Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mint.doli
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp - Xuất Bản] Ỷ Thiên Đồ Long Ký | Kim Dung

[Lấy địa chỉ]
81#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:02:03 | Chỉ xem của tác giả
  Triệu Mẫn nói:
    - Nếu chỉ là chức chưởng môn phương trượng không thôi, e rằng chưa đủ đâu.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Phái Thiếu Lâm là đệ nhất môn phái trong võ lâm, làm phương trượng chưởng môn đã là lên đến tuyệt đỉnh, làm sao còn gì hơn được nữa.
    Triệu Mẫn đáp:
    - Thế võ lâm chí tôn thì sao? Không cao hơn phương trượng chùa Thiếu Lâm à?
    Trương Vô Kỵ ngẩn ngơ nói:
    - Y muốn làm võ lâm chí tôn sao?
    Triệu Mẫn nói:
    - Vô Kỵ ca ca, Chu tỉ tỉ đi lấy người khác, chàng hồn vía lên mây, không còn nghĩ ra được chuyện gì nữa.
    Trương Vô Kỵ bị nàng nói đúng tim đen, mặt đỏ lên, nghĩ thầm: ?Trương Vô Kỵ ơi, ngươi đâu có thể chỉ tơ tưởng đến những chuyện tình cảm gái trai mà để chuyện cứu nghĩa phụ qua một bên?. Chàng định thần, nghĩ Viên Chân thâm mưu viễn lự, anh hùng đại hội hôm nay chính là do tay y một mình sắp xếp, bên trong thể nào chẳng có gian mưu, liền nói:
    - Mẫn muội, em thử đoán xem mưu kế của Viên Chân thế nào?
    Triệu Mẫn nói:
    - Viên Chân là kẻ lắm mưu nhiều kế, chuyến này bỏ biết bao nhiêu tâm huyết cốt là ...
    Chu Điên đứng bên cạnh nghe hai người nói nhỏ với nhau, nhịn không nổi xen vào:
    - Quận chúa nương nương, cô cũng thật là lắm mưu nhiều kế, ta xem có kém gì Viên Chân đâu.
    Triệu Mẫn cười nói:
    - Khen nịnh rồi đó.
    Chu Điên đáp:
    - Không phải nịnh đâu ...
    Bành Oánh Ngọc nói:
    - Điên huynh, đừng ngắt lời quận chúa.
    Chu Điên giận dữ đáp:
    - Ngươi đừng ngắt lời ta trước ...
    Bành Oánh Ngọc cười khì, không nói nữa, biết là nếu cãi lẫy với y thì có đến một giờ cũng không đi đến đâu, chi bằng nhịn trước là hơn. Chu Điên nói:
    - Sao ngươi không nói nữa?
    Bành Oánh Ngọc đáp:
    - Ngươi bảo ta đừng ngắt lời ngươi, thì ta không ngắt lời ngươi chứ sao.
    Chu Điên nói:
    - Thế nhưng ngươi đã ngắt lời ta rồi.
    Bành Oánh Ngọc nói:
    - Thế thì ngươi cứ nói tiếp đi xem nào.
    Chu Điên nói:
    - Ta quên rồi, không nói tiếp được nữa.
    Triệu Mẫn cười nói:
    - Ta nghĩ nếu như Viên Chân chỉ mơ tưởng chức phương trượng chùa Thiếu Lâm thì việc gì phải mời anh hùng thiên hạ đến làm gì. Tạ đại hiệp đã lọt vào tay y rồi, việc gì còn phải gọi quần hùng tỉ võ tranh đoạt? Vô Kỵ ca ca, nếu nói riêng về võ công, e rằng trên đời này không ai có thể bằng được chàng, việc đó Viên Chân lẽ nào lại không biết. Y chẳng thể tốt bụng đến mức sắp đặt đại hội anh hùng, để chàng thắng tất cả thành võ lâm chí tôn, sau đó đem Tạ đại hiệp và đao Đồ Long dâng lên.
    Trương Vô Kỵ, Bành Oánh Ngọc, Chu Điên ba người đều gật gù, hỏi lại:
    - Thế quận chúa đoán bên trong có ngụy kế gì?
    Lúc này Dương Tiêu cũng đã đến bên cạnh Trương Vô Kỵ liền chen vào:
    - Tôi vẫn nghĩ rằng, gian mưu của Viên Chân nhất định không phải nhỏ ...
    Chu Điên nhịn không nổi liền cướp lời:
    - Viên Chân là đại đối đầu của bản giáo, quận chúa nương nương trước đây cũng là đại đối đầu. Viên Chân lắm mưu nhiều kế, quận chúa nương nương thì cũng lắm kế nhiều mưu, hai người cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.
    Dương Tiêu quát lớn:
    - Lại nói điên điên rồ rồ chuyện nhăng cuội nữa rồi!
    Triệu Mẫn mỉm cười nói:
    - Chu tiên sinh nói cũng có điểm hữu lý, nếu như tôi là Viên Chân thì sẽ mưu đồ những gì? Ồ, thứ nhất tôi sẽ khuyên Không Văn phương trượng gửi anh hùng thiếp, mới anh hùng thiên hạ đến chùa Thiếu Lâm. Vị Không Văn phương trượng thâm hiểu Phật pháp vốn dĩ từ bi hòa bình, không thích đa sự nhưng tôi chỉ cần nhắc lại mối thù Không Kiến, Không Tính hai vị thần tăng, Không Văn phương trượng vì tình huynh đệ thể nào cũng bằng lòng. Kế đến, chùa Thiếu Lâm nếu như giết Tạ đại hiệp thì sẽ cùng Minh Giáo thù sâu như biển, với lực lượng một môn phái, thật cũng khó mà chống nổi với Minh Giáo toàn lực tấn công, còn như đổ lên đầu anh hùng tứ xứ, Minh Giáo không thể nào giết sạch được tất cả mấy nghìn anh hùng hào kiệt.
    Mọi người đều gật gù khen phải. Triệu Mẫn nói tiếp:
    - Anh hùng đại hội mở ra rồi, tôi sẽ không ra mặt chỉ sai người đem Tạ đại hiệp và đao Đồ Long ra làm mồi nhử, xúi bẩy cho quần hào tàn sát lẫn nhau. Minh Giáo sẽ thành kẻ địch của quần hùng, đấu đến sau cùng, dù ai thắng ai bại, cao thủ của Minh Giáo ít ra cũng chết một nửa, nguyên khí thương tổn rất nhiều.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế. Điểm đó anh cũng đã nghĩ đến rồi, thế nhưng nghĩa phụ đối với anh ơn nặng như non, với các anh em khác có giao tình mấy mươi năm, bọn mình lẽ nào ngồi yên không cứu? Ôi, mình lên núi chưa được mấy ngày, ông ngoại đã qua đời, Viên Chân hẳn là ở trong bóng tối vỗ tay cười rồi đó.
    Triệu Mẫn nói tiếp:
    - Đấu đến cuối, cái danh võ công đệ nhất có lẽ sẽ vào tay Trương giáo chủ, lúc đó quần tăng Thiếu Lâm sẽ nói: ?Trương giáo chủ kỹ áp quần hùng, thực là đáng kính đáng mừng, bản tự kính cẩn giao Tạ đại hiệp lại cho giáo chủ, xin giáo chủ lên ngọn núi sau chùa đích thân nghênh đón?. Thế là tất cả mọi người đi lên đỉnh núi, Trương giáo chủ sẽ một mình phá trận Kim Cương Phục Ma Khuyên. Nếu có người khác tiến ra tương trợ, đồng đảng của Viên Chân sẽ nói: ?Kỹ áp quần hùng là Minh Giáo Trương giáo chủ, với người khác không liên quan gì, các hạ xin đứng một bên thì hơn?. Trương giáo chủ được cái danh thiên hạ đệ nhất võ công, dẫu trên mình không bị thương gì, nhưng cũng hao phí bao nhiêu nội lực thần công, làm sao địch nổi ba vị lão tăng? Kết quả Tạ đại hiệp cứu không xong, chính bản thân mình bỏ mạng giữa ba cội thương tùng. Chỉ còn lãnh nguyệt thê phong làm bạn với cái xác một đời đại hiệp Trương Vô Kỵ, chẳng cũng khéo lắm sao?
    Quần hào nghe tới đây, mặt ai nấy đều biến sắc, thấy đó không phải là chuyện bịa đặt, Trương Vô Kỵ máu nóng hơn người dù có nguy hiểm gian nan thế nào không thể không cứu Tạ Tốn, nếu phải bỏ mình cũng không hối hận. Kế của Viên Chân tính đúng con người Trương Vô Kỵ, biết chàng dẫu có núi đao vạc dầu cũng nhất định nhảy vào cho bằng được.
    Triệu Mẫn thở dài một tiếng, nói tiếp:
    - Như thế, Minh Giáo sẽ bị hủy rồi, Viên Chân sẽ sử dụng gian kế, đánh thuốc độc giết Không Văn, đem tội vạ đổ lên đầu Không Trí, chuyện đó an bài thật dễ quá, chỉ cần ngụy tạo vài chứng cớ, không thể không khiến cho tăng chúng Thiếu Lâm tin theo. Lại thêm đồng đảng nhất định suy cử, lão nhân gia sẽ thuận lý thành chương lên chức phương trượng ngay. Ngài sẽ ra lệnh cho quần hùng tấn công Minh Giáo, lấy nhiều thắng ít, gom lại giết sạch. Khi đó danh hiệu võ công đệ nhất, ngoại trừ lão nhân gia ra thì người ngoài ai dám tranh. Đao Đồ Long không xuất hiện thì không sao, nhưng nếu có tung tích trên giang hồ, anh hùng thiên hạ đều biết, chủ nhân đích thực của thanh đao đó là Viên Chân thần tăng, phương trượng chùa Thiếu Lâm. Nếu đao vào tay ai mà không dâng lên ngài e rằng có điều không hay.
    Nàng nói thanh âm thật nhỏ, chỉ mấy người ở một góc lều nghe được. Nghe xong, Chu Điên giơ tay vỗ đùi một cái bốp, kêu lên:
    - Đúng thế, đúng thế! Thật là gian mưu to lớn quá!
    Câu nói của y oang oang, trong quảng trường có đến một nửa nghe thấy, mọi người đều quay sang nhìn vào lều của Minh Giáo.
    Tư Đồ Thiên Chung hỏi:
    - Gian mưu gì vậy? Nói cho lão phu nghe có được không nào?
    Chu Điên đáp:
    - Cái này nói ra không được. Lão tử nhất tâm khiêu khích ly gián để cho anh hùng thiên hạ tàn sát lẫn nhau, thành thế một mất một còn, nếu như ta nói ra, thì đâu có còn linh nữa?
    Tư Đồ Thiên Chung cười nói:
    - Hay thật, hay thật! Thế nhưng làm thế nào mà khích bác ly gián được, nói rõ cho nghe nào!
    Chu Điên lớn tiếng nói:
    - Thì ta trong trụng có độc kế âm mưu nhưng giả vờ nói: Đồ Long đao đang ở trong tay ta đây, người nào võ công cao cường nhất, ta sẽ giao đao Đồ Long cho...
    Tư Đồ Thiên Chung kêu lên:
    - Kế hay thật, mưu sâu quá! Thế rồi ra sao?
    Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, cùng nghĩ thầm: ?Con sâu rượu này với mình vô thân vô cố, nhưng giúp mình thật nhiều?.
    Chu Điên lớn tiếng nói:
    - Ngươi thử nghĩ xem vì thanh đao Đồ Long mà người đời gọi là ?võ lâm chí tôn? kia, có ai không trổ hết toàn lực để tranh đoạt? Thế là thằng điên bị thằng say giết, thằng say lại bị nhà sư giết, nhà sư bị đạo sĩ giết, đạo sĩ bị cô nương giết ... ôi thôi giết đến nỗi chết nằm ngổn ngang, máu chảy thành sông, ô hô ai tai, bất diệc lạc hồ!
    Quần hùng nghe nói thế, ai nấy trong bụng bủn rủn, nghĩ thầm gã này tuy điên điên khùng khùng, nhưng lời nói quả thực hữu lý. Lão nhị của phái Không Động Tông Duy Hiệp nói:
    - Vị Chu tiên sinh kia nói ra thật có lý. Chúng ta bụng dạ ngay thẳng không phải nói quanh co, mọi nhà mọi phái ai chẳng thèm thanh đao Đồ Long, thế nhưng vì thanh đao đó mà để đến thân bại danh liệt, thậm chí toàn phái tiêu ma, xem ra có điều quá đáng. Ta nghĩ tất cả phải tính sao cho phải, lấy võ kết bạn, hễ đến là ngừng, tuy phân thắng bại nhưng đừng để tổn thương hòa khí. Các vị nghĩ sao?
    Trong chuyến lên đánh Quang Minh Đính, Trương Vô Kỵ lấy đức báo oán, đã giúp y chữa nội thương súc tích bởi luyện Thất Thương Quyền mà ra, sau lại cứu y ra khỏi chùa Vạn An, thành ra kỳ này phái Không Động lên chùa Thiếu Lâm vốn đã có ý giúp đỡ Minh Giáo. Tư Đồ Thiên Chung cười nói:
    - Ta xem ngươi hình dáng cao to vậy mà lại sợ chết. Nếu không chảy máu, cũng chẳng chết người thế thì tỉ võ còn có gì đáng kể đâu.
    Lão tứ của phái Không Động Thường Kính Chi nổi cáu nói:
    - Muốn giết một con sâu rượu như ngươi cần gì phải chảy máu.
    Tư Đồ Thiên Chung nói:
    - Ta bất quá nói chơi cho vui, Thường tứ tiên sinh làm gì nóng nảy thế? Ai chẳng biết Thất Thương Quyền của phái Không Động giết người không thấy máu. Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm đã chẳng chết vì Thất Thương Quyền đấy ư? Tên tửu quỉ Tư Đồ này có được bao lăm mà dám sánh với Không Kiến thần tăng?
    Quần hùng ai nấy đều nghĩ: ?Con sâu rượu này mở mồm là châm chọc người khác, đã đắc tội với phái Không Động lại còn nói chạm đến cả phái Thiếu Lâm. Y lăn lộn trên giang hồ, vậy mà đến tuổi này còn chưa chết, kể cũng là chuyện lạ?.
    Tông Duy Hiệp không thèm để ý đến y, dõng dạc nói:
    - Cứ như ý tại hạ, mỗi một môn phái, mỗi một bang hội, giáo môn đều cử ra hai cao thủ, chia ra tỉ thí võ nghệ. Phái nào còn lại sau cùng võ công cao hơn cả thì Tạ đại hiệp và đao Đồ Long sẽ do phái đó xử trí.
    Quần hùng vỗ tay vang dậy, đều khen biện pháp đó hay hơn cả. Trương Vô Kỵ để ý các nhà sư Thiếu Lâm đứng sau lưng Không Trí, đa số đều nhíu mày, xem chừng không lấy gì làm vui, biết rằng Triệu Mẫn đã đoán trúng gian mưu của Viên Chân, phá cái kế khiêu khích quần hùng tự tàn sát lẫn nhau của y. Một gã trung niên mặt trắng có bộ râu thưa tay phe phẩy quạt xếp cán vàng, thần tình thật là tiêu sái, đứng lên nói:
    - Tại hạ biết rằng lời nghị luận của Tông nhị hiệp thật là xác đáng. Có điều chúng ta trong khi tỉ thí, vẫn biết rằng tới hơn thua là ngừng, thế nhưng binh khí quyền cước không có mắt, nếu như lỡ tay thì cũng đành coi là tại số trời. Những người đồng môn đồng phái, bạn bè không được đi ra khiêu chiến báo thù, nếu không sẽ cứ dây dưa mãi, thế sẽ không bao giờ dứt.
    Mọi người ai nấy đều nói:
    - Đúng lắm, phải thế mới được.
    Tư Đồ Thiên Chung lại cất tiếng eo éo nói:
    - Vị huynh đài kia bề ngoài thật là tốt mã, ăn nói lại rào trước đón sau, hẳn phải là Âu Dương huynh ở đất Tương Nam, phủ Hoành Dương đấy chăng?
    Người kia cầm quạt phe phẩy mấy cái, cười nói:
    - Không dám, chính mỗ đây, ngươi khen ta một câu lại mắng ta một câu, thế kể như hòa.
    Tư Đồ Thiên Chung nói:
    - Âu Dương huynh cũng như ta hai đứa lang thang như ma đói ma khát, chẳng thuộc môn phái bang hội nào. Ta thích rượu, ngươi hiếu sắc, chi bằng mình lập nên một ?Tửu Sắc Phái?, hai đại cao thủ của Tửu Sắc phái cùng sóng vai nhau, tranh với các cao thủ anh hùng thiên hạ được chăng?
    Mọi người ai nấy cười ha hả, thấy gã Tư Đồ Thiên Chung này liên tiếp chế riễu người này người khác, thật là vui tính, khiến cho trên quảng trường tiếng cười không dứt, bớt hẳn sự căng thẳng và gay gắt.
    Bành Oánh Ngọc nói với Trương Vô Kỵ, người mặt trắng này tên là Âu Dương Mục Chi, lấy cả thảy mười hai người cơ thiếp, võ công tuy cao cường nhưng rất ít xông pha giang hồ, cả ngày chỉ vui vầy loan phượng, hưởng cái thú ôn nhu.
    Âu Dương Mục Chi cười nói:
    - Nếu cùng ngươi liên thủ sáng lập môn phái, gia tài của ta e không đủ cho ngươi uống rượu. Các vị, nói đến tỉ võ so tài, chúng ta phải cử ra vài vị tiền bối tuổi cao đức trọng, ai nấy đều kính ngưỡng làm công chứng để khỏi ngươi nói ngươi thắng, ta bảo ta ăn, tranh chấp lẫn nhau.
    Tư Đồ Thiên Chung cười:
    - Được thua không lẽ chính mình lại còn không biết? Đâu có ai cãi chầy cãi cối như nhà ngươi bao giờ?
    Tông Duy Hiệp nói:
    - Nếu cử ra vài vị làm chứng cũng hay, phái Thiếu Lâm là chủ, Không Trí đại sư là một người.
    Tư Đồ Thiên Chung chỉ vào chiếc túi của Thuyết Bất Đắc:
    - Ta đề cử Sơn Đông đại hiệp Hạ Trụ Hạ lão anh hùng.
    Thuyết Bất Đắc nhắc chiếc túi lên ném về phía Tư Đồ Thiên Chung, cười nói:
    - Trả người làm chứng cho ngươi đây!
    Tư Đồ Thiên Chung vứt chiếc hồ lô rượu xuống, ôm lấy chiếc túi rồi cởi dây buộc ra, ngờ đâu Thuyết Bất Đắc thắt nút rất khó gỡ, dây thắt miệng túi là tơ pha với dây câu bện thành, Tư Đồ Thiên Chung dùng đủ mọi cách vẫn không thể nào cởi ra được. Thuyết Bất Đắc cười khà khà, tung mình nhảy tới, tay trái nắm lấy cái túi đưa ra sau lưng, tay phải chộp lấy, mười ngón tay vặn qua vặn lại mấy cái, nhắc trở về đằng trước, rồi quay qua quay lại trước sau vài lượt, nút thắt trên miệng túi liền bung ra. Y nghiêng túi qua một bên, Hạ Trụ liền rơi ra ngoài, Tư Đồ Thiên Chung lập tức giải huyệt cho y.
    Hạ Trụ nằm trong cái túi tối om ngộp thở một hồi lâu, đột nhiên ánh sáng chói lòa, trên sân hàng ngàn cặp mắt đang chăm chú nhìn mình, hổ thẹn quá đỗi, vùng lên rút đoản kiếm đeo bên mình, đâm luôn vào ngực. Tư Đồ Thiên Chung giơ tay đoạt lấy, cười nói:
    - Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, Hạ đại ca việc gì mà phải vụng tính thế?
    Từ trong rừng người, một gã lùn lùn mập mập lớn tiếng nói:
    - Vị đại hiệp nằm trong túi kia e rằng không đủ tư cách làm công chứng, ta đề nghị Tôn lão gia tử của Trường Bạch Sơn.
    Lại một người đàn bà trung niên nói:
    - Hai anh em Chiết Đông song nghĩa uy chấn Giang Nam, chính trực vô tư, làm công chứng nhân là đúng hơn cả.
    Quần hùng người này một câu, người kia một lời, chỉ trong chốc lát đã đề nghị đến hơn chục người, đều là những hào kiệt tương đối có tiếng tăm trên giang hồ.
    Đột nhiên một lão ni cô của phái Nga Mi lạnh lùng nói:
    - Suy cử công chứng nhân để làm gì? Có cũng bằng thừa thôi.
    Bà ta nói không lớn tiếng lắm nhưng rõ ràng từng chữ lọt vào tai mọi người, hiển nhiên nội lực tu tập cũng đã vào bậc khá. Tư Đồ Thiên Chung cười hỏi lại:
    - Thỉnh giáo sư thái, sao lại không cần người làm chứng là sao?
    Ni cô kia đáp:
    - Hai người đánh nhau, ai được thì sống, ai thua thì chết, có Diêm Vương làm chứng cho rồi.
    Mọi người nghe mấy câu lạnh lẽo ấy không khỏi rợn người. Tư Đồ Thiên Chung nói:
    - Chúng ta lấy võ để kết bạn, không có thâm cừu đại oán, việc gì ra tay phải nhất định sống chết mới thôi? Người xuất gia lấy từ bi làm đầu, lời của vị sư thái kia không sợ Phật tổ trách phạt hay sao?
    Người ni cô vẫn lạnh lùng tiếp:
    - Ngươi nói với người khác lăng nhăng láo lếu thì được, chứ trước mặt đệ tử phái Nga Mi thì phải cho có qui củ.
    Tư Đồ Thiên Chung cầm hồ rượu lên, rót đầy một chén cười nói:
    - Chặc chặc chặc, phái Nga Mi ghê gớm quá. Người đời vẫn bảo:
    Khôn ngoan chớ ghẹo đàn bà, Rượu vào tối kỵ ấy là ni cô.
    Y vừa nói vừa giơ chén rượu để lên môi. Đột nhiên có hai tiếng vụt vụt rít lên trong không, hai hạt niệm châu bắn tới, một viên trúng ngay chén rượu, một viên trúng hồ lô, tiếp theo một viên khác nữa trúng ngay ngực y. Chỉ nghe bùng bùng bùng ba viên niệm châu nổ tung, hồ lô chén rượu lập tức vỡ tan, còn ngực Tư Đồ Thiên Chung bị khoét thành một cái lỗ lớn. Y bị sức nổ bắn văng ra sau mấy trượng, thân hình quần áo lập tức bốc lửa. Hạ Trụ vội chạy lên dập tắt nhưng Tư Đồ Thiên Chung đã chết, trên mặt vẫn còn như mỉm cười. Ba viên đạn đó bắn tới thật là thần tốc, Tư Đồ Thiên Chung đến lúc bỏ mạng cũng đâu ngờ rằng đại họa lâm đầu.
    Biến cố đó xảy ra thật bất ngờ chẳng khác nào giữa trời nắng có tiếng sét, quần hùng không thiếu người kiến đa thức quảng nhưng chẳng một ai nhìn thấy loại ám khí ghê gớm ấy là cái gì. Chu Điên kêu lên:
    - Ối chao ôi là chao ôi! Ám khí gì thế nhỉ?
    Dương Tiêu nói nhỏ:
    - Nghe nói nước Đại Thực bên Tây Vực có người học được cách chế hỏa dược của Trung Quốc, làm ra một loại ám khí tên là Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn[4], bên trong chứa thuốc nổ, dùng lò so mạnh bắn ra. Chắc là lão ni cô này sử dụng thứ đó.
    Hạ Trụ ôm cái xác cháy đen của Tư Đồ Thiên Chung, dõng dạc nói:
    - Vị Tư đồ huynh đệ đây tuy miệng có hay xỏ xiên khắc bạc, chẳng qua chỉ vì trời sinh tính hoạt kê, chứ tâm địa thực là nhân hậu, cả đời chưa từng làm chuyện gì thương thiên hại lý. Hôm nay các vị anh hùng tụ tập nơi đây, liệu có ai kể ra được một hành vi ác độc nào của y chăng?
    Quần hùng ai nấy lặng thinh. Hạ Trụ chỉ vào ni cô, hậm hực nói:
    - Phái Nga Mi vẫn xưng là danh môn chính phái theo con đường hiệp nghĩa, sao lại sử dụng loại ám khí độc ác đến vậy? Trong võ lâm vẫn biết ai mạnh thì được, nhưng cũng không thể bỏ qua chữ ?lý?. Xin được hỏi vị sư thái kia xưng hô thế nào?
    Lão ni cô đáp:
    - Ta tên Tĩnh Già. Vị đại hiệp trong túi chui ra kia khoa chân múa tay để làm gì thế?
    Hạ Trụ buồn bã nói:
    - Họ Hạ này học nghệ chưa tinh nên để cho các ma đầu của Minh Giáo lăng nhục. Đó chẳng qua chỉ vì mình bản lĩnh chẳng bằng ai, nhưng cũng không làm tổn cái danh một đời hiệp nghĩa. Tĩnh Già sư thái, bà độc ác như thế, chẳng có lỗi với tổ sư quí phái Quách Tương Quách nữ hiệp hay sao?
    Quần đệ tử phái Nga Mi nghe thấy nói đến tên húy sáng phái tổ sư đều cùng đứng phắt dậy. Đôi lông mày dài của Tĩnh Già nhướng lên, quát lớn:
    - Danh húy tổ sư bản phái, đâu phải để cho ngươi bạ đâu nói đó được?
    Hạ Trụ đáp:
    - Đệ tử Nga Mi các ngươi hành sự bất nghĩa làm điếm nhục tên tuổi của tổ sư. Không nói gì Quách nữ hiệp, ngay cả Diệt Tuyệt sư thái lúc sinh tiền, dẫu có ra tay tàn ác nhưng cũng chưa dùng kiếm giết người vô tội. Những kẻ lạm sát như các ngươi mà người chưởng môn để yên không ước thúc, hừ hừ, phái Nga Mi liệu từ nay có còn chỗ đứng trên giang hồ nữa hay chăng?
    Tĩnh Già đáp:
    - Ngươi còn nói láo nửa câu nữa thì cũng sẽ không khác gì tên tửu quỉ kia đâu?
    Hạ Trụ nét mặt đằng đằng chính khí, oai vệ bước lên ba bước dõng dạc nói:
    - Người chưởng môn phái Nga Mi nếu không thanh lý môn hộ, anh hùng thiên hạ từ nay chẳng coi phái Nga Mi ra gì.
    Mấy nghìn con mắt của mọi người cùng đệ tử phái Nga Mi đều quay sang nhìn Chu Chỉ Nhược, chỉ thấy nàng nhìn Tĩnh Già chầm chậm gật đầu. Đùng đùng hai tiếng thật lớn, Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn trong tay Tĩnh Già bắn ra, trên ngực và dưới bụng Hạ Trụ liền thủng hai cái lỗ lớn, áo quần bén lửa ngay. Thế nhưng y cực kỳ bất khuất, tuy đã chết rồi mà vẫn đứng sừng sững, trong tay còn ôm cái xác của Tư Đồ Thiên Chung.
    Quần hùng ai nấy bàng hoàng, kinh hãi đến sững sờ. Một lúc sau, mấy trăm người mới nhao nhao la ó, cùng trách mắng phái Nga Mi không ra gì. Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc hai người nhìn nhau, cùng gật đầu, rồi chạy ra trước thi thể Hạ Trụ, quì xuống vái lạy. Thuyết Bất Đắc nói:
    - Hạ lão anh hùng, chúng tôi không biết ông anh hùng nhân nghĩa nên đã đắc tội, khiến anh em tôi thật là hổ thẹn.
    Hai người giơ tay lên, bốp bốp bốp bốp mấy tiếng liền, mỗi người tự vả cho mình mấy cái, hai bên má liền sưng tấy lên. Hai người dập tắt lửa trên hai cái xác, ôm về lều của Minh Giáo.
    Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược đột nhiên biến thành tàn nhẫn như thế, trong lòng không khỏi hoang mang.
    Trong tiếng hò la của mọi người, Chu Chỉ Nhược ghé tai nói nhỏ với Tống Thanh Thư mấy câu. Tống Thanh Thư gật đầu, chậm rãi bước ra giữa khu đất, dõng dạc nói:
    - Hôm nay quần hùng tụ tập nơi đây, chẳng phải là đến để ngâm thơ uống rượu, gẩy đàn dạo nhạc, bình luận văn chương câu đối. Nếu đã sử dụng binh khí quyền cước, không thể nào không có kẻ chết người bị thương. Vị Hạ lão anh hùng kia mới nói, Tư Đồ tiên sinh trước nay không làm điều gì xấu, oán trách Tĩnh Già sư thái của bản phái lạm sát người vô tội. Các vị anh hùng nghe thế đều nhao nhao phụ họa, dường như có chiều không bằng lòng. Vậy kẻ này thử hỏi một câu: chúng ta hôm nay tỉ võ tranh tài, liệu có cần phải tra xét trước xem kẻ đó hành vi phẩm đức ra sao không? Nếu là kẻ đại thánh đại hiền thì tuyệt nhiên không thể giết hại, còn kẻ cùng hung cực ác thì lúc ấy cứ thẳng tay chăng?
    Quần hùng ai nấy bị chặn họng, đều cảm thấy y nói không phải là không có lý. Tống Thanh Thư lại tiếp:
    - Nếu nói thanh đao Đồ Long kia phải là người có đức mới được giữ, chúng mình việc gì phải tỉ võ so tài làm gì nữa? Chi bằng tất cả cùng đi Sơn Đông, đến Khúc Phụ thăm văn miếu bậc Đại Thành Tiên Thánh Khổng Phu Tử, cung thỉnh con cháu bậc thánh nhân ra nhận cho xong. Còn như nói đến chữ ?võ? thì khi so tài chỉ nói đến chết sống thắng bại, chứ nói gì đến đối phương ?vô tội? hay ?hữu tội??
    Trong đám người lập tức có kẻ tiếp lời:
    - Đúng thế! Đao thương không có mắt, chúng ta đã nói trước là không được đi tìm nhau để trả thù.
    Du Liên Châu và Ân Lê Đình nghe giọng Tống Thanh Thư càng lúc càng giống, có điều y mặt đầy râu ria, lại mở miệng ra là ?bản phái, bản phái?, hiển nhiên là nam đệ tử của phái Nga Mi, trong bụng không khỏi thắc mắc. Du Liên Châu đứng lên hỏi:
    - Thỉnh giáo tôn tính đại danh các hạ là gì?
    Tống Thanh Thư thấy nhị sư thúc, xưa nay vốn sợ ông ta nên trong lòng không khỏi hoảng hốt, chết điếng một hồi mới ấp úng:
    - Kẻ hậu bối vô danh, chẳng dám phiền Du nhị hiệp hỏi đến.
    Du Liên Châu gay gắt nói:
    - Các hạ luôn luôn nói đến ?tỉ võ so tài?, hẳn là võ nghệ phải có tài ba hơn người. Sư phụ ta lúc trẻ đã chịu đại ân từ Quách nữ hiệp của quí phái cho nên nghiêm huấn rằng đệ tử Võ Đương không được động thủ với đệ tử phái Nga Mi. Tại hạ muốn hỏi cho rõ ràng, các hạ có thực là đệ tử phái Nga Mi chăng, họ gì tên gì? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, có điều gì mà phải dấu diếm?
    Chu Chỉ Nhược phẩy nhẹ chiếc phất trần nói:
    - Du nhị hiệp, bản tọa[5] cũng chẳng cần phải dấu ông làm gì. Người này là phu quân của bản tọa, họ Tống tên Thanh Thư, vốn gốc từ phái Võ Đương, nay đã chuyển sang gia nhập môn hạ phái Nga Mi. Du nhị hiệp muốn gì thì cứ việc nói chuyện với ta là xong.
    Nàng nói mấy câu đó giọng trong trẻo lạnh lùng, nghe như tiếng băng chạm nhau, gió thổi khánh ngọc, lại thêm dung mạo xinh đẹp, tay cầm phất trần phe phẩy như một nàng tiên, mấy nghìn hào kiệt trên quảng trường không ai nói một lời, lặng yên chú tâm lắng nghe.
    Tống Thanh Thư giơ tay xoa mặt một cái, bóc hết các chất hóa trang và râu ria đi, sửa lại áo quần, lập tức thành ra một thanh niên anh tuấn mặt như quan ngọc ngay. Quần hùng vừa nhìn thấy thế, ai nấy khen thầm: ?Quả là một đôi đẹp như thần tiên?.
    Du Liên Châu nghĩ đến tội y giết Mạc Thanh Cốc, lửa giận bốc lên bừng bừng, thế nhưng ông tính vốn thâm trầm, gần đây tuổi đã lớn, trình độ tu tập càng cao, tuy trong lòng cuồng nộ nhưng trên mặt vẫn bình thản đưa đôi mắt sáng như điện lướt qua mặt đứa phản đồ. Tống Thanh Thư trong lòng hổ thẹn, vội vàng cúi đầu nhìn xuống.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Ngoại tử thoát ly phái Võ Đương, gia nhập phái Nga Mi, hôm nay chính thức công bố trước mặt chư vị anh hùng. Du nhị hiệp, Trương chân nhân nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, không cho đệ tử đối địch với bản phái, đó là nghĩa khí của lão nhân gia, nhưng cũng là chỗ sáng suốt của người muốn bảo toàn uy danh cho phái Võ Đương đó.
    Ân Lê Đình nghe thế không còn nhịn nổi, nhảy vọt ra, chỉ mặt Chu Chỉ Nhược nói:
    - Chu cô nương, cô lúc nhỏ gặp nguy nan được sư phụ ta ra tay cứu giúp, tiến dẫn vào làm môn hạ phái Nga Mi. Dẫu rằng sư phụ ta làm ơn chẳng mong ai phải báo đáp, nhưng cô nương trong lời ăn tiếng nói hôm nay có ý ám chỉ phái Võ Đương chỉ có hư danh, kém xa các vị nữ hiệp phái Nga Mi, thế đó ...cô ... cô chẳng phải là bạc bẽo với sư phụ ta ư?
    Chu Chỉ Nhược cười nhạt, nói:
    - Võ Đương chư hiệp uy chấn giang hồ, người nào chả có chân tài thực học. Tống đại hiệp lại là bố chồng tôi, bản tọa lẽ nào lại dám bảo các vị chỉ có hư danh? Còn như Võ Đương, Nga Mi hai phái phái nào cũng có sở truyền, sở học, khó mà nói bên nào cao, bên nào thấp được. Năm xưa Quách tổ sư bản phái có ơn với Trương chân nhân, Trương chân nhân sau này lại có ơn với bản tọa, hai bên qua lại, chúng ta chẳng bên nào nợ bên nào một món ân tình. Du nhị hiệp, Ân lục hiệp, cái qui củ đệ tử Võ Đương không được động thủ với đệ tử Nga Mi, chúng ta từ nay bỏ đi là xong.
    Trong những căn lều nơi quảng trường, quần hùng nghe thấy thế đều xôn xao bàn tán, đều nói:
    - Vị chưởng môn trẻ tuổi này xem ra bạo mồm bạo miệng quá, nghe cô ta nói thì ý dường như cho rằng phái Nga Mi thể nào cũng hơn phái Võ Đương. Du nhị hiệp nội ngoại công đều đã đạt đến mức thượng thừa, trên đời hiện nay rất ít ai có thể là địch thủ của ông ta. Chẳng lẽ phái Nga Mi chỉ ỷ vào một món ám khí độc địa mà đã mong độc bá giang hồ hay sao?
    Ân Lê Đình tâm thần khích động, nghĩ đến cái chết thê thảm của thất sư đệ Mạc Thanh Cốc, nhịn không nổi nước mắt ứa ra, kêu lên:
    - Thanh Thư ... Thanh Thư! Ngươi ... ngươi sao lại giết chết ... thất thúc ...
    Hai tiếng ?thất thúc? vừa ra khỏi miệng đột nhiên ông khóc òa lên. Quần hùng ai nấy ngơ ngác, thấy thật lạ lùng: ?Ân lục hiệp của phái Võ Đương thanh danh lớn lao đến thế, sao lại khóc rống lên trước mặt mọi người là thế nào??. Du Liên Châu tiến lên nắm cánh tay sư đệ, lớn tiếng nói:
    - Tất cả anh hùng thiên hạ nghe đây, phái Võ Đương chẳng may có một đứa đệ tử phản nghịch Tống Thanh Thư. Thất sư đệ của tại hạ Mạc Thanh Cốc, đã bị tên nghịch đồ ...
    Đột nhiên có hai tiếng vút vút rít lên trong không khí, hai viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn nhắm ngay ngực Du Liên Châu bắn tới. Trương Vô Kỵ kêu lên ?Ối chà?, đang toan vọt lên cứu viện nhưng viên đạn đó bay nhanh quá, vừa bắn ra đã tới ngay, chàng vốn không nghĩ rằng phái Nga Mi lại dám tấn công trộm như thế, thân pháp tuy nhanh, nhưng cũng không kịp nữa rồi.
    Việc đó xảy ra ngoài dự liệu của Du Liên Châu, nếu như ông nghiêng mình tránh né, hai viên lôi hỏa đạn ắt trúng các đệ tử Cái Bang. Ông nghĩ hai viên đạn này dùng để đối phó với mình, cốt giết người bịt miệng, để ông khỏi công khai nói cho mọi người nghe cái tội giết chú phản cha của Tống Thanh Thư, nên không muốn hại người vô tội. Ý nghĩ vừa nảy ra thì hai viên đạn trước sau đã đến trước mặt, song chưởng của Du Liên Châu liền lật lên, sử dụng chiêu Vân Thủ trong thái cực quyền, hai bàn tay mềm mại đến cực điểm tưởng như không còn gì nữa nhẹ nhàng hóa giải kình lực của hai viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn. Chỉ thấy song chưởng của ông ngửa lên trời, giữ ngay trước ngực, hai viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn vẫn quay tít ở trong lòng bàn tay.
    Tất cả mọi người đứng vụt dậy, mấy nghìn đôi mắt đổ dồn vào hai tay ông ta, trái tim ai cũng như ngừng đập, chỉ sợ hai viên đạn này nổ tung lúc nào không biết.
    Nhu kình của thái cực quyền là công phu chí nhu trong võ học, đúng như là ?một chiếc lông cũng không thêm vào được, một con ruồi cũng không đậu lên được[6], tưởng như dính chặt[7] mà rỗng không, vừa cuộn vào lại duỗi ra ngay, hình mạo như người già mà thắng được người trẻ, đạt tới chỗ không ai hơn được mình?[8].
    Du Liên Châu những năm gần đây cần tu khổ luyện, đã thâm đắc chân truyền của Trương Tam Phong, vừa rồi thấy Tư Đồ Thiên Chung và Hạ Trụ chết vì lôi hỏa đạn, biết rằng loại ám khí này đụng vào đâu là nổ liền, thật là lợi hại, không còn cách nào khác hơn đành phải giở bình sinh tuyệt học ra đỡ, quả nhiên nhu có thể khắc cương, hai viên đạn bị nhu kình nơi lòng bàn tay ông ta giữ lại, chẳng khác gì bị rơi vào một khối dẻo, chỉ còn nước quay tít nhưng không nổ được.
    Lại nghe tách tách hai tiếng nữa, phái Nga Mi lại bắn ra thêm hai viên lôi hỏa đạn nữa. Ân Lê Đình đứng bên cạnh sư huynh, lập tức giơ song chưởng ra, đón lấy hai viên đạn, đợi đến khi lòng bàn tay sắp sửa bắt được ám khí mới sử dụng thức Lãm Tước Vĩ (nắm đuôi chim sẻ), ghì lấy hai viên đạn, sử dụng thế Kim Kê Độc Lập, chân trái dưới đất, chân phải co lên, toàn thân xoay tít chẳng khác gì một con quay.
    Ông tinh thông kiếm thuật, công phu thái cực quyền so với sư huynh thì không thâm hậu bằng, thấy Du Liên Châu đón hai viên lôi hỏa đạn rất tốn hơi sức, chưởng lực chỉ hơi lệch một tí là loại ám khí độc địa kia nổ tung ngay. Ông toàn thân quay tít, hai tay giữ hờ hai viên đạn, trong không trung xoay mấy vòng đã hóa giải được kình lực bắn tới. Du Liên Châu dùng chưởng tâm hóa giải kình, Ân Lê Đình ở trên không hóa giải kình, tuy về phương diện võ công thì kém một mức nhưng nhìn từ ngoài vào, thân pháp của ông trông đẹp mắt hơn. Ông xoay đến hơn ba mươi vòng thì chung quanh bốn phương tám hướng tiếng khen vang dậy, sức của lôi hỏa đạn cũng hết rồi.
    Ngờ đâu nghe tách tách mấy tiếng nữa, lại thêm tám viên lôi hỏa đạn bắn tới. Du Liên Châu và Ân Lê Đình cùng quát lên một tiếng, ném luôn mấy viên ám khí đang giữ trong tay ra. Đệ tử phái Võ Đương luyện một môn tuyệt kỹ gọi là tiếp khí đả khí, đón lấy ám khí của địch thủ rồi ném trả lại, có thể dùng một đỡ hai hay dùng hai chống ba. Hai người ném trả lại bốn viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn, viên nọ đụng viên kia, trúng cả tám viên ám khí của địch bắn tới. Trên khu đất tiếng bùng bùng điếc cả tai, khói đen mù mịt, ai nấy mũi ngửi thấy mùi diêm sinh thuốc pháo.
    Du Ân hai người ném lôi hỏa đạn ra rồi, lập tức tung mình nhảy vọt về sau, lùi xa hơn mươi trượng đề phòng phái Nga Mi bắn liên châu tiếp theo khiến hai người khó có thể chống đỡ.
    Quần hùng thấy lôi hỏa đạn lợi hại như thế đều thất sắc, nghĩ thầm trên đời ngoài hai cao thủ phái Võ Đương ra, ít người có thể đón được, tuy người có khinh công thật giỏi có thể né tránh nhưng nếu người ném ra dùng thủ pháp ?Mãn Thiên Hoa Vũ?, dùng viên nọ bắn vào viên kia cho phát nổ thì dù thân pháp có nhanh đến thế nào cũng không sao tránh được.
    Trong căn lều của phái Hoa Sơn một người cao to đứng lên, dõng dạc nói:
    - Phái Nga Mi muốn tỉ võ với người khác lại lấy cái trò ỷ nhiều thắng ít hay sao?
    Người này chính là một trong hai ông già của phái Hoa Sơn năm xưa trên đỉnh Quang Minh đã liên thủ với vợ chồng Hà Thái Xung để đấu với Trương Vô Kỵ.
    Tĩnh Già của phái Nga Mi liền nói:
    - Đạo võ công thiên biến vạn hóa, ai mạnh thì thắng ai yếu thì thua. Chúng ta có phải bọn hủ nho đâu mà việc gì cũng phải giở qui củ đạo lý ra, trên đời này làm gì có lắm lề luật đến thế?
    Mọi người thấy phái Nga Mi tuy phần lớn là đàn bà, nhưng bất chấp lý lẽ so ra còn ngang ngược hơn cả đàn ông. Ông già cao của phái Hoa Sơn cãi nhau với họ nhưng không dám đến gần, chỉ đứng trong lều của mình, ở xa xa nói chõ ra, sợ họ sử dụng môn ám khí độc địa Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn bắn tới.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Chỉ Nhược lấy Tống sư ca không phải thực tâm muốn thế, nhớ đến hôm nào mình cùng nàng lưu lạc nơi biển khơi, sống chung trên hoang đảo thân ái biết là chừng nào? Hai người đã thề non hẹn biển, không bao giờ phụ phàng nhau, lời còn văng vẳng bên tai, lẽ nào lại một buổi mà dứt tuyệt? Chẳng qua cũng vì mình đối với nàng chẳng ra gì. Ai đời ngay giữa ngày hai bên làm lễ tơ hồng, nhà đầy tân khách, nắm tay Mẫn muội bỏ đi. Chỉ Nhược là chưởng môn của một phái, cái thân thiên kim, ta lại làm nhục coi thường nàng đến thế, làm gì nàng chẳng oán hận? Hôm nay phái Nga Mi làm điều ngang ngược trái lẽ, cũng là từ chính ta mà ra?.
    Chàng trong lòng càng lúc càng thấy bất an nên từ trong lều đi ra, đến trước phái Nga Mi nói với Chu Chỉ Nhược:
    - Chỉ Nhược, mọi việc đều do tôi đối với em không ra gì. Còn việc Tống sư ca giết chết Mạc sư thúc thể nào cũng phải giải quyết cho xong. Tôi mong Tống sư ca hãy theo Du nhị bá, Ân lục thúc quay về núi Võ Đương chịu tội với Tống sư bá là hơn cả.
    Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:
    - Trương giáo chủ, trước đây ta vẫn tưởng giáo chủ là người đàng hoàng, chỉ vì hành sự hồ đồ mà thôi, không ngờ lại là kẻ tiểu nhân hèn hạ. Đại trượng phu đã làm thì phải chịu, giáo chủ giết hại Mạc thất hiệp, tại sao lại đổ tội lên đầu ngoại tử là sao?
    Trương Vô Kỵ choáng váng nói:
    - Em ... em bảo tôi giết Mạc thất thúc ư? ... Làm gì ... làm gì có chuyện ấy được?
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Việc giết Mạc thất hiệp tất cả đều do phủ Nhữ Dương Vương của triều đình sắp đặt, sao giáo chủ không gọi cô ta ra cùng tất cả anh hùng thiên hạ đối chất?
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Mẫn muội đắc tội với sáu đại môn phái, trên khu đất này kẻ thù e rằng so với nghĩa phụ ta còn đông hơn, làm sao có thể để nàng xuất hiện được? Chỉ Nhược bắt được cái thóp đó, nên giở giọng vu hãm ta và Mẫn muội. Ôi, trăm điều nghìn chuyện cũng chỉ vì hôm làm lễ cưới ta bỏ nàng mà đi?.
    Chàng bậm môi nghiến răng, quay mình trở về. Bỗng nghe từ phái Nga Mi có tiếng người nói lớn:
    - Có ngờ đâu Trương giáo chủ của Minh Giáo lại hèn hạ nhút nhát đến thế, thấy Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn lợi hại liền cụp đuôi bỏ chạy ngay.
    Trương Vô Kỵ dừng bước nhưng không quay đầu lại, nghĩ thầm: ?Ta cũng chẳng cần xem ai là người nói câu đó, phái Nga Mi dẫu có làm nhục ta cách nào, cũng chẳng qua để trả đũa đấy thôi?.
    Chỉ nghe đằng sau tiếng cười càng lúc càng vang lên, Trương Vô Kỵ làm như không nghe thấy, lầm lũi đi về lều của mình.
    Dương Tiêu cười khẩy nói:
    - Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn chẳng qua chỉ là trò lặt vặt, có đáng gì? Nhị hiệp phái Võ Đương đã không coi vào đâu thì làm được gì với người đích truyền của môn phái là Trương giáo chủ? Phái Nga Mi các người có thứ khí giới đó đã hùm hùm hổ hổ, vậy cho các ngươi xem khí giới của Minh Giáo chúng ta.
    Y giơ tay phất một cái, một tiểu đồng mặc áo trắng hai tay bưng lên một cái giá gỗ, trên đó cắm đến trên một chục lá cờ nhỏ đủ màu. Dương Tiêu rút một lá cờ trắng, vung tay một cái, lá cờ đã bay ra giữa quảng trường, cắm ngay xuống đất.
    Quần hùng thấy lá cờ đó cả cán cũng chỉ dài chưa đầy hai thước, trên thêu một ngọn lửa dấu hiệu của Minh Giáo, không biết y định làm gì. Ngay lúc đó, đằng sau Dương Tiêu một người ném lên trên trời một mũi tên lửa, mũi tên lên đến lưng chừng nổ tung ra thành một đám khói trắng.
    Chỉ thấy tiếng chân rầm rập, một đội giáo chúng Minh Giáo, đầu chít khăn trắng, chạy vào trong sân, tất cả năm trăm người, người nào cũng tay cầm cung tên lắp sẵn, nghe tiếng vút vút, năm trăm mũi tên bắn vào thành một vòng tròn bao quanh lá cờ trắng, chính là đội Nhuệ Kim Kỳ do Ngô Kình Thảo chỉ huy.
    Mọi người chưa kịp reo hò, giáo chúng Nhuệ Kim Kỳ đã rút phắt tiêu thương đeo sau lưng, tiến lên chừng mươi bước, vung tay ném vào, năm trăm chiếc lao cắm thành một vòng bên trong các mũi tên. Những người đó lại tiến lên mươi bước nữa, rút đoản phủ đeo ở hông, chỉ thấy ánh chớp lấp loáng, năm trăm chiếc búa ngắn phóng vụt ra, cắm xuống đất, xếp thành một vòng nữa.
    Đoản phủ, tiêu thương, trường tiễn làm thành ba vòng tròn, không hỗn loạn chút nào. Dẫu cho người võ công cao siêu đến đâu mà bị một ngàn năm trăm món binh khí này giáp công thỉ chỉ chớp mắt cũng thành một đống thịt nát.
    Thì ra năm xưa Nhuệ Kim Kỳ ác chiến với phái Nga Mi ở Tây Vực tổn thất rất nặng, chính chưởng kỳ sứ Trang Tranh cũng chết vì Ỷ Thiên kiếm của Diệt Tuyệt sư thái. Về sau họ từ cái kinh nghiệm đau đớn ấy nghĩ ra một trận thế cực kỳ kiên cố. Mấy năm nay thế của Minh Giáo càng ngày càng thịnh, Ngũ Hành Kỳ vì thế càng ngày càng đông, riêng Nhuệ Kim Kỳ có đến trên hai vạn người. Năm trăm người vừa phóng lao, ném búa, bắn tên kia là những người tinh nhuệ nhất tuyển trong hai vạn người đó, võ công vốn đã có căn bản, lại được huấn luyện kỹ càng trong hơn một năm qua, thành một đội ra trận chiến đấu chung cũng được mà hoạt động một mình cũng được.
    Quần hùng nhìn nhau thất sắc, ai nấy nghĩ thầm: ?Lá cờ trắng của Dương tả sứ Minh Giáo ném vào đâu thì một ngàn năm trăm móm binh khí cũng đi theo tới đó. Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn của phái Nga Mi tuy có ghê gớm thật nhưng giết người cũng có hạn, bắn ra mười viên, dẫu viên nào cũng trúng thì cũng chỉ giết được mười người, làm sao sánh được với Nhuệ Kim Kỳ của Minh Giáo??.
    Có người lại nghĩ thêm: ?Nếu như Minh Giáo đột nhiên trở mặt, gom tất cả chúng ta lại tiêu diệt thì làm sao đây? Hôm nay những người phó hội tuy võ công đều cao cường, nhưng cũng chỉ là một bọn ô hợp, không làm sao đối phó được với các đội quân tinh nhuệ của Minh Giáo huấn luyện đã lâu, chỉ huy nói đâu làm đó?. Quần hùng trong bụng nơm nớp không yên, thành thử không ai lên tiếng hoan hô tài nghệ tinh diệu của Nhuệ Kim Kỳ.
    Dương Tiêu lại cầm một lá cờ trắng lên vẫy vẫy về phía sau mấy cái. Năm trăm giáo chúng Nhuệ Kim Kỳ liền nhổ các vũ tiễn, thương, phủ lên, chạy đến trước lều của Minh Giáo, khom lưng chào Trương Vô Kỵ, rồi quay ra đi khỏi quảng trường.
    Dương Tiêu lại ném một lá cờ xanh ra, cắm xuống bên cạnh lá cờ trắng. Lần này chung quanh quảng trường tiếng chân nặng nề, năm trăm giáo chúng Cự Mộc Kỳ đầu chít khăn xanh, mười người khiêng một cây gỗ lớn, nhanh nhẹn chạy lên. Mỗi khúc gỗ nặng phải đến trên một nghìn cân, trên có gắn móc sắt, để cho từng người cầm vào, bước chân đi thật đều. Đột nhiên tất cả quát lên một tiếng, năm mươi khúc gỗ cùng tung ra một lượt, có cây cao, có cây thấp, có cây bên trái, có cây bên phải, nhưng khúc nào ném ra thì cũng đụng vào một khúc khác từ phía bên kia ném qua, cả năm chục khúc gỗ không khúc nào rơi vào khoảng không cả.
    Chỉ nghe tiếng bình bình bình bình ỳ ầm không dứt, năm mươi khúc gỗ chia thành hai mươi nhăm đôi, đụng lẫn nhau. Mỗi khúc gỗ nặng đến trên một nghìn cân, đụng lẫn nhau rồi thế thật kinh người, ai đứng gần bên lá cờ xanh, dẫu có nhảy lên hụp xuống, né trái tránh phải cũng không thể nào thoát khỏi những khúc gỗ đó. Trận pháp này của Cự Mộc Kỳ là từ cách công thành biến ra, muốn phá thành phải dùng cự mộc lao vào cửa thành, dẫu cửa thành có kiên cố đến đâu cũng phải vỡ. Cái thân máu thịt của con người bị những cây gỗ đó đánh trúng lẽ nào chẳng nát bấy như tương?
    Các giáo chúng Cự Mộc Kỳ đợi cho những khúc gỗ ấy rơi xuống đất rồi mới tiến lên cầm những móc sắt, quay mình chạy ra ngoài cách chừng mươi trượng đứng chờ, chỉ đợi lá cờ xanh ném tới đâu là lại tung những khúc gỗ tới đó. Dương Tiêu vẫy lá cờ xanh ra lệnh cho Cự Mộc Kỳ lùi về, tay phải vung một cái, ném một lá cờ đỏ vào quảng trường.
    Những giáo chúng chít khăn xanh vừa chạy ra, lập tức có năm trăm người chít khăn đỏ trong Liệt Hỏa Kỳ chạy vào. Những người đó cầm ống thụt, phun ra đầy dầu sánh đặc, đen ngòm trên mặt đất. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ vung tay ném một viên lưu hoàng hỏa đạn, dầu lập tức bén lửa cháy bùng lên. Những vùng chung quanh tổng đàn của Minh Giáo ở đỉnh Quang Minh có rất nhiều dầu thô, từ trong khe đá ngày đêm rỉ ra, gặp lửa liền cháy. Những người trong Liệt Hỏa Kỳ lưng đều đeo thùng sắt trong chứa đầy dầu, nếu phun trúng ai cháy lên khó ai mà chống lại được.
    Liệt Hỏa Kỳ lui ra khỏi khu đất rồi, lá cờ đen của Dương Tiêu ném tới, năm trăm giáo chúng đầu chít khăn đen của Hồng Thủy Kỳ chạy vào quảng trường. Đội Hồng Thủy Kỳ mang theo gồm có hai mươi bộ vòi rồng có cả ống xịt, thùng chứa nước còn mười người đi trước đẩy mười cái xe. Chưởng kỳ sứ Đường Dương ra lệnh một tiếng, những chiếc xe liền mở cửa, hai chục con chó sói đói vọt ra, nhe răng múa vuốt, gầm gừ giữa bãi đất dường như muốn xông lên cắn người. Quần hùng lạ lùng, không hiểu những con ?ác lang? này có dính dấp gì đến hai chữ Hồng Thủy? Lại nghe Đường Dương quát lên:
    - Phun nước!
    Một trăm giáo chúng tay cầm vòi phun bằng sứ phun ra, một trăm luồng nước bắn vào những con chó sói. Mọi người ngửi thấy một mùi khét lẹt, những con dã thú bị trúng nước lập tức ngã lăn ra, rú lên những tiếng thảm thiết, chỉ khoảnh khắc nứt da nát thịt nhũn ra thành một bãi bầy nhầy. Thì ra nước của Hồng Thủy Kỳ là loại thuốc làm cho rã thịt cực mạnh, gồm có lưu hoàng, tiêu thạch các loại chế thành.
    Quần hùng thấy cảnh kinh tâm động phách đó ai nấy đều nổi gai ốc, nghĩ thầm: ?Độc thủy này nếu không bắn vào bầy chó sói mà lại bắn vào người mình thì sẽ ra sao đây??. Các giáo chúng của Hồng Thủy Kỳ nhắc hai chục chiếc vòi rồng lên giả vờ làm như nhắm vào bầy chó sói, hiển nhiên cho mọi người biết trong những chiếc vòi rồng này cũng chứa đầy nước độc, bắn ra không những mạnh hơn, lại cũng xa hơn. Dương Tiêu vẫy lá cờ đen thu binh lại, các giáo chúng Hồng Thủy Kỳ liền thu dọn ra khỏi quảng trường. Trong khi những chiếc vòi rồng xoay trở đi ra, vòi hướng về phương nào, hào kiệt phía ấy không khỏi mặt mày biến sắc.
    Lại thấy Dương Tiêu ném ra một lá cờ nhỏ màu vàng, một đoàn giáo chúng đầu chít khăn vàng chạy vào. Mỗi người tay cầm xẻng sắt, đẩy theo một xe chứa đầy vôi bột trộn cát, nhân số so với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn kỳ kia ít hơn nhiều, chỉ độ một trăm người. Một trăm người đó vây lại thành một vòng tròn giơ xẻng lên đập mạnh xuống đất, đột nhiên nghe ùm một tiếng lớn, cát bụi bay mù mịt, trung tâm quảng trường sụp xuống, để lộ ra một cái hố to chừng ba bốn trượng. Tiếp theo bốn bề chiếc hố lục tục những giáo chúng đầu đội nón sắt, tay cầm xẻng nhảy ra. Bốn trăm người đó từ dưới đất chui lên khiến ai nấy đều kêu lên kinh hoảng.
    Thì ra bốn trăm người đó đã từ xa đào một đường hầm tiến vào, đến trung tâm quảng trường thì đào thành một cái hố lớn, lấy gỗ chống lên, ẩn mình dưới đó. Khi chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên ra lệnh, bốn trăm người đó liền rút các cây chống, đất liền sụp xuống thành một cái hố ngay, các giáo chúng ẩn bên dưới lập tức chui lên. Bao nhiêu xác chó sói, dầu thô, đất cháy xém đều tụt cả vào trong hố. Một trăm giáo chúng lập tức giơ xẻng lên đánh nhứ vào cái hố ba lần. Nếu như có ai rơi vào trong đó muốn nhảy ra chạy thoát, ắt sẽ bị một trăm cái mai đó đánh xuống. Tiếp theo từng xe vôi bột, cát đá đổ vào trong hố, chỉ trong chốc lát đã san bằng mặt đất. Năm trăm chiếc xẻng lên lên xuống xuống trông thật đẹp mắt. Chưởng kỳ sứ lại ra lệnh, năm trăm giáo chúng cùng quay sang Trương Vô Kỵ hành lễ, chỗ giữa quảng trường đổ vôi cát sắt bây giờ phẳng lỳ như gương, so với lúc trước còn rắn chắc hơn nhiều. Mọi người ai nấy đều rõ: ?Nếu như chúng ta đứng ở giữa sân mở lời làm nhục Minh Giáo, lúc này hẳn đã bị chôn sống rồi?.
    Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo đại hiển thần uy thao diễn, người chung quanh đứng xem ai nấy đều kinh hoàng thất sắc, biết rằng mấy năm nay Minh Giáo tại các nơi Hoài Tứ Dự Ngạc nổi lên, công thành chiếm đất liên tiếp đánh bại quân Nguyên, nay đem binh pháp chiến trận dùng ở nơi quần hào tụ hội, nhân số đã đông, ước thúc chặt chẽ, tập luyện lớp lang đâu ra đấy, các môn phái giang hồ không thể nào bì được.
    Dương Tiêu thu binh rồi, đưa trả lại chiếc giá gỗ cắm các lá cờ cho đồng tử đứng sau lưng, lạnh lùng nhìn Chu Chỉ Nhược, chẳng nói một lời nhưng câu hỏi đã mười phần rõ ràng: ?Chỉ với hơn trăm nam nữ đệ tử của phái Nga Mi, liệu có địch lại mấy nghìn giáo chúng của ta chăng??.
    Trên bãi đất dường như ai cũng đoán được tâm sự của người khác, nhất thời không một tiếng động. Một lúc sau, một nhà sư già đứng sau lưng Không Trí mới đứng dậy nói:
    - Mới rồi Minh Giáo thao diễn trận pháp hành quân giao chiến trông thì đẹp mắt thật đấy, nhưng không biết có dùng được vào việc gì, thắng được địch hay không, chúng ta không phải tướng quân, nguyên soái từng học qua Tôn Ngô binh pháp, e rằng cũng khó mà nói ...
    Mọi người ai nấy đều biết ông ta nói mấy câu đó chẳng qua chỉ để bài bây, cốt để làm giảm uy phong của Minh Giáo, một câu gạt đi công trình của Ngũ Hành Kỳ.
    Chu Điên kêu lên:
    - Muốn biết có dùng được việc gì hay không thì thật dễ quá, chỉ cần các hòa thượng phái Thiếu Lâm đứng ra thử một chuyến là thấy ngay.
    Lão tăng kia cứ lờ đi tiếp tục nói:
    - Chúng ta hôm nay là ngày hội của anh hùng thiên hạ, các môn phái đều chỉ mong có dịp thi thố tài năng võ học, vậy cứ theo lời mấy vị thí chủ trước đây đã nêu ra, mọi người tỉ thí xem ai tài nghệ cao thì người ấy thắng. Chúng ta cứ theo cách một chọi một, chứ còn lấy đông thắng ít thì võ lâm không có qui củ nào như thế cả.
    Âu Dương Mục Chi nói:
    - Ỷ đa vi thắng, quả đúng là trong võ lâm không có qui củ nào như thế, thế còn Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn, nước độc, lửa độc có được dùng chăng?
    Vị lão tăng kia hơi trầm ngâm rồi nói:
    - Người hạ trường tỉ thí nếu có ám khí thì dùng được. Vị bằng hữu nào trên ám khí lại tẩm thêm độc dược, độc thủy thì cũng không thể làm cách nào cấm đoán. Thế nhưng nếu ai đứng bên đánh lén làm hỏng qui củ của đại hội, tất cả chúng ta sẽ cùng xông lên thanh toán ngay. Các vị ý kiến thế nào?
    Trong đám đông có đến quá nửa hoan hô khen phải, đều bằng lòng cứ như thế mà theo. Đường Văn Lượng của phái Không Động nói:
    - Tại hạ có thêm một lời, bất luận ai đã thắng liên tiếp hai trận đều được lui về nghỉ ngơi để có thể khôi phục nguyên khí nội lực. Nếu không trở thành xa luân chiến, dẫu có tài thông thiên triệt địa, không ai có thể chỉ một hơi đánh thắng từ đầu chí cuối. Hơn nữa, trong các môn phái bang hội, nếu đã có hai người thua trận rồi thì không được cử thêm ai ra nữa. Nếu không trong chúng ta có đến mấy nghìn người, người nào cũng ra đấu một chuyến thì có đến ba tháng cũng không xong. Chùa Thiếu Lâm tuy lương thảo nhiều thật nhưng chắc cũng hết sạch, một trăm năm cũng chưa hồi phục.
    Mọi người trong tiếng cười vang đều nhận thấy qui củ này thật là hữu lý. Quần hào Minh Giáo biết rằng Đường Văn Lượng cảm cái ơn Trương Vô Kỵ tiếp xương cho y ở trên Quang Minh Đính, lại cứu mạng nơi chùa Vạn An, trong bụng mong chàng đắc thắng, độc quán quần hùng cho nên mới đưa ra cái qui củ này, nhằm để cho chàng tiết kiệm được khí lực. Bành Oánh Ngọc cười nói:
    - Đường lão tam quả là biết đại thể, xem ra phái Không Động hôm nay đã quyết ý giúp chúng ta rồi đó. Bên chúng ta ngoài giáo chủ ra sẽ có vị nào xuất trận?
    Các cao thủ Minh Giáo tuy ai cũng nhấp nhổm muốn ra tay tỉ thí, nhưng đều biết rằng việc ngày hôm nay cực kỳ trọng đại, ắt phải hết tâm hết sức, trước phải đánh thắng được quá nửa anh hùng để cho giáo chủ càng ít địch thủ càng tốt, có thế Trương Vô Kỵ mới giữ được nội lực để đi đến thành công. Còn nếu như chỉ thắng được vài người rồi bị người ta đánh bại, để lại gánh nặng cho mình giáo chủ đảm đương, uy danh mình có mất cũng là chuyện nhỏ, làm liên lụy tới bản giáo, Tạ Tốn, và giáo chủ ấy mới là chuyện lớn. Hơn nữa nếu như tự mình nhảy ra xin ứng chiến, có khác nào nói rằng ngoài giáo chủ ra thì mình võ công cao hơn cả, không khỏi thương tổn nghĩa khí anh em thành thử ai cũng lặng yên không người nào lên tiếng.
    Chu Điên nói:
    - Giáo chủ, Chu Điên tôi chẳng phải sợ chết, có điều võ công thật chẳng tới mức thượng thừa, có ra cũng chỉ thêm xấu mà thôi.
    Trương Vô Kỵ nhìn từng người, nghĩ thầm: ? Dương tả sứ, Phạm hữu sứ, Vi Bức Vương, Bố Đại sư phụ, Thiết Quan đạo trưởng ai ai cũng thân mang tuyệt nghệ đều có thể ra được cả. Trong số này thì Phạm hữu sứ võ công hiểu biết rộng rãi hơn hết, dù đối thủ có gia số thế nào, y đều có cách để thủ thắng, vậy mình mời Phạm Dao ra là hơn cả?. Nghĩ thế chàng bèn nói:
    - Thật ra các anh em ai ra thì cũng thế thôi, thế nhưng Dương tả sứ đã cùng tôi đánh phá Kim Cương Phục Ma Khuyên rồi, Vi Bức Vương và Bố Đại đại sư bắt sống Hạ Trụ, đều đã trổ tài cả. Lần này bản tọa xin mời Phạm hữu sứ ra tay.
    Phạm Dao mừng lắm, khom mình nói:
    - Tuân mệnh! Đa tạ giáo chủ đã coi trọng.
    Quần hào Minh Giáo ai nấy biết rằng Phạm Dao võ công cao cường, không ai nói ra nói vào gì. Triệu Mẫn bỗng nói:
    - Phạm đại sư, tôi cầu ông một việc, liệu có bằng lòng không?
    Phạm Dao nói:
    - Quận chúa có sai bảo gì, ắt sẽ tuân theo.
    Triệu Mẫn đáp:
    - Chuyện rắc rối giữa ông với Không Trí đại sư của phái Thiếu Lâm chưa giải quyết xong, nếu như ông đấu với y trước, thắng bại ra sao cũng chưa ai đoán trước được, thế nhưng dù có thắng được ông ta thì cũng hết hơi hết sức rồi.
    Phạm Dao gật đầu, biết rằng Không Trí thần tăng thành danh đã mấy chục năm, mặt mày nhăn nhăn nhó nhó, tướng như chết yểu thực ra nội ngoại công đã đến mức thượng thừa. Triệu Mẫn nói tiếp:
    - Chi bằng ông lên ước định với ông ta, nói rõ ngày sau sẽ lên Đại Đô tới chùa Vạn An hai người một chọi một, quyết định hơn thua.
    Dương Tiêu và Phạm Dao cùng kêu lên:
    - Diệu kế! Diệu kế!
    Họ đều biết rằng nếu Không Trí đã đính ước với Phạm Dao rồi, hôm nay sẽ không thể nào động thủ được, kế đó của Triệu Mẫn khiến Minh Giáo có thể loại trừ được một cường địch.
    Lúc này trong các lều chung quanh, các anh hùng các môn phái, bang hội đang chụm đầu bàn tính, cử người trong bản phái ra chiến đấu. Có mấy chỗ nghe tiếng người cãi vã, đủ rõ ý kiến không phải ai cũng giống ai.
    Phạm Dao đi đến trước lều chủ của phái Thiếu Lâm, ôm quyền nói với Không Trí:
    - Không Trí đại sư, ông có gan lên lại chùa Vạn An ở Đại Đô một lần nữa chăng?
    Không Trí nghe nói đến chùa Vạn An, là nơi trong đời ông ta hết sức nhục nhã, những nếp nhăn trên mặt dúm lại, đôi mắt nhỏ bé chiếu ra lấp lánh, nói:
    - Để làm gì?
    Phạm Dao đáp:
    - Tôi và ông hai người gây thù chuốc oán nơi chùa Vạn An, thì cũng sẽ ở chùa Vạn An kết thúc. Ông Không Trí đại sư đức cao vọng trọng, còn tại hạ chẳng qua chỉ có hư danh, hôm nay mình đấu với nhau, nếu như ông thắng được tôi, trên giang hồ sẽ bảo rồng thiêng ăn hiếp con rắn đất, đại sư vì ở đất nhà mà lợi thế. Nếu như tại hạ may mắn hơn được nửa chiêu một thức, bọn vô tri lại thêm mắm thêm muối, bảo là khổ đầu đà lên Thiếu Lâm đánh bại đệ nhất cao thủ của nhà chùa. Nếu đại sư không ngại tức cảnh sinh tình, năm nay rằm tháng tám, tết Trung Thu, tại hạ sẽ đến chùa Vạn An thỉnh giáo vài chiêu tuyệt học.
    Không Trí đối với võ công của Phạm Dao vốn cũng có mấy phần e dè, huống chi trong chùa đang có đại biến, thực chẳng bụng dạ nào cùng y động thủ, lại thêm bị khích như thế, lập tức gật đầu nói:
    - Được, tháng tám Trung Thu năm nay, mình sẽ gặp nhau ở chùa Vạn An, không gặp thì không về.
    Phạm Dao lại vòng tay thi lễ rồi lùi về. Y đi được bảy tám bước, bỗng nghe Không Trí từ tốn nói:
    - Phạm thí chủ, hôm nay ngươi nhất định cứu cho bằng được Kim Mao Sư Vương nên không muốn động thủ với ta, có phải vậy chăng?
    Phạm Dao giật mình, đứng lại nghĩ thầm: ?Thì ra lão hòa thượng này nhìn thấu tim đen ta?. Y quay đầu lại cười hô hố, nói:
    - Tại hạ không chắc có thể thắng được đại sư.
    Không Trí mỉm cười nói:
    - Lão nạp cũng không chắc thắng được thí chủ.
    Hai người nhìn nhau gật đầu, đột nhiên trong lòng nảy ra một mối cảm tình anh hùng trọng anh hùng, hảo hán nể hảo hán.
   

- o O o -

    [1] Nguyên văn Kim Dung dùng chữ ?yêm? là đại danh từ ngôi thứ nhất, tiếng địa phương vùng Sơn Đông để tự xưng cũng tương tự như tiếng ?qua? của miền Nam hay ?tui? của miền Trung. Các độc giả có ý kiến gì xin cho biết?
    [2] Bản mới Cái Bang không giao chiến với Minh Giáo trong trận cuối cùng. Kim Dung tiên sinh quên không sửa đoạn này???
    [3] Tự mình thiện lấy mình [4] đạn nổ như sấm sét [5] tiếng tự xưng [6] nhất vũ bất năng gia, dăng trùng bất năng lạc [7] nguyên là chữ niêm (adherence) không phải hiểu theo nghĩa đen mà là ta thuận chiều, người nghịch chiều (ngã thuận nhân bối vị chi niêm) ? When I follow the opponent, and he becomes backed up, it is called ?nien?
    [8] do niêm nhi hư, tùy khúc tựu thân, mạo điệt ngự chúng chi hình, anh hùng sở hướng vô địch.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:02:22 | Chỉ xem của tác giả
QUÂN TỬ KHẢ KHI CHI DĨ PHƯƠNG

    Dao đồ tể bỏ xuống, Vạn ác đều tiêu tan.
    Bờ mê và bến giác, Cách nhau chỉ một gang.

    Trên quảng trường tiếng người im lặng dần, lão tăng trong Đạt Ma Đường đứng sau lưng Không Trí lại dõng dạc nói:
    - Chúng ta cứ theo đúng qui củ các vị anh hùng đã định ra, bắt đầu tỉ võ. Đao thương quyền cước không có mắt, nếu có chết ai cũng là do số trời. Môn phái bang hội nào võ công cao cường nhất còn lại sau cùng thì đao Đồ Long và Tạ Tốn sẽ thuộc về người đó.
    Trương Vô Kỵ lông mày hơi nhíu lại, nghĩ thầm: ?Lão hòa thượng này sợ người ta ra tay không đủ mạnh, oán cừu các phái kết không sâu, bụng dạ đâu có từ bi như Không Kiến, Không Văn các vị thần tăng??.
    Vì đã qui định mỗi người đấu xong hai trận thì được nghỉ ngơi nên đánh trước đánh sau không mấy khác biệt, lập tức có người đứng ra giữ trận, lại có người tiến lên khiêu chiến, chỉ một thoáng đã có sáu người chia thành ba cặp đấu với nhau. Triệu Mẫn từ khi ở chùa Vạn An tập luyện tuyệt nghệ của sáu đại môn phái đến nay, tuy chưa đến đâu nhưng kiến thực quả rộng rãi hơn người, đứng giữa Trương Vô Kỵ và Phạm Dao, nghị luận nho nhỏ về võ công của sáu người này, đoán ai thắng ai bại, nói năng rất mạch lạc đầu đuôi. Chỉ chừng thời gian uống một chén trà, trong ba đôi đã có hai đôi phân thắng bại, chỉ còn một cặp vẫn dây dưa, rồi lại có người khiêu chiến với những kẻ thắng, trở thành sáu người ba đôi nữa đấu tiếp. Hai đôi mới đấu dùng binh khí, kẻ lên người xuống, mười phần thì đến tám chín có máu chảy mới phân được thua.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Nếu cứ đấu như thế này, các bang hội môn phái thể nào cũng tổn thương hòa khí rất nặng, dẫu không ai bỏ mạng nhưng phái nào thua rồi cũng sẽ tìm cách báo thù hóa ra thành một tai họa tự tàn sát lẫn nhau thật ghê gớm??.
    Trên đấu trường, Chấp Pháp trưởng lão của Cái Bang đánh ông già lùn của phái Hoa Sơn một chưởng hộc máu tươi, ông già cao liền ngoạc mồm chửi:
    - Đồ ăn mày thối tha, đồ ăn mày bẩn thỉu!
    Y tung mình nhảy ra toan khiêu chiến với Chấp Pháp trưởng lão của Cái Bang. Ông già lùn nắm tay sư đệ kéo lại nói nhỏ:
    - Sư đệ, ngươi đánh không lại y đâu, chi bằng mình cố nhịn một phen.
    Ông già cao bực bội nói:
    - Đánh không lại cũng cứ đánh.
    Tuy miệng nói thế, kỳ thực y biết rằng sư huynh võ nghệ chiêu số cũng như mình nhưng tu tập cao siêu hơn nhiều, sư huynh đã bại trận, thì y không thể nào thắng được, bị ông già lùn giữ lại bèn luôn mồm chửi bới quay trở về lều.
    Kế đó Chấp Pháp trưởng lão lại thắng luôn chưởng môn phái Mai Hoa Đao, thắng luôn hai trận, trong tiếng hoan hô như sấm động của đệ tử Cái Bang, đắc ý dương dương quay về chỗ.
    Cứ như thế ta đi ngươi tới, trên quảng trường đấu luôn hai giờ, mặt trời đã ngả về tây, người xuất chiến càng lúc võ công càng thêm mạnh. Bao nhiêu người vốn hùng tâm bừng bừng, nhất định phen này tại anh hùng đại hội nở mày nở mặt, tỏ lộ uy phong thế nhưng thấy võ công của người khác mới biết mình đúng là ếch ngồi đáy giếng, có lên Thái Sơn mới biết trời cao đất rộng, thành ra không dám xuất trường nữa.
    Đến khoảng giờ thân, Chưởng Bát long đầu của Cái Bang ra khiêu chiến, đánh cho Bành Tứ Nương của Bài Giáo ở Tương Tây một trận tơi bời. Lưng Bành Tứ Nương bị rách một mảng lớn, xấu hổ quá vội đi xuống. Chưởng Bát long đầu nhìn phái Nga Mi, cười khẩy nói:
    - Đàn bà con gái có gì là chân thực bản lãnh đâu? Chẳng ỷ vào đao kiếm sắc bén, thì cũng nhờ ám khí quái lạ, vị Bành Tứ Nương này luyện đến mức đó kể cũng không phải dễ.
    Chu Chỉ Nhược nói nhỏ với Tống Thanh Thư mấy câu, Tống Thanh Thư gật đầu, chậm rãi bước ra, chắp tay chào Chưởng Bát long đầu nói:
    - Long đầu đại ca, để tôi lãnh giáo cao chiêu của đại ca.
    Chưởng Bát long đầu vừa thấy Tống Thanh Thư, đã giận đến xanh cả mặt, lớn tiếng nói:
    - Họ Tống kia, ngươi là đưa gian tặc nhận lệnh của Trần Hữu Lượng trà trộn vào trong Cái Bang. Việc giết chết Sử bang chủ, ngươi chắc cũng có dự phần, hôm nay ngươi còn dám vác mặt ra gặp ta ư?
    Tống Thanh Thư lạnh lùng đáp:
    - Trên giang hồ việc trà trộn vào hang ổ địch thám thính cơ mật cũng là chuyện thường, ai bảo bọn ăn mày chúng bay có mắt như mù, không biết rõ bản lai diện mục của Tống đại gia?
    Chưởng Bát long đầu chửi toáng lên:
    - Đến như phái Võ Đương là bố đẻ ra ngươi, ngươi còn phản bội thì có việc gì ngươi không làm? Ngươi với cha thì bất hiếu, tương lai với vợ rồi cũng bất nghĩa. Phái Nga Mi thể nào rồi cũng tan tành vì ngươi thôi.
    Tống Thanh Thư tức đến mặt đanh lại không còn chút máu nói:
    - Ngươi giở rắm giở thối ra đã xong chưa nào?
    Chưởng Bát long đầu không thèm nói nữa, vù một tiếng đánh ngay ra một chưởng. Tống Thanh Thư lùi lại tránh được, giơ tay phất một cái dùng Kim Đính Miên Chưởng của phái Nga Mi chống đỡ. Chưởng Bát long đầu giận y trà trộn vào Cái Bang nên chiêu nào cũng dùng sát thủ, đánh thí mạng ác độc dị thường không phải chỉ là tỉ võ so tài như những người khác.
    Chưởng Bát long đầu trong Cái Bang địa vị chỉ dưới bang chủ và hai Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão tài nghệ quả thực không phải bình thường. Tống Thanh Thư tuy là một nhân vật lỗi lạc trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Võ Đương nhưng vì mới tập luyện Kim Đính Miên Chưởng nên chưa thuần thục thành thử những chỗ tinh vi ảo diệu trong pho chưởng pháp này không thi thố được. Đấu đến bốn năm chục hiệp tới lúc gặp hiểm nguy y đành sử dụng Miên Chưởng của phái Võ Đương ra sách giải. Đó là võ công y học từ khi còn nhỏ đã từng luyện tập hơn hai chục năm, đầu nghĩ sao tay làm vậy cho nên uy lực rất lớn, tuy bề ngoài trông cũng hao hao như Kim Đính Miên Chưởng của phái Nga Mi nhưng phép vận kình sách chiêu hoàn toàn khác hẳn.
    Người đứng xem không ai rõ chỗ đó lại tưởng y dần dần lấy lại uy thế nhưng Ân Lê Đình càng coi càng giận, kêu lên:
    - Thằng nhãi Tống Thanh Thư kia, ngươi quả thật mặt dầy. Đã phản bội phái Võ Đương sao lại còn dùng công phu của Võ Đương để cứu mạng? Ngươi không cần cha ngươi nữa sao vẫn còn dùng công phu võ học cha ngươi truyền cho ngươi?
    Tống Thanh Thư mặt đỏ bừng quát lên:
    - Công phu của Võ Đương có gì ghê gớm đâu? Coi cho kỹ này!
    Tay trái y đột nhiên chộp vào mặt Chưởng Bát long đầu, xoay qua trái rồi đảo ngược qua phải, biến hóa liên tiếp bảy tám chiêu hoa dạng, bất thần tay phải vươn ra, nghe bộp một tiếng, năm ngón tay cắm luôn vào sọ Chưởng Bát long đầu. Người bên ngoài còn đang ngạc nhiên, thấy năm ngón tay y máu me đầm đìa, còn Chưởng Bát long đầu ngã lăn ra, chết ngay lập tức. Tống Thanh Thư cười nhạt nói:
    - Phái Võ Đương có công phu đó chăng?
    Trong khi mọi người còn la ó kinh hãi, tám người trong Cái Bang đã nhảy ra, hai người đỡ thi thể Chưởng Bát long đầu, còn sáu người kia xông vào tấn công Tống Thanh Thư. Sáu người đó đều là hảo thủ của Cái Bang, trong đó bốn người tay cầm binh khí, khiến cho Tống Thanh Thư lâm vào thế cực kỳ nguy cấp.
    Một hòa thượng to béo đứng sau lưng Không Trí đại sư liền quát lên:
    - Các vị trong Cái Bang đông người đánh một, chẳng làm hỏng qui củ anh hùng đại hội hôm nay hay sao?
    Chấp Pháp trưởng lão liền kêu lên:
    - Các ngươi lui xuống, để bản tọa báo thù cho Chưởng Bát long đầu.
    Các đệ tử Cái Bang liền nhảy lùi về phía sau, khiêng xác Chưởng Bát long đầu về lều của mình, ai nấy phẫn nộ, hầm hầm nhìn Tống Thanh Thư. Quần hùng ai nấy nghĩ thầm: ?Tuy nói rằng hai bên tỉ thí chết ai nấy chịu nhưng tên họ Tống này ra tay quả là tàn độc quá?.
    Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm lỗ hổng trên vai Triệu Mẫn cùng cái chết thảm khốc của vợ chồng Đỗ Bách Đương đêm hôm nọ nơi căn nhà tranh, run run hỏi:
    - Dương tả sứ, sao phái Nga Mi lại có môn võ công tà độc như thế nhỉ?
    Dương Tiêu lắc đầu nói:
    - Thuộc hạ chưa thấy loại công phu này bao giờ. Thế nhưng sáng phái tổ sư của phái Nga Mi có ngoại hiệu Tiểu Đông Tà, võ công nếu như có ba phần tà khí cũng không lấy gì làm lạ.
    Hai người còn đang nói chuyện thì Tống Thanh Thư và Chấp Pháp trưởng lão đã xông vào đánh nhau. Chấp Pháp trưởng lão thân hình bé nhỏ nhưng hành động cực kỳ nhanh nhẹn, mười ngón tay như móc như chùy, dùng Ưng Trảo Công đối phó với Tống Thanh Thư, xem ra sử dụng chỉ công cốt để chộp năm ngón tay vào thiên linh cái Tống Thanh Thư báo thù cho Chưởng Bát long đầu. Ban đầu Tống Thanh Thư cũng sử dụng Kim Đính Miên Chưởng để đấu với ông ta, đến lúc kịch liệt, Chấp Pháp trưởng lão quát lên một tiếng:
    - Tiểu cẩu tặc!
    Năm ngón tay trái chộp vào đầu Tống Thanh Thư, đang toan sử kình ấn vào thì Tống Thanh Thư đã vươn tay trái ra, nghe cách một tiếng, năm ngón tay y đã cấu vào yết hầu Chấp Pháp trưởng lão.
    Chấp Pháp trưởng lão ngã nhào về trước, kình lực tay trái chưa giảm, cắm sâu vào mặt đất, máu me vung vãi đầy mặt đất lập tức chết liền. Chu Chỉ Nhược giơ tay ra hiệu, tám nữ đệ tử phái Nga Mi cầm trường kiếm nhảy ra, từng đôi dựa lưng vào nhau đứng chắn bốn góc, vây Tống Thanh Thư vào giữa, Cái Bang đệ tử nếu như xông lên tấn công thì sẽ thành thế hỗn chiến ngay.
    Một lão tăng thuộc Đạt Ma Đường liền sang sảng nói:
    - Ba mươi sáu đệ tử của La Hán Đường đợi lệnh.
    Ông ta vỗ tay ba cái, ba mươi sáu nhà sư Thiếu Lâm mặc áo vàng liền nhảy ra, mười tám người cầm thiền trượng, mười tám người cầm giới đao, kẻ trước người sau, chia ra khắp nơi, trông tưởng như trận pháp mà lại không phải trận pháp, trấn giữ các nơi hiểm yếu.
    Nhà sư đó lại tiếp:
    - Tuân theo pháp chỉ của Không Trí sư thúc, ba mươi sáu đệ tử La Hán Đường giám quản qui củ anh hùng đại hội. Hôm nay đại hội thi tài tỉ võ, nếu có ai ỷ đông hiếp ít thì là kẻ địch chung của thiên hạ võ lâm. Phái Thiếu Lâm chúng tôi là vai chủ, bắt buộc phải duy trì công đạo. Ba mươi sáu đệ tử sẽ giám sát chặt chẽ, bất luận ai phạm phải qui củ đều sẽ giết ngay tại chỗ, quyết không dung tình.
    Ba mươi sáu đệ tử Thiếu Lâm lớn tiếng đáp ứng, mắt đăm đăm nhìn vào giữa quảng trường. Kể từ lúc đó, phái Nga Mi đã phòng bị trước lại thêm phái Thiếu Lâm giám thị ở bên cạnh, các đệ tử Cái Bang tuy ai nấy đều vừa buồn vừa giận nhưng không còn dám xông lên động thủ, chỉ còn nước hung hăng chửi bới, rồi lên khiêng thi thể Chấp Pháp trưởng lão về.
    Triệu Mẫn quay sang nói với Phạm Dao:
    - Khổ đại sư, không ngờ phái Nga Mi lại có tuyệt chiêu như vậy, hôm trước ở chùa Vạn An, Diệt Tuyệt sư thái thà chết không chịu ra khỏi tháp tỉ võ có lẽ là vì thế đó.
    Phạm Dao lắc đầu, trong lòng cố suy nghĩ làm sao sách giải được chiêu này. Y thẫn thờ một hồi, đột nhiên quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
    - Giáo chủ, thuộc hạ thỉnh giáo một lộ võ công.
    Y để hai tay lên bàn, ngón tay trỏ và ngón tay cái bên trái, một trước một sau, cực kỳ linh hoạt lên lên xuống xuống, nói nhỏ:
    - Hai tay tôi liên tiếp tấn công giữ riệt lấy tay tiểu tử đó, vận nội lực chấn gãy khớp xương tay, chỉ lực của y tuy lợi hại thật nhưng không thể thi triển kỹ thuật đó được nữa.
    Trương Vô Kỵ cũng đưa hai ngón tay trỏ, bên trái móc lại, bên phải nâng lên, nói:
    - Cẩn thận đừng để y dùng chỉ đâm vào cánh tay.
    Phạm Dao gật đầu đồng ý nói:
    - Thuộc hạ sẽ dùng cầm nã thủ bắt lấy cổ tay y, dùng mười tám thế Uyên Ương liên hoàn đá vào hạ bàn.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tấn công mạnh mười tám chiêu liền khiến y không kịp thở.
    Hai người bốn ngón tay lên xuống, nhanh nhẹn tuyệt luân kẻ đánh người đỡ. Phạm Dao đột nhiên mỉm cười:
    - Mấy chiêu đó của giáo chủ quá ư thần diệu, tiểu tử đó trừ chỉ lực ra, võ công dẫu sao cũng chỉ có hạn, mấy chiêu đó khiến y không cách nào thi triển được.
    Trương Vô Kỵ mỉm cười:
    - Y không thi triển được ba chiêu đó thì Phạm hữu sứ dĩ nhiên thắng rồi.
    Ngón tay trỏ bên trái của chàng liền đảo một vòng, ngón tay trỏ bên phải đột nhiên đâm luôn vào giữa móc lấy ngón tay Phạm Dao, mỉm cười yên lặng. Phạm Dao ngạc nhiên, chợt vui mừng:
    - Đa tạ giáo chủ chỉ điểm, thuộc hạ thật là bội phục. Bốn chiêu đó thật ngoài sức tưởng tượng, mở mắt cho thuộc hạ, tiếc thay tôi không được bái giáo chủ làm thầy.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đây là Loạn Hoàn Quyết trong thái cực quyền pháp do thái sư phụ tôi truyền cho, yếu chỉ nằm ở tay trái đảo mấy vòng. Gã họ Tống kia tuy xuất thân từ Võ Đương nhưng chắc y chưa hiểu được chỗ tinh vi đó đâu.
    Phạm Dao đã sẵn có chủ định biết đường chế ngự được Tống Thanh Thư, tuy nhiên Tống Thanh Thư mới thắng luôn hai trận, theo qui củ có thể lui xuống nghỉ ngơi, phải đợi y xuất trường lần tới mới tiến lên khiêu chiến được.
    Triệu Mẫn mỉm cười, vẻ thật nhí nhảnh đi qua phía bên kia. Trương Vô Kỵ chạy theo hạ giọng hỏi:
    - Mẫn muội có chuyện gì mà vui thế?
    Đôi má trắng như ngọc của Triệu Mẫn ửng hồng, cúi đầu nói:
    - Chàng truyền cho Phạm hữu sứ mấy chiêu võ công, chỉ giúp chấn gãy cánh tay Tống Thanh Thư, sao chàng không dạy giết y luôn thể?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tống Thanh Thư tuy làm nhiều chuyện bất nghĩa nhưng dẫu sao cũng là đứa con duy nhất của Tống đại sư bá, nên để chính đại sư bá phân xử thì hơn. Nếu anh bảo Phạm hữu sứ lấy mạng y e rằng không phải với đại sư bá.
    Triệu Mẫn cười nói:
    - Chàng giết y, Chu gia tỉ tỉ sẽ thành quả phụ, gá lại duyên xưa chẳng hay hơn ư?
    Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Thế em có để cho anh lấy không?
    Triệu Mẫn mỉm cười nói:
    - Thiếp chỉ mong có bấy nhiêu để đến khi chàng thay lòng đổi dạ, cô nàng sẽ khoét năm cái lỗ trên ngực kẻ bạc tình.
    Trong khi Trương Vô Kỵ trao đổi chiêu thức với Phạm Dao thì Tống Thanh Thư đã được tám nữ đệ tử phái Nga Mi hộ vệ quay trở về lều. Mọi người thấy y dùng năm ngón tay giết hai người thật là kinh tâm động phách, ai nấy nổi da gà, không người nào nghĩ đến chuyện đứng ra mạo hiểm. Một lúc sau, Tống Thanh Thư lại nhẹ nhàng tiến ra giữa sân, ôm quyền nói:
    - Tại hạ nghỉ ngơi đã xong, không biết có vị anh hùng nào lên dạy bảo chăng?
    Phạm Dao đáp lời:
    - Để ta lên lãnh giáo tuyệt học của phái Nga Mi.
    Y vừa toan nhảy ra, đột nhiên có một bóng màu tro thấp thoáng, một người đã đứng ngay trước mặt Tống Thanh Thư, quay sang nói với Phạm Dao:
    - Phạm đại sư, xin ông nhường tôi một chuyến.
    Người đó khí độ ngưng trọng, hai chân không phải chữ đinh cũng không phải chữ bát, tay ôm theo hình thái cực chính là Võ Đương nhị hiệp Du Liên Châu.
    Phạm Dao thấy người hớt tay trên mình lại chính là sư bá của giáo chủ nên không tiện tranh giành chỉ nói:
    - Phạm mỗ hôm nay may mắn được xem thần kỹ của Du nhị hiệp phái Võ Đương.
    Tống Thanh Thư từ bé vẫn sợ vị sư thúc này thấy ông ta nín hơi vận khí, nghiêm trang thủ thế biết việc hôm nay chẳng phải là chuyện tập luyện giao đấu như hồi còn trên núi Võ Đương mà là chuyện một sống một chết, tuy y đã học được một loại võ công lạ lùng nhưng vẫn không khỏi khiếp đảm.
    Du Liên Châu vòng tay nói:
    - Mời Tống thiếu hiệp.
    Ông hành lễ mà miệng xưng hô như thế rõ ràng cho đối phương biết ông không dám coi thường Tống Thanh Thư nhưng cũng không còn chút tình hương lửa gì nữa. Tống Thanh Thư không nói một lời, khom lưng chào. Vù một cái Du Liên Châu đã đánh ra một chưởng.
    Du Liên Châu thành danh đã trên ba mươi năm thế nhưng chính mắt thấy ông ta hiển lộ thân thủ thì trong võ lâm chẳng có mấy người, mãi đến hôm nay mới thấy ông dùng nhu kình trên hai bàn tay hóa giải thế mãnh liệt Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn, công lực tinh thuần như vậy ai nấy đều tự biết mình không sao bằng được. Trên giang hồ ai cũng biết yếu chỉ võ công của phái Võ Đương là dùng nhu khắc cương, chiêu số tuy chậm rãi nhưng biến hóa thật tinh vi ngờ đâu Du Liên Châu hai chưởng đánh như gió cuốn thực là nhanh nhẹn, chỉ trong nháy mắt Tống Thanh Thư đã bị trúng một đá một chưởng tại hông và đùi.
    Tống Thanh Thư hết sức kinh hãi: ?Thái sư phụ và gia gia đều muốn ta lên làm chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Đương, không có võ công gì mà lại giữ kín không truyền thụ. Pho quyền cước nhanh như thế này của Du nhị thúc, chiêu thức ta đều đã học cả rồi nhưng xuất chiêu sao lại nhanh đến thế, chẳng phải là đại kỵ của bản môn hay sao? Đây ngờ lại ghê gớm đến như thế?. Y muốn dùng công phu chỉ lực Chu Chỉ Nhược dạy cho nhưng bị Du Liên Châu ép cho đến không kịp thở thành thử chỉ liên tiếp lùi bước, hết sức bảo vệ môn hộ.
    Mọi người chăm chú nhìn hai người đấu với nhau, tuy thấy Du Liên Châu chiếm được thượng phong nhưng khi nãy Tống Thanh Thư giết chết Cái Bang nhị lão, cũng đều là phản bại vi thắng, đang yếu thế đột nhiên tung sát thủ, việc đó không phải là không có thể xảy ra lần nữa. Du Liên Châu càng đánh càng nhanh nhưng mỗi chiêu mỗi thức đều thật rõ ràng, chẳng khác gì một ca sĩ đại tài, hát đến chỗ thật nhanh nhưng mỗi tiếng mỗi nốt đều vẫn đâu ra đấy, không một chút mơ hồ lẫn lộn.
    Quần hùng lục tục đứng lên, những người đứng sau trèo cả lên bàn lên ghế, ai nấy tấm tắc:
    - Võ Đương Du nhị hiệp danh bất hư truyền, tấn công nhanh đến không kịp thở mà chiêu thức không trùng nhau lần nào.
    Thế nhưng Tống Thanh Thư là đệ tử đích truyền của phái Võ Đương, bao nhiêu tinh vi biến hóa trong quyền cước của Du Liên Châu y đã từng học qua, thế nhưng đánh nhanh như thế thì bây giờ mới gặp lần đầu. Trên quảng trường bụi vàng bay tung, thành một đám mây mù, bao phủ cả Du Tống hai người.
    Bông nghe một tiếng bộp thật kêu, hai chưởng đụng nhau, cả Du Liên Châu lẫn Tống Thanh Thư đều bật ngược về sau, đám bụi cũng chia thành hai. Du Liên Châu chân chưa vững đã lại tung mình nhảy tới.
    Ân Lê Đình lo lắng cho an nguy của sư huynh, nhích dần đến bên đấu trường, tay cầm cán kiếm, mắt chăm chăm nhìn vào hai người đánh nhau. Lúc này Tống Thanh Thư sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc nên hết sức chống đỡ, không còn nghĩ gì tới chuyện hai môn phái khác biệt, sử dụng toàn là công phu Võ Đương luyện từ tấm bé. Hai người quyền cước chiêu thức, Ân Lê Đình đều thuộc nằm lòng, biết là chiêu nào cũng đều là sát thủ trí mạng, trong bụng so với người ngoài còn bồn chồn hơn nhiều. Thế nhưng thấy Du Liên Châu mỗi lúc một thắng thế, nếu không vì phải đề phòng Tống Thanh Thư đột nhiên giở đòn sát thủ đưa năm ngón tay chộp thành năm cái lỗ nên phải hết sức dè dặt thì đã lấy mạng y rồi.
    Trương Vô Kỵ cũng lo lắng, trong tay cầm sẵn hai thanh thánh hỏa lệnh, nếu Du Liên Châu bị nguy hiểm đến tính mạng thì chàng sẽ không còn kể gì đến qui củ đại hội đành phải ném ra cứu sư bá.
    Chỉ thấy bụi bay mù mỗi lúc một cao, Tống Thanh Thư đột nhiên năm ngón tay trái tung ra, chộp vào đầu vai phải của Du Liên Châu. Du Liên Châu trong hơn một trăm chiêu vừa qua vẫn đợi y thi triển ngón này, khi Tống Thanh Thư ra tay giết hại hai trưởng lão Cái Bang, ông đã nhìn rõ, nếu như không vì thấy trước lần đầu tiên gặp y dùng sát thủ thì dẫu không chết cũng bị thương nặng. Thế nhưng ông sớm biết trước nên trong bụng đã có phương pháp ứng phó rồi.
    Tống Thanh Thư luyện môn trảo pháp này chưa bao lâu, biến hóa không được nhiều, lúc này lại giở ra, so với hai lần trước cũng chỉ đại đồng tiểu dị. Du Liên Châu vai phải nghiêng qua, tay trái vung lên xoay một vòng.
    Triệu Mẫn và Phạm Dao hai người nhịn không nổi cùng kinh ngạc kêu lên ?Ồ? một tiếng, hai vòng Du Liên Châu vừa hoa lên chính là chiêu Loạn Hoàn Quyết trong thái cực quyền mà Vô Kỵ vừa chỉ điểm cho Phạm Dao. Triệu Mẫn và Phạm Dao vừa thấy thế biết ngay Tống Thanh Thư đã lọt vào bẫy rồi, quả nhiên tiếng ?Ồ? chưa dứt, năm ngón tay bàn tay phải của Tống Thanh Thư đã đâm vào yết hầu Du Liên Châu. Trương Vô Kỵ giận quá, chửi thầm: ?Đáng chết lắm, đáng chết lắm!?. Chấp Pháp trưởng lão của Cái Bang chết vì trảo này của y, Tống Thanh Thư cũng giở độc thủ ra để đối phó với sư thúc.
    Thế nhưng hai cánh tay của Du Liên Châu vẫn một xoay thành vòng tròn, một kéo lại, sử dụng Toàn Phiên, Loa Toàn[1] hai kình lực trong Lục Hợp Kình, cuốn chặt lấy hai cánh tay Tống Thanh Thư, cách cách hai tiếng, khớp xương tay của y đã bị bẻ gãy từng tấc rồi. Du Liên Châu quát lên:
    - Hôm nay ta báo thù cho thất đệ.
    Hai cánh tay ông chập vào, dùng chiêu Song Phong Quán Nhĩ, bàn tay sử dụng miên kình vỗ vào hai bên mang tai Tống Thanh Thư, đầu y vỡ ngay lập tức.
    Thân hình y chưa kịp ngã xuống, Du Liên Châu đang toan đá thêm một cước lấy mạng y ngay tại trận, bỗng một bóng xanh thấp thoáng, một sợi trường tiên[2] đánh luôn vào mặt. Du Liên Châu vội vàng nhảy vọt về sau tránh được, sợi dây đó nhanh nhẹn tuyệt luân liên tiếp ra chiêu, chính là chưởng môn phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược đứng ra báo thù cho chồng.
    Du Liên Châu vội vàng lùi lại ba bước, tiên pháp của Chu Chỉ Nhược vô cùng biến ảo chỉ ba chiêu đã vây ông ta vào giữa, đột nhiên rung một cái, thu roi lại, tay trái chộp lấy ngọn tiên, lạnh lùng nói:
    - Lúc này ta lấy mạng ông e rằng không phục. Mau lấy binh khí ra!
    Soạt một tiếng Ân Lê Đình đã rút kiếm ra, xông lên nói:
    - Để ta lên tiếp cao chiêu của Chu cô nương.
    Chu Chỉ Nhược lạnh lùng lườm ông ta, quay sang coi thương thế Tống Thanh Thư, thấy y hai mắt đã lồi ra, thất khiếu[3] ứa máu, nằm rũ dưới đất, xem chừng khó sống được. Ba nam đệ tử phái Nga Mi liền tiến lên khiêng y về.
    Chu Chỉ Nhược quay lại chỉ vào Du Liên Châu nói:
    - Ta giết ông trước rồi giết họ Ân kia cũng không muộn.
    Du Liên Châu vừa rồi trổ hết toàn lực vậy mà không làm sao thoát ra được vòng vây của nhuyễn tiên, trong lòng thật là hoảng sợ. Ông lo cho sư đệ, nghĩ thầm: ?Để ta đấu với cô ta một phen, dẫu có chết vì cây roi này thì lục đệ cũng nhìn ra được mối manh của tiên pháp. Khi đó còn may ra trong cái chết tìm ra đường sống?. Ông vói ta lại nhận lấy thanh kiếm trong tay Ân Lê Đình. Ân Lê Đình cũng thấy cục thế thật là nguy hiểm, đến như sư huynh võ công đứng hàng thứ nhì trong phái Võ Đương cũng còn thấy khó tránh được ngọn roi của nàng ta. Hai sư huynh đệ cùng một ý nghĩ, dẫu cho thân mình chết dưới tay địch cũng chỉ mong người kia nhìn ra được yếu chỉ của phép đánh roi, thành thử trù trừ không muốn giao kiếm lại, nói:
    - Sư ca, để tiểu đệ hạ trường cho.
    Du Liên Châu quay nhìn sư đệ, mấy chục năm qua cùng nhau học nghệ, tình thân khác gì tay chân, trong đầu nảy ra một ý nghĩ nhanh như ánh chớp, nhớ tới Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn tự sát, Mạc Thanh Cốc thảm tử, Võ Đương thất hiệp nay còn có bốn, hôm nay xem ra hai trong bốn người sẽ bỏ mạng nơi đây. Ân lục đệ võ công cao siêu thật nhưng tính tình lại thật yếu mềm, nếu như mình chết trước, tâm thần y sẽ đại loạn, chưa chắc đã trổ được tài có bỏ mạng cũng không ích lợi gì. Còn nếu như lục đệ chết trước, ta nhìn ra được chỗ tinh nghĩa trong tiên pháp của cô gái này, may ra còn có thể cùng nàng ta đồng qui ư tận?. Nghĩ thế ông gật đầu:
    - Lục đệ, cố giữ thêm được lúc nào hay lúc ấy.
    Ân Lê Đình nghĩ đến vợ là Dương Bất Hối đang mang thai, đưa mắt nhìn Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ nhưng lại gạt ngay đi: ?Ta chết đi rồi, Bất Hối và con ta sẽ có người lo lắng, việc vì phải dặn dò tỉ tê như đàn bà thế làm gì?. Nghĩ vậy ông giơ kiếm lên, mắt nhìn vào mũi kiếm, tâm thần tập trung, tiếp đến ngực thu vào, lưng nhô ra, vai chìm xuống, khuỷu tay lơi[4], nói:
    - Xin chưởng môn nhân ra chiêu.
    Tuy tuổi tác Ân Lê Đình lớn hơn Chu Chỉ Nhược nhiều nhưng lúc này nàng là chưởng môn phái Nga Mi nên ông không để mất lễ số. Du Liên Châu thấy sư đệ dùng thức mở đầu trong thái cực kiếm để nghinh địch biết Ân Lê Đình dùng tuyệt học của sư môn để chống với cường địch, nên chậm rãi lui về phía sau.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Xem chiêu đây.
    Ân Lê Đình biết đối phương ra chiêu nhanh như chớp, nếu bị nàng chiếm được tiên cơ sẽ khó mà lật ngược thế cờ, cho nên chân trái tiến lên, kiếm đưa sang bên trái, dùng chiêu Tam Hoàn Sáo Nguyệt, chiêu đầu hư hư thực thực, dùng tay trái cầm kiếm tấn công địch, mũi kiếm lấp lánh, phát xuất tiếng gió vù vù. Người đứng ngoài nhịn không nổi cất tiếng hoan hô vang đội.
    Chu Chỉ Nhược nghiêng người tránh qua một bên, Ân Lê Đình liền dùng thế Đại Khôi Tinh và Yến Tử Sao Thủy, trường kiếm ở trên không vung lên thành một vòng tròn, tay phải đâm kiếm quyết ra, cũng phát ra tiếng vụt vụt. Chu Chỉ Nhược uốn chiếc eo thon, tránh được cả hai thế nói:
    - Ân lục hiệp, ta nhường ông ba chiêu để trả lại ân tình năm xưa trên núi Võ Đương.
    Nàng vừa dứt câu, nhuyễn tiên chẳng khác gì một con linh xà vùng vẫy, nhắm thẳng ngực Ân Lê Đình phóng vào. Ân Lê Đình tránh qua bên trái, chiếc roi đang ở trên không nửa chừng cũng chuyển hướng đuổi theo.
    Ân Lê Đình liền dùng chiêu Phong Bãi Hà Diệp, trường kiếm hớt qua, roi kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng nhỏ, Ân Lê Đình thấy hổ khẩu rát lên, suýt nữa thì trường kiếm văng đi mất, trong bụng hết sức kinh hoảng: ?Ta vẫn tưởng nàng ta chiêu số quái dị mà thôi còn nội lực không thể nào bằng ta được, ngờ đâu nội kình y thị cũng kỳ dị không sao tưởng nổi?.
    Nghĩ thế ông ngưng thần tập trung ý chí, sử dụng pho thái cực kiếm pháp xoay vòng, bảo vệ môn hộ cực kỳ nghiêm mật. Chiếc nhuyễn tiên trong tay Chu Chỉ Nhược chẳng khác gì một giải lụa tưởng chừng không có một chút trọng lượng nào, thân hình khi đông khi tây, lúc lên lúc xuống, tưởng như bay lượn chung quanh Ân Lê Đình.
    Trương Vô Kỵ càng coi càng lấy làm lạ, nghĩ thầm: ?Nàng sử dụng nhuyễn tiên so với ba vị cao tăng Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp hoàn toàn khác hẳn?. Ban đầu chàng tưởng phái Nga Mi có võ công tà môn, lúc này thấy thân thủ nàng biến ảo như quỉ mị, so với Diệt Tuyệt sư thái hoàn toàn không giống chút nào, trong lòng không khỏi e ngại. Phạm Dao bỗng nói:
    - Nàng ta giống như quỉ chứ không phải người nữa rồi.
    Câu đó đúng ngay tâm sự Trương Vô Kỵ khiến chàng giật mình, nếu trên bãi đất không có ánh sáng chói lòa, cung quanh người đứng đông nghẹt thì chàng đã nghi Chu Chỉ Nhược chết rồi, hồn ma đang cùng Ân Lê Đình giao đấu. Trong đời chàng đã từng chừng kiến không biết bao nhiêu võ công quái lạ thế nhưng tiên pháp thân pháp của Chu Chỉ Nhược chẳng khác gì gió thổi phất phơ cành liễu, nước trôi dập dềnh cánh bèo, không phải khí tượng con người, trong nhất thời tưởng mình đang trong giấc mơ, lòng thấy lạnh lẽo: ?Chẳng lẽ nàng có yêu pháp hay sao? Hay là có quỉ nhập vào người??
    Thân pháp Chu Chỉ Nhược kỳ lạ nhưng thái cực kiếm là môn kiếm pháp Trương Tam Phong sáng chế ra trong tuổi lúc xế chiều sau thái cực quyền, là môn kiếm thuật không đâu hơn được, Ân Lê Đình sử dụng ra rồi miên miên bất tuyệt, tuy không đả thương được đối thủ chỉ cầu tự bảo vệ lấy mình nhưng quả thực không một chút sơ hở nào.
    Bỗng nghe tiếng một người lè nhè quái dị kêu lên:
    - Chao ôi! Tống Thanh Thư sắp tắt hơi rồi, Chu đại chưởng môn ơi, sao không lo tiễn chồng về nơi chín suối, tới khi góa bụa rồi biết sao cho phải.
    Mọi người theo hướng âm thanh nhìn theo, chính là Chu Điên. Y biết phái Võ Đương bình sinh tối chú trọng đến dưỡng khí điều tức, lúc giao phong đều cốt sao giữ được ?hươu nai chạy bên cạnh cũng không nháy mắt, non Thái sụp trước mặt cũng chẳng kinh hoàng[5]? cho nên có ý nhiễu loạn tâm thần Chu Chỉ Nhược để tương trợ Ân Lê Đình. Y lại lải nhải tiếp:
    - Này này! Chu Chỉ Nhược cô nương của phái Nga Mi ơi, ông chồng cô thở hắt ra rồi kìa, có mấy câu muốn trối trăn, nói là y còn ba bảy hai mươi mốt, bốn bảy hai mươi tám đứa con hoang. Y chết rồi nhờ cô nuôi chúng thành người, có thế y chết mới nhắm mắt được. Liệu cô có bằng lòng hay không nào?
    Quần hùng nghe y nói nhăng nói cuội, có người nhịn không nổi cười lên hô hố, nhưng Chu Chỉ Nhược làm như không nghe thấy. Chu Điên lại kêu:
    - Ối chao ôi! Không xong rồi! Chào Diệt Tuyệt sư thái, hồi này bà vẫn khỏe chứ? Lâu ngày không gặp, trông bà càng ngày càng rắn rỏi. Âm hồn bà nhập vào Chu Chỉ Nhược cô nương, thảo nào ngọn roi múa trông thật đẹp mắt.
    Đột nhiên thân hình Chu Chỉ Nhược hụp xuống nhô lên một cái đã nhảy lùi mấy trượng, trường tiên quật vụt qua vai ngược về sau, đầu roi nhắm thẳng vào mặt Chu Điên. Nàng vốn dĩ cách lều của Minh Giáo đến hơn mười trượng, nhưng nhuyễn tiên múa lên là tới ngay, chẳng khác gì rồng bay trên trời, tên rời khỏi nỏ. Chu Điên đang cao hứng nói sùi cả bọt mép, có ngờ đâu Chu Chỉ Nhược đang ác đấu đột nhiên vung roi tập kích, y còn đang sững sờ, trường tiên đã đến mặt rồi. Chu Chỉ Nhược không quay người lại nhưng cây roi làm như có mắt, đầu roi nhắm ngay mũi y bay tới.
    Chu Chỉ Nhược vung roi đánh về sau rồi, nhưng ngón tay trỏ và ngón tay giữa bàn tay trái lại liên tiếp đâm vào Ân Lê Đình, cả thảy bảy chỉ liền, toàn là nhằm vào những điểm trọng yếu trên mặt và ngực.
    Ân Lê Đình không kịp công địch, cũng không cách nào vòng ngược kiếm về chặt tay nàng, đành sử dụng chiêu Phượng Điểm Đầu hạ mình xuống tránh né. Khi đó nơi lều của Minh Giáo nghe bốp một tiếng, tiếp theo là tiếng loảng xoảng liên hồi. Thì ra Dương Tiêu đứng ngay bên cạnh Chu Điên, mắt tinh tay lẹ, múa chưởng đánh bật chiếc bàn trước mặt, chặn roi của Chu Chỉ Nhược. Trường tiên đánh trúng chiếc bàn lập tức gỗ bay tung tóe, bình trà, chén trà trên mặt bàn cũng tung tóe khắp nơi, mọi người ai cũng bị mảnh sứ, nước trà văng trúng.
    Chu Chỉ Nhược đánh ra không trúng, không để ý đến Chu Điên nữa, nhuyễn tiên quay trở lại tấn công Ân Lê Đình như gió táp mưa sa. Du Liên Châu đứng bên cạnh quan sát một hồi lâu nhưng vẫn chưa nhìn ra chỗ tinh yếu trong tiên pháp của nàng, nghĩ thầm: ?Ta có ra tay lần nữa, pho thái cực kiếm không thể nào sử dụng hay hơn lục đệ. Thế nhưng nếu đấu lâu, cô ta là đàn bà nội lực không đủ, bên mình có thể lấy dẻo dai bền sức mà thủ thắng?.
    Ông thấy Ân Lê Đình kiếm pháp vào ra khép mở, âm dương động tĩnh, đã đạt tới mức tuyệt diệu những gì Trương Tam Phong truyền thụ cho, nghĩ thầm trong đời sư đệ chưa từng thi thố kiếm thuật cao minh như thế bao giờ, hôm nay lâm vào sinh tử quan đầu, nêu đem hết những tinh yếu phát huy. Võ công phái Võ Đương càng đánh càng mạnh, thời khắc càng lâu càng đi vào chỗ không thể bại được.
    Chu Chỉ Nhược đột nhiên rung động trường tiên, xoay thành những vòng lớn vòng nhỏ, bay vây chung quanh Ân Lê Đình. Thái cực kiếm và thái cực quyền đều dùng trong phép vận kình thành vòng tròn, trường tiên của Chu Chỉ Nhược rung động thành vòng, vòng của roi và vòng của kiếm hai bên trùng nhau nhưng có điều trường tiên nhanh gấp mấy lần. Kình lực trên kiếm của Ân Lê Đình bị kéo đi, lập tức thân không đứng vững, xoay mình mấy lần, ánh sáng xanh lóe lên một cái, trường kiếm văng lên trên không. Trường tiên của Chu Chỉ Nhược quay vòng trở lại, đầu roi nhắm ngay đỉnh đầu Ân Lê Đình mổ tới.
    Du Liên Châu tung mình nhảy tới, tay phải chộp lấy đầu sợi roi. Chu Chỉ Nhược liền tung một ngọn cước trúng ngay hông Du Liên Châu. Du Liên Châu chưa tìm ra được chỗ tinh yếu và quái dị trong tiên pháp của Chu Chỉ Nhược, đến khi thấy nàng quay tiên thành vòng tròn đoạt được trường kiếm của Ân Lê Đình, lúc ấy bỗng rõ ngay: ?Hóa ra y thị công lực chỉ xoàng xoàng vậy thôi, việc rung tiên thành vòng tròn so với thái cực quyền công phu của bản môn còn kém xa?. Ông chộp được đầu roi rồi, chịu để cho hông bị nàng ta đá một cước, tay trái thò ra, chính là một chiêu trong Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ, đâm thẳng vào bụng dưới Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược không cách nào chống đỡ được, trong đầu một ý nghĩ nhanh như chớp thoáng qua: ?Thôi hôm nay ta chết dưới tay Du nhị thúc rồi?. Tay phải nàng liền buông rơi nhuyễn tiên, năm ngón tay chộp xuống đỉnh đầu Du Liên Châu, cốt để hai người đồng qui ư tận.
    Du Liên Châu nghiêng đầu toan tránh, ngờ đâu bên hông trúng cước rồi huyệt đạo bị đóng, đầu cổ cứng đơ, không sao chuyển động được nhưng tay trái vẫn vận kình chộp tới.
    Ngay trong giờ phút nghìn cân treo trên sợi tóc ấy, một bóng người từ bên cạnh vụt tới, tay phải gạt Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ của Du Liên Châu ra, tay trái đỡ bật năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đang cắm xuống đầu Du Liên Châu, chính là Trương Vô Kỵ ra tay cứu cả hai người.
    Chu Chỉ Nhược song chưởng liền nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ đánh tới. Nếu chàng né tránh chưởng lực của Chu Chỉ Nhược sẽ trúng ngay mặt Du Liên Châu, thành thử chàng liền dùng tay trái gạt ra.
    Hai người ba bàn tay đụng nhau, Trương Vô Kỵ thấy song chưởng của Chu Chỉ Nhược hoàn toàn không có một chút kình lực nào, trong lòng hãi sợ: ?Chao ôi! Không xong! Nàng khổ đấu với lục thúc hơn hai trăm hiệp, đã đến mức đèn khô dầu kiệt. Luồng kình lực của ta nếu tống ra ắt sẽ đánh nàng chết ngay tại chỗ?. Chàng lập tức giữa đường thu thủ kình lại.
    Ban đầu tả chưởng của chàng đánh ra, những tưởng Chu Chỉ Nhược là một đại cường địch võ công so với mình không hơn kém bao nhiêu, huống chi lấy một tay chống lại hai tay nên không dám coi thường chút nào, chưởng đó chàng sử dụng đủ mười thành lực. Kình lực vừa tung ra rồi, chàng mới phát giác đối phương không còn chút hơi sức nào cả, vội gượng thu về dẫu biết đây là đại kỵ trong võ học, có khác gì dùng đủ mười thành lực tự đánh vào mình, huống chi trong một trời gian sợi tóc không lọt đó đột nhiên thu về, dụng lực ắt phải cực kỳ mãnh liệt. Thế nhưng chàng đã đến mức nội kình thu phát do tâm, luồng kình lực đó có đánh trúng, cùng lắm cũng chỉ ngộp thở chứ không đến nỗi nào. Ngờ đâu chàng vừa thu kình về, bỗng thấy chưởng lực đối phương chẳng khác nào hồng thủy tràn ra khỏi bờ, thế mãnh liệt không cách gì đương cự nổi.
    Trương Vô Kỵ kinh hãi không đâu kể xiết, biết là mình đã bị ám toán, trên ngực nghe bình một tiếng, đã bị song chưởng của Chu Chỉ Nhược đánh trúng rồi. Đó là chính chưởng lực của chàng cộng thêm song chưởng của địch thủ, khác nào hai đại cao thủ cùng hợp kích, hộ thể Cửu Dương thần công tuy hồn hậu thật nhưng cũng chịu không nổi. Huống chi chưởng lực của Chu Chỉ Nhược lại luồn theo kẽ hở mà vào, chính lúc chàng đang dùng hết sức cũ rồi mà lực mới chưa sinh ra. Công phu đó là đích truyền của phái Nga Mi, năm xưa Diệt Tuyệt sư thái đã dùng đánh chàng hộc máu ngã lăn ra. Có điều năm xưa chàng hoàn toàn không biết cách đề ngự, lúc này thì chỉ vì thương người nên bị lừa mà trúng kế. Chàng không còn tự chủ nổi ngã vật về sau, mắt tối sầm, hộc ra một ngụm máu tươi.
    Chu Chỉ Nhược đánh lén thành công, tay trái liền vươn ra, năm ngón tay chộp vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ bị trọng thương nhưng tâm thần chưa loạn, thấy trảo đó chộp tới ngực ắt vỡ tung, vội cố gượng lùi về sau mấy tấc, nghe xoẹt một tiếng, năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đã xé rách áo chàng, để lộ da thịt trên ngực.
    Lúc này Du Liên Châu bị nàng đá trúng ngay huyệt đạo ngã ra, không cử động được, Ân Lê Đình vội xông lên cứu viện nhưng không kịp nữa rồi, thấy Trương Vô Kỵ ắt không sao qua khỏi kiếp nạn. Chu Chỉ Nhược vừa toan phóng tiếp năm ngón tay phải, trong một chớp mắt, bỗng nhìn thấy trên ngực chàng một vết sẹo dài, chính là vết sẹo mình dùng kiếm Ỷ Thiên đâm chàng trên Quang Minh Đính. Năm ngón tay nàng chỉ còn cách ngực Trương Vô Kỵ chưa đầy nửa thước, nhu tình trong lòng chợt dấy lên, mắt nhòa lệ, không sao chộp xuống được nữa.
    Nàng còn đang bàng hoàng thì Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Ân Lê Đình, Phạm Dao bốn người đã cùng xông tới. Vi Nhất Tiếu phi thân chặn ngay trước mặt giáo chủ, Dương Phạm hai người chia ra đánh vào hai bên tả hữu Chu Chỉ Nhược, còn Ân Lê Đình ôm Trương Vô Kỵ chạy ra.
    Việc xảy ra khiến đấu trường trở thành đại loạn, quần đệ tử phái Nga Mi và sư sãi chùa Thiếu Lâm quát tháo rầm rĩ, tay cầm binh khí xông vào. Dương Phạm cùng Chu Chỉ Nhược trao đổi mấy chiêu rồi ngừng tay không dám đánh lâu còn Vi Nhất Tiếu đỡ Du Liên Châu dậy cùng đi về lều. Phái Nga Mi và Thiếu Lâm thấy hai bên đã thôi, cũng lui xuống.
    Triệu Mẫn vốn cũng xông lên cứu viện nhưng thân pháp không nhanh bằng Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu đến nửa chừng thấy Trương Vô Kỵ mồm đầy máu, sợ đến mặt trắng bệch như tờ giấy. Trương Vô Kỵ gượng cười:
    - Không sao đâu, chỉ vận khí một hồi là khỏe ngay.
    Mọi người đỡ chàng ngồi xuống đất nơi lều tranh, Trương Vô Kỵ liền chầm chậm vận chuyển Cửu Dương thần công để điều trị nội thương. Chu Chỉ Nhược nói:
    - Còn vị anh hùng nào muốn lên chỉ giáo nữa chăng?
    Phạm Dao xốc lại thắt lưng, hùng dũng tiến ra. Trương Vô Kỵ vội gọi:
    - Phạm hữu sứ, ta hạ lệnh không được xuất chiến. Chúng ta ... chúng ta chịu thua ...
    Nói chưa hết câu đã hộc máu ra hai lần nữa. Lệnh của giáo chủ Phạm Dao không thể không tuân theo, nếu cứ nhất định ra đấu sẽ khiến cho vết thương của Trương Vô Kỵ càng thêm nguy kịch, huống chi xuất chiến dẫu tận tâm kiệt lực chết chỉ uổng mạng, không được việc gì cho bản giáo.
    Chu Chỉ Nhược đứng giữa quảng trường gọi thêm hai lần nữa. Vừa rồi Trương Vô Kỵ thu lực lại tự mình đánh vào mình, chỉ có chàng và Chu Chỉ Nhược hai người là biết chuyện đó mà thôi, người ngoài lại tưởng chưởng lực của nàng quái dị nên Trương Vô Kỵ không địch nổi, còn Chu Chỉ Nhược ngừng tay tha mạng cho chàng thì ai ai cũng thấy rõ ràng. Nàng chỉ là một thiếu nữ trẻ tuổi, liên tiếp đánh bại Ân Lê Đình, Du Liên Châu, Trương Vô Kỵ ba cao thủ hạng nhất, võ công kỳ lạ thực không ai tin nổi. Trong đại hội hôm nay tuy không hiếm người thân mang tuyệt học, nhưng cũng biết tài mình không thể bằng được Ân, Du, Trương ba người nên chẳng ai dại gì lên nạp mạng.
    Chu Chỉ Nhược đợi thêm một lát vẫn không thấy ai tiến lên, vị lão tăng Đạt Ma Đường liền bước ra, chắp tay nói:
    - Tống phu nhân chưởng môn phái Nga Mi kỹ quán quần hùng, võ công đứng đầu thiên hạ. Có vị anh hùng nào không phục chăng?
    Chu Điên kêu lên:
    - Ta Chu Điên không phục.
    Vị lão tăng liền nói:
    - Vậy xin mời Chu anh hùng hạ trường so tài.
    Chu Điên đáp:
    - Ta đánh không lại cô ta thì so tài cái gì?
    Nhà sư bèn nói:
    - Nếu Chu anh hùng tự biết mình không địch lại, thì là phục rồi còn gì?
    Chu Điên đáp:
    - Ta tự biết không địch lại nhưng vẫn không phục thì đã sao?
    Nhà sư già không muốn cùng y dây dưa thêm nữa hỏi tiếp:
    - Trừ vị Chu anh hùng này ra, có vị nào không phục nữa?
    Ông ta hỏi liên tiếp ba lần, Chu Điên hừ ba tiếng nhưng không còn ai trả lời không phục. Vị lão tăng bèn nói:
    - Nếu không còn ai hạ trường tỉ thí, chúng ta cứ theo đúng như đã bàn định, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn giao cho chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân xử trí. Đồ Long đao nay ở trong tay ai thì cũng xin người đó giao lại cho Tống phu nhân giữ. Đó là quyết định chung của mọi người, không ai được dị nghị.
    Trương Vô Kỵ lúc ấy đang điều quân nội tức, vận dụng Cửu Dương chân khí trị liệu vết thương, dần dần đi vào cảng giới phản hư minh không, bỗng nghe nhà sư kia nói ?Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn giao cho chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân xử trí?, trong lòng chấn động, lại hộc ra thêm một ngụm máu nữa.
    Triệu Mẫn ngồi ở bên cạnh, hết tâm hết sức săn sóc, thấy chàng đột nhiên run rẩy, mặt mày biến sắc, biết ngay tâm sự chàng, nhỏ nhẹ nói:
    - Vô Kỵ ca ca, nghĩa phụ do Chu tỉ tỉ xử trí thì hay lắm rồi. Lúc nãy chị ấy không nỡ ra tay hại chàng, đủ biết tình ý vẫn còn sâu đậm, quyết không hại nghĩa phụ đâu, chàng cứ yên tâm mà dưỡng thương.
    Trương Vô Kỵ nghĩ quả như vậy, thấy an tâm hơn.
    Lúc này mặt trời đang xuống sau núi, bãi đất tối dần. Vị lão tăng kia nói tiếp:
    - Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn bị giam ở một nơi đằng sau núi. Hôm nay trời đã tối rồi, các vị chắc cũng đã đói. Ngày mai đúng ngọ, chúng ta lại tụ tập nơi đây, lão nạp sẽ dẫnTống phu nhân đến nơi mở cửa thả tù ra. Lúc đó chúng ta sẽ lại được chiêm ngưỡng võ công vô địch của Tống phu nhân một lần nữa.
    Dương Tiêu, Phạm Dao đưa mắt nhìn Triệu Mẫn, trong bụng đều nghĩ: ?Quả nhiên cô ta liệu sự không sai. Phái Thiếu Lâm quả có âm mưu, Chu Chỉ Nhược võ công dẫu cao cường, cũng không thể nào đánh bại được nhóm ba lão tăng Độ Ách, e rằng nàng sẽ bỏ mạng nơi đỉnh núi kia để rồi phái Thiếu Lâm vẫn xưng hùng xưng bá.
    Lúc đó Chu Chỉ Nhược cũng đã quay về lều cỏ, hôm nay phái Nga Mi uy nhiếp quần hùng. Các đệ tử thấy chưởng môn nhân trở về, không ai không cảm thấy kính phục. Quần hùng tuy thấy Chu Chỉ Nhược đã đoạt được cái danh hiệu ?võ công đệ nhất thiên hạ? nhưng việc chưa kết liễu, trong bụng ai cũng có tính toán riêng nên chưa ai chịu xuống núi. Vị lão tăng lại nói:
    - Các vị anh hùng đến thăm bản tự, đều là khách quí của chùa Thiếu Lâm, nếu ai có ân oán dây dưa, cũng xin nể mặt bản tự, tạm thời nhịn một chút, đừng giải quyết ngay tại núi Thiếu Thất này, nếu không là coi thường phái Thiếu Lâm lắm vậy. Các vị dùng bữa tối xong, các nơi mặt trước núi cứ việc du lãm tùy ý, sau núi là nơi tệ phái giữ kinh và dạy dỗ môn đệ, xin các vị tự trọng giữ bước cho.
    Phạm Dao sau đó bế Trương Vô Kỵ đem về nơi những lều cỏ do chính người trong Minh Giáo dựng nên. Trương Vô Kỵ tuy bị thương nặng, nhưng sau khi uống chính viên linh đan chàng đã chế từ trước, dùng Cửu Dương chân khí thúc đẩy dược lực, đến đêm khuya lúc canh hai, thổ ra ba ngụm máu bầm, nội thương hoàn toàn khỏi hẳn.
    Dương Tiêu, Phạm Dao, Du Liên Châu, Ân Lê Đình các người vừa mừng vừa sợ, tấm tắc khen công phu nội lực của chàng thật khó ai sánh kịp, người thường bị thương như thế, dẫu có cao nhân điều trị, ít ra cũng phải dưỡng thương một hai tháng mới hết ứ trệ chân khí lưu chuyển bình thường, chàng chỉ mất có vài giờ đồng hồ đã khỏi nếu không chính mắt trông thấy thì chẳng ai dám tin.
    Trương Vô Kỵ ăn hai bát cơm, nghỉ ngơi một lát rồi đứng lên nói:
    - Ta đi ra ngoài một lát.
    Chàng là giáo chủ nên dẫu không nói đi đâu, đi lo chuyện gì cũng không ai dám hỏi thêm. Ân Lê Đình nói:
    - Cháu trọng thương mới khỏi, nên hết sức cẩn thận.
    Trương Vô Kỵ đáp lời:
    - Vâng Thấy Triệu Mẫn vẻ mặt hết sức lo lắng nên mỉm cười với nàng ý muốn nói: ?Em cứ yên tâm!?.
    Chàng ra khỏi lều cỏ, ngửng đầu lên thấy trăng sáng vằng vặc, thêm mấy chòm sao, hít một hơi dài, chân khí trong người lưu chuyển, tinh thần phấn chấn đi đến ngoài chùa Thiếu Lâm, nói với tri khách tăng:
    - Tại hạ có việc muốn gặp người chưởng môn phái Nga Mi, làm ơn dẫn đường cho.
    Nhà sư kia thấy đó là giáo chủ Minh Giáo, trong bụng sợ hãi lắm vội vàng cung kính nói:
    - Vâng, vâng! Tiểu tăng xin dẫn đường, mời Trương giáo chủ đi qua bên này.
    Ông ta bèn dẫn chàng qua phía tây, đi độ chừng một dặm đến mấy gian nhà nhỏ. Vị tri khách tăng nói:
    - Phái Nga Mi đều ở tại nơi đó, tăng ni phân biệt, đêm khuya tiểu tăng không tiện đến gần.
    Y sợ Trương Vô Kỵ lại đến giao đấu với Chu Chỉ Nhược, nếu hai cao thủ đương thế ra tay, mình vô duyên vô cố có khi bị vạ lây. Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Nếu sư phụ đi về nói chuyện này ra e rằng kinh động đến người khác, chi bằng tôi điểm huyệt đại sư để ngồi đây chờ, nên chăng?
    Vị tri khách tăng vội nói:
    - Tiểu tăng quyết không dám nói, giáo chủ cứ yên tâm.
    Y vội vàng lật đật quay mình tháo lui. Trương Vô Kỵ chậm rãi đi đến trước căn nhà nhỏ, còn cách chừng mươi trượng đã thấy hai ni cô phi thân nhảy ra, giơ kiếm chặn lại, quát hỏi:
    - Ai đó?
    Trương Vô Kỵ vòng tay nói:
    - Minh Giáo Trương Vô Kỵ cầu kiến chưởng môn Tống phu nhân của quí phái.
    Hai nữ ni kinh hoàng thất sắc, một người tuổi trung niên ấp úng:
    - Trương ... Trương giáo chủ ... xin ngài đợi, tôi ... để tôi vào bẩm báo.
    Bà ta tuy cố gắng trấn tĩnh nhưng tiếng nói run run, quay mình đi chưa được mấy bước đã lấy còi tre ra thổi báo động.
    Phái Nga Mi hôm nay nở mày nở mặt trước mặt anh hùng thiên hạ, người chưởng môn đánh bại liên tiếp ba cao thủ khiến cho tất cả bọn mày râu không còn ai dám đứng ra khiêu chiến, từ khi khai mở môn phái đến nay quả thực chưa bao giờ vinh dự đến thế. Thế nhưng phái Nga Mi hôm nay giết hai trưởng lão Cái Bang, đánh bại Võ Đương nhị hiệp, đả thương giáo chủ Minh Giáo, gây chuyện với người khác không phải ít. Huống chi Chu Chỉ Nhược được cái danh võ công đệ nhất thiên hạ, không biết có bao nhiêu người ghen tị bực tức, thân nơi hiểm địa sợ cường địch đêm nay tới quấy rối thành thử phòng bị cực kỳ nghiêm mật. Ni cô đó thổi mấy tiếng còi, chung quanh liền chạy ra đến hai chục người, kiếm quang lấp loáng, chia ra trấn giữ các nơi. Trương Vô Kỵ làm như không thấy, hai tay chắp sau lưng, bình tĩnh đứng chờ.
    Nữ ni tiến vào trong căn nhà nhỏ bẩm báo, một lát sau quay ra nói:
    - Chưởng môn tệ phái nói rằng: Nam nữ hữu biệt, buổi tối không tiện tiếp khách. Xin mời Trương giáo chủ lui bước.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tại hạ hơi biết y lý, muốn được trị thương cho Tống Thanh Thư thiếu hiệp chứ không có ý gì khác.
    Ni cô kia ngạc nhiên, lại tiến vào bẩm lại lần nữa, qua một hồi lâu mới quay trở ra nói:
    - Chưởng môn nhân xin mời vào.
    Trương Vô Kỵ xốc xốc lưng áo chứng tỏ mình không đem binh khí theo, rồi theo ni cô nọ vào trong nhà. Chỉ thấy Chu Chỉ Nhược ngồi ở một bên, tay chống cằm, ngơ ngẩn xuất thần, nghe tiếng chàng đi vào cũng không quay lại. Nữ ni kia rót một chén trà để lên bàn rồi lui ra ngoài, nhẹ nhàng đóng cửa lại, trong phòng không còn ai khác. Một cây nến trắng khi tỏ khi mờ, chiếu lên trên bộ quần áo xanh nhạt của Chu Chỉ Nhược, tình cảnh thật là thê lương.
    Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, hỏi nhỏ:
    - Thương thế Tống sư ca ra sao, để tôi xem một chút được không?
    Chu Chỉ Nhược không quay đầu lại, lạnh lùng nói:
    - Xương đầu của y bị chấn vỡ, thương thế cực kỳ trầm trọng, khó mà sống nổi. Không biết có qua khỏi đêm nay hay không?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô biết tôi y thuật không phải kém, mong tận lực chữa trị một phen.
    Chu Chỉ Nhược hỏi lại:
    - Sao anh lại muốn cứu y?
    Trương Vô Kỵ sững sờ, nói:
    - Tôi lầm lỗi đối với cô, trong lòng thật là hổ thẹn, huống chi hôm nay cô lại nương tay tha mạng cho tôi. Tống sư ca thụ thương tôi thể nào cũng hết sức.
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Anh nương tay cho tôi trước, không lẽ tôi không biết hay sao? Nếu anh cứu được Tống đại ca thì muốn tôi báo đáp cái gì?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Một mạng đổi một mạng, mong cô nới tay cho nghĩa phụ tôi.
    Chu Chỉ Nhược chỉ vào nội đường, thản nhiên nói:
    - Y ở trong đó.
    Trương Vô Kỵ đi tới cửa phòng, thấy bên trong tối đen như mực, không đèn lửa gì vội cầm cây nến đi vào bên trong. Chu Chỉ Nhược vẫn chống tay lên má ngồi ở cạnh bàn không đi theo. Trương Vô Kỵ vén chiếc màn lên, thấy Tống Thanh Thư hơi thở yếu ớt, hai mắt lồi ra, ngũ quan méo mó, mặt mũi thật là ghê rợn, đã sớm hôn mê không biết gì. Chàng cầm cổ tay y thấy mạch chạy hỗn loạn, lúc nhanh lúc chậm, da dẻ lạnh ngắt, không cứu chữa ngay thì quả khó mà qua khỏi đêm nay.
    Chàng lại mò xương đầu của y, thấy trước trán và sau ót có bốn chỗ bị vỡ, nghĩ thầm song quyền của Du nhị bá lợi hại biết là chừng nào, chiêu Song Phong Quán Nhĩ này sử dụng đủ mười thành nội kình, nếu Tống Thanh Thư nội công không có căn cơ thì đã chết ngay tại đương trường rồi.
    Chàng thả màn xuống, để chân nến lên trên bàn, ngồi trên chiếc ghế tre trầm tư tìm cách cứu chữa. Tống Thanh Thư bị trọng thương trí mạng, cứu được hay không thật chỉ có ba phần hi vọng.
    Chàng ngồi khoảng chừng thời gian một bữa ăn, rồi đi ra ngoài nói:
    - Tống phu nhân, có cứu được mạng Tống sư ca hay không, tôi thực không dám chắc, cô có để cho tôi thử một phen chăng?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Nếu anh không cứu được mạng y thì trên đời này không có người thứ hai nào làm được.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Dẫu có cứu được mạng y, dung mạo võ công khó mà được như cũ, đầu óc cũng bị chấn động hỏng rồi, chỉ sợ ... chỉ sợ ... nói năng không được xuông xẻ nữa.
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Anh cũng đâu phải là thần tiên. Tôi biết anh sẽ tận tâm tận lực cứu y để trong lòng khỏi áy náy, yên tâm đi làm quận mã triều đình.
    Trương Vô Kỵ trong lòng bàng hoàng nhưng việc này thật khó mà biện bạch, thành thử chỉ lẳng lặng quay trở vào phòng, giở chiếc chăn mỏng đắp trên người Tống Thanh Thư, điểm tám nơi huyệt đạo trên người y, mười ngón tay nhẹ nhàng dùng sức như có như không nắn các chỗ xương vỡ trên đầu lại. Xong rồi chàng lấy trong bọc ra một chiếc hộp vàng, lấy ngón tay út quệt một chút cao đen, trộn cho thật đều rồi nhẹ nhàng bôi lên những chỗ xương gãy. Cao đó chính là thánh dược nối xương tiếp gân của Thiếu Lâm Tây Vực Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao năm xưa chàng được Triệu Mẫn tặng cho để tiếp xương cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình còn dư chưa dùng hết. Cửu Dương chân khí trong lòng bàn tay chàng cuồn cuộn tuôn ra dẫn thuốc vào các nơi xương bị đứt.
    Ước chừng tàn một nén hương, Trương Vô Kỵ đã đưa hết thuốc đi các nơi, thấy mặt Tống Thanh Thư không có gì thay đổi, trong bụng mừng rỡ, biết việc cứu sống được y có thêm vài phần hi vọng. Chàng bị trọng thương mới khỏi, bây giờ phải vận nội kình không khỏi tim hồi hộp, thở giốc, phải đứng ở bên giường Tống Thanh Thư điều quân nội tức một hồi lâu xong mới đi ra khỏi phòng, để cây nến lên trên bàn.
    Dưới ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn, chàng thấy khuôn mặt Chu Chỉ Nhược trắng bệch một cách khác thường. Ở bên ngoài đâu đó có tiếng chân người nhẹ nhàng qua lại, biết là phái Nga Mi đang đi tuần tra canh gác liền nói:
    - Tính mạng Tống sư ca có cơ cứu được, cô cứ yên tâm.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Đến như anh còn không tin tưởng rằng có thể cứu được y thì sao tôi dám tin rằng sẽ cứu được Tạ đại hiệp.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ngày mai nếu nàng lên phá trận Kim Cương Phục Ma Khuyên, dẫu phái Nga Mi có một hai cao thủ tiếp tay, mười phần đến chín là thất bại, không chừng còn bỏ mạng nữa là khác?. Chàng bèn nói:
    - Cô có biết tình hình nơi giam nghĩa phụ thế nào không?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Không biết. Phái Thiếu Lâm có mai phục ghê gớm lắm hay sao?
    Trương Vô Kỵ kể lại chuyện Tạ Tốn bị giam nơi địa lao trên đỉnh núi thế nào, ba vị lão tăng giám thủ ra sao, chính mình hai lần tấn công bị thất bại, rồi Ân Thiên Chính vì thế mà từ trần đầu đuôi thuật sơ qua một lượt.
    Chu Chỉ Nhược lặng yên nghe xong nói:
    - Nếu như thế, anh phá còn không nổi thì tôi lại càng không đi đến đâu.
    Trương Vô Kỵ đột nhiên động tâm, mừng rỡ nói:
    - Chỉ Nhược, nếu hai đứa mình liên thủ thì có thể thành công được. Tôi lấy lực đạo thuần dương chí cương, cuốn lấy ba sợi trường tiên của ba lão tăng. Cô dùng kình lực âm nhu thừa cơ mà tấn công vào, một khi vào trong Phục Ma Khuyên rồi, nội ngoại giáp công thì có thể thủ thắng.
    Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:
    - Tôi với anh trước đây đã có ước định hôn nhân, chồng tôi lúc này sống chết không biết thế nào, hôm nay tôi lại không giết anh, người ngoài thể nào chẳng bảo tôi vẫn còn chút tình xưa nghĩa cũ. Nếu bây giờ lại bảo anh ra tương trợ, anh hùng thiên hạ sẽ bảo tôi là kẻ vô liêm sỉ, tính nết trăng hoa.
    Trương Vô Kỵ vội nói:
    - Mình chỉ cốt sao không thấy hổ thẹn với lương tâm, người khác nói ra nói vào việc gì phải để ý đến?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Thế nhưng nếu tôi tự hỏi lòng thấy hổ thẹn thì sao?
    Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn, không sao trả lời được, đành ấp úng:
    - Cô ... cô ...
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Trương giáo chủ, chúng mình cô nam quả nữ, đêm khuya ở chung một chỗ không khỏi người ta dị nghị, thôi anh đi về đi.
    Trương Vô Kỵ đứng lên vái một vái thật sâu nói:
    - Tống phu nhân, cô từ khi còn nhỏ đối với tôi thật hết lòng, mong cô gia ân thêm một lần nữa. Trương Vô Kỵ này còn sống ngày nào, không bao giờ dám quên cao nghĩa.
    Chu Chỉ Nhược lặng thinh không đáp, chẳng nhận lời cũng chẳng cự tuyệt. Nàng từ đầu đến cuối không quay đầu lại nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy mặt nàng ra sao, đang định xuống giọng khẩn cầu, Chu Chỉ Nhược bỗng cao giọng nói:
    - Tĩnh Tuệ sư tỉ, tiễn khách.
    Kẹt một tiếng cửa mở ra, Tĩnh Tuệ đã đứng bên ngoài, tay cầm trường kiếm, mặt hầm hầm nhìn chàng. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện sống chết của nghĩa phụ chỉ ở một phút này, nếu mình có phải mất mặt chịu nhục cũng có đáng gì đâu, đột nhiên quì phục xuống đất, rập đầu lạy Chu Chỉ Nhược bốn cái nói:
    - Tống phu nhân, xin cô thương tình.
    Chu Chỉ Nhược vẫn trơ trơ như tượng đá. Tĩnh Tuệ quát lên:
    - Trương Vô Kỵ, chưởng môn nhân bảo ngươi đi ra, sao còn lải nhải gì nữa? Quả thật đúng là hạng người vô liêm sỉ, là quân bại họa của võ lâm.
    Bà ta lại tưởng Trương Vô Kỵ nhân dịp Tống Thanh Thư sắp chết, đến van lơn xin nối lại duyên xưa. Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, đứng dậy đi ra.
    Chàng về đến lều tranh của Minh Giáo, Triệu Mẫn đã ra ngoài đón hỏi:
    - Vết thương của Tống Thanh Thư có thể cứu được, phải không? Chàng lại dùng Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao của thiếp đi lấy lòng người ta chứ gì?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Ôi, em đúng là liệu sự như thần. Thương thế của y có cứu được hay không, lúc này chưa thể nói được.
    Triệu Mẫn thở dài một tiếng nói:
    - Chàng tưởng cứu mạng cho Tống Thanh Thư có thể đổi được Tạ đại hiệp ư? Vô Kỵ ca ca, chàng càng làm càng hỏng chuyện, không biết tâm sự người khác chút nào.
    Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
    - Sao thế? Anh chẳng hiểu tí gì cả.
    Triệu Mẫn nói:
    - Chàng hết tâm hết sức cứu Tống Thanh Thư thì có khác nào nói với Chu tỉ tỉ là chàng chẳng còn chút quyến luyến nào nữa, chàng thử nghĩ xem chị ấy có giận hay không nào?
    Trương Vô Kỵ ngẩn ngơ không nói nên lời, tự hỏi không lẽ Chu Chỉ Nhược chẳng muốn chàng trị thương cho chồng nàng, nhưng quả nàng quả thực đã nói: ?Tôi biết anh sẽ tận tâm tận lực cứu y để trong lòng khỏi áy náy, yên tâm đi làm quận mã triều đình?. Câu nói đó đúng là có ý oán trách, huống chi nàng lại còn thêm: ?Thế nhưng nếu tôi tự hỏi lòng cảm thấy hổ thẹn thì sao??.
    Triệu Mẫn nói:
    - Chàng cứu mạng cho Tống Thanh Thư, bây giờ lại hối hận, có phải không?
    Nàng không đợi Trương Vô Kỵ trả lời, mỉm cười điềm nhiên đi vào trong nhà. Trương Vô Kỵ ngồi xuống tảng đá, nhìn vào vầng trăng lạnh, ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ lại mọi việc từ khi quen biết Chu Chỉ Nhược tới nay, tới thần thái ngôn ngữ lần sau cùng này, càng thấy hoang mang khó hiểu.
    * *??????? * Sáng sớm ngày mồng sáu tháng năm, tiếng chuông chùa Thiếu Lâm boong boong vang động, quần hùng lại tụ tập nơi quảng trường. Nhà sư già của Đạt Ma Đường kỳ này không còn nhận lệnh của Không Trí nữa, tự động đứng lên sang sảng nói:
    - Thưa với tất cả các vị anh hùng, hôm qua tỉ võ so tài, chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân nghệ quán quần hùng, xin mời Tống phu nhân ra sau núi phá cửa quan để nhận Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, lão tăng xin dẫn đường.
    Nói xong ông ta liền đi trước, tám ni cô đại đệ tử của phái Nga Mi liền đi theo, kế đó là Chu Chỉ Nhược và những đồng môn khác rồi sau cùng là những anh hùng tất cả một đoàn về phía hậu sơn.
    Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược quần áo vẫn giống hôm qua không mặc đồ tang, biết Tống Thanh Thư còn sống, nghĩ thầm: ?Nếu y qua được một đêm thì có hi vọng không chết?. Mọi người lên đến đỉnh núi, đã thấy ba vị lão tăng ngồi xếp bằng nơi gốc ba cây tùng. Vị lão tăng Đạt Ma Đường liền nói:
    - Kim Mao Sư Vương bị giam nơi địa lao giữa ba gốc thương tùng, khán thủ tù phạm là ba vị trưởng lão của tệ phái. Tống phu nhân võ công thiên hạ vô song, chỉ cần thắng được ba vị trưởng lão là có thể mở nhà tù đem người đi. Tất cả chúng tôi xin được chiêm ngưỡng thân thủ của Tống phu nhân.
    Dương Tiêu thấy sắc mặt Trương Vô Kỵ bất định, liền ghé tai chàng nói nhỏ:
    - Giáo chủ khoan tâm. Vi Bức Vương, Thuyết Bất Đắc hai người đã tất lãnh Ngũ Hành Kỳ mai phục dưới chân núi. Nếu phái Nga Mi không chịu giao Tạ Sư Vương lại cho chúng ta, mình đành phải dùng võ lực.
    Trương Vô Kỵ nhíu mày nói:
    - Như thế chẳng làm hỏng qui củ đại hội, mất hết tín nghĩa còn gì.
    Dương Tiêu đáp:
    - Thuộc hạ chỉ sợ Tống phu nhân cầm đao cầm kiếm kề vào cổ Tạ Sư Vương, mình ném chuột sợ vỡ đồ, còn việc tín nghĩa không quan trọng lắm.
    Triệu Mẫn cũng nói khẽ:
    - Tạ Sư Vương kẻ thù thật là đông, mình phải đề phòng trong đám người có kẻ phát ám khí đánh lén.
    Dương Tiêu nói:
    - Phạm hữu sứ, Thiết Quan đạo trưởng, Chu huynh, Bành đại sư bốn người đã phân chia bốn góc đề phòng rồi.
    Triệu Mẫn nói:
    - Tốt hơn hết là có người nào phóng ám khí, mình thừa cơ sang đoạt Tạ Pháp Vương, như thế anh hùng thiên hạ không trách mình thiếu tín nghĩa. Nếu như sóng lặng gió êm ... cái đó quả ... Ôi, Dương tả sứ, nếu ông không quản ngại thì hãy phái người giả trang tấn công lén Tạ Sư Vương, trong khi hỗn loạn, mình sẽ cháy nhà hôi của, xông ra cướp người.
    Dương Tiêu cười nói:
    - Kế đó hay lắm.
    Nói xong y bèn đi sắp đặt người lo liệu. Trương Vô Kỵ biết làm như thế thật không quang minh lỗi lạc chút nào, nhưng vì muốn cứu nghĩa phụ, không còn cố kỵ gì nữa, trong lòng thật là cảm kích Triệu Mẫn, nghĩ thầm: ?Mẫn muội và Dương tả sứ đều có tài quyết đoán lúc lâm nguy, thảo nào hai người bàn bàn tính tính thật là hợp ý nhau, ta thật không có cái khả năng đó?.
    Bỗng nghe Chu Chỉ Nhược nói:
    - Ba vị cao tăng là trưởng lão của phái Thiếu Lâm, hẳn võ học thâm hậu lắm. Nếu như bản tọa lấy một địch ba thì thật không công bình chút nào, lại thêm bất kính.
    Vị lão tăng Đạt Ma Đường nói:
    - Nếu Tống phu nhân muốn có thêm một hai người tiếp tay cũng được không sao cả.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Bản tọa may mắn đạt được cái danh vị đứng đầu cũng do anh hùng thiên hạ nhường nhịn, nhờ vào võ công do tiên sư Diệt Tuyệt sư thái bí truyền. Nếu lấy ba địch ba, dẫu có đắc thắng cũng không tỏ lộ được cái khổ tâm của tiên sư năm xưa dày công giáo huấn; còn như lấy một địch ba thì hóa ra bất kính với chủ nhân. Thôi thế thì để gọi một tiểu tử ra liên thủ, người đó hôm qua bị thương dưới tay bản tọa, thương thế chưa khỏi hẳn. Tiểu tử này trước kia đã bị tiên sư đánh ba chưởng thổ huyết, thiên hạ ai ai cũng biết, có thế mới khỏi thương tổn đến uy danh của tiên sư.
    Trương Vô Kỵ nghe đến đó trong lòng mừng rỡ: ?Tạ trời tạ đất, nàng quả nhiên nhận lời yêu cầu của ta?. Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược gọi:
    - Trương Vô Kỵ, ngươi mau ra đây.
    Quần hào Minh Giáo trừ bọn Dương Tiêu ra không ai hiểu rõ nguyên do, thấy Chu Chỉ Nhược gọi giáo chủ bản giáo tiểu tử này tiểu tử nọ, không ai không khỏi bất bình. Thế nhưng lại thấy Trương Vô Kỵ mặt mày tươi tỉnh, bước ra, vái một cái thật sâu, nói:
    - Đa tạ Tống phu nhân hôm qua nương tay, tha mạng cho tiểu tử.
    Trong bụng chàng đã có chủ định rồi: ?Nàng trước mặt đông người nhục mạ ta, chẳng qua cũng chỉ để cho phái Nga Mi được nở mày nở mặt, để trả thù hôm trước trong ngày hôn lễ chú rể bỏ đi. Vì nghĩa phụ, ta phải chịu nhịn nhục cho xong việc?.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Ngươi hôm qua trọng thương thổ huyết, bây giờ ta cũng không cần phải nhờ đến ngươi làm gì, chỉ cần ra cho có vẻ vậy thôi.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vâng, mọi việc xin nghe lệnh mà làm, không dám vi phạm.
    Chu Chỉ Nhược lấy nhuyễn tiên ra, tay phải rung một cái cây roi đã vòng thành hơn chục vòng lớn có nhỏ có, trông thật đẹp mắt, tay trái vung ra, ánh sáng xanh lấp lánh lộ ra một thanh đoản đao. Quần hùng hôm qua đã thấy uy lực của nhuyễn tiên, ngờ đâu tay trái lại còn có thể dùng đao, vũ khí một bên dài một bên ngắn, một bên cứng một bên mềm, quả thực hai bên hoàn toàn ngược lại với nhau. Quần hùng vừa kinh ngạc vừa bội phục, người nào cũng thấy hào hứng.
    Trương Vô Kỵ lấy trong bọc ra hai thanh thánh hỏa lệnh tiến tới hai bước, đột nhiên chân bước lảo đảo, cố ý húng hắng ho mấy tiếng, làm như bị thương chưa khỏi, xem ra tự lo cho mình còn chưa xong, nếu như thắng được tam tăng thì cũng toàn là do công lao của Chu Chỉ Nhược.
    Chu Chỉ Nhược đi đến gần bên chàng, hạ giọng hỏi nhỏ:
    - Anh từng lập lời thề báo thù cho biểu muội, nếu như hung thủ hại cô ấy lại là nghĩa phụ anh thì anh có còn cứu ông ấy nữa hay thôi?
    Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:
    - Nghĩa phụ có khi tâm trí thất thường, nếu thế không tính.
    Độ Ách nói:
    - Trương giáo chủ hôm nay lại lên tứ giáo nữa đấy ư?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Cũng mong ba vị đại sư lượng thứ cho.
    Độ Ách nói:
    - Khéo nói lắm! Nghe nói vị chưởng môn phái Nga Mi này hôm qua tài nghệ thắng tất cả mọi người, không lẽ cô ta võ công còn cao hơn Trương giáo chủ hay sao?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đúng thế! Vãn bối hôm qua bị Chu chưởng môn đánh cho trọng thương thổ huyết.
    Độ Nạn nói:
    - Nếu thế thì quả là lạ thật!
    Trường tiên của ba vị lão tăng chậm rãi vung ra.
    Ngay lúc đó từ phía lưng chừng núi văng vẳng mấy tiếng đàn, tiếng sáo hợp tấu vọng lên. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm, chỉ thấy mấy tiếng dao cầm tính tang tính tang, bốn cô gái mặc áo trắng đi lên, trong tay mỗi người cầm một cây đoản cầm, kế đó tiếng tiêu dìu dặt, bốn thiếu nữ áo đen tay cầm trường tiêu cũng tới. Đen trắng xen kẽ nhau, tám cô gái chia nhau đứng tám phương vị, cùng dạo đàn thổi tiêu, âm vận thật là tao nhã. Một thiếu nữ mặc áo lụa mỏng màu vàng trong tiếng nhạc khoan thai bước lên, chính là cô gái Trương Vô Kỵ từng gặp ở Lô Long trong lần hội ngộ với quần hào Cái Bang.
    Cô bé con Sử Hồng Thạch, bang chủ Cái Bang vừa trông thấy liền chạy ra đón, sà vào lòng nàng, kêu lên:
    - Dương tỉ tỉ, Dương tỉ tỉ, các trưởng lão và long đầu của chúng tôi bị người ta giết cả rồi.
    Cô gái vừa nói vừa chỉ Chu Chỉ Nhược:
    - Chính phái Nga Mi và phái Thiếu Lâm hạ độc thủ đó.
    Cô gái áo vàng gật đầu nói:
    - Ta biết cả rồi. Hừ, Cửu Âm Bạch Cốt Trảo chưa chắc đã vô địch thiên hạ đâu!
    Nàng ta lên núi tiền hô hậu ủng, hình dáng lại thật xinh đẹp tiêu sái, mọi người ai nấy đều chăm chăm nhìn, hai câu đó lại từng chữ rõ ràng truyền vào tai mọi người. Quần hùng kinh ngạc, một số người tương đối có tuổi nghĩ thầm: ? Pho trảo pháp của phái Nga Mi kia, không lẽ là môn võ công nổi danh tàn độc hơn một trăm năm trước Cửu Âm Bạch Cốt Trảo đấy chăng??. Tuy đã từng nghe đến Cửu Âm Bạch Cốt Trảo rồi, nhưng chỉ biết là âm độc ghê gớm nhưng thất truyền đã lâu chưa ai nhìn thấy bao giờ.
    Thiếu nữ cầm tay Sử Hồng Thạch đi lẫn vào trong đám người của Cái Bang ngồi xuống một tảng đá. Chu Chỉ Nhược mặt hơi biến sắc, hỏi nhỏ:
    - Cô ta là ai thế?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôi cũng chỉ gặp có một lần, chẳng biết tên cô ta là gì, chỉ biết có liên hệ sâu xa với Cái Bang.
    Chu Chỉ Nhược hứ một tiếng nói:
    - Ra tay đi thôi!
    Trường tiên của nàng rung một cái vung ra, cuốn lấy sợi dây của Độ Nạn, mượn sức nhảy luôn vào giữa ba cây tùng xanh ngắt. Ngay chiêu đầu tiên nàng đã tấn công thẳng vào trung cung của địch, vừa nhanh nhẹn vừa ác liệt, lại thật gan dạ, quả thật dẫu cao thủ hạng nhất trên giang hồ xem ra cũng chưa sánh kịp. Quần hùng thấy nàng ở trên không, chẳng khác nào một con hạc xanh đáp xuống, thân pháp nhẹ nhàng vô tỉ, nhuyễn tiên bên tay phải quện lấy sợi dây của Độ Nạn, vừa mượn sức đối phương lại nhất thời khiến cho ông ta không sử dụng được binh khí. Độ Ách và Độ Kiếp hai sợi dây cùng vung lên, chia hai bên đánh vào.
    Trương Vô Kỵ liền xông thẳng lên, chân vừa nhấp một cái, đột nhiên lảo đảo. Mọi người kêu ối lên một tiếng, ai cũng tưởng chàng bị thương xong đứng không vững, có biết đâu đó là một chiêu trong võ Ba Tư ghi trên thánh hỏa lệnh, thân pháp quái dị, muốn đạt cực điểm phải làm như ngã nhào về trước, hai thanh thánh hỏa lệnh đã đánh ngay vào ngực Độ Nạn. Khi đó sợi dây của Độ Nạn còn đang bị nhuyễn tiên của Chu Chỉ Nhược cuốn chặt nên không thể thu về đỡ kịp, Độ Ách, Độ Kiếp hai người thấy thế nguy vội vàng bỏ Chu Chỉ Nhược, song tiên cùng đánh vào Trương Vô Kỵ. Hai sợi dây linh động uy mãnh đánh, tấn công vào chàng chẳng khác gì hai con rồng đen, ai nấy đều nghĩ Trương Vô Kỵ thật khó mà chống đỡ, ngờ đâu chàng lăn ngay xuống đất, nguy hiểm vạn phần tiến luôn vào bên cạnh Độ Ách. Tay trái của Độ Ách liền nhằm vai chàng chém xuống, Trương Vô Kỵ dùng Càn Khôn Đại Na Di hóa giải, đột nhiên nhổm dậy, đầu vai lại xông lên huých vào Độ Kiếp.
    Hôm nay chàng muốn nhường cho Chu Chỉ Nhược được nổi danh, để tiếng đánh bại Thiếu Lâm tam tăng đều do chưởng môn phái Nga Mi còn mình chỉ cốt sao cứu được nghĩa phụ nên toàn sử dụng võ công Ba Tư, lăn qua đông một cái, nhào qua tây một cái, đã khó coi lại càng thêm bệ rạc nhưng nếu muốn độc địa thì cũng thật độc địa.
    Những người đứng coi tuy không ít người đã từng được coi những chiêu thức trác tuyệt thế nhưng lộ võ công này quá cổ quái, người Trung Thổ lại chưa ai sử dụng bao giờ, huống chi hôm qua Trương Vô Kỵ bị thương ai cũng chứng kiến nên lúc đầu không ai thấy được sự thực. Những kẻ thù với Minh Giáo thì mừng thầm, còn phe bạn của Minh Giáo thì ai cũng ưu tư e ngại chàng hôm nay sẽ bỏ mạng nơi đây.
    Hai bên trao đổi đến vài chục chiêu rồi, Chu Chỉ Nhược thân hình khi lên cao khi xuống thấp, phiêu hốt hết sức còn Trương Vô Kỵ càng lúc càng thêm tơi tả, chân tay luống cuống, vụng về xem ra chưa bằng một kẻ mới học võ, thế nhưng tình thế dù hung hiểm cách nào chàng cũng thoát khỏi sát thủ của đối phương trong đường tơ kẽ tóc.
    Những người tâm cơ khôn ngoan liền hiểu ngay bên trong có điều gì bất thường, đoán chừng võ công chàng sử dụng cũng một kiểu như Túy Bát Tiên, trông thì loạng choạng chẳng đâu vào đâu nhưng thực ra bên trong có những biến hóa kỳ lạ, loại võ công này so với chính lộ còn khó học hơn nhiều.
    Lộ võ công Ba Tư cổ này cực kỳ ghê gớm nếu như lấy một chọi một, đấu với bất cứ người nào trong ba vị lão tăng ắt cũng khiến cho đối phương chân tay loạc choạc chẳng khác nào lần đầu tiên Trương Vô Kỵ gặp Phong Vân ba sứ giả. Thế nhưng ba vị cao tăng tu tập khô thiền đã mấy chục năm, tâm ý tương thông, một trong ba người có sơ hở thì hai người kia lập tức trám vào ngay. Thân pháp chiêu số quái dị của Trương Vô Kỵ đúng ra chỉ một đòn đã làm cho địch nhân hoa cả mắt, tưởng bên trái mà hóa ra bên phải, tưởng phía trước mà lại ở sau lưng, không sao nhận thức được, thế nhưng ba nhà sư tâm động đâu roi theo đó, những biến hóa của chàng nhìn mà không thấy, coi như không. Quái chiêu của Trương Vô Kỵ tưởng như không bao giờ hết nhưng đến bảy tám mươi chiêu vẫn không làm tổn hại đến một cái lông của ba lão tăng. Đấu đến trăm chiêu, chàng thấy uy lực của ba sợi dây càng lúc càng mạnh, còn thân pháp của mình thì dần dần trì trệ, không còn linh động biến ảo như lúc đầu.
    Chàng có biết đâu võ công mình đang sử dụng gần một nửa là ma đạo, mà Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba nhà sư chính là đại pháp tinh diệu nhất của nhà Phật để hàng phục tà ma. Người ngoài đứng xem thấy chàng càng đấu càng lên tinh thần, thực ra trong lòng chàng ma đầu mỗi lúc một bành trướng, chỉ cần thêm một trăm chiêu nữa, sẽ bị võ công Phật môn thượng thừa của tam tăng khống chế, lúc đó sẽ nhảy múa lung tung không tự chủ được nữa, ba cao tăng chẳng cần ra tay, chỉ cần để chàng tự mình kết liễu đời mình cũng xong. Minh Giáo bị người đời gọi là ma giáo, vốn cũng không phải là không nguyên do, nhưng lộ võ công này khởi thủy do Sơn Trung Lão nhân, là một ác nhân giết người không chớp mắt sáng chế. Trương Vô Kỵ chẳng biết chuyện đó nhưng bây giờ gặp phải cường địch mới phát huy đến chỗ tinh vi áo diệu của pho võ công này, tâm linh càng lúc càng cảm ứng, đột nhiên ngửa cổ cười ha hả ba tiếng, trong âm thanh đầy gian trá tà ma.
    Ba tiếng cười của chàng vừa dứt, bỗng nghe giữa ba cây tùng có tiếng người từ nơi địa lao truyền lên, chính là nghĩa phụ Tạ Tốn đang tụng kinh. Chỉ nghe giọng nói già nua của ông đọc kinh Kim Cương:
    - Khi đó Tu Bồ Đề nghe giảng kinh, hiểu rõ nghĩa lý, nước mắt ràn rụa, bạch Phật rằng: ?Kính lạy Thế Tôn, Phật giảng kinh điển thâm sâu dường ấy. Tôi từ khi có được tuệ nhãn đến nay chưa từng được nghe kinh này. Bạch Thế Tôn, nếu ai nghe kinh này mà có lòng tin thanh tịnh, ắt sẽ sinh ra thực tướng ...?
    Trương Vô Kỵ vừa đấu vừa nghe, từ khi Tạ Tốn tụng kinh uy lực của trường tiên trên tay ba nhà sư Thiếu Lâm lập tức giảm đi, nghe Tạ Tốn vẫn niệm tiếp:
    - ... Bạch Thế Tôn, hôm nay tôi được nghe kinh điển, tin tưởng chăm theo không còn gì khó nữa. Nếu đến đời sau, năm trăm năm nữa, chúng sinh được nghe kinh này, tin tưởng chăm theo, quả là hiếm có lắm thay. Vì sao thế? Người đó không có ngã tướng, không có nhân tướng, không có chúng sinh tướng, không có thọ giả tướng ...
    Trương Vô Kỵ nghe tới đây, trong lòng dạt dào như sóng biển, biết rằng nghĩa phụ từ khi bị giam nơi địa lao trên đỉnh núi này, ngày ngày nghe ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm tụng kinh, lần trước rõ ràng có thể thoát thân được nhưng tự biết mình tội nghiệt nặng nề, nhất định không chịu rời nơi đây, chẳng lẽ sau mấy tháng nghe kinh Phật đã đại triệt đại ngộ hay sao? Trong kinh có viết :? Nếu đến đời sau, năm trăm năm nữa, chúng sinh được nghe kinh này, tin tưởng chăm theo ...?. Trong lòng nghĩa phụ ta lúc này, cái kẻ năm trăm năm sau đó chẳng lẽ lại là Trương Vô Kỵ này chăng? Chỉ vì kinh nghĩa thâm trầm vi diệu, chàng đang kịch đấu không thể suy nghĩ cho sâu xa. Chàng có biết đâu Tu Bồ Đề trong kinh là một trưởng lão ở nước Xá Vệ bên Tây Trúc nghe Thích Già Mâu Ni giảng kinh Kim Cương, thành ra khi nghe Tạ Tốn tụng kinh văn chàng chỉ hiểu lờ mờ.
    Lại nghe Tạ Tốn tiếp tục tụng niệm:
    - Phật bảo Tu Bồ Đề: ?Chính thế đó! Chính thế đó! Nếu có ai nghe được kinh này, không kinh, không khiếp, không sợ, quả thực thật hiếm có trên thế gian ... Ta trước đây vì vua Ca Lợi mà cắt thân thể, nay ta cũng vì ngươi, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Vì sao thế? Ta đã từng bị chặt đứt ra thánh từng khúc từng khúc, nếu như có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, ắt sẽ nổi lòng giận dữ thù hận ... Hỡi Bồ Đề ngươi nên rời xa những tướng đó?.
    Đoạn kinh văn đó nghĩa lý thật rõ ràng, hiển nhiên định nói rằng, mọi việc trên thế gian này đều là huyễn ảo, ngay cả đối với thân thể mình, tính mệnh mình, trong lòng không còn một chút ý niệm dẫu cho người khác có đâm chém thân thể mình, cắt ra thành từng khúc, nếu không còn nghĩ đó là thân thể mình thì không còn chút gì phiền não. Nghĩa phụ đang ở trong địa lao mà lòng bình thản như thế, không lẽ ông đã đạt tới cảnh giới bất kinh, bất bố, bất úy rồi hay sao?
    Chàng trong lòng lại chợt nổi lên một ý niệm: ?Hay là nghĩa phụ nhắn với ta rằng đừng phải lo nghĩ cho ông ta làm chi, không cần phải ra sức cứu ông ta thoát hiểm nữa??.
    Thì ra trong mấy tháng qua Tạ Tốn bị giam tại chùa Thiếu Lâm, ngày đêm nghe ba nhà sư tụng kinh Kim Cương, nghĩa lý trong kinh cũng hiểu biết ít nhiều, lúc này nghe thấy tiếng cười của Trương Vô Kỵ quái dị, dường như ma tâm đang nổi lên dần dần đi vào chỗ nguy hiểm, liền lên tiếng tụng kinh Kim Cương để giúp chàng thoát ra khỏi những ma chướng đang uất kết trong lòng.
    Trương Vô Kỵ một mặt nghe Tạ Tốn tụng niệm Phật kinh, chiêu số trên tay vẫn không ngừng lại, trong đầu nghĩ đến nghĩa lý lồng trong kinh văn, ma lực trong tâm từ từ tiêu giảm, pho võ công Ba Tư cổ quái kia không còn liền lạc với nhau, nghe vút một tiếng, sợi dây của Độ Kiếp đã nhằm đánh vào vai bên trái. Trương Vô Kỵ hạ vai xuống tránh, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, phối hợp với Cửu Dương thần công lập tức chế ngự ngay được kình lực đánh tới, trong lòng hơi động: ?Ta sử dụng pho võ công Ba Tư cổ quái kia khó mà thắng được?. Chàng liếc sang Chu Chỉ Nhược, thấy nàng lạng trái lách phải xem ra sắp sửa thua đến nơi, nghĩ thầm: ?Thế ngày hôm nay không thể nào vẹn cả đôi bề. Nếu ta không trổ hết toàn lực, nếu Chỉ Nhược thua rồi thì không còn làm sao cứu nghĩa phụ được nữa?.
    Chàng liền hú lên một tiếng dài, cầm hai thanh thánh hỏa lệnh lập tức chuyển sang thế công. Trong khi tiếng tụng kinh của Tạ Tốn vẫn tiếp tục, Trương Vô Kỵ ngưng thần sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, thành thử ông ta đọc chàng tuy có nghe nhưng không biết gì cả cố gắng làm sao bắt được ba sợi dây của những nhà sư ngõ hầu Chu Chỉ Nhược có cơ hội đột phá vòng vây chen vào trong giữa ba cây tùng.
    Một khi chàng đem toàn lực ra thi triển, tam tăng thấy áp lực đè lên những sợi dây càng lúc càng nặng khiến ai nấy phải vận nội lực để chống lại. Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba nhà sư lấy tinh nghĩa yếu chỉ từ kinh Kim Cương, điểm tối hậu mong đạt đến là ?vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng?, khiến cho không còn phân biệt ta với người, sống với chết, mọi sự đều là không huyễn cả. Thế nhưng tuy tam tăng tu luyện đã cao nhưng khi ra tay vẫn còn ý niệm khắc địch chế thắng, tuy đã bỏ cái sống chết của bản thân mình ra ngoài nhưng cái phân biệt ta với người vẫn còn chưa sao diệt được, cho nên uy lực của Kim Cương Phục Ma Khuyên chưa lên đến cực điểm.
    Trong ba nhà sư thì Độ Nạn tu tập cao nhất, biết được mình phải làm sao trừ được ?bốn tướng ta với người? nhưng cái tâm tranh thắng Độ Nạn, Độ Kiếp hai người còn thịnh, thâm nhiễm tạp niệm còn sâu, chấp vào hình tướng của thế gian thành thử tiên pháp của Độ Ách không thể không chiều theo phối hợp với hai sư đệ.
    Người ngoài đứng xem thấy Trương Vô Kỵ biến cải chiêu số võ công, cuộc diện tỉ đấu giữa ba cây tùng càng lúc càng kịch liệt, trên đầu ba nhà sư lờ mờ thấy hiện lên một làn hơi, biết là trên trán và đỉnh đầu mồ hôi bị nội lực hâm nóng thành hơi bốc lên, đủ biết năm người đã đến cảnh giới đấu bằng nội lực. Trên đầu Trương Vô Kỵ cũng có thủy khí hiện ra, nhưng thẳng tắp một sợi như cây bút, vừa nhỏ vừa dài tụ mà không tán, rõ ràng nội lực của chàng cao siêu hơn cả ba nhà sư. Hôm qua quần hùng ai cũng thấy chàng bị trọng thương nào ngờ chỉ mới qua một đêm đã hoàn toàn bình phục, nội lực thâm hậu đến thế khiến ai nấy phải kinh hãi.
    Còn Chu Chỉ Nhược thì không chính diện giao phong với ba nhà sư, chỉ ở ngoài vòng chạy qua chạy lại đánh cầm chừng, cứ thấy vòng Kim Cương Phục Ma chỗ nào sơ hở thì lại phóng tới, trường tiên đâm vào rồi lại nhảy ra ngoài như gà thấy cáo. Đến lúc này Trương Vô Kỵ và nàng võ học ai cao ai thấp mọi người đã rõ, trong đám người đứng ngoài có mấy người thì thầm bàn tán với nhau:
    - Trong những năm gần đây người ta đồn rằng Minh Giáo Trương giáo chủ võ công cao cường đời nay không ai sánh kịp, quả nhiên danh bất hư truyền. Hôm qua y cố ý nhường vị Tống phu nhân này đấy thôi, đúng là đàn ông con trai ai lại hơn thua với đàn bà bao giờ.
    - Ai bảo là đàn ông con trai ai lại hơn thua với đàn bà? Tống phu nhân vốn là vợ của Trương giáo chủ, bộ ngươi không biết hay sao? Cái đó gọi là ?tình xưa nghĩa cũ?.
    - Hừ, ?tình oan nghĩa trái? thì có chứ ?tình xưa nghĩa cũ? cái gì?
    - Thế nhưng sau đó Tống phu nhân lại tha chết cho Trương giáo chủ, thế chẳng phải ?tình chàng nghĩa thiếp? hay sao?
    Chiêu số của Thiếu Lâm tam tăng và Trương Vô Kỵ càng lúc càng chậm lại nhưng biến hóa thì càng lúc càng tinh vi. Võ công của Chu Chỉ Nhược vốn chỉ lấy biến hóa kỳ ảo là chính, thắng được Võ Đương nhị hiệp là tuyệt đỉnh rồi, nói đến công phu nội lực, so với Du Liên Châu, Ân Lê Đình thật còn kém xa. Lúc này Trương Vô Kỵ và ba nhà sư lấy bản lãnh chân thực đấu với nhau không có cách nào lấy khéo léo mà che đậy được, nàng không cách gì chen tay vào, có lúc cố vung roi xông lên nhưng đụng phải nội kình của bốn người lập tức bị dội ngược trở ra.
    Lại đấu thêm nửa giờ nữa, Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ cuồn cuộn lưu chuyển, thánh hỏa lệnh phát ra tiếng gió vù vù. Ba nhà sư mặt mũi vốn khác nhau lúc này ai nấy đều đỏ bừng như máu, tăng bào căng lên chẳng khác gì gió thổi vào. Thế nhưng áo quần Trương Vô Kỵ không thấy gì khác, cao thấp xem ra đã rõ ràng, nếu như chàng lấy một địch một, hay cả đến một địch hai thì đã thắng rồi. Cửu Dương chân khí của chàng nguyên hồn hậu không đâu sánh được, lại thêm Trương Tam Phong chỉ điểm cho phép luyện khí trong thái cực quyền, cho nên càng đấu càng thịnh, có thể kéo dài đến một hai giờ cho đến khi đối phương kiệt lực. Ba nhà sư lúc này biết rằng càng lâu càng bất lợi, đột nhiên cùng cất tiếng quát lên, ba sợi dây cùng chuyển động, bóng dây ngang dọc, lúc có lúc không. Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn thế roi của địch, đến đâu sách giải đến đó, trong bụng hơi bồn chồn: ?Võ công Chu Chỉ Nhược tuy lạ lùng thật nhưng học cũng chưa bao lâu, thành ra uy lực không bằng Dương tả sứ và ông ngoại liên thủ. Ta một mình không thể nào làm được chuyện gì, xem ra hôm nay mình lại thua mất. Lần này không cứu được nghĩa phụ thì biết làm sao đây??.
    Chàng trong bụng hoang mang, nội lực liền sút giảm bị tam tăng thừa cơ tấn kích khiến cho đã gian nan lại càng thêm nguy hiểm. Chỉ trong một chớp mắt, trong đầu Trương Vô Kỵ hiện ra biết bao yêu thương Tạ Tốn dành cho khi còn ở trên Băng Hỏa Đảo, lại nghĩ đến Tạ Tốn mắt đã mù nhưng chấp nhận mạo hiểm quay trở lại giang hồ cũng chỉ vì mình, hôm nay nếu không cứu nổi ông ta thật chàng cũng không mong sống nữa làm gì. Bỗng thấy trường tiên của Độ Nạn từ phía sau cuốn tới, chàng không còn nghĩ gì tới sinh tử an nguy của bản thân, tay trái vươn ra để cho cây roi quất vào cánh tay, dùng phương pháp Na Di Càn Khôn đề ngự sức đánh vào, tay phải dùng thánh hỏa lệnh đỡ hai sợi dây của Độ Ách, Độ Kiếp đang tấn công tới, thân hình chẳng khác gì một con chim đại bàng bay giạt qua bên trái, giữa không trung xoay một vòng đã quấn luôn trường tiên của Độ Nạn vào cây thông ông ta ngồi.
    Chiêu đó quả không ai ngờ nổi, Trương Vô Kỵ lấy tay đẩy một cái tung ngược người về sau định xiết cho sợi dây cho lún sâu vào cây thông, Độ Nạn kinh hãi hết sức giựt lại, Trương Vô Kỵ biến chiêu thật nhanh, theo đà giựt kéo luôn về phía ông ta. Thân cây tùng tuy to thật nhưng dưới gốc đã bị khoét mất một nửa để làm chỗ tránh gió tránh mưa cho ba nhà sư, lúc này bị sợi trường tiên dẻo dai cuốn lấy, do hai luồng lực đạo của Độ Nạn và Trương Vô Kỵ cùng kéo, nghe lách cách mấy tiếng, cây tùng gãy ra làm đôi, từ trên không đổ ụp xuống.
    Nhân lúc Độ Ách, Độ Kiếp nhị tăng còn đang kinh ngạc chưa kịp trở tay, song chưởng của Trương Vô Kỵ liền tung ra, quát lên một tiếng đánh thẳng vào cây tùng của Độ Ách. Chưởng lực đó là công lực của cả một đời chàng, cây tùng kia chịu không nổi, lập tức gãy ngay. Hai cây tùng gãy, cành lẫn lá nặng phải đến mấy nghìn cân đổ ập vào cây tùng của Độ Kiếp. Trương Vô Kỵ phi thân nhảy lên, hai chân đạp luôn vào cây tùng thứ ba, cây đó cũng gãy nốt, rung chuyển rồi từ từ ngã xuống.
    Trong tiếng cây đổ, tiếng người hò reo ầm ầm huyên náo, Trương Vô Kỵ liền ném hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay về phía Độ Ách, Độ Kiếp. Nhân lúc hai nhà sư cuống quít một mặt tránh cây thông, một mặt đối phó với hai thanh thánh hỏa lệnh Trương Vô Kỵ hụp xuống, lăn tròn giữa khe hở cây thông đang đổ xuống, vào được vòng Kim Cương Phục Ma, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, vừa đẩy vừa lay, lập tức xê dịch được tảng đá đóng nắp hầm, kêu to:
    - Nghĩa phụ, may chạy ra!
    Chàng e ngại Tạ Tốn không chịu ra, không đợi trả lời, thò tay xuống, nắm lấy lưng ông ta kéo lên.
    Ngay lúc đó hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp đã đánh tới. Trương Vô Kỵ đành phải bỏ Tạ Tốn xuống, thò tay móc hai chiếc thánh hỏa lệnh trong túi ném về phía hai nhà sư, hai bàn tay nhanh như điện, chộp luôn hai đầu dây. Độ Ách, Độ Kiếp đang toan vận nội lực đoạt về thì hai thanh thánh hỏa lệnh đã bay tới trước mặt, không còn kịp suy nghĩ gì khác, chỉ còn nước vứt bỏ sợi dây, nhảy vọt về phía sau mới tránh được tập kích. Ngay khi đó tả chưởng của Độ Nạn đã đánh tới trước ngực, Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Chỉ Nhược, mau chặn lại!
    Chàng nghiêng người né qua, ôm Tạ Tốn, chỉ mong cứu ông ta ra khỏi ba cây tùng, phái Thiếu Lâm sẽ không còn nói gì được nữa. Chu Chỉ Nhược hừ một tiếng, hơi chần chừ, hữu chưởng của Độ Nạn đã đánh tiếp theo. Trương Vô Kỵ thân hình lệch qua cốt tránh những yếu huyệt sau lưng, để cho chưởng đó đánh vào đầu vai.
    Chàng ôm Tạ Tốn, đang định nhảy ra khỏi ba cây thông gãy, Tạ Tốn nói:
    - Vô Kỵ hài nhi, ta một đời tội nghiệt thâm trọng, ở nơi đây nghe kinh sám hối nên tâm mới an, thông hiểu lý lẽ. Con cứu ta ra làm gì?
    Ông nói xong dẫy dụa toan đứng xuống. Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ võ công thật cao cường, nếu như kiên quyết không chịu đi thì thật khó mà đối phó bèn nói:
    - Nghĩa phụ, con đành đắc tội vậy!
    Năm ngón tay phải chàng vận kình điểm luôn mấy nơi huyệt đạo trên đùi, ngực và bụng để nhất thời ông ta không cử động được. Thế nhưng vì trở ngại đó, chưởng của ba nhà sư Thiếu Lâm cùng đánh ra, quát lên:
    - Để người lại!
    Trương Vô Kỵ thấy chưởng lực của tam tăng bao phủ bốn bề tám hướng, thủ chưởng chưa đến, kình phong đã ép vào, đành phải bỏ Tạ Tốn xuống đất, giơ chưởng ra chống đỡ, kêu lên:
    - Chỉ Nhược, mau ôm nghĩa phụ ra ngoài!
    Song chưởng của chàng vung lên thành từng vòng, vận toàn lực đối phó với ba nhà sư để không người nào rảnh tay ngăn trở Chu Chỉ Nhược. Đó là một trong những công phu tối cao trong Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, chưởng lực xoay tròn hư hư thực thực, dính chặt lấy chưởng của cả ba nhà sư.
    Chu Chỉ Nhược nhảy vào trong vòng, đi đến bên cạnh Tạ Tốn. Tạ Tốn quát lên:
    - Hừ, con tiện nhân ...
    Chu Chỉ Nhược liền giơ tay điểm á huyệt của ông ta, mắng lại:
    - Họ Tạ kia, ta có hảo ý cứu ngươi, sao lại mở mồm chửi người là sao? Ngươi tội ác ngập đầu, tính mạng ở trong tay ta, tưởng ta không giết ngươi được hay sao?
    Nói xong giơ tay phải lên, năm ngón tay thành trảo, vồ xuống đỉnh đầu Tạ Tốn. Trương Vô Kỵ trông thấy hoảng hốt, vội kêu:
    - Chỉ Nhược, không được thế!
    Lúc này chàng đang giở hết công lực bình sinh đấu với ba nhà sư, tuy tam tăng không có ý giết Trương Vô Kỵ, nhưng vào lúc mà sinh tử chỉ quyết định trong nháy mắt, không muốn đả thương người thì chính mình sẽ chết không cách nào có thể dung tha cho nhau được. Trương Vô Kỵ vừa mở mồm, chân khí tiết lậu, chưởng lực của ba nhà sư lập tức như bài sơn đảo hải ụp tới, chỉ đành hết sức gượng lại. Hai bên đều vận yếu quyết chữ ?niêm?, nếu chưa thắng bại thì không thể làm cách nào rời ra được.
    Chu Chỉ Nhược bàn tay để trên không nhưng chưa vồ xuống, liếc Trương Vô Kỵ cười nhạt nói:
    - Trương Vô Kỵ, hôm trước ở trong thành Hào Châu, đang khi làm lễ cưới ngươi bỏ ta mà đi, đâu có ngờ đến ngày hôm nay?
    Trương Vô Kỵ tâm chí chia làm ba, vừa lo cho tính mạng của Tạ Tốn, lại căm giận nàng nhân lúc khẩn cấp đem chuyện cũ ra báo thù, huống chi tam tăng chưởng lực vẫn cuồn cuộn đổ tới, dẫu như chuyên tâm ngưng thần đối phó rồi về sau cũng thua, huống chi tâm hồn hỗn loạn thật đúng là đại họa lâm đầu.
    Trên trán chàng mồ hôi từng giọt đổ xuống, chỉ giây lát trước mặt sau lưng, quần áo chỗ nào cũng ướt đẫm. Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc, Du Liên Châu, Ân Lê Đình cả bọn thấy tình hình như thế, ai nấy đều kinh hãi thất sắc. Ai nấy đều cùng mang một ý niệm, chỉ mong cứu được Trương Vô Kỵ, còn mình dẫu phải bỏ mạng cũng không hối hận, nhưng người nào cũng biết mình công lực không đủ, không nói gì đứng giữa can hai bên ra, mà nếu có tiến lên tấn công ba nhà sư, tam tăng sẽ nhẹ nhàng đưa ngoại lực dồn vào Trương Vô Kỵ khiến chàng càng phải chịu đựng nhiều hơn, cứu không xong lại càng thêm hại.
    Không Trí cao giọng kêu lên:
    - Ba vị sư thúc, Trương giáo chủ mấy lần gia ân cho bản phái, xin nhẹ tay cho.
    Thế nhưng bốn người đã đến lúc không còn có thể phân ra được nữa, Trương Vô Kỵ vốn không có bụng đả thương ba lão tăng, những nhà sư cũng nhớ đến cái ơn giải vây hôm trước đang tìm cách ngừng tay có điều hai bên đều lâm vào thế cưỡi trên lưng hổ không sao xuống được. Tam tăng đã đến lúc không còn chú ý gì đến bên ngoài thành thử mấy lời của Không Trí không ai nghe thấy, mà dù có nghe thì cũng đành chịu.
    Vi Nhất Tiếu lạng người một cái như một làn khói mỏng bay vào trong ba cây tùng gãy toan đánh vào Chu Chỉ Nhược, thế nhưng thấy nàng ta giơ tay để trên lưng chừng, nếu như xông lên, thủ trảo ắt chộp ngay xuống đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn chết đi, Trương Vô Kỵ đau lòng lập tức táng mạng dưới chưởng của ba vị trưởng lão Thiếu Lâm. Vi Nhất Tiếu bất quá chỉ cách Chu Chỉ Nhược chừng một trượng, nhưng đành ngẩn ngơ đứng nhìn, không dám tiến lên. Trong giây lát trên đỉnh núi ai nấy đứng trơ trơ như tượng đá, không ai cử động, cũng không ai nói một lời nào.
    Đột nhiên Chu Điên cười khà khà hùng dũng tiến lên. Dương Tiêu giật mình kinh hãi quát lớn:
    - Điên huynh, không được lỗ mãng.
    Chu Điên không để ý đến, đi đến trước mặt ba nhà sư Thiếu Lâm mặt mày tươi tỉnh hỏi:
    - Ba vị đại hòa thượng, có ăn thịt chó không nào?
    Y thò tay vào bọc lấy ra một đùi chó đã nấu chín, nhứ nhứ trước mặt Độ Ách. Mấy hôm nay chùa Thiếu Lâm đãi ăn chỉ toàn món chay, Chu Điên hay rượu thích thịt, hai ngày liền hôm nào cũng rau dưa đậu phụ làm sao chịu nổi? Tối hôm qua y bắt trộm được một con chó, xẻ ra ăn no, nhưng còn giữ lại một đùi, bây giờ tình hình cấp bách nên đem ra quấy nhiễu tinh thần ba nhà sư. Bọn Dương Tiêu thấy thế ai nấy mừng rỡ, nghĩ thầm: ?Chu Điên bình thời hành sự khùng khùng điên điên, nhưng bây giờ quả là kế hay lắm?. Mọi người biết rằng một khi sử dụng nội lực toàn do tập trung tinh thần chí khí, Chu Điên nếu phá rối như thế, chỉ cần một nhà sư nổi sân niệm, tâm thần hơi phân tán là Trương Vô Kỵ có thể thắng được ngay.
    Ba nhà sư nhìn mà không thấy, không ai để ý gì đến y. Chu Điên giơ đùi thịt chó lên nhai nhồm nhoàm, tấm tắc:
    - Thơm quá! Ngon quá! Ba vị đại hòa thượng ăn thử một miếng xem nào!
    Y thấy tam tăng vẫn thản nhiên như không, liền giơ đùi chó toan nhét vào mồm Độ Ách. Những nhà sư Thiếu Lâm đứng quanh cùng quát lên:
    - Thằng điên kia, mau ra ngay.
    Chu Điên đẩy chiếc đùi chó vào môi nhà sư, đột nhiên cánh tay giật mạnh, nửa người tê đi, nghe bạch một tiếng chiếc đùi chó đã rơi xuống đất. Thì ra lúc này nội kình Độ Ách đã tỏa ra khắp thân thể đến mức ?ruồi nhặng không đậu được?, bất cứ nơi nào khi gặp phải ngoại lực lập tức đẩy văng đi.
    Chu Điên kêu lên:
    - Ối chao! Ối chao! Thật tệ quá, thật tệ quá! Ông không ăn thịt chó thì cũng chẳng sao, cớ gì lại hất đùi chó ngon lành của tôi xuống đất, làm bẩn hết thế này? Ông phải đền cho tôi, ông phải đền cho tôi!
    Y hoa chân múa tay kêu la rầm rĩ. Ngờ đâu ba nhà sư tu tập công phu, không bị các ma chướng bên ngoài quấy rối. Chu Điên tay phải lật một cái đã rút trong người ra một con dao, kêu lên:
    - Nếu ông không chịu ăn thịt chó, lão tử hôm nay sẽ thí mạng cho mà xem.
    Y giơ dao lên vạch vào mặt một cái, lập tức máu chảy ròng ròng. Quần hùng kinh hoảng kêu lên, Chu Điên lại giơ dao cắt thêm một đường nữa, lập tức mặt mũi đầy máu me, trông thật quái đản ghê rợn. Hình ảnh đó dẫu ai trông thấy cũng gớm ghiếc, nhưng Thiếu Lâm tam tăng vẫn chuyên chú, mắt tai mũi lưỡi không còn sử dụng, nên nào có thấy cái cảnh tự hủy hoại của Chu Điên đến như y đến trước mặt cũng không hay biết. Chu Điên lại kêu toáng lên:
    - Hòa thượng giỏi nhỉ, nếu ông không đền đùi thịt chó cho tôi, tôi chết ngay tại đây cho mà xem.
    Y giơ đoản đao lên toan đâm luôn vào tim mình. Y thấy giáo chủ tình hình nguy khốn, quyết ý xả mệnh tự sát để quấy nhiễu tinh thần ba nhà sư. Đột nhiên một bóng vàng thấp thoáng, một người đã phi thân tới, vươn tay cướp luôn con dao trong tay y, tiếp theo nghiêng người lướt tới, năm ngón tay thò ra, chộp xuống đỉnh đầu Chu Chỉ Nhược, thủ pháp sử dụng giống hệt cách Tống Thanh Thư dùng để giết các trưởng lão Cái Bang.
    Năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược tuy chỉ cách đỉnh đầu Tạ Tốn chưa đầy một thước, nhưng kẻ địch thân pháp nhanh quá, đành phải rút tay về đỡ, gạt chiêu đó ra ngoài.
    Trương Vô Kỵ nội kình mạnh không kém gì ba nhà sư liên thủ, nhưng công phu khô thiền ?ta vật đều quên? thì kém xa, chưa đến mức vào mắt mà không thấy, vào tai mà không nghe nên khi thấy Chu Chỉ Nhược ra tay uy hiếp Tạ Tốn, tâm thần chàng liền xao động ngay. Chu Điên đi lên phá rối, đến lúc cầm dao tự tận chàng đều nhìn rõ, trong bụng lại càng hoảng hốt. Lúc đó nội tức trong người chàng dâng lên như sóng biển, chỉ chớp mắt là hộc máu chết ngay tại chỗ, bỗng thấy cô gái áo vàng nhảy vào đoạt đoản đao trong tay Chu Điên, xuất chiêu tấn công Chu Chỉ Nhược giải thoát Tạ Tốn khỏi nguy nan.
    Trương Vô Kỵ trong lòng mừng rỡ, nội kình lập tức trổi lên, kình lực của ba nhà sư liền hóa giải, chỉ giây lát đã thành thế thăng bằng. Bọn Độ Ách tuy không nhìn, không nghe thấy cảnh giới bên ngoài nhưng nội kình hai bên lên xuống vẫn cảm thấy rất tinh tế, thấy đối phương nội kình bỗng tăng lên thật nhanh nhưng không chuyển từ thế thủ sang thế công chính là cơ hội tối hảo để tiêu trừ nguy nan. Ba nhà sư tâm ý tương thông, lập tức liền từ từ thu kình lại, Trương Vô Kỵ cũng thu bớt một phần, tam tăng lại thu một phần. Cứ như thế bên này thu một ít bên kia thu một ít chỉ khoảnh khắc hai bên đều thu về cả. Tất cả bốn người cùng cười ha hả đứng lên. Trương Vô Kỵ vái một cái thật sâu, Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp ba nhà sư cũng chắp tay đáp lễ, cùng cất tiếng:
    - Bội phục, bội phục!
    Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại thấy cô gái áo vàng đang cùng Chu Chỉ Nhược giao đấu thật kịch liệt. Cô gái tay không còn Chu Chỉ Nhược một tay roi, một tay đoản đao nhưng xem ra vẫn núng thế. Võ công cô gái áo vàng xem ra cùng đường với Chu Chỉ Nhược, phiêu hốt linh động, huyễn ảo vô cùng nhưng giơ tay cất chân đều chính chứ không phải tà, nếu nói Chu Chỉ Nhược dáng như quỉ mị thì cô gái áo vàng thật chẳng khác gì thần tiên.
    Trương Vô Kỵ chỉ mới coi sơ qua cũng biết cô gái kia chỉ thắng chứ không thua, nghĩa phụ không có gì nguy hiểm, nhưng xem ra nàng ta ra chiêu như muốn dò đường để xem võ công Chu Chỉ Nhược đến đâu, còn như quả như muốn thắng thì đã đánh ngã Chu Chỉ Nhược từ lâu rồi.
    Độ Ách nói:
    - Thiện tai! Thiện tai! Trương giáo chủ, tuy các hạ không thắng được ba anh em chúng tôi, chúng tôi cũng không thắng được các hạ. Tạ cư sĩ, xin ông cứ tự nhiên.
    Nói xong ông ta tiến lên giải các huyệt đạo cho Tạ Tốn nói:
    - Tạ cư sĩ, phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật. Cửa Phật lúc nào cũng mở rộng, thế gian này không ai là không độ được. Ta với ngươi ở trên đỉnh núi này cũng đã lâu ngày, cái đó cũng là có duyên với nhau.
    Tạ Tốn đứng thẳng dậy nói:
    - Ngã Phật từ bi, may được ba vị đại sư chỉ cho con đường sáng, Tạ Tốn này cảm kích khôn cùng.
    Chỉ nghe thiếu nữ áo vàng quát lên một tiếng, tay trái vươn ra đã đoạt được trường tiên trong tay Chu Chỉ Nhược, tiếp theo thúc cùi chỏ vào huyệt đạo trên ngực nàng, năm ngón tay phải vươn ra để hờ trên đầu nói:
    - Ngươi có muốn nếm mùi ?Cửu Âm Bạch Cốt Trảo? hay chăng?
    Chu Chỉ Nhược không cử động được, nhắm mắt chờ chết. Tạ Tốn tuy hai mắt không nhìn thấy gì nhưng tình cảnh chung quanh vẫn hiểu rõ, tiến lên vái một cái nói:
    - Cô nương cứu mạng cho hai cha con tôi, đại đức đó thật là sâu nặng. Vị Chu cô nương này nếu không biết hối cải, vẫn tiếp tục làm điều bất nghĩa, thể nào rồi cũng có ngày bị quả báo. Khẩn cầu cô nương hôm nay tha cô ta một chuyến.
    Cô gái áo vàng nói:
    - Kim Mao Sư Vương hối cải nhanh quá đi thôi.
    Thân hình nàng lắc một cái đã lùi ra ngoài.
   

- o O o -

    [1] Kình lực xoáy vào như hình trôn ốc, hình mũi khoan [2] Trung Hoa chính yếu có hai loại tiên, một loại gọi là cương tiên, hình dáng giống như một cây gậy có cán, đúc bằng kim loại (hơi giống cây giản), một loại là nhuyễn tiên là một thứ roi mềm (dài hơn). Việt Nam ta có cây roi (ở vùng Bình Định rất nổi tiếng) còn gọi là trung bình tiên giống cây côn một đầu chuốt hơi nhỏ hơn, chiều dài bằng người đứng thẳng giơ tay lên, phương pháp sử dụng giống như đánh thương, chủ yếu dùng để đâm. Ngoài ra ta còn một loại roi khác gọi là roi lâm, ngắn hơn trung bình tiên, phép đánh nửa roi, nửa côn.
    [3] Gồm hai mắt, hai lỗ mũi, hai lỗ tai và miệng [4] tâm vô bàng vụ, hàm hung bạt bối, trầm kiên trụy trửu là yếu quyết của người tập luyện thái cực quyền hay kiếm pháp ý nói người luyện phải buông lỏng ra để khí lực lưu chuyển cho thông sướng.
    [5] Thái Sơn băng ư tiền nhi sắc bất biến, Mị lộc hưng ư tả nhi mục bất thuấn
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:02:43 | Chỉ xem của tác giả
BÍ CẬP BINH THƯ THỬ TRUNG TÀNG

    Ai ngờ tay áo nuôi ong, Biết người biết mặt biết lòng được sao?
    Sông sâu còn có kẻ đào, Lòng người thay đổi dây nào buộc đây?

    rương Vô Kỵ cầm tay Tạ Tốn, đang tính sánh vai bước ra, Tạ Tốn bỗng nói:
    - Khoan đã!
    Ông ta chỉ vào một lão tăng trong đám sư chùa Thiếu Lâm kêu lên:
    - Thành Côn! Ngươi mau ra đây, trước mặt anh hùng thiên hạ, nói tất cả tiền nhân hậu quả cho mọi người nghe xem nào.
    Mọi người ai nấy kinh ngạc, thấy nhà sư đó lưng còng yếu đuối, hình dung ti tiện, tướng mạo khác hẳn Thành Côn. Trương Vô Kỵ đang định nói: ?Ông ta không phải Thành Côn đâu!? thì lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:
    - Thành Côn, ngươi có thể thay đổi tướng mạo, nhưng không thể thay đổi thanh âm. Ngươi chỉ cần tằng hắng một tiếng, ta đã biết ngay ai rồi.
    Lão tăng kia cười nham hiểm nói:
    - Ai mà nghe lời một thằng mù nói láo nói lếu bao giờ.
    Ông ta vừa mở mồm, Trương Vô Kỵ lập tức nhận ra ngay. Hôm đó chàng ở trên Quang Minh Đính nằm trong cái túi vải đã từng nghe Thành Côn trường thiên đại luận nên thanh âm của y chàng nhớ rất rõ, tuy lúc này Thành Côn cố ý chẹt họng lại, thân hình tướng mạo cũng cải trang rất khéo léo nhưng giọng nói vẫn không che dấu được. Trương Vô Kỵ liền nhảy ra chặn đường y nói:
    - Viên Chân đại sư, Thành Côn tiền bối, đại trượng phu quanh minh lỗi lạc sao không đưa bộ mặt thật của mình ra cho người ta xem?
    Thành Côn cải trang ẩn mình trong tăng chúng Thiếu Lâm từ đầu đến cuối không lộ chút sơ hở nào, mãi đến khi thiếu nữ áo vàng chế phục được Chu Chỉ Nhược quả thực ngoài tính toán của y, nhịn không nổi nên mới ho khẽ một tiếng, Tạ Tốn sau khi mắt mù tai trở thành rất thính, tiếng tằng hắng kia thật chẳng khác gì một tiếng sét giữa ban ngày nên nhận ra ngay ra kẻ thù mà ông vẫn hằng ghi sâu trong xương tủy.
    Thành Côn thấy việc đã đổ bể liền tiến ra quát lớn:
    - Thiếu Lâm tăng chúng nghe đây, ma giáo lên đây quấy nhiễu đất Phật, coi rẻ bản phái, tất cả cùng ra tay giết sạch chúng không còn phải nói năng gì nữa.
    Bọn đồng đảng thủ hạ của y liền nhao nhao đáp lời, rút binh khí tiến lên toan động thủ. Không Trí chỉ vì sư huynh Không Văn bị bọn phản đồ hiếp chế, nín nhịn đã lâu, lúc này nghe Viên Chân ra lệnh cho đồng đảng đánh với Minh Giáo, nếu hai bên hỗn chiến, không biết chùa Thiếu Lâm sẽ có bao nhiêu người bỏ mạng, tính toán nặng nhẹ thiệt hơn thì chuyện sống chết của cả chùa Thiếu Lâm là chuyện lớn, nên liền quát lên:
    - Không Văn phương trượng đã rơi vào tay tên phản đồ Viên Chân này rồi, các đệ tử bắt lấy y trước rồi cứu phương trượng sau.
    Chỉ giây lát trên đỉnh núi nhốn nháo cả lên. Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược nằm gục dưới đất, nét mặt đầy vẻ ủ rũ, trong lòng không nỡ nên tiến lên giải huyệt cho nàng, đỡ dậy. Chu Chỉ Nhược hất tay chàng ra, cố gượng đi về với đám đệ tử phái Nga Mi. Bỗng nghe Tạ Tốn sang sảng nói:
    - Việc ngày hôm nay hoàn toàn do Thành Côn và tôi gây nên mọi chuyện, bao nhiêu ân oán dây dưa, hãy để cho hai người chúng tôi giải quyết. Sư phụ, bao nhiêu tài nghệ của tôi cũng do thầy chỉ dạy; Thành Côn, cả nhà ta bị chính ngươi giết sạch. Đại ân cũng như đại cừu, hôm nay tôi và ông phải thanh toán cho xong.
    Thành Côn thấy Không Trí không còn úy kỵ gì nữa mở lời ra lệnh, dẫu gì trong số nhà sư phe chính cũng vẫn đông hơn, đồng đảng của mình chỉ là một phần nhỏ, cái mộng lên làm phương trượng của mình đã tan ra mây khói, nghĩ thầm: ?Tạ Tốn gây ra biết bao nhiêu điều ác, nếu ta chế ngự được y thì mọi chuyện xấu xa sẽ đổ riệt lên đầu y được. Võ công y đều do ta truyền thụ, hai mắt lại mù, không lẽ mình không đối phó nổi hay sao??. Y bèn nói:
    - Tạ Tốn, trên giang hồ biết bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng dưới tay ngươi, hôm nay lại kêu gọi các ma đầu của ma giáo đến quấy nhiễu phúc địa Phật môn, là kẻ thù chung của thiên hạ. Ta thật tiếc đã truyền thụ võ công cho ngươi, lúc này không thể không quét sạch cửa ngõ, trừng trị tên nghịch đồ khi sư diệt tổ.
    Nói xong y hung hăng tiến ra trước mặt Tạ Tốn. Tạ Tốn cao giọng nói:
    - Quí vị anh hùng bốn phương nghe đây: Võ công của Tạ Tốn này, nguyên là do vị Thành Côn sư phụ đây dạy cho, thế nhưng y bức gian vợ tôi không được, giết cha mẹ vợ con tôi. Thầy trò tuy thân, nhưng cũng không thân bằng cha sinh mẹ đẻ ra mình. Tôi tìm y để báo thù, liệu có đáng hay không?
    Bốn bề quần hùng cất tiếng hò reo vang động:
    - Đáng báo thù! Đáng báo thù!
    Thành Côn không nói một lời, nghe vù một tiếng đánh ra một chưởng vào đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn nghiêng qua, tránh chỗ yếu hại trên đỉnh đầu, nghe bốp một tiếng chưởng đó trúng ngay vai ông ta. Tạ Tốn hừ một tiếng không trả đòn nói:
    - Thành Côn, năm xưa ngươi truyền cho ta chiêu Trường Hồng Kinh Thiên[1] có nói là nếu đánh trúng địch thủ rồi, thì phải sử dụng Hỗn Nguyên Nhất Khí Công để đả thương địch, hà cớ gì ngươi lại không vận công? Hay là vì tuổi đã cao, không còn vận công được nữa?
    Thì ra chiêu đầu tiên Thành Côn sử dụng chỉ là hư chiêu, có ngờ đâu đối phương lại không tránh né, đánh là trúng ngay. Thế nhưng chiêu này y hoàn toàn không sử dụng kình lực cho nên Tạ Tốn không bị thương.
    Thành Côn tay trái đánh nhứ ra, tay phải lại tung ra một chưởng nữa. Tạ Tốn nghiêng người tránh qua, cũng không trả đòn. Thành Côn hai chân liên hoàn cước đá tới, bộp bộp hai tiếng, hông Tạ Tốn trúng luôn hai cái. Hai cú đá đó kình lực thật là ghê gớm, mặc dầu Tạ Tốn thân thể cao to nhưng cũng chịu không nổi, oa lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.
    Trương Vô Kỵ vội kêu lên:
    - Nghĩa phụ, trả đòn đi. Sao cha lại chỉ chịu đựng mà không đánh trả?
    Tạ Tốn thân hình lảo đảo, gượng cười nói:
    - Y là sư phụ ta, có chịu hai cú đá và một chưởng thì cũng đáng.
    Nói xong ông hú lên một tiếng, múa chưởng đánh ra. Thành Côn trong bụng kêu thầm: ?Tiếc quá, tiếc quá! Ta vẫn tưởng y với mình thù sâu tựa biển, vừa gặp là đánh chí mạng ngay, nếu biết y nhường mình ba chiêu thì ngay từ đầu lập tức hạ sát thủ đâu để mất cái dịp may này!?. Y thấy thế chưởng của Tạ Tốn thật là lợi hại, lập tức tay trái đưa xéo ra, gạt chưởng lực của đối phương thân hình xoay nửa vòng đã lướt ra sau lưng, khinh thường Tạ Tốn mắt không nhìn thấy, một chưởng nhẹ nhàng đánh vào. Thế nhưng Tạ Tốn tưởng như có mắt, đá ngược về sau. Thành Côn nhảy vọt lên, từ trên không như chim ưng chụp xuống. Y đã vào tuổi ?cổ lai hi? nhưng thân pháp vẫn nhanh nhẹn như người còn trẻ. Tạ Tốn hai tay đỡ lên, thế đánh của Thành Côn từ trên xuống bị chặn lại, bật trở lên, trên lưng chừng lại xoay một cái đánh xuống lần nữa.
    Hai người vừa ra tay, lấy nhanh chống nhanh thoáng một cái đã trao đổi luôn bẩy tám chục chiêu. Tạ Tốn tuy hai mắt không nhìn thấy gì thế nhưng võ công của ông ta toàn do Thành Côn truyền dạy, quyền cước của học trò mình Thành Côn dĩ nhiên biết rành, mà chiêu số của Thành Côn thì Tạ Tốn cũng thuộc nằm lòng. Sau mấy chục năm công phu tu tập nội công của hai người ai cũng tiến triển nhưng quyền cước chiêu thuật thì vẫn là của bản môn cho nên Tạ Tốn dẫu không sáng mắt vẫn biết được mình ra chiêu, đối phương sẽ sách giải như thế nào cho nên mỗi chiêu tung ra đều ngầm hờm sẵn vài cách biến hóa. Hơn nữa ông ta kém Thành Côn mười mấy tuổi, khí huyết còn tráng kiện hơn, khí hậu trên Băng Hỏa đảo lại lạnh buốt rất lợi cho việc tu luyện nội công, thành thử đã trên trăm chiêu mà vẫn không lép vế chút nào.
    Tạ Tốn thù Thành Côn sâu như bể, canh cánh chờ đợi mấy chục năm qua bây giờ mới có dịp giao đấu, Trương Vô Kỵ vẫn tưởng ông ta sẽ đánh thí mạng ngay để mong cả hai cùng chết, nào ngờ mỗi chiêu mỗi thức đều trầm ổn lạ thường, bảo vệ môn hộ thật là nghiêm nhặt. Lúc đầu chàng hơi lấy làm lạ nhưng sau khi xem mấy chục chiêu rồi mới hiểu ra, võ công Thành Côn xem ra không kém Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp ba nhà sư, nếu Tạ Tốn ngay từ đầu nóng máu hung hăng, chỉ e không chịu nổi ba trăm chiêu. Rõ ràng trong lòng Tạ Tốn mối thù càng sâu thì ra tay lại càng dè dặt, chỉ e nếu mình bị bại dưới tay Thành Côn thì mối thù cha mẹ vợ con đành đổ xuống sông xuống biển.
    Thấm thoát hai bên đã trao đổi trên hai trăm chiêu, Tạ Tốn quát lên một tiếng, đánh vù ra một quyền. Quan Năng của phái Không Động liền kêu lên:
    - Thất Thương Quyền!
    Chỉ thấy Tạ Tốn trái phải liên tiếp tung ra, thật là uy mãnh, chư lão của phái Không Động ai nấy kinh hãi, ai cũng thẹn là mình không sao kịp được. Thành Côn liên tiếp né tránh được ba quyền, đợi quyền của Tạ Tốn vừa đánh tới, chưởng tay phải liền đẩy ra, nghe bộp một tiếng, quyền chưởng đụng nhau, Tạ Tốn râu tóc dựng đứng, uy phong lẫm liệt đứng yên không động đậy trong khi Thành Côn phải lùi lại ba bước.
    Trong đám người đứng xem không ít kẻ lớn tiếng reo hò. Cừu oán và nguyên nhân Tạ Tốn với Thành Côn như thế nào, lúc đó trên giang hồ đã truyền khắp nơi. Mọi người tuy giận Tạ Tốn ra tay độc ác, giết hại người ngay nhưng cũng hiểu được cảnh bi thảm mà ông ta phải chịu, Thành Côn quá ư gian hiểm, trừ những người có thân nhân bị Tạ Tốn giết hại, quá nửa còn lại ai cũng mong ông ta đắc thắng.
    Tạ Tốn tiến lên ba bước, vù vù đánh ra hai quyền nữa, Thành Côn trả lại hai chưởng, lại phải lùi ba bước. Trương Vô Kỵ kêu thầm: ?Hỏng rồi! Thành Côn sử dụng Thiếu Lâm Cửu Dương Công, là công phu học được sau khi bái Không Kiến thần tăng làm thầy, nghĩa phụ chưa được truyền thụ?.
    Tạ Tốn khi luyện pho Thất Thương Quyền chỉ cần mau thành công, năm xưa đã bị nội thương, trong quyền vốn có khuyết điểm, Thành Côn biết rõ điều đó cố ý làm như yếu thế, đem Thiếu Lâm Cửu Dương Công ra sử dụng. Mỗi quyền Tạ Tốn đánh ra, Thành Côn chỉ chịu có bảy phần, dùng Cửu Dương Công hóa giải, còn ba phần phản kích trở về. Tạ Tốn vù vù liên tiếp đánh mười hai quyền, Thành Côn liên tiếp lùi mấy chục bước, thoạt trông thì tưởng Tạ Tốn thành công lớn, nhưng thực ra nội thương càng lúc càng nặng.
    Trương Vô Kỵ hết sức bồn chồn, đây là cơ hội phục thù nghĩa phụ ngày đêm mơ tưởng, chàng cách nào cũng không thể ra tay giúp đỡ, nhưng nếu tiếp tục đấu thêm vài mươi chiêu nữa, Tạ Tốn ắt sẽ hộc máu chết liền. Không Trí đột nhiên lạnh lùng nói:
    - Viên Chân, sư huynh ta năm xưa truyền thụ Thiếu Lâm Cửu Dương Công cho ngươi để ngươi đem ra hại người hay sao?
    Thành Côn cười khẩy đáp:
    - Ân sư ta chết vì Thất Thương Quyền, hôm nay ta nhất quyết báo thù cho lão nhân gia.
    Triệu Mẫn đột nhiên kêu lên:
    - Cửu Dương Công của Không Kiến thần tăng cao siêu hơn ngươi nhiều sao ông ta lại không chống đỡ nổi Thất Thương Quyền? Không Kiến thần tăng bị hại vì tay tên gian tặc là ngươi. Ngươi đánh lừa lão nhân gia đứng ra hóa giải oan nghiệt, để cho ông chịu đòn mà không đánh trả. Ha ha, ngươi thử xem, thử xem sau lưng ngươi ai đang đứng đó? Mặt đầy máu, hầm hầm nhìn vào lưng ngươi kia kìa, chẳng phải Không Kiến thần tăng thì là ai?
    Thành Côn biết chắc chỉ là dọa xuông nhưng sau khi phạm tội ác đó rồi trong tâm không khỏi áy náy cho nên cũng thấy rợn người. Ngay lúc đó, Tạ Tốn lại đánh một quyền ra, Thành Côn giơ chưởng đỡ, thân hình hơi lảo đảo nhưng không lui về sau vì đã phân tâm nên chân khí hơi tán loạn. Y bị trúng quyền ngay ngực, khí huyết trộn trạo, vội vàng thi triển khinh công chạy quanh Tạ Tốn một hồi mới lấy lại được quân bình.
    Triệu Mẫn lại kêu lên:
    - Không Kiến thần tăng, ngài cứ theo sát y, đúng rồi, cứ như thế, hà hơi lạnh vào cổ y. Ngài chết vì tay học trò, y cũng sẽ chết về tay học trò, cái đó mới là ông trời có mắt làm ác gặp ác, báo ứng nhãn tiền.
    Thành Côn bị nàng dọa đến nổi da gà, thần hồn nát thần tính, thấy quả sau lưng có gió lạnh thổi tới mình, trong cơn hoảng loạn quên mất rằng trên đỉnh núi gió núi thổi ngày đêm không ngừng, huống chi hai người nhảy nhót giao đấu, sau lưng có gió là chuyện đương nhiên.
    Triệu Mẫn thấy y hơi phân vân, lại nói:
    - Ối chao! Thành Côn, ngươi thử ngoái đầu lại xem ai ở sau lưng? Ngươi không dám quay lại à? Vậy xem dưới đất hai người giao đấu, sao lại có đến ba cái bóng?
    Thành Côn không suy nghĩ quay nhìn xuống đất, quả nhiên giữa hai bóng người có một khoảng thẫm hơn, trong bụng hơi hoảng, Tạ Tốn đã đánh ngay một quyền. Thành Côn không kịp sách giải, cũng tống một quyền ra chọi lại, nghe bình một tiếng, hai người sử dụng chân lực đấu với nhau nên đều lảo đảo lùi về sau một bước.
    Thành Côn bấy giờ mới nhìn kỹ thấy cái bóng đó chẳng qua chỉ là bóng cây tùng bị gãy mà thôi. Y giao đấu đã lâu mà chưa thắng được, trong bụng cũng hơi nóng ruột nghĩ thầm: ?Y là học trò của ta, hai mắt lại mù, sao ta lại trị y không nổi, những kẻ tâm phúc đứng ngoài xem làm sao còn coi ta ra gì? Huyễn Âm Chỉ thần công của ta hôm trước bị tên tiểu tặc ác ôn Trương Vô Kỵ dùng nội lực thuần dương phá mất rồi chứ không thì hôm nay đâu có phải dây dưa mãi với Tạ Tốn thế này? Tình hình trước mắt xem ra nguy hiểm quá, phải làm cách nào chế ngự ngay tên nghịch đồ mới mong uy hiếp được Minh Giáo, sau đó mới khiêu khích kẻ thù của y cùng xông lên. Có như thế mình mới mong thoát thân được?.
    Y nghĩ như thế lập tức liền len lén di chuyển về phía cây thông gãy hai bước. Tạ Tốn liên tiếp đánh ra ba quyền, tiến lên hai bước, Thành Côn lại lùi thêm hai bước nữa, toan dụ cho Kim Mao Sư Vương tiến về phía cây tùng. Tạ Tốn đang toan đuổi theo tấn công, Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Nghĩa phụ, coi chừng dưới chân!
    Tạ Tốn giật mình, nhảy lách qua một bên nhưng đã hơi chậm lại, Thành Côn liền lợi dụng sơ hở, đánh ra một chưởng lặng như tờ, vừa trúng ngay giữa ngực Tạ Tốn liền nhả nội lực đẩy Tạ Tốn ngã ngửa về sau. Thành Côn lập tức giơ chân đạp xuống đầu đối phương, Tạ Tốn vội lăn ra xa đứng bật dậy, trên miệng máu chảy ròng ròng. Thành Côn đứng yên không cử động, tay phải lại chầm chậm đánh ra. Tạ Tốn đấu với y toàn là nhờ chiêu số quen thuộc lại thêm nghe tiếng gió mà nhận định tình hình, bây giờ Thành Côn ra chiêu không theo chưởng pháp chỉ nhẹ nhàng đưa tới trước mặt rồi bất ngờ đánh ra trúng ngay vai địch thủ. Tạ Tốn thân hình loạng choạng, cố gượng đứng lại.
    Người chung quanh đa số không phục, nhao nhao la ó:
    - Mắt sáng đánh với mắt mù mà lại dùng thủ đoạn hèn hạ thế sao?
    Thành Côn chẳng thèm để ý, lại chầm chậm đánh ra một chưởng. Tạ Tốn tập trung tinh thần lắng nghe, vừa thấy chưởng của địch ùa tới liền giơ tay gạt ra. Trương Vô Kỵ thấy mớ tóc vàng của ông ta bù xù, khóe miệng đầy máu, trong lòng vừa phẩn nộ vừa bối rối, biết rằng nếu còn đấu tiếp, cha nuôi mình thể nào cũng chết dưới tay Thành Côn, nhưng nếu như mình ra tay tương trợ đẫu có giết được Thành Côn, nghĩa phụ cũng vẫn ôm mối hận cả đời. Chàng nắm lấy tay Triệu Mẫn hỏi dồn:
    - Em nghĩ xem có kế gì không?
    Triệu Mẫn đáp:
    - Chàng len lén ném ám khí, bắn mù hai mắt y được không?
    Trương Vô Kỵ lắc đầu:
    - Nghĩa phụ thà chết chứ không để anh làm thế đâu?
    Lại thấy Thành Côn chầm chậm đánh ra một chưởng nữa, Triệu Mẫn kêu lên:
    - Trên ngực.
    Tạ Tốn liền giơ quyền đánh thẳng vào ngực, chưởng của Thành Côn chưa xong hẳn vội vàng rút về. Y liên tiếp chầm chậm đánh ra mấy chiêu đều bị Triệu Mẫn báo động kịp nên liền tương kế tựu kế nhè nhẹ đánh ra một chưởng vào đầu vai bên phải của Tạ Tốn. Triệu Mẫn kêu lên:
    - Vai phải!
    Vai trái của Thành Côn hơi rung động, Trương Vô Kỵ hiểu ngay vội kêu:
    - Sau lưng!
    Tạ Tốn nghe Triệu Mẫn nhắc rồi liền giơ tay phải lên chống đỡ đầu vai, ngờ đâu chưởng của Thành Côn chỉ là hư chiêu đợi Tạ Tốn vừa giơ tay ra, tay trái thừa cơ đánh vào nghe bộp một tiếng trúng ngay lưng một đòn thật nặng. Trương Vô Kỵ tuy đã kịp thời cảnh cáo nhưng chiêu đó của Thành Côn thật nhanh, Tạ Tốn khi nghe Trương Vô Kỵ gọi thì không còn kịp biến chiêu nữa rồi.
    Mọi người hốt hoảng kêu la, Tạ Tốn đã phun ra một ngụm máu trúng thẳng vào mặt Thành Côn. Thành Côn ?A? lên một tiếng, giơ tay lên chùi, còn Tạ Tốn ngã lăn dưới đất. Bông nghe cả hai người cùng kêu thét lên rồi trước mắt không còn thấy ai đâu nữa.
    Thì ra Tạ Tốn bị ngã rồi, lập tức ôm chặt lấy hai chân Thành Côn, hết sức vật y xuống, hai người cùng rơi tõm vào trong địa lao. Trong hầm nước ngập đến cổ, tối om om, Thành Côn tự nhiên chẳng khác gì người mù. Y vội nhảy về sau cốt sao càng xa địch thủ càng tốt. Thế nhưng hầm đá đó rất hẹp, y nhảy là đụng ngay vào vách, vừa phóng lên thì bụng đã trúng phải một đòn Thất Thương Quyền, đau thấu tâm can. Thành Côn biết mình trúng phải quyền đó bị thương rất nặng, nếu tiếp tục nhảy lên thì sẽ tiếp tục bị đòn, vội vàng biến chiêu dùng Tiểu Cầm Nã Thủ đối phó. Tiểu Cầm Nã Thủ vốn dùng chiến đấu trong khi trời tối nên phải ứng biến thật nhanh, mắt không nhìn thấy nhưng ngón tay, bàn tay, cánh tay, khuỷu tay dù nơi nào đụng phải địch, lập tức bắt nắm cào cấu đấm móc bẻ vặn ngay. Tạ Tốn quát lên một tiếng cũng dùng Tiểu Cầm Nã Thủ để chống lại.
    Mọi người chỉ nghe thấy trong hầm sâu tiếng hò hét liên miên, xen lẫn tiếng quyền cước đụng phải da thịt nghe ròn như đậu rang, từng chập từng chập nước văng lên ào ào, hẳn là hai người đang hết sức tấn công nhau. Trương Vô Kỵ tim đập thình thịch, thầm nghĩ nếu như nghĩa phụ gặp hung hiểm thì chàng cũng đành chịu không sao ra tay cứu được, cũng không cách nào nhảy vào trong hầm thành thử sau lưng mồ hôi lạnh toát ra ướt đẫm.
    Tạ Tốn hai mắt đã mù trên hai chục năm, công phu nghe tiếng gió biện luận đã rất thuần thục, lấy tai thay mắt quen lắm rồi. Còn Thành Côn ở trong hầm nước chỉ đánh đấm loạn xạ cầu may, hai bên kẻ yếu người mạnh lập tức xoay chiều. Thành Côn trong lòng kinh hãi không biết tính sao, chỉ còn cách hai tay sử dụng Tiểu Cầm Nã Thủ thật nhanh như gó táp mưa sa, thi triển hết độc chiêu này đến độc chiêu khác, nghĩ thầm: ?Không thể để cho y đánh trúng thêm một chưởng nào nữa, phải làm đủ mọi cách ra khỏi hầm đấu tiếp?.
    Quần hùng ai nấy nhích lại miệng hầm, lòng bàn tay người nào cũng đổ mồ hôi, chỉ nghe tiếng hò hét của Thành Côn và Tạ Tốn vọng lên không dứt, xem ra chưa phân thắng bại. Bỗng nghe Thành Côn kêu lên một tiếng thảm thiết, kế đó hai bóng người từ dưới địa lao cùng bay vọt lên.
    Dưới ánh mặt trời, cả Thành Côn lẫn Tạ Tốn hai mắt đều ứa máu, sừng sững nhìn nhau không ai cử động. Thì ra trong khi kịch đấu, Tạ Tốn hai tay gạt ra tấn công vào hai bên hông Thành Côn. Thành Côn mừng rỡ kêu lên:
    - Trúng!
    Bàn tay phải ngón tay giữa và ngón tay trỏ lập tức đâm vào hai mắt Tạ Tốn. Đó là chiêu Song Long Sang Châu[2], một chiêu vốn dĩ thật tầm thường nhưng xen vào dùng trong Tiểu Cầm Nã Thủ lại có uy lực rất lớn, đối phương thể nào cũng phải lách đầu qua tránh, bàn tay trái lập tức quét qua thể nào cũng trúng huyệt Thái Dương của địch. Ngờ đâu Tạ Tốn không tránh cũng không né, cũng lại kêu lên:
    - Trúng!
    Ông ta cũng tung ra đúng ngay chiêu Song Long Sang Châu, ngón trỏ ngón giữa đâm luôn vào hai mắt Thành Côn. Thành Côn hai ngón tay đâm trúng mắt Tạ Tốn, trong đầu lập tức nhanh như ánh chớp nghĩ ra: ?Chết rồi!? thì mắt đã đau nhói, hai ngón tay Tạ Tốn đã đâm vào. Hai người bị thương y hệt nhau, nhưng Tạ Tốn mù sẵn có bị song chỉ của Thành Côn đâm thêm cũng chỉ là tổn thương da thịt, còn Thành Côn nay biến thành người mù.
    Tạ Tốn cười khẩy nói:
    - Làm người mù có thích hay không?
    Vù một tiếng quyền đã đánh ra, Thành Côn mắt không nhìn thấy không cách nào tránh được, chiêu Thất Thương Quyền đó trúng ngay giữa ngực. Tay trái Tạ Tốn lại đánh ra, Thành Côn lảo đảo lùi lại ngã gục trên cây tùng bị gãy, máu miệng trào ra như suối. Đột nhiên Độ Ách cất tiếng nói:
    - Nhân quả báo ứng! Thiện tai! Thiện tai!
    Tạ Tốn sững sờ, quyền thứ ba vừa đánh ra giữa chừng ngừng lại không phát nữa, nói:
    - Ta vốn dĩ định đánh ngươi đủ mười ba đòn Thất Thương Quyền. Thế nhưng ngươi võ công mất hết, hai mắt lại mù, từ nay trở thành tàn phế, không còn làm chuyện ác trên đời được nữa rồi. Mười một quyền còn lại không cần đánh tiếp.
    Bọn Trương Vô Kỵ thấy ông ta toàn thắng, ai nấy reo hò vang dậy. Tạ Tốn đột nhiên ngồi phịch xuống đất, xương cốt toàn thân lốp cốp kêu ran. Trương Vô Kỵ kinh hãi, biết ông vận ngược nội tức để hóa tán hết võ công, vội kêu lên:
    - Nghĩa phụ, đừng làm thế!
    Chàng vọt lên đang toan giơ tay đè vào lưng ông ta, dùng Cửu Dương thần công ngăn chặn lại.
    Tạ Tốn bỗng từ dưới đất nhảy vọt lên, tay đấm mạnh vào ngực mình một cái, trong miệng máu chảy vọt ra. Trương Vô Kỵ vội đỡ ông ta, thấy bàn tay yếu ớt vô cùng, quả nhiên võ công mất hết cả rồi, không còn có thể khôi phục được nữa.
    Tạ Tốn giơ tay chỉ Thành Côn nói:
    - Thành Côn, ngươi giết cả nhà ta, ta hôm nay cũng hủy đôi mắt, phế bỏ võ công ngươi để trả thù. Sư phụ, một thân võ công của đệ tử do thầy truyền thụ, bây giờ cũng hủy bỏ hết, trả lại cho người. Từ giờ trở đi, tôi với ông không ơn không oán, ông không còn bao giờ thấy mặt tôi, tôi cũng không bao giờ thấy ông nữa.
    Thành Côn hai tay ôm mắt, hừ một tiếng, không trả lời. Quần hùng ai nấy thẫn thờ, không ngờ cái oan nghiệt thầy trò tương tranh lại ra nông nỗi này.
    * *??????? * Tạ Tốn cao giọng hiên ngang nói:
    - Tạ Tốn này tác ác đa đoan, vốn không mong sống được đến hôm nay. Trong chư vị anh hùng thiên hạ, có vị nào thân nhân, bạn bè bị Tạ mỗ giết hại, xin mời ra lấy mạng Tạ mỗ cho xong. Vô Kỵ, con không được ngăn trở, cũng không được sau này báo thù, để khỏi tăng thêm tội nghiệp cho nghĩa phụ.
    Trương Vô Kỵ ngậm nước mắt vâng lời. Trong đám người chung quanh không ít kẻ đối với ông ta cừu oán thực sâu, thế nhưng thấy Tạ Tốn trả mối thù toàn gia bị giết cũng chỉ phế hết võ công Thành Côn, rồi võ công chính mình cũng hủy, nếu tiến lên đâm một kiếm, đánh một quyền thì quả không anh hùng chút nào.
    Bỗng từ đám đông một hán tử bước ra nói:
    - Tạ Tốn, cha ta Nhạn Linh Phi Thiên Đao Khưu lão anh hùng chết dưới tay ngươi, ta ra đây báo thù cho tiên phụ.
    Nói xong đi đến trước mặt Tạ Tốn. Tạ Tốn thản nhiên nói:
    - Đúng thế, lệnh tôn quả thực bị tại hạ sát hại, xin mời Khưu huynh ra tay.
    Gã họ Khưu rút đao ra cầm tay, tiến lên hai bước. Trương Vô Kỵ trong lòng hỗn loạn, nếu như không ra tay ngăn trở, nghĩa phụ sẽ chết dưới đao người này, còn nếu đánh đuổi y đi, e rằng nghĩa phụ sống ngày nào phiền não ngày nấy, huống chi ông hai mắt đã mù, võ công phế hết, có sống cũng chẳng còn gì vui thú, quả thực không biết tính sao cho phải. Chàng thân hình run rẩy, không tự chủ nổi tiến lên hai bước.
    Tạ Tốn quát lớn:
    - Vô Kỵ, nếu con ngăn không cho người ta báo thù thế là đối với cha đại đại bất hiếu đó. Sau khi ta chết đi, con hãy xuống dưới địa lao coi cho kỹ sẽ biết mọi việc.
    Gã họ Khưu cầm đao giơ lên ngực, đột nhiên nước mắt chảy ròng ròng, nhổ toẹt một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn, nghẹn ngào nói:
    - Tiên phụ một đời anh hùng, nếu cha tôi ở trên trời linh thiêng, thấy tôi cầm đao giết một người mù không còn chút võ công nào, thể nào cũng giận tôi chẳng ra gì ...
    Nghe keng một tiếng, y đã vứt đao xuống đất ôm mặt chạy trở vào đám đông. Kế đó một người đàn bà trung niên bước ra, nói:
    - Tạ Tốn, ta ra đây báo thù cho chồng ta là Âm Dương Phán Quan Tần Đại Bằng.
    Bà ta cũng đến nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn rồi khóc òa lên bỏ đi. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ liên tiếp chịu nhục nhưng vẫn đứng yên không nói năng gì, trong lòng đau như dao cắt. Hào sĩ trong võ lâm coi cái chết nhẹ tựa lông hồng nhưng quyết không chịu bị nhục cho nên mới có câu ?sĩ khả sát nhi bất khả nhục[3]?. Hai người này nhổ nước bọt vào mặt ông quả là đại nhục nhưng Tạ Tốn vẫn thản nhiên chịu đựng, đủ biết ông đã cực kỳ hối hận về những tội lỗi đã làm trong quá khứ. Trong đám người từng kẻ từng kẻ bước ra, có người tát Tạ Tốn hai cái, có kẻ đá ông một cái, cũng có người cất tiếng chửi bới nhưng trước sau ông chỉ cúi đầu chịu đựng, không tránh né cũng không nói lại nửa câu.
    Cứ như thế đến hơn ba chục người, ai cũng làm nhục Tạ Tốn một chuyến. Sau cùng là một đạo nhân râu dài bước ra, cúi đầu nói:
    - Bần đạo Thái Hư Tử, có hai vị sư huynh bị chết dưới tay Tạ đại hiệp. Hôm nay bần đạo được nhìn thấy phong phạm của Tạ đại hiệp trong lòng thực là hổ thẹn, dưới kiếm của bần đạo cũng đã từng giết vô số hào kiệt hắc đạo bạch đạo. Nếu như tôi đi kiếm Tạ đại hiệp báo thù thì người khác cũng kiếm tôi báo thù.
    Nói xong rút phắt trường kiếm, tay trái giơ ra búng một cái, nghe keng một tiếng thanh kiếm đã gãy làm hai. Y cầm thanh kiếm gãy ném xuống đất, quay sang hành lễ với Tạ Tốn rồi lui về.
    Quần hùng xôn xao bàn tán, gã Thái Hư Tử này trên giang hồ tiếng tăm không mấy nổi, võ công cao siêu như thế đã khó, nhưng khó hơn cả là có được tâm địa rộng rãi dám tự trách mình, xem ra chẳng còn ai đứng ra làm khó Tạ Tốn thêm nữa.
    Ngờ đâu quần hùng còn đang huyên náo, một nữ ni trung niên từ phái Nga Mi bước ra, đến trước mặt Tạ Tốn nói:
    - Cái thù giết chồng ta, ta cũng nhổ một bãi nước bọt để kết thúc.
    Nói xong há mồm nhổ toẹt một bãi vào trán Tạ Tốn. Bãi nước miếng đó kình phong rất mạnh, bên trong lại có một chiếc cương đinh hình hạt táo. Tạ Tốn nghe thấy tiếng gió có điều khác lạ, gượng cười nhưng không tránh né, nghĩ thầm: ?Bây giờ ta mới chết cũng đã muộn lắm rồi?.
    Bỗng thấy một bóng vàng thấp thoáng, cô gái áo vàng đã nhảy tới trước mặt, phất một cái cuộn luôn chiếc cương đinh vào trong tay áo, quát hỏi:
    - Vị sư thái này pháp danh xưng hô thế nào?
    Nữ ni kia đột kích không trúng, trên mặt lộ vẻ kinh hoàng, nói:
    - Ta là Tĩnh Chiếu.
    Cô gái nói:
    - Hừ, Tĩnh Chiếu, Tĩnh Chiếu à? Trước khi xuất gia, chồng bà tên gì? Vì sao bị Tạ đại hiệp giết chết?
    Tĩnh Chiếu giận dữ đáp:
    - Cái đó có liên quan gì đến cô? Việc gì mà cô phải xen vào?
    Cô gái áo vàng nói:
    - Tạ đại hiệp sám hối tội lỗi khi xưa, nếu ai muốn báo thù cho cha anh thầy bạn, dẫu có đem băm vằm ông ta ra, Tạ đại hiệp cũng cam chịu, người ngoài không ai được can thiệp vào. Thế nhưng nếu như có ai bụng dạ bất lương, muốn nhân cơ hội đục nước béo cò, giết người bịt miệng, thì người khác có quyền can thiệp vào.
    Tĩnh Chiếu nói:
    - Ta với Tạ Tốn không thù không oán, việc gì phải giết người bịt ...
    Chữ ?miệng? chưa kịp nói ra, bà ta biết mình lỡ lời, vội nín bặt, mặt trắng bệch, sợ hãi liếc Chu Chỉ Nhược một cái. Cô gái áo vàng nói:
    - Đúng thế! Sư thái với Tạ đại hiệp không thù không oán, việc gì phải giết người bịt miệng? Hừ, phái Nga Mi hàng chữ Tĩnh trong số mười hai người, Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư, Tĩnh Không, Tĩnh Tuệ, Tĩnh Già, Tĩnh Chiếu đều là khuê nữ xuất gia, chồng ở đâu ra?
    Tĩnh Chiếu không nói nửa lời quay mình định bỏ chạy. Cô gái áo vàng quát lớn:
    - Đâu có bỏ chạy dễ dàng đến thế!
    Nàng ta tiến lên hai bước, giơ chưởng chộp vào đầu vai ni cô, Tĩnh Chiếu nghiêng người tránh được trảo đó. Cô gái áo vàng liền giơ ngón tay trỏ đâm vào hông, kế đó đá lên trúng ngay huyệt Hoàn Khiêu trên đùi. Tĩnh Chiếu ối lên một tiếng ngã lăn ra đất. Cô gái cười khẩy nói:
    - Chu cô nương, cái kế sát nhân diệt khẩu của cô độc địa thật.
    Chu Chỉ Nhược lạnh lùng đáp:
    - Tĩnh Chiếu sư tỉ muốn báo thù Tạ Tốn, có cái gì là sát nhân diệt khẩu?
    Tay trái phất một cái nói:
    - Ở đây vô số đệ tử danh môn chính phái vậy mà chẳng phân biệt được đâu tà đâu chính, bằng lòng nhập bọn với bàng môn yêu ma. Phái Nga Mi không thể cá mè một lứa, thôi mình đi.
    Người của phái Nga Mi cùng đáp ứng đứng cả dậy. Hai người nữ đệ tử đến dìu Tĩnh Chiếu lên, cô gái áo vàng không ngăn trở gì nữa. Chu Chỉ Nhược tất lãnh đồng môn xuống núi.
    Trương Vô Kỵ đi đến trước cô gái áo vàng, vái một cái nói:
    - May được tỉ tỉ mấy phen giúp đỡ, đại ân đại đức không chỉ lấy lời mà tạ được. Chỉ mong được biết phương danh để Trương Vô Kỵ này ngày đêm ghi nhớ trong lòng.
    Cô gái mỉm cười nói:
    Mộ người sống mà như đã chết, Núi Chung Nam qui ẩn từ lâu.
    Thần điêu hiệp lữ danh đầu, Hồng trần xa lánh biết đâu mà tìm.
    (Chung Nam sơn hậu, Hoạt tử nhân mộ.
    Thần điêu hiệp lữ, Tuyệt tích giang hồ) Nói xong kéo vạt áo lên thi lễ, vẫy tay một cái dẫn tám thiếu nữ áo trắng áo khoan thai đi khỏi. Trương Vô Kỵ đuổi theo nói:
    - Xin tỉ tỉ dừng bước đã.
    Cô gái áo vàng không đáp lời vẫn tiếp tục xuống núi. Cô bé bang chủ Cái Bang Sử Hồng Thạch kêu lên:
    - Dương tỉ tỉ, Dương tỉ tỉ!
    Chỉ nghe từ lưng chừng núi vọng lên tiếng cô gái:
    - Những việc lớn của Cái Bang, xin Trương giáo chủ hết sức giúp đỡ cho.
    Trương Vô Kỵ cũng lớn tiếng đáp lại:
    - Vô Kỵ tuân mệnh.
    Cô gái đáp:
    - Xin đa tạ.
    Mấy tiếng ?đa tạ? kia văng vẳng truyền đến hai bên đã cách nhau thật xa nhưng vẫn rõ lạ thường, Trương Vô Kỵ trong dạ không khỏi bồi hồi.
    * *??????? * Không Trí đi đến trước mặt Thành Côn quát hỏi:
    - Viên Chân, mau ra lệnh thả phương trượng ngay. Lão phương trượng nếu có chuyện gì, tội nghiệp của ngươi càng to lớn.
    Thành Côn gượng cười:
    - Việc đã đến nước này thì tất cả cùng chết hết. Lúc này dẫu ta có muốn thả hòa thượng Không Văn ra thì cũng không kịp nữa rồi. Mắt ngươi không mù mà cũng chẳng thấy lửa bốc lên hay sao?
    Không Trí hoảng hốt, quay đầu nhìn xuống chân núi, quả nhiên thấy dưới chùa khói đen bốc lên lửa đang lem lém cháy, kêu lên:
    - Đạt Ma Đường cháy rồi! Mau! Mau xuống cứu hỏa.
    Quần tăng đại loạn, chạy tứ tán xuống dưới núi. Bỗng thấy chung quanh Đạt Ma Đường những vòi nước phun vào chẳng khác gì những con bạch long, chẳng mấy chốc những ngọn lửa đều tắt ngúm. Không Trí chắp tay niệm Phật nói:
    - A Di Đà Phật, chùa Thiếu Lâm may thoát được một tai kiếp.
    Chẳng mấy chốc hai tăng nhân chạy lên núi bẩm báo:
    - Khải bẩm sư thúc tổ, bọn phản nghịch thủ hạ của Viên Chân phóng hỏa đốt Đạt Ma Đường, may nhờ có các anh hùng trong Hồng Thủy Kỳ của Minh Giáo trượng nghĩa ra tay dập được lửa rồi.
    Không Trí đến trước mặt Trương Vô Kỵ, chắp tay vái chào nói:
    - Ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính đã nghìn năm nay qua được một cơn hỏa kiếp toàn là nhờ đại ân đại đức của Trương giáo chủ, toàn thể tăng chúng trong chùa dẫu có nát thân cũng không báo đáp được.
    Trương Vô Kỵ khiêm tốn hoàn lễ nói:
    - Chuyện đó đương nhiên phải làm, đại sư việc gì phải đa lễ.
    Không Trí nói:
    - Không Văn phương trượng bị bọn phản đồ bắt giữ trong Đạt Ma Viện, lửa dập được rồi nhưng không biết tệ sư huynh an nguy ra sao. Trương giáo chủ và chư vị anh hùng xin đợi cho một chút, lão nạp đi xem ra thế nào.
    Thành Côn cười ha hả nói:
    - Trên người Không Văn tẩm đầy dầu mỡ, lửa vừa cháy lên thì y cháy trước. Hồng Thủy Kỳ có cứu là cứu Đạt Ma Viện chứ làm sao cứu nổi lão phương trượng.
    Bỗng từ lưng chừng núi có tiếng người vọng lên:
    - Hồng Thủy Kỳ không cứu nổi nhưng còn Hậu Thổ Kỳ.
    Tiếng nói đó chính là tiếng của Phạm Dao. Y vừa nói xong đã thấy cùng với chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên chạy lên núi, hai người dìu một lão tăng, chính là phương trượng Không Văn chùa Thiếu Lâm, cả ba người quần áo tả tơi, râu tóc cháy xém trông rất thê thảm. Không Trí tiến lên ôm lấy Không Văn, kêu lên:
    - Sư huynh có sao không? Sư đệ vô năng tội thật đáng chết.
    Không Văn mỉm cười nói:
    - Cũng nhờ có hai vị Phạm thí chủ và Nhan thí chủ từ dưới đất chui lên cứu, nếu không ta với sư đệ chắc chẳng còn dịp gặp lại nhau.
    Không Trí kinh hãi nói:
    - Tài chui dưới đất lên của Hậu Thổ Kỳ Minh Giáo thần diệu thật.
    Ông ta quay sang nói vái Phạm Dao, Nhan Viên tạ ơn, rồi tiếp:
    - Phạm thí chủ, lão tăng trước đây vô lễ mạo phạm, xin thứ tội cho. Cái ước hẹn nơi chùa Vạn An, Đại Đô lão tăng không dám đến nữa.
    Võ lâm nhân sĩ đã đính ước tỉ thí nếu như nuốt lời không đến so với muối mặt chịu thua còn đáng hổ thẹn hơn nhiều. Không Trí cảm kích Phạm Dao mạo hiểm cứu sư huynh mình, nên đã tự nguyện hủy bỏ ước hẹn. Hai người vốn dĩ đã phục nhau, chuyện này rồi càng thêm hết lòng hết dạ, từ đó thành đôi bạn tâm giao.
    Thì ra Thành Côn đã sắp xếp thật chu đáo, đêm hôm trước ngày Anh Hùng Đại Hội xuất kỳ bất ý ra tay điểm huyệt Không Văn, bắt giữ ông ta tại Đạt Ma Viện, trong viện chất đầy các loại lưu hoàng thuốc nổ, cỏ củi dễ cháy, sai người tâm phúc canh giữ, ép Không Trí mọi việc phải nghe theo mình, nếu không sẽ phóng hỏa đốt chết Không Văn. Ngờ đâu mọi việc không phải như y đã tính, đến khi tan tành ra mây khói rồi liền truyền hiệu lệnh, cho người đốt lửa, là nước cờ sau cùng phá phủ trầm chu[4]. Y tính rằng quần hùng và tăng chúng hốt hoảng lo cứu hỏa, những kẻ tâm phúc sẽ nhân cơ hội đó cứu y xuống núi. Ngờ đâu đại đội của Dương Tiêu kéo đến núi Thiếu Thất từ mấy ngày trước, đã sai Hậu Thổ Kỳ đào một đường hầm thông vào trong chùa Thiếu Lâm, vốn tính chuyện cứu Tạ Tốn, biết đâu Tạ Tốn lại không nhốt ở trong chùa. Người của Hậu Thổ Kỳ tìm mãi không ra, nhân cơ hội đó mài mười sáu chữ sau lưng những pho tượng La Hán đi.
    Về sau Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược liên thủ phá Kim Cương Phục Ma Khuyên, đến lúc Thành Côn lộ mặt ra rồi, làm bẽ mặt Không Trí trước công chúng, Triệu Mẫn và Dương Tiêu liền hiểu ngay được mối manh. Hai người bàn tính xong xuôi, nhờ Phạm Dao tất lãnh Hồng Thủy, Hậu Thổ hai kỳ, chui vào trong chùa cứu Không Văn. Có điều Thành Côn bố trí thật là cơ mật, độc địa, chung quanh trong ngoài Đạt Ma Viện chất đầy lưu hoàng, dầu củi, chỉ mồi là lửa bừng lên ngay, khiến cho năm giáo đồ trong Hậu Thổ Kỳ bị chết cháy. Phạm Dao và Nhan Viên hai người cố xông vào đám khói cứu được Không Văn ra, nhưng cả ba cũng bị xém hết cả râu tóc, nếu không nhờ thoát hiểm bằng đường hầm, thì ắt đã vùi thân nơi đống tro rồi. Đạt Ma Viện và mấy căn tăng xá chung quanh cũng bị cháy nhưng may chưa lan sang Đại Hùng Bảo Điện, Tàng Kinh Các, La Hán Đường những nơi quan trọng khác.
    Không Văn và Không Trí bàn tán mấy câu, truyền pháp chỉ xuống bắt tất cả các đồng đảng của Thành Côn đem giam nơi hậu điện chờ phân xử sau. Thành Côn ở chùa Thiếu Lâm đã lâu, kết nạp đồ đảng quả không phải ít, nhưng kẻ đứng đầu đã bị bắt rồi, phương trượng thoát hiểm, bọn đồng đảng thấy đại thế đã hỏng, nên chẳng một ai dám kháng cự. Thủ tọa La Hán Đường chỉ huy tăng chúng áp giải bọn chúng, đứa nào đứa nấy cúi gầm mặt xuống, lủi thủi xuống núi.
    Trương Vô Kỵ đi đến bên cạnh Tạ Tốn, chỉ kêu lên được một tiếng: ?Nghĩa phụ? rồi nước mắt như mưa. Tạ Tốn cười nói:
    - Thằng con ngốc nghếch của ta ơi, nghĩa phụ may được ba vị cao tăng điểm hóa, đại triệt đại ngộ, bao nhiêu tội lỗi một đời hóa giải hết sạch, con phải mừng cho ta chứ, sao lại khổ sở làm vậy? Ta phế bỏ võ công có gì đáng tiếc đâu, không lẽ mai này còn dùng để làm điều sằng bậy nữa hay sao?
    Trương Vô Kỵ không biết trả lời sao nhưng trong lòng vẫn còn đau đớn, lại kêu một câu:
    - Nghĩa phụ!
    Tạ Tốn đi đến trước mặt Không Văn, quì xuống nói:
    - Đệ tử tội nghiệt thâm trọng, mong phương trượng cho ở lại, xuống tóc tu hành.
    Không Văn chưa kịp trả lời, Độ Ách nói:
    - Ngươi lại đây, lão tăng thu ngươi làm đồ đệ.
    Tạ Tốn đáp:
    - Đệ tử không dám mong được phúc duyên như thế.
    Ông ta bái Không Văn làm thầy là đệ tử hàng chữ Viên, còn như bái Độ Ách làm thầy là ở vào hàng chữ Không, cùng Không Văn, Không Trí xưng hô huynh đệ. Độ Ách quát lên:
    - Hừ, Không đã đành là không, Viên cũng lại là không, Ngã tướng với nhân tướng, ?Nào có chi bất đồng.
    (Không cố thị không, Viên diệc thị không.
    Ngã tướng nhân tướng, Hảo bất mông đồng) Tạ Tốn ngạc nhiên nhưng lập tức hiểu ngay, sư phụ đệ tử, hàng trên hàng dưới, pháp danh thứ tự đối với nhà Phật cũng đều là huyễn ảo nên liền đọc ngay:
    Sư phụ vốn là không, Đệ tử cũng không nốt.
    Không tội, nghiệp sao còn, Công đức đâu mà kết.
    (Sư phụ thị không, Đệ tử thị không.
    Vô tội vô nghiệp, Vô đức vô công) Độ Ách nghe thế cười ha hả:
    - Thiện tai! Thiện tai! Ngươi vào làm môn hạ của ta, tên ngươi vẫn là Tạ Tốn, ngươi có hiểu chăng?
    Tạ Tốn đáp:
    - Đệ tử hiểu rồi!
    Tạ Tốn hay cục phân, Cũng đều là hư ảnh.
    Đến thân còn chẳng chấp, Lẽ nào vướng vào danh?
    (Ngưu xí Tạ Tốn, Giai thị hư ảnh.
    Thân tức vô vật, Hà huống ư danh?) Tạ Tốn văn võ toàn tài, chư tử bách gia đâu đâu cũng thông suốt, nay được Độ Ách điểm hóa, lập tức hiểu ngay tinh nghĩa nhà Phật, từ đó đi vào cửa không về sau trở nên một cao tăng đức độ.
    Độ Ách nói:
    - Thôi đi! Thôi đi! Đã ngộ được đạo đừng trở vào ma chướng nữa.
    Ông nắm tay Tạ Tốn cùng Độ Kiếp, Độ Nạn thủng thẳng xuống núi. Không Văn, Không Trí, Trương Vô Kỵ cùng mọi người đứng lên khom lưng tiễn biệt. Ba mươi năm trước Kim Mao Sư Vương danh chấn giang hồ, từng làm biết bao nhiêu chuyện kinh tâm động phách, hôm nay thân nếm mùi thiền, ai nấy đều cảm thán. Trương Vô Kỵ lòng vừa vui mừng lại vừa bi thương.
    Không Văn nói:
    - Các vị anh hùng quang lâm tệ tự, nói ra hổ thẹn, trong chùa bỗng sinh nội biến, thật đáng trách, việc tiếp đãi thật chẳng chu đáo chút nào. Các vị ở khắp bốn phương hôm nay tụ hội nơi đây, không biết bao giờ mới có dịp gặp lại, xin mời vào chùa ngồi nghỉ.
    Quần hùng liền xuống núi quay trở vào chùa, tăng lữ liền dọn tiệc chay thết đãi, rồi lập đàn tràng tụng kinh siêu độ cho những người bỏ mạng trong kỳ đại hội này, ai nấy phúng điếu rất bi ai.
    Mọi sự xong xuôi, Trương Vô Kỵ trong lòng vẫn còn nhiều điều chưa minh bạch, Tạ Tốn đi vội quá nhiều chuyện chưa hỏi được cho tường tận nhưng cũng đoán rằng những việc đó ắt có liên quan đến Chu Chỉ Nhược. Chàng nghĩ đến nghĩa xưa, liệu chẳng nên tìm hiểu khúc nhôi làm gì để khỏi tổn hại đến thanh danh người tình cũ. Ăn uống xong xuôi, chàng liền cùng Sử Hồng Thạch và các trưởng lão Cái Bang tại sương phòng phía tây bàn thảo những chuyện lớn của Cái Bang bỗng có giáo đồ Minh Giáo đến báo:
    - Thưa giáo chủ, Trương tứ hiệp của phái Võ Đương đã đến có chuyện gấp muốn thương nghị.
    Trương Vô Kỵ hoảng hốt nghĩ thầm: ?Không lẽ có chuyện gì không hay xảy ra cho thái sư phụ chăng??. Chàng vội vào rảo bước đi ra, đến đại điện vái lạy Trương Tùng Khê thấy ông thần sắc không có gì khác thường mới thấy yên tâm bèn hỏi:
    - Sư bá, thái sư phụ vẫn mạnh khỏe?
    Trương Tùng Khê đáp:
    - Sư phụ lão nhân gia vẫn bình thường. Ta ở núi Võ Đương nghe được tin hai vạn quân thiết kỵ Nguyên binh, đang tiến về phía chùa Thiếu Lâm, xem tình hình có vẻ sắp gây bất lợi cho đại hội anh hùng, cho nên ngày đêm chạy đến báo tin.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Vậy mình nên cho phương trượng biết ngay.
    Hai người vội quay về hậu viện, bẩm cho Không Văn hay, Không Văn trầm ngâm rồi nói:
    - Việc này có liên hệ rất lớn, nên cùng quần hùng bàn thảo xem sao.
    Ông bèn truyền cho các nhà sư thỉnh chuông tụ tập tất cả mọi người lên Đại Hùng Bảo Điện. Quần hùng nghe tin ai nấy xôn xao bàn tán, những người tính nóng liền nói:
    - Nhân cơ hội các anh hùng thiên hạ có mặt nơi đây, tất cả chúng ta kéo xuống dưới núi đánh cho chúng trở tay không kịp.
    Người lão thành dè dặt hơn nói:
    - Quân Nguyên qua lại điều động binh mã là chuyện thường tình, chưa chắc đã tới đây tấn công chúng ta đâu.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Tại hạ biết tiếng Mông Cổ, chính tai nghe quan quân Thát tử ra lệnh, đúng là đưa quân đến vây chùa Thiếu Lâm.
    Khi đó người Mông Cổ đã cai trị trung nguyên gần một trăm năm, những người Hán biết tiếng Mông Cổ không phải là ít. Trương Tùng Khê thông minh đa trí, thông thạo nhiều thổ ngữ địa phương, tiếng Mông Cổ cũng rất lưu loát. Không Văn nói:
    - Các vị anh hùng, xem ra triều đình nghe tin chúng ta tụ tập nơi đây, đoán chừng làm điều bất lợi nên sai binh lính đến trấn áp. Chúng ta ai ai cũng biết võ công, không sợ gì Thát tử, binh đến thì đưa tướng ra ngăn, nước dâng lên thì đắp đất chặn lại, có gì sợ đâu ...
    Ông nói chưa dứt câu trong đám đông đã có nhiều người hoan hô rầm rĩ. Không Văn nói tiếp:
    - Có điều chúng ta là hào sĩ giang hồ, quen với đơn đả độc đấu, tỉ thí không phải chỉ binh khí quyền cước mà cả nội công ám khí, việc lên ngựa chiến đấu bằng trường thương đại kích không phải là sở trường. Cứ như ý lão nạp, các vị anh hùng lập tức giải tán ra đi, quí vị nghĩ sao?
    Mọi người ai nấy ngơ ngác, không ai lên tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu như chúng ta phân tán ra, một là Thát tử sẽ tưởng chúng ta sợ chúng không khỏi làm cho chúng càng thêm lên tinh thần, hai nữa các vị sư phụ chùa Thiếu Lâm rồi sẽ ra sao?
    Không Văn mỉm cười đáp:
    - Quân Nguyên đến chùa thấy toàn là sư sãi không thấy giang hồ hào sĩ nào chắc không sao đâu. Cái đó gọi là đến thì hăm hăm hở hở, đi thì như mèo cắt tai.
    Quần hùng biết Không Văn nói thế cũng chỉ vì lòng tốt với mọi người, kỳ này đại hội do chùa Thiếu Lâm mời đến nên không muốn vì thế mà mang họa, để quần hùng phải đổ máu nơi núi Thiếu Thất. Thế nhưng ai nấy đều là người đầy nhiệt huyết, gặp địch lẽ nào thoái lui, nhất định không thể được. Huống chi triều đình đã đem đại quân đi hẳn chẳng chỉ thấy không có ai mà yên ổn rút về, thể nào cũng quấy nhiễu Thiếu Lâm tự, không chừng có thể giết hết bắt hết tăng lữ, cho một mồi lửa đốt chùa thành tro. Quân Mông Cổ xưa nay vốn bạo ngược, giết người đốt nhà đã thành thói quen. Dương Tiêu nói:
    - Quân Mông Cổ tàn ác chúng ta ai đã là người Hán ắt có trách nhiệm kháng địch, cứ như ý kiến của tại hạ, chúng ta nên tìm cách dụ cho Thát tử đi đường khác, tìm chỗ nào đánh cho chúng một trận, để ngôi chùa cổ kính nghìn năm này không rơi vào tai ương binh lửa.
    Mọi người nhao nhao tán thành nói:
    - Đúng là phải như thế!
    Còn đang nghị luận, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng vó câu dồn dập, hai người cưỡi ngựa chạy đến. Tiếng chân ngựa ngừng ngay trước cửa chùa, sau đó hai hán tử được tri khách tăng hối hả đưa vào trong điện. Quần hùng vừa nhìn quần áo họ mặc biết ngay là giáo chúng Minh Giáo. Hai người đến trước mặt Trương Vô Kỵ khom lưng hành lễ, một người báo:
    - Khải bẩm giáo chủ: Quân tiên phong của Thát tử năm nghìn người đã đánh tới chùa Thiếu Lâm, nói là các vị sư phụ trong chùa tụ tập làm phản nên muốn đạp bằng chùa Thiếu Lâm. Hễ ai trọc ... trọc ...
    Không Văn mỉm cười tiếp lời:
    - Ngươi muốn nói là sư sãi trọc đầu, có phải không nào? Không cần phải kiêng cữ làm gì, cứ việc nói ra.
    Người kia tiếp:
    - Trên đường rất nhiều vị hòa thượng bị chúng giết. Thát tử nói rằng: ?Những người đầu trọc đều xấu xa, người có tóc cũng chẳng tốt lành, ai dem binh khí trong người đều giết sạch?.
    Mọi người nhao nhao lên như chợ vỡ, đều nói:
    - Nếu không một phen sống mái với Thát tử thì không đáng gọi là con cháu Hoàng Đế.
    Thời đó nhà Tống đã bị mất ngôi gần một trăm năm nhưng những anh hào thảo mãng vẫn coi người Mông Cổ là di địch, không chịu để bị họ quản thúc. Bây giờ nghe tin quân Mông Cổ kéo đến ai nấy nhiệt huyết bừng bừng đều muốn đứng lên giết giặc. Trương Vô Kỵ sang sảng nói:
    - Quí vị anh hùng, hôm nay chính là lúc sát địch báo quốc của người trai đất Hán, có thế anh hùng đại hội của chùa Thiếu Lâm mới để tiếng lại nghìn thu.
    Trong đại điện tiếng hoan hô vang dậy, chấn động một hồi lâu. Trương Vô Kỵ lại tiếp:
    - Chúng ta dẫu có muốn được rút lui cho yên lành cũng không được nữa rồi, vậy xin Không Văn đại sư đứng ra chỉ huy, Minh Giáo chúng tôi trên dưới xin để dưới quyền sai sử.
    Không Văn nói:
    - Trương giáo chủ nói thế là thế nào? Tuy tăng chúng trong tệ phái có học qua quyền cước nhưng hành quân chiến đấu lại chẳng tinh thông. Mấy năm gần đây Minh Giáo làm nên biết bao việc lẫy lừng, thiên hạ anh hùng còn ai không biết? Chỉ có nhân chúng trong Minh Giáo mới có thể kháng cự lại được với quân Thát tử. Chúng tôi xin mời Trương giáo chủ ra lệnh cho toàn thể anh hùng để một phen sống mái với quân Nguyên.
    Trương Vô Kỵ đang định từ chối thì quần hào đã hò reo phụ họa. Trương Vô Kỵ tuy tuổi trẻ không đủ để người ta phục nhưng võ công cao cường, mới rồi đấu với Thiếu Lâm tam tăng ai ai cũng đã thấy, lại thêm trong Minh Giáo các đạo quân của những người như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, Chu Nguyên Chương tại Hoài Tứ, Dự Ngạc nơi nơi nổi lên, công thành chiếm đất, thanh thế lên rất lớn. Hôm trước Ngũ Hành Kỳ ở nơi quảng trường tỏ lộ tài nghệ xem ra không môn phái nào có thể sánh được với khả năng chiến đấu đông người của họ. Các môn phái bang hội đều thấy rằng ngoài Minh Giáo ra không một ai có đủ khả năng đảm nhiệm công việc trong đại này.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Việc dụng binh quả không phải là sở trường của tại hạ, xin các vị suy cử người hiền năng khác thì hơn.
    Chàng còn đang khiêm tốn nhường người khác, bỗng từ chân núi tiếng người kêu la, hai nhà sư Thiếu Lâm chạy vào đại điện báo cáo:
    - Khải bẩm phương trượng, quân Mông Cổ đang đánh lên.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nhuệ Kim, Hồng Thủy hai kỳ ra trước chặn địch. Chu Điên tiên sinh, Thiết Quan đạo trưởng mỗi vị giúp cho một kỳ.
    Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân đều đáp lời đứng ra hành sự. Lúc này cục thế khẩn cấp, Trương Vô Kỵ không còn thì giờ suy từ chỉ còn nước ra lệnh tiếp:
    - Thuyết Bất Đắc sư phụ, nhờ ông đem thánh hỏa lệnh của ta đi điều động quân của bản giáo lên núi cứu viện.
    Thuyết Bất Đắc nhận lệnh ra đi. Các anh hùng trong đại điện nghe tin quân Nguyên đang đánh lên, ai nấy rút binh khí hùng hổ ùa ra. Dương Tiêu hạ giọng nói:
    - Giáo chủ, nếu giáo chủ không ra lệnh mọi người sẽ loạn cả lên, thể nào cũng bị bại trận.
    Trương Vô Kỵ gật đầu, đi ra khỏi điện, đến sơn đình ở lưng chừng núi quan sát thấy hơn một nghìn quân tiên phong của Mông Cổ đang tiến lên bị người của Nhuệ Kim Kỳ dùng nỏ cứng thương dài đánh bật trở lại. Chàng đưa mắt nhìn về phía xa xa, từng đội từng đội quân Nguyên đang bò lần lên, thật là đông đảo. Khi đó cái thời Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô uy chấn thiên hạ đã xa rồi nhưng quân thiết kỵ Mông Cổ vẫn tập luyện đúng phép, là tinh binh có một không hai trên thế giới.
    Bỗng nghe ở phía bên trái tiếng kêu la rầm rĩ, một số đông ni cô và đàn ông đàn bà chạy ngược lên núi, chính là người của phái Nga Mi, có lẽ khi đi xuống gặp phải quân Mông Cổ đánh đuổi nên phải quay lại. Có khoảng mươi người đàn ông khiêng cái gì trông như cái cáng, bị quân Mông Cổ bao vây vào giữa, Chu Chỉ Nhược tất lãnh bọn Tĩnh Huyền, Tĩnh Chiếu đánh xông vào, tuy giết được vài chục tên quân Mông Cổ nhưng vẫn không sao cứu được đồng môn đang nguy ngập.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Hỏng rồi! Người nằm trên cáng hẳn là Tống sư ca?. Chàng liền kêu lên:
    - Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ bảo vệ cho ta! Dương Phạm nhị sứ, Vi huynh theo ta cứu người.
    Rồi tung mình phóng lên trước. Hai tên quân Mông Cổ cầm mâu xông vào đâm, Trương Vô Kỵ giơ tay chụp một thanh mâu, vận kình hất một cái, hai tên lính lăn xuống sườn núi. Chàng quay đầu mâu, hai chiếc giáo chẳng khác gì rồng ra biển, múa lên vù vù tiến vào trong đám người. Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc chạy theo sau, lính Mông Cổ liền chạy tứ tán bỏ bọn Chu Chỉ Nhược lại phía sau. Phạm Dao đấm ra một quyền, đánh nát mặt một tên thập phu trưởng, cướp lấy người bị thương nằm trên cáng, quay đầu chạy lên.
    Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược người đầy máu me, lại xông vào đoàn quân Nguyên, kêu lên:
    - Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, Tống đại ca đã cứu được rồi.
    Chu Chỉ Nhược làm như không nghe, vẫn múa trường tiên đánh về phía trước, tuy nhiên sơn đạo nhỏ hẹp đứng chật những người thành thử chưa thể vượt qua được. Trương Vô Kỵ thấy hai đệ tử Nga Mi khiêng một cái cáng khác vẫn còn bị bao vây đang vung đao đánh thí mạng với quân Nguyên, nghĩ thầm: ?Xem ra trên cái cáng đó mới thực là Tống sư ca?. Chàng nhún mình nhảy tới, hai thanh trường mâu chống lên trên vách núi lấy tay làm chân, như đi cà khêu tiến tới. Còn cách chừng khoảng hơn một trượng, bỗng thấy hai đệ tử Nga Mi kẻ trúng đao người trúng tên, lăn long lóc xuống sườn núi.
    Trương Vô Kỵ phi thân nhảy tới, tay trái giơ trường mâu ra đỡ cho cái cáng khỏi lăn theo, thấy người trên cáng quấn đầy vải trắng, chỉ lộ khuôn mặt, chính là Tống Thanh Thư. Trương Vô Kỵ vứt trường mâu xuống, ôm y trên tay, thấy thân thể y nặng lạ thường, trong vải cứng ngắc xem ra còn vật gì khác, không kịp xem kỹ sợ làm động đến những xương gãy, vội lách phải né trái, tránh đao thương quân Nguyên tấn công, chân vẫn bình ổn chạy lên.
    Ngay khi đó, Đường Văn Lượng và Tông Duy Hiệp của phái Không Động cũng song song xông tới, cầm kiếm hộ vệ hai bên, hai thanh kiếm thu vào đâm ra, quân Nguyên liên tiếp trúng kiếm, Trương Vô Kỵ bình an bế Tống Thanh Thư chạy lên núi. Có vài trăm quân Nguyên dàn thành đội hình tấn công lên, Bành Oánh Ngọc liền kêu:
    - Liệt Hỏa Kỳ ra tay.
    Các giáo chúng trong Liệt Hỏa Kỳ liền phun dầu thô trong ống thụt ra rồi bắn hỏa tiễn tới, lửa liền bốc lên bừng bừng, hơn hai trăm quân Mông Cổ đi trước bị cháy thành những trái cầu lửa lăn xuống núi. Ở bên kia Hồng Thủy Kỳ cũng phun nước độc ra, có mấy trăm quân bị trúng, chết thật thảm khốc. Tên vạn phu trưởng quân Nguyên liền ra lệnh đánh chiêng thu binh, quân Nguyên tiền đội biến thành hậu đội giơ cung bắn chặn từ từ xuống núi. Bành Oánh Ngọc than:
    - Quân Thát tử tuy thua mà không loạn, quả là tinh binh trong thiên hạ.
    Chỉ thấy quân Nguyên lui đến chân núi rồi, tỏa ra như hình nan quạt, xem ra chưa có ý tấn công trở lên ngay. Trương Vô Kỵ hạ lệnh:
    - Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa ba kỳ trấn giữ các nơi hiểm yếu. Cự Mộc, Hậu Thổ hai kỳ mau chặt gỗ xúc đất xây hàng rào cản đề phòng quân địch đánh lên.
    Các chưởng kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ liền tuân lệnh, chia ra chỉ huy hạ thuộc bố phòng. Quần hùng trước đây vẫn nghĩ rằng nếu không giết hết được quân Nguyên thì mình cũng tự lo cho mình được không đến nỗi nào. Thế nhưng sau một trận giao phong mới thấy uy lực của quân Nguyên, biết rằng bày binh bố trận khác hẳn đơn đả độc đấu, tỉ thí võ nghệ. Hàng nghìn hàng vạn người ùa lên tấn công, thế như nước vỡ bờ dẫu võ công cao cường như Chu Chỉ Nhược, trong đám đông người cũng không thể nào thi triển tài nghệ. Bốn bề tám hướng nơi nào cũng đầy đao thương kiếm kích, đâm chém loạn xạ, bình thời dù học bao nhiêu phép đón đỡ, sách giải chiêu số, nội kình ngoại công đều không thể nào dùng được. Nếu không phải Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo lấy trận pháp ngăn chặn trận pháp, lúc này núi Thiếu Thất chắc thê thảm không biết đến đâu, chùa Thiếu Lâm chắc cũng đã bị mồi lửa biến thành một đống gạch vụn rồi.
    Mặc dầu tăng chúng chùa Thiếu Lâm có kỷ luật, từng đội sư sãi thanh niên cầm giới đao thiền trượng, dưới quyền chỉ huy của các tăng nhân có tuổi trấn giữ các nơi hiểm yếu nhưng ít không chống lại được số đông, khó mà có thể chống đỡ với hai vạn tinh binh Mông Cổ tấn công vào. Đến khi quân Nguyên thoái lui rồi, quần hùng mới xôn xao bàn tán hiểu được tại sao tiền triều không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, võ công cao cường nhưng vẫn để giang sơn gấm vóc này rơi vào tay Thát tử.
    Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng để Tống Thanh Thư xuống đất, thăm mũi thấy vẫn còn thở nhè nhẹ, quay lại định gọi Chu Chỉ Nhược nhưng không thấy, bèn hỏi:
    - Tống phu nhân đâu rồi?
    Mọi người mới rồi lo chống trả quân Nguyên không ai để ý xem Chu Chỉ Nhược ở nơi đâu. Phái Nga Mi lúc này đối với Minh Giáo cũng bớt được mấy phần căm ghét, đều nói không thấy chưởng môn. Trương Vô Kỵ sợ Tống Thanh Thư trong cơn hỗn loạn có thể bị thương nên cởi các băng vải trên người y ra xem thế nào.
    Trên người y quấn ba lớp vải trắng, đến khi lớp thứ ba cởi ra, nghe thấy loảng xoảng loảng xoảng, rơi ra bốn mảnh binh khí gãy. Trương Vô Kỵ giật mình, kêu lên:
    - Đồ Long đao! Ỷ Thiên kiếm!
    Mọi người lập tức ùa tới, thấy hai món binh khí sắc bén kia đều đã gãy đôi. Trương Vô Kỵ cầm một nửa thanh đao Đồ Long lên xem, thấy nặng nề, trong lòng hiện ra trăm mối cảm hoài, cha mẹ mình cũng vì thanh đao này mà bỏ mạng, trong hơn hai mươi năm qua trên chốn giang hồ sóng gió liên miên đều cũng vì nó cả. Quần hùng hôm nay tụ tập nơi chùa Thiếu Lâm, chủ yếu cũng vì hai chữ Đồ Long. Đến bây giờ bảo đao xuất hiện thì đã gãy rồi, không còn dùng được nữa, có điều nơi chỗ gãy có một lỗ hổng xem ra có thể dấu được vật gì, thanh kiếm Ỷ Thiên cũng như thế. Cả đao lẫn kiếm đều rỗng ruột, nếu quả có gì trong đó thì cũng đã bị người ta lấy đi mất rồi.
    Dương Tiêu thở dài:
    - Võ công kinh người của Chu cô nương thì ra từ ở trong đao kiếm này mà có.
    Trương Vô Kỵ thấy đao kiếm gãy như thế lập tức hiểu ngay: trên hòn đảo nhỏ đêm hôm đó đao kiếm mất cả chính là do Chu Chỉ Nhược lấy cắp. Không biết nàng dùng thủ đoạn gì mà đuổi được Triệu Mẫn đi, giết hại Ân Ly rồi dùng đao kiếm chặt vào nhau khiến cho hai món binh khí sắc bén nhất thiên hạ này đều bị hủy để lấy được võ công bí cập dấu trong đao kiếm bí mật tu tập.
    Chàng càng nghĩ càng hiểu rõ: ?Đúng rồi, khi đó trên tiểu đảo ta dùng Cửu Dương thần công giúp nàng trừ chất độc, trong cơ thể nàng quả có một luồng nội lực quái dị ngầm chống lại với ta, càng về sau càng mạnh hiển nhiên nàng tu tập có tiến bộ. Ôi! Nàng muốn luyện gấp cho mau xong nên không chịu theo đuổi nội công căn cơ mà chỉ toàn là những môn võ công âm độc tốc thành nên không thể nào đạt được mức thượng thừa tuyệt đỉnh. Tuy nàng đánh bại được Du nhị bá và Ân lục thúc thật nhưng cũng chỉ nhờ vào võ công chiêu số quái dị mà ra nên xuất kỳ bất ý thắng thế, chẳng khác gì ta bị Phong Vâm tam sứ giả của tổng giáo đánh bại hôm nào. Võ công chân chính của Chỉ Nhược so ra với Du Ân hai vị thật còn kém xa, sau này nếu có giao đấu thể nào cũng chết dưới tay Võ Đương nhị hiệp ...?.
    Chàng còn đang trầm ngâm, Chưởng Kỳ Sứ của Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo tiến lên nói:
    - Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ vốn xuất thân thợ rèn, đã từng học qua phép đánh đao đánh kiếm, để thuộc hạ làm thử, biết đâu không nối lại được bảo đao, bảo kiếm như cũ.
    Dương Tiêu vui mừng đáp lời:
    - Thuật rèn kiếm của Ngô kỳ sứ thiên hạ vô song, xin giáo chủ để y thử xem sao.
    Trương Vô Kỵ gật đầu:
    - Hai loại lợi khí này bị gãy quả thực đáng tiếc. Ngô kỳ sứ nếu nối lại được thì còn gì bằng.
    Ngô Kình Thảo quay sang nói với Liệt Hỏa Kỳ Sứ Tân Nhiên:
    - Rèn đao rèn kiếm, cốt nhất là ở sức lửa, nhờ Tân huynh giúp cho một tay. Xem tình cảnh này, quân Thát Đát nhất thời chưa đánh lên núi, hai anh em ta làm ngay được chăng?
    Tân Nhiên cười đáp:
    - Cái gì chứ nhóm củi, đốt lửa thì vốn là nghề của huynh đệ.
    Lập tức hai người chỉ huy thuộc hạ, đắp ngay một cái lò lớn, miệng lò rộng không đầy một thước. Ngô Kình Thảo lấy mảnh mũi đao Đồ Long xếp vào, chỗ gẫy ngay tại miệng lò. Nhiên liệu của Liệt Hỏa Kỳ đã sẵn sàng, chẳng mấy chốc lửa đã bừng bừng bốc lên. Ngô Kình Thảo tay phải đã đứt, chỉ còn lại một cánh tay trái. Bên cạnh y để hơn một chục loại binh khí khác nhau, mắt chăm chăm, mỗi khi thấy lửa biến màu, lại đem một món binh khí ném vào để xem sức nóng. Đợi đến khi lửa từ xanh biến thành trắng, tay trái mới cầm kìm, kẹp mảnh thanh đao Đồ Long còn lại chắp vào đầu bên kia để nung. Nửa thân trên y để trần, đốm lửa bắn tung tóe lên người nhưng dường như không cảm giác, vẫn hết tâm để vào việc. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Rèn đao kiếm tuy là việc nhỏ, nhưng cũng phải học tập nhiều, bản lãnh lắm mới làm được. Nếu như loại thợ rèn tầm thường, chỉ chịu nóng không cũng không nổi?.
    Bỗng nhiên lịch kịnh mấy tiếng, hai tên giáo chúng kéo bễ ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Tân Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ Chưởng Kỳ Phó Sứ lập tức xông lên, gạt hai tên đó sang một bên, tự tay kéo bễ thổi lửa. Hai người nội lực không phải là yếu nên vừa sử kình quạt lò, lửa đã bốc lên, ngọn cao cả trượng, cảnh tượng thật là đẹp mắt.
    Độ tàn nửa nén hương, Ngô Kình Thảo bỗng kêu lên: ?Ối chà?, tung mình nhảy vọt về phía sau, mặt đầy vẻ thất vọng. Mọi người ai nấy kinh hãi, nhìn lại trong tay y, thấy cái kềm đã bị nóng chảy, méo mó không còn hình thù gì, còn thanh đao Đồ Long vẫn không suy suyển. Ngô Kình Thảo lắc đầu:
    - Thuộc hạ vô năng, thanh đao Đồ Long này quả thực danh bất hư truyền!
    Tân Nhiên và Chưởng Kỳ Phó Sứ tạm ngưng thổi bễ, đứng lui sang một bên. Hai người áo quần ướt đẫm mồ hôi, tưởng như vừa ở dưới nước trèo lên. Triệu Mẫn bỗng nói:
    - Vô kỵ ca ca, có phải Thánh Hỏa Lệnh đao Đồ Long chặt không đứt phải không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Ừ, đúng vậy!
    Trong sáu thanh Thánh Hỏa Lệnh, một thanh đã giao cho Thuyết Bất Đắc cầm xuống núi để điều binh, nay chỉ còn năm. Chàng lấy trong bọc ra, giao cho Ngô Kình Thảo:
    - Đao kiếm không hàn lại được, cũng chẳng quan hệ gì. Thánh Hỏa Lệnh là vật chí bảo của bản giáo, không thể để cho hư hỏng.
    Ngô Kình Thảo cúi mình tiếp lấy, đáp: ?Xin vâng lệnh!?. Y thấy năm thanh Thánh Hỏa Lệnh không phải sắt, cũng chẳng phải vàng, cứng rắn vô cùng, nặng trình trịch, nên cúi đầu suy nghĩ.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu thấy không ổn thì cũng đừng mạo hiểm làm gì.
    Ngô Kình Thảo không trả lời, một hồi sau mới tỉnh giấc trầm tư, đáp:
    - Thuộc hạ quả là không phải, xin giáo chủ thứ tội. Thánh Hỏa Lệnh này vốn là bạch kim trộn với huyền thiết và cát kim cương đúc thành, lửa nóng không làm chảy nổi. Thuộc hạ quả thật hồ nghi, không biết khi xưa làm sao đúc được, cho nên suy nghĩ nhất thời như mất cả hồn vía.
    Triệu Mẫn liếc Trương vô Kỵ một cái, nhoẻn miệng cười:
    - Sau này giáo chủ sẽ có dịp sang Ba Tư để gặp một nhân vật thật là quan trọng, lúc đó Ngô huynh có thể đi theo, hỏi các thợ đúc cao thủ của họ xem làm cách nào.
    Trương vô Kỵ ngượng nghịu nói:
    - Ta sang Ba Tư để làm gì?
    Triệu Mẫn mỉm cười:
    - Chuyện đó không nói ra được.
    Lại quay sang Ngô Kình Thảo:
    - Ngươi xem, trên Thánh Hỏa Lệnh còn có khắc hoa văn và chữ. Dù có sắc bén như đao Đồ Long hay kiếm Ỷ Thiên cũng không làm suy suyển được, thì những đường nét, văn tự ấy làm sao đục thành?
    Ngô Kình Thảo đáp:
    - Muốn khắc hoa văn, văn tự không có gì khó. Chỉ cần dùng sáp trắng phủ lên trên Thánh Hỏa Lệnh, trên sáp khắc hình vẽ chữ, sau đó đem ngâm trong cường toan, chỉ vài tháng sau sẽ ăn mòn. Sau đó đem ra cạo hết sáp đi, các hình và chữ sẽ hiện ra. Điều tiểu nhân không hiểu là làm sao nung cho chảy được.
    Tân Nhiên kêu lên:
    - Thế thì có định làm không đây?
    Ngô Kình Thảo hướng về phía Trương Vô Kỵ:
    - Giáo chủ đừng ngại. Liệt hỏa của Tân huynh đệ tuy ghê gớm thật, nhưng không tổn hại được Thánh Hỏa Lệnh đâu.
    Tân Nhiên trong lòng hơi sợ, vội nói:
    - Tôi chỉ hết sức thổi lửa, nếu như làm hỏng Thánh vật của bản giáo, thì không chịu tội đâu nhé.
    Ngô Kình Thảo mỉm cười:
    - Chỉ sợ ngươi không đủ nhẫn nại, có gì ta chịu hết.
    Nói rồi lấy hai miếng Thánh Hỏa Lệnh kẹp một nửa thanh đao, sau đó dùng một chiếc kìm mới kẹp lấy Thánh Hỏa Lệnh đưa bảo đao vào trong lò nung lần nữa. Lửa mỗi lúc một bốc lên cao, nung đến hơn nửa giờ, chỉ thấy Ngô Kình Thảo, Tân Nhiên, Liệt Hỏa Kỳ phó sứ ba người thấp thoáng trong ánh lửa, mỗi lúc một thêm uể oải, xem chừng không còn chịu nổi.
    Thiết Quan đạo nhân Trương Trung liếc mắt ra hiệu cho Chu Điên, phất tay một cái, hai người cùng xông lên nhảy vào thay cho Tân Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ phó sứ, ra sức kéo bễ. Trương Chu hai người nội lực so với những người kia cao hơn nhiều, lửa trong lò bốc vút lên thẳng một làn trắng xóa.
    Ngô Kình Thảo bỗng dưng quát lớn:
    - Cố huynh đệ, ra tay đi.
    Chưởng kỳ phó sứ Nhuệ Kim Kỳ tay cầm dao nhọn, chạy tới bên lò, chỉ thấy lấp lánh, đã giơ dao đâm thẳng vào ngực Ngô Kình Thảo. Quần hùng đứng chung quanh không khỏi thất sắc, đều lớn tiếng kêu la. Máu từ trên bộ ngực trần của Ngô Kình Thảo phun ra tung tóe trên thanh đao Đồ Long, gặp nóng lập tức bốc lên một làn khói xanh khét lẹt. Ngô Kình Thảo la lớn:
    - Thành rồi.
    Y lui lại mấy bước, ngồi phịch xuống đất, tay cầm một thanh đao đen sì. Quả thực hai mảnh của đao Đồ Long đã liền lại thành một. Mọi người bấy giờ mới biết, mỗi khi những người thợ đúc đao rèn kiếm không thành, phải nhỏ máu vào. Thời xưa, vợ chồng Can Tương, Mạc Tà thậm chí phải nhảy vào lò, mới đúc thành vô thượng lợi kiếm. Việc Ngô Kình Thảo làm chính là theo phong cách của những người xưa truyền lại.
    Trương Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo lên, xem xét vết thương, thấy dao đâm không sâu, chẳng có gì đáng lo ngại. Chàng lấy kim sang rắc vào, dùng vải buộc lại, nói:
    - Ngô huynh việc gì phải làm như thế. Đao này nối lại được hay không, không phải là quan trọng, đâu đáng để Ngô huynh phải chịu khổ đến vậy.
    Ngô Kình Thảo đáp:
    - Vết thương nhỏ ngoài da thịt, có đáng gì để giáo chủ phải lo lắng.
    Y đứng dậy, cầm thanh đao Đồ Long lên xem, thấy liền lạc không dấu vết, chỉ lờ mờ một lằn máu nhỏ, không khỏi mười phần đắc ý. Trương Vô Kỵ xem lại hai thanh Thánh Hỏa Lệnh mới nung trong lò thấy không suy tổn mảy may, yên chí tiếp lấy thanh đao Đồ Long, chém xuống hai lưỡi mâu chàng vừa cướp được của lính Mông Cổ[5], chỉ nghe một tiếng soẹt nhỏ, hai món võ khí đứt ra làm đôi, đúng là chặt sắt như bùn.
    Mọi người ai nấy reo lên:
    - Đao tốt quá! Đao tốt quá!
    Ngô Kình Thảo cầm hai mảnh kiếm Ỷ Thiên lên, nghĩ đến chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh cùng mấy chục anh em chết vì kiếm này, nhịn không nổi nước mắt chảy ròng ròng nói:
    - Thưa giáo chủ, thanh kiếm này đã giết chết Trang đại ca, giết thêm bao nhiêu là anh em bằng hữu của bản giáo, Ngô Kình Thảo này hận nó tận xương tủy, không muốn nối lại làm gì, xin giáo chủ trách phạt cho!
    Nói xong rồi khóc òa lên. Trương Vô Kỵ nói:
    - Đó chẳng qua là nghĩa khí của Ngô đại ca, đâu có tội vạ gì?
    Chàng cầm lấy hai mảnh thanh kiếm gãy, đến trước mặt Tĩnh Huyền của phái Nga Mi nói:
    - Kiếm này nguyên là của quí phái, xin sư thái giữ giùm, chuyển lại cho Chu ... cho Tống phu nhân.
    Tĩnh Huyền không nói một lời, cầm lấy hai mảnh kiếm gãy. Trương Vô Kỵ cầm thanh đao Đồ Long, suy nghĩ rồi quay sang nói với Không Văn:
    - Phương trượng, thanh đao này do nghĩa phụ tôi mà có, hiện nay ông ta đã qui y tam bảo, thuộc về phái Thiếu Lâm, thanh đao này vậy do phái Thiếu Lâm chấp chưởng.
    Không Văn xua tay rối rít nói:
    - Thanh đao này đổi chủ mấy lần, sau cùng chính Trương giáo chủ cướp được trong đám thiên quân vạn mã, ai ai cũng chính mắt trông thấy, lại do Ngô đại ca của quí giáo nối lại. Huống chi hôm nay anh hùng thiên hạ đều suy cử Trương giáo chủ lên làm võ lâm chí tôn, luận tài luận đức, luận cả nguồn gốc, danh vị, đao này phải do Trương giáo chủ chưởng quản mới phải, có thế mới đúng là danh chính ngôn thuận.
    Quần hùng cùng lên tiếng phụ họa, nói:
    - Mọi người đều mong mỏi như vậy, Trương giáo chủ xin đừng thoái thác nữa.
    Trương Vô Kỵ đành cầm lấy, nghĩ thầm: ?Nếu như nhờ có thanh bảo đao này mà hiệu lệnh được anh hùng hào kiệt thiên hạ, cùng chung sức đuổi quân Hồ Lỗ thì đúng là việc mình phải làm?. Lại nghe mọi người lao xao nói:
    - Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng.
    Hai câu tiếp ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong ?? không ai đề cập đến vì thấy thanh kiếm nay đã gãy liệu rằng không nối lại được nữa. Người trong Nhuệ Kim Kỳ của Minh Giáo hận thanh kiếm Ỷ Thiên này biết bao nhiêu, nay thấy thanh đao Đồ Long trở lại nguyên vẹn như cũ, còn Ỷ Thiên kiêm chỉ là hai mảnh kiếm gãy, ai nấy đều hả dạ.
    Mọi người bận rộn cả nửa ngày nay ai cũng thấy đói. Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo cùng một nửa tăng lữ trong chùa Thiếu Lâm chia nhau ra trấn giữ những nơi hiểm yếu, số còn lại quay vào chùa ăn cơm chay. Đến khi trời đã sắp tối, Trương Vô Kỵ nhảy lên trên một cây cao, nhìn xuống chân núi, thấy quân Nguyên đông một tụm, tây một nhóm, khói lửa bốc lên, cũng đang bắc chảo nấu cơm. Chàng nhảy xuống đất, nói với Vi Nhất Tiếu:
    - Vi huynh, đợi đến khi trời tối, nhờ Vi huynh đi dò thám tình hình quân địch, xem thử chúng có tính đêm nay đột kích hay không.
    Vi Nhất Tiếu tiếp lệnh vâng lời ra đi. Dương Tiêu nói:
    - Giáo chủ, tôi xem chừng quân Thát tử ở mặt trước đã bị thua một trận, hôm nay chắc chưa tấn công lần nữa đâu, có phòng bị là phòng mặt sau chúng đánh lén.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế, nhờ Dương tả sứ và Phạm hữu sứ ở đây trấn thủ, tôi sang ngọn núi bên kia coi thế nào.
    Triệu Mẫn nói:
    - Để thiếp đi với.
    Hai người lên đến ngọn núi nơi từng nhốt Tạ Tốn trông ra phía sau núi không thấy động tĩnh gì. Trương Vô Kỵ vỗ vỗ ba cây tùng gãy, nhìn xuống địa lao đen ngòm, nhớ lại trận đấu kịch liệt sáng nay, thật là hung hiểm đột nhiên nghĩ ra một chuyện: ?Nghĩa phụ bảo ta coi các bức vách dưới địa lao, suýt nữa thì quên? bèn nói:
    - Mẫn muội, em ở trên này canh chừng, anh xuống xem ra thế nào.
    Chàng nhảy xuống dưới thạch thất, lấy đồ đánh lửa đốt lên, bấy giờ nước tích trong hầm đã rút nhưng mặt đất vẫn còn ướt đẫm. Cả bốn bên vách đều có khắc một tấm hình, dùng đá nhọn vạch thành, nét bút thật giản dị nhưng thần thái cũng khá sinh động. Bên phía đông bức vẽ đầu tiên vẽ ba thiếu nữ, một cô nằm dưới đất, một người quì đang săn sóc, còn cô thứ ba thò tay vào trong bọc của người đang quì, bên cạnh đề hai chữ ?Lấy thuốc?.
    Bức tường phía nam vẽ một chiếc thuyền, một cô gái cầm một cô khác ném lên, viết hai chữ "Đuổi đi". Trương Vô Kỵ mồ hôi trán nhỏ ròng ròng, nghĩ thầm: ?Hóa ra đúng là thế thật. Chỉ Nhược nhân lúc Mẫn muội đang chăm sóc cho biểu muội, ăn cắp Thập Hương Nhuyễn Cân Tán trong bọc của nàng, bỏ vào đồ ăn thức uống, sau đó ném Mẫn muội lên hải thuyền Ba Tư, ép họ phải ra đi. Sao nàng lại không giết Mẫn muội nhỉ? Ồ, nếu như để lại cái xác của Mẫn muội không hủy được hình tích thì ta sẽ không bao giờ chịu lấy nàng. Nếu đúng như thế biểu muội cũng chính nàng ta hạ thủ?.
    Ở bên góc phía dưới bức hình còn có vẽ thêm hai người đàn ông, một người đang ngủ say, còn một người tóc dài, nghiêng tai nghe ngóng. Trương Vô Kỵ lòng hơi hoảng sợ: ?Hóa ra Chỉ Nhược làm những chuyện thương thiên hại lý đó nghĩa phụ đều nghe biết cả. Lão nhân gia quả thật công phu hàm dưỡng cao siêu, trên đảo không lộ ra một tí gì. Đúng rồi, khi đó ta và nghĩa phụ uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán công lực đều mất hết, tính mạng nằm trong tay Chỉ Nhược. Thảo nào khi đó nghĩa phụ nhất nhất đổ riệt cho Mẫn muội, thật là phẫn nộ. Ông biết ta ngờ nghệch thực thà, nếu nói cho ta hay, trong ngôn ngữ cử chỉ thể nào cũng làm lộ chuyện?. Trên bức hình máu me vương vãi, chính là ban ngày Tạ Tốn và Thành Côn hai bên giao đấu huyết tích văng vào, càng làm cho tình cảnh thêm ghê rợn.
    Đến khi xem đến đồ họa thứ ba nơi bức tường phía tây thì cây đuốc trên tay đã hết, tắt ngúm đi. Chàng kêu lên:
    - Mẫn muội xuống đây, đem cho anh một cây đuốc.
    Triệu Mẫn châm một ngọn đuốc, nhảy xuống địa lao, vừa nhìn thấy mấy hình vẽ lập tức hiểu ngay. Bức họa thứ tư vẽ mấy hán tử bắt Tạ Tốn dẫn đi, đằng xa có một thiếu nữ nấp sau một gốc cây dò thám. Cả bốn bức hình đó bút pháp thật tuyệt nhưng ngoài Tạ Tốn ra những người khác mặt mũi đều thẩy mơ hồ, thành thử không biết được người nào với người nào. Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm hiểu ngay: ?Khi nghĩa phụ bị hỏng mắt đến như ta cũng chưa ra đời, ông nhận được ra Mẫn muội, Chỉ Nhược, biểu muội toàn bằng tiếng nói nhưng có biết diện mạo ra sao đâu nên không thể vẽ được?. Chàng chỉ vào thiếu nữ đó hỏi:
    - Có phải em đây không? Hay là Chu cô nương?
    Triệu Mẫn đáp:
    - Là em. Khi Thành Côn đến tổng đàn Cái Bang cướp Tạ đại hiệp ra, sai người đưa về nhốt tại chùa Thiếu Lâm, chính y vẽ các ký hiệu của Minh Giáo trên đường dẫn chàng chạy một vòng, em mấy lần tính ra tay đoạt lại Tạ đại hiệp nhưng không thành công, để đến nỗi anh hụt làm chú rể, thật hết sức ăn năn.
    Trương Vô Kỵ trong lòng cũng thật áy náy, xót xa nhìn Triệu Mẫn thấy nàng dung nhan tiều tụy, hai má hóp vào đủ biết mấy tháng qua phải chịu biết bao nhiêu đọa đày, quả thật đáng thương nên vòng tay ôm vào lòng, bồi hồi nói:
    - Mẫn muội! Anh ... anh ... thật có lỗi với em.
    Ngọn đuốc không có người cầm rơi xuống tắt ngúm, trong hầm tối đen như mực. Chàng lại tiếp:
    - Nếu chẳng vì em thông minh linh lợi, cái gã Trương Vô Kỵ hồ đồ ngờ nghệch này đã giết em rồi, nếu thế thật không biết sẽ ra sao?
    Triệu Mẫn cười nói:
    - Liệu chàng có nỡ giết em chăng? Khi đó chàng nghĩ em là hung thủ, sao gặp em chàng lại không ra tay?
    Trương Vô Kỵ ngẩn người, thở dài:
    - Mẫn muội, anh thật trong lòng chỉ yêu một mình em thôi, hơn cả thân mình. Nếu quả thực biểu muội bị em giết hại, anh thật cũng không biết làm sao nữa. Đến bây giờ mọi việc đã sáng tỏ, tuy anh có oán hận Chỉ Nhược thật nhưng phải nói trong bụng cũng mừng thầm.
    Triệu Mẫn nghe người tình thành khẩn như thế, gục đầu vào lòng chàng. Một hồi thật lâu hai người không ai nói câu nào, ngẩng đầu nhìn lên, một vầng trăng non treo lơ lửng ở phương đông, bốn bề thật là tĩnh mịch.
    Triệu Mẫn nói nhỏ:
    - Vô Kỵ ca ca, lần đầu tiên em gặp chàng ở Lục Liễu Trang, về sau hai đứa rơi vào trong hầm tối, hôm đó với hôm nay cũng chẳng khác gì bao nhiêu, phải không?
    Trương Vô Kỵ bật cười, giơ tay nắm lấy bàn chân trái của nàng, lột chiếc giày ra. Triệu Mẫn cười khúc khích:
    - Thân con trai mà sao lại ăn hiếp con gái chân yếu tay mềm?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Cô mà chân yếu tay mềm ư? Cô ngụy kế đa đoan, còn ghê gớm gấp mười người đàn ông.
    Triệu Mẫn cười:
    - Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám nhận.
    Hai người nói đến đây cùng cười ha hả. Mấy câu đối đáp đó chính là những câu hai người nói với nhau khi ở dưới hầm tối Lục Liễu Trang, có điều năm xưa khi nói những câu đó hai bên đang thù ghét nhau, còn hôm nay thì lại tình ý hết sức dạt dào. Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Em có sợ anh cù gan ban chân em nữa hay không?
    Triệu Mẫn cũng cười:
    - Không sợ!
    Trương Vô Kỵ nắm chặt chân nàng bỗng nghe từ phía tây bắc văng vẳng tiếng hò hét truyền tới vội lắng tai nghe, xa xa có kình phong phần phật, quả ai đó đang đánh nhau liền nói:
    - Mình đi xem coi sao!
    Chàng liền nắm tay Triệu Mẫn, nhảy ra khỏi hầm đá theo tiếng mà lần đến, thấy ba bóng người chạy về phía tây, thân pháp nhanh nhẹn dị thường đều là cao thủ hạng nhất.
    Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ ngang lưng Triệu Mẫn, thi triển khinh công đuổi theo, xa xa vẫn thấy một người chạy trước, đằng sau hai người đuổi theo. Cước bộ của chàng mỗi lúc một nhanh, đuổi khoảng một dặm, dưới ánh trăng thấy hai ông già phía sau chính là Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông. Chỉ thấy Hạc Bút Ông giơ tay trái ra, ném luôn một chiếc bút mỏ hạc vào người chạy trước. Người kia vung kiếm lại gạt đi, nghe keng một tiếng, gạt chiếc bút mỏ hạc văng lên không trung. Chính vì thế nên chậm lại một bước, Lộc Trượng Khách đã nhảy đến ngang người kia, đâm trượng sừng hươu ra.
    Người kia nghiêng qua tránh được đánh ra một chưởng, ánh trăng chiếu lên thấy mặt trắng bệch, tóc dài xõa ra, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội ôm Triệu Mẫn náu sau một gốc cây. Hạc Bút Ông đón lấy cây bút mỏ hạc từ trên không rơi xuống, quấn lấy phía bên trái Chu Chỉ Nhược, cùng với Lộc Trượng Khách thành thế tả hữu giáp công. Chu Chỉ Nhược nghiến răng nói:
    - Hai tên lão quỉ kia nhất định đuổi theo ta là cớ gì?
    Lộc Trượng Khách đáp:
    - Hôm nay Minh Giáo Trương Vô Kỵ đoạt được đao Đồ Long, kiếm Ỷ Thiên, chính mắt bọn ta trông thấy, võ công bí cập dấu trong đao kiếm không còn nữa, ắt là ở trong người Tống phu nhân.
    Trương Vô Kỵ giật mình: ?Khi ta đoạt đao cứu người thì ra hai tên giặc này nấp ở một bên vậy mà mình không biết gì cả?. Chu Chỉ Nhược nói:
    - Võ công bí cập thì có thật nhưng ta luyện xong đã hủy đi rồi.
    Lộc Trượng Khách cười khẩy:
    - ?Luyện xong? hai tiếng đó sao nghe dễ thế? Thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên được gọi là võ lâm chí tôn, bí cập dấu trong đó không lẽ tầm thường hay sao? Tống phu nhân võ công tuy hơn người thật nhưng đâu đã đến mức tuyệt đỉnh, nếu không thì chỉ cần giơ tay là giết được hai anh em lão phu rồi, đâu đến nỗi phải bỏ chạy?
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Ta nói hủy rồi là hủy rồi, ai hơi sức đâu mà lằng nhằng với các ngươi. Thôi xin kiếu nhé.
    Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông cùng quát lên:
    - Khoan đã!
    Lộc trượng và hạc bút cùng vung ra, đánh vào hai bên hông Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược múa kiếm vù vù, dưới ánh trăng lấp loáng như một con rắn bạc. Huyền Minh nhị lão một trượng, hai bút liên thủ tấn công.
    Trước đây Trương Vô Kỵ chỉ mới thấy Chu Chỉ Nhược sử dụng trường tiên, bây giờ lại thấy nàng kiếm chiêu tung hoành đấu với hai đại cao thủ mà lúc thủ lúc công, khi hư khi thực biến ảo lạ thường, càng lúc càng nhiều chiêu số xảo diệu.
    Đấu thêm vài chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Chu Chỉ Nhược càng lúc càng kỳ lạ, trong mười chiêu thì đến bảy chiêu là thế công thật độc địa. Trương Vô Kỵ biết nàng muốn thoát thân cho nhanh, thế nhưng phép đánh này càng gấp gáp thì nội lực vận lên càng nhiều, chỉ sơ ý một chút là sẽ gặp hung hiểm ngay. Chàng trong bụng quan hoài, rón rén từ sau gốc cây đi ra đi đến gần thêm mấy bước.
    Chu Chỉ Nhược bỗng hét lên một tiếng, đâm luôn ba kiến liền về phía Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghiêng người né tránh, ngay lúc đó hai chiếc bút của Hạc Bút Ông nhắm ngay sau lưng nàng ném tới, giữa đường chạm nhau nghe keng một tiếng, chia ra tấn công vào những nơi yếu hại sau ót và lưng. Chu Chỉ Nhược nghe thấy phía sau có binh khí ném tới, hụp người xuống tránh nhưng không ngờ rằng binh khí giữa lưng chừng lại đụng nhau đổi hướng, nên tránh được cây bút đánh vào sau ót nhưng không thoát được cây bút đánh vào lưng.
    Trương Vô Kỵ tung mình nhảy tới, giơ tay chộp cây bút mỏ hạc, múa chưởng đỡ ngay đòn của Hạc Bút Ông đánh tới. Chu Chỉ Nhược còn đang kinh hoàng thất tán, Lộc Trượng Khách đã nhẹ nhàng vung chưởng đánh ra, trúng ngay bụng dưới của nàng. Đó chính là Huyền Minh thần chưởng hết sức kinh hồn, Chu Chỉ Nhược lập tức ngộp thở, hôn mê bất tỉnh.
    Trương Vô Kỵ hoảng hốt vứt cây bút mỏ hạc trong tay xuống đất, đưa tay ra ôm lấy Chu Chỉ Nhược, nhảy xéo qua một bên, quát lớn:
    - Huyền Minh nhị lão, sao làm trò vô liêm sỉ như thế?
    Lộc Trượng Khách cười ha hả nói:
    - Ta tưởng ai lớn mật dám nhúng tay vào, hóa ra là Trương đại giáo chủ. Quận chúa nương nương của chúng ta đâu rồi? Ngươi bắt cóc quận chúa dấu nơi đâu?
    Triệu Mẫn từ sau gốc cây bước ra, đỡ lấy Chu Chỉ Nhược, cười hì hì nói:
    - Lộc tiên sinh, chắc lâu nay ông hồn vía điên đảo nhớ nhung tôi, không sợ cha tôi nổi giận hay sao?
    Lộc Trượng Khách bực dọc đáp:
    - Ngươi là con tiểu yêu nữ, muốn ly gián khiêu khích hai sư huynh đệ ta. Anh em ta với cha ngươi đã ân đoạn nghĩa tuyệt, Nhữ Dương Vương giận hay không có liên quan gì đến ta đâu?
    Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách hạ độc thủ đánh Chu Chỉ Nhược, lại vô lễ với Triệu Mẫn, nhớ lại khi còn nhỏ trúng phải Huyền Minh thần chưởng của hai gã này, chịu không biết bao nhiêu khổ sở, hận cũ thù mới bừng bừng bốc lên, bèn nói:
    - Mẫn muội, em lui ra ngoài, hai tên giặc già này ta vừa gặp đã lộn ruột, hôm nay phải cho chúng nó một mẻ mới xong.
    Nhị lão thấy chàng tay không nên cũng bỏ binh khí xuống, chăm chăm đứng đợi. Trương Vô Kỵ quát lớn:
    - Xem chiêu đây!
    Chàn dùng chiêu Lãm Tước Vĩ song chưởng đánh ra. Chiêu này nằm trong Thái cực quyền, đánh ra thật chậm nhưng bên trong chưởng lực có ngầm vận Cửu Dương thần công. Thái cực quyền đối với đời sau coi là tầm thường nhưng lúc đó Trương Tam Phong mới sáng tạo chưa bao lâu, trong võ lâm rất ít người biết đến. Lộc Trượng Khách chưa từng thấy loại chưởng pháp mềm mại như không có sức này bao giờ, không biết bên trong có ngụy kế gì, y đối với Trương Vô Kỵ vốn rất úy kỵ nên không đám đỡ, vội lách qua tránh. Trương Vô Kỵ chuyển mình dùng chiêu Bạch Xà Thổ Tín, tay trái đánh vào Hạc Bút Ông, tay phải hơi rung động, vươn ra thu vào không nhất định. Hạc Bút Ông điểm hờ ngón tay trỏ bên trái vào lòng bàn tay chàng, chưởng phải đánh nghiêng xuống vào bụng Trương Vô Kỵ.
    Trương Vô Kỵ đã mấy lần giao đấu với Huyền Minh nhị lão, biết hai gã này không phải là đối thủ của mình, mới đây chàng lại cùng nhóm Độ Ách tam tăng kịch chiến ba lần, võ công cao thêm một bậc, muốn đánh bại hai người thì thừa sức. Có điều hai người này tài nghệ thật là ghê gớm nên không dám coi thường liền sử dụng Thái cực quyền pháp, tạo thành vòng lớn vòng nhỏ, Cửu Dương thần công theo những vòng đó lúc thẳng lúc xéo cuồn cuộn tung ra.
    Huyền Minh nhị lão thấy dương khí mỗi lúc một thịnh, khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng mỗi lúc càng thêm bị đối phương đẩy ngược trở lại.
    Đấu đến hơn một trăm hiệp rồi, Trương Vô Kỵ bất ngờ xoay người, thấy dưới đất có hai bóng người hơi run rẩy, chính là bóng trăng chiếu vào Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược, trong lòng hơi hoảng, nghiêng người quan sát, thấy Triệu Mẫn không ngừng lảo đảo, xem ra không ôm nổi Chu Chỉ Nhược nữa rồi, nghĩ thầm: ?Hỏng mất, Chỉ Nhược trúng phải một chưởng Huyền Minh của lão họ Lộc, xem ra không chịu được. Nàng vốn đã luyện công phu âm hàn lại thêm lãnh khí ghê gớm nhất thiên hạ của Huyền Minh thần chưởng, lạnh càng thêm lạnh, xem ra cả Mẫn muội cũng chịu không nổi?. Chàng bèn gia tăng kình lực đánh ép tới Lộc Trượng Khách.
    Lộc Trượng Khách thấy chàng biến đổi quyền pháp đoán ngay được tâm lý Trương Vô Kỵ, nghiêng người tránh qua, kêu lên:
    - Sư đệ, cố đấu cầm chừng. Hàn độc trên người con bé họ Chu đang phát tác, đừng để y rảnh tay giải cứu.
    Hạc Bút Ông nói:
    - Chính thế!
    Y nhảy ra khỏi vòng nhặt hai cây bút mỏ hạc, dùng phép Thông Thiên Triệt Địa đánh cả trên lẫn dưới hai phía. Trương Vô Kỵ khinh khỉnh nói:
    - Có hay không có binh khí thì cũng thế mà thôi.
    Vù một chưởng đánh ra, kình phong ép tới khiến Hạc Bút Ông ngộp thở. Lộc Trượng Khách cũng ngoặt tay rút trượng đầu hươu ra, tấn công vào bên hông Trương Vô Kỵ.
    Trương Vô Kỵ biến đổi luôn mấy pho quyền pháp khác nhau, sử dụng những chiêu trong ba mươi sáu thức Long Trảo Cầm Nã Thủ học lóm của Không Tính thần tăng phái Thiếu Lâm là Phủ Cầm Thức, Cổ Sắt Thức, Bổ Phong Thức, Bão Tàn Thức thế công thật là ghê gớm. Lộc Trượng Khách kêu lên:
    - Long Trảo Công nhà ngươi luyện giỏi nhỉ, để rồi đây đào hố thì tiện quá.
    Hạc Bút Ông hỏi lại:
    - Sư ca, đào hố dưới đất làm gì thế?
    Lộc Trượng Khách cười nói:
    - Chu cô nương chết rồi, đào hố chôn chứ còn gì nữa.
    Y mở mồm nói tâm thần hơi phân tán, Trương Vô Kỵ đá ra một cước trúng ngay trên đùi trái của y. Lộc Trượng Khách trúng đòn lảo đảo nhưng gượng đứng lại được ngay, vội múa cây trượng sừng hươu vù vù khiến gió mưa không lọt.
    Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thấy hai nàng đang run lập cập, hỏi:
    - Mẫn muội, ra sao rồi?
    Triệu Mẫn đáp:
    - Ôi chao, lạnh quá sức.
    Trương Vô Kỵ kinh hãi, hơi suy nghĩ hiểu ngay, Chu Chỉ Nhược trúng phải Huyền Minh thần chưởng âm hàn lợi hại đã đành, nhưng chỉ một mình nàng bị mà thôi, lúc này cả Triệu Mẫn cũng lạnh nữa, hẳn là vì Triệu Mẫn có lòng tốt, giơ chưởng giúp Chu Chỉ Nhược vận công đề kháng. Hai người công lực cách nhau xa, nội công của Chu Chỉ Nhược lại mười phần quái dị thành thử Triệu Mẫn cứu người không xong đâm hại vào thân. Trương Vô Kỵ song chưởng bung ra thu vào, chỉ mong sớm đánh bại nhị lão. Thế nhưng hai người lại cứ tránh xa xa, lúc trước lúc sau, cố gắng diên trì không chịu mặt đối mặt đánh với chàng.
    Trương Vô Kỵ nóng ruột, kêu lên:
    - Mẫn muội bỏ Chu cô nương xuống đất, đừng ôm nàng ta nữa.
    Triệu Mẫn đáp:
    - Em ... em không bỏ xuống được.
    Trương Vô Kỵ lạ lùng:
    - Sao thế?
    Triệu Mẫn đáp:
    - Lưng ... lưng cô ta ... không hiểu sao dính chặt vào tay em.
    Nàng vừa nói hai hàm răng đánh vào nhau kêu lốp cốp, thân hình lẩy bẩy muốn ngã, Trương Vô Kỵ hết sức kinh hãi. Lại nghe Lộc Trượng Khách nói:
    - Trương giáo chủ, Chu cô nương kia lòng dạ thật độc địa, nàng ta đang đẩy hàn độc qua người quận chúa nương nương, chẳng mấy chốc quận chúa sẽ chết. Vậy mình giao hẹn với nhau có được không?
    Trương Vô Kỵ hỏi lại:
    - Giao hẹn cái gì?
    Lộc Trượng Khách nói:
    - Bọn mình hai bên ngừng đấu, bọn ta lấy hai quyển sách trên người Chu cô nương, ngươi cứu quận chúa.
    Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, nghĩ thầm: ?Huyền Minh nhị lão này võ công vốn đã thật ghê gớm, nếu như luyện thêm võ công âm độc của Chu Chỉ Nhược, sau này làm ác còn ai chế phục được chúng nữa?. Chàng hoang mang nhìn lại thấy khuôn mặt trắng trẻo như ngọc của Triệu Mẫn nay thành xanh lè, đầy vẻ đau khổ dường như chịu không nổi. Trương Vô Kỵ lùi lại hai bước, tay trái nắm lấy tay phải nàng, chân khí Cửu Dương trong người theo lòng bàn tay cuồn cuộn tuôn ra. Lộc Trượng Khách kêu lên:
    - Tiến lên tấn công gấp.
    Huyền Minh nhị lão liền một trượng hai bút múa lên như gió táp mưa sa xông vào. Trương Vô Kỵ dùng đến quá nửa chân lực để cứu hai nàng Triệu Chu, thân hình lại không thể di động, chỉ còn có một chưởng ngự địch nên trong giây lát đã vạn phần nguy hiểm. Soẹt một tiếng, ống quần chân trái đã bị bút của Hạc Bút Ông xé rách một đường dài, trên đùi máu chảy dầm dề. Triệu Mẫn vốn dĩ bị khí âm hàn trong người Chu Chỉ Nhược truyền vào, tưởng chừng huyết dịch trong người sắp đóng thành băng nhưng một khi Cửu Dương chân khí tuôn vào liền thấy ấm áp trở lại. Thế nhưng Trương Vô Kỵ đơn chưởng chống đỡ với Huyền Minh nhị lão gạt trái quét phải thành thử chân khí truyền vào Triệu Mẫn yếu dần khiến hai hàm răng nàng lại đánh lập cập.
    Lộc Trượng Khách đánh vù vù vù ba trượng, chiếc sừng hươu trên đầu gậy đâm vào mắt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ chưởng vận lực gạt ra dồn Lộc Trượng Khách trở lại. Thế nhưng Hạc Bút Ông đã xông được vào bút bên trái dùng chiêu Tòng Tâm Sở Dục, điểm vào hông chàng. Trương Vô Kỵ không cách nào tránh né, chỉ còn cách thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp để đẩy bút của y chệch ra, thế nhưng bút lực của Hạc Bút Ông hết sức mạnh mẽ, không biết có đẩy ra nổi không. Bỗng nghe keng một tiếng, bên hông dội lại nhưng không cảm thấy đau, thì ra bút của Hạc Bút Ông đã điểm trúng thanh đao Đồ Long đeo ngang lưng.
    Trương Vô Kỵ bình thời giao đấu không dùng binh khí, khi đấu với ba nhà sư Độ Ách cũng chỉ dùng thánh hỏa lệnh coi như tay thước, chứ chưa hề sử dụng đao kiếm, thành thử đao Đồ Long đeo ngay bên người mà vẫn không nhớ tới rút ra ngự địch.
    Bút đó của Hạc Bút Ông điểm trúng khiến chàng tỉnh ngộ, liền quát lên một tiếng, chân trái đá ra, đẩy lùi Hạc Bút Ông ba bước, thò tay rút đao ra, vừa ngay lúc Lộc Trượng Khách đâm gậy tới. Đao Đồ Long trong tay Trương Vô Kỵ vung lên, nghe soẹt một tiếng khẽ chiếc đầu hươu trên gậy của y bị gãy rơi xuống liền. Lộc Trượng Khách kinh hãi kêu lên:
    - Chao ôi!
    Song bút của Hạc Bút Ông liền cuốn tới, bảo đao của Trương Vô Kỵ thuận đà, soẹt soẹt hai tiếng, đôi bút mỏ hạc đã gãy thành bốn khúc. Thanh bảo đao liền múa lên thành một luồng ánh sáng trắng, Huyền Minh nhị lão không dám đến gần, Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ lại tuôn vào thân thể Triệu Mẫn, lần này toàn lực phát huy nên hàn độc trong người Chu Chỉ Nhược liền bị đẩy ra hết sạch. Thế nhưng âm dương nhị khí trong cơ thể con người giao cảm, bên này mạnh ắt bên kia yếu, bên kia yếu ắt bên này mạnh, Huyền Minh hàn độc hết rồi, Cửu Dương chân khí liền tiếp tục tiêu giải Cửu Âm nội lực của nàng đang luyện.
    Chu Chỉ Nhược lấy được pho Cửu Âm chân kinh dấu trong kiếm Ỷ Thiên, sợ Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ biết được nên chỉ đến tối mới len lén luyện tập, nhưng thời gian gấp rút nên không cách nào đi từ căn bản tuần tự tiệm tiến thành thử nội lực không lấy gì làm thâm hậu, chỉ tập toàn những công phu hạ thừa trong quyển kinh này mà thôi. Nàng trúng phải Huyền Minh thần chưởng rồi định đem khí âm hàn đẩy qua thân thể Triệu Mẫn, đến khi Trương Vô Kỵ đưa tay giúp đỡ, thấy toàn thân ấm áp thật là khoan khoái, thấy khí lực tăng dần định rời khỏi bàn tay Triệu Mẫn, vừa gắng sức lại thấy bị một sức thật mạnh hút chặt vào, giằng không ra, mới hay lúc nãy bàn tay Triệu Mẫn bị lưng nàng hút chặt, bây giờ thì chính nàng lại bị Triệu Mẫn hút ngược lại cũng chỉ vỉ nội lực hai bên mạnh yếu khác nhau nên không khỏi kinh hoảng.
    Trương Vô Kỵ khu trừ hàn độc bỗng thấy Cửu Dương chân khí của mình tống ra, bàn tay Triệu Mẫn lại truyền một luồng hàn khí chống lại, lại tưởng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng chưa trừ hết, lại càng cố sức tuôn vào nhiều hơn có biết đâu chàng mỗi lần đưa Cửu Dương chân khí vào thì Cửu Âm chân khí của Chu Chỉ Nhược khổ công tu luyện lại bớt đi một chút. Chu Chỉ Nhược trong bụng kêu khổ thầm nhưng không nói ra được tự biết mình chỉ mở mồm lập tức hộc máu, chân khí ra hết chết ngay.
    Triệu Mẫn thấy chân khí trong thân thể dung hòa, cười nói:
    - Vô Kỵ ca ca, em khỏe rồi, anh chuyên tâm đối phó Huyền Minh nhị lão.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Hay lắm!
    Lập tức thu nội lực về. Chu Chỉ Nhược thoát nạn, không còn bị hút nữa, biết âm độc của Huyền Minh thần chưởng trong mình đã hết nhưng Cửu Âm nội lực cũng bị tổn hao rất lớn, thấy Trương Vô Kỵ múa thanh đao Đồ Long chuyên tâm nghênh địch, liền giơ năm ngón tay ra chộp lên đầu Triệu Mẫn.
    Triệu Mẫn kêu lên một tiếng:
    - Ối chao!
    Thấy đỉnh đầu đau nhói, những tưởng phen này không còn đường sống sót, ngờ đâu nghe mấy tiếng lách cách, Chu Chỉ Nhược kêu oái lên một tiếng vội vã chạy mất. Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội quay lại hỏi:
    - Chuyện gì thế?
    Triệu Mẫn giơ tay sờ đầu sợ đến mất hết hồn vía, không nói nên lời. Trương Vô Kỵ tưởng nàng bị thương vì Cửu Âm Bạch Cốt Trảo nên cũng hoảng hốt tay múa đao chặn nhị lão, tay kia thò vào thăm thử đầu nàng ra sao, thấy trên đầu ướt nhèm nhẹp, tuy có chảy máu nhưng không bị vỡ đầu thủng lỗ, lòng như trút được gánh nặng, an ủi nàng:
    - Chỉ bị thương ngoài da thịt thôi, không đến nỗi nào.
    Trong bụng nghĩ thầm: ?Lạ thật, lạ thật? Chàng có biết đâu khi Chu Chỉ Nhược ra tay tập kích, Cửu Dương chân khí trong người Triệu Mẫn chưa ra hết, còn Chu Chỉ Nhược chân khí thì lại hao tổn nặng, lấy yếu công mạnh, không đả thương được đối phương mà chính mình lại bị tổn hại, bị chấn động đến gãy ngón tay.
    Trương Vô Kỵ vừa phân tâm Huyền Minh nhị lão lập tức tấn công tới. Lúc này trong tay chàng đã có một món binh khí sắc bén nhất thiên hạ rồi, tự cảm thấy chỉ dựa vào binh khí mà thắng người khác thì không oai hùng chút nào, nên lật đao lại giao cho Triệu Mẫn, nội tức lưu chuyển một vòng thật nhanh, ngưng thần chuyên tâm, tay trái đưa ra sử dụng Càn Khôn Đại Na Di chuyển hướng kình lực của chưởng Hạc Bút Ông vừa đánh tới. Hành động vừa kéo vừa đẩy này bên trong có Cửu Dương thần công dùng lẫn với công phu tối cao cấp thứ bảy trong Càn Khôn Đại Na Di. Sử dụng công phu này thật hao tổn nội lực, không thể sơ xẩy chút nào vì chỉ vận dụng hơi chệch một tí thì chính mình sẽ bị tẩu hỏa nhập ma ngay thành thử khi chàng phân tâm giúp cho hai nàng Triệu Chu khu trừ hàn độc mặc dù tình thế cấp bách chàng vẫn không dám đem ra sử dụng.
    Huyền Minh nhị lão là hạng cao thủ số một, nếu chỉ dùng công phu cấp năm, cấp sáu đối phó với họ ắt không thể nào làm gì được hai người. Chàng gạt ra vừa lúc chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới nghe bộp một tiếng trúng ngay đầu vai Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách kinh hãi giận dữ nói:
    - Sư đệ, ngươi làm trò gì thế?
    Hạc Bút Ông võ công thật tinh xảo nhưng đầu óc lại hơi chậm chạp, việc gì cũng phải suy nghĩ rất lâu mới hiểu được lý lẽ, ngay lúc này vẫn ngơ ngẩn chưa biết tại sao, ấp úng không trả lời được chỉ biết là do Trương Vô Kỵ làm trò quái quỉ nên đành tấn công tới tấp để tạ lỗi với sư huynh. Y vận kình lên chân phải đá ra, Trương Vô Kỵ phẩy tay một cái, vừa bắt vừa kéo, cước đó liền chuyển hướng nhắm ngay đan điền Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vừa sợ hãi, vừa bực tức, nghiêng người qua tránh quát lên:
    - Ngươi có điên hay không?
    Triệu Mẫn kêu lên:
    - Đúng thế, Hạc tiên sinh mau bắt tên sư huynh phạm thượng tác loạn, hiếu sắc tham dâm kia, cha tôi sẽ trọng thưởng.
    Trương Vô Kỵ trong bụng cười thầm: ?Kế khích bác, ly gián đó quả thật hữu hiệu?. Chàng vốn dĩ muốn sử dụng Càn Khôn Đại Na Di khiến cho Hạc Bút Ông sẽ đánh vào Lộc Trượng Khách, sau đó lại dẫn Lộc Trượng Khách đánh vào Hạc Bút Ông bây giờ nghe Triệu Mẫn nói thế, nên chỉ vận động thúc đẩy quyền cước của Hạc Bút Ông còn đối phó với Lộc Trượng Khách thì dùng chiêu số trong thái cực quyền. Trương Vô Kỵ gọi lớn:
    - Hạc tiên sinh, chớ có lo, tôi với ông hai người hợp lực thể nào cũng hạ được con hươu dâm. Nhữ Dương Vương đã phong cho ông làm ... phong ông làm ...
    Chàng nhất thời chưa nghĩ ra quan chức gì cho thích hợp. Triệu Mẫn vội nói:
    - Hạc tiên sinh, tờ cáo thư phong quan cho ông có sẵn đây.
    Nói xong lấy trong bọc ra một tờ giấy mở ra, đọc:
    - Ồ, là Đại Nguyên Hộ Quốc Dương Oai Đại Tướng Quân, thôi cố gắng thêm chút nữa.
    Trương Vô Kỵ tả chưởng đánh ra, ép cho Lộc Trượng Khách phải dạt sang bên trái, còn tả chưởng của Hạc Bút Ông bị chàng lái qua đánh từ trái sang phải, thành thế tả hữu giáp công.
    Lộc Trượng Khách với Hạc Bút Ông mấy chục năm nay tình thân còn hơn anh em ruột, vốn dĩ không thể nào tin y lại bán rẻ tình đồng môn nhưng lúc này thấy Hạc Bút Ông năm chiêu liền toàn là tấn công vào chỗ yếu hại, trong đường quyền ngọn cước xem ra đều dồn hết sức, dường như muốn lấy mạng mình thì còn ngờ thế nào được? Y phẫn uất dị thường, quát lớn:
    - Ngươi tham đồ phú quí, không còn biết đến nghĩa khí nữa chăng?
    Hạc Bút Ông vội nói:
    - Tôi ... tôi chẳng ...
    Triệu Mẫn vội tiếp lời:
    - Đúng thế, chẳng qua bất đắc dĩ vì chức Hộ Quốc Dương Oai Đại Tướng Quân nên phải đắc tội với sư huynh chứ có còn gì để nói nữa đâu.
    Trương Vô Kỵ tay phải tăng thêm mười thành công lực, chăm chú dẫn qua, chưởng của Hạc Bút Ông vừa đánh tới nghe bình một tiếng trúng thật mạnh ngay vai Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giận không để đâu cho hết, đánh ngược lại một chưởng, gãy luôn mấy cái răng hàm bên trái của Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông tuổi đã cao trong mồm chỉ cón có mấy cái răng đó để nhai nên quí lắm, bị như thế không khỏi nổi giận, quát lên:
    - Sư ca chẳng biết trái phải là gì, đâu phải tiểu đệ cố ý đánh đâu.
    Lộc Trượng Khách cũng bực tức quát lại:
    - Thế ai đánh trước?
    Y kiến văn rộng rãi thật nhưng đâu có ngờ rằng thế gian này lại có Càn Khôn Đại Na Di thần công cấp thứ bảy uy lực dường ấy, kẻ võ công cao siêu như Hạc Bút Ông, Trương Vô Kỵ có thể đánh y giết y chứ lẽ nào lại có thể mượn sức đánh sức để chuyển hướng chưởng lực sang đánh mình, thành thử không chút nghi ngờ Trương Vô Kỵ ra tay.
    Hạc Bút Ông cố gắng biểu lộ tấm lòng mình, liền chửi:
    - Thằng giặc con làm trò quỉ.
    Triệu Mẫn kêu lên:
    - Đúng đó, đừng gọi y là sư ca nữa, chửi y ?thằng giặc con? là đúng rồi.
    Trương Vô Kỵ dùng chưởng bên trái ép chưởng lực của Lộc Trượng Khách, tay phải kéo chưởng của Hạc Bút Ông trúng ngay má y, lập tức sưng phù lên ngay. Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách phẫn nộ muốn điên lên được, mắt đỏ ngầu, chưởng lực cuồn cuộn thúc ra, biết kế ly gián đã thành, quát lên:
    - Hạc tiên sinh, con hươu dâm này ta giao cho ngươi đó.
    Chân trái điểm một cái, nhảy vọt ra ngoài, nắm tay Triệu Mẫn đi khỏi. Chỉ thấy Huyền Minh nhị lão kẻ một quyền, người một cước càng đấu càng thêm kịch liệt. Triệu Mẫn nói:
    - Hạc tiên sinh, ngươi bắt được sư ca rồi, võ công bí cập trong đao Đồ Long sẽ cho ngươi mượn xem một tháng. Mau lập đại công, đừng để mất dịp may này.
    Lộc Trượng Khách nổi giận đùng đùng, hạ thủ không một chút nương tay. Hai người cùng một môn phái, võ công tám lượng nửa cân, trận ác đấu này không biết đến bao giờ mới dứt.
    Hai người về đến chùa Thiếu Lâm, Trương Vô Kỵ xem lại vết thương trên đầu Triệu Mẫn thấy không có gì đáng ngại, bỗng nhớ đến một chuyện nói:
    - Mẫn muội, em may sao lại mang theo tờ giấy khiến cho Lộc Trượng Khách không thể không tin.
    Triệu Mẫn tủm tỉm thò tay trong túi lấy ra một tờ giấy mỏng, giơ ra trước mặt cho chàng coi, cười nói:
    - Chàng đoán thử xem cái gì đây?
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Em bảo đoán thử cái gì, làm sao anh đoán được, nghĩ ngợi làm gì cho phí công.
    Triệu Mẫn để hai cuộn giấy vào tay chàng, Trương Vô Kỵ đưa ra trước đèn xem thử thấy đó không phải là giấy mà là một mảnh lụa mỏng như cánh ve sầu, viết đầy những chữ khải nhỏ bằng đầu ruồi. Cuộn giấy thứ nhất đầu đề viết bốn chữ Vũ Mục[6] Di Thư, bên trong viết toàn tinh nghĩa yếu quyết hành quân giao chiến, bố trận dùng binh. Xem đến cuộn giấy thứ hai, bốn chữ tựa đề Cửu Âm Chân Kinh bên trong ghi toàn những võ công thần kỳ quái dị, giở đến cuối cùng Cửu Âm Bạch Cốt Trảo và Tồi Tâm Chưởng cũng có trong đó. Chàng giật mình hỏi:
    - Em ... em lấy ở trong người Chu cô nương đấy ư?
    Triệu Mẫn cười:
    - Trong lúc cô ta không cử động được, lẽ nào em lại không tiện tay dắt dê[7]? Công phu âm độc này thiếp chẳng muốn học đâu nhưng lấy để hủy đi hơn là ở tay cô ta để hại người.
    Trương Vô Kỵ thuận tay giở coi Cửu Âm Chân Kinh, đọc vài chương thấy văn nghĩa thâm áo nhất thời chưa hiểu được kỹ càng nhưng quyết không phải là loại võ học âm độc hạ lưu bèn nói:
    - Võ công trong cuốn kinh này thật là sâu xa, cứ theo đó mà tu luyện, một hai chục năm sau thành tựu thật là ghê gớm còn như chỉ mong tốc thành học được một chút vỏ bên ngoài thì hại người mà hại luôn cả mình nữa.
    Chàng ngừng lại một lát nói tiếp:
    - Chẳng hạn như vị tỉ tỉ áo vàng kia, võ công với Chu cô nương cũng một đường nhưng chiêu số chính đại quang minh thật là thẳng thắn dường như cũng từ cuốn Cửu Âm Chân Kinh này mà ra.
    Triệu Mẫn đáp:
    - Cô ta nói ?Sau núi Chung Nam, Mộ người Hoạt Tử, Thần điêu hiệp lữ, Tuyệt tích giang hồ?, bốn câu đó có ý nghĩa gì?
    Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:
    - Sau này mình gặp lại thái sư phụ sẽ thỉnh giáo lão nhân gia có khi hiểu được nguyên do bên trong không chừng.
    Hai người chuyện trò thêm mấy câu, thấy dưới núi không nghe động tĩnh gì nên chia tay về ngủ.
   

- o O o -

    [1] Cầu vồng bắc ngang trời [2] hai con rồng tranh nhau hạt ngọc [3] kẻ sĩ có thể giết nhưng không thể làm nhục [4] đập bỏ nồi, đục chìm thuyền để cả hai bên cùng chết [5] trước đây Trương Vô Kỵ đã vứt bỏ hai cây mâu để ôm Tống Thanh Thư, sao nay lại ở đâu ra?
    [6] Tức Nhạc Phi (1103-1142) tự Bằng Cử người Tương Châu danh tướng kháng Kim đời Nam Tống, sau gian thần dèm pha nên bị giết.
    [7] Thuận thủ khiên dương là một trong ba mươi sáu kế
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:03:17 | Chỉ xem của tác giả
BẤT THỨC TRƯƠNG LANG THỊ TRƯƠNG LANG

    Trương lang nào phải Trương lang, Người xưa em nhớ chẳng màng người nay.
    Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không.[1]

    Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ tỉnh dậy nhảy lên trên cây cao nhìn ra thấy dưới chân núi quân địch cờ quạt phất phới, người ngựa chạy qua chạy lại, trong quân tiếng tù và nổi lên đây đó, quả đang điều binh khiển tướng rất là gấp rút. Chàng liền gọi:
    - Mẫn muội!
    Triệu Mẫn đáp lời:
    - Em đây, chuyện gì thế?
    Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:
    - Không có chuyện gì, anh chỉ thuận miệng gọi em đấy thôi.
    Chàng vốn dĩ muốn bàn với Triệu Mẫn cách thức đánh bại quân Nguyên vì nàng túc trí đa mưu hẳn sẽ có kế sách hay nhưng nghĩ lại: ?Nàng vốn là quận chúa trong triều đình, bỏ cha bỏ anh đi theo ta, lại bảo nàng tính kế giết chính người Mông Cổ chẳng ép uổng nàng quá lắm hay sao?. Thành thử lời đã đến cửa miệng lại cố nhịn không nói ra. Triệu Mẫn nhìn mặt chàng hiểu ngay tâm sự, thở dài một tiếng nói:
    - Vô Kỵ ca ca, mong chàng hiểu được nỗi khổ tâm của em, thiếp chẳng cần nói ra làm gì.
    Trương Vô Kỵ quay trở vào phòng, bàng hoàng không biết tính sao, tiện tay lấy ra hai xấp giấy Triệu Mẫn lấy được tối hôm qua, đọc vài chương Cửu Âm Chân Kinh rồi lại quay sang đọc Vũ Mục Di Thư, lướt qua vài đoạn vô tình đọc đến lúc ?Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn? trong lòng chợt động, đọc kỹ lại thấy đó Nhạc Phi thuật lại chuyện năm xưa bị quân Kim bao vây thế nào rồi thoát được nguy khốn ra sao, làm thế nào đột xuất kỳ binh, nội ngoại giáp công đi đến toàn thắng, các phương lược đều nói rõ.
    Trương Vô Kỵ vỗ bàn kêu lên:
    - Đúng là trời giúp mình!
    Chàng gập sách lại ngồi suy tính, tình thế trên ngọn Thiếu Thất ngày hôm nay tuy khác hẳn việc Nhạc Phi bị vây tại núi Ngưu Đầu, nhưng cái ý người xưa truyền lại trong phép dụng binh là làm sao xuất kỳ bất ý đánh thắng địch quân. Chàng càng nghĩ càng thêm khâm phục Nhạc Vũ Mục quả là thiên tài, trong khi nguy nan nào có ai nghĩ ra được, lại xem ra dụng binh và võ công cũng cùng một đường, nếu như chưa được cao nhân chỉ điểm, cao thấp khéo vụng thì thật khó mà có thể nghĩ ra được kế này.
    Chàng nhúng ngón tay vào nước trà, vẽ lên bàn các địa hình, tuy thấy là làm như thế thật nguy hiểm, không khỏi cầu may nhưng nghĩ bụng lấy ít chống nhiều không thể đường đường chính chính đánh một trận mà thắng được. Tính toán xong xuôi chàng bèn đi qua Đại Hùng Bảo Điện nhờ Không Văn phương trượng chiêu tập quần hùng.
    Chỉ giây lát mọi người đã tề tựu đến đầy đủ, Trương Vô Kỵ đứng giữa sảnh nói:
    - Hiện nay binh mã Thát tử đã tập trung dưới chân núi, ắt là chẳng bao lâu sẽ tấn công lên. Chúng ta hôm qua tuy thắng được một trận nhỏ, làm nhụt nhuệ khí của quân Nguyên nhưng nếu chúng bất kể sống chết đánh ùa lên thì thật khó mà chống đỡ. Tại hạ bất tài được chúng vị anh hùng cử ra tạm giữ công việc chủ soái. Hôm nay cùng chung kẻ địch mong các vị nghe lệnh tại hạ.
    Mọi người cùng hô to:
    - Nếu có lệnh gì nhất nhất tuân theo không dám vi phạm.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Hay lắm, Ngô kỳ sứ nghe đây!
    Chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Ngô Kình Thảo hiên ngang bước ra, khom lưng nói:
    - Thuộc hạ nghe lệnh.
    Y trong bụng nghĩ thầm: ?Giáo chủ ra lệnh, người đầu tiên sai ngay đến ta, thực là vinh dự biết mấy. Bất kể bảo ta làm gì nguy nan đến đâu, ta nhất quyết xả mệnh thi hành?.
    Trương Vô Kỵ nói tiếp:
    - Ngô huynh tất lãnh các anh em trong kỳ, chấp chưởng quân pháp, bất kể vị nào không tuân theo hiệu lệnh, trường thương đoản phủ trong kỳ sẽ nhắm ngay người đó mà phóng tới. Dẫu người đó là bậc kỳ túc trong bản giáo, trưởng bối trong võ lâm cũng không ngoại lệ.
    Ngô Kình Thảo dõng dạc đáp:
    - Đắc lệnh!
    Y móc trong bọc ra một lá cờ trắng nhỏ, cầm sẵn trên tay. Võ công tiếng tăm Ngô Kình Thảo vốn dĩ không phải là loại hạng nhất trên giang hồ, người ngoài không coi y vào đâu. Thế nhưng từ hôm Ngũ Hành Kỳ đại hiển thần uy trên bãi đất, mọi người ai ai cũng biết rằng lá cờ trắng trong tay y ném tới đâu lập tức nơi đó sẽ có năm trăm mũi tên, năm trăm chiếc giáo, năm trăm cái búa ngắn đồng loạt tấn công tới, dẫu có bản lãnh thông thiên thì chỉ chớp mắt cũng thành một đống thịt nát thành thử trông thấy lá cờ đó phất phới ai cũng rùng mình.
    Thì ra Trương Vô Kỵ đọc trong Vũ Mục Di Thư thấy điều đầu tiên có chép: ?Đạo trị quân, trước hết là lệnh lạc phải nghiêm?. Chàng biết giới giang hồ hào sĩ vốn dĩ tự phụ, muốn làm gì là làm tuy ai ai cũng võ công cao cường nhưng tụ lại cũng chỉ là một bầy ô hợp, nếu không có quân lệnh ước thúc để mọi người tuân theo thì không cách nào kháng cự được với quân Mông Cổ thành thử việc đầu tiên phải làm là sai Nhuệ Kim Kỳ giám lệnh chấp pháp.
    Trương Vô Kỵ chỉ vào một bức tường ngang ngay trước điện, nói:
    - Các vị anh hùng, những ai khinh công cao cường nhảy một cái lên được trên tường kia thì xin biểu diễn.
    Trong số quần hùng không ít người lộ vẻ bất mãn, nghĩ thầm: ?Không biết làm trò gì mà lại bảo mình ra nhảy lên hụp xuống, việc chẳng hề liên can đến khẩn cấp cả?? Một số tiền bối cao thủ thì lại nghĩ chàng coi thường mọi người nên không khỏi bực mình.
    Trương Tùng Khê vượt mọi người bước ra, nói:
    - Tôi có thể nhảy được.
    Ông nhảy lên trên tường rồi nhẹ nhàng nhảy qua phía bên kia. Công phu Thê Vân Túng của phái Võ Đương nổi danh thiên hạ, với tài nghệ của Trương Tùng Khê thì nhảy qua bức tường ngang kia thật dễ như thổi tro trong bếp thế nhưng ông không khoe khoang chỉ theo đúng lệnh nhảy qua một cách thật tầm thường.
    Kế đó Du Liên Châu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương các cao thủ cũng tuân lệnh thi hành. Chỉ thấy quần hùng như bướm vờn hoa, hết người này đến người khác nhảy qua tường, có người thi triển khinh công trên lưng chừng còn biểu diễn những thức ngoạn mục. Sau khi hơn bốn trăm người nhảy rồi những người còn lại không ai ra thử nữa.
    Bức tường chắn đó không phải thấp, nếu như khinh công không cao cường không phải dễ dàng nhảy lên được. Trong số người ở đây mỗi người tập luyện một cách, có người chuyên luyện binh khí quyền cước, khinh công chỉ bình bình. Những nhân vật thành danh ai cũng biết người biết ta, không dại gì lộ cái sở đoản trước mặt mọi người.
    Trương Vô Kỵ thấy trong số hơn bốn trăm người đó, tăng chúng Thiếu Lâm chiếm đến tám chín phần mười, nghĩ thầm: ?Thiếu Lâm là đệ nhất đại môn phái trong võ lâm, quả thực danh bất hư truyền. Chỉ cần luận riêng khinh công thôi hảo thủ đã đông hơn các môn phái khác?. Chàng bèn truyền lệnh:
    - Du nhị bá, Trương tứ bá, Ân lục thúc xin ba vị dẫn các vị khinh công khá trên đây, hư trương thanh thế, giả vờ làm người trong chùa rủ nhau đào tẩu, dụ cho chúng đuổi theo, qua đến hậu sơn rồi cứ như thế như thế.
    Du Trương Ân tam hiệp của phái Võ Đương cùng lên tiếng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ từng nhóm từng nhóm phân phái, ai mai phục, ai đoạn hậu, ai tấn công, ai đánh vào ngang hông sắp xếp thật rõ ràng.
    Bọn Dương Tiêu thấy chàng bày kế thật khôn khéo, lại dàn binh ngự địch xem ra có phép tắc đâu ra đấy những ai mưu lược đều không khỏi cảm phục, có biết đâu chàng bắt chước theo Vũ Mục Di Thư chỉ nhân địa hình khác biệt, bộ thuộc không giống nên hơi cải biến chút đỉnh cho thích hợp.
    Trương Vô Kỵ điều động xong rồi, sau cùng mới nói:
    - Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng hai vị xin cùng các vị trong phái Nga Mi, cứu chữa săn sóc cho những người bị thương.
    Chu Chỉ Nhược không có mặt trên núi, phái Nga Mi không người dẫn đầu, Trương Vô Kỵ biết mình có hiềm khích rất sâu với phái Nga Mi không tiện chỉ huy nên nhờ hai vị thần tăng đức cao vọng trọng tất lãnh, chắc hẳn các đệ tử phái Nga Mi không dám phản đối. Lệnh đưa ra quả nhiên nam nữ đệ tử phái Nga Mi lẳng lặng thi hành không nói nửa câu.
    Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:
    - Hôm nay các chí sĩ trung nguyên đồng tâm hiệp lực nhất quyết một phen sống mái với quân Thát tử. Các vị sư phụ của phái Thiếu Lâm lo việc chiêng trống, xin đánh trống gióng chuông cho.
    Quần hùng nghe thế đều hoan hô vang dậy, rút đao tuốt kiếm, khí thế bừng bừng. Liệt Hỏa Kỳ đem củi cỏ tích chứa ra xếp thành đống trước cửa chùa, châm lửa đốt lên, chả mấy chốc khói bốc lên thấu trời xanh. Còn Hậu Thổ Kỳ thì đem bùn đất trét lên các nóc chùa sau đó Liệt Hỏa Kỳ mới xếp củi, lấy dầu đổ lên trên mặt bùn, châm lửa lên tuy không cháy các điện nhưng ở dưới chân núi và các nơi xa xa nhìn vào, thấy mấy trăm gian tự viện chỗ nào cũng khói lửa bốc lên ngùn ngụt.
    Quân Nguyên dưới chân núi mới đầu thấy chiêng trống vang lừng đã chuẩn bị canh phòng, đến khi lửa bốc lên đều bàn nhau:
    - Không xong, bọn man tử nổi lửa đốt chùa, chắc toan đào tẩu.
    Du Liên Châu dẫn trên một trăm năm mươi người khinh công trác tuyệt, từ phía bên trái núi Thiếu Thất chạy xuống. Chạy đến lưng chừng núi thì đã nghe quân Nguyên quát tháo reo hò, dàn thành trận đuổi theo. Mọi người chạy tứ tán thành thử quân Nguyên không sao có thể tập trung cung tên mà bắn được. Nhóm thứ hai do Trương Tùng Khê dẫn đầu, nhóm thứ ba do Ân Lê Đình chỉ huy, người nào trên lưng cũng mang một cái bọc to, bên trong nếu không là thanh gỗ thì cũng là quần áo. Quân Nguyên trông thấy lại tưởng bọn họ bỏ chùa chạy thục mạng, tên bắn trúng những bao đó không xuyên qua được. Trong khói lửa mịt mù quân Mông Cổ không biết rõ có bao nhiêu người nên chia ra một vạn quân đuổi theo còn hơn một vạn nữa vẫn đóng tại chỗ đề phòng biến cố.
    Trương Vô Kỵ nói với Dương Tiêu:
    - Dương tả sứ, tướng chỉ huy Thát tử điều binh khá giỏi, không dùng toàn quân truy kích, thế mới thật phiền.
    Dương Tiêu đáp:
    - Đúng thế, quả là đáng lo.
    Bỗng nghe dưới chân núi tiếng tù và vang động, hai nghìn quân Nguyên hai bên sườn núi đánh lên, đường núi gập ghềnh hiểm trở vậy mà những con ngựa nhỏ bé của người Mông Cổ vẫn chạy như bay, trường mâu thiết giáp, thế quân thật uy mãnh. Đợi cho quân tiên phong Mông Cổ tới sát bên sơn đình ở ngang núi, Trương Vô Kỵ phất tay một cái, người trong Liệt Hỏa Kỳ hai bên liền xông ra, nằm phục dưới đám cỏ. Đến khi quân Nguyên tiến thêm chừng hơn trăm trượng nữa, Tân Nhiên huýt một tiếng còi, dầu thô trong các ống phun liền phụt ra, lửa bùng lên, cháy lem lém ngay vào những con ngựa. Đoàn ngựa đau quá kinh hãi hí vang lên, hơn một nửa lăn xuống dưới núi, lập tức trận thế loạn cả lên.
    Quân Nguyên kỷ luật nghiêm minh, tiền đội tuy thua nhưng hậu đội không vì thế mà tan vỡ, lại ra lệnh hơn ba nghìn binh sĩ bỏ ngựa chạy bộ tấn công lên. Liệt Hỏa Kỳ lại phun lửa ra lại đốt cháy mấy trăm người, những người còn lại vẫn tiếp tục ùa tới. Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương vẫy chiếc cờ đen, nước độc phun ra, kế đó Hậu Thổ Kỳ ném độc sa xuống đánh cho quân Nguyên tan tác. Tuy cũng có mấy trăm tên quân Mông Cổ lên được trên núi nhưng đều bị Nhuệ Kim, Cự Mộc Kỳ tiêu diệt.
    Bỗng nghe dưới chân núi tiếng trống đánh thật gấp gáp, năm nghìn người giương lá chắn lên, dàn hàng ngang như một bức tường sắt từ từ tiến lên. Việc như thế khiến cho lửa nóng, nước độc, cát độc không làm gì được nên Cự Mộc Kỳ vội tiến lên giao chiến, xem ra chỉ phá vỡ được vài lỗ thủng không ăn thua gì.
    Không Văn phương trượng thấy sự tình khẩn cấp nói:
    - Trương giáo chủ, xin các vị mau rút đi để bảo tồn nguyên khí võ lâm Trung Nguyên. Hôm nay có thua thì mai sau còn có cơ phản công trở lại.
    Trong cơn hoảng hốt, bỗng nghe dưới chân núi tiếng chiêng vang dội, một hỏa tiễn bắn vọt lên trời, kế đến tiếng hò hét chém giết bốn bề nổi lên. Dương Tiêu mừng lắm, nói:
    - Giáo chủ, viện binh của ta đến rồi.
    Từ trên đỉnh núi nhìn xuống không thấy rõ tình hình bên dưới nhưng thấy khói bụi mù mịt, quân reo ngựa hí, hiển nhiên quân cứu viện tới rất đông. Trương Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:
    - Quân cứu viện đến rồi, tất cả cùng xông ra.
    Quần hùng trên núi ai nấy rút binh khí ra, xông xuống chém giết. Trương Vô Kỵ lại kêu lên:
    - Các vị anh hùng, giết quan trước, giết lính sau.
    Tất cả mọi người cùng reo lên:
    - Giết quan trước, giết lính sau.
    Quân Mông Cổ cứ mười người làm thành một đội, do một thập trưởng cai quản, lên trên có đội trăm người, đội nghìn người, đội vạn người, cứ từng lớp từng lớp, khi ra trận trên truyền xuống dưới chẳng khác thân thể chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy bàn tay, bàn tay chỉ huy ngón tay. Trương Vô Kỵ truyền lệnh giết các quan trưởng Mông Cổ, nếu như hai bên đối trận thì phép này khó mà thi hành nhưng hiện nay quân Mông Cổ đang dàn rộng trên sườn núi, quân địch tuy tinh nhuệ thật nhưng quan trưởng võ công làm sao bì được với những nhân vật võ lâm Trung Nguyên, nên chỉ chốc lát mấy tên thiên phu trưởng, bách phu trưởng đã bị giết chết. Một nhánh quân Mông Cổ lập tức loạn cả lên.
    Bọn Trương Vô Kỵ xông tới lưng chừng núi, thấy dưới núi cờ xí bay tung, lá cờ phía nam trên có một chữ ?Từ?, lá cờ phía bắc có một chữ ?Thường? biết ngay là Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đã tới. Từ Thường hai người vốn ở đất Hoài Tứ, lúc đó may sao lại đang ở Dự Nam vừa nghe Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc truyền tin giáo chủ và quần hùng bị vây trên núi Thiếu Thất liền đem hết bộ thuộc, ngày đêm chạy tới cứu. Khi đó một dải từ Dự Nam cho chí Ngạc Bắc, quân Minh Giáo và quân Nguyên hỗn chiến đã nhiều năm, đất đai hai bên tranh nhau thành thế cài răng lược nên muốn đến là đến được ngay, thật là gần gũi nên chưa đầy hai ngày đã tới rồi. Quân sĩ theo Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đều là những người chinh chiến lâu năm nhiều kinh nghiệm, lại đông hơn nhiều nên liền ép quân Nguyên phải lùi về hướng tây.
    Còn một vạn quân Nguyên đuổi theo đám hào sĩ giả vờ bỏ chùa mà chạy mãi đến tận sơn cốc. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình dẫn theo mấy trăm hảo hán khinh công trác tuyệt, vừa đánh vừa chạy vào trong thung lũng. Tên vạn phu trưởng quân Mông Cổ thấy trong sơn cốc ba mặt là vách đá dựng đứng, địa thế hung hiểm nhưng thấy bên địch nhân số chẳng bao nhiêu, dẫu bên trong thung lũng có mai phục chăng nữa thì cũng thừa sức đối phó nên liền xua quân đuổi cho nhanh.
    Bọn Du Liên Châu chạy đến dưới chân vách đá, từ trên cao có sẵn mấy chục sợi dây thòng xuống từ bao giờ mọi người vội vàng trèo lên. Tên vạn phu trưởng thấy bị trúng kế vội ra lệnh lùi lại, ngờ đâu ngoài cửa thung lũng đã bị liệt hỏa, độc sa, vũ tiễn, độc thủy bắn tới như mưa, Cự Mộc Kỳ lại từng súc, từng súc gỗ đẩy lăn xuống, chặn mất đường đi rồi.
    Ngay khi đó, lộ quân thứ hai của quân Nguyên thua chạy tới nơi thấy đường đi đằng trước đã bị chặn mất rồi liền tứ tán trèo lên các triền núi chung quanh đào tẩu. Trương Vô Kỵ và Từ Đạt trước sau tới nơi đều kêu lên:
    - Tiếc quá!
    Nếu như đã liên lạc được với nhau từ trước thì cứ để đạo quân thứ hai của Mông Cổ xua luôn vào trong thung lũng thì chỉ một chuyến là xong. Trương Vô Kỵ cũng không ngờ quân Nguyên chỉ chia ra một nửa đuổi theo, cũng không ngờ quân tiếp viện đến nhanh như thế. Dẫu sao thì chỉ huy quân chiến đấu không phải là sở trường của chàng, chiến pháp trong Vũ Mục Di Thư tuy hay thật nhưng vừa học đem ra ứng dụng ngay dù sao cũng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ, nếu như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân không kịp thời tới nơi thì kiếp số chùa Thiếu Lâm cũng khó tránh khỏi, còn một vạn quân Nguyên bị chặn trong sơn cốc cũng sẽ được lộ quân kia cứu thoát.
    Từ Đạt liền sai quân vần đá chặn thêm ở cửa thung lũng, các đội cung tiễn trèo lên những mỏm đá, từ cao bắn xuống. Quân Nguyên lâm vào tuyệt địa, không có cách gì chống trả chỉ còn nước trốn sau những tảng đá. Chẳng mấy chốc Thường Ngộ Xuân cũng đem binh tới nơi, hội kiến với Trương Vô Kỵ, lâu ngày xa nhau nay gặp lại hai người hết sức vui mừng. Thường Ngộ Xuân oang oang nói:
    - Mau giỡ đá ra, mình xông vào giết sạch bọn Thát tử.
    Từ Đạt cười:
    - Trong sơn cốc không gạo không nước, chỉ bảy tám ngày, Thát tử cũng chết khát, chết đói việc gì phải để các cách em mất công ra tay?
    Thường Ngộ Xuân cũng cười:
    - Thế nhưng tự tay mình giết vẫn thích hơn.
    Y tuổi tác tuy hơi lớn hơn Từ Đạt nhưng bình thời vẫn phục Từ Đạt mưu trí, lại thấy Trương Vô Kỵ phụ họa với Từ Đạt nên không bàn thêm gì nữa.
    Từ Thường hai người chinh chiến lâu năm nên lệnh lạc gì cũng đều chu đáo đâu ra đấy. Trương Vô Kỵ biết mình kém xa nên mời Từ Thường hai người chỉ huy, tìm kiếm giết sạch những quân Nguyên bỏ chạy.
    Đêm hôm đó tiếng reo hò vang động chân núi Thiếu Thất, nghĩa quân Minh Giáo cùng anh hùng tứ xứ ăn mừng chiến thắng. Quần hùng mấy hôm liền ở trong chùa Thiếu Lâm ăn toàn đồ chay, mồm miệng thấy nhạt thếch, nay được rượu thịt no nê, ai nấy ăn đến căng cả bụng.
    Trong tiệc Trương Vô Kỵ hỏi lại Thường Ngộ Xuân thân thể độ này thế nào, có theo những toa thuốc chàng cắt mà chữa trị không. Thường Ngộ Xuân cười ha hả nói:
    - Giáo chủ chớ có lo lắng, lão Thường này khỏe như trâu, mỗi bữa ăn ba cân thịt, sáu chén cơm, đi đánh trận ba ngày ba đêm liền không ngủ cũng chẳng hề hấn gì.
    Nói như thế ý bảo chẳng cần phải thuốc thang cho thêm phiền. Trương Vô Kỵ nghĩ đến lời Hồ Thanh Ngưu năm xưa nói, khẩn khoản khuyên ông ta nên uống thuốc, giữ gìn sức khỏe. Thường Ngộ Xuân chỉ ậm ừ vâng dạ nhưng trong bụng chẳng coi vào đâu.
    Từ Đạt rót đầy một chén rượu bưng đến trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:
    - Chúc mừng giáo chủ, xin cạn chén rượu này.
    Trương Vô Kỵ cầm lấy uống cạn, Từ Đạt nói tiếp:
    - Thuộc hạ vẫn thường khâm phục giáo chủ can đảm hơn người, võ công tuyệt luân ngờ đâu dùng binh lại thần diệu đến thế, thực là phúc của bản giáo, là cái may của dân đen.
    Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:
    - Từ đại ca, đại ca chẳng nên khen ngợi tôi làm gì. Chiến thắng hôm nay, trước là Từ Thường hai vị đại ca đến thật thần tốc, thứ đến nhờ lời dậy bảo để lại của Nhạc Vũ Mục, tiểu đệ hoàn toàn chẳng có chút công lao nào.
    Từ Đạt ngạc nhiên hỏi:
    - Di giáo của Nhạc Vũ Mục là sao? Xin giáo chủ giảng rõ cho.
    Trương Vô Kỵ móc trong túi ra một cuộn giấy mỏng màu vàng, chính là Vũ Mục Di Thư dấu trong thanh đao Đồ Long, lật đến tiết Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn[2] đưa cho Từ Đạt coi. Từ Đạt hai tay cầm lấy, đọc kỹ một lượt, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa bội phục, thở dài nói:
    - Vũ Mục dụng binh như thần, người đời sau thật không sao theo kịp. Nếu như Nhạc Vũ Mục còn sống đến hôm nay, tất lãnh hào kiệt trung nguyên, lo gì không đuổi được quân Thát tử trở về sa mạc phía bắc.
    Nói xong cung kính giao lại di thư. Trương Vô Kỵ không cầm nói:
    - Võ lâm chí tôn, Bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, Mạc cảm bất tòng. Nghĩa thực sự của mười sáu chữ đó đến nay ta mới hiểu. Gọi là ?võ lâm chí tôn? không phải là bản thân thanh đao mà là ở di thư dấu trong thanh đao này. Nếu dùng binh pháp này đối phó với địch đánh thể nào cũng đánh đâu được đó nên mới gọi là ?hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng?. Còn như chỉ riêng một thanh đao mà thôi thì làm thế nào mà hiệu lệnh được thiên hạ? Từ đại ca, bộ binh thư này ta tặng cho đại ca đó, mong đại ca nối chí Nhạc Vũ Mục, đường mây thẳng tiến, thu phục giang sơn.
    Từ Đạt giật mình kinh hãi, vội nói:
    - Thuộc hạ có tài đức gì mà dám nhận món quà hậu hĩ như thế của giáo chủ?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Từ đại ca chớ có từ chối. Ta vì trăm họ mà giao binh thư này lại cho đại ca.
    Từ Đạt tay run run cầm lấy binh thư. Trương Vô Kỵ nói tiếp:
    - Trong võ lâm truyền ngôn còn hai câu nữa: ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong??. Nay kiếm Ỷ Thiên gãy làm hai rồi nhưng về sau thể nào cũng nối lại được. Bên trong kiếm có dấu một bộ võ công bí cập thật là ghê gớm, ta cũng hiểu được chân ý của hai câu này là binh thư để đuổi quân Thát tử thế nhưng nếu có người nào sau này chấp chưởng đại quyền nhưng rồi tác oai tác phúc, lấy bạo ngược thay bạo ngược, bách tính lại chịu lầm than thì thể nào cũng có một vị anh hùng tay cầm kiếm Ỷ Thiên đến lấy đầu bạo chúa. Kẻ thống lãnh bách vạn hùng binh quyền khuynh thiên hạ nhưng chưa chắc đã chống đỡ nổi một cái đánh của kiếm Ỷ Thiên, câu đó mong đại ca ghi nhớ.
    Từ Đạt mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên lưng không dám từ chối nữa nói:
    - Thuộc hạ cẩn tuân lệnh chỉ của giáo chủ.
    Y cầm Vũ Mục Di Thư để trên bàn, cung kính lạy bốn lạy rồi bái tạ Trương Vô Kỵ đã ban tặng cho quyển sách. Quả nhiên từ đó Từ Đạt dụng binh như thần, liên tiếp đánh bại quân Nguyên, sau cùng thống lãnh quân đội đánh lên phương bắc, đuổi được người Mông Cổ ra ngoài biên ải, uy chấn vùng mạc bắc lập nên công nghiệp hiển hách một thời.
    Từ đó anh hùng Trung Nguyên đều nức lòng qui phục Minh Giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ đến đâu không ai không theo. Mấy trăm năm qua Minh Giáo bị người đời chê trách, coi như yêu ma dâm tà, kể từ đại biến long trời lở đất này trở nên thủ lãnh quần hùng, trung hưng được cơ nghiệp của con cháu Hán tộc. Tuy về sau Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, thi hành gian mưu lên ngôi hoàng đế nhưng những người phò tá y đều là người trong Minh Giáo cho nên quốc hiệu không thể không xưng là nhà Minh. Minh triều từ Hồng Võ nguyên niên Mậu Thân cho tới Sùng Trinh năm thứ mười tám Giáp Thân[3], tổng cộng hai trăm bảy mươi bảy năm cũng nhờ Minh Giáo mà có.
    * *??????? * Quần hùng vui say đến tận sáng, ai nấy túy lúy mới thôi. Đến quá trưa, mọi người lục tục cáo từ hai vị thần tăng Không Văn, Không Trí. Trương Vô Kỵ thấy đệ tử phái Nga Mi tả tơi tan tác, trong lòng thương hại, thấy Tống Thanh Thư vẫn còn nằm trên cáng, không biết sống chết ra sao, đến gần nói với Tĩnh Tuệ:
    - Để tôi xem thương thế Tống đại ca thế nào!
    Tĩnh Tuệ lạnh lùng đáp:
    - Rõ khéo mèo khóc chuột, đừng có giả nhân giả nghĩa.
    Chu Điên đứng gần ngay đó, nhịn không nổi chửi lại ngay:
    - Giáo chủ ta chỉ vì chút tình cũ với chưởng môn các ngươi cho nên mới trị thương cho họ Tống kia, chứ cái thứ khi sư phản phụ này, ai cũng chỉ muốn đem giết quách cho xong. Con mụ ác ni cô kia còn lèm bèm cái gì?
    Tĩnh Tuệ muốn cãi lại vài câu nhưng thấy Chu Điên mặt mày hung ác, thần sắc bặm trợn, chỉ sợ y không biết phải quấy ra tay đánh mình thì thiệt vào thân, nên cố nén lòng, cười khẩy nói:
    - Phái Nga Mi ta đời này truyền đời khác, chưởng môn nhân đều là phận nữ nhi băng thanh ngọc khiết. Chu chưởng môn nếu không phải là hoàng hoa khuê nữ giữ mình như ngọc thì làm chưởng môn bản phái làm sao được? Hừ, Tống Thanh Thư tên gian tặc đó ở trong bản phái chỉ làm ô danh cho Chu chưởng môn. Lý sư điệt, Long sư điệt, mau đem gã này trả lại cho phái Võ Đương.
    Hai tên đệ tử Nga Mi liền đáp lời, khiêng cái cáng đến trước mặt Du Liên Châu, bỏ đó rồi đi về.
    Ai nấy ngạc nhiên khôn xiết, Du Liên Châu nói:
    - Cái ... cái gì? Y không phải là trượng phu của chưởng môn các ngươi sao?
    Tĩnh Tuệ hậm hực đáp:
    - Hừ, chưởng môn chúng ta có coi cái gã này vào đâu? Chưởng môn bực mình chuyện Trương Vô Kỵ thay lòng đổi dạ, đang hôn lễ bỏ đi làm nhục bản phái trước mặt anh hùng thiên hạ nên giả vờ gọi tên tiểu tử này là chồng. Nếu biết ... nếu biết ... hừ hừ, nếu sớm biết thế, chưởng môn chúng ta việc gì phải chịu cái tiếng xấu làm chi? Xem ra ... xem ra ...
    Trương Vô Kỵ đứng bên nghe mà sững sờ, nhịn không nổi tiến lên hỏi:
    - Sư thái nói Tống phu nhân ... nàng ... nàng thực ra không phải Tống phu nhân sao?
    Tĩnh Tuệ quay đầu sang chỗ khác, hậm hực nói:
    - Ta không thèm nói chuyện với ngươi.
    Ngay lúc đó, Tống Thanh Thư nằm trên cáng khẽ động đậy, rên lên mấy tiếng:
    - Giết ... giết được Trương Vô Kỵ chưa?
    Tĩnh Tuệ cười nhạt:
    - Thôi đừng mơ ngủ. Chết đến nơi rồi còn ham chuyện viển vông.
    Ân Lê Đình thấy Tĩnh Tuệ giận bừng bừng, nói năng không rõ ràng nên hỏi nhỏ một nữ đệ tử của phái Nga Mi là Bối Cẩm Nghi:
    - Bối sư muội, đầu đuôi ra thế nào?
    Bối Cẩm Nghi năm xưa giao tình rất thân với Kỷ Hiểu Phù, nghe ông ta hỏi, trầm ngâm giây lát rồi nói:
    - Tĩnh Tuệ sư tỉ, Ân lục hiệp không phải người ngoài, tiểu muội nói cho ông ta nghe có được không?
    Tĩnh Tuệ đáp:
    - Cái gì mà người ngoài với chẳng người trong? Không phải người ngoài cũng nói, người ngoài lại càng nên nói. Chu chưởng môn của chúng ta thanh bạch, không có liên hệ gì đến tên gian đồ họ Tống kia. Các ngươi thấy rõ thủ cung sa[4] trên cánh tay chưởng môn rồi, chuyện này cần phải cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ biết, để khỏi làm tổn hại đến qui củ của phái Nga Mi chúng ta hơn trăm năm nay ...
    Ân Lê Đình nghĩ thầm: ?Vị Tĩnh Tuệ sư thái này đầu óc xem ra không được minh bạch cho lắm, nói năng chẳng có đầu có đuôi gì cả?. Ông quay sang nói với Bối Cẩm Nghi:
    - Bối sư muội, nếu đã như thế vậy nói cho rõ ràng. Tống sư điệt của ta vì sao lại gia nhập quí phái, có can hệ thế nào với quí chưởng môn để cho tiểu huynh mai này bẩm lại với sư phụ. Việc này có quan hệ hai phái Nga Mi và Võ Đương, nếu không tổn thương hòa khí hai phái thì thật hay.
    Bối Cẩm Nghi thở dài nói:
    - Cứ như võ công, nhân phẩm của vị Tống thiếu hiệp này, trong võ lâm quả thật hiếm có, nhưng cũng chỉ vì si tình mà rơi vào nghiệp chướng. Dường như chưởng môn nhân có hẹn, đợi đến khi giết được Trương Vô Kỵ rồi, rửa được cái nhục bỏ ngày cưới mà đi thì sẽ thành hôn với y. Vì thế y cam tâm đầu nhập bản phái, để được chưởng môn dạy cho võ công kỳ diệu. Hôm trước ngay giữa anh hùng đại hội, chưởng môn đột nhiên tự xưng mình Tống phu nhân, là vợ của Tống thiếu hiệp, mọi người trong bản phái đều thật ngạc nhiên. Hôm đó chưởng môn uy chấn quần hùng, nhiếp phục các môn phái ...
    Chu Điên liền chen vào:
    - Đó là giáo chủ chúng ta cố ý nhường đấy thôi có gì mà khoe khoang.
    Bối Cẩm Nghi không thèm để ý đến y, nói tiếp:
    - Tuy đệ tử bản phái ai nấy hết sức cao hứng nhưng đến tối hôm đó, mọi người mới hỏi ba chữ Tống phu nhân đó là như thế nào mà ra. Chưởng môn nhân mới lộ cánh tay trái ra, thản nhiên nói: ?Mọi người hãy nhìn đây?. Chúng tôi ai ai cũng thấy rõ, trên cánh tay điểm thủ cung sa vẫn đỏ chon chót như xưa, quả nhiên vẫn là một xử nữ giữ mình trong trắng. Chưởng môn nhân nói rằng: ?Ta tự xưng Tống phu nhân, chẳng qua chỉ là cái kế quyền nghi nhất thời, cốt để chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ, khiến cho y tâm thần bất định, khi tỉ võ mới thừa cơ mà thắng được y. Tên tiểu tử đó võ công trác tuyệt, ta xem ra không sao bằng y được. Nếu so với anh danh của bản phái thì cái tiếng của ta nào có sá gì??.
    Mấy câu đó nàng ta nói oang oang, cố ý để mọi người chung quanh ai cũng nghe rõ, rồi tiếp:
    - Nam nữ đệ tử bản phái, nếu không xuất gia tu đạo, vốn không cấm lấy vợ lấy chồng, có điều từ sáng phái Quách tổ sư cho tới nay, những võ công tối cao thâm thì chỉ truyền cho con gái đồng trinh giữ mình như ngọc. Mỗi nữ đệ tử khi bái sư, sư phụ đều điểm một chấm thủ cung sa trên cánh tay. Hàng năm vào ngày giỗ Quách tổ sư, tiên sư đều kiểm soát, năm đó Kỷ sư tỉ ... vì chuyện đó ...
    Nàng ta nói tới đây ậm ậm ừ ừ không nói tiếp nữa. Bọn Ân Lê Đình ai cũng hiểu rằng Bối Cẩm Nghi muốn nói tới việc Kỷ Hiểu Phù bị thất thân với Dương Tiêu nên thủ cung sa biến mất mới bị Diệt Tuyệt sư thái phát giác. Ân Lê Đình cùng Dương Bất Hối thành hôn rồi, vợ chồng ái tình nồng thắm nhưng lúc này nghĩ đến chuyện Kỷ Hiểu Phù trong lòng không khỏi bồi hồi, nhịn không nổi đưa mắt liếc Dương Tiêu một cái, thấy ông ta mắt rưng rưng quay đầu sang chỗ khác.
    Bối Cẩm Nghi nói tiếp:
    - Ân lục hiệp, chưởng môn chúng tôi có ý muốn chọc tức Minh Giáo Trương giáo chủ, khéo thay vị Tống thiếu hiệp kia lại si mê chưởng môn theo đuổi không rời khiến xẩy ra bao nhiêu chuyện. Đợi đến khi nào Tống thiếu hiệp khỏi bệnh, xin Ân lục hiệp lựa lời bẩm lại với Trương chân nhân và Tống đại hiệp vài câu để cho quí phái và chúng tôi khỏi gây hiềm khích.
    Ân Lê Đình gật đầu nói:
    - Hẳn là như thế. Gã sư điệt của tôi phạm thượng phản nghịch, có chết cũng đáng, quả là một điều xấu hổ cho tệ phái, tôi chỉ mong nó chết cho xong.
    Ông vốn yếu lòng, nghĩ đến Tống Thanh Thư giết chết Mạc Thanh Cốc trong bụng càng thêm thống hận. Còn đang nói chuyện, bỗng nghe từ xa vẳng tới một tiếng thét lanh lảnh, dường như giọng Chu Chỉ Nhược sợ hãi xem ra đang gặp chuyện gì hết sức nguy hiểm. Mọi người nghe thấy thế không khỏi nổi gai ốc, đang lúc trời trong mây tạnh, trước mặt sau lưng đầy người nhưng nghe tiếng kêu đó tưởng chừng ác quỉ xuất hiện không bằng. Mọi người không hẹn mà cùng quay sang nhìn về phía có tiếng kêu. Trương Vô Kỵ, Tĩnh Tuệ, Bối Cẩm Nghi cả bọn vội chạy về hướng đó.
    Trương Vô Kỵ sợ Chu Chỉ Nhược gặp phải địch nhân nào ghê gớm nên ra sức thật nhanh, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã vượt qua được rừng cây, thấy một bóng xanh đang ra chạy chính là Chu Chỉ Nhược. Chàng vội vàng chặn nàng lại hỏi:
    - Chỉ Nhược, chuyện gì thế?
    Chu Chỉ Nhược mặt hết sức kinh khiếp, kêu lên:
    - Ma, ma, có ma đuổi em!
    Nàng nhảy vào ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ nhưng người vẫn còn run bần bật. Trương Vô Kỵ thấy nàng sợ đến mất hết hồn vía, nhẹ nhàng vỗ vỗ lên vai, an ủi:
    - Đừng sợ! Đừng sợ! Làm gì có ma. Em nhìn thấy gì thế?
    Chàng thấy áo nàng bị gai cứa rách tả tơi, trên mặt cũng có mấy đường xước rướm máu, một nửa tay áo bên trái bị rách, để hở cánh tay trắng như ngọc, trên da có một điểm đỏ chót như san hô, bóng như hồng ngọc, chính là dấu thủ cung sa của người xử nữ.
    Trương Vô Kỵ tinh thông y dược biết rằng con gái điểm thủ cung sa rồi, nếu chưa thất thân hay lập gia thất thì sẽ suốt đời không phai. Lúc nãy chàng nghe Tĩnh Tuệ và Bối Cẩm Nghi nói vẫn còn bán tín bán nghi, bây giờ chính mắt trông thấy nên không còn ngờ gì nữa, nhất thời trong đầu qua lại bao nhiêu ý nghĩ: ?Nàng bảo nàng lấy Tống Thanh Thư gì gì đó chỉ toàn là chuyện giả, thế nhưng tại sao nàng lại muốn đánh lừa ta? Sao nàng lại muốn chọc cho ta bực tức? Chẳng lẽ nàng tham cái danh vị ?đương thế võ công đệ nhất? thực hay sao? Hay là muốn thử xem mình đối với nàng như thế nào??. Chàng lại nghĩ thêm: ?Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, Chu cô nương là người đã giết biểu muội của ngươi, nàng còn là con gái cũng thế, mà nàng có đi lấy người khác thì cũng thế, có còn liên hệ gì đến ngươi nữa đâu??. Thế nhưng chàng thấy Chu Chỉ Nhược sợ đến khiếp vía, không nỡ đẩy nàng ra.
    Chu Chỉ Nhược nằm gục trong lòng Trương Vô Kỵ, cảm thấy bộ ngực ấm áp rắn chắc của chàng, mũi ngửi thấy mùi đàn ông nồng nàn dần dần trấn tĩnh lại hỏi:
    - Vô Kỵ ca ca, có phải chàng đấy chăng?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Chính anh đây. Em cảm thấy thế nào? Có gì mà sợ đến như thế?
    Chu Chỉ Nhược lại đột nhiên kinh hoảng, òa lên một tiếng, nước mắt trào ra, gục vào vai chàng khóc thút thít không ngừng. Lúc đó Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Tĩnh Tuệ, Ân Lê Đình tất cả đã chạy đến, thấy cảnh tượng đó, người nọ đưa mắt nhìn người kia, ai nấy rón rén quay trở lại. Mọi người vẫn chưa quên được mối thù ngày nào với Triệu Mẫn, lại nghĩ thầm dẫu sao Triệu Mẫn cũng là con nhà quyền quí người Mông Cổ, nếu như Trương Vô Kỵ lấy nàng làm vợ e rằng sẽ trở ngại cho công cuộc phục hưng đại nghiệp.
    Chu Chỉ Nhược khóc một hồi đột nhiên nói:
    - Vô Kỵ ca ca, có ai đuổi theo không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Không có ai cả! Thế ai đuổi em vậy? Có phải Huyền Minh nhị lão chăng?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Không, không phải đâu! Anh có nhìn rõ chưa, không có ai thật ... không, không phải người ... không có gì đuổi theo chứ?
    Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
    - Giữa thanh thiên bạch nhật không lẽ lại còn nhìn không rõ.
    Giọng chàng trở nên dịu dàng:
    - Chỉ Nhược, chắc mấy ngày liền em sử lực quá độ nên mệt mỏi thành ra váng đầu hoa mắt nhìn lầm chứ gì?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Không phải đâu, nhất định không phải. Em thấy nó ba lần, liên tiếp ba lần mà!
    Giọng nàng run run dường như cơn khiếp sợ vẫn chưa hết hẳn. Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Em ba lần thấy cái gì?
    Chu Chỉ Nhược vịn vào vai chàng, lẩy bẩy đứng lên, quay lại nhìn khắp lượt. Nàng xem ra phải thu hết can đảm nhìn xong vội quay lại ngay, nhìn Trương Vô Kỵ thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan hoài trìu mến, trong lòng chua xót, bao nhiêu sức lực trong người mất hết, lại khuỵu xuống nói:
    - Vô Kỵ ca ca, em ... mọi việc ... em đều lừa dối chàng. Kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long chính em lấy cắp ... Ân ... Ân ... cô nương cũng do tay em giết ..., Tạ đại hiệp chính tay em điểm huyệt, em ... em cũng chẳng lấy Tống Thanh Thư. Trong tim em chỉ ... trước sau lúc nào cũng chỉ có một hình bóng chàng thôi.
    Trương Vô Kỵ thở dài nói:
    - Những việc đó anh đều biết cả rồi. Có điều ... có điều sao em lại làm khổ em như thế?
    Chu Chỉ Nhược khóc nói:
    - Chàng chưa biết sư phụ em ở trên tháp chùa Vạn An đã nói với em những gì. Sư phụ nói cho em nghe bí mật trong đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, bắt em phải thề lấy được đao kiếm này làm rạng rỡ cho phái Nga Mi. Sư phụ bắt em phải thề độc giả vờ yêu anh nhưng không được thực lòng ...
    Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng vuốt ve cánh tay nàng, nghĩ đến năm xưa chính mắt trông thấy Diệt Tuyệt sư thái đánh chết Kỷ Hiểu Phù, rồi nghe bà ta trên sa mạc thề quyết tiêu diệt Minh Giáo, tay cầm kiếm Ỷ Thiên loạn sát giáo chúng trong Nhuệ Kim Kỳ, sau này nơi tháp chùa Vạn An thà chịu chết chứ không nhờ mình giúp đỡ mới thấy bà ta oán hận Minh Giáo biết chừng nào. Chu Chỉ Nhược kế thừa y bát, nhận di mệnh của sư phụ nên bao nhiêu hành vi tàn ác độc địa kia cũng đều do Diệt Tuyệt sư thái trối trăn cả. Chàng vốn tính tình dễ tha thứ người khác, xưa nay không ghi nhớ hận thù, nghĩ lại năm xưa trên dòng Hán Thủy nàng đút cơm cho mình ăn, trên Quang Minh Đính ác đấu với vợ chồng Hà Thái Xung và Hoa Sơn nhị lão, nếu không có nàng đứng bên chỉ điểm không chừng mình đã chết tại đương trường; nghĩ cho sâu xa, những hành vi giảo trá tàn ác của nàng cũng chỉ vì mối thâm tình với mình, lúc này nàng thật yếu đuối đáng thương, nằm gục trong lòng không khỏi ngậm ngùi, bèn dịu dàng nói:
    - Chỉ Nhược, em thấy cái gì mà lại sợ hãi đến vậy?
    Chu Chỉ Nhược đứng bật dậy nói:
    - Em không nói. Cái hồn ma đó quấn quít em, bản thân em làm nhiều điều tàn ác cho nên nó mới báo oán. Em nói thật cho chàng hay ... chắc em ... chắc em không sống được bao lâu nữa đâu ...
    Nói xong nàng ôm mặt chạy vụt về phía núi. Trương Vô Kỵ chẳng hiểu đầu đuôi, nghĩ thầm: ?Cái gì mà lại hồn ma báo oán, theo đuổi quấn quít nàng? Không lẽ bang chúng Cái Bang trả thù, làm ma làm quỉ dọa nàng hay sao??. Chàng lững thững đi theo thấy nàng chạy vào trong đám đệ tử phái Nga Mi, Bối Cẩm Nghi đem một chiếc áo khoác đắp lên cho nàng. Chu Chỉ Nhược nói nhỏ mấy câu gì đó, mọi người khom lưng nghe lệnh.
    Khi đó trên núi Thiếu Thất quần hùng một số đông đang chuẩn bị về, Không Văn, Không Trí hai người đang chào từ giã. Dương Tiêu, Phạm Dao cả bọn cũng đến tụ tập chung quanh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:
    - Thôi mình cũng sắp sửa về đi thôi.
    Chàng thấy Chu Chỉ Nhược đến trước mặt Không Văn nói nhỏ mấy câu gì đó, sắc mặt nhà sư đại biến, sững sờ một hồi, rồi cương quyết lắc đầu dường như không tin. Chu Chỉ Nhược lại nói mấy câu, đột nhiên quì xuống, chắp hai tay, lẩm bẩm nói gì đó. Không Văn thần sắc trang nghiêm, miệng tụng nam mô. Chu Điên nói:
    - Giáo chủ, giáo chủ phải ngăn lại ngay mới được, không thì không xong.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Ngăn cái gì?
    Chu Điên nói:
    - Chu cô nương định xuất gia làm hòa thượng, cô ta ... cô ta vào cửa không rồi thì thật hỏng hết.
    Dương Tiêu cười khẩy nói:
    - Nếu Chu cô nương muốn xuất gia thì chỉ có thể làm ni cô chứ sao lại làm hòa thượng được? Có lẽ nào lại bái nhà sư chùa Thiếu Lâm làm thầy?
    Chu Điên lấy tay cốc lên đầu mìn một cái nói:
    - Đúng lắm, đúng lắm! Ta quả là hồ đồ. Thế Chu cô nương cầu khẩn Không Văn đại sư cái gì thế này? Một người là chưởng môn phái Thiếu Lâm, một người là chưởng môn phái Nga Mi, việc gì phải quì?
    Lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng thẳng lên, trên mặt tỏ ra thoải mái hơn. Trương Vô Kỵ thở dài:
    - Thôi chuyện của người khác, mình chẳng nên xen vào làm gì.
    Chàng quay lại nói:
    - Mẫn muội, thôi mình cũng đi cho xong.
    Ngờ đâu chàng nhìn quanh không thấy bóng dáng Triệu Mẫn đâu cả. Trong mấy hôm nay, Triệu Mẫn lúc nào cũng ở bên cạnh chàng như hình với bóng, Trương Vô Kỵ chột dạ, hỏi:
    - Triệu cô nương đâu?
    Trong bụng kêu thầm: ?Hỏng rồi, chắc là lúc Chỉ Nhược nằm trong lòng ta, Mẫn muội trông thấy, tưởng mình chưa quên tình xưa nghĩa cũ nên bỏ ta mà đi chăng??. Chàng vội vàng chen vào đám đông tìm kiếm. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ Tân Nhiên nói:
    - Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ trông thấy Triệu cô nương xuống núi rồi.
    Trương Vô Kỵ lòng đau như cắt: ?Mẫn muội bỏ hết mọi thứ để theo ta, cùng nhau trải qua bao nhiêu hoạn nạn, tạ phụ nàng sao đành??. Chàng bèn quay sang nói với Dương Tiêu:
    - Dương huynh, việc ở đây nhờ ông thay mặt giải quyết, tôi phải đi trước một chút.
    Chàng quay sang Không Văn, Không Trí cáo từ, rồi chào Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình mọi người, sau cùng nói với Chu Chỉ Nhược:
    - Chỉ Nhược, em cố bảo trọng, mình sẽ gặp lại sau.
    Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, chỉ nhè nhẹ gật đầu, từ khóe mắt mấy giọt lệ long lanh rơi xuống.
    * *??????? * Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy như bay xuống chân núi. Suốt mấy dặm đâu đâu cũng thấy anh hùng hào khách từ chùa Thiếu Lâm trên đường về, chàng không muốn chào hỏi ai, nên lẻn theo ngang hông họ mà chạy nhưng trước sau vẫn không thấy bòng dáng Triệu Mẫn đâu. Chàng chạy một mạch đến ba chục dặm, trời đã về chiều, người đi trên đường mỗi lúc một vắng, bỗng nghĩ ra: ?Mẫn muội mưu kế sâu xa, nếu quả như nàng muốn tránh mặt ta hẳn không theo đường lớn mà đi. Nếu không cước trình ta nhanh như vậy hẳn đã phải gặp rồi. Không lẽ nàng trốn trong núi Thiếu Thất, đợi ta đi qua rồi mới đi ngược trở lại?? Chàng bụng nóng như lửa đốt, chẳng quản đói khát, lại chạy trở vào trong các ngọn núi, thỉnh thoảng lại nhảy lên ngọn cây hay gò đống, nhìn dáo dác chung quanh. Trong núi tịch mịch chỉ thấy những đàn quạ bay về tổ.
    Chàng vòng trở lại núi Thiếu Thất rồi vẫn không thấy bóng dáng Triệu Mẫn đâu bụng nhủ thầm: ?Dù gì chăng nữa, ta đối với em cũng chẳng thay lòng đổi dạ, dẫu phải đến chân trời góc biển cũng phải tìm cho ra được nàng mới thôi?. Bụng đã quyết như thế, lòng cũng thấy bình tĩnh lại, thấy nơi thung lũng phía đông bắc có hai cây hòe lớn đứng song song bèn nhảy lên ngọn cây, kiếm một cành đâm ngang, nằm xuống. Chàng qua một ngày trải bao nhiêu chuyện, người mỏi mệt nên đặt mình chẳng mấy chốc đã thiu thiu ngủ.
    Chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng bước chân ai đó ở cách chừng vài mươi trượng nên lập tức tỉnh dậy. Khi đó vầng trăng đã ngả về hướng tây, dưới ánh sáng thấy một bóng người đang di hành trên sườn núi cực nhanh nhẹn chạy về hướng nam. Người đó dáng thon thả, thắt đáy lưng ong là một thiếu nữ thân hình mảnh dẻ. Chàng mừng rỡ, đang toan mở miệng kêu lên ?Mẫn muội? nhưng lập tức biết là mình nhìn lầm, người con gái đó so với Triệu Mẫn hơi cao hơn một tí, thân pháp khinh công lại khác hẳn, bước chân nhẹ nhàng hơn Triệu Mẫn nhưng dáng phiêu hốt xem chừng chưa bằng Chu Chỉ Nhược.
    Lòng hiếu kỳ của chàng nổi lên: ?Cô gái này canh khuya dặm trường, không hiểu có chuyện gì thế??. Chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến chàng, cũng chẳng muốn đi rình mò chuyện con gái nhà người ta nhưng bỗng nghĩ đến: ?Biết đâu từ cô gái này mình kiếm được Mẫn muội không chừng. Nếu như nàng ta không liên quan gì đến Mẫn muội thì ta cứ len lén bỏ đi là xong, cũng chẳng có gì đáng ngại. Mình không nên bỏ lỡ bất cứ dịp nào?. Chàng tính thế bèn đánh đu vào cành cây nhẹ nhàng nhảy xuống.
    Trương Vô Kỵ sợ bị thiếu nữ kia phát giác nên không dám đến gần, nghĩ thầm canh khuya mình lẻn đi theo một người con gái không quen biết, chẳng khỏi bị nghi là có tính khinh bạc, thấy cô ta mặc một bộ đồ đen, chính là đang đi đến phía chùa Thiếu Lâm. Chàng tự hỏi: ?Nếu như nàng ta không có liên quan gì đến Mẫn muội thì cũng có chuyện gì với phái Thiếu Lâm. Nếu như cô ta có ý không tốt với nhà chùa thì việc này ta phải ra tay mới được?. Chàng dừng bước lắng nghe, bốn bề không thấy có ai, biết cô gái này không có ai tương trợ.
    Đi được chừng thời gian ăn một bữa cơm, người con gái không hề ngoái cổ lại. Trương Vô Kỵ thấy sau lưng nàng có chiều quen thuộc, dường như trước đây đã từng nhìn qua nghĩ thầm: ?Là Võ Thanh Anh cô nương chăng? Hay là một nữ đệ tử nào của phái Nga Mi??. Đi thêm mấy dặm nữa, chùa Thiếu Lâm đã ở ngay trước mặt, thiếu nữ kia chuyển qua sườn núi đến bên hông chùa. Nàng đi chậm lại, lấp ló trốn sau những tàn cây, khe đá, hiển nhiên sợ người ta nhìn thấy tung tích.
    Bỗng nghe từ đại điện trong chùa truyền ra mấy tiếng khánh, kế đến là tiếng tụng kinh bằng tiếng phạn của khoảng mấy trăm nhà sư. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: ?Sao nửa đêm khuya khoắt các nhà sư lại tụng kinh, mà sao đông người đến thế, không lẽ có một đàn tràng nào thật lớn chăng??.
    Thiếu nữ kia càng di chuyển kỹ lưỡng hơn, tiến lên vài chục trượng đã đến bên đại điện. Bỗng nghe có bước chân nhẹ nhàng, thiếu nữ vội nằm phục xuống đám cỏ, kế đến có bốn nhà sư Thiếu Lâm tay cầm giới đao thiền trượng đi tuần đến. Cô gái đợi cho những nhà sư đi qua mới nhỏm dậy, nhảy một cái đã đến bên cửa sổ của đại điện. Cái nhảy đó thân hình nhẹ nhàng như bay, quả là khinh công của một cao thủ bậc nhất trong võ lâm.
    Trương Vô Kỵ thấy cô ta không mang binh khí, chỉ có một thân một mình, xem ra không phải là người đến sinh sự, muốn xem cho kỹ là người nào, mình có từng quen biết hay không nên khom người xuống rón rén đi qua phía sau lưng tới góc tây bắc của đại điện. Chàng tự biết lúc này hết sức khó ăn khó nói, ví thử những nhà sư Thiếu Lâm phát giác được, với địa vị thân phận như mình, đêm hôm đến chùa dòm dỏ nếu như không thông cảm thì thật là mất mặt cho nên càng thêm cẩn thận, từng bước đi từng hành động nhẹ nhàng như mèo vờn chuột.
    Lúc đó trong đại điện tiếng tụng kinh lại nổi lên, chàng ghé mắt qua khe cửa nhìn vào, thấy trong đó có tới mấy trăm tăng nhân, từng hàng từng hàng ngồi trên bồ đoàn, ai nấy khoác hoàng bào, bên ngoài lại thêm đại hồng kim tuyến cà sa, có người tay cầm pháp khí, có người chắp tay cúi đầu tụng niệm, chính là một buổi lễ cầu cho vong hồn được siêu thăng tịnh độ. Chàng lúc ấy hiểu ra: ?Kỳ anh hùng đại hội này có biết bao nhiêu người chết, khi quân Nguyên đánh lên, hai bên tử thương lại càng nhiều. Tăng lữ trong chùa ngày đêm cầu siêu cho người tử nạn, nguyện cho những người đó vãng sinh cực lạc?. Chàng thấy Không Văn đại sư đứng ngay trước nơi bàn thờ đích thân chủ tế, nhưng đứng phía bên phải lại là một thiếu nữ.
    Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, hơi lạ lùng. Người con gái đó chính là Chu Chỉ Nhược, tuy chỉ nhìn ngang nhưng thấy rõ thần sắc nàng bất định, đôi lông mày hơi nhíu lại, dường như có chiều lo lắng, nghĩ thầm: ?Đúng rồi, ban ngày Chỉ Nhược quì trước mặt Không Văn đại sư, chính là cầu xin ông lập đàn tràng, có lẽ nàng sám hối những gì đã làm, dưới tay giết chết nhiều người vô tội?. Chàng nhìn kỹ trên bàn thấy ngay chính giữa là một bài vị trên viết bảy chữ ?Nữ hiệp Ân Ly chi linh vị?.
    Trương Vô Kỵ đau lòng, nghĩ đến biểu muội cuộc đời khổ sở, đối với mình thật một mối thâm tình, không khỏi bùi ngùi chảy nước mắt. Trong tiếng chuông tiếng mõ, Chu Chỉ Nhược sì sụp lạy, miệng mấp máy, cúi đầu khấn nguyện. Trương Vô Kỵ vận thần công tập trung tinh thần nghe ngóng dường như:
    - Ân cô nương ... ở trên trời linh thiêng, xin được an nghỉ ... đừng hiện về phá tôi...
    Chàng vịn vào tường trong đầu rộn lên bao ý nghĩ: ?Biểu muội chết vì tay nàng, cố nhiên tội nghiệp thật, thế nhưng trong lòng Chỉ Nhược nỗi ray rứt chắc gì đã ít hơn cô em họ của mình?. Trong đầu chàng bỗng nhớ lại năm xưa trên Quang Minh Đính nghe giáo chúng Minh Giáo hát mấy câu:
    Khi sống có gì vui, Thì chết có gì khổ?
    Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy.
    Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy.
    Chu Chỉ Nhược từ từ đứng lên, hơi nghiêng người, quay đầu sang phía đông, đột nhiên mặt hoảng hốt:
    - Ngươi ... ngươi ... ngươi ... lại đến kìa.
    Giọng nàng rú lên át hẳn tiếng chuông tiếng khánh trong điện. Trương Vô Kỵ theo hướng mắt nàng nhìn theo, thấy khung giấy dán trên cửa đã bị rách từ bao giờ, nơi vết thủng hiện lên một khuôn mặt con gái, mặt đầy vết sẹo ngang dọc khiến chàng run bần bật, nhịn không nổi phải kêu lên một tiếng.
    Thiếu nữ đó trên mặt loang lổ, tuy không còn nổi u từng cục như xưa nhưng rõ ràng chính là người đã chết Ân Ly. Chàng toan tiến lên gọi nhưng chân như dính xuống đất, người chết sững không cách nào cử động được. Chỉ thấy khuôn mặt đó biến ngay mất, trong điện nghe bình một tiếng, Chu Chỉ Nhược đã ngã lăn ra.
    Trương Vô Kỵ lúc đó không muốn để cho phái Thiếu Lâm hiềm nghi, lớn tiếng kêu lên:
    - Châu Nhi! Châu Nhi! Em đấy ư?
    Thế nhưng không nghe tiếng trả lời. Chàng hơi định thần, phi thân theo đường cũ đuổi theo, chỉ thấy trăng lạnh treo lơ lửng, những cây là cây, người con gái áo đen kia không biết đi nơi nào. Chàng vốn không tin ma quỉ nhưng gặp phải cảnh thế này không khỏi toát mồ hôi lạnh, người nổi da gà, đứng lại lẩm bẩm:
    - Đúng nàng rồi! Đúng nàng rồi! Thảo nào sau lưng thấy quen quá, hóa ra là Châu Nhi. Chắc hồn nàng biết được cao tăng Thiếu Lâm tụng kinh siêu độ cho mình nên mới đến nghe kinh chăng? Hay là nàng chết oan chết uổng nên hồn không tan đi được?
    Những nhà sư Thiếu Lâm nghe tiếng động đã có mấy người chạy ra xem chuyện gì, thấy Trương Vô Kỵ không khỏi ngạc nhiên. Một tăng nhân lớn tuổi tiến lên hành lễ nói:
    - Không biết Trương giáo chủ đêm khuya giáng lâm nên chưa kịp ra đón, xin thứ tội cho.
    Trương Vô Kỵ cũng chắp tay chào nói:
    - Không dám.
    Chàng tiến vào trong điện, thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt nhắm nghiền, mặt xanh mét không còn chút máu vẫn chưa tỉnh lại. Chàng lại gần, dùng sức day nhân trung nàng mấy cái lại xoa bóp ở sau lưng.
    Chu Chỉ Nhược từ từ tỉnh lại, vừa trông thấy Trương Vô Kỵ liền sà ngay vào lòng ôm chặt lấy chàng, kêu lên:
    - Có ma! Có ma!
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Việc này quả cũng lạ thật, cô đừng sợ. Chung quanh đây có rất nhiều cao tăng, thể nào cũng giải được mối oan nghiệt này.
    Chu Chỉ Nhược trước nay đoan trang ổn trọng, lúc này vì quá sợ nên trước mặt mọi người mà vẫn cứ níu chặt lấy chàng, nghe nói thế mặt đỏ lên vội vàng buông Trương Vô Kỵ ra, đứng lên nhưng người vẫn còn run rẩy không thôi, nắm chặt tay chàng không chịu rời.
    Trương Vô Kỵ tiến lại chào Không Văn, kể lại chuyện có kẻ ở bên ngoài coi trộm. Không Văn và quần tăng tuy không ai thấy nhưng vết rách trên giấy dán cửa sổ vẫn còn đó. Chu Chỉ Nhược nói:
    - Vô Kỵ ca ... Trương giáo chủ, tôi thấy rồi, đúng là cô ta.
    Trương Vô Kỵ gật đầu, Chu Chỉ Nhược run rẩy hỏi:
    - Thế anh ... anh ... thấy ai?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 19:04:01 | Chỉ xem của tác giả
Trương Vô Kỵ đáp:
    - Thấy Ân cô nương, cô em họ tôi Ân Ly.
    Chu Chỉ Nhược kêu khẽ lên một tiếng, lại ngất đi. Lần này Trương Vô Kỵ đang nắm tay nàng nên Chu Chỉ Nhược không ngã, thành thử vừa xỉu là tỉnh lại ngay. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi trông thấy biểu muội, nhưng cô ta là ... người chứ không phải là ma.
    Chu Chỉ Nhược run run hỏi:
    - Cô ta không phải ma sao?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôi theo cô ta tới chùa Thiếu Lâm, thấy cô ta đi đứng bình thường, nhất định không thể là ma được.
    Mấy câu đó chẳng qua chỉ để an ủi Chu Chỉ Nhược chứ trong bụng chàng, Trương Vô Kỵ cũng không dám chắc. Chu Chỉ Nhược hỏi thêm:
    - Có thực anh thấy cô ta đi đứng bình thường, không phải là ma chứ?
    Trương Vô Kỵ nhớ lại quãng đường đuổi theo thiếu nữ áo đen kia đến đây, lại thấy nàng náu mình sau cửa sổ nhìn vào, nhất cử nhất động đều đúng là một cô nương biết võ công, không có gì khác lạ bèn quay sang hỏi Không Văn đại sư:
    - Phương trượng, tại hạ có một điều không rõ, mong được thỉnh giáo. Người chết đi rồi, có thật còn hồn ma hay chăng?
    Không Văn trầm ngâm một hồi nói:
    - Chuyện cõi u minh, quả thực khó nói.
    Trương Vô Kỵ hỏi tiếp:
    - Thế thì vì cớ gì phương trượng lại thành kính tụng niệm để siêu độ cho các u hồn?
    Không Văn nói:
    - Thiện tai! Thiện tai! U hồn không thể siêu độ được, người chết đi rồi nhưng nghiệp vẫn còn, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Nhà Phật lập đàn tràng tụng niệm là để cho người sống được an tâm, siêu độ là để người còn sống được siêu độ.
    Trương Vô Kỵ bấy giờ mới hiểu, chắp tay nói:
    - Đa tạ phương trượng chỉ điểm. Tại hạ canh khuya đến làm rộn, quả thật không an, mong đại sư thứ tội cho.
    Không Văn mỉm cười:
    - Giáo chủ là đại ân nhân của tệ phái, mấy lần ra tay cứu giúp phái Thiếu Lâm khỏi tai nạn, sao còn khách sáo thế.
    Trương Vô Kỵ liền cùng các nhà sư cáo từ rồi quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:
    - Thôi mình đi chứ.
    Chu Chỉ Nhược hơi có vẻ ngần ngừ không dám ra khỏi Phật điện. Trương Vô Kỵ không tiện ép uổng, chắp tay nói:
    - Nếu như thế thì mình từ biệt nơi đây.
    Nói xong chàng xoay mình đi ra cửa điện. Chu Chỉ Nhược nhìn sau lưng chàng, đột nhiên gọi:
    - Vô Kỵ ca ca, anh có còn gặp em nữa không? Để em ... em đi với anh vậy.
    Nàng chạy đến bên chàng, hai người sánh vai đi ra khỏi chùa Thiếu Lâm một quãng xa, Chu Chỉ Nhược liền nép mình vào Trương Vô Kỵ cầm tay chàng. Trương Vô Kỵ biết nàng vẫn còn sợ, cũng nắm chặt bàn tay mềm mại, ngửi thấy bên mình mùi thơm ngây ngất, trong lòng bỗng thấy phiêu phiêu.
    Hai người yên lặng một lúc lâu, bỗng nhiên Chu Chỉ Nhược thở dài một tiếng nói:
    - Vô Kỵ ca ca, ngày nào hai đứa mình lần đầu gặp nhau nơi sông Hán Thủy, em được Trương chân nhân cứu thoát, nếu biết sau này phải chịu biết bao nhiêu khổ sở thì giá như chết ngay lúc đó, có phải thoải mái hơn không.
    Trương Vô Kỵ không trả lời, nghĩ đến câu hát của giáo đồ Minh Giáo, buột miệng ngâm nga:
    Sinh diệc hà hoan?
    Tử diệc hà khổ?
    Lân ngã thế nhân, Ưu hoạn thực đa.
    (Khi sống có gì vui, Thì chết có gì khổ?
    Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy) Chu Chỉ Nhược nghe khúc ca chàng đọc, bàn tay nắm lấy chàng hơi run run. Nàng hạ giọng nói nhỏ:
    - Trương chân nhân đưa em lên núi Nga Mi là để cho em được sung sướng, thế nhưng nếu như lão nhân gia giữ em ở lại núi Võ Đương, cho em gia nhập môn hạ phái Võ Đương thì mọi sự hôm nay đã khác hẳn. Ôi! Ân sư đối với em có gì không tốt đâu? Có điều ... có điều sư phụ bắt em phải lập độc thệ, ép em phải hận thù Minh Giáo, ép em phải hận chàng, hại chàng, nhưng trong lòng em ... quả thực ...
    Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thật chân thành, lòng hơi cảm động, biết nàng có nhiều điều khó khăn, bao nhiêu những chuyện tàn độc đều do tuân hành di mệnh Diệt Tuyệt sư thái mà làm, nay thấy nàng sợ hãi đến độ lại càng thương xót hơn.
    Trên con đường gió núi vù vù, từng chập thổi tới hương thơm các loài hoa cỏ, lúc này đang đầu mùa hạ, đêm thanh vắng sương mát mẻ, tai nghe một thiếu nữ xinh tươi thổ lộ tâm tình, Trương Vô Kỵ không khỏi bồi hồi man mác. Huống chi ở nơi hoang đảo khi chàng giúp nàng đẩy chất độc ra ngoài, hai người đã từng đụng chạm xác thịt, trước kia nàng lại có ơn với mình, cùng nàng ước định hôn nhân làm sao chàng không khỏi đê mê.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Vô Kỵ ca ca, hôm đó ở Hào Châu chàng đang cùng em bái đường thành thân, sao Triệu cô nương vừa tới gọi, chàng đã chạy theo cô ta là sao? Trong lòng chàng yêu cô ta đến thế ư?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Anh đang muốn giãi bày chuyện đó với em đây, mình ngồi xuống nói chuyện nhé.
    Nói rồi chàng chỉ một tảng đá lớn bên vệ đường. Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Không đâu, trong lúc này lòng em đang rối như tơ vò, không nghe vào tai được, đi thêm một lát cho lòng em lắng xuống rồi hãy nói.
    Trương Vô Kỵ gật đầu, đưa tay nắm tay nàng, thủng thẳng bước đi. Chu Chỉ Nhược cầm tay chàng vào một con đường mòn, đi đến bốn năm dặm rồi mới nói:
    - Được rồi, chàng nói cho em nghe đi.
    Nàng đi đến một khối sơn thạch, trước một bụi cây rậm rạp hai người sánh vai ngồi xuống. Trương Vô Kỵ mới đem việc Triệu Mẫn nắm trong tay một nắm tóc vàng của Tạ Tốn khiến chàng không thể nào không chạy theo kể lại đầu đuôi. Chu Chỉ Nhược nghe xong ngồi thừ ra hồi lâu không nói năng gì. Trương Vô Kỵ nói:
    - Chỉ Nhược, em có trách anh không?
    Chu Chỉ Nhược nghẹn ngào đáp:
    - Em làm biết bao nhiêu chuyện sai lầm, chỉ trách mình thôi, lẽ nào lại trách chàng?
    Trương Vô Kỵ vỗ nhè nhẹ lên vai nàng, dịu dàng nói:
    - Trên đời này mọi chuyện đưa đẩy tới làm sao liệu trước được, em cũng đừng quá đau lòng.
    Chu Chỉ Nhược ngẩng mặt lên nói:
    - Vô Kỵ ca ca, thiếp có một câu hỏi, chàng phải thật lòng trả lời, không được che đậy chút nào.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Được, anh sẽ không dấu gì em.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Thiếp biết được trên đời này có bốn người con gái thực lòng yêu chàng. Một người là Tiểu Siêu nay đã đi qua Ba Tư, một người là Triệu cô nương, còn một người là ... là ... cô ta ...
    Nàng định nói Ân cô nương nhưng không dám nói ra lời, ngừng lại một chút rồi tiếp:
    - Nếu như cả bốn người con gái, tất cả đều còn sống lại ở ngay bên cạnh chàng, thì trong lòng chàng thực sự yêu thương là ai?
    Trương Vô Kỵ trong lòng mê loạn, ấp úng:
    - Cái đó ... ồ ... cái đó ...
    Hôm xưa, Trương Vô Kỵ cùng Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly, Tiểu Siêu bốn người cùng trên một con thuyền lênh đênh trên biển chàng đã từng nghĩ ngợi nhiều lần: ?Cả bốn nàng này ai đối với ta cũng tình sâu nghĩa nặng, ta phải đối xử thế nào cho phải đây? Dù ta thành hôn với bất cứ người nào thì cũng làm cho ba người còn lại hết sức đau thương. Ở sâu thẳm trong lòng ta, người nào là người ta yêu nhất??.
    Chàng cho đến nay vẫn bàng hoàng không sao quyết định được thành thử cố tránh né không nghĩ tới, khi thì nghĩ rằng: ?Thát tử chưa đuổi được, giang sơn chưa khôi phục, Hung Nô chưa diệt thì đâu màng tới chuyện gia đình. Làm trai lẽ nào chỉ vấn vương những chuyện thường tình nhi nữ?.
    Cũng có khi chàng nghĩ: ?Ta thân làm giáo chủ Minh Giáo, một lời nói một cử động đều có quan hệ đến hưng suy của bản giáo và đồng đạo võ lâm. Ta tự nhủ sẽ không làm điều gì sằng bậy hại đến phẩm giá, lẽ nào rơi vào vòng nữ sắc để anh hùng thiên hạ sỉ tiếu, làm hại thanh danh của bản giáo hay sao??.
    Có lúc thì chàng lại nghĩ: ?Mẹ ta lúc lâm chung đã từng căn dặn ta rằng, con gái xinh đẹp rất giỏi lừa dối người, bảo ta trên đời phải hết sức đề phòng, di ngôn của má má lẽ nào lại bỏ ngoài tai??.
    Thực ra chàng đã nhiều lần biện giải, chẳng qua là để tự dối mình đấy thôi, chứ nếu quả thực chuyên tâm yêu một người con gái thì có gì là hại đến việc quang phục đại nghiệp, cũng có gì mà hại đến thanh danh Minh Giáo. Nói đúng ra chàng thấy cô này cũng tốt, cô kia cũng tốt, thành ra không dám nghĩ ngợi nhiều. Vô Kỵ võ công cao siêu thật nhưng tính tình có chiều hơi nhu nhược, thiếu quyết đoán, việc gì đến cũng để thuận theo tự nhiên, nếu như không được thì cũng không dám làm nghịch ý người khác, thà chịu bỏ mình mà theo người. Tập Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp cũng là do Tiểu Siêu yêu cầu; làm giáo chủ Minh Giáo cũng do tình thế bức bách, rồi cũng do Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương khơi dậy cảm tình, đính hôn với Chu Chỉ Nhược là do lệnh của Tạ Tốn; còn không bái đường thành thân với Chu Chỉ Nhược thì lại do Triệu Mẫn ép buộc.
    Năm xưa giá như Kim Hoa bà bà và Ân Ly không hiếp đáp, dùng võ lực cưỡng bách, chỉ dịu ngọt bảo chàng theo ra đảo Linh Xà, chắc hẳn cũng đi theo.
    Cũng có khi sâu kín trong nội tâm chàng cũng nghĩ đến: ?Giá như ta được cùng với cả bốn nàng sống chung, tất cả hòa thuận thì thật sung sướng biết là bao??. Thời đó là cuối đời Nguyên, dẫu nho sĩ, thương gia hay giang hồ hào khách, việc năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, người một vợ một chồng mới là khó kiếm. Có điều Minh Giáo phát xuất từ Ba Tư, giáo chúng xưa nay tiết kiệm khắc khổ, ngoài vợ chính ra ít ai có nàng hầu vợ lẽ.
    Trương Vô Kỵ tính tình vốn khiêm hòa, biết rằng trong bốn người lấy được ai thì cũng đã là có phúc lắm rồi, nếu như còn thêm cơ thiếp thì quả là không phải nên cái ý nghĩ lấy được cả bốn cô chỉ thoảng qua rồi biến đi, chưa bao giờ dám nghĩ ngợi lâu, nếu có đôi khi chợt đến liền tự trách mình: ?Làm người phải biết thế nào là đủ, nếu như ta còn cái ý đó chẳng hóa ra hèn hạ thấp kém lắm hay sao??.
    Đến sau Tiểu Siêu đi Ba Tư, Ân Ly từ trần, lại nghĩ biểu muội do Triệu Mẫn giết hại, bốn người không còn ai khác ngoài Chu Chỉ Nhược. Ngờ đâu việc lại không đúng như thế, sinh ra việc nọ chuyện kia, dần dà chân tướng lộ ra, hai nàng Triệu Chu ai thiện ai ác lúc thế này lúc thế khác, lại thấy cũng may mình chưa thành hôn với Chu Chỉ Nhược để thành lầm lỡ, còn Triệu Mẫn công nhiên chống lại cha anh, chẳng còn gì phải khó nghĩ nữa. Ngờ đâu Triệu Mẫn không từ biệt mà ra đi, nay Chu Chỉ Nhược lại đặt câu hỏi như thế này.
    Chu Chỉ Nhược thấy chàng trầm ngâm không đáp, nói:
    - Thiếp hỏi chàng chẳng qua chỉ là câu chuyện mộng huyễn. Tiểu Siêu nay đã là xử nữ giáo chủ của Minh Giáo Ba Tư, còn thiếp ... thiếp lại sát hại Ân cô nương. Trong bốn người nay chỉ còn một mình cô nương họ Triệu. Thiếp hỏi chàng nếu như cả bốn người đều bình yên vô sự ở bên cạnh thì chàng tính sao?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Chỉ Nhược, việc này anh đã nghĩ ngợi nhiều lắm rồi, dường như không thể nào quyết định được, nhưng đến hôm nay thì anh biết người ai thực lòng yêu hơn cả là ai rồi.
    Chu Chỉ Nhược hỏi dồn:
    - Ai thế? Có ... có phải là Triệu cô nương không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Quả là như thế. Hôm nay anh tìm nàng không ra, thật chỉ mong chết quách cho xong. Nếu như từ nay không còn gặp lại nàng thì chắc anh cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tiểu Siêu xa anh mà đi, lòng anh biết bao đau khổ. Biểu muội từ trần anh cũng thật xót xa, em ... em rồi ra như thế, anh lòng càng chua chát lại thêm tiếc nuối dày vò. Thế nhưng, Chỉ Nhược, anh cũng chẳng dối em làm gì, nếu đời này anh không còn gặp lại Triệu cô nương, thì thà anh chết còn hơn. Cái tâm ý đó trước nay anh chưa từng có với ai bao giờ.
    Chàng đối với Ân Ly, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu, Triệu Mẫn bốn người vẫn tưởng không ai hơn kém, nhưng hôm nay khi Triệu Mẫn bỏ đi chàng mới hiểu được rằng, chính nàng là người trong lòng chàng coi nặng hơn cả, so với ba nàng kia có khác hơn.
    Chu Chỉ Nhược nghe chàng nói như thế, u uất nói:
    - Hôm đó ở Đại Đô, em thấy chàng đến quán rượu gặp cô ta đã biết ngay trong tim chàng ai là người sâu nặng hơn cả. Có điều em vẫn si tâm vọng tưởng, nếu như cùng chàng ... nếu như cùng chàng thành thân rồi, sẽ ... sẽ khiến chàng hồi tâm chuyển ý, ai ngờ ... ai ngờ ... lại cũng chẳng đến đâu.
    Trương Vô Kỵ buồn rầu:
    - Chỉ Nhược, anh đối với em trước sau một niềm kính trọng, đối với biểu muội Ân gia thật là cảm kích sâu xa, đối với Tiểu Siêu tội nghiệp thương xót, còn như với Triệu cô nương thì ... thì trong lòng ... trong lòng quả là ghi xương tạc dạ hết bụng yêu thương.
    Chu Chỉ Nhược lẩm bẩm nhắc lại:
    - Ghi xương tạc dạ hết bụng yêu thương, ghi xương tạc dạ hết bụng yêu thương.
    Nàng ngừng lại một hồi rồi nói nhỏ:
    - Vô Kỵ ca ca ... thiếp đối với chàng cũng hết bụng thương yêu ghi xương tạc dạ, chàng có biết nỗi niềm đó hay chăng?
    Trương Vô Kỵ hết sức cảm động, nắm chặt tay nàng dịu dàng nói:
    - Chỉ Nhược, sao anh lại không biết? Tấm lòng của em đối với anh, đời này kiếp này anh chẳng biết làm sao báo đáp. Anh ... anh thật có lỗi với em.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Chàng chẳng có lỗi gì với em cả, chàng lúc nào cũng thật tốt đối với em, chẳng lẽ em không biết hay sao? Em hỏi chàng: Nếu như Triệu cô nương phen này không từ biệt ra đi chàng vĩnh viễn không bao giờ gặp lại, ví như nàng bị kẻ gian giết chết rồi, ví như nàng thay lòng đổi dạ, chàng ... chàng sẽ ra sao?
    Trương Vô Kỵ trong lòng đau khổ đã lâu nay nghe nói như thế, không còn nhịn nổi nước mắt ứa ra, nghẹn ngào nói:
    - Anh ... anh cũng không biết nữa. Nói cho cùng, trên trời dưới đất, anh thể nào cũng phải tìm nàng cho bằng được mới thôi.
    Chu Chỉ Nhược thở dài nói:
    - Nàng ta chẳng thay lòng đổi dạ đâu, chàng muốn kiếm Triệu cô nương cũng chẳng khó gì.
    Trương Vô Kỵ vừa kinh hoàng vừa sung sướng, đứng phắt dậy hỏi:
    - Nàng đang ở đâu? Chỉ Nhược, mau nói cho anh nghe.
    Đôi mắt trong sáng của Chu Chỉ Nhược nhìn thẳng vào mặt Trương Vô Kỵ, thấy chàng vui mừng như muốn phát điên, thủng thẳng nói:
    - Chàng đối với thiếp chưa từng bao giờ quan tâm đến thế. Nếu chàng muốn biết Triệu cô nương nay ở đâu thì phải bằng lòng làm cho em một điều, nếu không mãi mãi chàng sẽ không gặp lại cô ta đâu.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Em muốn anh làm cho em điều gì?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Việc đó bây giờ thiếp chưa nghĩ ra, mai sau bao giờ nghĩ được thì sẽ nói cho chàng hay. Nói chung việc đó không vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng không ngăn trở đại nghiệp quang phục đất nước, cũng không làm tổn thương đến thanh danh Minh Giáo hay bản thân chàng nhưng ắt là không phải dễ dàng đâu.
    Trương Vô Kỵ ngẩn ngơ, nghĩ thầm: ?Trước đây Mẫn muội bảo ta làm ba việc, cũng nói là không vi phạm đạo hiệp nghĩa, tính cho đến nay nàng chỉ mới nói ta làm hai điều. Hai việc đó quả thật không phải dễ, sao bây giờ Chỉ Nhược cũng lại học cái mửng đó với ta??.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Chàng bằng lòng hay không cũng ở mình. Có điều đại trượng phu nói ra phải giữ lời, đã bằng lòng rồi thì khi việc đến không thể lần khân được đâu.
    Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:
    - Em nói việc đó không vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng không ngăn trở việc quang phục, không tổn thương thanh danh Minh Giáo và bản thân anh, phải không?
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Đúng thế.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vậy thì được, nếu quả không vi phạm đạo hiệp nghĩa, không làm hỏng đại nghiệp quang phục, anh bằng lòng làm cho em.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Vậy thì mình vỗ tay lập lời thề.
    Nàng đưa tay ra cho chàng đập vào. Trương Vô Kỵ biết rằng một khi mình đã đập tay xuống lập lời thề rồi thì trên vai mình lại mang thêm một cái gông hết sức nặng nề, nàng con gái họ Chu này bề ngoài hiền thục nho nhã nhưng bụng dạ mưu mô, hành sự sắc sảo thật chẳng kém gì Triệu Mẫn, nên đưa tay lên mà vẫn lừng chừng không dám đánh xuống.
    Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:
    - Chàng chỉ nhận lời em làm một chuyện là trong khoảnh khắc sẽ gặp lại người trong mộng ngay.
    Trương Vô Kỵ lòng rộn ràng, không còn nghĩ ngợi gì thêm nữa, giơ tay đánh xuống ba lần. Chu Chỉ Nhược mủm mỉm:
    - Chàng xem ai đây?
    Nàng đưa tay vạch bụi cây phía sau, thấy đằng sau đám lá một người ngồi đó, mặt như cười mà không ra cười, chẳng là Triệu Mẫn thì còn ai?
    Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa sợ kêu lên:
    - Mẫn muội!
    Đột nhiên từ mấy trượng ở đằng xa, có tiếng con gái ?Ồ? lên một tiếng, dường như đột nhiên thấy Triệu Mẫn xuất hiện không khỏi ngạc nhiên kêu thất thanh. Tiếng kêu đó tuy thật nhỏ nhưng Trương Vô Kỵ đã nghe thấy rõ ràng.
    Chàng còn đang sững sờ, trong đầu xoay chuyển biết bao nhiêu ý nghĩ, chầm chậm đưa tay ra nắm lấy tay Triệu Mẫn, hai bàn tay chạm nhau thấy tay nàng dường như cứng đơ lập tức hiểu ra, hẳn là sáng này không từ biệt mà bỏ đi chạy kiếm đâu cũng không thấy, hóa ra đã bị Chu Chỉ Nhược bắt giữ rồi, điểm huyệt nàng dấu ở nơi đây. Chu Chỉ Nhược cố ý đưa chàng đến tận đây mới ngồi nói chuyện, cốt để Triệu Mẫn nghe rõ từng câu. Nếu như chàng vì không muốn Chu Chỉ Nhược phải đau lòng nên xuôi theo cho nàng vui, nói rằng đối với nàng tình ý nồng thắm, hay cùng nàng ôm ấp một phen thì đã rơi vào kế của cô ta, khiến cho Triệu Mẫn không thể không bỏ đi. Chàng nghĩ ra chuyện ấy trong lòng không khỏi kêu thầm: ?Thật hú vía?, mồ hôi lạnh trên lưng chảy ra đầm đìa, tiện tay bắt mạch cho Triệu Mẫn thấy khí huyết vận hành như thường, không có triệu chứng gì là bị thương.
    Dưới ánh trăng suông thấy nàng đầu mày cuối mắt tràn đầy vẻ tươi cười, quả thật kiều mị khả ái không để đâu cho xiết, hẳn là những gì chàng đối đáp với Chu Chỉ Nhược nàng đều nghe cả. Nàng tuy không cử động được, miệng không nói được nhưng nghe chàng thổ lộ tâm sự ở sau lưng mình, đối với nàng một lòng ghi xương tạc dạ thương yêu, tình ý nồng nàn trong lòng không khỏi bừng lên rạng rỡ.
    Chu Chỉ Nhược cúi xuống ghé tai nói nhỏ mấy câu với Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ cũng thì thầm đáp lại mấy câu. Chu Chỉ Nhược nổi giận quát lớn:
    - Trương Vô Kỵ, ngươi không coi ta vào đâu, thử xem lại coi nào? Triệu cô nương trúng độc như thế này liệu có sống nổi hay không?
    Trương Vô Kỵ kinh hoảng lắp bắp:
    - Nàng ... nàng trúng độc sao? Cô hạ độc đấy ư?
    Chành cúi xuống xem xét, vạch mắt bên trái Triệu Mẫn ra coi bỗng thấy sau lưng tê đi, đã bị điểm trúng huyệt đạo. Trương Vô Kỵ kêu lên ?Ối chao? một tiếng, thân hình lảo đảo. Chu Chỉ Nhược ra tay nhanh như gió, ngón tay thon vận kình điểm luôn trên vai, bên hông, sau lưng năm nơi đại huyệt.
    Trương Vô Kỵ ngã ngửa, chỉ thấy ánh sáng xanh lóe lên, Chu Chỉ Nhược đã rút phắt trường kiếm đưa vào ngực chàng, quát lên:
    - Đã làm thì làm cho trót, hôm nay lấy mạng ngươi cho xong. Nếu không hồn ma Ân Ly cứ quấn quí theo ta, xem ra ta cũng không còn sống được nữa, tất cả cùng chết với nhau một lượt.
    Nàng nói xong giơ kiếm lên toan đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.
    Bỗng nghe từ đằng sau có tiếng một thiếu nữ kêu lên:
    - Khoan đã! Chu Chỉ Nhược, Ân Ly đã chết đâu.
    Chu Chỉ Nhược quay đầu lại thấy một thiếu nữ áo đen từ trong đám cỏ chạy vụt ra, vung tay điểm tới. Chu Chỉ Nhược nghiêng qua tránh được, người con gái đó quay đầu lại, dưới ánh trăng xiên xiên, thấy nàng mặt mày hết sức xinh xắn mặc dầu có mờ mờ mấy vết sẹo dài. Trương Vô Kỵ nhìn rõ, người đó chính là biểu muội Ân Ly, những cục sưng trên mặt đã mất hết, tuy những vạch ngang vạch dọc vẫn còn nhưng không dấu được vẻ xinh tươi, chẳng khác gì cô bé con tú lệ đi theo Kim Hoa bà bà đến Hồ Điệp Cốc ngày nào.
    Chu Chỉ Nhược lùi lại hai bước, tay trái che lên ngực, mũi kiếm trong tay vẫn chỉ vào Trương Vô Kỵ, quát lên:
    - Ngươi còn tiến lên một bước nữa, ta sẽ một kiếm đâm y chết trước.
    Ân Ly không dám cử động vội nói:
    - Ngươi ... ngươi làm bấy nhiêu chuyện ác chưa đủ hay sao?
    Chu Chỉ Nhược hỏi lại:
    - Thế ngươi là người hay là ma?
    Ân Ly đáp:
    - Dĩ nhiên ta là người.
    Trương Vô Kỵ đột nhiên kêu lên:
    - Châu Nhi!
    Chàng nhảy vọt lên, ôm chặt lấy Ân Ly, lắp bắp:
    - Châu Nhi, em ... em ... nhớ anh lắm phải không?
    Biến cố đó xuất kỳ bất ý khiến Ân Ly sợ hãi đến kêu thét lên, bị Trương Vô Kỵ ôm chặt trong vòng tay không sao cử động được. Chu Chỉ Nhược cười hì hì nói:
    - Nếu không làm thế, cô đâu có chịu chui ra.
    Nàng quay lại giải khai huyệt đạo cho Triệu Mẫn, giúp nàng xoa bóp gân cốt cho máu chảy đều. Triệu Mẫn bị nàng bỏ nơi đây đã hơn nửa ngày, trong lòng hết sức tức giận, nhưng cũng may được nghe Trương Vô Kỵ thổ lộ tâm tình nên đổi giận làm vui. Có điều đột nhiên có thêm một nàng Ân Ly nên lại cũng thêm biết bao nhiêu mối khúc mắc, hận cũ chưa qua, sầu mới đã tới.
    Ân Ly hậm hực nói:
    - Anh làm gì mà ôm chặt lấy tôi? Triệu cô nương, Chu cô nương có ở đây còn ra thể thống gì nữa?
    Triệu Mẫn nói:
    - Thế nếu như tôi và Chu cô nương không có ở đây thì thành thể thống hay sao?
    Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Anh thấy em chết rồi sống lại, quá đỗi vui mừng. Biểu muội, em ... em mọi sự đầu đuôi thế nào?
    Ân Ly nắm lấy cánh tay chàng, xoay mặt chàng ra phía có ánh trăng, chăm chú nhìn một hồi, đột nhiên nắm tai Trương Vô Kỵ, nghiến răng véo một cái. Trương Vô Kỵ đau quá kêu lên:
    - Ối ối! Em làm gì thế?
    Ân Ly đáp:
    - Ngươi đúng là một tên xú bát quái đáng phải lăng trì tùng xẻo. Ngươi ... ngươi sao lại đem chôn sống ta, khiến ta chịu biết bao nhiêu đắng cay khổ sở.
    Nói xong đấm luôn vào ngực chàng ba cái, nghe kêu bình bịch. Trương Vô Kỵ không dám vận Cửu Dương thần công lên chống lại, cố chịu đựng ba quyền của nàng, cười nói:
    - Châu Nhi! Anh quả là tưởng em ... tưởng em chết rồi, khiến anh đau lòng khóc lóc một phen. Em còn sống thật hay biết bao nhiêu, quả đúng là trời xanh có mắt.
    Ân Ly giận dữ nói:
    - Trời xanh có mắt, còn tên xú bát quái là ngươi quả là mù, đến người chết hay sống cũng không biết. Ta không tin ngươi được, chắc ngươi hiềm ta mặt mũi sưng húp xấu xí, chẳng thèm chờ cho tắt hơi đã đem chôn ngay xuống đất. Ngươi là đứa vô lương tâm, là tên chết tiệt lang tâm đoản mệnh.
    Trương Vô Kỵ chỉ cười hì hì đứng nghe, gãi đầu nói:
    - Em cứ chửi đi, càng nhiều càng tốt. Lúc đó anh quả là hồ đồ, thấy em mặt mũi đầu máu me, không còn thở gì cả, tim cũng ngừng đập, lại tưởng rằng không còn đường cứu ...
    Ân Ly nhảy tới, giơ tay kéo tai chàng. Trương Vô Kỵ cười hềnh hệch tránh qua một bên, chắp tay nói:
    - Hảo Châu Nhi, tha cho anh!
    Ân Ly nói:
    - Ta không tha cho ngươi. Hôm đó chẳng hiểu sao ta tỉnh lại, thấy bốn bề chung quanh toàn là đá lạnh như băng. Ngươi định chôn sống ta sao lại chất lên người ta nào cành cây, nào đá cục? Sao không dùng đất mà vùi, ta không thở được có phải chết luôn rồi không?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tạ trời tạ đất, may quá anh chỉ đắp lên người cô bằng cành cây và đá cục.
    Chàng nhịn không nổi liếc qua Chu Chỉ Nhược một cái. Ân Ly hậm hực nói:
    - Người đó xấu xa lắm, tôi không muốn anh nhìn cô ta.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Sao lại thế?
    Ân Ly đáp:
    - Cô ta là hung thủ giết tôi, sao anh còn ngó ngàng đến cô ta làm gì?
    Triệu Mẫn chen vào:
    - Thế nhưng cô có chết đâu, cô ấy đâu có còn là hung thủ giết cô được.
    Ân Ly nói:
    - Nhưng tôi đã chết một lần, cô ta đã là hung thủ một lần rồi.
    Trương Vô Kỵ khuyên nhủ:
    - Hảo Châu Nhi, em thoát hiểm trở về, bọn ta ai cũng mừng hết sức. Em cứ thủng thẳng ngồi xuống đây, kể lại cho tất cả nghe em đã chết đi sống lại như thế nào.
    Ân Ly đáp:
    - Cái gì mà bọn ta hay không bọn ta. Tôi hỏi anh, anh nói bọn ta là gồm những ai?
    Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Ở đây chỉ có bốn người, lẽ dĩ nhiên là gồm anh, Chu cô nương và Triệu cô nương.
    Ân Ly cười khẩy nói:
    - Hứ, tôi không chết chắc anh còn có đôi phần hoan hỉ, chứ còn Chu cô nương và Triệu cô nương ư? Liệu họ có hoan hỉ hay không?
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Ân cô nương, hôm đó tôi nổi lòng xấu xa, làm hại đến cô, việc đó sau này thật hết sức ăn năn, ngay trong giấc ngủ cũng không yên ổn, nếu không hôm nay đột nhiên gặp lại cô trong rừng đâu có sợ hãi đến mức đó. Bây giờ thấy cô bình an không sao, miễn tội nghiệt cho tôi, có trời trên cao làm chứng lòng tôi cực kỳ sung sướng.
    Ân Ly nghiêng đầu ngẫm nghĩ một hồi, gật đầu nói:
    - Cái đó cũng có lý vài phần. Ta vốn định tìm cô hỏi tội nếu đã như thế thì thôi vậy.
    Chu Chỉ Nhược quì phục xuống, nghẹn ngào nói:
    - Tôi ... tôi quả thực đối với cô chẳng ra gì.
    Ân Ly trước nay tính tình hay chấp nê nhưng nay thấy Chu Chỉ Nhược chịu lép vế, trong lòng cũng thấy an ủi vội đỡ cô ta dậy nói:
    - Chu tỉ tỉ, chuyện đã qua không ai nên để trong lòng, dẫu sao thì tôi cũng chưa chết.
    Nàng cầm tay Chu Chỉ Nhược, hai người cùng ngồi xuống. Ân Ly vuốt lại mái tóc kể tiếp:
    - Cô lấy kiếm vạch trên mặt tôi mấy nhát cũng không phải là không tốt. Mặt tôi vốn sưng vù, trúng kiếm rồi bao nhiêu máu độc chảy ra hết, vết sưng trên mặt dần dần xẹp đi.
    Chu Chỉ Nhược thấy thế lòng thật vui mừng không biết nói sao cho phải. Trương Vô Kỵ đáp:
    - Anh và nghĩa phụ, Chỉ Nhược còn ở lại trên đảo rất lâu. Châu Nhi, em ở trong mộ chui ra, sao không tìm đến bọn ta?
    Ân Ly giận dữ đáp:
    - Tôi không muốn gặp anh. Anh và Chu cô nương lúc ấy chàng chàng thiếp thiếp, nghe mà muốn lộn ruột. Hừ, ?Từ nay trở đi anh chỉ có yêu em hơn, chiều em hơn thôi. Hai đứa mình vợ chồng là một, lẽ nào anh lại còn chọc giận em?.
    Nàng bắt chước giọng Trương Vô Kỵ nói mấy câu đó, rồi lại bắt chước Chu Chỉ Nhược trả lời:
    - ?Nếu như em có làm điều gì sai lầm, đắc tội với anh, anh có đánh em, mắng em, giết em không? Em từ nhỏ không được cha mẹ dạy dỗ, không khỏi có lúc hồ đồ?.
    Ân Ly tằng hắng một tiếng, lại bắt chước giọng nam ồm ồm nói:
    - ?Chỉ Nhược, em là vợ yêu quí của anh dẫu có sai sót điều gì anh cũng không nói nặng em nửa câu đâu.?
    Nàng chỉ tay lên vầng trăng đang ở phía tây nói:
    - ?Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta?.
    Thì ra đêm hôm đó Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược sau khi đã đính ước rồi nói với nhau những gì, Ân Ly đều nghe thấy hết, lúc này kể lại một lượt khiến cho Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, Trương Vô Kỵ cũng sượng sùng ngượng nghịu. Chàng lén liếc Triệu Mẫn một cái, thấy nàng giận đến mặt trắng bệch nên đưa tay sang nắm cổ tay nàng. Triệu Mẫn lật tay một cái, hai móng tay dài cấu vào lưng bàn tay chàng. Trương Vô Kỵ đau điếng nhưng không dám kêu lên thành tiếng, cũng không dám động đậy.
    Ân Ly đưa tay vào bọc, lấy ra một thanh gỗ, vứt vào trước mặt Trương Vô Kỵ nói:
    - Anh nhìn cho rõ xem đây là cái gì?
    Trương Vô Kỵ vừa thoạt nhìn, thấy có khắc một hàng chữ: ?Ái thê Châu Nhi Ân Ly chi mộ. Trương Vô Kỵ cẩn lập? chính là tấm bia gỗ chàng đã dựng nơi mộ của Ân Ly. Ân Ly hậm hực nói:
    - Tôi từ trong một bò ra, thấy thanh gỗ này chẳng hiểu ra sao? Tên lang tâm đoản mệnh Trương Vô Kỵ nào đây? Tôi suy nghĩ mãi không hiểu được, mãi sau nghe lén hai người này nói chuyện ?Vô Kỵ ca ca? này, ?Vô Kỵ ca ca? nọ mới chợt hiểu ra. Thì ra Trương Vô Kỵ chính là Tăng A Ngưu, Tăng A Ngưu chính là Trương Vô Kỵ. Ngươi là tên vô lương tâm lừa dối ta đến nỗi này!
    Nói xong giơ thanh gỗ lên đánh mạnh xuống đầu Trương Vô Kỵ, nghe cạch một tiếng gãy ra làm mấy mảnh văng tung tóe. Triệu Mẫn giận dữ nói:
    - Cái gì mà cứ động một tí là đánh người ta?
    Ân Ly cười khanh khách nói:
    - Tôi đánh y thì đã sao nào? Cô đau lòng lắm phải không?
    Triệu Mẫn mặt đỏ lên nói:
    - Đó là anh ấy nhường nhịn cô, cô đừng có lấn lướt.
    Ân Ly cười nói:
    - Cái gì mà lấn lướt? Cô cứ yên tâm, tôi không có tranh giành cái tên xú bát quái này với cô đâu, tôi chỉ một lòng một dạ thương yêu một người, là thằng bé Trương Vô Kỵ đã cắn chảy máu tay tôi nơi Hồ Điệp Cốc. Còn tên quái trước mặt tôi đây, gọi y là Tăng A Ngưu cũng thế, gọi y là Trương Vô Kỵ cũng thế, tôi chẳng yêu thương một tí nào.
    Nàng quay đầu qua nhỏ nhẹ nói với Trương Vô Kỵ:
    - A Ngưu ca ca, anh trước sau đối với em thật tốt, em thật là cảm kích. Thế nhưng lòng em đã sớm trao cho tên lang tâm hung ác tiểu Trương Vô Kỵ kia rồi. Anh không phải là y, không, không phải là y ...
    Trương Vô Kỵ lấy làm lạ lùng nói:
    - Chính anh là Trương Vô Kỵ, sao lại ... sao lại ...
    Ân Ly dịu dàng nhìn chàng, ngơ ngẩn một hồi, ánh mắt thần tình biến đổi sau cùng lắc đầu nói:
    - A Ngưu ca ca, anh không hiểu gì cả. Nơi sa mạc bên Tây Vực, em với anh đồng sinh cộng tử, ở nơi hòn đảo trên biển cả, anh đối với em hết lòng hết dạ. Anh là người tốt bụng nhưng em đã nói với anh rồi, lòng em sớm trao cho tên Trương Vô Kỵ. Em sẽ đi tìm y, nếu em tìm được anh thử nghĩ xem y có đánh em, chửi em, cắn em không?
    Nàng nói xong không đợi cho Trương Vô Kỵ trả lời, quay mình lặng lẽ đi thẳng. Trương Vô Kỵ bấy giờ mới biết, người mà nàng thực bụng yêu thương là một tên Trương Vô Kỵ tưởng tượng trong tim, là tên Trương Vô Kỵ nàng nhớ trong đầu từng gặp nơi Hồ Điệp Cốc, đã từng đánh nàng cắn nàng, một tên Trương Vô Kỵ ngang bướng hung hăng, chứ không phải Trương Vô Kỵ đàng hoàng chân chính, nhân hậu khoan thứ nay đã trưởng thành ngay trước mặt nàng.
    Trong lòng chàng ba phần thương xót, ba phần lưu luyến, lại thêm ba phần an ủi, nhìn theo bóng lưng nàng khuất dần trong bóng đêm. Chàng biết Ân Ly chỉ nhớ tới đứa trẻ bạo tợn trong Hồ Điệp Cốc lúc nào cũng chỉ muốn đi tìm y. Lẽ dĩ nhiên nàng làm sao tìm thấy được nhưng cũng có thể nói, nàng đã tìm ra rồi vì thiếu niên đó đã mãi mãi nằm sâu trong đáy lòng. Người thực việc thực làm sao có thể bằng được bóng hình đang ở trong tim?
    Chu Chỉ Nhược thở dài một tiếng nói:
    - Cũng chẳng qua lỗi tại em, làm cho nàng bây giờ thành khùng khùng điên điên như vậy.
    Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại nghĩ: ?Quả nàng có phần hơi dở hơi thật nhưng đó chính là lỗi ở ta. Thế nhưng so với con người đầu óc tỉnh táo, chắc gì đã sướng hơn nàng??.
    Triệu Mẫn trong đầu lại nghĩ đến một chuyện khác. Ân Ly đến rồi lại đi, còn Chu Chỉ Nhược thì sao? Nếu Ân Ly không chết, Tạ Tốn cũng bình an vô sự, võ công trong kiếm Ỷ Thiên, binh thư trong đao Đồ Long luôn cả thanh đao nữa nay cũng đã thuộc về Trương Vô Kỵ rồi, những tội lỗi mà Chu Chỉ Nhược phạm phải nay xem ra cũng chẳng có gì ghê gớm nữa. Dĩ nhiên Tống Thanh Thư vì nàng mà giết chết Mạc Thanh Cốc nhưng đó là tội của riêng Tống Thanh Thư, việc đó Chu Chỉ Nhược không dính líu tới, cũng chẳng xúi bẩy gì. Trương Vô Kỵ đã từng có ước định hôn nhân với cô ta, mà chàng nào có phải là người không giữ lời, tuyệt tình tuyệt nghĩa được.
    Chu Chỉ Nhược đứng lên nói:
    - Thôi mình đi chứ?
    Triệu Mẫn hỏi lại:
    - Đi đâu?
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Lúc tôi ở trong chùa Thiếu Lâm có thấy Bành Oánh Ngọc hòa thượng lật đật đi kiếm anh, dường như có chuyện gì khẩn cấp trong Minh Giáo.
    Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm: ?Ta không thể vì chuyện nhi nữ thường tình làm hỏng đại sự của Minh Giáo?. Chàng vội nói:
    - Vậy mình mau đến coi.
    Ba người liền rảo bước ra đi, chẳng mấy chốc đã đến nơi doanh trướng đóng quân của Minh Giáo. Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Oánh Ngọc đang nóng ruột sai người đi khắp nơi kiếm giáo chủ, thấy chàng trở về, ai nấy vui mừng, nhưng lại thấy thêm Triệu Chu hai nàng cùng đi không khỏi ngạc nhiên.
    Trương Vô Kỵ thấy mọi người mặt mày ủ rũ, xem chừng có chuyện không hay, vội hỏi:
    - Bành đại sư, ông có chuyện kiếm tôi chăng?
    Bành Oánh Ngọc chưa kịp trả lời, Chu Chỉ Nhược đã nắm tay Triệu Mẫn nói:
    - Thôi mình ra bên kia ngồi chơi.
    Triệu Mẫn biết nàng tránh không muốn nghe chuyện bí mật của Minh Giáo nên hai người cùng sóng bước đi ra. Dương Tiêu, Phạm Dao cả bọn thấy vậy cũng thật kỳ lạ, nghĩ thầm: ?Hôm làm lễ cưới ở Hào Châu, hai vị cô nương này đánh nhau một trận thật là long trời lở đất, lúc này sao lại thân mật như chị với em, không biết giáo chủ làm cách nào mà giảng hòa cho hai người được, đúng là có tài thì làm gì cũng khéo, môn Càn Khôn Đại Na Di công phu này thật đáng nể quá?.
    Bành Oánh Ngọc đợi cho Triệu Chu hai nàng đi rồi mới nói:
    - Khải bẩm giáo chủ, bên mình thua một trận lớn ở Hào Châu, Hàn Sơn Đồng Hàn huynh tuẫn nạn rồi.
    Trương Vô Kỵ đau đớn kêu lên:
    - Ối trời!
    Bành Oánh Ngọc nói tiếp:
    - Hiện nay quân vụ nơi Hoài Tứ, do Chu Nguyên Chương huynh đệ chỉ huy. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân hai huynh đệ nghe được tin đó, đã dẫn binh đến ứng viện, cả Hàn Lâm Nhi cũng đi theo. Việc khẩn cấp quá nên không kịp đợi lệnh của giáo chủ.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Như thế là phải.
    Đang lúc nghị luận tình hình, Ân Dã Vương hấp tấp chạy vào nói:
    - Khải bẩm giáo chủ, Cái Bang có người đến báo tin đã tìm ra được tung tích của Trần Hữu Lượng.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Ở đâu thế?
    Ân Dã Vương đáp:
    - Tên khốn kiếp đó trà trộn vào làm bộ hạ của Từ Thọ Huy huynh đệ trong bản giáo, nghe nói Từ huynh đệ tin dùng y lắm.
    Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:
    - Nếu quả như thế mình không nên hành sự một cách vội vã. Thưa cậu, phiền cậu sai người thông tri cho Từ huynh, tên Trần Hữu Lượng đó thâm độc giảo quyệt lắm, để y ở gần sẽ gây ra hậu hoạn, nhất quyết không nên thân cận làm gì.
    Ân Dã Vương tuân lời nhưng lại nói thêm:
    - Sao không một đao giết y đi cho xong, cứ để ta lo liệu.
    Trương Vô Kỵ còn đang suy nghĩ bỗng có giáo chúng đưa đến một lá thư khẩn cấp của Từ Thọ Huy. Dương Tiêu nhíu màu nói:
    - Hỏng rồi! Hỏng rồi! Lại để y đi trước một bước.
    Trương Vô Kỵ mở thư ra coi qua, thì ra là tờ bẩm báo của Từ Thọ Huy nói rằng Trần Hữu Lượng trước kia có tội với giáo chủ, biết là lầm lỗi nên rất hối hận, hiện nay thành tâm gia nhập bản giáo, quyết ý đoái công chuộc tội xin giáo chủ cho y một đường sống. Trương Vô Kỵ liền đưa cho Dương Tiêu, Ân Dã Vương cả bọn cùng coi.
    Ân Dã Vương nói:
    - Từ huynh đệ bị gã này lừa rồi thể nào về sau cũng có chuyện.
    Dương Tiêu thở dài:
    - Trần Hữu Lượng thật là âm hiểm nhưng nếu đem y giết đi thì người ta sẽ bảo mình hẹp hòi, trong bụng vẫn nhớ oán thù cũ, không có lượng bao dung khiến cho anh hùng thiên hạ e ngại.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Lời Dương tả sứ chí phải. Bành đại sư, ông cùng Từ huynh chơi thân với nhau, nhờ ông đến khuyên nhủ, cẩn thận đề phòng, đừng giao binh mã đại quyền cho y.
    Bành Oánh Ngọc vâng lời. Ngờ đâu Từ Thọ Huy không nghe lời khuyên, cực kỳ tín nhiệm Trần Hữu Lượng, sau chết vì tay y. Trần Hữu Lượng thống suất bốn lộ nghĩa quân của Minh Giáo, tự xưng là Hán Vương, tranh đoạt thiên hạ với nghĩa quân Đông lộ, cho tới trận đại chiến nơi hồ Bà Dương[5] mới thua trận chết. Trong mấy năm liền y gây ra biết bao nhiêu tội lỗi khiến cho anh hùng hào kiệt trong Minh Giáo tử thương rất nhiều.
    Đêm hôm đó Trương Vô Kỵ cùng bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc bàn luận, phân phối binh lính đi các nơi tiếp ứng. Đến khi hội nghị đã xong thì đã khuya. Sáng hôm sau Triệu Mẫn nói:
    - Chu tỉ tỉ đêm hôm qua đã ra đi, không kịp từ biệt chàng.
    Trương Vô Kỵ bồi hồi, nghĩ lại đã lâu không về thăm Trương Tam Phong, bây giờ nhớ nhung nên cùng Triệu Mẫn, Tống Thanh Thư, Du Liên Châu cùng về núi Võ Đương.
    Núi Thiếu Thất không xa núi Võ Đương bao nhiêu, chỉ vài ngày đã đến. Trương Vô Kỵ theo Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình vào bái kiến Trương Tam Phong, rồi qua thăm Tống Viễn Kiều và Du Đại Nham.
    Tống Viễn Kiều nghe nói con mình đang ở bên ngoài, mặt tím lại, tay cầm trường kiếm chạy vụt ra. Trương Vô Kỵ cả bọn biết có khuyên giải cũng không xong, không khuyên cũng không được nên cùng theo ra ngoài đại sảnh. Trương Tam Phong cũng ra theo.
    Tống Viễn Kiều quát lớn:
    - Tên súc sinh bất hiếu khốn kiếp đâu rồi?
    Ông trông thấy Tống Thanh Thư nằm trên cáng, đầu quấn đầy băng vải trắng, đến mắt cũng che kín mít liền nhắm ngay người y đâm thẳng trường kiếm ra, nhưng nửa chừng tay chùn lại không đâm nổi. Trong một thoáng, ông nghĩ đến tình cha con, nghĩa đồng môn, trong lòng ngổn ngang trăm mối, xoay kiếm lại đâm thẳng vào bụng mình.
    Trương Vô Kỵ vội vàng giơ tay ra đoạt thanh kiếm trong tay Tống Viễn Kiều, khuyên:
    - Đại sư bá, chớ có như thế. Việc này giải quyết ra sao, để xin thái sư phụ dạy bảo.
    Trương Tam Phong thở dài:
    - Phái Võ Đương chúng ta có một đứa đệ tử chẳng ra gì, Viễn Kiều, chẳng phải mình con bất hạnh. Cái thứ nghịch tử này, có cũng như không!
    Ông đẩy chưởng phải ra, nghe bộp một tiếng đánh ngay vào ngực Tống Thanh Thư khiến cho tạng phủ vỡ nát chết ngay. Tống Viễn Kiều quì xuống khóc nói:
    - Sư phụ, đệ tử không biết dạy con, để lụy thất đệ phải chết dưới tay y. Đệ tử đối với lão nhân gia và thất đệ biết thế nào cho phải đây?
    Trương Tam Phong giơ tay đỡ học trò dậy nói:
    - Việc này con quả có sai lầm, chức vị chưởng môn bản phái, từ hôm nay do Du Liên Châu tiếp nhiệm. Con chuyên tâm nghiên cứu cho tinh vi thái cực quyền pháp, còn tục vụ chưởng môn không cần phải lo tới làm gì.
    Tống Viễn Kiều bái tạ phụng mệnh. Du Liên Châu từ chối không nhận song Trương Tam Phong cương quyết giao cho nên đành bái lãnh.
    Mọi người thấy Trương Tam Phong đánh chết Tống Thanh Thư, cách chức Tống Viễn Kiều, qui môn nghiêm nhặt như thế trong lòng ai nấy kinh hãi. Trương Tam Phong lại hỏi tình hình anh hùng đại hội ra sao, nghĩa quân kháng Nguyên thế nào, đối với Trương Vô Kỵ càng thêm ân cần.
    Triệu Mẫn đi tới khấu đầu trước Trương Tam Phong, tạ tội năm xưa vô lễ. Trương Tam Phong cười khà khà, tuyệt nhiên không để bụng. Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn bỏ mình cũng toàn do những thủ hạ cũ của cô ta như A Đại, A Nhị mà ra, nhưng khi đó Triệu Mẫn chưa ra đời, không thể nào trách nàng được. Trương Tam Phong biết được nàng cam tâm chống lại cha anh để đi theo Trương Vô Kỵ bèn cười:
    - Hay lắm, hay lắm! Thật khó lắm thay, thật khó lắm thay.
    Trương Vô Kỵ ở trên núi Võ Đương cùng Trương Tam Phong tụ hội mấy ngày rồi cùng Triệu Mẫn trở về Hào Châu. Trên đường đi chỗ nào cũng nghe tin quân bản giáo thắng trận, lại nghe đâu đâu cũng đang nổi lên, Cô Tô có Trương Sĩ Thành, Đài Châu có Phương Quốc Trân, tuy không thuộc Minh Giáo nhưng cũng đều là các lực lượng kháng Nguyên, Trương Vô Kỵ trong lòng rất đỗi vui mừng, cùng Triệu Mẫn ngày đêm chạy về hướng đông, trước mắt sơn hà chẳng mấy chốc khôi phục được, mong sao thiên hạ thái bình, trăm họ an cư lạc nghiệp, không uổng mấy năm nay vào sinh ra tử, lo lắng ngược xuôi.
    Chành không muốn kinh động anh em nên trên đường không gặp gỡ các tướng lãnh nghĩa quân, chỉ ngầm dò hỏi thấy nghĩa quân kỷ luật nghiêm minh, không quấy nhiễu bách tính đâu đâu cũng ca tụng nguyên soái Chu Nguyên Chương và đại tướng quân Từ Đạt.
    Hôm đó chàng đến bên ngoài thành Hào Châu, Chu Nguyên Chương được tin liền sai Thang Hòa, Đặng Dũ hai tướng đem quân ra nghênh đón, mời vào tân quán. Thanh Hòa bẩm:
    - Chu nguyên soái và Từ đại tướng quân, Thường tướng quân đang lúc thương nghị quân tình khẩn cấp, nghe tin giáo chủ đến nơi, thật mừng quá đỗi. Có điều quân vụ cần kíp, không tự mình ra đón được, xin giáo chủ tha cho cái tội không cung kính.
    Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Chúng ta anh em cả, sao còn hiềm chuyện hư văn đón đưa? Việc quân mới là quan trọng.
    Tối hôm đó ở tân quán bày đại tiệc, hai tướng Thang Hòa, Đặng Dũ ngồi tiếp. Rượu được ba tuần, Chu Nguyên Chương cùng đại tướng Hoa Vân lật đật chạy đến, trước bàn quì phục xuống. Trương Vô Kỵ vội đỡ lên, Chu Nguyên Chương tự mình rót rượu, cung kính mời Trương Vô Kỵ uống đủ ba chén, chàng liền đưa lên uống cạn.
    Chu Nguyên Chương lại mời Triệu Mẫn, Triệu Mẫn cũng uống ngay. Trên bàn rượu nói chuyện quân tình các nơi, Chu Nguyên Chương bẩm lại việc đánh thành chiếm đất các chiến tích thế nào, ngôn ngữ có phần đắc ý, Trương Vô Kỵ hết sức khen ngợi.
    Còn đang truyện trò, đại tướng Liêu Vĩnh Trung hùng hổ tiến vào trong phòng, bái kiến giáo chủ xong ghé tai nói nhỏ với Chu Nguyên Chương:
    - Bắt được rồi!
    Chu Nguyên Chương đáp:
    - Hay lắm!
    Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người kêu lên:
    - Oan ta quá! Oan ta quá!
    Trương Vô Kỵ nghe tiếng người kêu oan chính là Hàn Lâm Nhi, lạ lùng hỏi:
    - Có phải Hàn huynh đệ đó chăng? Chuyện gì thế?
    Chu Nguyên Chương đáp:
    - Khải bẩm giáo chủ, tên Hàn Lâm Nhi cấu kết với Thát tử, toan tính chuyện nội ứng ngoại hợp, phản lại bản giáo.
    Trương Vô Kỵ kinh hãi nói:
    - Hàn huynh đệ trung thành nhân nghĩa, làm sao có chuyện đó được? Mau đem y vào đây, để chính ta hỏi y xem nào ...
    Nói chưa dứt lời, bỗng thấy đầu váng mắt hoa, trời đất như đổ sụp xuống, hôn mê không còn biết gì nữa. Tới khi tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thấy chân tay mình đã bị trói chặt bằng dây thừng, nhìn ra chỉ thấy tối đen, chàng kinh hãi không để đâu cho hết. Cũng may chàng còn thấy một thân hình mềm mại tựa vào ngực mình, thì ra Triệu Mẫn và chàng bị trói chung một chỗ, nhưng nàng vẫn còn chưa tỉnh.
    Chàng suy nghĩ biết ngay Chu Nguyên Chương có gian ý, hẳn là y nghĩ Minh Giáo mai sau thành công, Trương Vô Kỵ đương nhiên sẽ trở thành hoàng đế thành thử bỏ thuốc mê cực mạnh vào trong rượu tìm cách ám hại chàng. Trương Vô Kỵ thử vận khí thấy trong người không có gì khác lạ, công lực không mất, trong bụng cười thầm: ?Mấy sợi dây này tưởng trói nổi ta sao, đâu có dễ thế ! Lúc này Mẫn muội chưa tỉnh, chưa cần đi vội. Đợi đến khi trời sáng, trước mặt các giáo chúng ta sẽ nói huỵch toẹt gian mưu của y cho mọi người hay?. Nghĩ như thế chàng lặng lẽ dưỡng thần.
    Khoảng hơn một giờ sau, bỗng nghe tiếng mấy người đi đến phòng bên cạnh, bắt đầu nói chuyện, nghe thanh âm thì là Chu Nguyên Chương, Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân ba người.
    Chàng nghe Chu Nguyên Chương nói:
    - Người này bội phản bản giáo, đầu hàng Nguyên triều, chứng cứ đã rành rành không còn nghi ngờ gì nữa khiến ai nấy đều căm hận. Hai vị huynh đệ nghĩ xem mình phải làm thế nào?
    Y không đợi Từ Thường hai người trả lời lại nói liền:
    - Người đó tai mắt nhiều lắm, trong quân chỗ nào cũng có kẻ tâm phúc của y, mình chẳng nên nói đến tên y làm gì.
    Lại nghe Từ Đạt nói:
    - Chu đại ca, muốn thành đại sự không nên nề tiểu tiết, đã nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ để khỏi sinh ra hậu hoạn.
    Chu Nguyên Chương đáp:
    - Thế nhưng tên tiểu tặc này là thủ lãnh bọn ta, chúng ta chớ có vong ân phụ nghĩa. Cơ nghiệp này nói đúng ra chính là của y.
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Nếu đại ca sợ giết y trong quân sẽ sinh biến thì mình cứ lẳng lặng ra tay, khỏi phải mang tiếng cho đại ca.
    Chu Nguyên Chương trầm ngâm một lát rồi nói:
    - Từ Thường hai huynh đệ đã nói thế thì cứ thế mà làm. Có điều tiểu tặc này bình thời cũng có đôi chút ân đức với anh em trong bản giáo, hai vị huynh đệ lại vốn thân thiết cùng y, việc này chớ để tiết lộ ra ngoài. Ôi, hôm nay anh em mình định giết y, trong lòng thật là đau đớn.
    Từ Thường hai người cùng nói:
    - Vì phục quốc đại nghiệp, chuyện giao thiệp bằng hữu riêng tư không thể chu toàn được.
    Ba người nói chuyện xong cùng ra khỏi phòng. Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận thần công lên bứt đứt giây trói, ôm Triệu Mẫn lặng lẽ vượt tường mà ra. Chàng đứng trên bờ thành trong lòng không khỏi mang mang: ?Gã Chu Nguyên Chương kia vong ân phụ nghĩa thì đã đành. Từ Thường hai vị đại ca tình nghĩa với mình như thế, cũng chỉ vì mưu đồ phú quí mà cũng phản ta. Ba người đó đang nắm giữ nhiệm vụ quan trọng trong nghĩa quân, nếu ta đánh cho mỗi người một chưởng giết họ, e rằng nghĩa quân sẽ tan vỡ. Trương Vô Kỵ này vốn dĩ chẳng ham danh vị, Từ đại ca, Thường đại ca, hai người coi ta nhẹ quá?.
    Chàng trầm ngâm một hồi ôm Triệu Mẫn lặng lẽ bỏ đi. Ra khỏi thành rồi, chàng viết một phong thư, nhường chức vị giáo chủ Minh Giáo cho Dương Tiêu nhưng không đề cập chút nào chuyện trong thành Hào Châu.
    Trương Vô Kỵ nào có biết đâu, tên tiểu tặc mà Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đề cập đến là để chỉ Hàn Lâm Nhi, việc Trương Vô Kỵ đến Hào Châu hai người tuyệt nhiên không hay biết gì cả, mọi việc đều do Chu Nguyên Chương ngầm sắp đặt, cốt để khích cho Trương Vô Kỵ chán chường, thất vọng. Chu Nguyên Chương vốn dĩ e ngại thần dũng của Trương Vô Kỵ, lại thêm chàng là giáo chủ bản giáo, ai nấy đều kính phục, muốn giết chàng thì không dám, thành sự thì không nói gì, lỡ chuyện lộ ra hậu quả không biết thế nào. Y biết Trương Vô Kỵ chỉ coi việc phục quốc đại sự là trọng, đối với Từ Thường hai người thật chẳng khác gì anh em, chỉ cần để cho chàng nghe được câu chuyện ắt sẽ bỏ đi.
    Quả nhiên mọi sự hoàn toàn như y tính toán, Trương Vô Kỵ võ công tuy vô địch nhưng mưu trí thì kém Chu Nguyên Chương xa nên bị rơi vào gian mưu của kẻ kiêu hùng. Mặc dù chàng chưa từng mơ tưởng được lên làm hoàng đế nhưng mỗi lần nghĩ đến Từ Thường hai người coi ân nghĩa nhẹ như thế trong lòng không khỏi uất ức khôn nguôi.
    Còn như chuyện Hàn Lâm Nhi cấu kết với người Mông Cổ, đồ mưu phản bội vân vân cũng đều do y vu hãm. Sau khi Hàn Sơn Đồng chết đi, trong quân tôn Hàn Lâm Nhi lên làm chủ, Chu, Từ, Thường mọi người đều trở thành bộ thuộc của y. Chu Nguyên Chương giả một lá thư do chính Hàn Lâm Nhi viết thông đồng với địch, rồi đem tiền bạc đút lót cho người thân tín của y cáo mật cho Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. Từ Thường hai người tin tưởng ngay nhất định đòi giết cho bằng được. Chu Nguyên Chương lại còn giả nhân giả nghĩa nhất định không chịu mãi đến khi Từ Thường hai người nói đi nói lại mãi mới đành bằng lòng.
    Y đem Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn giam ngay ở phòng bên cạnh, liệu chừng võ công như chàng muốn bứt đứt giây trói thật dễ như trở bàn tay, lại sợ chàng thoát thân rồi sẽ tìm cách trả thù nên sau khi nói chuyện với Từ Thường hai người xong liền trốn biệt. Trương Vô Kỵ đi rồi, Chu Nguyên Chương liền sai Liêu Vĩnh Trung đem Hàn Lâm Nhi ra sông trấn nước chết, cái kế một mũi tên bắn hai con chim đó không lộ chút sơ hở nào.
    Về sau Dương Tiêu tuy kế nhiệm chức vụ giáo chủ Minh Giáo nhưng Chu Nguyên Chương đã đủ lông đủ cánh, dưới tay có cả trăm vạn hùng binh, Dương Tiêu tuổi già kém đức làm sao có thể tranh ngôi hoàng đế với y được. Chu Nguyên Chương lên ngôi xong, lại giở thủ đoạn nghiêm cấm Minh Giáo, đem tất cả những anh em trong Minh Giáo từng lập đại công giết cho kỳ hết. Thường Ngộ Xuân bị bệnh chết sớm, còn Từ Đạt cũng không qua khỏi kiếp nạn.
    * *??????? * Triệu Mẫn thấy Trương Vô Kỵ viết thư cho Dương Tiêu xong, tay còn cầm cây bút lông chưa để xuống, vẻ mặt không vui liền nói:
    - Vô Kỵ ca ca, chàng đáp lời làm cho em ba việc, việc thứ nhất là đi mượn thanh đao Đồ Long, việc thứ hai là hôm đó ở Hào Châu không được thành hôn với Chu tỉ tỉ, hai việc coi như đã xong rồi. Còn việc thứ ba, hừ, chàng không được nói rồi nuốt lời đấy nhé.
    Trương Vô Kỵ hoảng hốt lắp bắp hỏi lại:
    - Em ... em ... em lại có trò tinh quái gì bắt anh làm đây ...
    Triệu Mẫn cười tủm tỉm, nói:
    - Lông mày em nhạt quá, chàng vẽ lại cho em đi. Chuyện này có gì vi phạm đạo hiệp nghĩa trong võ lâm chăng?
    Trương Vô Kỵ cầm bút lên, cười nói:
    - Từ nay trở đi, anh sẽ ngày ngày vẽ lông mày cho em.
    Bỗng từ ngoài cửa sổ có tiếng ai đó cười khúc khích, nói:
    - Vô Kỵ ca ca, chàng cũng đã bằng lòng làm cho em một chuyện nữa đó.
    Chính là tiếng của Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ chăm chú viết thư, đâu có biết nàng đã ở ngoài song cửa từ bao giờ. Cánh cửa từ từ mở ra, khuôn mặt xinh tươi cười nửa miệng của Chu Chỉ Nhược thấp thoáng dưới ánh đèn, Trương Vô Kỵ giật mình:
    - Em ... em ... cũng lại đòi anh cái gì nữa đây?
    Chu Chỉ Nhược mỉm cười:
    - Lúc này thiếp chưa nghĩ ra, biết đâu hôm chàng bái đường thành thân với Triệu gia muội tử thiếp lại nghĩ ra không chừng.
    Trương Vô Kỵ quay đầu lại nhìn Triệu Mẫn, lại quay sang nhìn Chu Chỉ Nhược, trong đầu ngổn ngang trăm mối chẳng biết nên mừng hay lo, buông cây bút rơi cạch xuống bàn.
   

- o O o -

    [1] Hai câu này lấy từ kệ của Đạo Hạnh thiền sư (đời Lý): Tác hữu trần sa hữu, Vi không nhất thiết không.
    [2] Quân bị vây khốn nơi núi Ngưu Đầu [3] (tức 1368 ? 1644TL). Có thể việc này Kim Dung tiểu thuyết hóa dựa trên một nghiên cứu của Wu Han trong một bài viết nhan đề Minh giáo dữ Đại Minh đế quốc ? Manicheism and the Ming empire trong Tu-shih cha-chi, Peking 1961, tr 267 (trích lại theo John W. Dardess trong bài The Transformations of Messianic Revolt and the Founding of the Ming Dynasty, Journal of Asian Studies, V. 29, N. 3, tháng 5, 1970).
    Hai nghi vấn:
    - Nhà Minh có phải do Minh giáo mà ra không?
    - Trần Hữu Lượng có phải hậu duệ của Trần Ích Tắc từ Việt Nam sang hàng Nguyên không?
    Sẽ được trình bày trong Phụ Lục Cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên của Nguyễn Duy Chính.
    [4] Sách vở chép thủ cung là một giống thạch sùng (còn có tên là yển đình, tích dịch) được nuôi bằng chu sa thân thể trở nên đỏ rực. Bao giờ ăn đủ bảy cân thì đem ra giã nát, đủ một vạn chày thành son đem chấm vào chi thể con gái nếu chưa thất thân thì sẽ suốt đời không phai. Vì thế nên gọi là thủ cung (giữ trinh tiết). Cái chấm đó gọi là thủ cung sa (Từ Nguyên ? Vương Vân Ngũ, Đài Loan thương vụ 1978, quyển thượng, trang 606) Người dịch chỉ tra trong sách vở, không khẳng định là có thật hay không, xin độc giả miễn chất vấn.
    [5] Thuộc Giang Tây (xem thêm phụ lục về Cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên)




Kết Thúc (END)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
Đăng lúc 29-9-2011 19:41:49 | Chỉ xem của tác giả
Không biết bao nhiêu lần bộ tiểu thuyết này được dựng thành phim rồi nhỉ
Có thể nói tác giả là một nhà văn rất rất là tài tình.
Từ một Bộ "Võ Lâm Ngũ Bá" mà kéo tận dây mơ rễ má tới tận Ỷ Thiên Đồ Long Ký thì không phải là một chuyện đơn gián
Mình phục tác giả này chõ đó, càng viết càng hăng. Càng viết càng say chứ không đuối như những tac phảm khác
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
Đăng lúc 23-5-2013 21:42:01 | Chỉ xem của tác giả
Tác phẩm yêu thích của mình.
Nhân vật nữ mình yêu thích nhất là Triệu Mẫn,1 cô gái dám yêu dám hận,sẵn sàng làm tất cả để hạnh phúc.
Cốt truyện hay,xây dựng nhân vật đặc biệt ấn tượng.
thanks bạn nhiều.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách