng cô gái “Con gái không giữ lễ giáo, đã làm nhuốc mình lại làm nhơ cả người khác. Nếu việc lộ ra thì không chỉ một nhà này chịu nhục thôi đâu”, mắng xong căm tức quay vào phòng.

Cô gái chảy nước mắt nói "Lời cha quở trách thật là thẹn nhục, duyên phận hai ta thế là hết rồi". Sinh nói "Cha còn thì không được tự chuyên, nếu nàng có tình thì nên ngậm tủi thương nhau”. Cô gái quyết ý đoạn tuyệt, sinh rơi nước mắt, nàng khuyên giải, nói "Thiếp với chàng không có lời mai mối, không có lệnh cha mẹ, trèo tường theo nhau thì làm sao sống với nhau tới lúc bạc đầu được? Vùng này có một đám tốt, có thể hỏi cưới". Sinh nói nhà nghèo, cô gái nói “Tối mai cứ đợi nhau, thiếp sẽ tính cho”. Đêm sau quả nhiên nàng tới, đưa ra bốn mươi lượng bạc tặng sinh, nói "Cách đây sáu mươi dặm có con gái họ Vệ ở Ngô thôn đã mười tám tuổi, còn kén chọn nên chưa lấy ai, chàng đưa nhiều tiền thì xong", rồi từ biệt ra đi.

Sinh tìm dịp thưa với cha muốn đi xem mặt, nhưng giấu chuyện cô gái tặng tiền, không dám nói cho cha biết. Ông Phùng nghĩ nhà nghèo nên bảo thôi, sinh lại nói khéo là cứ đi thử xem, không được thì thôi, ông bèn ưng thuận. Sinh bèn thuê đầy tớ và ngựa tới nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng, sinh gọi ra nói chuyện. Vệ biết sinh là nhà dòng dõi, lại thấy dáng người khôi ngô, trong lòng đã ưng nhưng còn lo không được nhiều tiền. Sinh thấy nói năng ngập ngừng biết ý, bèn dốc túi bày tiền ra bàn. Vệ mừng rỡ, nhờ người học trò láng giềng làm chứng, viết giấy đỏ giao ước.

Sinh vào chào bà già, thấy nhà cửa chật hẹp, cô gái đứng núp sau mẹ. Sinh liếc thấy nàng tuy áo vải thoa gai nhưng thần thái xinh đẹp, trong bụng mừng thầm. Vệ thuê nhà tiếp đãi con rể, nói "Công tử không cần đón dâu, đợi may ít quần áo sẽ đưa qua nhà". Sinh hẹn ngày rồi về, nói dối với cha rằng "Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền", ông Phùng cũng mừng. Đến ngày hẹn, Vệ quả đưa con gái tới. Cô gái tính cần kiệm lại hiền thục, vợ chồng rất êm ấm. Hơn hai năm nàng sinh một trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân tiết Thanh minh nàng bế con đi tảo mộ, gặp họ Tống là thân hào trong huyện. Tống làm quan tới chức Ngự sử, phạm tội ăn hối lộ bị cách chức về nhưng vẫn cậy oai lộng hành. Hôm ấy Tống cũng đi tảo mộ về, thấy cô gái đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ sinh, nghĩ Phùng là học trò nghèo, lấy nhiều tiền dụ dỗ có thể xiêu lòng, liền sai người nhà bắn tin. Sinh vừa nghe thấy tức giận ra mặt, kế lại nghĩ thế không địch nổi bèn nén giận tươi cười rồi về nói với cha. Ông Phùng cả giận chạy ra gặp tên người nhà của Tống chỉ trời vạch đất chửi mắng thậm tệ. Tên người nhà trốn về, Tống cũng tức giận, sai mấy người xông vào nhà sinh đánh nhau, hai cha con sinh chửi ầm lên. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xõa tóc chạy ra kêu cứu, bọn kia liền bắt lấy khiêng lên rầm rộ bỏ đi. Cha con bị thương nằm rên rỉ dưới đất, đứa nhỏ thì khóc oa oa trong phòng. Láng giềng cùng thương xót vực cha con lên giường, qua hôm sau sinh chống gậy đứng lên được, ông Phùng thì tức giận bỏ ăn, thổ huyết mà chết.

Sinh khóc lớn, bế con đi kiện lên tới tỉnh, kiện tụng khắp nơi rốt lại vẫn không được xét. Sau nghe nói vợ không chịu khuất mà chết lại càng đau xót, căm giận đầy bụng không làm sao phát tiết. Thường nghĩ muốn đón đường đâm chết Tống, nhưng lo đầy tớ y đông, con lại không gửi ai được, ngày đêm đau xót nghĩ ngợi không hề chợp mắt. Chợt một người đàn ông tới nhà thăm hỏi, râu quăn cằm bạnh, chưa từng gặp qua. Sinh mời ngồi, vừa định hỏi họ tên quê quán, khách đã nói ngay "Ông có cái thù giết cha, mối hận cướp vợ mà không báo à?". Sinh ngờ là người của Tống sai tới dò xét nên chỉ giả vâng dạ. Khách nổi giận trợn mắt muốn rách khóe, bước ngay ra, nói "Ta cho rằng ông là người, nay mới biết là đồ hèn không đáng đếm xỉa”. Sinh thấy lạ liền quỳ xuống kéo lại nói "Thật là sợ người nhà họ Tống tới dò la, nay xin bày tỏ gan ruột. Ta ôm lòng báo thù lâu rồi, nhưng thương đứa nhỏ trong bọc này, sợ bị tuyệt tự. Ông là bậc nghĩa sĩ, có thể vì ta mà làm Chử Cữu[39] không?”.

Khách nói "Đó là việc của đàn bà con gái, ta không làm được. Việc ông muốn nhờ người xin tự làm lấy, còn việc ông muốn tự làm thì ta xin làm thay cho". Sinh nghe nói dập đầu lạy, khách bỏ ra không thèm nhìn. Sinh đuổi theo hỏi họ tên, khách đáp "Việc không xong không nhận oán, việc xong không nhận ơn", rồi đi. Sinh sợ tai vạ tới, bế con bỏ trốn.

Đến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường vào giết ba cha con Ngự sử và một tỳ nữ, một con dâu. Nhà họ Tống làm báo quan, quan cả sợ. Nhà họ Tống cứ vu cho Tương Như nên quan sai lính bắt sinh, vì sinh trốn không biết đi đâu nên càng tin là thật. Đầy tớ nhà họ Tống cùng lính quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam nghe tiếng trẻ khóc, tìm tới nơi gặp sinh bèn trói giải về. Đứa nhỏ càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi, sinh căm hòn muốn chết.

Khi gặp quan huyện, quan hỏi vì sau giết người, sinh nói "Thật oan quá! Họ chết ban đêm mà ta ra đi từ ban ngày, vả lại bế đứa nhỏ khóc oa oa thì làm sao vượt tường giết người?". Quan huyện hỏi “Không giết người tại sao bỏ trốn?", sinh nghẹn lời không đáp được, quan liền sai giam vào ngục. Sinh khóc nói “Ta chết cũng không tiếc, nhưng đứa nhỏ mồ côi kia có tội gì?” Quan huyện nói "Ngươi giết con người ta đã nhiều, thì con ngươi bị giết còn oán gì?". Sinh bị lột áo mũ nhà nho, lại nhiều lần bị tra tấn tàn khốc nhưng rốt lại không hề nhận tội.

Đêm ấy quan huyện nằm ngủ nghe có vật gì dập vào giường rung lên thành tiếng, cả sợ kêu lớn. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một lưỡi đoản đao sáng loáng cắm vào giường sâu hơn một tấc, chặt cứng không rút ra được. Quan huyện nhìn thấy khiếp vía, cầm giáo đi lùng khắp nơi không thấy gì, trong lòng lo thầm. Lại vì họ Tống đã chết không đáng sợ nữa, bèn trình lên quan tỉnh giải oan cho sinh rồi tha về.

Sinh về nhà, trong hủ không một đấu gạo, một mình với bốn bức vách, may được láng giềng thương xót cho ăn uống, sống đỡ qua ngày. Nghĩ tới mối thù lớn đã trả thì tươi cười vui vẻ nhưng nhớ lại tai họa thảm khốc suýt chết toàn gia thì buồn bã sa lệ, lại nghĩ mình nửa đời nghèo thấu xương, không người nối dõi, thì khi vắng người bật tiếng khóc thất thanh không sao kìm được. Cứ thế nửa năm, việc bắt bớ lơi lỏng dần, bèn xin quan huyện cho mang hài cốt Vệ thị về. Chôn cất xong trở về, đau đớn chỉ muốn chết, trằn trọc trên giường nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, sinh lắng tai nghe thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nựng nịu trẻ con. Sinh vội dậy ra nhìn thì như là một cô gái, cửa vừa mở đã hỏi “Nỗi oan lớn đã rửa, may không sao chứ?” giọng rất quen nhưng lúc vội vàng không sao nhớ ra được. Đánh lửa soi thì ra là Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa dưới chân. Sinh không kịp hỏi han, ôm nàng khóc nức nở, cô gái cũng buồn bã. Kế đẩy đứa nhỏ nói "Con quên cha rồi sao?” Đứa nhỏ nắm áo cô gái nhìn sinh chằm chằm, sinh nhìn kỹ thì là Phúc Nhi, cả kinh khóc hỏi "Sao con về đây được?". Cô gái nói "Nói thật với chàng, trước kia thiếp nói là con gái láng giềng là nói dối. Thiếp thật là hồ, nhân đi đêm thấy con khóc trong hang liền bế về nuôi ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây). Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ”, sinh lau nước mắt lạy tạ. Đứa nhỏ nép vào lòng cô gái như nương tựa mẹ ruột, không nhận ra cha nữa.

Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy, hỏi thì nàng đáp "Nô tỳ muốn đi," Sinh cởi trần quỳ ở đầu giường khóc không ngẩng lên được. Cô gái cười nói “Thiếp lừa chàng thôi. Nay nhà đang gầy dựng, không thức khuya dậy sớm không được". Rồi nhổ cỏ dọn dẹp, làm lụng như đàn ông. Sinh lo nhà nghèo không đủ ăn, nàng nói "Xin chàng cứ buông rèm học hành, đừng hỏi chuyện thiếu đủ, may cũng không chết đói đâu”. Rồi bỏ tiền ra sắm khung dệt, thuê vài mươi mẫu ruộng mướn người cày cấy, vác bừa làm ruộng, kéo tranh lợp nhà, hàng ngày làm lụng.

Làng xóm nghe sinh có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ, khoảng nửa năm trong nhà ăn uống sung túc như nhà giàu. Sinh nói “Sau lúc tro tàn, nhờ nàng một tay gầy dựng lại, nhưng còn một việc chưa xong, biết làm sao?". Nàng hỏi việc gì, sinh đáp "Kỳ thi sắp tới mà khăn áo chưa lấy lại được". Cô gái cười nói "Trước đây thiếp đã đem bốn lượng vàng gửi Học quan, ghi lại tên chàng vào sổ rồi, đợi tới chàng nhắc thì trễ lắm", sinh càng cho là thần. Khoa ấy sinh đỗ Cử nhân, năm ấy ba mươi sáu tuổi, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái mảnh khảnh như gió thổi là bay mà làm lụng còn hơn con nhà nông, mùa đông rét buốt vẫn làm việc mà bàn tay vẫn mềm mại, tự nói ba mươi tám tuổi nhưng nhìn chỉ như hơn hai mươi.

Dị Sử thị nói: Con giỏi mà cha có đức nên được báo đáp hào hiệp, mà chẳng riêng gì người hào hiệp, tự mình cũng giống kẻ hào hiệp nên tao ngộ cũng lạ lùng. Nhưng quan huyện mù mờ khiến người ta căm hờn, lưỡi đao sắc cắm vào giường, còn tiếc gì mà không phóng qua cách đó nửa thước? Nếu Tô Tử Mỹ[40] đọc truyện này ắt sẽ hào hùng nói "Tiếc là đánh mà không trúng".

Chú thích:
[39] Chử Cữu: Sử ký, Triệu thế gia chép Triệu Sóc nước Tấn thời Xuân thu lấy vợ là chị Tấn Thành công. Gian thần là Đồ Ngạn Giả hại chết Triệu Sóc, lúc ấy vợ Sóc đang mang thai, Giả chờ nếu sinh con trai sẽ giết. Sau phu nhân sinh con trai, môn khách của Sóc là Trình Anh và Công Tôn Chử Cữu bày mưu đưa được ra khỏi cung nhưng bị Ngạn Giả nghi ngờ, dò xét truy tìm rất gấp. Lúc ấy Trình Anh cũng vừa sinh con trai bèn tráo vào thay con Sóc rồi cho Chử Cữu đi tố giác. Ngạn Giả đem quân bắt được Anh, thấy con trai Anh quấn tã lót sang trọng bèn giết chết. Chử Cữu xin Ngạn Giả cho mang "con Anh" đi ở ẩn sau nuôi con Sóc lớn lên, trả thù được cho họ Triệu.
[40] Tô Tử Mỹ... không trúng: Thế thuyết bổ chép Tô Vũ Khâm người thời Tống, tự Tử Mỹ, tính hay rượu, tới ở nhà cậu, cứ tối đến là xin một đấu rượu. Cậu sai gia nhân rình xem, thấy Tử Mỹ đọc truyện Trương Lương trong Hán thư, tới đoạn Trương Lương cùng người khách ám sát Tần Thủy Hoàng thì vỗ tay nói "Tiếc là đánh mà không trúng", rồi uống cạn một chén lớn. Gia nhân về kể lại, cậu nói “Nếu thế thì uống một đấu rượu cũng không phải là nhiều”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 28-5-2012 16:51:55 | Chỉ xem của tác giả
041. Lâm Tứ Nương (Lâm Tứ Nương)


Ông Trần Bảo Thược làm quan ở đạo Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) đêm ngồi một mình, có cô gái vén rèm bước vào. Nhìn ra thì không quen mà rất đẹp, tay áo dài như lối trong cung cười nói "Đêm thanh ngồi một mình không buồn à?". Ông giật mình hỏi là ai, nàng đáp "Nhà thiếp không xa, chỉ bên xóm tây". Ông đoán là ma nhưng lòng yêu thích bèn kéo áo mời ngồi, thấy trò chuyện rất phong nhã. Ông thích lắm ôm lấy, cũng không kháng cự gì lắm, chỉ ngoảnh lại hỏi "Ở đây không có ai khác sao?”. Ông vội khép cửa đáp không. Giục cởi áo xiêm, nàng có vẻ thẹn thùng sợ sệt, ông phải ân cần cởi giúp cho. Nàng nói “Thiếp nay hai mươi tuổi, vẫn còn là xử nữ, mạnh bạo quá thì không chịu nổi". Giao hoan xong thấy máu đỏ vấy ra chiếu, kế dựa gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông hỏi kỹ, nàng nói “Một tấm kiên trinh đã để cho chàng khinh bạc mà mất hết, nếu yêu thương thiếp thì chỉ cần tính chuyện lâu dài với nhau là được, hỏi lằng nhằng làm gì?”

Không bao lâu gà gáy, nàng trở dậy ra đi. Từ đó đêm nào cũng tới, thường đóng cửa uống rượu, nói tới âm luật thì nàng hiểu hết cung bậc. Ông đoán chắc hát rất hay, nàng nói “Lúc còn nhỏ vốn được học". Ông xin hát cho nghe một khúc, nàng nói "Đã lâu không đụng tới âm nhạc, cung bậc quên mất quá nửa, sợ người hiểu biết cười cho". Ông cố nài ép, nàng bèn cúi đầu gõ nhịp, hát khúc châu Y châu Lương, giọng rất thê thiết, hát xong rơi nước mắt. Ông cũng chua xót, ôm nàng an ủi "Nàng đừng vì cái âm nhạc mất nước ấy mà buồn khiến người ta mất vui". Cô gái nói "Âm thanh là để tỏ ý, người buồn không thể bắt vui, cũng như người vui không bắt buồn được". Hai người thân thiết còn hơn cả vợ chồng, lâu ngày người nhà nghe trộm, nghe thấy tiếng hát đều rơi nước mắt. Phu nhân nhìn trộm dung mạo, nghi là trên đời không có người đẹp đến như thế, không phải ma ắt là hồ, sợ sẽ gieo tai họa bèn khuyên ông dứt tình.

Ông không nghe, chỉ hỏi kỹ gốc tích cô gái. Nàng buồn rầu nói “Thiếp là Cung nhân trong Hành phủ, gặp tai biến mà chết mười bảy năm rồi. Nghĩ chàng cao nghĩa nên gửi thân kết tình, thật không dám làm hại chàng. Nếu nghi ngờ thì xin giã biệt từ đây”. Ông nói "Ta không hiềm nghi gì, nhưng đã yêu thương nhau như vậy thì phải biết rõ sự thật thôi". Bèn hỏi việc trong cung thuở trước, cô gái kể rành rọt nghe rất thú vị, kể tới lúc suy vi thì nức nở nói không nên lời. Cô gái ít ngủ, hàng đêm cứ trở dậy tụng kinh Chuẩn đề, Kim cang. Ông hỏi "Ở chín suối cũng có thể tự sám hối sao?” nàng đáp “Cũng như nhau cả, thiếp nghĩ trọn đời luân lạc nên muốn kiếp sau được giải thoát thôi".

Lại cùng ông phẩm bình thi từ, chỗ nào dở là chê, gặp câu hay thì cất tiếng ngâm nga, ý khí phong lưu khiến người nghe quên mỏi mệt. Ông hỏi có hay thơ không thì đáp "Lúc sống ngẫu nhiên cũng có làm” ông đòi viết tặng cho mình, nàng cười nói “Lời thơ của đàn bà con trẻ đâu đủ đến tai bậc cao nhân?". Được ba năm, một đêm chợt nàng buồn rầu từ biệt. Ông giật mình hỏi, nàng cười đáp "Diêm Vương nói thiếp kiếp trước không có tội mà vẫn không quên tụng kinh nên cho thác sinh làm con vua, đêm nay là vĩnh biệt, không còn gặp lại nhau nữa đâu”. Nói xong buồn rầu, ông cũng rơi lệ.

Bèn bày rượu cùng uống với nhau cho thật say, cô gái ngậm ngùi cất tiếng hát, âm điệu đau xót, mỗi tiếng mỗi tiếng đều thay đổi cung bậc, tới chỗ thương tâm thì nức nở, dừng lại mấy lần mới hát trọn khúc. Rượu cũng không sao uống say, đứng lên bồi hồi định từ biệt. Ông cố giữ lại, nàng ngồi thêm một lúc, chợt nghe tiếng gà gáy bèn nói “Không thể ở lại lâu nữa rồi. Chàng vẫn trách thiếp không chịu dâng lời thơ dở, nay sắp vĩnh biệt, xin viết qua một bài". Rồi đòi giấy bút, viết xong nói “Lòng đau ý loạn, không thể cân nhắc câu chữ, tiếng dở luật sai xin cẩn thận đừng đưa người khác xem” rồi lấy tay áo che mặt bước ra. Ông tiễn ra tới ngoài cổng, nàng tan đi như làn khói mất dạng. Ông đau xót hồi lâu, nhìn tới bài thơ thấy chữ viết ngay ngắn đẹp đẽ, trân trọng cất đi. Thơ rằng:

Tĩnh tọa thâm cung thập thất niên,
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên.
Nhàn khan điện vũ phong kiều mộc,
Khấp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu,
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên.
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ.
Huệ chất tâm bi chỉ vấn thiên.
Nhật tụng Bồ đề thiên vạn cú,
Nhàn khan bối diệp lưỡng tam thiên.
Cao xướng Lê viên ca đại khốc,
Thỉnh quân độc thính diệc tàm nhiên.

(Mười bảy năm trời xót nỗi niềm
Lòng đau nước cũ trách trời nghiêng
Rảnh nhìn điện gác buồn cây cỏ
Khóc nhớ quân vương xót đỗ quyên
Sóng vỗ bể xa vầng nhật xế
Nhạc lừng cung Hán khói mây yên
Má hồng sức yếu khôn làm quỷ
Chất huệ lòng đau chỉ hỏi thiền
Ngày đọc Bồ đề ngàn vạn chữ
Nhàn xem Bối diệp mấy mươi thiên
Cất khúc Lê viên thay tiếng khóc
Xin ông giữ kín chút niềm riêng)

*** Lời thơ trùng lắp sai luật, ngờ là người chép lại bị lầm. Xét bộ Trì bắc ngẫu đàm của tiên sinh Vương Ngư Dương cũng chép truyện này nhưng bài thơ thì là Đường luật, Lư Nhã Vũ tiên sinh ở Đức Châu có đưa vào tập Sơn Tả thi sao, nên chép thêm vào đây để so sánh.

Trần Bảo Thược tự Lục Nhai người đất Mân, làm Quan sát Thanh Châu. Một hôm ngồi trong thư trai, chợt có a hoàn khoảng mười bốn mười lăm tuổi dung mạo rất đẹp vén rèm bước vào nói "Lâm Tứ Nương yết kiến". Trần kinh ngạc, không biết nguyên do, đang ngần ngừ thì Tứ Nương đã tới trước mặt nói câu vạn phúc, búi tóc mặc áo đỏ thêu nửa tay áo, mang hài mỏ phượng, lưng đeo song kiếm. Trần ngờ là bậc hiệp khách tiên cô, bất đắc dĩ vái chào mời ngồi. Tứ Nương nói "Thiếp là cung tần cũ trong phủ Hành, quê ở Kim Lăng. Xưa Hành vương đem ngàn vàng cưới thiếp về cho ở trong hậu cung, sủng ái khác hẳn mọi người, không may chết sớm, chôn ở trong cung. Không đầy vài năm nước mất, vương lên bắc. Hồn thiếp còn lưu luyến mộ cũ, nay cung điện hoang vu, muốn mượn đình quán của ông để tiếp khách, vốn không có ích gì cho ông, nhưng cũng không có gì hại cho ông", Trần dạ dạ.

Từ đó mỗi ngày tới một lần, mỗi khi bày tiệc, lúc đầu không thấy tân khách, nhưng nghe thấy tiếng cười nói thù tạc. Lâu ngày bày tiệc mời Trần và mấy người Công xa đồng hương với Trần. Mười mấy người trên tiệc chuốc rượu mừng, không khác gì người thường, nhưng cũng không biết là từ đâu tới. Rượu say, Tứ Nương kể lại chuyện cũ trong cung, bi thương khôn xiết, gõ nhịp mà hát, âm thanh rất ai oán, cả tiệc nước mắt đẫm áo mà tan. Như thế hơn năm, một hôm nàng buồn bã như sắp chia tay, nói với Trần "Thiếp trần duyên đã hết, phải tới núi Chung Nam, vì ông hậu tình, nên tới chia tay một lần", từ đó không tới nữa. Có một quyển thơ, Tư khấu Lý Ngũ Huyền người Trường Sơn có bản sao, lại có Hội nguyên Trần Chu Lượng ghi được một bài. Thơ rằng:

Tĩnh tọa thâm cung ức vãng niên,
Lâu đài tiêu cô biến phong yên.
Hồng nhan lực bạc nan vi lệ.
Hắc hải tâm bi chỉ học thiền.
Tế độc Liên hoa thiên bách kệ,
Nhàn khan bối diệp lưỡng tam thiên.
Lê viên cao xướng thăng bình khúc,
Quân thí thinh (thính) chi diệc võng nhiên.

(Ngồi lặng cung sâu xót nỗi niềm
Lâu đài ngày cũ khói mây nghiêng
Má hồng sức yếu khôn làm quỷ
Biển tối lòng đau chỉ học thiền
Khẽ đọc Liên hoa ngàn vạn chữ
Nhàn xem Bối diệp mấy mươi thiên
Lê viên cao khúc thanh bình trước
Ông nếu nghe xong cũng sẽ quên) ***
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 28-5-2012 19:27:11 | Chỉ xem của tác giả
Phụ: Bài Ký Về Lâm Tú Nương Của Lâm Tây Trọng (Vân Minh). (Lâm Tây Trọng Vân Minh Lâm Tứ Nương Ký)


Ông Ngô Bảo Thược ở Tấn Giang (tỉnh Phúc Kiến) tự Lục Nhai, năm Khang Hy thứ 2 (1663) làm quan Thiêm sự ở đạo Thanh Châu tỉnh Sơn Đông, đêm cứ nghe có tiếng gõ cửa, lên tiếng hỏi thì không ai đáp. Tên đầy tớ tức tối không chịu nổi cầm giáo rình đâm. Đêm ấy chỉ nghe tiếng chửi mắng, xô cửa giữa xông ra thì là một con quỷ mặt xanh nanh dài cởi trần đứng sừng sững, đầu cao tới tận chái nhà, y hoảng sợ vứt giáo ngã lăn ra đất. Trần vội bước ra quát "Đây là công thự của triều đình, ngươi là yêu quái ở đâu dám tới quấy nhiễu?". Quỷ cười nói "Nghe quý nô bộc định giết nên tới chịu chết". Trần tức giận định gọi quân bắt giết, vừa nghĩ thì quỷ đã cười nói "Gọi quân bắt ta, sao mưu kế kém cỏi thế?”.

Trần càng tức giận, sáng ra điều hai ngàn quân tới giữ cổng. Đến đêm quỷ từ trong góc tường nhô ra, cao chừng ba thước, đầu to như cái bánh xe, miệng há to như cái thúng, hai mắt lóe sáng, bò rạp dưới đất, hơi lạnh toát ra gai người. Quân sĩ quát tháo bắn túi bụi, đạn lửa đều không cháy, tên bắn trúng thì không mũi nào cắm vào nó. Quỷ giật cung bắn trả, tên bay như mưa nhưng đều lướt qua đầu chứ không làm ai bị thương, quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Trần lại mời thầy pháp về làm phép xua đuổi, đêm đến thầy pháp ngủ lại trong dinh. Lúc ấy là tháng chạp rất lạnh, Trần vừa đi nghỉ thì quỷ tới thẳng chỗ thầy pháp ngủ lột sạch chăn nệm quần áo, thầy pháp sợ hãi kêu cứu, Trần bất đắc dĩ phải tới năn nỉ. Quỷ cười nói "Nghe nói thầy pháp cao tay lắm, nghĩ là có phép thuật mà tài nghề chỉ có bấy nhiêu thôi sao?” rồi ném trả quần áo. Hôm sau thầy pháp xấu hổ từ biệt ra đi.

Từ đó trong dinh cứ bị ném đá liệng ngói sớm tối không yên, có khi thấy tường sụp cột đổ mọi người vội tránh xa thì lại không có chuyện gì, Trần lo lắm. Sau ta có người bạn đồng niên là Lưu Vọng Linh lên kinh, đi ngang Thanh Châu hỏi biết chuyện bèn nói với Trần "Ông tự chuốc lấy tai họa đó thôi. Lý trong thiên hạ có dương ắt có âm, nếu không hấp tấp trừ yểm thì cũng không đến nỗi bị phá phách như vậy", chưa dứt lời thì quỷ đã hiện ra lạy tạ. Lưu thấy hung ác đáng sợ bèn khuyên nên thay đổi dung mạo, quỷ lập tức bước vào phòng kín, giây lát trở ra thì là một giai nhân tuyệt sắc, tóc mây búi cao, y phục đẹp đẽ tha thướt đi tới. Quần áo của nàng đều bằng thứ lụa long sa trơn láng mềm mại, cũng không thấy đường may, hương thơm sực nức không sao tả xiết. Nàng tự xưng là Lâm Tứ Nương, có một tớ trai tên Quán Đạo, một tỳ nữ tên Đông Cô, đều có bóng không có hình, chỉ Tứ Nương là không khác gì người sống.

Trần hàng ngày cùng nàng uống rượu làm vui, thân cận rất mực, chỉ không có chuyện kia nọ mà thôi. Phàm các công văn trong dinh phần lớn đều do nàng thảo ra, những án ngục khó xét lâu năm thì nàng dò xét rõ cả đầu đuôi, Trần ra xét một lần là ai cũng phục. Trần đi khảo thí thì nàng phẩm bình văn chương, xếp hạng trên dưới đều xứng đáng nên rất nổi tiếng.

Trước kia Trần chờ bổ nhiệm ở Yên Kinh có vay một người nhà buôn hai ngàn quan tiền, lúc ấy người nhà buôn bất ngờ tới đòi không sao trả được, xin trả một nửa nhưng y không chịu. Tứ Nương ra trách, nói "Trần công há phải là kẻ quịt nợ sao, chỉ vì nhất thời nên không đủ sức trả hết thôi. Người cứ nằng nặc đòi bằng được để đẩy ông vào chỗ mất danh dự thì có gì hay cho ngươi? Ta là ma đây, nếu không nghe lời thì ta sẽ gieo tai họa cho ngươi đấy”. Người nhà buôn vốn không tin chuyện ma quỷ nên cười nói “Nàng là người đẹp mà lấy chuyện ma quỷ dọa ta, nếu quả là ma thì phải biết nhà cửa nghề nghiệp của ta ở kinh” Tứ Nương nói “Nhà cửa nghề nghiệp của ngươi khó gì mà không biết. Ngươi gần đây có làm một việc nhơ nhuốc ở nơi nọ, ta nói ra chỉ sợ ngươi phải chết thôi". Người nhà buôn hoảng sợ cáo từ ra về, Trần ngầm hỏi việc y làm nhưng rốt lại Tứ Nương vẫn không chịu nói ra, giấu điều xấu cho người như thế đấy.

Tính nàng ưa ngâm vịnh, thơ phú làm ra phần lớn có âm điệu thê lương cảm khái, người ta không nỡ đọc. Phàm những người ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) tới thăm Trần thì nàng ắt cùng họ uống rượu vui đùa, khi chia tay là tặng thơ, trong có ẩn ngữ, về sau phần lớn đều nghiệm. Có một người học trò thích nàng xinh đẹp nên động tà niệm, Tứ Nương tức giận nói “Thằng mán rừng này thật vô lễ", rồi ra lệnh "Phạt gậy!". Người học trò chợt ngã lăn xuống đất kêu gào xin tha, hai mông đít đầy vết gậy đánh. Mọi người xin tha cho y, Tứ Nương bèn gọi tỳ nữ Đông Cô lấy thuốc cho y uống, lập tức không còn đau đớn gì nữa, rồi lại cùng nhau uống rượu vui vẻ như lúc đầu.

Trần hỏi đầu đuôi việc thành ma, Tứ Nương đáp "Ta là người huyện Bồ Điền (tỉnh Phúc Kiến) trong niên hiệu Sùng Trinh nhà Minh (1628 -1643). Trước cha ta làm quan giữ kho ở phủ Giang Ninh (tỉnh Nam Kinh), ăn cắp của kho bị hạ ngục. Ta cùng người anh con cậu hết sức chạy vạy, suốt nửa năm đi đâu cũng có nhau nhưng không hề có chuyện tư tình. Đến khi cha ta được tha lại nghi ngờ, ta bèn thắt cổ tự tử để chứng tỏ là không có chuyện gì, hồn phách cứng cỏi nên không tan. Vì có tình đồng hương với ông nên tới đây, cũng không phải là ngẫu nhiên đâu. Tính lại nàng ở dinh thự được mười tám tháng thì cáo từ, sau khi chia tay Trần nhớ tiếc mãi. Năm Khang Hy thứ 6 (1667) Trần được bổ làm Truyền dịch đạo ở Giang Nam, kể cho nghe chuyện này, dặn ta ghi lại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 28-5-2012 19:47:11 | Chỉ xem của tác giả
042. Con Gái Ông Lỗ (Lỗ Công Nữ)


Trương Ư Đán người huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông) tính ngang tàng không chịu bị trói buộc, tới học ở chùa Tiêu. Lúc ấy quan Tri huyện là ông Lỗ người Tam Hàn (vùng đất phía nam Triều Tiên) có cô con gái thích đi săn, sinh tình cờ gặp nàng ngoài đồng, thấy phong tư lộng lẫy, mặc áo lông điêu gấm, cưỡi con ngựa câu nhỏ, xinh đẹp như tranh vẽ, trở về nhớ nhung, băn khoăn tơ tưởng. Sau nghe tin nàng mắc bạo bệnh mà chết, vô cùng đau xót.

Lỗ vì nhà ở xa nên gởi quan tài nàng trong chùa, tức nơi sinh ở. Sinh kính cẩn như đối với thần minh, sáng ra thì thắp hương, đến bữa thì cúng vái, cứ rưới rượu khấn rằng "Thấy mặt một lần mộng hồn vương vấn, không ngờ người ngọc chợt qua đời, nay thì tuy gần gũi trong gang tấc mà xa xôi như núi sông, thật hận làm sao. Nhưng nàng còn sống thì còn có điều trói buộc chứ chết rồi không còn gì ngăn cấm, dưới chín suối có thiêng thì xin nhẹ nhàng về đây cho vơi niềm mong nhớ!” sớm tối cứ thế khấn khứa suốt nửa năm.

Một đêm khêu đèn đọc sách, chợt ngẩng đầu thì thấy cô gái đang đứng trước đèn tươi cười. Sinh giật mình đứng lên hỏi, nàng đáp "Cảm vì tình của chàng, không cầm lòng được nên không sợ mang tiếng tư tình". Sinh cả mừng kéo nàng ngồi xuống rồi cùng nhau ân ái, từ đó đêm nào nàng cũng tới. Cô gái nói với sinh “Lúc thiếp còn sống thích cung ngựa, lấy việc bắn hươu giết nai làm vui, tội nghiệt rất sâu, chết không có nơi về, nếu chàng thật lòng thương yêu xin phiền tụng kinh Kim cương cho đủ số một tạng[41] thì đời đời kiếp kiếp không dám quên ơn". Sinh kính cẩn nghe lời, cứ sáng ra là lập tức tới trước quan tài lần tràng hạt đọc kinh.

Gặp lúc cuối năm, muốn cô gái cùng về nhà với mình, cô gái lo chân yếu không thể lặn lội. Sinh xin cõng đi, nàng cười nghe theo, thấy như cõng trẻ con không có chút gì nặng nhọc mỏi mệt. Từ đó lấy thế làm thường, đi khảo thí cũng đưa nàng theo, nhưng chỉ ban đêm mới đi. Sinh sắp đi thi hương, cô gái nói “Chàng phúc mỏng, vất vả làm gì”, sinh nghe lời bèn thôi.

Được bốn năm năm, Lỗ bãi chức nghèo quá không thể đưa quan tài con gái cùng về quê, định chôn ở đó nhưng ngặt không có đất. Sinh bèn tự trần rằng "Ta có khoảnh đất xấu gần chùa, xin cứ chôn cất tiểu thư ở đó". Lỗ mừng lắm, sinh lại hết sức giúp đỡ việc chôn cất, Lỗ rất biết ơn nhưng không hiểu vì sao. Lỗ đi rồi, hai người lại khắng khít như trước.

Một đêm nàng nép vào lòng sinh nước mắt lã chã nói "Gắn bó được năm năm, nay phải chia tay rồi. Thiếp chịu ơn của chàng mấy kiếp cũng không báo đáp được," Sinh ngạc nhiên hỏi, nàng đáp “Đội ơn tới tận suối vàng, kinh sấm đã tròn một tạng, nay được đi đầu thai vào nhà quan Hộ bộ họ Lư ở Hà Bắc. Nếu chàng không quên tình hôm nay thì đúng ngày Trung thu mười lăm năm sau xin tới gặp nhau”. Sinh rơi nước mắt nói "Ta đã hơn ba mươi tuổi rồi, thêm mười lăm năm nữa thì sắp vào quan tài, gặp nhau có làm được gì?". Cô gái cũng khóc nói "Thiếp xin làm nô tỳ để đền ơn", lát sau lại nói "Chàng đưa thiếp đi giùm sáu bảy dặm với, từ đây ra đó đường nhiều gai góc, thiếp sợ rách hết quần áo". Rồi ôm cổ sinh, sinh cõng nàng ra tới đường cái, thấy ven đường có một dãy xe ngựa, trên ngựa hoặc một hoặc hai người, trên xe hoặc ba bốn người hoặc mười mấy người không như nhau.

Có một chiếc xe buông màn thêu treo rèm ngọc, chỉ có một bà già ngồi trên, thấy cô gái tới bèn gọi "Tới rồi đấy à?". Cô gái đáp "Tới rồi đây”, rồi ngoảnh nhìn sinh nói “Tới đây thì thiếp xin đi, đừng quên lời thiếp dặn", sinh vâng dạ. Cô gái bước tới cạnh xe, bà già đưa tay kéo lên, rồi đó lăn bánh lên đường, xe ngựa rầm rập phóng đi. Sinh buồn bã trở về, ghi lại ngày hẹn lên vách, nhưng lại nghĩ tới công hiệu của kinh Phật, lại càng chuyên cần tụng niệm. Nằm mơ thấy thần nói “Lòng thành của ngươi rất đáng khen, nhưng cũng phải tới Nam Hải[42] nữa”. Sinh hỏi "Nam Hải cách đây xa không?” thần đáp “Chỉ trong gang tấc”. Sinh tỉnh dậy hiểu ý, bèn tụng kinh Quan âm, tu hành càng nghiêm cẩn.

Ba năm sau con thứ là Minh, con trưởng là Chính nối nhau thi đỗ. Sinh quý hiển nhưng vẫn giữ thiện hạnh, đêm mơ thấy một người áo xanh mời đi, tới một nơi cung điện, trong điện có một người ngồi, hình dáng như Quan âm Bồ tát đứng lên đón, nói "Ông làm điều lành đáng khen, tiếc không được sống lâu, may ta đã xin được Thượng đế cho thêm tuổi thọ rồi". Sinh lạy rạp dập đầu, Bồ tát gọi đứng lên, cho ngồi uống trà, thấy mùi vị thơm ngát như hoa lan. Lại sai đồng tử dẫn đi, bảo xuống ao tắm, nước ao trong suốt có thể đếm được cá đang bơi, bước xuống thấy ấm áp, vốc lên thấy có mùi hương sen. Lát sau dần ra tới chỗ sâu, hụt thân chìm nghỉm, giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ lùng.

Từ đó thân thể càng khỏe mạnh, mắt càng sáng, vuốt râu thì những sợi râu trắng đều lả tả rơi xuống, lâu sau thì râu đen cũng rụng xuống, những nếp nhăn trên mặt cũng giãn ra. Vài tháng sau thì cằm không còn sợi râu nào mà mặt như trẻ con giống lúc mười lăm mười sáu tuổi. Lại thích những trò nghịch ngợm phá phách, có khi làm điều bậy bạ, hai con trai phải xin lỗi che chở cho. Không bao lâu, phu nhân già mắc bệnh chết, hai con trai muốn hỏi cưới vợ kế con nhà thế tộc cho cha, sinh nói "Chờ ta tới Hà Bắc trở về rồi sẽ cưới vợ".

Bấm đốt ngón tay tính đã tới ngày hẹn, bèn sai đầy tớ thắng ngựa tới Hà Bắc, hỏi thăm quả có nhà quan Hộ bộ họ Lư. Trước là ông Lư sinh được một con gái, sinh ra đã biết nói, lớn lên càng thông minh xinh đẹp, cha mẹ rất yêu dấu. Các nhà giàu sang tới dạm hỏi thì nàng cứ chối từ không chịu, cha mẹ lấy làm lạ hỏi, nàng kể lại lời hẹn kiếp trước. Cha mẹ cùng tính lại tuổi tác sinh, cười lớn nói “Con nhãi ngây ngốc, Trương lang tính ra đã gần năm mươi tuổi, nếu việc người thay đổi thì xương đã mục nát, mà nếu còn sống cũng thì đã đầu hói răng rụng rồi". Cô gái không nghe, mẹ thấy nàng quyết ý bèn bàn với ông Lư sai người giữ cửa không được đưa tin sinh tới, chờ qua kỳ hẹn để nàng không mong đợi nữa.

Không bao lâu sinh tới, người giữ cửa từ chối không cho vào, sinh quay lại nhà trọ buồn bã không biết làm sao. Lúc nhàn rỗi đi dạo ngoài đồng, nhân ngầm tìm cách nghe ngóng tin tức trong nhà họ Lư. Cô gái cho rằng sinh phụ ước, khóc lóc bỏ ăn, mẹ nói "Y không tới, chắc đã chết rồi, nếu không thì cái lỗi phụ ước không phải là do con” nàng không nói gì, chỉ nằm cả ngày. Lư lo sợ, cũng nghĩ muốn gặp sinh một lần xem sao bèn lấy cớ ra ngoài dạo chơi, gặp sinh ngoài đồng, nhìn thấy là một thiếu niên lấy làm kinh ngạc. Bèn trải chiếu xuống đất cùng ngồi trò chuyện, thấy rất hợp ý, mừng rỡ mời về nhà.

Sinh đang định hỏi chuyện, Lư lập tức đứng lên dặn khách ngồi đợi một lúc rồi vội vào nói với con gái. Cô gái vui mừng gượng dậy, ra núp nhìn mặt sinh thấy không giống, rơi lệ quay vào, oán trách cha lừa dối mình. Lư ra sức phân trần đó đúng là sinh, cô gái không nói gì, chỉ rơi lệ không thôi. Lư trở ra, trong lòng chán nản, trò chuyện với khách rất lạt lẽo. Sinh hỏi "Quý nhân có phải là quan Hộ bộ không?", Lư ngạo mạn gật đầu, ngoảnh nhìn chỗ khác như không muốn tiếp khách. Sinh thấy ngạo mạn vô lễ bèn cáo từ ra về, cô gái khóc lóc mấy ngày rồi chết. Sinh đêm nằm mơ thấy nàng tới nói "Người tới đó đúng là chàng ư? Tuổi tác cùng dung mạo quá cách biệt, lại nhìn qua rèm nên không thấy rõ mặt, thiếp vì phẫn uất mà chết, xin chàng tới miếu Thổ địa gọi hồn gấp thì thiếp còn có thể sống lại, nếu chậm thì không kịp đâu.

Sinh tỉnh dậy vội tới cổng nhà họ Lư nghe ngóng, quả nhiên cô gái đã chết hai ngày rồi. Sinh vô cùng đau xót, vào tận nhà trong điếu tang, kế kể lại giấc mơ cho Lư nghe, Lư theo lời lập đàn gọi hồn về rồi mở vải liệm ra vỗ về xác cô gái, kêu gọi khấn khứa. Giây lát nghe trong cổ họng nàng có tiếng thở khò khè, chợt thấy môi son hé mở, nhưng toàn thân vẫn lạnh như băng. Vội bế ra đặt lên giường, giây lát thì nàng rên rỉ, Lư mừng rỡ mời khách ra ngoài, mở tiệc khoản dãi. Hỏi tới gia thế biết sinh là nhà quý hiển, càng thêm mừng rỡ bèn chọn ngày tốt gả con gái cho sinh.

Sinh ở đó nửa tháng rồi đưa cô gái về, Lư cũng tiễn về tới tận nhà, ở lại nửa năm mới đi. Vợ chồng ăn ở với nhau rõ ra là một cặp vợ chồng trẻ, nhiều người không biết cứ lầm tưởng vợ chồng con trai là vợ chồng sinh. Qua năm sau ông Lư chết, con trai còn quá nhỏ nên bị bọn cường hào lấn hiếp, gia sản dần khánh kiệt, sinh bèn đón về nuôi, sau con trai Lư làm nhà ở đó luôn.

Chú thích:
[41] Đủ số một tạng: tức đủ 81 lần. 81 là con số thiêng của nhà Phật.
[42] Nam Hải: đây chỉ nơi ở của Quan Thế âm Bồ tát.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 28-5-2012 20:04:23 | Chỉ xem của tác giả
043. Đạo Sĩ (Đạo Sĩ)


Hàn sinh là con nhà thế gia, tính hiếu khách, có họ Từ cùng thôn thường tới uống rượu. Một lần đang họp mặt thì ngoài cổng có đạo sĩ tới ăn xin, người nhà cho tiền gạo đều không lấy cũng không đi, chúng tức giận bỏ vào không nhìn tới nữa. Hàn nghe tiếng cãi cọ hồi lâu bèn hỏi người nhà, họ thưa lại, chưa dứt lời đạo sĩ đã vào tới. Hàn mời ngồi, đạo sĩ nhìn chủ khách giơ tay một cái rồi ngồi ngay xuống. Hỏi qua mới biết là ngụ trong ngôi miếu nát ở xóm Đông. Hàn nói “Không biết dấu hạc về quán Đông lúc nào khiến ta thiếu lễ địa chủ”. Đạo sĩ đáp “Kẻ quê kệch mới tới, không quen biết ai, nghe nói cư sĩ rộng rãi nên rất muốn xin uống rượu” Hàn sai rót rượu, đạo sĩ uống rất hào, Từ thấy quần áo rách rưới dơ dáy có vẻ nghèo khổ nên không trọng lắm, Hàn cũng coi là loại khách thoáng qua. Đạo sĩ uống cạn hơn hai chục chén rồi chào ra về.

Từ đó cứ mở tiệc mời khách là đạo sĩ tới, gặp lúc ăn thì ăn, gặp lúc uống thì uống, Hàn cũng hơi bực mình. Có lần đang uống rượu, Từ chế nhạo nói "Đạo trưởng hàng ngày làm khách, sao không làm chủ một phen?". Đạo sĩ cười đáp “Đạo sĩ với cư sĩ như nhau, chỉ có hai vai mang một cái mồm thôi", Từ thẹn không sao trả lời được. Đạo sĩ nói "Tuy nhiên bần đạo có lòng thành đã lâu, cũng phải hết sức làm chén nước để mời", kế uống xong dặn "Trưa mai xin mời quá bộ”.

Hôm sau hai người rủ nhau cùng đi, vẫn ngờ là đạo sĩ không đặt tiệc, nhưng ông ta đã đón trên đường. Vào cổng thấy nhà cửa đều mới làm, gác rộng liền mây, vô cùng lạ lùng, nói "Lâu không tới đây, xây mới lúc nào vậy?”. Đạo sĩ đáp "Cũng vừa làm xong". Vào tới nhà trong thấy đồ vật bày biện đều sang trọng đẹp đẽ, các nhà thế gia cũng không có, hai người bất giác nảy lòng kính trọng. Mời ngồi xong, những kẻ rót rượu bưng mâm đều là bọn đồng tử đẹp trai khoảng mười sáu tuổi, áo gấm hài đỏ, còn rượu và thức ăn thơm ngon thì ê hề. Ăn xong lại bưng lên thức tráng miệng, có nhiều loại trái cây quý không biết tên, đựng trong khay pha lê ngọc thạch lóng lánh, rượu thì rót vào chén pha lê chu vi cả thước.

Đạo sĩ nói "Gọi chị em họ Thạch lên đây", tiểu đồng đi giây lát thì có hai mỹ nhân bước vào. Một nàng mảnh khảnh mà cao như cành liễu, một nàng thấp, tuổi cũng trẻ hơn, cả hai đều xinh đẹp. Đạo sĩ sai hát mời rượu, nàng trẻ tuổi gõ phách mà hát, nàng kia thổi sáo họa lại, âm thanh vi vu trong trẻo. Dứt khúc, đạo sĩ đưa chén ra bảo rót rượu, rồi bảo uống cạn. Lại hỏi người đẹp “Lâu quá không múa, nay múa được không?”, lập tức có bọn tớ trai đem nệm ra trải dưới tiệc. Hai nàng đối nhau múa, áo dài phất tung, hương thơm bay ngát, múa xong dựa người vào tấm bình phong vẽ. Hai người thần hồn bay mất, bất giác uống tới say mèm.

Đạo sĩ cũng không nhìn ngó gì tới khách nữa, cứ nâng chén uống cạn, kế đứng lên nói "Xin phiền cứ tự rót rượu, ta đi nghỉ một lúc sẽ trở lại" rồi bước đi. Vách phía nam có đặt một cái giường khảm xà cừ, hai cô gái đem nệm gấm trải ra rồi đỡ đạo sĩ lên nằm. Đạo sĩ bèn kéo nàng cao lên cùng nằm, sai nàng trẻ đứng ở dưới xoa lưng. Hai người thấy thế bực lắm, Từ bèn gọi lớn "Đạo sĩ không được vô lễ", rồi sấn tới phá đám, đạo sĩ vội trở dậy chạy trốn. Từ thấy nàng trẻ tuổi vẫn đứng trước giường, nhân đang say bèn kéo lên chiếc giường ở vách phía bắc, công nhiên ôm ấp. Ngoái lại thấy người đẹp trên giường vẫn nằm yên bèn nói với Hàn "Sao ông đứng xa thế”. Hàn liền leo lên giường định giao hoan, nhưng người đẹp ngủ say, lay không nhúc nhích bèn ôm nàng cùng ngủ. Trời sáng tỉnh rượu thúc giấc, thấy trong lòng có một vật lạnh buốt, nhìn lại thì ra mình ôm một hòn đá dài nằm dưới bậc thềm. Vội nhìn lại Từ thấy vẫn chua tỉnh, gối đầu vào một viên đá ngủ say trong nhà xí cũ. Tới đá cho tỉnh dậy, cùng lạ lùng kinh sợ, nhìn quanh thì chỉ có một sân cỏ hoang, hai gian nhà nát mà thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 28-5-2012 20:18:43 | Chỉ xem của tác giả
044. Họ Hồ (Hồ Thị)


Vùng Trục Lệ (tỉnh Hà Bắc) có nhà giàu muốn đón thầy dạy học, chợt có vị Tú tài tới cửa tự giới thiệu. Chủ nhân mời vào, thấy ngôn ngữ hào sảng, quý mến như bạn lâu ngày. Tú tài tự nói mình họ Hồ[43], chủ nhân bèn nộp tiền dạy học, giữ lại ở đó. Hồ dạy học rất chăm chỉ, kiến thức khác hẳn bọn học trò tầm thường, nhưng thường ra ngoài chơi đến khuya mới về, cổng nẻo vẫn đóng chặt, không thấy gõ cửa mà đã vào tới trong phòng rồi. Chủ nhân ngờ là hồ nhưng xét tình ý thấy không có vẻ độc ác nên vẫn đối xử lễ phép, không vì quái dị mà coi thường.

Hồ biết chủ nhân có con gái, muốn kết thông gia, mấy lần nói xa nói gần nhưng chủ nhân cứ làm như không hiểu. Hồ bèn lấy cớ có việc đi vắng, hôm sau có khách tới, buộc con lừa đen ở cổng. Chủ nhân ra mời vào, thấy tuổi khoảng năm mươi, áo quần tươm tất sạch sẽ, lời lẽ ý khí phong nhã, ngồi vào trò chuyện mới biết là người mai mối của Hồ. Chủ nhân im lặng hồi lâu rồi nói "Ta với Hồ tiên sinh quen nhau không có gì trái ý, cần gì phải làm thông gia, vả lại con gái ta đã hứa gả cho người khác rồi, phiền ông tạ lỗi giùm với tiên sinh”. Khách nói "Ta biết chắc lệnh ái còn chưa hứa gả cho ai, sao ông cự tuyệt nhau quá thế?”. Nói đi nói lại mấy lần chủ nhân vẫn không chịu, khách có vẻ thẹn thùng, nói "Họ Hồ cũng là thế tộc, có chỗ nào không bằng ông?", chủ nhân nói thẳng rằng "Thật không có ý gì khác, chỉ vì khác loài mà thôi”.

Khách nghe thấy nổi giận, chủ nhân cũng nổi giận, lớn tiếng sỉ vả nhau. Khách đứng bật dậy đánh chủ nhân, chủ nhân sai người nhà vác gậy đánh đuổi, khách bỏ chạy bỏ cả con lừa lại. Nhìn kỹ lại thì thấy con lừa lông đen tuyền, xua tai vẫy đuôi đúng là con lừa, nhưng kéo đi thì không động đậy, đánh đuổi thì theo tay khuỵu xuống kêu rền rĩ, té ra là một con sâu. Chủ nhân thấy khách căm tức, biết ắt sẽ báo thù nên chuẩn bị đề phòng. Hôm sau quả có quân hồ kéo tới rất đông, người đi ngựa, người đi bộ, hoặc mang giáo hoặc mang cung, người kêu ngựa hí ầm ĩ, chủ nhân không dám ra.

Bọn hồ kêu lớn "Đốt nhà y đi", chủ nhân càng sợ. Có người khỏe mạnh dắt gia nhân xông ra ném đá bắn tên, hai bên đánh nhau, bên nào cũng có người bị thương, bọn hồ dần dần yếu thế, nhao nhao bỏ chạy, vút cả gươm giáo xuống đất, thấy sáng loáng như tuyết, tới gần nhặt lên thì toàn là lá lúa mì. Mọi người cười nói “Tài nghề bọn chúng chỉ có bấy nhiêu thôi” nhưng sợ hồ sẽ lại kéo tới nên càng phòng bị nghiêm ngặt. Sáng hôm sau mọi người đang họp lại bàn tán chợt có một người to lớn từ trên trời rơi xuống, mình cao hơn một trượng, vai rộng mấy thước, vung đại đao to bằng cánh cửa đuổi người mà chém. Mọi người bắn tên đạn túi bụi, người ấy ngã lăn ra đất, nhìn lại thì là hình nộm bằng cỏ mà thôi, cùng lấy làm lạ.

Ba ngày liền hồ không tới nữa, mọi người hơi lơ là. Vừa lúc chủ nhân vào nhà xí, chợt bọn hồ ào ào kéo tới bắn loạn xạ, bị trúng tên vào mông, cả sợ kêu cứu, mọi người đổ ra đánh dữ dội, bọn hồ mới lui. Nhổ tên ra xem thì đều là cọng cỏ bồng. Cứ thế hơn tháng, bọn hồ lúc tới lúc không, tuy không bị thiệt hại gì nhiều, nhưng ngày nào cũng phải nơm nớp đề phòng, chủ nhân vô cùng lo lắng. Một hôm Hồ sinh dẫn quân tới, chủ nhân đích thân ra, Hồ thấy mặt bèn lẩn vào đám đông, chủ nhân gọi lớn, bất đắc dĩ Hồ phải ra. Chủ nhân nói "Ta tự thấy mình không hề thất lễ với tiên sinh, sao tiên sinh lại dấy động binh đao?". Bọn hồ muốn bắn, Hồ ngăn lại, chủ nhân tới gần nắm tay mời vào phòng dạy học cũ, bày rượu khoản đãi rồi ung dung nói "Tiên sinh là người đạt lý, chắc sẽ tha thứ cho. Ta tuy thân thiết với tiên sinh nhưng không muốn làm thông gia, chỉ vì xe ngựa nhà cửa của tiên sinh phần lớn đều khác với loài người, con gái ta theo về thì tiên sinh cũng biết là không thể được. Vả lại lời ngạn có câu: "Trái dưa mọc ra thì ai hái cũng chỉ để ăn, vậy tiên sinh cưới làm gì?".

Hồ cả thẹn, chủ nhân nói "Không sao, con trai ta còn đây, nếu không chê là ngu hèn, thì thằng nhỏ theo học ông đã mười lăm tuổi, xin cho nó làm rể, không biết ông có đứa con gái nào không?” Hồ mừng rỡ nói “Ta có đứa em gái kém công tử một tuổi, nếu không chê là thô lậu, xin được hầu hạ khăn lược cho công tử, có được không?". Chủ nhân đứng lên vái lạy, Hồ cũng vái trả, rồi đó thù tạc rất vui vẻ, quên hết thù hiềm cũ. Chủ nhân sai mang rượu thịt ra khao thưởng tất cả bọn hồ đi theo, trên dưới đều hoan hỉ. Lại hỏi tới nơi ở để sai người tới nộp sính lễ nhưng Hồ từ tạ, trời tối lại đốt đuốc uống rượu đến lúc say mới về, từ đó chủ nhân lại được yên ổn.

Hơn năm sau Hồ không tới, có người ngờ là hẹn dối nhưng chủ nhân vẫn kiên tâm chờ. Lại sau nửa năm Hồ chợt tới, hỏi thăm sức khỏe chủ nhân xong, nói "Em gái ta đã trưởng thành, xin chọn ngày lành tháng tốt cho nó được về thờ cha mẹ chồng". Chủ nhân mừng rỡ, lập tức đính ước. Kế Hồ ra về, đến ngày hẹn quả nhiên có xe kiệu đưa cô dâu tới, của hồi môn rất nhiều, bày đầy cả phòng. Cô dâu ra mắt cha mẹ chồng, vô cùng lễ phép, chủ nhân cả mừng. Hồ sinh cùng một người em trai đưa cô dâu tới, trò chuyện đều phong nhã, tửu lượng lại cao, uống rượu đến sáng mới về. Cô dâu mới lại có thể biết trước năm nào được mùa năm nào mất mùa, nên việc trồng trọt mưu sinh trong nhà cứ theo đó mà quyết. Anh em Hồ sinh cùng bà mẹ thường tới thăm nàng, mọi người đều biết mặt.

Chú thích:
[43] Họ Hồ: chữ "Hồ" đây viết là nhục + nguyệt đồng âm chứ không phải là chữ "hồ" (con chồn).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 28-5-2012 20:30:39 | Chỉ xem của tác giả
045. Bậc Vương Công (Vương Giả)


Tuần phủ Hồ Nam là ông Mỗ sai quan Châu tá áp tải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường gặp mưa, trời tối lỡ đường không có chỗ ngủ, thấy xa xa có một ngôi chùa cổ bèn tới đó nghỉ lại. Sáng ra nhìn tới số tiền thì đã mất hết. Mọi người kinh hãi nhưng không thể quy tội cho ai, bèn về bẩm với Tuần phủ. Tuần phủ cho là bịa đặt định đem trị tội, đến khi tra hỏi các sai dịch đi cùng thì không ai nói gì khác, liền bắt phải trở lại chỗ mất tiền điều tra manh mối.

Tới trước miếu thấy một người mù tướng mạo kỳ dị treo tấm bảng đề “Biết việc trong lòng", nhân nhờ bói cho. Người mù nói "Đây là vì việc mất vàng", viên Châu tá nói "Phải" rồi kể lể nỗi khổ. Người mù đòi một cỗ kiệu, nói "Cứ đi theo ta sẽ biết", mọi người theo lời, các sai dịch cũng đi theo. Người mù nói “Đi về phía đông", mọi người đi về phía đông, nói “Đi về phía bắc", mọi người đi về phía bắc. Được năm ngày thì vào trong núi sâu, chợt thấy thành quách, người đi lại nhộn nhịp. Vào thành đi một lúc, người mù nói “Dừng lại" rồi xuống kiệu, chỉ về hướng nam nói "Cứ tới cái cổng cao quay về phía tây thì vào mà hỏi” rồi chắp tay bỏ đi.

Viên Châu tá theo lời, quả tới cái cổng cao liền vào. Có một người ra, ăn mặc theo kiểu thời Hán, không xưng tên họ. Viên Châu tá kể nguyên do mình tới, người ấy nói "Xin ở lại vài hôm, sẽ đưa ông tới ra mắt người có trách nhiệm” Rồi đưa viên Châu tá đi, cho ở một nơi riêng, lo đủ cơm nước. Nhân lúc rảnh rỗi, viên Châu tá đi dạo ra sau nhà thấy có cái đình trong khu vườn, tùng già rợp bóng, cỏ mượt như nhung. Qua mấy đoạn hành lang lại tới một cái đình cao, theo bậc thềm bước lên, thấy trên vách treo mấy tấm da người còn đủ cả tai mắt mũi mồm, mùi tanh nồng nặc, bất giác sởn hết gai ốc, vội vàng quay về phòng. Tự nghĩ chắc phải gởi thây nơi đất lạ, không mong gì sống được. Nhưng nghĩ bề nào cũng chết, hãy cứ chờ xem.

Hôm sau người kia tới gọi đi, nói "Hôm nay có thể gặp được", viên Châu tá dạ dạ. Người kia cưỡi ngựa phóng như bay, viên Châu tá hộc tốc chạy theo. Lát sau tới một quân dinh oai vệ như dinh Tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên, không khí nghiêm trang. Người kia xuống ngựa dẫn viên Châu tá vào, qua một lớp cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm mũ ngọc ngồi quay về hướng nam. Viên Châu tá bước lên lạy chào, vị vương giả hỏi "Ngươi là quan giải lương ở Hồ Nam phải không?”, viên Châu tá thưa phải. Vị vương giả nói "Tiền còn đủ ở đây, chẳng đáng bao nhiêu, quan Tuần phủ của ngươi khẳng khái dâng nộp chắc cũng được mà".

Viên Châu tá khóc nói "Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị trị tội, biết lấy gì bẩm lại với quan trên?” Vị vương giả đáp "Chuyện đó không khó", rồi đưa cho một cái tráp to, nói "Đem cái này về đưa lên, chắc chắn vô sự". Kế hạ lệnh lực sĩ đưa ra, viên Châu tá sợ sệt không dám nói gì, nhận tráp mà về. Đường ra núi sông khác hẳn đường vào, ra khỏi núi người đưa đường quay về. Vài ngày về tới Trường Sa (tỉnh thành Hồ Nam) bẩm lại với Tuần phủ. Tuần phủ càng cho là bịa đặt, nổi giận không thèm nghe nữa, sai ngay tả hữu mang dây ra trói. Viên Châu tá cởi khăn lấy cái tráp đưa lên. Tuần phủ mở ra, vừa nhìn thấy đã tái mặt bảo thôi trói, nói "Tiền bạc là việc nhỏ, cho ngươi lui". Kế vội phát văn thư sai các thuộc quan tìm cách bù vào, vài hôm sau thì ốm rồi chết.

Trước đó Tuần phủ cùng người thiếp yêu nằm ngủ, khi tỉnh dậy thì tóc người thiếp bị cắt hết, cả nha môn hoảng sợ không biết vì sao, thì ra tóc ấy được đựng trong cái tráp. Ngoài ra còn có lá thư viết "Ngươi từ khi làm quan Tuần phủ, chúc vị cao sang, hối lộ tham ô tiền không kể xiết. Khoản tiền sáu mươi vạn kia đã xét thu vào kho, hãy mở túi tham mà nộp cho đủ. Viên quan áp tải không có tội, không được xử bậy. Trước đây cắt tóc người thiếp để cảnh cáo qua loa, nếu không tuân lệnh thì sớm tối sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc gởi kèm là để làm tin đấy". Sau khi Tuần phủ chết, người nhà mới truyền lá thư ra. Về sau các thuộc viên sai người tìm tới chốn nọ thì chỉ thấy núi cao vực sâu, không có đường đi nào.

Dị Sử thị nói: Câu chuyện rất giống với chuyện các hiệp khách đời cổ lấy vàng chia cấp cho người nghèo, thật cũng lạ lùng khoái ý. Nhưng người tránh loạn vào Đào Nguyên thì không đi ăn cướp, mà nếu các bậc kiếm khách tụ họp thì làm sao có được thành quách nha thự như vậy được? Than ôi, đó là vị thần nào chăng? Nhưng nếu có một chỗ như vậy thật, thì chỉ sợ người trong thiên hạ tới tố cáo không lúc nào ngớt thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 29-5-2012 04:23:51 | Chỉ xem của tác giả
046. Trần Vân Thê (Trần Vân Thê)


Chân Dục Sinh người Di Lăng đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) là con một Cử nhân, học giỏi đẹp trai, hai mươi tuổi đã nổi tiếng. Lúc còn nhỏ có thầy tướng đoán "Về sau sẽ lấy vợ là đạo cô”, cha mẹ đều cười nhưng bàn tới việc hôn nhân của sinh thì khổ nỗi cứ kén chọn mãi không xong.

Tang phu nhân mẹ sinh quê ở huyện Hoàng Cương (tỉnh Hồ Bắc), sinh có việc về quê ngoại nghe người ta nói “Bốn nàng Vân ở Hoàng Cương, xinh đẹp không ai sánh bằng". Nguyên ở huyện có am thờ Lữ tổ bốn đạo cô trong am đều xinh đẹp nên có lời đồn như thế. Am cách nhà họ Tang hơn mười dặm nên sinh lén tới gọi cổng, quả có bốn đạo cô vui vẻ ra đón tiếp, phong thái đều tao nhã, có một nàng trẻ nhất xinh đẹp vô song, sinh thích lắm cứ nhìn chằm chằm. Nàng lấy tay che mặt nhìn qua chỗ khác. Các đạo cô lo lấy ấm pha trà, sinh thừa dịp hỏi thăm tên họ, nàng đáp “Họ Trần tên Vân Thê". Sinh nói đùa "Lạ thật, tiểu sinh lại đúng họ Phan[44]". Trần đỏ mặt cúi đầu không nói, đứng dậy bước ra.

Giây lát trà quả bưng lên, các đạo cô xưng tên: một nàng tên Bạch Vân Thâm, tuổi khoảng ba mươi, một nàng tên Thịnh Vân Miên khoảng đôi mươi trở lại, một nàng tên Lương Vân Đống khoảng hăm bốn hăm lăm là đàn em, duy Vân Thê không vào Sinh mất vui bèn hỏi, Bạch đáp "Con nhãi ấy sợ người lạ". Sinh đứng lên cáo từ, Bạch hết sức giữ lại không được, nói "Nếu muốn gặp Vân Thê, xin mời mai tới”

Sinh về nhớ nhung tha thiết, hôm sau lại tới am. Các đạo cô đều có mặt, chỉ vắng Vân Thê. Sinh chưa tiện hỏi thì các đạo cô dọn cơm mời khách, sinh cố từ chối nhưng không được. Bạch xắn bánh trao đũa mời mọc rất ân cần. Sinh hỏi Vân Thê đâu, họ đáp sẽ tự tới. Hồi lâu mặt trời xế bóng, sinh muốn về, Bạch nắm tay giữ lại nói “Xin cố ở lại, ta sẽ bắt con nhãi ra chào", sinh bèn ở lại. Giây lát họ thắp đèn bày rượu, Vân Miên cũng ra ngoài. Rượu được vài tuần, sinh cáo đã say, Bạch nói “Cứ cạn ba chén nữa thì Vân Thê sẽ ra", sinh bèn uống đủ ba chén. Lương cũng nài nỉ mời ba chén, sinh uống cạn rồi úp chén cáo là đã say. Bạch nhìn Lương nói “Chúng ta đáng khinh không thể mời rượu được, cô đi dắt con nhãi Trần tới đây, cứ nói chàng Phan đợi Diệu Thường lâu rồi". Lương ra, giây lát quay lại nói Vân Thê không tới. Sinh muốn về nhưng đã khuya liền giả say nằm vật ra. Hai người cởi quần áo sinh rồi thay phiên đòi hỏi suốt đêm không sao chịu nổi, trời sáng sinh không cáo biệt về luôn, mấy ngày sau không dám quay lại.

Nhưng vẫn không sao quên được Vân Thê nên cứ lâu lâu lại tới gần am nghe ngóng. Một hôm trời đã tối, thấy Bạch cùng một thiếu niên đi ra, sinh mừng vì không sợ Lương lắm liền tới gõ cổng. Vân Miên ra mở, hỏi thăm thì Lương cũng đi vắng. Nhân hỏi Vân Thê, Thịnh dẫn tới một gian phòng gọi "Vân Thê, có khách tới!". Chỉ thấy cửa phòng đóng sầm lại, Thịnh cười nói "Đóng cửa rồi!". Sinh đứng ngoài cửa sổ như định nói gì, Thịnh liền bỏ đi. Vân Thê nói vọng ra "Họ đều lấy thiếp làm mồi nhử chàng, nếu chàng tới mãi sẽ mất mạng đấy. Thiếp không thể giữ trọn thanh quy nhưng cũng không dám coi thường liêm sỉ, muốn được người như chàng Phan để thờ mà thôi". Sinh thề chung sống suốt đời, Vân Thê nói "Công sư phụ thiếp nuôi dạy cũng không ít, nếu quả thương yêu nhau thì phải đem hai mươi lượng vàng chuộc thiếp, thiếp xin chờ ba năm. Còn như muốn làm trò trên bộc trong dâu thì không thể được". Sinh nhận lời đang muốn nói rõ về mình thì Thịnh đã trở lại, đành theo ra rồi chào về. Trong lòng vẫn buồn rầu, muốn nán lại gặp nhau lần nữa thì gặp lúc người nhà tới báo cha bệnh, bèn vội vã về quê.

Không bao lâu ông Cử nhân mất, phu nhân thì dạy con rất nghiêm, sinh không dám tỏ bày tâm sự, chỉ dè sẻn để dành dụm tiền bạc. Có ai mối lái đánh tiếng thì cứ lấy cớ đang có tang từ chối. Mẹ không nghe, sinh lựa lời nói "Trước đây ở Hoàng Cương bà ngoại đã định hỏi con gái họ Trần cho con, thật đúng sở nguyện. Nay nhà có việc, tin tức cách trở, đã lâu chưa đi thăm bà, nay mai con sẽ đi một phen, nếu đám đó không xong sẽ xin vâng lời mẹ". Phu nhân bằng lòng, sinh vội thu xếp tiền để dành được đem theo.

Tới Hoàng Cương qua am thì viện quán vắng vẻ khác hẳn ngày trước, vào trong chỉ có một ni cô già đang nấu cơm, nhân hỏi tin tức. Ni cô nói "Năm rồi đạo sĩ già chết, bốn nàng Vân mỗi người một ngả”. Hỏi họ đi đâu, bà đáp Vân Thâm, Vân Đống trốn theo bọn trai trẻ đàng điếm, nghe nói Vân Thê tới ngụ ở bắc huyện, còn Vân Miên thì không nghe tin". Sinh nghe thế buồn rầu than thở, sai đánh xe lên bắc, gặp đạo quán là hỏi thăm mà không thấy tung tích gì. Đành rầu rĩ trở về nói dối với mẹ rằng “Cậu nói ông Trần đi Nhạc Châu (huyện thuộc Hồ Nam), đợi khi nào ông về sẽ sai người báo tin".

Nửa năm sau phu nhân về thăm nhà, đem chuyện hỏi mẹ thì bà không biết gì. Phu nhân giận con nói dối, nhưng bà mẹ ngờ là hai cậu cháu bàn tính riêng với nhau mà chưa nói cho mình biết, may là cậu đi vắng nên sinh không bị lộ chuyện nói dối. Phu nhân lên dâng hương trên núi Liên Phong, tối nghỉ trọ ở dưới núi, đã đi nằm thì chủ nhân gõ cửa dẫn một đạo cô vào trọ chung. Nàng tự xưng tên Trần Vân Thê, nghe nói phu nhân ở Di Lăng liền qua ngồi cùng giường kể chuyện mình trắc trở, lời lẽ buồn rầu, sau cùng nói "Có người anh họ là Phan sinh cũng ở Di Lăng, phiền phu nhân sai con cháu nhắn giúp một câu là ta đang ở tạm chỗ sư thúc Vương Đạo Thành tại quán Thê Hạc, sớm tối nguy nan khổ sở, một ngày như một năm, xin tới thăm cho sớm, chứ e sau này chưa biết ra sao". Phu nhân hỏi tên Phan sinh thì nàng lại không biết, chỉ nói "Anh ấy đã đi học ở trường huyện, các vị Tú tài chắc ai cũng biết". Trời chưa sáng nàng đã từ biệt ra đi, còn ân cần dặn đi dặn lại.

Phu nhân về nhà kể lại với sinh, sinh quỳ xuống nói “Thưa thật với mẹ, chàng Phan sinh ấy chính là con". Phu nhân hỏi rõ duyên cớ, giận nói "Thằng con xấu xa vào chùa quán chơi bời, nếu lấy đạo cô làm vợ thì còn mặt mũi nào nhìn họ hàng bè bạn nữa!”, sinh cúi đầu không dám nói gì. Gặp khi sinh lên quận thi, lén thuê thuyền tới thăm Vương Đạo Thành. Tới nơi thì Vân Thê đã ra đi nửa tháng không về, sinh về nhà buồn rầu phát bệnh. Kế bà Tang mất, phu nhân về chịu tang. Chôn cất xong trở về lạc đường tới nhà họ Kinh, hỏi ra thì là em họ mình. Phu nhân nhân tiện ghé vào chơi, thấy có một thiếu nữ trong phòng, tuổi khoảng mười tám mười chín, dung nhan tuyệt thế, bà chưa từng thấy ai đẹp bằng. Phu nhân thường muốn tìm một nàng dâu thật đẹp cho thằng con không oán hờn, thấy nàng thì động lòng bèn hỏi lai lịch. Bà em nói "Đây là Vương thị, cháu gọi ông Kinh bằng cậu, cha mẹ đều đã mất, tạm ở nhờ nhà ta” phu nhân hỏi chồng là ai, bà em đáp chưa có. Phu nhân cầm tay nàng trò chuyện thấy dịu dàng nết na thích lắm, vì thế nghỉ lại qua đêm, ngỏ ý riêng với bà em. Bà em nói “Xứng đôi lắm nhưng nó làm cao, nếu không thì đâu lại đến nay còn chưa lấy chồng, xin để ta bàn lại". Phu nhân gọi cô gái tới ngủ chung giường, nàng nói cười rất vui vẻ, xin nhận phu nhân làm mẹ. Phu nhân mừng, rủ cùng về Kinh Châu. Nàng càng vui mừng, hôm sau cùng lên thuyền về.

Về tới nhà thì sinh còn ốm chưa dậy. Mẹ muốn con đỡ bệnh liền sai tỳ nữ vào nói thầm với sinh "Phu nhân đưa người đẹp về cho công tử đấy". Sinh chưa tin, núp dưới cửa sổ nhìn ra, thấy cô gái còn đẹp hơn cả Vân Thê, nhân nghĩ “Cái hẹn ba năm đã hết, nàng ra đi không về thì hoa thơm chắc đã có chủ, được người đẹp này thì trong lòng cũng được an ủi". Rồi đó vui vẻ trở lại, bệnh cũng dần khỏi. Phu nhân gọi hai người tới chào nhau, sinh ra. Phu nhân nói với cô gái “Có hiểu ý ta đưa con cùng về không?” nàng mỉm cười đáp "Con đã biết rồi, có điều ý con lúc đầu nhận về cùng thì mẹ chưa biết. Lúc con còn nhỏ đã đính ước với Phan sinh ở Di Lăng, nhưng tin tức vắng bặt, chắc chàng đã có vợ khác rồi. Nếu thế con sẽ làm con dâu của mẹ, nếu không thế thì con sẽ làm con gái của mẹ suốt đời, sẽ có ngày báo đáp ơn sâu. Phu nhân nói “Nếu con đã có lời đính ước ta cũng không ép. Nhưng trước đây ta ở núi Ngũ Tổ có gặp một đạo cô hỏi thăm họ Phan, nay con cũng nói tới họ Phan, song các nhà thế tộc đất Di Lăng vốn không có họ ấy” Cô gái giật mình nói “Người nghỉ lại dưới núi Liên Phong là mẹ sao? Người hỏi thăm họ Phan chính là con đây". Phu nhân chợt hiểu ra, cười nói "Nếu đúng thế thì Phan sinh ở đây". Cô gái hỏi ở đâu phu nhân sai tỳ nữ dẫn tới chào sinh. Sinh giật mình hỏi "Nàng là Vân Thê phải không?". Cô gái hỏi sao biết, sinh kể lại sự tình, lúc ấy nàng mới biết sinh tự xưng là Phan lang để đùa, thẹn thùng bàn chuyện chung thân rồi vội vàng quay ra thưa với mẹ. Mẹ hỏi "Thế sao con lại lấy họ Vương” nàng đáp "Con vốn họ Vương, vì đạo sư yêu quý coi như con gái nên lấy họ Trần thôi". Phu nhân cũng mừng, chọn ngày làm lễ thành hôn.

Nguyên trước đây cô gái và Vân Miên đều tới nương tựa Vương Đạo Thành. Đạo Thành ăn ở hẹp hòi, Vân Miên bỏ đi Hán Khẩu, còn nàng vốn yếu ớt ngây thơ không thể làm lụng vất vả, lại xấu hổ không dám đi hành nghề đạo sĩ nên Đạo Thành cũng không thích lắm. Gặp lúc ông cậu họ Kinh đi qua Hoàng Cương, nàng gặp mặt rơi nước mắt, ông bèn đưa về nhà, cho bỏ trang phục đạo cô, định gả cho nhà sĩ tộc nên giấu biệt việc nàng từng làm đạo cô. Nhưng có ai làm lễ vấn danh thì nàng không chịu, cậu mợ không biết nàng muốn gì nên rất bực mình. Hôm ấy nàng theo phu nhân đi, được chỗ gửi gắm tử tế, họ như cất được gánh nặng. Sau lễ hợp cẩn, hai người cùng kể lại chuyện mình, mừng quá phát khóc. Cô gái hiếu thảo kính cẩn, phu nhân rất thương yêu, nhưng nàng chỉ gảy đàn đánh cờ chứ không biết coi sóc gia nhân làm ăn nên bà rất lo lắng.

Hơn tháng sau phu nhân sai vợ chồng tới thăm họ Kinh, ở lại vài hôm rồi về. Thuyền đang trên sông chợt có một thuyền khác đi tới, trong có một dạo cô tới gần thì là Vân Miên. Vân Miên chỉ thân với cô gái nên nàng vui mừng gọi qua thuyền mình, nhìn nhau cùng chua xót. Hỏi định đi đâu, Thịnh đáp "Lâu ngày nhớ nhau, tới quán Thê Hạc tìm thì nghe tin nàng đã về nương tựa ông cậu họ Kinh nên định tới Hoàng Cương thăm thôi. Không ngờ nàng đã được đoàn tụ với người trong mộng rồi. Nay nhìn nàng như tiên, chỉ còn kẻ phiêu bạt này không biết đến lúc nào mới hết kiếp” rồi than thở mãi. Cô gái bày kế, bảo đổi bỏ trang phục đạo cô giả làm chị mình về ở với phu nhân rồi sẽ thong thả chọn nơi xứng đáng.

Thịnh nghe theo, về tới nhà cô gái vào thưa trước với phu nhân rồi Thịnh mới vào, cử chỉ như con nhà đại gia, trò chuyện thì rõ ra là người am hiểu việc đời. Phu nhân góa bụa đang buồn vì vắng vẻ cô đơn, gặp Thịnh vui lắm, chỉ sợ nàng đi. Thịnh dậy sớm giúp đỡ bà làm việc nhà, không coi mình là khách. Mẹ càng mừng, thầm muốn cưới thêm chị để át cái tiếng đạo cô của em nhưng chưa dám nói ra. Một hôm bà quên một việc, vội hỏi lại thì Thịnh đã làm giúp xong từ lâu, bèn nói với cô gái "Người đẹp như tranh mà không làm nổi việc nhà thì có làm gì. Con dâu mà được như chị thì ta không lo gì nữa".

Không ngờ cô gái đã tính từ lâu nhưng sợ mẹ giận, nghe nói thế liền cười thưa "Mẹ đã yêu quý chị ấy thì con dâu muốn bắt chước Nữ Anh Nga Hoàng[45], ý mẹ thế nào?” Mẹ không đáp nhưng cũng tươi cười, cô gái lui về nói với sinh "Mẹ già gật đầu rồi". Rồi dọn dẹp một gian phòng khác, nói với Thịnh rằng “Lúc trước cùng ngủ chung trong đạo quán, chị nói chỉ cần được một người biết thương yêu thì hai ta cùng thờ, chị còn nhớ không?”. Thịnh bất giác quắc mắt nói "Cái ta nói là "thương yêu” ấy không phải gì khác đâu, nếu ngày ngày làm lụng mà không ai biết cho nỗi ngọt bùi cay đắng. Vài hôm ở đây có chút khó nhọc, được mẹ già thương yêu thì lòng đã khác trước rồi. Nếu không ra lệnh đuổi khách thì xin được sống mãi với mẹ già là đủ thỏa nguyện, chứ không mong làm theo đúng lời nói trước đây".

Cô gái thưa lại với mẹ, mẹ sai chị em thắp hương thề không oán hối rồi bảo sinh làm lễ thành thân với Vân Miên. Lúc sắp đi ngủ, nàng nói với sinh "Thiếp là cô gái còn trinh già hăm ba tuổi đấy”. Sinh chưa tin, đến lúc thấy trên nệm có vết hồng mới lấy làm lạ. Thịnh nói “Thiếp sở dĩ vui được chổng tốt không phải vì không chịu được cảnh vắng vẻ, mà thật là vì tấm thân khuê các mà tươi cười thù ứng như ca kỹ thanh lâu thì không kham nổi thôi. Nên mượn dịp này vào ở nhà chàng, sẽ vì chàng phụng dưỡng mẹ già, coi sóc việc nhà, chứ việc vui thú phòng the xin chàng cứ tìm người khác". Ba ngày sau Miên ôm chăn chiếu qua ngủ với mẹ, đuổi không chịu đi. Vân Thê bèn vào phòng mẹ giành chỗ trước, Vân Miên bất đắc phải về với sinh. Từ đó cứ hai ba ngày đổi phiên một lần, dần dần thành lệ.

Phu nhân vốn đánh cờ giỏi nhưng từ khi góa bụa không rảnh mà chơi, từ khi có Thịnh coi sóc việc nhà đâu đấy nên cả ngày rảnh rỗi, cứ đánh cờ với Vân Thê. Tối đến thì thắp đèn pha trà nghe hai con dâu đàn hát, nửa đêm mới ngủ. Thường nói với người ta rằng “Lúc ông ấy còn sống cũng chưa từng được vui thế này". Thịnh coi việc xuất nhập, thường ghi sổ trình mẹ, mẹ ngờ vực nói "Các con vẫn nói là mồ côi từ nhỏ, vậy ai dạy cho biết chữ đánh đàn chơi cờ?". Cô gái cười kể thật, mẹ cũng cười nói “Ta lúc đầu không muốn con trai cưới một đạo cô làm vợ, nay lại cưới tới hai đạo cô. Sực nhớ lại quẻ bói lúc nó còn là trẻ con, mới biết số trời đã định thì khó mà tránh được".

Sinh đi thi mấy lần không đỗ, phu nhân nói "Nhà ta tuy không giàu, nhưng ba trăm mẫu ruộng xấu may được Vân Miên coi sóc nên ngày càng no ấm, con cứ ở dưới gối cùng hai nàng dâu vui thú với già này, chứ ta không mong con cầu công danh phú quý", sinh vâng lời. Sau Vân Miên sinh một trai một gái, Vân Thê sinh một gái ba trai, mẹ hơn tám mươi mới mất, các cháu nội đều được vào học trường huyện, cháu lớn do Vân Miên sinh thi đỗ Cử nhân.

Chú thích:
[44] Họ Trần... họ Phan: Cổ kim nữ sử chép thời Tống ở đạo quán Nữ Trinh có đạo cô Trần Diệu Thường rất xinh đẹp, hay thơ giỏi đàn, tư thông với bạn của quan huyện Lâm Giang Trương Vu Hồ là Phan Pháp Thành. Phan kể lại với Trương, Trương ra lệnh cho hai người lấy nhau. Đây Chân Dục Sinh có ý nói đùa Vân Thê là Trần Diệu Thường còn mình là Phan Pháp Thành.
[45] Nga Hoàng Nữ Anh: hai con gái vua Nghiêu, chị em cùng làm vợ vua Thuấn, đây ý nói hai người Vân Miên Vân Thịnh cùng lấy Chân Dục Sinh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách