Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mint.doli
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp - Xuất Bản] Ỷ Thiên Đồ Long Ký | Kim Dung

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:53:34 | Chỉ xem của tác giả
DỮ TỬ CỘNG HUYỆT TƯƠNG PHÙ TƯƠNG

    Dù cho dị mộng đồng sàng, Thác đi hai nắm xương tàn bên nhau.

    Trương Vô Kỵ đi theo cô gái chưa được mấy bước, đã đến trước giường. Con a hoàn vén trướng lên, chui vào bên trong, nhưng vẫn cầm tay Trương Vô Kỵ không chịu buông ra. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nghĩ thầm con a hoàn này tuy còn bé, lại xấu xí, nhưng dẫu sao cũng vẫn là đàn bà, làm sao có thể cùng cô ta ngủ chung một giường được? Huống chi lúc này đuổi theo địch là chuyện gấp, thành thử giựt tay về. Con a hoàn nói nhỏ:
    - Thông đạo ở trong giường.
    Chàng nghe mấy chữ đó, tinh thần phấn chấn, không còn hiềm phân biệt nam nữ, thấy con a hoàn lật chiếc chăn lên, nằm ngang trên giường, chàng cũng nằm xuống bên cạnh. Không biết cô gái hoạt động máy móc gì, chiếc giường bỗng dưng nghiêng qua một bên, hai người rơi tuột ngay xuống.
    Tuy rơi tới đất phải đến mấy trượng nhưng may là bên dưới có trải một lớp cỏ dày nên không thấy đau chút nào, chỉ nghe trên đầu một tiếng cạch nhỏ, chiếc giường đã quay lại như cũ. Chàng trong bụng khen thầm: “Cơ quan này bố trí thật tinh vi, ai ngờ được cửa đường hầm bí mật này lại ở ngay trên giường một tiểu thư”. Chàng nắm tay cô gái, vội vàng đuổi về phía trước.
    Chạy được mấy trượng, nghe thấy tiếng xích của con a hoàn kéo lê dưới đất, chợt nghĩ ra: “Cô gái này chân tập tễnh, lại có xích sắt, sao có thể chạy nhanh đến thế?” liền ngừng lại. Cô gái đoán được tâm sự chàng, cười nói:
    - Cháu giả vờ què chân để đánh lừa lão gia và tiểu thư đấy thôi.
    Trương Vô Kỵ nghĩ bụng: "Thảo nào mẹ ta đã dặn rằng đàn bà con gái trong thiên hạ thích đánh lừa người khác. Hôm nay ngay cả Bất Hối muội muội cũng đã ám toán ta”. Lúc này chàng đang lo đuổi theo kẻ địch thành thử ý niệm đó chỉ thoáng qua, rồi nghĩ qua chuyện khác, trong đường hầm cong cong quẹo quẹo chạy mấy chục trượng thì tắc nghẽn, nhưng gã Viên Chân tuyệt nhiên không thấy đâu.
    Con a hoàn nói:
    - Đường hầm này cháu cũng chỉ mới tới đây, chắc là còn có đường thông đi nơi khác nhưng cháu không tìm thấy cơ quan mở cửa.
    Trương Vô Kỵ đưa tay mò quanh mọi chiều, thấy những vách đáo chỗ lồi chỗ lõm, không thấy có dấu nối, đưa tay đẩy thử những chỗ lồi lõm không thấy chuyển động chút nào. Con a hoàn than:
    - Cháu cũng đã thử hàng chục cách nhưng vẫn không tìm ra máy móc ở chỗ nào, thật là lạ lùng. Cháu cũng đã đem đèn lửa vào xem kỹ càng nhưng không thấy chỗ nào có dấu vết gì khả nghi. Thế nhưng hòa thượng kia trốn đi đâu?
    Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận kình vào hai cánh tay, tại bức vách phía trái dùng sức đẩy thử, không thấy động tĩnh gì, lại qua bên phải đẩy thử. Lần này vách đá hơi chuyển động, chàng mừng quá, lại hít hai khẩu chân khí, sử kình đẩy thêm, tường đá từ từ lui về sau. Thì ra đó là một cái cửa đá thật dày, thật lớn, thật nặng, thật chắc chắn. Cái bí đạo trên Quang Minh Đính cấu trúc thật tinh xảo, có nơi thì dùng cơ quan bí mật, còn cái cửa đá này thì hoàn toàn không có máy móc gì, nếu không phải người có thần lực trời cho hay thân mang võ công thượng thừa thì không thể nào chuyển dịch được. Chẳng hạn như tiểu a hoàn này tuy đã vào được đường hầm nhưng võ công không đủ, nửa đường cũng phải bỏ cuộc.
    Trương Vô Kỵ lúc này luyện Cửu Dương thần công đã thành, sức lực thật là mạnh mẽ nên mới có thể đẩy được cửa mở ra. Khi cánh cửa đá đã mở ra được ba thước rồi, chàng liền đánh ra một chưởng, đề phòng Viên Chân náu ở đằng sau cửa đá đánh lén chăng, sau đó mới luồn vào.
    Qua khỏi bức tường đá rồi, trước mặt lại là một đường hầm dài khác, hai người liền theo đó mà đi, thấy thông đạo hơi xiên xiên lên trên, càng đi càng hẹp lại, khoảng chừng năm mươi trượng, đột nhiên đường chia thành hai nhánh. Trương Vô Kỵ đi thử một bên thì đường đó lại chia thành bảy nhánh khác, đang phân vân chưa biết theo ngả nào, bỗng nghe thấy từ đường bên trái ở phía trước có tiếng ho khẽ, tuy ngừng ngay nhưng trong đêm thanh vắng nghe vẫn rõ ràng.
    Trương Vô Kỵ nói khẽ:
    - Đi phía này.
    Chàng liền tiến lên đi theo con đường tận cùng phía trái. Nhánh đó chỗ cao chỗ thấp, dưới đất lại gập ghềnh khó đi, chàng xông tới nghe tiếng xích sắt phía sau loảng xoảng không dứt, liền quay lại nói:
    - Địch nhân ở phía trước, tình thế hung hiểm, cô cứ đi chầm chậm cũng được.
    Con a hoàn trả lời:
    - Có nạn cùng chịu, há sợ gì đâu?
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ngươi cũng định lừa ta chăng?”. Đường hầm cứ theo phía trái lượn hình trôn ốc đi dần xuống dưới, mỗi lúc một hẹp dần, về sau chỉ còn đủ chỗ lọt một người tưởng chừng như một giếng sâu. Đột nhiên chàng cảm thấy từ trên đầu một làn gió ép xuống, liền vung tay áo cuộn ngay ngang lưng con a hoàn, nhảy ngay xuống dưới, chân vừa chấm đất liền nhào người về phía trước, chẳng cần biết là hang sâu vạn trượng hay tường đá vì đâu có thì giờ suy nghĩ? Cũng may phía trước là một khoảng trống đủ chỗ cho hai người dung thân. Chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, đất cát đá vụn, bay mù mịt đầy đầu đầy mặt.
    Trương Vô Kỵ định thần, bỗng nghe cô gái nói: “Nguy hiểm quá, tên giặc trọc ẩn thân bên cạnh, đẩy đá đè mình”. Trương Vô Kỵ theo sườn đá vòng trở lại, tay phải giơ lên che đầu, đi được mấy bước, tay đã chạm phải mặt xù xì của tảng đá. Có tiếng của Viên Chân truyền từ sau tảng đá đến tai:
    - Tặc tiểu tử, hôm nay cho ngươi chết nơi đây, có một cô gái nhỏ làm bạn, cũng may cho ngươi lắm đó. Nếu ngươi có khỏe, xem ngươi có đẩy nổi tảng đá này không nào? Nếu một tảng chưa đủ, cho thêm một tảng nữa.
    Lại nghe tiếng sắt nạy vào đá, rồi thêm một tiếng bình nữa, một khối đá khác lại bị y bẩy xuống, đè lên trên tảng đá trước. Đường hầm này chỉ đủ lọt một người, Trương Vô Kỵ đưa tay mò thử, tuy tảng đá không hoàn toàn bịt chặt đường hầm, nhưng cùng lắm chỉ có thể đút lọt một cánh tay, còn người thì không thể nào chui qua được. Chàng hít một hơi chân khí, hai tay lắc thử, hai bên đất cát bay xuống mù mịt nhưng tảng đá không thể nào đẩy nổi. Xem ra hai khối đá nặng đến mấy nghìn cân chồng lên nhau, dù chàng có khỏe như trâu như hổ, cũng không thể nào mở nổi. Tuy chàng đã luyện Cửu Dương thần công nhưng sức người có hạn, hai khối đá to như hai cái gò nhỏ kia, làm sao có thể di chuyển được một gang nửa tấc nào?
    Lại nghe Viên Chân ở bên ngoài tảng đá thở hổn hển, có lẽ sau khi y bị thương nặng rồi, lại còn dùng sức bẩy hai tảng đá khiến cho gân cốt không còn hơi sức. Y thở mấy lần rồi hỏi:
    - Tiểu tử … tên … tên ngươi là..
    Nói đến đây y hụt hơi không nói tiếp được nữa. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lúc này nếu như y có đổi ý, đột nhiên mở lòng từ bi, muốn cứu hai người ra thì cũng không sao làm được. Việc gì mình phải phí lời với y làm gì, đi xem đường hầm có lối khác đi ra không là hơn”. Nghĩ thế quay mình lại, theo đường hầm đi tiếp về phía trước. Cô gái nói:
    - Bên mình cháu có đồ đánh lửa, tiếc rằng không có đèn nến gì cả, có lửa cũng tắt ngay.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đừng đánh lửa vội.
    Chàng đi tiếp về phía trước thêm mấy chục trượng nữa thì đến cuối đường hầm. Hai người mò khắp nơi, Trương Vô Kỵ mò được một cái thùng gỗ, mừng nói:
    - Có đây.
    Giơ chưởng lên đánh xuống đập vỡ cái thùng, thấy trong thùng đầy bột, không biết là vôi hay là bột mì. Chàng nhặt một mảnh gỗ lên nói:
    - Cô đốt lửa lên.
    Cô tiểu hoàn lấy ra hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi đánh lửa lên châm vào thanh gỗ, đột nhiên lửa cháy bùng lên chói cả mắt, mảnh gỗ bén lửa ngay. Hai người sợ đến nhảy dựng lên, mũi ngửi thấy mùi khét của diêm sinh. Cô gái nói:
    - Thuốc súng đó.
    Cầm mảnh gỗ giơ lên cao, nhìn lại bột trong thùng gỗ quả nhiên là thuốc nổ đen sì. Nàng cười khúc khích:
    - Nếu như lúc đốm lửa tóe ra bén vào hỏa dược, e rằng cả tên ác hòa thượng ở bên ngoài kia cũng tan xác.
    Lại thấy Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn nhìn mình, trên mặt đầy vẻ kinh ngạc, thần sắc thực là khác lạ, liền mỉm cười hỏi:
    - Công tử sao thế?
    Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:
    - Thì ra, thì ra cô … cô đẹp đến thế.
    Cô tiểu hoàn che miệng cười, nói:
    - Cháu sợ hết hồn, quên cả giả trang khuôn mặt.
    Nói rồi đứng thẳng người lên. Thì ra cô ta chẳng gù lưng, cũng không khập khiễng, hai mắt sâu thẳm có thần, mày dài mũi thẳng, bên má có lúm đồng tiền. Tuy nhiên nàng tuổi còn nhỏ, thân thể chưa trưởng thành, mặt mày xinh đẹp nhưng vẫn còn nét trẻ con. Trương Vô Kỵ nói:
    - Vì cớ gì cô phải giả vờ thành quái đản đến thế?
    Cô gái cười đáp:
    - Tiểu thư ghét cháu lắm, thấy cháu xấu xí thì trong lòng mới vui vẻ. Nếu cháu không giả vờ thành hình dáng quái dị như thế, cô ấy đã giết cháu lâu rồi.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Tại sao cô ấy lại muốn giết cô?
    Tiểu hoàn đáp:
    - Tiểu thư nghi là cháu muốn ám hại cô ấy và lão gia.
    Trương Vô Kỵ lắc đầu:
    - Thật là đa nghi. Khi cô cầm trường kiếm trong tay, cô ta không động đậy gì được, cô vẫn không hại cô ấy. Từ nay về sau, cô ấy sẽ không còn nghi ngờ gì cô nữa.
    Cô gái nói:
    - Cháu dẫn công tử xuống dưới này, tiểu thư lại càng nghi hơn. Nhưng không biết mình có ra khỏi nơi đây được không, nên dù cô ấy nghi hay không nghi, cháu cũng không để ý tới nữa.
    Cô gái vừa nói vừa giơ cao thanh gỗ, xem xét chung quanh. Chỗ hai người đang đứng hình như là một căn phòng, chất đầy cung tên binh khí, đa số đều đã rỉ sét, có lẽ là nơi tàng trữ binh khí của Minh giáo khi xưa để phòng khi phải chống với ngoại địch. Xem xét tường bốn bên chung quanh, không thấy có dấu vết gì xem ra là cuối đường hầm rồi. Viên Chân sở dĩ cố ý ho là để dụ cho hai người đi vào tuyệt lộ.
    Tiểu hoàn nói:
    - Công tử gia, tên cháu là Tiểu Siêu. Cháu nghe tiểu thư gọi công tử là Vô Kỵ ca ca, vậy đại danh có phải là Vô Kỵ không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đúng thế. Tôi họ Trương … Đột nhiên chàng chợt nghĩ ra, cúi xuống nhặt một cây trường mâu, nhắc nhắc thử, thấy thật nặng nề, phải đến bốn chục cân, nói:
    - Số thuốc nổ này xem ra có thể phá vỡ tảng đá cứu mình thoát hiểm được.
    Tiểu Siêu vỗ tay reo lên:
    - Hay lắm, hay lắm.
    Khi nàng vỗ tay, tiếng xích ở cổ tay chạm nhau kêu leng keng. Trương Vô Kỵ nói:
    - Sợi xích này vướng chân vướng tay, giựt đứt nó đi cho rồi.
    Tiểu Siêu sợ hãi nói:
    - Không, không được đâu. Lão gia sẽ giận lắm đó.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô cứ nói là tôi bẻ gãy, tôi không sợ ông ta bực mình đâu.
    Nói xong chàng cầm hai đầu xích, dụng kình giựt ra. Sợi xích đó vốn chỉ nhỏ bằng cây đũa, sức kéo của chàng phải đến ba bốn trăm cân, nhưng chỉ kêu coong một tiếng, dây xích chấn động nhưng vẫn y nguyên không đứt.
    Chàng hừ một tiếng, hít một hơi dài, tăng thêm kình lực, nhưng sợi dây xích cũng vẫn không hề hấn gì. Tiểu Siêu nói:
    - Sợi dây xích này thật là lạ lùng, không phải bảo đao lợi kiếm thì không làm gì được đâu. Chìa khóa do tiểu thư giữ.
    Trương Vô Kỵ gật đầu:
    - Nếu mình ra khỏi nơi đây, tôi sẽ bảo cô ta mở khóa cho cô.
    Tiểu Siêu nói:
    - Chỉ sợ cô ấy không chịu đưa.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi với cô ta có giao tình không phải tầm thường, cô ấy thể nào cũng đưa cho tôi.
    Nói rồi chàng cầm cây trường mâu, đến bên dưới tảng đá, đứng nghe ngóng một lát, không nghe tiếng hô hấp của Viên Chân, chắc y đã đi xa rồi. Tiểu Siêu giơ cao mồi lửa, đứng bên cạnh soi cho chàng. Trương Vô Kỵ nói:
    - Một lần chắc không vỡ được đâu, chắc phải làm vài lần.
    Chàng vận sức vào cánh tay đục một cái lỗ cạnh tảng đá và vách hang. Tiểu Siêu đem hỏa dược tới, Trương Vô Kỵ liền nhồi vào trong cái lỗ đó, xoay chiếc giáo lại, dùng cán giáo lèn cho chặt, lại làm một sợi dây dẫn kéo dài tới bên trong căn phòng đá. Chàng cầm lấy cây đuốc trong tay Tiểu Siêu, cô gái liền lấy tay bịt chặt tai lại. Trương Vô Kỵ tiến ra trước che cho cô, cúi xuống châm ngòi đốm lửa liền theo đường dây chạy đi.
    Chỉ nghe một tiếng ầm thật lớn, một làn hơi nóng ép thốc vào, đẩy chàng lùi lại hai bước, Tiểu Siêu cũng ngã chúi xuống. Chàng đã đề phòng trước, giơ tay đỡ ngang lưng cô ta. Trong thạch thất khói bụi bay mù mịt, cây đuốc cũng bị thổi tắt ngúm. Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Tiểu Siêu, cô không sao chứ?
    Tiểu Siêu ngập ngừng một hồi, nói:
    - Cháu … cháu không sao cả.
    Trương Vô Kỵ nghe cô giọng có vẻ nghẹn ngào, hơi lấy làm lạ, đến khi đốt lửa lên, thấy cô rưng rưng nước mắt, liền hỏi:
    - Sao thế? Cô khó chịu trong người ư?
    Tiểu Siêu nói:
    - Trương công tử, công tử … công tử không biết cháu là ai, sao đối với cháu tốt thế?
    Trương Vô Kỵ lạ lùng:
    - Thế là sao?
    Tiểu Siêu nói:
    - Sao công tử lại che ở trước mặt cháu? Cháu chỉ là một đứa nô tì hèn hạ, còn công tử … tấm thân nghìn vàng, sao lại đứng chắn cho cháu?
    Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:
    - Tôi có quí trọng gì đâu? Cô là một cô gái nhỏ, tôi tự nhiên phải che chở cho cô.
    Đến khi khói bụi tan hết, chàng đi trở lại sườn hang, thấy tảng đá kia chẳng hề hấn gì, vẫn sừng sững như cũ, chỉ vạt đi một góc nhỏ. Trương Vô Kỵ hơi thất vọng nói:
    - Chỉ sợ phải đến bảy tám lần thì mình mới qua được. Thế nhưng thuốc nổ chỉ còn dùng được nhiều lắm là hai lần nữa thôi.
    Chàng lại cầm cây mâu lên, đục lỗ trên tảng đá. Đào được mấy nhát, vô tình đâm cây mâu vào vách đá, đột nhiên một cục đá to bằng cái đấu rơi ra, hở thành một cái lỗ. Chàng vừa mừng vừa sợ, thò tay vào, móc những đá chung quanh lắc mấy cái, thấy hơi nhúc nhích, vội sử kình giựt ra, lại thêm một tảng đá khác tuột xuống. Chàng moi ra được bốn cục đá vuông vức chừng một thước thì cái hang đã đủ để chui vào. Thì ra phía bên kia của đường hầm này có một lối đi, vừa rồi thuốc nổ tảng đá lớn, đã làm cho tường chấn động khiến những tảng đá rời ra. Cái miệng hang bịt bằng đá hoa cương, từng khối lớn bằng cái đấu.
    Trương Vô Kỵ cầm bó đuối chui qua trước rồi gọi Tiểu Siêu đi theo. Đường hầm này cũng theo hình trôn ốc đi xuống, nhưng chàng đã khôn ngoan hơn, cầm cây mâu chĩa ra đằng trước, đề phòng Viên Chân ám toán lần nữa. Đi khoảng bốn năm chục trượng, đến một cửa đá. Chàng đưa cây mâu và bó đuốc cho Tiểu Siêu, vận kình đẩy cánh cửa, mở ra một căn phòng nữa.
    Gian phòng này rất lớn, trên đỉnh có thạch nhũ rỏ xuống, đúng là một thạch động thiên nhiên. Chàng cầm bó đuối soi qua mấy vòng, bỗng thấy dưới đất hai bộ xương người chết. Y phục trên hai tàn cốt này chưa rã hết, nhìn kỹ là một người đàn ông, một người đàn bà.
    Tiểu Siêu sợ hãi, nép vào bên cạnh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ cao ngọn đuốc, tra xét căn phòng thêm một lần nữa, nói:
    - Chỗ này xem chừng là tận cùng rồi, không biết có tìm được đường ra không?
    Chàng cầm cây mâu, gõ vào các bức vách, chỗ nào cũng thấy bình bịch nặng nề không thấy chỗ nào có vẻ rỗng. Chàng đến gần hai bộ xương người, thấy tay người đàn bà cầm một con dao găm sáng loáng, đâm vào ngực mình. Chàng hơi ngạc nhiên, nghĩ đến câu chuyện Viên Chân kể. Viên Chân và Dương phu nhân lén gặp nhau trong bí đạo, bị Dương Đính Thiên bắt gặp. Dương Đính Thiên phẫn uất, tẩu hỏa chết, Dương phu nhân liền dùng chủy thủ tự vẫn chết theo chồng. “Không lẽ hai người này là vợ chồng Dương Đính Thiên chăng?”. Chàng đến gần bộ xương người đàn ông, thấy bên cạnh nơi xương bàn tay có một miếng da dê.
    Trương Vô Kỵ nhặt miếng da lên xem, chỉ thấy một bên có lông, một bên nhẵn thín, không có gì đặc biệt. Tiểu Siêu cầm lấy miếng da, vẻ mặt vui mừng, kêu lên:
    - Chúc mừng công tử, đây là tâm pháp võ công cao cấp nhất của Minh giáo.
    Nói xong thò ngón tay trỏ bàn tay trái quẹt vào con dao chủy thủ trên ngực Dương phu nhân một cái, cắt một đường nhỏ, lấy máu bôi lên trên tấm da, liền từ từ hiện lên, hàng đầu tiên gồm mười một chữ viết: Minh Giáo Thánh Hỏa Tâm Pháp: Càn Khôn Đại Na Di.
    Trương Vô Kỵ vô tình tìm được võ công tâm pháp của Minh giáo nhưng không lấy gì vui, nghĩ thầm: “Trong đường hầm này không nước, không gạo, nếu không ra khỏi nơi đây, cùng lắm được bảy tám ngày, ta và Tiểu Siêu cũng chết đói chết khát thôi. Dù có học võ công cao đến mấy thì cũng đành vô dụng”.
    Chàng nhìn hai bộ xương, nghĩ tiếp: “Gã Viên Chân kia sao không lấy luôn bộ tâm pháp Càn Khôn Đại Na Di này luôn? Có lẽ sau khi y gặp phải chuyện đau đớn kia rồi, không bao giờ còn dám quay lại nhìn xác vợ chồng Dương Đính Thiên nữa. Chắc y cũng không biết mảnh da dê này có chép tâm pháp võ công, nếu không thì chẳng nói gì vợ chồng họ Dương đã chết rồi, mà dù còn sống, y cũng tìm cách lấy cắp”. Chàng quay lại hỏi Tiểu Siêu:
    - Sao cô lại biết được bí mật của tấm da dê này?
    Tiểu Siêu cúi đầu đáp:
    - Khi lão gia nói chuyện với tiểu thư cháu có nghe lén được. Hai người là giáo đồ Minh giáo, không dám vi phạm giáo qui, đi xuống dưới bí đạo này tìm kiếm.
    Trương Vô Kỵ nhìn hai bộ xương trắng, hơi thấy cảm khái, nói:
    - Mình chôn họ đi vậy.
    Hai người gom đất đá chung quanh lại vun vào một chỗ rồi đắp lên xác hai vợ chồng Dương Đính Thiên. Tiểu Siêu bỗng cầm một vật bên cạnh tàn cốt Dương Đính Thiên lên nói:
    - Trương công tử, ở đây có một phong thư.
    Trương Vô Kỵ cầm lấy xem qua, thấy trên bao thư có viết mấy chữ “Phu nhân thân khải”[1] bốn chữ. Vì đã lâu ngày, phong bì đã mục nát nên bốn chữ kia cũng đã bị tàn khuyết, nhưng vẫn còn nhìn thấy nét bút rắn rỏi toát ra một vẻ mạnh mẽ. Phong bì được dán kỹ, dấu xi khằn vẫn còn nguyên. Trương Vô Kỵ nói:
    - Dương phu nhân chưa kịp mở thư ra xem đã tự sát chết rồi.
    Chàng cung kính đặt bao thư vào trong đống tàn cốt của hai người, đang định lấy đất đá vùi lên, Tiểu Siêu nói:
    - Mở ra xem thử nào? Không chừng Dương giáo chủ có dặn dò chuyện gì.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Làm thế e rằng bất kính.
    Tiểu Siêu nói:
    - Nếu như Dương giáo chủ có tâm nguyện gì chưa thành, công tử chuyển cáo lại cho lão gia và tiểu thư, để họ theo lời Dương giáo chủ thực hiện, chẳng hay hơn ư?
    Trương Vô Kỵ thấy vậy cũng phải liền nhẹ nhàng mở phong bì, lấy ra một tờ giấy lụa trắng thật mỏng, trên đó có viết:
    Phu nhân yêu quí:
    Phu nhân từ khi về nhà họ Dương, ngày đêm u uất. Ta thô lỗ kém đức, không đủ cho phu nhân vui lòng, thật là có lỗi lắm vậy. Nay đã đến lúc vĩnh biệt, mong phu nhân lượng thứ cho.
    Y giáo chủ đời thứ ba mươi hai có di mệnh rằng, khi nào ta luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công, hãy dẫn các anh em đi qua tổng giáo bên Ba Tư, tìm cách nghênh đón thánh hỏa lệnh về. Bản giáo tuy phát nguyên từ Ba Tư, nhưng đã mọc rễ nơi Trung Hoa, thêm cành tỏa lá đã mấy trăm năm nay rồi. Nay Thát tử chiếm trung thổ của ta, bản giáo thề nhất định tới cùng, quyết không tuân lệnh vô lý từ tổng giáo Ba Tư, chịu cúi đầu nhận kẻ Mông Nguyên làm chủ. Thánh hỏa lệnh nếu về lại tay ta rồi, Minh giáo Trung Hoa lập tức có thể đứng ngang hàng với tổng giáo Ba Tư ngay.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra tổng giáo Minh giáo ở tại nước Ba Tư. Y giáo chủ và Dương giáo chủ không chịu tuân lệnh tổng giáo hàng phục Nguyên triều, thực là những hảo hán tử rất khí khái”. Chàng trong lòng đối với Minh giáo thêm vài phần khâm phục, lại đọc tiếp xuống dưới:
    Hôm nay ta sơ thành thần công bậc thứ tư, lại biết được chuyện Thành Côn, huyết khí trào lên không sao tự chế được, chân lực tán hết, biết đã đến lúc trở về rồi. Ý trời như thế, mệnh ta như thế, biết làm sao hơn?
    Trương Vô Kỵ đọc đến đây, thở dài một tiếng nói:
    - Thì ra khi Dương giáo chủ viết lá thư này, đã biết chuyện Dương phu nhân cùng Thành Côn lén gặp nhau nơi bí đạo.
    Chàng thấy Tiểu Siêu ngập ngừng dường như muốn hỏi chuyện gì nhưng không dám mở miệng, liền đem chuyện vợ chồng Dương Đính Thiên và Thành Côn thuật sơ qua. Tiểu Siêu nói:
    - Cháu thấy chuyện này là do Dương phu nhân không nên không phải. Nếu bà ta trong lòng còn nghĩ đến Thành Côn thì đừng lấy Dương giáo chủ làm gì, còn nếu đã lấy Dương giáo chủ, thì không nên lén gặp lại Thành Côn.
    Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm: “Cô này còn bé như thế nhưng đã hiểu biết”. Chàng đọc tiếp xuống dưới:
    Nay mệnh ta chỉ còn sớm tối, phụ lòng Y giáo chủ trọng thác, thực là kẻ có tội của bản giáo. Vậy phu nhân cầm lá thư do chính ta viết này, chiêu tụ tả hữu Quang Minh sứ giả, bốn đại Hộ Giáo pháp vương, Ngũ Hành Kỳ sứ, Ngũ Tản Nhân truyền di mệnh của ta như sau:
    Bất luận ai thu hồi được thánh hỏa lệnh về thì được làm giáo chủ đời thứ ba mươi bốn của bản giáo. Kẻ nào không phục giết đi không tha. Ra lệnh cho Tạ Tốn tạm nhận chức vụ Phó giáo chủ, xử phân các việc trọng đại trong bản giáo.
    Trương Vô Kỵ lòng chấn động, nghĩ thầm: “Hóa ra Dương giáo chủ đã chỉ định nghĩa phụ ta tạm nhiếp chức vụ phó giáo chủ. Nghĩa phụ ta văn võ toàn tài, Dương giáo chủ chết rồi, ông ta là nhân vật kiệt hiệt nhất của Minh giáo. Tiếc rằng Dương phu nhân không đọc lá thư này, nếu không Minh giáo không đến nỗi tàn sát lẫn nhau, long trời lở đất như thế”. Chàng thấy Dương Đính Thiên coi trọng Tạ Tốn như thế, lòng thật vui mừng, nhưng cũng không khỏi thương cảm, xuất thần một hồi rồi lại đọc tiếp:
    Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, sau này sẽ chuyển lại cho tân giáo chủ. Làm rạng rỡ tôn giáo của chúng ta, đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi bờ cõi, làm điều lành, trừ điều ác, giúp chuyện ngay, chống kẻ gian, mong các đấng minh tôn thánh hỏa phổ huệ thiên hạ thế nhân là điều tân giáo chủ phải cố mà làm.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cứ theo di mệnh của Dương giáo chủ mà xem, tông chỉ của Minh giáo thật là chính đại. Các đại môn phái cứ khư khư giữ lấy quan niệm của môn hộ, không ngừng làm khó dễ Minh giáo, quả thực không phải chút nào”. Chàng lại đọc tiếp tờ di thư:
    Ta đem công lực còn sót lại trong mình, đóng cửa đá lại ở cùng Thành Côn trong đường hầm này, còn phu nhân cứ theo bản đồ bí đạo mà thoát ra. Đương thế không có người thứ hai nào có thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì cũng không ai có thể đẩy được cái cửa đá nằm ở vị trí Vô Vọng. Đợi đến khi hào kiệt hậu thế luyện được rồi, tàn cốt của ta và Thành Côn cũng đã mục nát.
    Đính Thiên cẩn bạch.
    Sau cùng là một hàng chữ nhỏ:
    Ta tên là Đính Thiên, ở trên đời không làm được công nghiệp gì, đối với bản giáo không làm tròn nhiệm vụ, làm đau lòng phu nhân, ôm mối hận chết đi, vậy mà dám cuồng ngôn đội trời đạp đất[2], thật đáng chê cười.
    Ở phía sau bức thư là một bản đồ bí đạo, ghi rõ các nơi ngõ ngách và cửa nẻo. Trương Vô Kỵ mừng quá, nói:
    - Dương giáo chủ vẫn tưởng sẽ tự giam mình chung với Thành Côn trong đường hầm này, hai người cùng chết, nào ngờ ông ta tính không đến nơi đến chốn, chết sớm quá, để cho gã Thành Côn kia thung dung cho tới tận hôm nay. Cũng may mình có bức bản đồ này có thể kiếm được lối ra.
    Tại bức địa đồ, chàng kiếm đúng chỗ mình đang đứng, tra xét lại thì có khác nào bị một thùng nước lạnh dội từ đầu trở xuống, thì ra lối thoát duy nhất, chính là lối mà Thành Côn dùng đá lấp mất rồi, thành ra dù có hay không có bức toàn đồ cũng thế thôi. Tiểu Siêu nói:
    - Công tử đừng vội nản lòng, có thể có lối khác không chừng.
    Cô ta cầm lấy tấm bản đồ, cúi đầu xem kỹ, thấy bản đồ vẽ thật rành rọt, đúng là ngoài lối đó ra không còn đường nào khác. Trương Vô Kỵ thấy nàng lộ vẻ thất vọng, cười gượng:
    - Di thư của Dương giáo chủ có nói rõ, nếu ai luyện thành thần công Càn Khôn Đại Na Di, thì có thể đẩy được cánh cửa đá mà ra. Trên đời bây giờ ngoài Dương Tiêu tiên sinh ra, không ai luyện qua môn này cả. Thế nhưng ông ta công lực còn non, dẫu có ở nơi đây cũng chưa chắc đã làm được việc gì. Hơn nữa, mình cũng không biết hướng Vô Vọng là ở chỗ nào, trên bản đồ không ghi rõ, thì làm cách nào mà tìm?
    Tiểu Siêu nói:
    - Vô Vọng ư? Đó là phương vị của một trong sáu mươi tư quẻ của Phục Hi, Càn chấm dứt ở cung Ngọ, Khôn chấm dứt ở cung Tý, Dương ở phương Nam, Âm tại phương Bắc. Vô Vọng nằm giữa hai vị trí Minh Di và Tùy.
    Nàng nói xong liền ở trong thạch thất phân chia phương vị, đi đến góc phía tây bắc, nói:
    - Ở tại nơi đây.
    Trương Vô Kỵ thấy lên tinh thần, nói:
    - Có thật không?
    Chàng liền chạy đến đường hầm chứa binh khí, lấy một cây đại phủ về, cạo sạch những đất cát bám trên tường, quả nhiên có dấu của một cánh cửa, nghĩ thầm: “Ta tuy không biết phép tắc trong Càn Khôn Đại Na Di, nhưng luyện Cửu Dương thần công đã thành, uy lực chưa chắc đã kém gì môn này”. Nghĩ thế bèn tụ khí vào đan điền, kình lực vận lên hai cánh tay, hai chân xoải ra thành cung tiễn bộ[3], từ từ đẩy ra. Chàng đẩy một hồi lâu, thạch môn trước sau vẫn không nhúc nhích. Bất luận hai tay chàng đổi kiểu nào, vận chân khí cách nào, tới khi hai tay mỏi nhừ, xương cốt cơ thể kêu lục cục, cái cửa đá đó vẫn trơ trơ tưởng như liền với bức tường là một, chẳng di động được một phân.
    Tiểu Siêu khuyên:
    - Trương công tử, đừng thử thêm nữa, để cháu đem hỏa dược lại xem thế nào.
    Trương Vô Kỵ vui mừng nói:
    - Hay lắm, tôi quên mất là mình có thuốc súng.
    Hai người đem tất cả nửa thùng thuốc súng nhồi vào thạch môn rồi đốt dây dẫn hỏa. Sau tiếng nổ, cánh cửa đá bị vạt vào đến bảy tám thước nhưng vẫn không thấy đường hầm đâu, xem ra tảng đá này bề dày còn hơn cả bề rộng.
    Trương Vô Kỵ hơi cảm thấy ân hận, cầm tay Tiểu Siêu, dịu dàng nói:
    - Tiểu Siêu, toàn là do tôi cả, làm cho cô cũng bị giam nơi đây không ra được.
    Tiểu Siêu đưa đôi mắt trong suốt nhìn thẳng vào mặt chàng nói:
    - Trương công tử, công tử phải trách cháu mới phải, nếu như cháu không dẫn công tử vào … thì đâu đến nỗi … đến nỗi … Nói đến đây, cô gái giơ tay áo gạt lệ, một hồi sau, bỗng dưng cười khanh khách, nói:
    - Nếu mình không ra được thì buồn lo cũng có ích gì. Để cháu hát cho công tử nghe một bài, được không?
    Trương Vô Kỵ còn lòng dạ nào mà nghe hát, nhưng không nỡ làm nàng cụt hứng, mỉm cười nói:
    - Thế thì hay lắm.
    Tiểu Siêu ngồi xuống bên cạnh chàng, cất tiếng hát:
    Nhân sinh lý lẽ ai ơi, Làm người cốt được thảnh thơi đủ rồi.
    Ai ai cũng có thời thăng giáng, Chẳng một ai chỉ xuống không lên.
    Trong may có rủi kề bên, Rủi kia cũng sẵn có hên ẩn tàng.
    Trương Vô Kỵ nghe đến câu: “Cát tàng hung, hung tàng cát” lại nghĩ đến thân phận mình, quả đúng như thế, thấy giọng nàng trong trẻo dễ nghe, lên cao xuống thấp thật uyển chuyển, bao nhiêu buồn phiền giảm hẳn. Cô gái lại hát tiếp:
    Giàu sang đâu hẳn giàu sang mãi, Trời chói chang có lúc xế chiều.
    Trăng kia sáng mãi bao giờ, Tròn rồi lại khuyết đầy chờ khi vơi.
    Đất thoai thoải đông nam một cõi, Vòi vọi nghiêng tây bắc trời cao.
    Dù cho thiên địa nhường bao, Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiểu Siêu, cô hát nghe hay quá, bài hát này ở đâu vậy?
    Tiểu Siêu cười đáp:
    - Công tử nói đùa, cháu hát có gì đâu mà hay? Cháu nghe người ta hát, nên nhớ được vài câu, cũng chẳng biết của ai làm nữa.
    Trương Vô Kỵ nghĩ đến câu “Thiên địa thướng vô hoàn thể” nên tấm tắc khen bài hát. Tiểu Siêu hỏi:
    - Công tử có thích nghe hát thật không? Hay chỉ nói giả vờ?
    Trương Vô Kỵ cười:
    - Thích hay không thích nghe lại còn giả hay thật gì nữa? Lẽ dĩ nhiên là thật rồi.
    Tiểu Siêu nói:
    - Hay lắm. Để cháu hát thêm một bài nữa nhé?
    Cô ta lấy tay vỗ lên trên đá làm nhịp, hát thêm:
    Chớ nên cau mặt nhíu mày, Cũng đừng tranh cãi để cầu hơn ai.
    Mặt hoa da phấn hôm nay, Già hơn bữa trước một ngày còn chi?
    Xuân qua đông lại tới thì, Từ xưa vẫn thế có gì khác đâu.
    Dù cho khôn khéo sang giàu, Nghèo hèn ngu độn cũng đều như nhau.
    Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.
    Hôm nay chỉ biết hôm nay, Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.
    Mấy ai thọ được bảy mươi, Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.
    Bài hát ý tứ mênh mang, hiển nhiên người làm ra cũng đã nhiều kinh lịch, biết rõ bụng dạ nhân tình, ở miệng một cô gái đang tuổi hoa niên hát ra xem chừng không xứng, đúng là cô ta nghe người khác hát rồi thuộc lòng. Trương Vô Kỵ tuổi tuy còn trẻ nhưng mười năm qua cũng đã nếm đủ mùi gian khổ rồi, hôm nay bị kẹt trong giữa lòng núi, trước mắt thấy không còn đường sống nhẩm lại hai câu: "Cõi trần kẻ trước người sau, Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay" không khỏi trùng lòng. Cái cầu xuôi tay hẳn là ngày từ giã cõi đời. Chàng đã nhiều lần lâm vào cảnh sinh tử quan đầu, nhưng trước đây chỉ có hai đường, sống hay chết, không liên lụy đến ai, lần này lại kéo thêm cô bé Tiểu Siêu, rồi chuyện tồn vong của Minh giáo, an nguy của Dương Tiêu, Dương Bất Hối và bao nhiêu người khác, cái thâm cừu giữa nghĩa phụ và Viên Chân, đều có ít nhiều liên quan đến chàng, nên không đành lòng mà chịu chết.
    Chàng đứng lên đến đẩy cái cửa đá lần nữa, thấy chân khí trong cơ thể lưu chuyển, tưởng như trong người tích súc một luồng lực khí vô cùng vô tận, nhưng tắc tị không thể sử dụng được, khác nào cơn lũ lụt cuồn cuộn trên sông bị hai bờ đê chặn lại, không thể nào vượt qua.
    Chàng thử ba lần không xong đành chịu thúc thủ. Bỗng thấy Tiểu Siêu lại cắt đầu ngón tay, lấy máu tươi tô lên miếng da dê, nói:
    - Trương công tử, công tử thử luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp xem sao? Biết đâu công tử thông minh hơn người, tập một lần là được.
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Các giáo chủ tiền nhiệm của Minh giáo luyện suốt cả đời nhưng cũng chưa ai thành công. Các vị đó đã làm giáo chủ, tài trí ắt phải trác tuyệt hơn người, tôi chỉ trong sớm tối làm sao có thể hơn họ được?
    Tiểu Siêu lại cúi đầu hát:
    Hôm nay chỉ biết hôm nay, Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.
    Công tử cứ luyện thêm được lúc nào hay lúc nấy.
    Trương Vô Kỵ mỉm cười, đón lấy miếng da dê, miệng nhẩm đọc, thấy viết trên mảnh da này toàn là cách vận hành chân khí, cùng các pháp môn di cung sử kình. Chàng theo đó làm thử, không phí chút hơi sức nào đã làm được ngay. Trên miếng da viết tiếp:
    Đây là tâm pháp cấp thứ nhất, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm.
    Chàng lấy làm lạ: “Cái này có khó khăn gì đâu? Sao lại phải luyện tới bảy năm mới xong?”.
    Chàng xem tiếp xuống tâm pháp cấp thứ hai, theo đó mà làm, chỉ một lát là chân khí quán thông, trong mười đầu ngón tay, tưởng chừng như có hơi lạnh vọt ra. Trong đó lại có ghi chú:
    Cấp thứ hai, người ngộ tính cao thì bảy năm có thể luyện thành, người kém một chút thì phải mất mười bốn năm. Nếu tới năm thứ hai mươi mốt mà không tiến triển, không được luyện sang cấp thứ ba, để phòng tẩu hỏa nhập ma, không cách nào cứu được.
    Chàng vừa mừng vừa sợ, liền coi tiếp xuống cấp thứ ba. Lúc này những hàng chữ đã mờ, chàng đang định lấy chủy thủ cắt ngón tay thì Tiểu Siêu đã lấy máu mình xoa lên mảnh da dê trước. Trương Vô Kỵ vừa đọc vừa luyện theo, tầng thứ ba rồi tầng số bốn, đi đến đâu thông đến đó luyện được ngay chẳng khác gì chẻ tre.
    Tiểu Siêu thấy mặt chàng một nửa bên đỏ như máu, nửa bên kia lại xanh lè, trong lòng hơi hãi sợ, nhưng thấy chàng thần định khí túc, hai mắt sáng lấp lánh, nên cũng yên tâm. Đến khi chàng đọc tiếp luyện tâm pháp qua cấp thứ năm, mặt chàng lúc xanh lúc đỏ. Khi mặt màu xanh thì thân thể hơi run như ở trong đá lạnh, còn khi mặt đỏ thì mồ hôi vã ra như mưa.
    Tiểu Siêu lấy khăn tay ra, đưa lên định lau mồ hôi trán cho chàng, đột nhiên tay giật mạnh một cái, thân hình ngả qua một bên như muốn ngã ngửa. Trương Vô Kỵ đứng lên, giơ tay áo lau mồ hôi, trong nhất thời chẳng hiểu tại sao, nhưng cũng biết rằng cấp tâm pháp thứ năm chàng đã luyện xong rồi.
    Thì ra môn Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp này vốn là một phương thức vận kình sử lực rất là xảo diệu, căn bản đạo lý là làm thế nào phát huy tối đa cái tiềm lực trong cơ thể của mỗi người. Trong bất cứ ai cũng có một tiềm lực thật to lớn, nhưng bình thời không sử dụng được mà thôi. Chỉ khi nào gặp chuyện khẩn cấp, chẳng hạn như cháy nhà mới thấy một người sức trói gà không chặt cũng có thể vác cả nghìn cân. Trương Vô Kỵ luyện xong Cửu Dương thần công rồi, lực đạo súc tích trong người hiện nay không ai bì kịp, có điều chưa được minh sư chỉ điểm nên không sử dụng được. Bây giờ chàng học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, sức lực trong người như hồng thủy trào lên, không có gì có thể chế ngự nổi.
    Môn tâm pháp này sở dĩ khó mà luyện cho thành công, chỉ sơ xẩy một chút là tẩu hỏa nhập ma ngay, toàn là do việc vận kình vừa xảo diệu, vừa phức tạp, mà nội lực người luyện công lại chưa đủ hùng hồn để vượt qua. Việc đó cũng không khác gì đưa cho một đứa trẻ bảy tám tuổi múa một chiếc búa nặng hàng trăm cân, trùy pháp càng tinh vi áo diệu, thì càng dễ đưa đến chỗ tự đánh vào mình vỡ đầu chảy máu. Thế nhưng nếu người sử dụng cái búa là một đại lực sĩ thì lại không sao cả. Những người luyện môn tâm pháp này trước đây, chỉ vì nội lực hữu hạn, miễn cưỡng tu luyện, để lâm vào cảnh bụng dạ có thừa mà sức chẳng đủ.
    Các vị giáo chủ Minh giáo ngày xưa có mấy ai không hiểu đạo lý này đâu. Thân đã làm đến giáo chủ hẳn chí khí kiên nghị lấp biển dời non, đâu có người nào chịu thua kém ai, mà cũng có ai thấy khó mà bỏ cuộc? Đại phàm võ học cao thủ đều lấy câu châm ngôn “tinh thành sở chí, kim thạch vi khai[4]” nằm lòng, nên người nào cũng hăm hăm hở hở, hết sức tu tập, biết đâu rằng sức người có hạn, chỉ nhất tâm nghĩ rằng “nhân định thắng thiên” để đến nỗi ẩm hận nhi chung.
    Trương Vô Kỵ sở dĩ chỉ mất nửa ngày đã luyện xong trong khi nhiều người thông minh tài trí, võ nghệ cao cường hơn chàng nhiều lần, hết sức hết tâm mấy chục năm vẫn không thành công, cái khác nhau cũng chỉ là một bên nội lực có thừa, còn một bên nội lực chưa đủ mà thôi.
    Trương Vô Kỵ luyện đến cấp thứ năm rồi, thấy tinh thần lực khí toàn thân chỗ nào cũng có thể chỉ huy như ý muốn, muốn phát là phát, muốn thu là thu, tất cả đều do tâm ý điều khiển được cả, khắp cơ thể, các đốt tiết cảm thấy thật là thoải mái. Lúc này chàng quên cả việc phải đẩy cánh cửa đá, tiếp tục luyện xuống cấp thứ sáu. Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, chàng đã bước vào cấp thứ bảy.
    Cấp thứ bảy này so với cấp thứ sáu áo diệu gấp bội, không có thể hiểu được một cách dễ dàng. Cũng may là chàng tinh thông y đạo, mạch lý, mỗi khi gặp chỗ khó khăn không hiểu, lại đem y lý ra ấn chứng, nên mọi chỗ chàng đều quán thông. Khi luyện được quá nửa rồi, bỗng thấy khí huyết trào lên, tim đập mạnh. Chàng vội định thần, từ đầu luyện lại, cũng bị y như thế. Từ khi chàng luyện cấp thứ nhất tới chỗ này, chưa bao giờ bị tình trạng như vậy. Chàng bỏ qua mấy câu, luyện tiếp xuống dưới, lại thấy thuận lợi, nhưng được vài câu lại gặp trở ngại. Từ đó về sau, trở ngại mỗi lúc một nhiều, tính ra tổng cộng có tất cả mười chín câu không sao luyện được.
    Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, để tấm da dê lên trên đống đá, cung kính phục xuống, khấu đầu mấy lần, khấn:
    - Đệ tử Trương Vô Kỵ, vô tình tìm được thần công tâm pháp của Minh giáo, chỉ vì mong thoát khỏi khốn cảnh tìm đường sống, quả không có bụng ăn cắp bí tịch của quí giáo. Đệ tử sau khi thoát khỏi hiểm cảnh rồi, sẽ nhất quyết đem thần công này tận lực giúp quí giáo, không dám phụ lòng vun đắp và đại ân cứu mạng của liệt đại giáo chủ.
    Tiểu Siêu cũng quì xuống lạy mấy lạy, hạ giọng khấn thêm:
    - Liệt đại giáo tông ở trên, xin quí ngài phù hộ cho Trương công tử trung hưng Minh giáo, làm sáng tỏ uy danh của liệt tổ.
    Trương Vô Kỵ đứng thẳng lên nói:
    - Tôi đâu có phải là giáo đồ của Minh giáo, theo lời giáo huấn của thái sư phụ tôi, trong tương lai sẽ không thể nào gia nhập Minh giáo được. Thế nhưng sau khi tôi đọc di thư của Dương giáo chủ rồi, biết được tông chỉ của Minh giáo thật là quang minh chính đại, nên thể nào cũng kiệt tận sở năng, cố giải thích những chỗ hiểu lầm cho các đại môn phái, xin hai bên đừng tranh chấp nữa.
    Tiểu Siêu nói:
    - Trương công tử, công tử nói còn mười chín câu chưa luyện xong, sao không nghỉ một lát, cho tinh thần sung túc, biết đâu chả luyện được?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hôm nay tôi đã luyện thần công Càn Khôn Đại Na Di đến cấp thứ bảy rồi, tuy phải bỏ qua mười chín câu, cũng có chút khuyết điểm thực, nhưng cũng như bài hát của cô mới rồi:
    Dù cho thiên địa nhường bao, Cũng chưa toàn vẹn làm sao con người.
    Có lẽ nào tôi không biết đủ, tham lam cốt được thật nhiều? Tôi có phúc trạch công đức gì mà được thần công tâm pháp của Minh giáo? Để lại mười chín câu không luyện, chính là hợp đạo lý đó.
    Tiểu Siêu nói:
    - Công tử nói phải lắm.
    Nàng cầm lấy tấm da dê, hỏi xem Vô Kỵ chỗ nào luyện chưa được, thầm nhẩm lại mấy lần nhớ kỹ mười chín câu đó trong lòng. Trương Vô Kỵ cười hỏi:
    - Cô nhớ để làm gì?
    Tiểu Siêu má đỏ bừng, nói:
    - Chẳng làm gì cả. Cháu thấy công tử mà còn chưa luyện được nên xem thử coi khó đến mức nào.
    Có biết đâu Vô Kỵ là người không coi trọng chuyện gì cả, thấy phải dừng là dừng, chính hợp với đạo “tri túc bất nhục” (biết đủ thì không phải chịu nhục) của cổ nhân. Thì ra năm xưa vị cao nhân sáng chế Càn Khôn Đại Na Di này, nội lực tuy mạnh thật, nhưng cũng chưa tới mức mạnh như Cửu Dương thần công nên cũng chỉ tới cấp thứ sáu là hết. Tâm pháp ông ta viết trong cấp thứ bảy, chính ông ta cũng chưa luyện tới, chỉ do thông minh trí tuệ, tưởng tượng và biến hóa ra mà thôi. Mười chín câu Vô Kỵ luyện không thông, toàn là do vị cao nhân tưởng tượng mà thêm vào, tưởng đúng mà thực ra không phải. Nếu Trương Vô Kỵ là người có cái tâm cầu toàn, nhất định phải luyện cho kỳ được mới thôi, ắt sẽ tẩu hỏa nhập ma ở cái cửa ải sau cùng này, chẳng khùng điên si ngốc thì cũng toàn thân bại liệt, có khi còn đứt kinh mạch táng mạng không chừng.
    Hai người gom góp đất đá, chôn cất di thể hai vợ chồng Dương Đính Thiên xong mới đi đến trước cánh cửa đá. Lần này Trương Vô Kỵ chỉ cần đưa tay phải, để vào một bên cửa, theo đúng phép vận khí của Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hơi sử kình, phiến đá đã kêu kèn kẹt từ từ chuyển động. Chàng vận thêm một phần sức lực nữa, cánh cửa chầm chậm mở ra.
    Tiểu Siêu mừng quá, nhảy cẫng lên, vỗ tay khen ngợi, xích sắt ở tay chân chạm vào nhau, lại kêu leng keng liên hồi. Trương Vô Kỵ nói:
    - Để tôi bứt sợi dây xích lần nữa xem sao.
    Tiểu Siêu cười đáp:
    - Lần này chắc là phải được.
    Trương Vô Kỵ cầm sợi dây xích nối liền hai cánh tay nàng, vận kình kéo ra, dây xích từ từ dài ra, nhưng vẫn không đứt. Tiểu Siêu kêu lên:
    - Ối chao, không ổn rồi. Công tử càng kéo dài chừng nào, thì lại càng bất tiện chừng nấy.
    Trương Vô Kỵ lắc đầu:
    - Cái dây xích này thật quái lạ, e rằng kéo dài đến mấy chục trượng cũng vẫn chưa đứt.
    Thì ra một đời giáo chủ Minh giáo trước đây tìm được một khối vẩn thạch quái dị từ trên trời rơi xuống, trong đó có chứa chất liệu kim khí không như các loại sắt thép khác, các thợ khéo trong Nhuệ Kim Kỳ liền thử đúc binh khí nhưng không xong, nên rèn thành sợi dây xích này. Trương Vô Kỵ thấy Tiểu Siêu ủ rũ nên an ủi cô ta:
    - Cô yên tâm, cứ tin rằng tôi thể nào cũng mở được xích này cho cô. Chúng mình bị kẹt trong giữa chừng núi như thế này cũng còn ra được, sá gì một sợi dây xích nhỏ?
    Chàng muốn tìm Viên Chân báo cừu, quay trở lại cố đẩy hai tảng đá vạn cân kia, tuy chàng đã luyện thành thần công, hai khối đá bị chàng đẩy có chuyển động, nhưng vẫn không chịu mở ra. Chàng lắc đầu, cùng Tiểu Siêu đi trở lại lối cửa đá.
    Khi qua rồi, chàng quay lại đẩy cánh cửa đá lại như cũ, thấy tảng đá này nào có phải là cửa đâu? Thực ra đó chỉ là một khối nham thạch thiên nhiên, dưới dáy có chèn một quả cầu sắt lớn dùng như bản lề. Ngày tháng trôi qua, trái cầu đó hoen rỉ nên khối nham thạch đó khó mà chuyển động. Chàng nghĩ đến năm xưa Minh giáo kiến tạo địa đạo này, sử dụng vô số nhân lực, không biết bao nhiêu năm tháng, bao công phu và tâm huyết.
    Chàng tay cầm bản đồ bí đạo theo đúng đường mà đi, tuy ngoắt ngoéo nhiều lối nhưng không phải mất công gì đã thoát ra được.
    Vừa ra khỏi đường hầm thấy ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt, hai người nhất thời không mở mắt ra được. Qua một lúc sau, mới chầm chậm hé mắt ra, thấy băng tuyết khắp nơi, ánh mặt trời phản lại nên mới càng thêm sáng chói như thế. Tiểu Siêu thổi tắt cây đuốc trên tay, tại bãi tuyết đào một cái lỗ nhỏ chôn cây đuốc xuống, nói:
    - Cây đuốc ơi là cây đuốc, đa tạ ngươi chiếu sáng cho Trương công tử và ta ra khỏi đường hầm, nếu không có ngươi thì bọn ta không thể nào làm được cái gì cả.
    Trương Vô Kỵ cười ha hả, trong lòng thấy sảng khoái, chợt nghĩ lại: “Thế nhân biết bao nhêu là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn tiểu cô nương này đối với một cây củi cũng còn như thế, ắt hẳn là người trung hậu trọng nghĩa”.
    Chàng quay nhìn cô mỉm cười, ánh sáng từ băng tuyết hắt lên khuôn mặt cô gái, thấy nàng da dẻ trắng trẻo, mịn màng như ngọc, nên buột miệng khen:
    - Tiểu Siêu, cô đẹp quá.
    Tiểu Siêu vui mừng nói:
    - Trương công tử, công tử không nói dối đấy chứ?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô đừng giả vờ què chân, gù lưng làm thành quái dị nữa, cứ như thế này thì đẹp biết bao.
    Tiểu Siêu nói:
    - Công tử bảo cháu đừng giả vờ, cháu sẽ không giả vờ nữa. Tiểu thư nếu muốn giết cháu, cháu cũng không giả vờ.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nói bậy nào. Cô có làm gì đâu mà đòi giết cô?
    Chàng lại nhìn cô ta lần nữa, thấy nàng da dẻ trắng hồng, sống mũi hơi cao hơn so với con gái bình thường, tròng mắt ẩn ẩn màu xanh của biển cả, liền nói:
    - Cô là con gái bản địa Tây Vực, có phải không? So với con gái Trung Nguyên chúng tôi, xem có phần đẹp hơn.
    Tiểu Siêu hai lông mày hơi nhướng lên, nói:
    - Cháu chỉ muốn được giống như con gái Trung Nguyên thôi.
    Trương Vô Kỵ đi đến bên bờ đá, nhìn chung quanh, thì ra đang ở giữa lưng chừng một chỏm núi. Khi trước chàng bị Thuyết Bất Đắc bỏ vào trong túi vải vác chạy lên Quang Minh Đính, thành thử không nhận ra địa thế, chẳng biết mình đang ở nơi đâu.
    Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn bốn bề, thấy ở trên triền núi phía tây bắc có mấy hình người nằm yên không cử động, dường như đã chết, liền nói:
    - Mình đến đó xem thử coi thế nào.
    Chàng cầm tay Tiểu Siêu, theo hướng sườn núi đó chạy tới. Lúc này chân khí Cửu Dương thần công trong người lưu chuyển như ý, Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp lại luyện đến cấp thứ bảy, vừa giơ tay, vừa cất bước, người ngoài nhìn thấy không nghĩ là sức người có thể làm được, tuy đã dắt thêm Tiểu Siêu, nhưng thân thể vẫn nhẹ nhàng như một cánh én.
    Khi đến gần, thấy có bốn người nằm chết trên mặt tuyết, máu me vương vãi chung quanh, trên người ai cũng có dấu đao vết kiếm. Trong số đó ba người mặc sắc phục Minh giáo giáo đồ, còn một người là tăng nhân, dường như đệ tử phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ kinh hãi nói:
    - Không xong rồi. Mình bị kẹt trong hang núi quá lâu, sáu đại môn phái đã đánh lên trên Quang Minh Đính rồi.
    Chàng sờ thử tâm khẩu cả bốn người thấy đều lạnh ngắt, hiển nhiên chết cũng đã lâu. Vội vàng nắm tay Tiểu Siêu, theo dấu chân trên tuyết chạy lên. Chạy được độ mươi trượng, lại thấy có bảy người chết trên mặt đất, trông thật ghê rợn.
    Trương Vô Kỵ cực kỳ bồn chồn, nói:
    - Chẳng biết bọn Dương Tiêu tiên sinh và Bất Hối muội tử giờ này ra sao rồi?
    Chàng càng chạy càng nhanh, tưởng như kéo Tiểu Siêu cùng bay vậy, qua một khúc quẹo, thấy có năm giáo đồ Minh giáo bị treo trên cây, tất cả lộn đầu xuống đất, mặt mũi người nào cũng nhầy nhụa máu me, dường như bị cào nát. Tiểu Siêu nói:
    - Đây là bị Hổ Trảo Thủ của phái Hoa Sơn.
    Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:
    - Tiểu Siêu, cô tuổi còn nhỏ, kiến thức sao rộng đến thế, ai dạy cho cô vậy?
    Tuy chàng hỏi câu đó nhưng trong lòng khắc khoải chuyện an nguy trên Quang Minh Đính, không đợi Tiểu Siêu trả lời, lại nắm tay cô tiếp tục chạy lên núi. Trên đường thấy người chết nằm la liệt, phần lớn là giáo đồ Minh giáo, nhưng đệ tử của lục đại môn phái cũng không phải là ít. Có lẽ chàng kẹt trong hang núi một ngày một đêm, lục đại môn phái đã phát động mãnh công. Vì những nhân vật trọng yếu như Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu trong Minh giáo đều bị thương nặng, không ai chỉ huy nên lâm vào thế bất lợi, nhưng chúng giáo đồ tuy ở vào thế lép nhưng vẫn kiệt lực chiến đấu không chịu khuất phục, thành thử tổn thất hai bên đều cao.
    Trương Vô Kỵ chạy đến đỉnh núi, nghe thấy tiếng binh khí chạm nhau, loảng xoảng loảng xoảng thật là khốc liệt, trong lòng hơi yên tâm, nghĩ thầm: “Đánh nhau vẫn chưa xong, lục đại môn phái chưa đánh được tới đại sảnh”. Vội vàng theo hướng đánh nhau chạy tới.
    Đột nhiên nghe vụt một tiếng, ở sau lưng có hai mũi cương tiêu ném tới, tiếp theo có tiếng người quát:
    - Ai đó? Đứng lại.
    Trương Vô Kỵ chân không chậm lại, tay vẫy ngược một cái, hai mũi cương tiêu lập tức quay đầu, chỉ nghe một tiếng “A” thảm thiết, tiếp theo bình một tiếng, có người nào đó đã ngã lăn xuống đất. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, quay đầu nhìn, thấy nằm trên đất là một nhà sư mặc tăng bào màu xám, hai mũi cương tiêu cắm vào đầu vai y. Chàng ngẩn người, không ngờ chỉ vẫy tay một cái, những tưởng chỉ đánh giạt thế bay đến của cương tiêu khỏi trúng người mình, đâu ngờ phẩy tay nhẹ nhàng như thế mà uy lực cũng không phải tầm thường.
    Chàng vội vàng chạy đến xuýt xoa nói:
    - Tại hạ lỡ tay làm đại sư bị thương, thật là đắc tội.
    Giơ tay rút mũi cương tiêu ra. Vai nhà sư Thiếu Lâm máu chảy vọt ra, nhưng không ngờ ông ta thật là dữ tợn, giơ chân đá một cái, nghe bình một tiếng, trúng ngay bụng dưới Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cùng y đứng thật gần nhau, không ngờ ông ta bất ngờ ra tay tấn công, chàng vừa ngẩn người thì tăng nhân kia đã bay vọt trở ra, lưng đụng phải một thân cây, chây trái gãy lìa, miệng hộc máu tươi. Trương Vô Kỵ lúc này trong cơ thể chân khí lưu chuyển, mỗi khi có ngoại lực lập tức sinh phản kích, không khác gì hôm nào chấn gãy đùi của Tĩnh Huyền, nhưng lực đạo bây giờ mạnh hơn nhiều.
    Chàng thấy nhà sư đó bị trọng thương, lòng không an, chạy lên đỡ dậy luôn mồm xin lỗi. Tăng nhân đó hậm hực nhìn chàng, vừa căm tức vừa sợ hãi, tuy có ý muốn xuất chiêu tấn công nhưng không còn hơi sức nào nữa. Bỗng nghe từ trong tường vọng ra mấy tiếng ằng ặc, Trương Vô Kỵ không còn thì giờ nào lo cho nhà sư kia, vội cầm tay Tiểu Siêu, theo đại môn chạy vọt vào, xuyên qua hai sảnh đường, trước mắt là một cái sân lớn.
    Trong sân người đứng đen kịt nhưng phía tây thì ít hơn, mười người thì đến tám máu me lênh láng, kẻ ngồi kẻ nằm, là phe Minh giáo. Còn phía đông người nhiều gấp bội, chia thành sáu nhóm, thành thế bao vây phe Minh giáo lại. Xem ra cả sáu đại môn phái đã có mặt đầy đủ. Trương Vô Kỵ chỉ mới liếc qua đã thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng, Thuyết Bất Đắc cả bọn đều ngồi trong đám giáo đồ Minh giáo, xem ra đều cử động khó khăn. Dương Bất Hối ngồi bên cạnh phụ thân.
    Trong sân có hai người đang giao đấu, mọi người chú tâm vào trận đánh nên Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu tiến vào chẳng một ai lưu tâm. Trương Vô Kỵ dần dần xích lại gần hơn, định thần nhìn kỹ, thấy hai người đều tay không, nhưng chưởng phong kêu vù vù, uy lực bao trùm mấy trượng, hiển nhiên cả hai đều là cao thủ tuyệt đỉnh. Hai người thân hình chuyển động, ra chiêu thật nhanh, đột nhiên bốn chưởng đụng nhau, lập tức hai bên đều bất động, chỉ trong nháy mắt, từ một cảnh vũ động huyền ảo biến thành lặng như tờ. Những người đứng chúng quanh đều cùng kêu lên:
    - Hay thật.
    Trương Vô Kỵ bấy giờ nhìn rõ diện mạo hai người, trong lòng chấn động. Thì ra người tuổi trạc trung niên, thân hình bé nhỏ, nét mặt cương nghị kia chính là tứ hiệp Trương Tùng Khê của phái Võ Đương. Đối thủ của ông ta là một ông già đầu hói cao to, mi dài trắng như tuyết, rủ xuống một bên khóe mắt, mũi khoằm khoằm trông như mỏ chim diều hâu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Không ngờ Minh giáo lại có một cao thủ cỡ này, chẳng biết ai đây?”.
    Bỗng nghe từ trong phía phái Hoa Sơn có người kêu lên:
    - Này lão già Bạch Mi kia, mau nhận thua đi thôi, ngươi làm sao có thể đối địch được với Trương tứ hiệp của phái Võ Đương?
    Trương Vô Kỵ nghe thấy “lão già Bạch Mi” trong lòng chấn động: “A, thì ra người này … người này … người này chính là ông ngoại ta Bạch Mi Ưng Vương”. Chàng trong bụng nảy ra một mối trìu mến thiết tha, muốn chạy lên ngay để nhận người thân.
    Trên đỉnh đầu Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính đều có hơi nóng bốc lên, hai người trong giây lát đã đem tất cả nội gia chân lực bình sinh khổ luyện ra sử dụng. Một người là giáo chủ Thiên Ưng giáo, một trong tứ đại Hộ Giáo pháp vương, một người là đệ tử đắc ý của Trương Tam Phong, đứng trong Võ Đương thất hiệp uy chấn thiên hạ, xem ra chỉ trong giây lát ai thắng ai bại sẽ biết ngay.
    Cả Minh giáo lẫn người trong lục đại môn phái ai ai cũng nín thở đứng xem, lo cho người của phe mình, biết rằng cuộc đấu này, không phải chỉ là uy danh Minh giáo và phái Võ Đương mà là một cuộc thi chân lực, người thua có thể mất mạng như chơi. Hai người bây giờ như hai tượng đá, ngay cả tóc và áo quần cũng không lay động chút nào.
    Ân Thiên Chính thần uy lẫm lẫm, hai mắt lấp lánh như điện, còn Trương Tùng Khê thì sử dụng yếu chỉ tâm pháp của phái Võ Đương, lấy nhàn nhã chống nhọc mệt, lấy tĩnh chế động, thủ vệ cực kỳ nghiêm mật. Ông biết Ân Thiên Chính lớn hơn mình đến hai mươi tuổi, nội lục tu luyện cao thâm hơn hai mươi năm, nhưng mình thì đang lúc trai tráng sức lực dồi dào, còn đối phương niên kỷ đã cao thể chất suy yếu, càng giữ được lâu chừng nào, càng có cơ thắng thế.
    Nào ngờ Ân Thiên Chính là một kỳ nhân trong võ lâm, tuổi tác tuy lớn nhưng tinh lực không kém gì khi còn trẻ, nội kình vẫn như sóng biển, liên miên bất tuyệt hết đợt này đến đợt khác, theo song chưởng ào ào tấn công Trương Tùng Khê.
    Trương Vô Kỵ khi mới thấy Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính trong lòng mừng rỡ, nhưng lập tức vui biến thành lo, một người là ông ngoại mình, có tình máu mủ; một người là sư huynh của phụ thân, đối với chàng cũng chẳng khác gì con ruột, năm xưa khi bị trúng Huyền Minh thần chưởng, chư hiệp phái Võ Đương không ai ngại tiêu hao nội công, tận tâm kiệt lực chữa bệnh cho mình. Nếu một trong hai người có ai bị thương hay chết, trong lòng chàng không khỏi cực kỳ hối tiếc.
    Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, đang định tìm cách tiến lên sách giải, bỗng nghe Trương Tùng Khê và Ân Thiên Chính cùng quát lên một tiếng, bốn chưởng phát lực, hai người cùng lui về sáu bảy bước.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Ân lão tiền bối thần công trác tuyệt, bội phục bội phục.
    Ân Thiên Chính cũng cất tiếng vang vang như chuông, nói:
    - Công phu tu luyện nội gia của Trương huynh siêu phàm nhập thánh, lão phu tự thẹn không sao bằng được. Các hạ là đồng môn sư huynh của tiểu tế, không lẽ hôm nay phải nhất quyết phân thắng bại mới xong hay sao?
    Trương Vô Kỵ nghe thấy ông đề cập đến cha mình, nước mắt lập tức trào ra, trong bụng không ngớt kêu thầm: “Thôi đừng đánh nhau nữa, đừng đánh nữa”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:54:10 | Chỉ xem của tác giả
   Trương Tùng Khê nói:
    - Vừa rồi vãn bối lùi nhiều hơn một bước, đã thua nửa chiêu rồi.
    Nói rồi khom mình vái chào, thần định khí nhàn lui xuống. Đột nhiên từ phái Võ Đương một hán tử chạy ra, chỉ vào Ân Thiên Chính giận dữ nói:
    - Lão họ Ân, ông không đề cập đến Trương ngũ ca của tôi thì không nói. Hôm nay nhắc đến chỉ càng làm cho chúng tôi thêm tức tối. Du tam ca và Trương ngũ ca hai người của chúng tôi, đều bị hại vì tay Thiên Ưng giáo cả, thù này không báo, thật uổng cho Mạc Thanh Cốc này mang cái tên Võ Đương thất hiệp.
    Nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã rút ra khỏi vỏ, ánh mặt trời chiếu vào lấp lánh, theo tư thức Vạn Nhạc Triều Tông[5]. Đây là thế khởi đầu của đệ tử phái Võ Đương mỗi khi động thủ quá chiêu với trưởng bối, Mạc Thanh Cốc tuy lửa giận bừng bừng, nhưng dẫu sao cũng vẫn là một cao thủ võ lâm có danh phận, trước cảnh bao người đổ dồn vào mình, nhất cử nhất động vẫn không để cho khiếm lễ.
    Ân Thiên Chính thở dài một tiếng, trên mặt thoáng vẻ u buồn, chậm rãi nói:
    - Lão phu từ khi tiểu nữ qua đời rồi, không muốn sử dụng đao kiếm nữa. Thế nhưng nếu tay không động thủ quá chiêu với Võ Đương chư hiệp thì quả thực là đại bất kính.
    Ông chỉ vào một giáo đồ Minh giáo tay cầm thiết côn nói:
    - Cho ta mượn cây gậy một chút.
    Tên giáo đồ cầm ngang cây côn tề mi bằng thép đúc, khom lưng cung kính dâng lên. Ân Thiên Chính tiếp lấy thiết côn, hai tay bẻ một cái, nghe cắc một tiếng, cây gậy sắt đã gãy làm đôi.
    Nhừng người chung quanh đứng xem đều “Chà” một tiếng, không ngờ ông già sau khi chiến đấu lâu, vẫn còn thần lực kinh người như thế. Mạc Thanh Cốc biết ông ta không ra chiêu trước, trường kiếm vung lên, sử chiêu Bách Điểu Triều Phượng tấn công. Chỉ thấy mũi kiếm rung động không ngừng, trong giây lát biến thành hàng mấy chục lưỡi kiếm đâm vào trung bàn đối phương, chiêu này tuy lợi hại thật nhưng vẫn là một kiếm pháp đầy lễ nghĩa.
    Cây gậy bên trái của Ân Thiên Chính liền chặn ngang, nói:
    - Mạc thất hiệp không phải khách khí.
    Cây gập phía bên phải liền đánh tiếp tới. Hai bên qua lại mấy chiêu, những người chung quanh ai nấy đều rúng động. Kiếm pháp Mạc Thanh Cốc thì nhẹ nhàng linh hoạt, ánh sáng lấp lánh như cầu vồng, mỗi khi bung ra thu lại, vừa ngưng trọng, vừa tiêu dật quả đúng là phong phạm của bậc danh gia. Còn hai thanh thiết côn của Ân Thiên Chính vốn dĩ nặng nề chậm chạp, chiêu số cũng sơ sài tầm thường, đánh đông một cái, đập tây một cái, chẳng thành bài bản gì, nhưng những nhân sĩ hiểu biết rộng, biết ông sử dụng đường lối đại trí nhược ngu, đại xảo nhược chuyết[6] là một cảnh giới cực cao thâm của võ học.
    Bước chân của ông ta di động cũng hết sức chậm chạp, trong khi đó Mạc Thanh Cốc lúc vọt lên cao, khi rùn xuống thấp, lúc chạy bên đông, khi lách bên tây chỉ trong thời gian uống một chén trà đã tung ra liên tiếp sáu mươi chiêu sát thủ thật là ghê gớm.
    Hai bên tiếp tục đấu thêm vài chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Mạc Thanh Cốc mỗi lúc một nhanh. Các phái Côn Lôn, Nga Mi đều lấy kiếm pháp làm chủ, các đệ tử thấy thanh kiếm trong tay Mạc Thanh Cốc biến hóa như thế, trong bụng ai cũng khâm phục: “Kiếm pháp phái Võ Đương quả nhiên danh bất hư truyền, hôm nay mới được mở tầm mắt”. Thế nhưng dù chàng chặt đâm chém kéo cách nào cũng vẫn không sao tấn công qua khỏi hai thanh côn nghiêm thủ của Ân Thiên Chính. Mạc Thanh Cốc nghĩ thầm: “Lão già này liên tiếp đánh bại ba cao thủ của Hoa Sơn, Thiếu Lâm, lại đấu nội lực với tứ ca, ta là người thứ năm đấu với ông ta, thực là được lợi nhiều lắm, nếu không thắng nổi, thể diện sư môn còn tồn tại làm sao được?”.
    Chàng hú lên một tiếng thanh thoát, kiếm pháp đột nhiên biến đổi, thanh trường kiếm biến thành như một sợi dây lưng, vừa nhẹ vừa mềm lúc cong lúc thẳng phiêu hốt bất định, chính là bảy mươi hai chiêu Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm của phái Võ Đương.
    Những người chung quanh xem đến chiêu thứ mười hai, mười ba, đều không nhịn nổi cùng lên tiếng khen hay. Lúc này Ân Thiên Chính không còn có thể tiếp tục giữ phương cách vụng về chống lại xảo diệu, mà phải chạy vùn vụt, thi triển khinh công lấy nhanh chống nhanh. Đột nhiên trường kiếm của Mạc Thanh Cốc bay vụt ra đâm thẳng vào ngực Ân Thiên Chính, kiếm đang đi giữa chừng, mũi kiếm hơi rung động, đã cong lại, đâm xéo vào vai bên phải đối phương. Lộ Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm này toàn dựa vào nội lực hồn hậu uốn cong mũi kiếm, khiến cho kiếm chiêu biến đổi vô thường, địch nhân khó mà tránh né. Ân Thiên Chính chưa từng thấy kiếm pháp này bao giờ, vội vàng hạ vai xuống tránh né, không ngờ nghe keng một tiếng nhỏ, thanh kiếm bật trở lại, đâm thẳng vào cánh tay bên trái. Ân Thiên Chính vươn tay phải ra, không hiểu làm cách nào, cánh tay dài thêm nửa thước, phất vào cổ tay Mạc Thanh Cốc, đoạt luôn thanh trường kiếm, đồng thời tay trái đã ấn vào huyệt Kiên Trinh.
    Ưng Trảo Cầm Nã Thủ của Bạch Mi Ưng Vương là nhất tuyệt của võ lâm trong khoảng một trăm năm nay, đương thế không ai có thể sánh kịp. Đầu vai của Mạc Thanh Cốc đã bị ông ta nắm được, năm ngón tay chỉ cần vận kình, vai của Mạc Thanh Cốc sẽ nát vụn, chung thân tàn phế. Chư hiệp phái Võ Đương giật mình kinh hãi, toan xông ra tương trợ nhưng thế không kịp nữa rồi.
    Ân Thiên Chính thở dài một tiếng, nói:
    - Nhất chi vi thậm, kỳ khả tái hồ?[7] Ông buông tay ra, tay phải thu về rút thanh kiếm ra, vết thương trên cánh tay máu chảy ra như suối. Ông ngưng thần nhìn vào thanh kiếm một hồi, nói:
    - Lão phu tung hoành nửa đời trong thiên hạ, chưa từng thua ai nửa chiêu một thức. Trương Tam Phong hay thật, Trương chân nhân giỏi thật.
    Ông ca ngợi Trương Tam Phong vì khâm phục ông đã sáng chế bảy mươi hai chiêu Nhiễu Chỉ Nhu Kiếm thần diệu khôn lường, chính mình không sao né tránh nổi.
    Mạc Thanh Cốc đứng xuất thần tại đương trường, bản thân tuy thắng trước một chiêu, nhưng đối phương rõ ràng cố ý không hạ sát thủ tổn thương đến mình, ngơ ngẩn một lát rồi nói:
    - Cảm ơn tiền bối thủ hạ lưu tình.
    Ân Thiên Chính không nói một lời, đem trường kiếm giao trả lại chàng. Mạc Thanh Cốc tinh cứu kiếm pháp, vậy mà để đến nỗi binh khí trong tay bị người ta lấy mất, thẹn thùng không để đâu cho hết, không nhận thanh kiếm vội lui về.
    Trương Vô Kỵ xé vội một mảnh áo, đang định tiến lên băng bó cho ông ngoại, bỗng thấy từ phái Võ Đương bước ra một người, râu đen dài tới ngực, chính là Tống Viễn Kiều đứng đầu Võ Đương thất hiệp. Tống Viễn Kiều nói:
    - Xin để tại hạ băng bó cho lão tiền bối.
    Từ trong bọc lấy ra kim sang, đắp lên vết thương cho Ân Thiên Chính, rồi lấy khăn buộc lại. Thiên Ưng giáo và Minh giáo thấy Tống Viễn Kiều mặt đầy chính khí, nghĩ rằng ông ta là người đứng đầu trong Võ Đương thất hiệp, không thể nào công nhiên hạ độc gia hại bên mình. Ân Thiên Chính nói một tiếng:
    - Đa tạ.
    Mặt vẫn thản nhiên không nghi ngờ gì. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm: “Tống sư bá băng bó vết thương cho ông ngoại ta, chắc là vì cảm kích ông không giết Mạc thất thúc, hai bên chắc có thể giao hảo với nhau”.
    Tống Viễn Kiều băng bó vết thương xong, lùi lại một bước, phất tay áo một cái, nói:
    - Tống mỗ xin lãnh giáo cao chiêu của lão tiền bối.
    Câu nói đó quả thật ngoài sở liệu của Trương Vô Kỵ khiến chàng nhịn không nổi phải kêu lên:
    - Tống đại … Tống đại hiệp, dùng xa luân chiến đánh một người già, không công bình tí nào cả.
    Câu đó nói ra ai nấy đều quay lại nhìn thanh niên áo quần lam lũ. Trừ phái Nga Mi, cùng với Tống Thanh Thư, Ân Lê Đình, Dương Tiêu, Thuyết Bất Đắc một số ít người, không ai biết lại lịch của chàng ra sao, không khỏi ngạc nhiên.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Vị tiểu bằng hữu kia nói vậy đúng lắm. Oán thù riêng giữa Thiên Ưng giáo và phái Võ Đương, hôm nay tạm không đề cập đến. Hiện giờ là lục đại môn phái và Minh giáo một trận sinh tử mất còn, phái Võ Đương đứng ra thách đấu với Minh giáo.
    Mắt Ân Thiên Chính từ từ lướt qua một vòng, thấy Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Bành hòa thượng cả bọn ai nấy đều tê liệt bất động, còn những cao thủ của Thiên Ưng giáo và Ngũ Hành Kỳ ai không chết thì cũng bị thương, chính con trai mình là Ân Dã Vương cũng hôn mê nằm dưới đất, sống chết chưa biết thế nào, trong cả Minh giáo lẫn Thiên Ưng giáo ngoài mình ra, không một ai có thể chống đỡ nổi quyền chiêu kiếm pháp của Tống Viễn Kiều. Thế nhưng mình đã liên tiếp đánh với năm cao thủ, chân khí không còn tinh thuần như trước, lại thêm vết thương trên tay cũng không phải là nhẹ.
    Ân Thiên Chính còn đang suy tính, bỗng nghe một lão già thấp bé trong phái Không Động lớn tiếng nói:
    - Ma giáo dĩ nhiên thua sạch sành sanh rồi, không đầu hàng còn đợi gì nữa? Không Trí đại sư, bọn mình lên phá hủy bài vị của ba mươi ba đời giáo chủ là vừa.
    Phương trượng chùa Thiếu Lâm Không Văn đại sư ở lại trấn thủ bản viện Tung Sơn, lần này vây đánh Quang Minh Đính, đệ tử phái Thiếu Lâm do Không Trí đại sư cầm đầu. Các phái kính trọng địa vị và tên tuổi của phái Thiếu Lâm, nên cử ông ta làm người chỉ huy ra lệnh trong chuyến tấn công Quang Minh Đính này.
    Không Trí chưa kịp trả lời, từ phái Hoa Sơn một người nói:
    - Cái gì mà đầu hàng với chả không đầu hàng? Tất cả bọn ma giáo hôm nay không để một tên nào sống sót. Nhổ cỏ phải nhổ sạch cả rễ, nếu không mai này chúng nó lại nổi lên làm hại giang hồ. Bọn chó má kia, khôn hồn thì mau mau tự vẫn để khỏi mất công chúng ông ra tay.
    Ân Thiên Chính ngầm vận khí, thấy vết thương trên vai đâm sâu tới xương, đau ngâm ngẩm từng chập, biết rằng Tống Viễn Kiều theo học Trương Tam Phong lâu hơn cả, thâm đắc chân truyền của vị võ học đại tông sư, mình khi còn khí lực tinh thần đầy đủ đấu với ông ta, cũng chưa biết mèo nào cắn mỉu nào, huống chi lúc này?
    Thế nhưng các cao thủ Minh giáo kẻ chết người bị thương, chỉ còn một mình mình chủ trì đại cuộc, thôi đành hi sinh cái mạng già, mình chết không có gì buồn, hận là một đời anh danh hôm nay đành dứt.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Ân lão tiền bối, phái Võ Đương và Thiên Ưng giáo cừu thâm tự hải, nhưng chúng tôi không muốn nhân lúc người ta lâm nguy, chuyện này thôi để ngày sau thanh toán. Sáu môn phái hôm nay đến đây là vì Minh giáo, Thiên Ưng giáo đã tách ra khỏi Minh giáo rồi, tự lập môn hộ, trên chốn giang hồ ai ai cũng biết cả. Ân lão tiền bối hà tất phải trộn chung vào trong vụ này làm gì? Xin cùng tất cả người trong quí giáo hạ sơn đi.
    Phái Võ Đương vì vụ Du Đại Nham kết một mối oán thù thật sâu cùng Thiên Ưng giáo, việc này các phái đều biết, bây giờ nghe thấy Tống Viễn Kiều mở đường cho Thiên Ưng giáo có lối thoát, ai nấy hết sức lạ lùng, nhưng hiểu ngay Tống Viễn Kiều quang minh lỗi lạc, không muốn chiếm lợi thế trong lúc này.
    Ân Thiên Chính cười ha hả, nói:
    - Hảo ý của Tống đại hiệp, lão phu xin tâm lãnh. Lão phu là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương, tuy đã lập thành môn hộ riêng, nhưng Minh giáo gặp nạn, đâu có thể nào đứng ngoài? Hôm nay chỉ còn cái chết mà thôi, xin Tống đại hiệp tiến chiêu đi.
    Nói xong tiến tới một bước, hai bàn tay thủ thế trước ngực, đôi lông mày trắng hơi rung động, trông thật uy võ. Tống Viễn Kiều nói:
    - Nếu đã thế, xin đắc tội.
    Nói xong tay trái đưa ra, chưởng phải áp vào lòng bàn tay, dùng chiêu Thỉnh Thủ Thức đánh ra, là chiêu số của hậu bối đánh với tiền bối trong quyền pháp của phái Võ Đương.
    Ân Thiên Chính thấy ông ta hơi khom lưng cúi mình, có dáng vái chào liền nói:
    - Không phải khách khí.
    Nói xong hai tay vòng lại, thủ tại tâm khẩu. Cứ theo quyền lý, Tống Viễn Kiều ắt sẽ tiến lên, vươn tay đánh ra, nào ngờ ông ta quả có đánh ra, nhưng lại không tiến về trước. Quyền đó đánh ra, còn cách Ân Thiên Chính đến hơn một trượng. Ân Thiên Chính kinh hãi: “Không lẽ quyền thuật phái Võ Đương lợi hại đến thế sao, đã luyện được Cách Sơn Đả Ngưu thần công chăng?”. Ông không dám chậm trễ, vận nội kình lên, tay phải vung ra để gạt quyền lực của Tống Viễn Kiều.
    Không ngờ chưởng gạt ra, trước mặt chỉ thấy trống không, không hề đụng phải kình lực nào, trong lòng không khỏi lạ lùng. Lại nghe Tống Viễn Kiều nói:
    - Đã ngưỡng mộ võ học cao thâm của tiền bối từ lâu, gia sư vẫn thường ca ngợi. Thế nhưng lúc này tiền bối đã đấu với mấy người liền, vãn bối vẫn còn nguyên sức lực, giao đấu với nhau thì không công bình chút nào. Thôi mình chỉ so sánh chiêu số, không tỉ sức lực.
    Ông vừa nói vừa giơ chân đá ra. Cú đá đó cũng chỉ là hư chiêu, còn cách đối phương hơn một trượng nhưng cước pháp tinh diệu, phương vị lạ lùng, quả thực không ai ngờ nổi, nếu như công kích gần bên, quả thực cực kỳ khó chống đỡ. Ân Thiên Chính khen ngợi:
    - Hảo cước pháp.
    Lấy công làm thủ, múa chưởng tấn công. Tống Viễn Kiều nghiêng người né tránh, trả lại một chưởng. Trong giây lát hai người đánh qua đá lại, đấu cực kỳ hăng hái, nhưng lúc nào cũng vẫn cách nhau hơn một trượng. Tuy chiêu không đụng tới người, toàn là đánh hờ cả, nhưng hai người đều có danh phận, một chiêu nào thất lợi, chiêu nào trội hơn đều tự mình biết cả. Hai người cùng hết tâm hết sức, không dám sơ sẩy chút nào, chẳng khác gì giao đấu đụng chạm thực sự.
    Người đứng chung quanh không ít những võ học cao thủ, thấy Tống Viễn Kiều dùng phương pháp nhu khắc cương, quyền cước tung ra thực là nhanh, còn Ân Thiên Chính lúc mở lúc đóng, chiêu số lấy cương làm chủ, nhưng cũng không chậm hơn chút nào. Hai người theo chiêu mà đỡ gạt, khi thủ khi công, tưởng như đang luyện quyền, đánh hờ với nhau nhưng thực ra là đang đấu rất kịch liệt.
    Trương Vô Kỵ khi trước thấy Ân Thiên Chính đấu với Trương Tùng Khê và Mạc Thanh Cốc, vì quan hoài an nguy của cả hai bên thân thuộc, nên không chăm chú quan sát chiêu số, lúc này thấy Tống Viễn Kiều và Ân Thiên Chính hai người đứng xa xa đấu với nhau, biết rằng chỉ có chuyện phân thắng bại, chứ không có hiểm nguy sống chết nên hết sức quan sát chiêu số của hai người. Xem một lúc thấy hai người ra chiêu mỗi lúc một nhanh, nhưng càng coi lại càng không hiểu tại sao: “Ông ngoại ta và Tống đại sư bá đều là cao thủ hạng nhất trong võ lâm, nhưng chiêu số đánh ra sao vẫn còn có nhiều sơ hở như thế? Quyền này của ông ngoại đánh xéo về bên trái nửa thước, không phải là trúng ngay ngực Tống đại bá hay sao? Còn trảo kia của Tống đại bá nếu chậm lại một chút, có phải chộp được cánh tay ông ngoại ta rồi ư? Không lẽ hai người cố ý nhường nhau? Thế nhưng xem tình hình thì dường như không phải vậy”.
    Thực ra Ân Thiên Chính và Tống Viễn Kiều tuy đấu với nhau không đụng chạm, chiêu số không nhường nhau chút nào. Trương Vô Kỵ học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp rồi, công phu võ học so với hai người cao hơn một bậc. Thành thử chàng nhìn thấy chiêu số của Ân, Tống hai người có những sơ hở cũng không có gì lạ.
    Trương Vô Kỵ có biết đâu rằng chàng vì có Cửu Dương thần công thành thử mới nhìn ra được những chiêu số để có thể khắc chiêu thắng địch nhưng Tống, Ân hai người vì tài nghệ chưa đến mức đó nên không thể nào nghĩ đến chỗ tinh diệu như thế được. Việc đó cũng chẳng khác gì một con chim bay trên cao nhìn thấy con sư tử đánh nhau với con hổ, không thể không nghĩ rằng: “Sao không bay từ trên cao chụp xuống có phải thắng được rồi ư?” Có biết đâu tuy sư tử và hổ báo dẫu là những con vật hung tợn mạnh bạo đứng đầu trong các loài thú nhưng cũng không thể nào bay từ cao nhào xuống được. Trương Vô Kỵ kiến thức chưa đủ nên không nghĩ ra nguyên nhân này.
    Bỗng thấy Tống Viễn Kiều chiêu số biến đổi, song chưởng phi vũ tưởng như những bông tuyết bay phất phới mềm mại không một chút lực khí chính là Miên Chưởng của phái Võ Đương. Ân Thiên Chính quát lên một tiếng, đánh ra một quyền. Hai người một bên chí nhu, một bên chí cương đều thi triển tuyệt kỹ của mình. Hai bên sắp gặp nhau, Tống Viễn Kiều chưởng trái đánh ra, còn chưởng phải đánh sau mà tới trước, kế đến chưởng trái xéo xuống, lại từ sau tiến lên. Ân Thiên Chính thấy cả nửa người trên của mình bị chưởng thế của Tống Viễn Kiều bao phủ, rống lên một tiếng, song chưởng đánh ra một chiêu Đinh Giáp Khai Sơn. Hai bên song chưởng song quyền, đều giơ ra trên không, cùng đứng như trời trồng. Hai người sách đến chiêu này, trừ việc tỉ đấu nội lực không còn cách nào khác. Thế nhưng hai người còn cách nhau đến hơn một trượng, bốn cánh tay chỉ hư đấu mà thôi, trông thì có vẻ quái lạ, nhưng nếu đứng gần nhau thì đây là lúc hung hiểm hơn cả.
    Tống Viễn Kiều mỉm cười, thu chưởng nhảy về sau nói:
    - Quyền pháp của lão tiền bối thực là tinh diệu, bội phục bội phục.
    Ân Thiên Chính cũng thu quyền lại, nói:
    - Quyền pháp của phái Võ Đương quả nhiên quán tuyệt cổ kim.
    Hai người không tỉ đấu nội lực, đấu đến lúc này không còn cách gì có thể tiếp tục, coi như hai bên hòa nhau. Phái Võ Đương tuy còn Du Liên Châu và Ân Lê Đình chưa ra đấu, nhưng thấy mặt Ân Thiên Chính đỏ bừng, trên đầu nhiệt khí bốc lên, biết cuộc đấu vừa qua tuy không hao tổn nội lực, nhưng đối thủ quá cao cường nên cũng phải kiệt tận tâm trí, thấy tình cảnh ông ta như chiếc cung đã giương quá đà, Ân Du dù ai tiến ra thách đấu cũng đều có thể đánh ngã được, được cái tiếng "đánh bại Bạch Mi Ưng Vương". Du Liên Châu và Ân Lê Đình hai người nhìn nhau, đều lắc đầu, nghĩ thầm: “Nhân lúc người ta đang nguy mà tấn công, có thắng cũng không phải là thượng võ”.
    Thế nhưng Võ Đương nhị hiệp không “thừa nhân chi nguy” nhưng người khác đâu phải ai cũng có phong phạm quân tử như thế. Từ phái Không Động một lão già bé nhỏ nhảy vọt ra, chính là kẻ mới rồi hô hoán lên đốt bài vị giáo chủ Minh giáo, nhẹ nhàng rớt ngay trước mặt Ân Thiên Chính, nói:
    - Ta họ Đường muốn đấu chơi với lão Ân.
    Giọng nói của y cực kỳ hỗn láo. Ân Thiên Chính liếc một cái, hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Lúc bình thường, Ân mỗ có coi Không Động ngũ lão ra gì đâu? Hôm nay hổ xuống đồng bằng đến con chó cũng lờn mặt, một đời anh danh của ta, nếu có chết dưới tay Võ Đương thất hiệp cũng còn được nhưng quyết không thể để cho tên khốn nạn Đường Văn Lượng này được cái danh đó”. Tuy toàn thân xương cốt đã nhão nhừ, chỉ muốn nằm lăn ra ngủ một giấc, nhưng hào khí trong người bùng lên, đôi lông mày trắng xóa dựng lên, quát lớn:
    - Thằng nhãi kia, tiến chiêu đi.
    Đường Văn Lượng biết ông ta nội lực mười phần tiêu hao đến tám chín, chỉ cần đấu một hồi, không cần ra tay đối phương cũng tự ngã xuống, xoa tay một cái, chui tọt ra sau lưng Ân Thiên Chính, phát quyền đánh vào sau lưng. Ân Thiên Chính nghiêng người đánh ngược lại, Đường Văn Lượng lập tức nhảy lùi ra, chân y thật là nhanh nhẹn chẳng khác gì một con khỉ, nhảy nhót không ngừng. Đấu được vài hiệp, Ân Thiên Chính thấy mắt tối sầm, cổ họng mằn mặn, một ngụm máu tươi vọt ra, đứng không vững, ngã chúi xuống.
    Đường Văn Lượng mừng rỡ, quát lên:
    - Ân Thiên Chính, hôm nay cho ngươi chết dưới quyền của Đường Văn Lượng này.
    Trương Vô Kỵ thấy Đường Văn Lượng nhảy lên, từ trên cao đánh xuống, đang toan nhảy ra cứu ông ngoại mình, thấy Ân Thiên Chính tay phải đánh chéo lên, tư thế thực đẹp, chính là sát thủ đối phó với kẻ địch tấn công từ trên xuống, hai người gần nhau như thế, xem ra Đường Văn Lượng không còn cách nào tự cứu. Quả nhiên chỉ nghe lách cách hai tiếng, hai cánh tay Đường Văn Lượng đã bị Ân Thiên Chính thi triển Ưng Trảo Cầm Nã Thủ bẻ gẫy, lại lách cách hai tiếng nữa, hai xương đùi cũng gãy luôn, nghe bình một tiếng, văng ra ngoài mấy thước. Bốn tay chân y bị gãy rồi không sao cử động được nữa. Những người chung quanh thấy Ân Thiên Chính bị thương nặng mà còn thần uy như thế, không ai là không kinh ngạc.
    Lão thứ ba trong ngũ lão bị thảm bại như thế, phái Không Động người nào người nấy mặt mày xám ngắt, thấy Đường Văn Lượng nằm bên Ân Thiên Chính nhưng vì khoảng cách quá gần, không một ai dám chạy lên đỡ y về.
    Một lúc sau, một gã cao to lưng còng trong phái Không Động hung hăng tiến lên một bước, chân phải hất một hòn đá về phía Ân Thiên Chính, mồm nói:
    - Lão Bạch Mi, họ Tông này lên thanh toán món nợ cũ.
    Tên này là người thứ hai trong Không Động ngũ lão, tên là Tông Duy Hiệp[8]. Y nói “thanh toán nợ cũ”, hẳn là đã từng bị thất thế trong tay Ân Thiên Chính.
    Hòn đá bay tới, nghe bốp một tiếng, trúng ngay góc trán Ân Thiên Chính, lập tức máu chảy ròng ròng. Biến cố đó khiến ai nấy giật mình kinh hãi, Tông Duy Hiệp đá viên sỏi nọ đâu có nghĩ rằng sẽ trúng được Ân Thiên Chính, nào ngờ lúc này ông ta đã nửa tỉnh nửa mê, không sao tránh được. Cứ tình thế này, Tông Duy Hiệp chỉ cần đi lên nhấn một ngón tay, cũng đã giết được ông ta rồi.
    Tông Duy Hiệp vung tay phải lên, hiên ngang bước tới thì phái Võ Đương một người bước ra, trên người trường bào vải thô, thần tình quê mùa, chính là nhị hiệp Du Liên Châu. Ông hơi lắc mình đã chặn ngay trước mặt Tông Duy Hiệp, nói:
    - Tông huynh, Ân giáo chủ đã bị trọng thương, có thắng cũng không mã thượng chút nào, không cần Tông huynh phải nhọc lòng ra tay. Ân giáo chủ với tệ phái có liên hệ thật sâu xa, chuyện này để cho tiểu đệ lo vậy.
    Tông Duy Hiệp đáp:
    - Cái gì mà trọng thương? Gã này giỏi giả chết lắm, nếu không phải vì y giở trò ma mãnh, Đường tam đệ đâu có bị lọt vào bẫy của y. Du nhị hiệp, quí phái có dây mơ rễ má với y, anh em ta cũng có chuyện qua chuyện lại, để ta đánh y ba quyền cho bõ tức đã.
    Du Liên Châu không muốn một đời anh hùng của Ân Thiên Chính lại chết thảm như thế, nghĩ đến Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nên nói:
    - Thất Thương Quyền của Tông huynh thiên hạ ai ai cũng biết, Ân giáo chủ hiện như thế này, làm sao chịu nổi ba quyền của Tông huynh?
    Tông Duy Hiệp đáp:
    - Được rồi, y đánh gãy tứ chi của Đường tam đệ, để ta bẻ gãy bốn tay chân của y lại là xong. Cái đó gọi là báo ứng nhãn tiền nhanh thế đấy.
    Y thấy Du Liên Châu hơi chần chừ, liền cao giọng nói:
    - Du nhị hiệp, sáu đại môn phái trước khi qua Tây Vực đã thề với nhau, sao hôm nay ngươi lại quay qua bảo vệ thủ lãnh của ma giáo là thế nào?
    Du Liên Châu thở dài một tiếng, nói:
    - Lúc này để ngươi làm gì thì làm. Về Trung Nguyên rồi, Du mỗ thể nào cũng xin lãnh giáo Thất Thương Quyền thần công của Tông nhị tiên sinh.
    Tông Duy Hiệp trong lòng hãi sợ: “Gã họ Du này lại cứ bênh lão họ Ân cho bằng được là sao?”. Y đối với phái Võ Đương quả có điều úy kỵ, nhưng trước mắt bao nhiêu người đổ dồn vào, không dám lộ vẻ yếu thế, liền cười nhạt:
    - Việc thiên hạ không qua khỏi chữ lý. Phái Võ Đương các ngươi đừng cậy mạnh, cũng đừng ỷ thế hoành hành.
    Câu nói đó rõ ràng nói chạm đến Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều liền nói:
    - Nhị đệ, mặc kệ y.
    Du Liên Châu lớn tiếng nói:
    - Thật là anh hùng , thật là hảo hán.
    Nói xong lui xuống. Mấy chữ “Thật là anh hùng , thật là hảo hán” dùng để khen ngợi Ân Thiên Chính, mà cũng để mỉa mai Tông Duy Hiệp. Tông Duy Hiệp không muốn gây thù chuốc oán với phái Võ Đương, làm như không nghe, thấy Du Liên Châu vừa bước ra, y liền đi thẳng tới chỗ Ân Thiên Chính. Không Trí đại sư của phái Thiếu Lâm lớn tiếng ra lệnh:
    - Các vị phái Hoa Sơn và phái Không Động, xin tru diệt tất cả các dư nghiệt của ma giáo tại đương trường. Phái Võ Đương đi từ tây sang đông lục soát, phái Nga Mi đi từ đông sang tây lục soát, không để ma giáo lọt lưới một người nào. Phái Côn Lôn dự bị củi lửa, thiêu hủy sào huyệt của ma giáo.
    Ông ta ra lệnh cho năm phái xong, chắp hai tay nói:
    - Đệ tử phái Thiếu Lâm lấy pháp khí ra, tụng niệm kinh văn vãng sinh, để siêu độ cho anh hùng các môn phái cùng giáo chúng ma giáo tuẫn nạn để hóa trừ oan nghiệt.
    Mọi người chỉ chờ Tông Duy Hiệp một quyền đánh chết Ân Thiên Chính là công cuộc vi tiễu ma giáo của lục đại môn phái đại công cáo thành. Ngay giờ phút đó, các giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo biết hôm nay là ngày tận số, các giáo đồ ai nấy đều cố gắng ngồi dậy, trừ những người bị trọng thương không thể nào cử động thôi, ai nấy đều ngồi xếp bằng, mười đầu ngón tay xòe ra, chắp tay trên ngực, làm thế lửa cháy bừng bừng, theo Dương Tiêu niệm kinh văn của Minh giáo:
    Thiêu đốt thân tàn ta, Hỏa thánh bốc bừng bừng.
    Khi sống có gì vui, Thì chết có gì khổ?
    Nguyện hành thiện trừ ác, Cốt sao cho quang minh.
    Bao hỉ lạc bi sầu, Cũng đều thành cát bụi.
    Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy.
    Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy.
    Minh giáo từ Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc trở xuống, Thiên Ưng giáo từ Lý Thiên Viên trở xuống, cho tới cả đầu bếp, giúp việc, ai nấy thần thái trang nghiêm, không một ai vì việc thân tử, giáo diệt mà tỏ vẻ sợ hãi. Không Trí đại sư chắp tay niệm:
    - Thiện tai, thiện tai.
    Du Liên Châu nghĩ thầm: “Mấy câu kinh văn này, có lẽ giáo chúng ma giáo trước khi chết tụng niệm. Bọn họ không niệm cái chết của chính mình, lại thương người đời đa ưu đa hoạn, thực là lòng dạ rộng rãi đại nhân đại nghĩa. Năm xưa người sáng lập ra Minh giáo, quả thực siêu việt hơn người. Chỉ tiếc rằng truyền đến đời sau, lại thành một bọn chuyên làm chuyện tàn ác sai trái mà thôi”.
    Trương Vô Kỵ trước các cao thủ của lục đại môn phái vốn dĩ e ngại, nên lừng chừng không dám bước ra, tới lúc Không Trí hạ lệnh giết sạch người trong ma giáo, còn Tông Duy Hiệp thì hung hăng đi tới phía ông ngoại mình, chàng không còn suy nghĩ thiệt hơn gì nữa, lập tức tiến ra, chặn trước mặt Tông Duy Hiệp, nói:
    - Hãy khoan động thủ. Ông ra tay đánh một người đang bị thương nặng, không sợ thiên hạ anh hùng chê cười hay sao?
    Mấy câu nói đó thanh âm vang động toàn trường. Người các môn phái nhận lệnh của Không Trí đại sư, đang định việc ai nấy làm, đột nhiên nghe thấy mấy câu nói đó, tất cả đều dừng bước, quay đầu lại nhìn chàng. Tông Duy Hiệp thấy người nói câu này là một thanh niên lam lũ, chẳng coi vào đâu, giơ tay đẩy ra, định gạt chàng sang một bên cho dễ bề đánh chết Ân Thiên Chính.
    Trương Vô Kỵ thấy y giơ tay đẩy tới, thuận tay gạt ra một chưởng, nghe bình một tiếng, Tông Duy Hiệp lùi lại ba bước. Y cố gượng lại, chỉ thấy chưởng lực của đối phương hùng hồn vô cùng, chân lảo đảo không vững. Cũng may công phu hạ bàn của y khá cứng cỏi, tuy nửa người trên ngã ngửa, nhưng vội vàng nhấn chân phải một cái, nhảy vọt về sau, mượn sức tung mình xa hơn một trượng. Khi rơi xuống đất rồi, chưởng lực đó cũng chưa tiêu giải, khiến y lại phải lật đật lùi thêm bảy tám bước nữa mới đứng lại được. Sự việc xảy ra khiến y và Trương Vô Kỵ cách nhau đến hơn ba trượng. Trong bụng y vừa sợ vừa tức, còn người bên ngoài không ai hiểu nổi, đều nghĩ thầm: “Lão Tông Duy Hiệp làm trò ma quỉ gì đây, sao lại vừa lùi vừa nhảy, nhảy rồi lại lùi, thế là cái quái gì?”. Chính bản thân Trương Vô Kỵ cũng không ngờ rằng mình chỉ nhẹ nhàng phẩy ra một chưởng, lại có uy lực dường ấy.
    Tông Duy Hiệp ngơ ngẩn xuất thần, lập tức hiểu ra, nhìn Du Liên Châu trừng trừng giận dữ, quát lớn:
    - Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, sao lại đánh lén người khác?
    Y cho rằng Du Liên Châu ám trung tương trợ, xem chừng toàn thể Võ Đương chư hiệp cùng ra tay, nếu không sức một người, không thể nào có kình đạo mãnh liệt như thế được. Du Liên Châu không ngờ y nói một câu như thế, cũng trừng mắt nhìn lại y, mắng thầm: “Ngươi bày đặt làm trò, tính chuyện gì đây?”.
    Tông Duy Hiệp lại hung hăng tiến lên, chỉ vào Trương Vô Kỵ quát hỏi:
    - Tiểu tử, ngươi là ai?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôi tên Tăng A Ngưu.
    Chàng vừa nói vừa đưa tay để lên Linh Đài huyệt trên lưng Ân Thiên Chính, đem nội lực cuồn cuộn đổ vào. Cửu Dương Chân Khí của chàng cực kỳ hồn hậu, Ân Thiên Chính chỉ rùng mình mấy cái, lập tức mở mắt ra, nhìn thấy thanh niên nọ lòng thật lạ lùng. Trương Vô Kỵ nhìn ông mỉm cười, càng tống thêm nội lực.
    Chỉ trong giây lát, Ân Thiên Chính thấy những nơi bị tắc nghẽn trên ngực và đan điền đều thông suốt không còn gì ngăn trở, hạ giọng nói:
    - Đa tạ tiểu hữu.
    Ông đứng thẳng dậy, ngạo nghễ nói:
    - Họ Tông kia, Thất Thương Quyền của phái Không Động có gì ghê gớm, để ta tiếp ngươi ba quyền.
    Tông Duy Hiệp đâu ngờ được lão già này bây giờ thần hoàn khí túc đứng lên, thấy chuyện không còn dễ dàng như khi trước, e ngại Ưng Trảo Cầm Nã Công của ông ta, liền nói:
    - Lẽ dĩ nhiên Thất Thương Quyền của phái Không Động không có gì ghê gớm, ngươi thử tiếp ta ba chiêu Thất Thương Quyền thôi.
    Y tính rằng Ân Thiên Chính nếu không sử dụng cầm nã thủ, chỉ đấu quyền chưởng, nội lực, mình dĩ dật đãi lao, có thể dùng nội kình Thất Thương Quyền để thủ thắng. Trương Vô Kỵ thấy y lại đề cập đến ba chữ Thất Thương Quyền , nghĩ đến năm xưa trên Băng Hỏa đảo, buổi tối hôm đó nghĩa phụ lay y tỉnh dậy, kể chuyện dùng Thất Thương Quyền đánh chết Không Kiến thần tăng, về sau ông ta lại bắt mình học thuộc quyền quyết của Thất Thương Quyền, vì nhất thời không nhớ được nên đã đánh mình mấy cái bạt tai. Bấy giờ quyền quyết đó lưu chuyển trong đầu, lập tức minh bạch đạo lý ở bên trong.
    Nên biết tất cả các loại nội công trong thiên hạ đều không vượt qua được Cửu Dương thần công, còn Càn Khôn Đại Na Di là phương pháp vận kình sử lực, là tập đại thành của mọi môn võ công. Nhất pháp thông, vạn pháp thông, thành thử mọi môn công phu trước mắt chàng giờ này không còn gì bí áo.
    Lại nghe Ân Thiên Chính nói:
    - Cứ gì ba quyền, để ta tiếp ngươi ba chục quyền đã làm sao nào?
    Ông quay đầu lớn tiếng nói với Không Trí:
    - Không Trí đại sư, họ Ân này chưa chết, cũng chưa chịu thua, ông nói ra mà không giữ lời, định lấy đông người để thắng hay sao?
    Không Trí xua tay nói:
    - Được rồi, tất cả xin chờ giây lát, có đáng gì đâu?
    Thì ra khi Ân Thiên Chính lên trên Quang Minh Đính, thấy bọn Dương Tiêu ai nấy đều bị thương nặng, bên mình thế lực đơn bạc, nên đã dùng lời chặn trước Không Trí, không để thành thế hỗn chiến. Không Trí cũng theo qui củ võ lâm, nên bằng lòng theo lối đánh từng trận một. Kết quả các đường, các đàn của Thiên Ưng giáo, Ngũ Hành Kỳ của Minh giáo, cả đến các thuộc hạ của Dương Tiêu trên Quang Minh Đính bao gồm các hảo thủ trong Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, ai không chết thì bị thương, sau cùng chỉ còn một mình Ân Thiên Chính. Thế nhưng ông ta vẫn chưa chịu thua, nên bên kia vẫn chưa thể tiến lên tàn sát.
    Trương Vô Kỵ biết ông ngoại mình so với trước có khá hơn, nhưng không có thể vận kình sử lực, sở dĩ muốn tiếp quyền chiêu của Tông Duy Hiệp, chỉ vì hết sức hộ giáo, đến chết mới thôi, nên hạ giọng nói:
    - Ân lão tiền bối, để cho tại hạ đấu trước, nếu vãn bối không xong, lão tiền bối hãy ra tay.
    Ân Thiên Chính đã thấy chàng nội lực hùng hậu vô cùng, chính mình khi chưa bị thương, cũng còn kém xa, nghĩ đến mình vì Minh giáo mà chết, là chuyện đương nhiên, còn thanh niên này không hiểu liên can thế nào, dù bản lãnh cao cường đến mấy cũng không thể từng người từng người đánh bại, hết cao thủ này đến cao thủ khác, sau cùng rồi cũng đến trọng thương kiệt lực để cho người ta giết như mình thôi. Một kẻ thiếu niên anh tài, việc gì phải chết trên Quang Minh Đính làm chi? Nghĩ thế bèn hỏi:
    - Tiểu hữu là môn hạ của vị nào thế, xem ra không phải giáo đồ bản giáo, phải không?
    Trương Vô Kỵ cung kính cúi mình nói:
    - Vãn bối không thuộc Minh giáo, cũng không thuộc Thiên Ưng giáo, nhưng đối với lão tiền bối có lòng kính mến đã lâu, hôm nay cùng tiền bối sánh vai cự địch, là điều nên làm.
    Ân Thiên Chính lạ lùng, đang định hỏi thêm, Tông Duy Hiệp đã hung hăng tiến lên, quát lớn:
    - Họ Ân kia, quyền thứ nhất của ta đây.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Ân lão tiến bối bảo ngươi không xứng đáng tỉ quyền với ông ta, ngươi phải thắng ta đã, rồi sau động thủ với lão nhân gia cũng chưa muộn.
    Tông Duy Hiệp giận quá, quát lớn:
    - Thằng nhãi kia ngươi là hạng người gì? Để ta cho ngươi biết Thất Thương Quyền của phái Không Động lợi hại dường nào.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hôm nay phải làm sao nói toạc âm mưu gian trá của tên ác tặc Viên Chân, mới có thể có cách để cho hai bên bãi chiến, chứ chỉ một cách động thủ ra chiêu, một mình ta sao đánh lại bao nhiêu anh hùng của sáu môn phái? Huống chi các sư bá sư thúc trong phái Võ Đương có mặt ở đây, làm sao ta có thể coi những vị đó là địch được?”. Chàng nghĩ vậy bèn lớn tiếng trả lời:
    - Thất Thương Quyền của phái Không Động thật là lợi hại, tại hạ đã nghe tiếng từ lâu. Không Kiến đại sư, thần tăng của phái Thiếu Lâm chẳng phải táng mạng vì Thất Thương Quyền của quí phái hay sao?
    Câu đó của chàng nói ra, cả phái Thiếu Lâm ai nấy đều rúng động. Ngày hôm đó Không Kiến đại sư chết ở Lạc Dương, trên người xương cốt đều bị gãy nát, bên ngoài không có thương tích gì, thật giống bị độc thủ Thất Thương Quyền của phái Không Động. Khi đó Không Văn, Không Trí, Không Tính tam tăng mật nghị mấy ngày liền, xem ra phái Không Động hiện giờ không có cao thủ tuyệt đỉnh để có thể đánh chết được người đã luyện được Kim Cương Bất Hoại Thể thần công như Không Kiến sư huynh. Tuy thương thế của Không Kiến có làm cho người ta nghi ngờ, nhưng phái Không Động không thể làm nổi. Về sau Không Trí lại cùng các đệ tử kín đáo điều tra, biết được khi Không Kiến đại sư viên tịch ở Lạc Dương, Không Động ngũ lão đều ở vùng tây nam cả. Còn nếu không phải do Không Động ngũ lão làm, phái Không Động không còn cao thủ nào khác có thể giết nổi Không Kiến, nên mối hồ nghi đối với phái Không Động cũng bỏ qua. Huống chi khi đó ngoài tường của khách điếm ở Lạc Dương có viết mười hai chữ lớn “Thành Côn giết Không Kiến thần tăng ở dưới chân tường này”, phái Thiếu Lâm về sau biết được Tạ Tốn đã mạo danh Thành Côn gây ra bao nhiêu huyết án, nên hoàn toàn không còn nghi ngờ gì nữa. Đến lúc này các cao tăng nghe Trương Vô Kỵ nói như thế đều giật mình.
    Tông Duy Hiệp giận dữ nói:
    - Không Kiến đại sư bị ác tặc Tạ Tốn sát hại, trên giang hồ ai ai cũng biết, có liên can gì đến phái Không Động đâu?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tạ tiền bối đánh chết Không Kiến thần tăng, ông có chính mắt nhìn thấy không? Ông đứng một bên quan sát hay sao? Hay là đứng bên cạnh để yểm trợ?
    Tông Duy Hiệp nghĩ thầm: “Thằng này ăn mày không ra ăn mày, chăn trâu không ra chăn trâu, sao lại đến quấy rầy mình? Chắc là do phái Võ Đương sai khiến, cố khuấy động cho hai phái Không Động và phái Thiếu Lâm bất hòa với nhau. Ta phải đối phó cẩn thận, đừng để lọt vào cái bẫy của họ”. Nghĩ thế nên dẫu y không coi Trương Vô Kỵ ra gì, nhưng cũng nghiêm mặt đáp:
    - Không Kiến thần tăng táng mệnh tại Lạc Dương, khi đó Không Động ngũ lão là khách ở phủ của Liễu đại hiệp phái Điểm Thương tại Vân Nam. Làm sao bọn ta lại có thể chính mắt trông thấy chuyện đó được?
    Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
    - Hay nhỉ, khi đó ông đang ở Vân Nam, sao lại thấy được Tạ tiền bối giết chết Không Kiến đại sư? Vị thần tăng này chết vì Thất Thương Quyền của phái Không Động ai ai cũng đều biết. Tạ tiền bối không phải là người của phái Không Động, tại sao ông lại giá họa cho người ta?
    Tông Duy Hiệp nói:
    - Hừ, nơi Không Kiến thần tăng viên tịch có viết “Thành Côn giết Không Kiến thần tăng ở dưới chân tường này” mười hai chữ bằng máu. Tạ Tốn mạo tên sư phụ y, đến đâu cũng gây ra huyết án, thì còn gì mà phải nghi nữa?
    Trương Vô Kỵ giật mình: “Nghĩa phụ ta đâu có nói là đã viết tại bức tường những chữ này. Sau mười ba quyền đánh chết Không Kiến thần tăng rồi, trong lòng buồn bã hối hận vô cùng, đâu còn lòng dạ nào mà viết những chữ giá họa đó nữa”. Chàng bèn ngửa cổ lên cười ha hả, nói:
    - Những chữ đó ai viết mà chẳng được? Trên tường có hàng chữ đó, ai là người chính mắt nhìn thấy Tạ tiền bối viết đâu? Tại hạ bảo là những chữ đó phái Không Động viết cũng được chứ sao? Viết chữ thì dễ, luyện Thất Thương Quyền mới khó.
    Chàng quay lại nói với Không Trí:
    - Không Trí đại sư, lệnh sư huynh đúng là bị hại về quyền lực Thất Thương Quyền của phái Không Động, có phải không? Kim Mao Sư Vương Tạ tiền bối không phải là người phái Không Động, có phải không?
    Không Trí chưa kịp trả lời, đột nhiên một nhà sư cao lớn mặc đại hồng cà sa lướt ra, tay cầm một cây thiền trượng màu vàng sáng lấp lánh dộng xuống đất một cái, lớn tiếng quát:
    - Tiểu tử, ngươi là người của môn phái nào? Ngươi làm gì mà dám nói chuyện tay đôi với sư phụ ta?
    Tăng nhân đó vai gồ lên, ăn nói giọng như đang lên cơn suyễn, chính là Viên Âm của phái Thiếu Lâm. Năm xưa phái Thiếu Lâm dẫn nhau lên trên núi Võ Đương vấn tội, chính y là người nằng nặc nói là chính mắt thấy Trương Thúy Sơn giết đệ tử Thiếu Lâm. Khi đó Trương Vô Kỵ lòng đầy bi phẫn, ghi nhớ tất cả những người có mặt, lúc này vừa thấy y, trong người nhiệt huyết trào lên, mặt đỏ bừng, thân mình hơi hơi run rẩy, bụng thầm nói: "Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ, đại sự hôm nay là làm sao điều giải oán cừu giữa lục đại môn phái và Minh giáo, không thể nào vì một chút tư hiềm, làm cho tình hình trở nên khó giải quyết hơn, những chuyện cũ của phái Thiếu Lâm, để ngày sau thanh toán cũng chưa muộn". Tuy trong lòng chàng suy tính rõ ràng như thế, nhưng từ khi Viên Âm chường mặt ra tình trạng chết thảm của cha mẹ, bỗng hiện rõ ngay trước mắt, khiến nước mắt trào lên, tưởng chừng không thể nào tự chế nổi.
    Viên Âm cầm thiền trượng dộng xuống đất một cái nữa, quát lớn:
    - Tiểu tử kia, ngươi là yêu nghiệt của ma giáo thì mau mau vươn cổ chịu chém, còn nếu không phải thì xuống núi đi, đừng để những người xuất gia lòng dạ từ bi chúng ta phải ra tay.
    Y thấy Trương Vô Kỵ mặc quần áo không giống người trong Minh giáo, lại tưởng lầm việc chàng cố gắng nín nhịn là thái độ sợ hãi, nên mới nói mấy câu đó. Trương Vô Kỵ nói:
    - Quí phái có một vị Viên Chân đại sư, phải không? Mời ông ta ra đây, tại hạ có vài câu muốn hỏi.
    Viên Âm đáp:
    - Viên Chân sư huynh? Lào sao ông ta nói chuyện với ngươi được? Ngươi mau mau ra đằng khác, bọn ta đâu có thì giờ để nói chuyện tào lao với một đứa nhà quê như ngươi. Ngươi thực ra là môn hạ của người nào?
    Y thấy Trương Vô Kỵ chỉ một chưởng đánh Tông Duy Hiệp, người trong Không Động ngũ lão phải thoái lui liền mấy bước, liệu rằng sư phụ của y không phải tầm thường, nên lại hỏi thêm lần nữa, nếu không giờ phút đồ diệt Minh giáo sắp sửa thành công việc gì phải phí thì giờ đôi co với gã thiếu niên lai lịch mù mờ này làm gì.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tại hạ không phải người trong Minh giáo, cũng không phải là môn hạ của một môn phái nào ở Trung Nguyên. Lần này lục đại môn phái vây công Minh giáo chính là vì bị kẻ gian xúi bẩy, bên trong có một hiểu lầm rất lớn, tại hạ tuy tuổi còn nhỏ, nhưng lại hiểu được đầu dây mối nhợ, nên mạo muội đứng ra xin hai bên bãi chiến, tra xét rõ nội tình, bên nào phải, bên nào trái, lúc đó phán đoán một cách công minh.
    Lời chàng vừa dứt, trong sáu môn phái nổi lên tiếng cười vang động, ha ha, hô hô, hi hi, khà khà … đủ mọi loại. Có mấy chục người còn lên tiếng chế nhạo:
    - Thằng nhãi này bị mất trí điên khùng, nói năng lếu láo, bậy bạ quá.
    - Nó tưởng nó là hạng người gì? Là Trương chân nhân của phái Võ Đương hay sao? Hay là Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm? Ha ha, ha ha.
    - Chắc nó nằm mơ lấy được bảo đao Đồ Long nên trở thành võ lâm chí tôn rồi.
    - Nó tưởng bọn mình là trẻ con lên ba, ha ha, cười đến đau cả bụng.
    - Sáu đại môn phái chết bao nhiêu người, nợ máu của ma giáo rộng như biển, hì hì, nó tưởng chỉ nói vài câu là tất cả bọn mình rút lui hết … Chỉ có Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lông mày nhíu lại, lặng thinh không nói. Hôm đó nàng cùng Trương Vô Kỵ hai bên nhận ra nhau, biết được chàng là người đã từng gặp gỡ trên sông Hán Thủy, trong lòng nhớ lại chuyện xưa, sau lại thấy chàng vì nghĩa đứng ra cứu người của Nhuệ Kim Kỳ, chịu cho sư phụ của nàng đánh ba chưởng, càng thêm khâm phục, bây giờ nghe chàng không lượng sức mình nói mấy câu, lại nghe mọi người ùa lên châm chọc, không khỏi đau lòng.
    Trương Vô Kỵ đứng ngay đương trường, ngang nhiên nhìn chung quanh bốn bề, lớn tiếng nói:
    - Chỉ cần Viên Chân đại sư của phái Thiếu Lâm ra đây, cùng tại hạ đối chất mấy câu, gian mưu y an bài sẽ rõ cả.
    Ba câu đó từng chữ từng chữ nói ra, tuy mấy trăm người đang cười nói, nhưng ai ai cũng nghe thật rõ ràng. Các cao thủ của lục đại phái người nào cũng giật mình, sự khinh thị trong lòng giảm đi mấy phần, nghĩ thầm: “Tiểu tử này tuổi tuy còn nhỏ, sao nội lực lại thâm hậu đến thế?”.
    Viên Âm đợi tiếng cười của mọi người lắng xuống, hổn ha hổn hển nói:
    - Thằng nhãi thối tha kia sao xảo trá thế, biết rõ Viên Chân sư huynh không thể nào cùng ngươi đối chất được, nên đòi gọi ra nói chuyện? Sao ngươi không gọi Trương Thúy Sơn của phái Võ Đương ra đối chất có được không?
    Câu cuối cùng của y vừa khỏi miệng, Không Trí lập tức quát lên:
    - Viên Âm, ăn nói phải giữ mồm giữ miệng.
    Thế nhưng các phái Hoa Sơn, Côn Lôn, Không Động đã có nhiều người cười hô hố. Chỉ có phái Võ Đương ai nấy mặt sầm hẳn xuống, không nói một lời. Thì ra con mắt bên phải của Viên Âm bị Ân Tố Tố dùng ám khí bắn mù bên bờ hồ năm xưa, y vẫn nghĩ là do Trương Thúy Sơn hạ độc thủ, lúc nào cũng hậm hực trong lòng. Trương Vô Kỵ thấy y làm nhục đến cha mình, giận không để đâu cho hết, lớn tiếng quát:
    - Tên húy của Trương ngũ hiệp sao ngươi được đem ra nói năng láo lếu? Ngươi … ngươi … Viên Âm cười khẩy đáp:
    - Trương Thúy Sơn tự mình sa đọa, bị yêu nữ của ma giáo mê hoặc, hiếu sắc mới bị quả báo … Trương Vô Kỵ trong bụng vẫn tự răn mình: “Hôm nay mình cốt để làm sao hai bên bãi đấu, ta nhất quyết không thể nào ra tay giết người được”. Thế nhưng khi nghe đến mấy câu này, làm sao có thể nhịn nổi? Chàng nhảy vọt tới, tay trái vươn ra, chộp cổ Viên Âm xách lên, tay phải cướp luôn thiền trượng trong tay nhà sư, vung lên toan đánh xuống đầu y. Viên Âm bị chàng nắm chặt, chẳng khác gì con gà con bị diều hâu bắt được, không có một chút sức nào chống trả.
    Trong đám người của phái Thiếu Lâm lập tức có hai người xông ra, hai thanh thiền trượng chia ra đánh vào hai bên tả hữu Trương Vô Kỵ, chính là phương pháp cao minh trong võ học dùng trong trường hợp phải cứu người, gọi là Vi Ngụy Cứu Triệu, người bị tấn công không thể không quay về tự cứu mình, giải vây cho người đồng bọn bị nguy khốn. Hai người xông ra cứu đó chính là Viên Tâm, Viên Nghiệp. Trương Vô Kỵ tay trái vẫn nắm Viên Âm, tay phải cầm thiền trượng, nhảy vọt lên, hai chân chia ra đá luôn vào thiền trượng của nhị tăng cầm trong tay, chỉ nghe bốp bốp, cả hai người đều ngã ngửa. Cững may võ công cả Viên Tâm, Viên Nghiệp đều vào loại khá, lâm nguy bất loạn, hai tay vận lực đẩy ra, thành thử hai chiếc thiền trượng đúc bằng thép pha vàng nặng mấy chục cân kia không bật trở lại đập ngược vào người mình.
    Mọi người kinh hoảng kêu lên, chỉ thấy Trương Vô Kỵ tay nắm thân hình cao to của Viên Âm lượn một cái nhẹ nhàng đáp xuống đất. Trong lục đại phái có bảy tám người buột miệng kêu lên:
    - Thê Vân Túng của phái Võ Đương.
    Trương Vô Kỵ từ bé theo cha cùng thái sư phụ, các sư bá sư thúc, tuy võ công của phái Võ Đương chỉ học có ba mươi hai thức nhập môn Võ Đương Trường Quyền, nhưng những gì trông thấy nghe thấy không phải là ít, bây giờ luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công rồi, dù võ công môn phái nào cũng có thể đem ra dùng được. Công phu của phái Võ Đương chàng đã thấm nhập trong lòng nhiều hơn cả, nên lúc này không nghĩ ngợi gì liền đem ra ứng dụng ngay môn khinh công trứ danh Thê Vân Túng. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê nếu muốn nhảy lên như thế, ở trên không lượn thêm mấy vòng, rồi hạ xuống quả thực không khó khăn gì, tư thức còn tiêu dật hơn là khác. Thế nhưng một bên tay nắm một hòa thượng to béo, một bên tay cầm một thanh thiền trượng nặng nề, mà thân hình vẫn nhẹ nhàng như cánh én, thì không thể nào làm nổi.
    Các nhà sư Thiếu Lâm lúc này đã cách xa chàng đến bảy tám trượng, thấy Viên Âm bị chàng nắm ngay yếu huyệt, không còn động đậy gì được, chàng chỉ giơ thiền trượng lên là đánh đầu Viên Âm nát như tương, trong một chớp mắt đó chạy lên cứu thì không kịp nữa. Chỉ còn một cách duy nhất là bắn ám khí, nhưng Trương Vô Kỵ chỉ cần giơ Viên Âm ra đỡ, mượn dao giết người, lại hại ngược đến tính mạng y. Tuy có những cao thủ tuyệt đính như Không Trí, Không Tính ở bên, nhưng biến cố đó xảy ra nhanh quá, không thể ngờ rằng thanh niên này lại có thân thủ như thế, nên ai nấy trở tay không kịp. Chỉ thấy chàng nghiến răng, mặt đầy thù hận, giơ thiền trượng lên, người trong phái Thiếu Lâm có kẻ nhắm mắt lại không dám nhìn, người thì toan xông ra phục thù cho Viên Âm.
    Nào ngờ thiền trượng trong tay Trương Vô Kỵ không đánh xuống, tưởng như trong lòng có điều gì chưa quyết định được, gương mặt chàng từ từ dịu lại, chầm chậm buông Viên Âm ra.
    Thì ra trong một giây phút ngắn ngủi, chàng đã nén được nộ khí trong lòng, nghĩ thầm: “Nếu như ta đánh chết một người nào trong lục môn phái, ta liền trở thành kẻ thù của họ, không còn cách nào đứng làm trung gian để giảng hòa được nữa. Vụ thảm sát trong võ lâm không còn cách nào hóa giải, có phải là rơi vào gian kế của ác tặc Thành Côn hay sao? Dù cho họ có chửi ta, mắng ta, đánh ta giết ta cách nào, ta cũng phải nhẫn nại gắng chịu, mới thực là đi đúng con đường trả thù cho cha mẹ và nghĩa phụ”.
    Chàng nghĩ được như thế rồi, nên buông Viên Âm, thủng thẳng nói:
    - Viên Âm đại sư, mắt ông không phải do Trương ngũ hiệp bắn mù đâu, chẳng nên ghi nhớ mối hận trong lòng. Huống chi Trương ngũ hiệp đã tự vẫn chết đi rồi, bao nhiêu oán cừu cũng đều hóa giải cả. Đại sư là người xuất gia, tứ đại giai không, sao lại để chuyện cũ khắc khoải không quên là sao?
    Viên Âm chết đi sống lại, thẫn thờ nhìn Trương Vô Kỵ, không nói nên lời, thấy chàng đem thiền trượng giao trả lại, tự nhiên giơ tay nhận lấy, cúi đầu lui về, cảm thấy bao nhiêu oán hận tích chứa lâu nay, dường như có điều không phải.
    Các cao tăng chùa Thiếu Lâm, chư hiệp phái Võ Đương nghe Trương Vô Kỵ nói mấy câu đó, đều thầm gật đầu.
   

- o O o -

    [1] Đích thân phu nhân mở ra [2] Đính Thiên có nghĩa là đội trời [3] còn gọi là đinh tấn, một chân cong tượng cho cây cung, một chân thẳng tượng cho mũi tên [4] nếu ý chí kiên định cố gắng thì dù vàng đá cũng phải mở [5] Muôn ngọn núi chầu về nguồn [6] người thật là khôn ngoan thì làm như ngu xuẩn, kẻ thật là khéo léo thì xem như vụng về [7] Câu trích trong Tả Truyện nghĩa là Một việc đã sai lầm thì không nên tái phạm (nguyên văn là vị thậm, Kim Dung lại viết là vi thậm) [8] Bản cũ dịch là Tôn Duy Hiệp, nhưng đúng ra phải đọc là Tông. Triều Nguyễn vì kiêng tên húy của vua Thiệu Trị (Miên Tông) nên đọc trại thành Tôn (tông thất thành tôn thất, tông chỉ thành tôn chỉ ...)

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:54:37 | Chỉ xem của tác giả
BÀI NẠN GIẢI PHÂN ĐƯƠNG LỤC CƯỜNG
   
Thù hận hai đàng sao hóa giải, Bên cha bên mẹ biết theo ai?
   
Một thân cam chịu sáu môn phái, Vô Kỵ tên chàng quả chẳng sai.
    Tông Duy Hiệp thấy Trương Vô Kỵ bắt rồi lại thả Viên Âm, công việc nặng nề như thế mà xem thật nhẹ nhàng, không khỏi cực kỳ kinh dị, nhưng thân đã bước ra sân đấu, lẽ nào tỏ ra hèn kém thoái lui? Y liền lớn tiếng nói:
    - Họ Tăng kia, ngươi hung hăng ra đây, quả thực do ai sai khiến?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôi chỉ mong lục phái cùng Minh giáo ngưng chiến làm hòa với nhau, chứ chẳng có ai sai khiến cả.
    Tông Duy Hiệp nói:
    - Hừ, nếu ngươi muốn bọn ta bỏ qua giảng hòa với Minh giáo thật khó càng khó hơn. Lão tặc họ Ân thiếu ta ba ngọn Thất Thương Quyền, để ta đánh xong rồi hãy tính.
    Nói rồi y liền xắn tay áo lên. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tông tiền bối mở miệng ra là nói đến Thất Thương Quyền, khép miệng lại cũng Thất Thương Quyền, theo vãn bối biết, Thất Thương Quyền của Tông tiền bối chưa luyện đến đầu đến đũa. Ngũ hành trong cơ thể con người, tâm thuộc hỏa, phế thuộc kim, thận thuộc thủy, tì thuộc thổ, can thuộc mộc, lại thêm âm dương nhị khí, một khi luyện Thất Thương Quyền thì bảy cơ quan đó đều bị thương tổn. Công phu luyện Thất Thương Quyền cao hơn một mức, chính cơ thể nội tạng mình lại bị tổn hại thêm một mức, quả thật đúng là tổn thương mình trước, đả thương địch sau. Cũng may là Tông tiền bối luyện lộ quyền pháp này chưa lâu lắm, cũng còn có cách chữa được.
    Tông Duy Hiệp nghe chàng nói mấy câu đó, quả thật đúng như tổng cương của Thất Thương Quyền Phổ. Trong quyền phổ đã căn dặn kỹ càng, nếu nội công chưa đạt đến mức khí dẫn được tới mọi huyệt đạo, muốn thu muốn phát tùy ý, thì nhất quyết chớ nên luyện môn quyền thuật này. Thế nhưng đây là tuyệt kỹ trấn sơn của phái Không Động, Tông Duy Hiệp vừa thấy nội công có chút thành tựu, là bắt đầu thử luyện ngay. Đến khi luyện rồi cảm thấy uy lực vô cùng, khi sa vào vòng không còn có thể rút lui được nữa, những lời khuyến cáo trong tổng cương quyền phổ đều bỏ ngoài tai. Hơn nữa các lão trong phái Không Động đều luyện, mình là người đứng hàng thứ hai không lẽ lại chịu kém người? Bây giờ nghe Trương Vô Kỵ nói thế, y trong bụng chột dạ, hỏi lại:
    - Làm sao ngươi lại biết thế?
    Trương Vô Kỵ không trả lời câu hỏi của y, nói tiếp:
    - Tông tiền bối thử lấy tay ấn vào huyệt Vân Môn trên đầu vai xem có hơi ngâm ngẩm đau không? Huyệt Vân Môn thuộc phế, nghĩa là phế mạch đã bị thương rồi. Huyệt Thanh Linh trên cánh tay ông có phải thỉnh thoảng ngứa chịu không nổi? Huyệt Thanh Linh thuộc tâm, đó là tâm mạch đã bị thương rồi. Huyệt Ngũ Lý trên đùi mỗi khi trời âm u, lại thấy tê buốt, huyệt Ngũ Lý thuộc can, đó là can mạch đã bị thương. Ông càng luyện thêm nữa, các triệu chứng ngày càng thêm nặng nề, đến lúc luyện được tám chín năm, thể nào toàn thân cũng bại liệt.
    Tông Duy Hiệp chăm chú nghe chàng nói, mồ hôi trên trán nhỏ ra từng giọt rơi xuống. Thì ra Trương Vô Kỵ được Tạ Tốn truyền thụ nên thông hiểu quyền lý của Thất Thương Quyền, chàng lại thâm cứu y thuật, biết rõ các triệu chứng mỗi khi kinh mạch bị tổn thương, nên nói ra không sai chút nào. Mấy năm nay Tông Duy Hiệp quả nhiên có những chứng bệnh đó, có điều bệnh không đến nỗi nặng, trong bụng tuy lo, nhưng lại muốn dấu không chịu đi chữa thuốc, bây giờ nghe Trương Vô Kỵ nói ra, mặt liền biến sắc, một lúc lâu sau mới ấp úng:
    - Ngươi... sao ngươi lại biết?
    Trương Vô Kỵ cười ruồi, nói:
    - Vãn bối hơi biết qua thuốc men, nếu như tiền bối tin tưởng, đợi mọi việc xong xuôi, vãn bối sẽ liệu đường tìm cách giúp tiền bối trừ khử các chứng bệnh đó. Có điều Thất Thương Quyền chỉ có hại mà không có ích gì, không nên luyện nữa.
    Tông Duy Hiệp cãi gượng:
    - Thất Thương Quyền là tuyệt kỹ của phái Không Động ta, sao lại chỉ hại mà không ích lợi gì? Năm xưa chưởng môn sư tổ ta là Mộc Linh Tử uy chấn thiên hạ với môn Thất Thương Quyền, tên tuổi vang lừng bốn bể, thọ đến chín mươi mốt tuổi, sao lại nói là làm tổn thương thân thể cho được? Ngươi nói thế có khác gì nói quàng nói xiên.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Chắc là Mộc Linh Tử tiền bối nội công thâm hậu, thành ra luyện được, không những vô hại, trái lại còn làm cho tạng phủ thêm cường tráng. Theo vãn bối, Tông tiền bối chưa đạt đến cảnh giới như thế, nếu như cưỡng luyện, e rằng rồi cũng chẳng đi đến đâu.
    Tông Duy Hiệp là danh túc của phái Không Động, tuy biết rằng những lời chàng nói ra không phải là không có lý, nhưng trước mặt các cao thủ của những môn phái khác bị thanh niên này chỉ trích là trấn sơn tuyệt kỹ của mình vô dụng, làm sao không nổi giận? Y liền lớn tiếng nói:
    - Cỡ như ngươi mà dám nói tuyệt kỹ của phái Không Động ta hữu dụng vô dụng hay sao? Nếu bảo vô dụng thì ra đây thử cho biết.
    Trương Vô Kỵ cười nhạt, nói:
    - Thất Thương Quyền là một tuyệt kỹ thần diệu tinh áo, quyền lực trong cương có nhu, trong nhu có cương, bảy loại kình lực mỗi loại một khác không loại nào giống loại nào, thu vào nhả ra, lúc mạnh lúc yếu, huyễn ảo trăm chiều, địch thủ quả thật khó mà đề phòng chống đỡ...
    Tông Duy Hiệp nghe chàng tán dương Thất Thương Quyền thần diệu, nói ra câu nào trúng câu nấy, không khỏi nở một nụ cười, liên tiếp gật gù. Lại nghe chàng nói tiếp:
    - ... vãn bối chỉ nói là nội công tu luyện chưa đến nơi đến chốn mà cố luyện thì chỉ hại hơn là lợi.
    Chu Chỉ Nhược đứng nấp phía sau các sư tỉ, nghiêng người nhìn Trương Vô Kỵ, thấy mặt vẫn còn nét trẻ con, lại cố làm ra vẻ sành sỏi, hiểu biết hơn người, đàm luận thao thao lên mặt dạy đời cho lão nhị của Không Động ngũ lão, không khỏi tức cười, nhưng cũng lo thầm cho chàng. Những đệ tử còn trẻ tuổi của phái Không Động tính tình nóng nảy thấy Trương Vô Kỵ càng lúc ăn nói càng có vẻ vô lễ, nhịn không nổi toan lên tiếng mắng át đi, nhưng thấy Tông Duy Hiệp thần sắc nghiêm túc, lắng tai nghe thanh niên này biện luận, nên những lời chửi vừa ra đến cửa miệng vội kìm ngay lại.
    Tông Duy Hiệp nói:
    - Cứ như ngươi nói, nội công của ta chưa đến đâu phải không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Nội công của tiền bối đến đâu thì vãn bối không dám vọng ngôn. Thế nhưng nếu tiền bối luyện Thất Thương Quyền mà chính mình đã bị thương rồi, thì đừng luyện nữa là hơn...
    Chàng mới nói đến đây, bỗng sau lưng có người quát lớn:
    - Nhị ca nói năng qua lại với tên tiểu tử này làm gì? Y không coi Thất Thương Quyền của mình vào đâu, vậy để tiểu đệ cho y một đấm, nếm mùi xem sao nào.
    Người kia nói xong là quyền đã ra, xuất thủ vừa độc địa, vừa lanh lẹ, nghe vù một tiếng, nhắm ngay huyệt Linh Đài sau lưng Trương Vô Kỵ đánh tới.
    Trương Vô Kỵ thừa biết có người đánh lén nhưng không thèm để ý tới, nói với Tông Duy Hiệp:
    - Tông tiền bối...
    Bỗng thấy có tiếng xích kêu loảng xoảng, một người xông ra, giọng thanh thoát kêu lên:
    - Sao ngươi dám đánh trộm.
    Vung xích lên quật vào đầu người nọ, chính là Tiểu Siêu. Người kia vung tay trái lên gạt dây xích ra, nghe bình một tiếng, đã thẳng cánh đấm một quyền vào lưng Trương Vô Kỵ. Quyền đó trúng ngay huyệt Linh Đài, Trương Vô Kỵ làm như không hay biết, mỉm cười nói với Tiểu Siêu:
    - Tiểu Siêu, không phải lo, thứ Thất Thương Quyền như thế này chưa dùng được bao nhiêu đâu.
    Tiểu Siêu thở phào, khuôn mặt trắng muốt ửng đỏ, nói nhỏ:
    - Cháu quên mất công tử đã luyện...
    Nói đến đó vội vàng nín bặt, kéo lê xích sắt trở về chỗ. Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy người vừa đánh mình là một lão già đầu to gầy gò. Người đó đứng hàng thứ tư trong Không Động ngũ lão tên là Thường Kính Chi. Quyền của y đánh ngay vào yếu huyệt của đối phương, vậy mà Trương Vô Kỵ dường như không hay biết, hết sức lạ lùng, lắp bắp nói:
    - Ngươi... ngươi đã luyện thành Kim Cương Bất Hoại Thể thần công rồi chăng, có phải là người của phái Thiếu Lâm không?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tại hạ không phải đệ tử của phái Thiếu Lâm...
    Thường Kính Chi biết rằng phàm hộ thân thần công, toàn nhờ ngưng tụ chân khí, một khi mở miệng nói, chân khí lập tức tản mạn nên không đợi chàng dứt lời, lại vung quyền đấm tới, nghe bình một tiếng, lần này trúng ngay ngực Trương Vô Kỵ.
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Tôi đã nói Thất Thương Quyền nếu không có căn cơ nội công thì không thể dùng được. Nếu ông không tin, cứ đánh thêm một quyền nữa xem nào.
    Quyền của Thường Kính Chi nhanh như gió, bình bình liên tiếp hai cú đấm nữa. Trước sau cả thảy bốn quyền, rõ ràng đánh trúng người đối phương, nhưng Trương Vô Kỵ vẫn khì khì chịu đựng, xem ra không đau đớn gì cả. Bốn cú đấm có sức vỡ bia tan đá, đụng phải chàng chẳng khác gì gió thổi mơn man, lụa mềm phe phẩy.
    Thường Kính Chi có ngoại hiệu là Nhất Quyền Đoạn Nhạc[1], tuy có phóng đại, nhưng quyền lực hùng mạnh, ai ai trong võ lâm cũng đã từng nghe. Mọi người thấy y liên tiếp đánh bốn quyền đều chẳng đến đâu, không khỏi kinh hãi. Phái Côn Lôn và phái Không Động xưa nay vẫn không ưa nhau, lần này tuy liên thủ vi công Minh giáo, nhưng hai bên vẫn ghét ngầm, phái Côn Lôn liền có người lạnh lùng nói mỉa:
    - Nhất Quyền Đoạn Nhạc ghê gớm thật.
    Lại có người tiếp theo:
    - Thế tứ quyền thì đoạn cái gì?
    Cũng may Thường Kính Chi mặt vốn đen thui, tuy đỏ mặt tía tai, nhưng cũng không lộ liễu lắm. Tông Duy Hiệp chắp tay nói:
    - Thần công của Tăng thiếu hiệp thật là đáng phục, đáng phục. Có thể để lão hủ đánh ba quyền chăng?
    Y biết công lực Thất Thương Quyền của mình so với Thường Kính Chi cao siêu hơn nhiều, lão tứ không xong, đâu đã hẳn mình cũng không tổn thương được đối phương. Trương Vô Kỵ nói:
    - Thất Thương Quyền tuyệt kỹ của phái Không Động, nếu như quả đã luyện thành thì không có gì chịu nổi. Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm đã luyện được Kim Cương Bất Hoại Thể thần công, vậy mà còn táng mệnh vì Thất Thương Quyền của quí phái, tại hạ võ công không sao bì được với Không Kiến thần tăng, làm sao dám chống trả? Thế nhưng hiện giờ thì miễn cưỡng tiếp tiền bối ba quyền, có lẽ cũng không đến nỗi nào.
    Trong câu nói đó chàng ngụ ý rằng, Thất Thương Quyền vốn dĩ cao siêu nhưng ngươi tài nghệ còn kém lắm. Tông Duy Hiệp không hơi đâu mà nghĩ xa nghĩ gần, ám vận vài lần chân khí, xương cánh tay kêu lên răng rắc, nghe vù một tiếng, một quyền đánh vào ngực Trương Vô Kỵ. Đầu quyền vừa chạm vào ngực chàng bỗng thấy dường như có một nguồn hấp lực hút dính tay y lại, nhất thời không rút ra được. Y giật mình kinh hãi, bỗng thấy có có một luồng hơi nóng nhu hòa theo bàn tay truyền vào đan điền, ngực và bụng thấy vô cùng khoan khoái. Y ngơ ngẩn, vội rút tay về phát quyền đánh tiếp, lần này đánh trúng bụng dưới đối phương, thấy lực trả lại thực là mạnh, y phải lùi một bước, bấy giờ mới đứng lại được. Y vận khí mấy lần, xông tới lần nữa đánh thêm một quyền nữa.
    Thường Kính Chi đứng gần bên Trương Vô Kỵ, thấy Tông Duy Hiệp mặt lúc đỏ, lúc trắng, dường như đã bị nội thương, đợi quyền thứ ba đánh ra, cũng đấm luôn một cái. Tông Duy Hiệp đánh vào trước ngực, Thường Kính Chi đánh vào sau lưng, song quyền tiền hậu giáp công, cả hai kình lực thật là ghê gớm. Nào ngờ quyền của hai người đánh tới chẳng khác gì đánh vào chỗ hư không, hai luồng lực đạo lập tức bị hóa giải không tăm hơi đâu nữa.
    Thường Kính Chi biết rằng với địa vị thân phận của mình, lần đầu đánh lén đã không ổn tí nào, nhưng cũng còn miễn cưỡng nói là vì đối phương nói ra lời lẽ nhục mạ tuyệt kỹ của phái Không Động, trong cơn giận dữ không chế ngự nổi, còn thâu tập lần thứ hai thì đúng là tư cách hạ lưu vô sỉ không cãi vào đâu được nữa. Y vốn nghĩ nếu hai người hợp lực Thất Thương Quyền, chỉ một thoi đánh chết được đối phương tại chỗ, sau đó dẫu người ngoài có nói ra nói vào, thì mình dù sao cũng đã trừ khử được một kẻ vướng chân bận tay, lập được chút công lao. Nào ngờ quyền phong đánh vào người chàng, kình lực lập tức tiêu tan, y giơ tay gãi đầu mấy cái ngơ ngẩn không hiểu tại sao.
    Trương Vô Kỵ mỉm cười hỏi Tông Duy Hiệp:
    - Tiền bối thấy thế nào?
    Tông Duy Hiệp ngạc nhiên, khom lưng chắp tay, cung kính nói:
    - Đa tạ Tăng thiếu hiệp dùng nội lực chữa thương cho tại hạ. Thần công kinh người của thiếu hiệp bất tất nói làm gì, nhưng bụng dạ đại nhân đại nghĩa lấy đức báo oán, tại hạ cảm kích không cùng.
    Y vừa nói ra, mọi người chung quanh không ai là không kinh ngạc. Không ai biết là trong khi Tông Duy Hiệp đánh ba quyền vừa rồi, Trương Vô Kỵ đã vận Cửu Dương chân khí, truyền vào cơ thể cho y, tuy chỉ trong chớp mắt nhưng vì chàng chân khí hùng hồn nên Tông Duy Hiệp được hưởng cũng không phải là ít. Y biết rằng nếu Thường Kính Chi không đánh lén phía sau lưng, quyền thứ ba này còn được lợi nhiều hơn thế nữa.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Bốn chữ đại nhân đại nghĩa tại hạ đâu dám nhận. Trong lúc này kỳ kinh bát mạch của Tông tiền bối bị chấn động mạnh, tốt hơn hết nên vận khí điều tức, những độc hại trong khi luyện Thất Thương Quyền, có thể trong vòng hai ba năm trục ra hết được.
    Tông Duy Hiệp tự biết những bệnh tật của mình, chắp tay nói:
    - Đa tạ, đa tạ.
    Nói xong lui qua một bên, ngồi xuống vận công, tuy biết làm thế hơi bất nhã, người ngoài coi không đẹp mắt, nhưng vì sinh tử an nguy của mình, nên đành chịu. Trương Vô Kỵ cúi xuống nối những xương gãy cho Đường Văn Lượng, nói với Thường Kính Chi:
    - Đem Hồi Dương Ngũ Long Cao ra đây.
    Thường Kính Chi lấy trong người ra thuốc cao đưa cho chàng, Trương Vô Kỵ lại nói tiếp:
    - Hãy qua bên phái Võ Đương xin một viên Tam Hoàng Bảo Lạp Hoàn, qua phái Hoa Sơn xin Ngọc Chân Tán đem về đây.
    Thường Kính Chi y theo lời dặn đem về đưa cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:
    - Trong Hồi Dương Ngũ Long Cao của quí phái có vị Thảo Ô rất tốt, còn Tam Hoàng Bảo Lạp Hoàn của phái Võ Đương có các vị Ma Hoàng, Hùng Hoàng, Đằng Hoàng cũng có chỗ dùng, thêm vào Ngọc Chân Tán, Đường tiền bối chỉ cần tĩnh dưỡng hai tháng, chân tay sẽ lành lặn trở lại như cũ.
    Nói xong tiếp xương, bôi cao, chỉ giây lát đã làm xong. Các môn phái trong võ lâm đều có những phương thuốc bí truyền trị thương, mỗi nhà đều có công hiệu riêng, những phương thuốc đó Hồ Thanh Ngưu đều viết rất rõ ràng. Trương Vô Kỵ đoán rằng lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính thể nào cũng mang theo bên mình. Thế nhưng người đứng xem càng coi càng thấy lạ, thủ pháp tiếp cốt của chàng tinh diệu không danh y nào sánh kịp, không cần nói làm gì, thế nhưng phái nào có các loại thuốc gì, sao chàng cũng lại biết rõ như thế? Thường Kính Chi ôm Đường Văn Lượng lên, dáng điệu ngượng ngùng đi xuống. Đường Văn Lượng đột nhiên kêu lên:
    - Họ Tăng kia, ngươi trị xương gãy cho ta, Đường Văn Lượng này mười phần cảm kích, ngày sau thể nào cũng báo đáp. Thế nhưng phái Không Động và ma giáo thù sâu như biển, không lẽ chỉ vì một chút tiểu ân tiểu huệ của ngươi mà đành xóa bỏ? Ngươi muốn giảng hòa, bọn ta không nghe đâu. Nếu như ngươi bảo ta vong ân phụ nghĩa, thì cứ bẻ gãy lại tứ chi của ta đi.
    Mọi người nghe y nói đều nghĩ thầm: “Cùng là kỳ túc của phái Không Động, nhưng Đường Văn Lượng xem ra khí khái hơn Thường Kính Chi nhiều”.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cứ như Đường tiền bối nói, làm thế nào mới chịu nghe tại hạ khuyên giải?
    Đường Văn Lượng nói:
    - Ngươi hiển lộ một môn võ công, nếu như phái Không Động làm không nổi, lúc ấy có gì hãy hay.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Phái Không Động cao thủ thật đông như kiến, vãn bối làm sao sánh kịp? Chẳng qua vãn bối không lượng sức mình, muốn giảng hòa hai bên, thôi cũng đành hết sức làm thử vậy.
    Chàng đưa mắt nhìn chung quanh, thấy phía đông khu đất có một cây tùng cao đến hơn ba trượng, cành lá xum xuê xòe ra như cái lọng, liền chậm rãi đi đến, lớn tiếng nói:
    - Vãn bối có học qua môn Thất Thương Quyền của quí phái, nếu như luyện không đúng, xin các vị tiền bối phái Không Động đừng cười nhé.
    Các môn phái nghe thấy chàng nói thế, đều hết sức kinh ngạc: “Tiểu tử này biết cả Thất Thương Quyền của phái Không Động, không biết y học ở đâu?”.
    Chỉ nghe chàng lớn tiếng đọc:
    Khí chất ngũ hành, Âm dương điều hợp, Hỏng phế, tổn tâm, Ruột gan tan nát.
    Tạng phủ rời xa, Tinh thần vuột mất.
    Ý chí bàng hoàng, Lòng dạ hoảng hốt, Lộn ngược tam tiêu, Hồn phách bay vụt.[2] Những người phái khác nghe thấy, chẳng nói làm gì, thế nhưng Không Động ngũ lão nghe chàng lớn giọng ngâm mấy câu quyền quyết hát chẳng ra hát, vè chẳng ra vè, người nào người nấy đều kinh hoảng. Đây chính là tổng quyết của Thất Thương Quyền, là một bí mật không truyền ra ngoài của phái Không Động, thanh niên này tại sao lại biết? Bọn họ nhất thời không nghĩ ra rằng chính Tạ Tốn đã cướp được Thất Thương Quyền Phổ rồi truyền lại cho chàng.
    Trương Vô Kỵ cao giọng ngâm xong, đi đến trước thân cây đấm ra nghe bình một tiếng, chỉ thấy tàn cây rung động, một nửa thân cây đại tùng đã đứt ngang bay vụt đi, nghe ầm một tiếng đổ xuống cách xa chừng hai trượng, chỉ còn lại gốc cây cao khoảng bốn thước, chỗ gãy phẳng lì. Thường Kính Chi lẩm bẩm nói:
    - Cái... cái này đâu phải Thất Thương Quyền.
    Căn bản của Thất Thương Quyền là trong cương có nhu, trong nhu có cương, quyền pháp đánh gãy cây này tuy uy lực kinh người, nhưng rõ ràng dùng lực thuần cương. Y đến gần xem xét, há hốc mồm không ngậm lại được, thấy chỗ cây gãy các thớ gỗ đều nát vụn, chính là công phu Thất Thương Quyền luyện đến mức cực kỳ cao thâm.
    Thì ra Trương Vô Kỵ định bụng sẽ làm cho cả đương trường phải kinh hãi, nếu chỉ dùng Thất Thương Quyền không thôi để chấn nát lõi cây, phải mười ngày nửa tháng, cành khô lá héo mới thấy được công lực của nó nên sau kình lực của Thất Thương Quyền lại dùng kình lực dương cương đánh gãy luôn thân cây. Đó là chàng phỏng theo nghĩa phụ Tạ Tốn năm xưa trên Băng Hỏa đảo đánh gãy cây rồi sau đó mới dùng đao Đồ Long chặt đứt cây.
    Tiếng hoan hô khen ngợi, các phái kẻ đứng lên người ngồi xuống, một lúc lâu mới lắng xuống. Thường Kính Chi nói:
    - Hay thật, quả nhiên là Thất Thương Quyền Pháp đã đến mức tuyệt cao, Thường mỗ xin bái phục. Thế nhưng mỗ muốn hỏi một câu, lộ quyền pháp này Tăng thiếu hiệp học của ai thế?
    Trương Vô Kỵ mỉm cười không đáp. Đường Văn Lượng sẵng giọng hỏi:
    - Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hiện nay ở đâu? Xin Tăng thiếu hiệp cho biết?
    Tâm tư y khá bén nhậy, đoán ngay rằng Tạ Tốn và thanh niên này ắt có gì liên quan. Trương Vô Kỵ giật mình: “Chao ôi không xong, ta biểu diễn Thất Thương Quyền thần công, để lộ việc của nghĩa phụ mất rồi. Nếu nói trắng nghĩa phụ có uyên nguyên với mình ra, thì ta tự đứng vào thế đối địch với sáu đại môn phái, việc giải hòa không thể nào xong được”. Nghĩ vậy chàng bèn nói:
    - Tiền bối nghĩ rằng việc mất Thất Thương Quyền phổ là do Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đầu dây mối nhợ hay sao? Sai rồi, sai rồi. Đêm hôm đó ở Thanh Dương Quan trên núi Không Động, trong trận kịch đấu chiếm đoạt quyền phổ, quí phái có người bị thương vì Hỗn Nguyên Công, toàn thân hiện những điểm đo đỏ, kẻ hạ thủ chính là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn đó.
    Năm xưa khi Tạ Tốn đến núi Không Động cướp quyền phổ, Thành Côn muốn cho Minh giáo thêm kẻ địch nên đã ngấm ngầm tương trợ, dùng Hỗn Nguyên Công đánh Đường Văn Lượng, Thường Kính Chi hai người bị thương. Khi đó Tạ Tốn không hề biết, về sau do Không Kiến nói cho hay, lúc ấy mới rõ. Lúc này Trương Vô Kỵ nghĩ đến Thành Côn một đời gian trá, chuyên giá họa cho người, nên dùng kế “gậy ông đập lưng ông”, vả lại những điều chàng nói ra cũng không có điều gì không đúng sự thật.
    Đường Văn Lượng và Thường Kính Chi nghi tâm hơn hai mươi năm qua, bây giờ nghe Trương Vô Kỵ đề cập đến, mới biết thì ra là thế, hai người nhìn nhau, nhất thời không nói được lời nào. Tông Duy Hiệp nói:
    - Như thế thỉnh vấn Tăng thiếu hiệp, Thành Côn hiện nay đang ở đâu?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn chủ tâm khiêu khích cho các đại môn phái và Minh giáo đánh lẫn nhau, về sau xin làm môn hạ Thiếu Lâm, pháp danh Viên Chân. Tối hôm trước y đã lẻn vào nội đường của Minh giáo, chính miệng y nói cho các thủ não của Minh giáo mọi sự. Dương Tiêu tiên sinh, Vi Bức Vương, Ngũ Tản Nhân đều nghe cả. Việc này hoàn toàn xác thực, nếu là hư ngôn, tại hạ không bằng con heo con chó, chết rồi vạn kiếp chẳng được siêu sinh.
    Mấy câu đó chàng khẳng khái nói, ai nghe thấy cũng đều động lòng, chỉ có tăng chúng chùa Thiếu Lâm lập tức xì xào.
    Từ đám đông một người cả tiếng niệm Phật, từ từ bước ra, trên người mặc tăng bào màu tro, tướng mạo uy nghiêm, tay trái cầm một chuỗi tràng hạt, chính là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm Không Tính. Ông ta đi vào giữa sân nói:
    - Tăng thí chủ, sao ngươi lại nói năng loạn xạ, nhất định vu cáo cho môn hạ của chùa Thiếu Lâm ta? Trước mặt anh hùng thiên hạ, thanh danh phái Thiếu Lâm đâu có thể để cho ngươi tùy tiện nói xấu.
    Trương Vô Kỵ khom lưng nói:
    - Đại sư xin đừng nổi nóng, xin Viên Chân tăng ra đây đối chất với vãn bối, liền biết chân tướng ngay.
    Không Tính đại sư mặt sầm hẳn xuống nói:
    - Tăng thí chủ lại đề cập đến tệ sư điệt Viên Chân, ngươi tuổi còn trẻ sao lại có tâm địa hiểm ác đến thế?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tại hạ chỉ muốn mời Viên Chân hòa thượng ra đây, trước mặt anh hùng thiên hạ nói rõ trái phải trắng đen, có gì đâu mà tồn tâm hiểm ác?
    Không Tính nói:
    - Viên Chân sư điệt là nhập thất đệ tử của tệ sư huynh Không Kiến, Phật học uyên thâm, trừ kỳ này theo anh em viễn chinh Minh giáo ra, nhiều năm qua chưa hề rời chùa một bước, làm sao có thể là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn được? Huống chi Viên Chân sư điệt vì lục đại môn phái khổ chiến yêu nghiệt nên đã kiệt lực viên tịch rồi, y chết đi thanh danh đâu có để cho ngươi...
    Trương Vô Kỵ nghe thấy “kiệt lực viên tịch”, tai liền ù đi, mặt trắng bệch, những gì Không Tính nói sau đó chàng nghe nhưng không để vào tai, chỉ lẩm bẩm:
    - Y... y chết thật rồi ư? Không... không thể được.
    Không Tính chỉ một thi thể tăng nhân ở phía tây, lớn tiếng nói:
    - Tự ngươi đến xem thì biết.
    Trương Vô Kỵ đi đến cái xác chết đó, thấy khuôn mặt má hõm, hai mắt trợn trừng, chính là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn sau đầu nhập Thiếu Lâm pháp danh Viên Chân. Chàng cúi xuống thăm hơi thở, thấy thịt da lạnh ngắt, xem ra chết đã lâu rồi. Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa buồn, không ngờ kẻ đại cừu hại một đời nghĩa phụ, ác quán mãn doanh hậu quả lại như thế. Máu nóng trong ngực chàng xông lên, nhịn không nổi ngửa cổ lên cười ha hả, kêu lên:
    - Gian tặc ơi là gian tặc, ngươi một đời làm biết bao nhiêu điều ác, đâu ngờ cũng có ngày nay.
    Mấy tiếng cười của chàng chấn động sơn cốc, truyền ra xa xa, ai nấy không khỏi giật mình. Trương Vô Kỵ quay đầu lại, hỏi:
    - Gã Viên Chân này ai đánh y chết thế?
    Không Tính liếc xéo một cái, mặt sa sầm như có phủ một làn sương mỏng, không trả lời. Ân Thiên Chính vốn đã đứng qua một bên, bấy giờ mới nói:
    - Y cùng với tiểu nhi Dã Vương tỉ thí chưởng lực, kết quả một chết, một bị thương.
    Trương Vô Kỵ khom lưng nói:
    - Thì ra thế.
    Chàng nghĩ thầm: “Chắc là Viên Chân trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng của Vi Bức Vương rồi, thụ thương không phải nhẹ, chưởng lực của cậu ta thật kinh hồn, vì thế đánh y chết ngay tại đương trường. Cậu ta thay ta báo mối thù này, cũng là phải lắm”.
    Chàng đi đến bên cạnh Ân Dã Vương, thò tay thăm mạch, biết là tính mạng không có gì nguy hiểm, nên cũng không lo, nói:
    - Đa tạ tiền bối.
    Không Tính đứng một bên thấy vậy, càng lúc càng tức, lớn tiếng rống lên:
    - Tiểu tử, lại đây nạp mạng đi.
    Mấy tiếng đó ầm ầm lọt vào tai, chẳng khác gì sấm sét. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên quay đầu, hỏi:
    - Cái gì?
    Không Tính lớn tiếng nói:
    - Ngươi biết rõ Viên Chân sư điệt chết rồi, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu y hết, ác độc đến thế, làm sao ta tha cho ngươi được? Lão hòa thượng hôm nay đành phải khai sát giới. Ngươi tự sát đi hay để lão nạp phải ra tay?
    Trương Vô Kỵ trong lòng phân vân: “Viên Chân đã chết rồi, kẻ làm nên tội đã bị báo ứng, thực là một việc rất đáng mừng. Có điều từ nay không còn ai đối chất, chân tướng không dễ dàng gì vạch ra cho mọi người biết, phải làm thế nào cho phải đây?”.
    Chàng còn đang trầm ngâm, Không Tính đã tiến lên mấy bước, tay phải vươn ra chộp vào đầu chàng, cái trảo đó từ cổ tay cho đến ngón tay, thẳng băng như cây bút, kình đạo cực kỳ ghê gớm.
    Ân Thiên Chính quát lên:
    - Long Trảo Thủ đó, không nên coi thường.
    Trương Vô Kỵ thân hình hơi nghiêng qua, nhẹ nhàng tránh được. Không Tính một trảo chưa trúng, trảo thứ hai đã tiếp theo, thế này xem ra lại càng nhanh nhẹn, cương mãnh hơn lần trước. Trương Vô Kỵ lại né qua bên trái tránh được. Không Tính liền liên tiếp tung ra trảo thứ ba, thứ tư, thứ năm nghe vù vù, chỉ nháy mắt, nhà sư mặc áo màu tro đã biến thành một con rồng xám, uốn lượn múa may, long trảo vươn ra, áp chế Trương Vô Kỵ không còn đường nào né tránh. Chỉ nghe xoẹt một tiếng, Trương Vô Kỵ bay vụt qua một bên, tay áo bên phải đã bị Không Tính chộp được, cánh tay trơ ra, hiện rõ năm vết xước, máu nhỏ ròng ròng. Tăng chúng Thiếu Lâm hoan hô vang dậy, nhưng đâu đó có tiếng một thiếu nữ kinh hoảng kêu lên.
    Trương Vô Kỵ liếc nhìn về phía người kinh hãi kia, thấy Tiểu Siêu thần sắc sợ hãi, kêu lên:
    - Trương công tử, công tử... cẩn thận nhé.
    Trương Vô Kỵ trong lòng cảm động: “Tiểu cô nương này đối với ta thật là tốt bụng”.
    Không Tính một chiêu thắng thế, nhảy vọt tới, xông vào chộp nữa, uy thế thật là phi phàm. Lộ trảo pháp nay vừa thật nhanh lại vừa độc địa, Trương Vô Kỵ chưa từng thấy bao giờ, nhất thời không biết cách nào đề ngự, chỉ có nước thoái lui liên tiếp. Hai người diện đối diện, một người xông tới, một người nhảy lùi về sau, Không Tính liên tiếp chộp liền chín cái đều vào chỗ không. Hai người trước sau vẫn cách nhau đến hơn hai thước, tuy Không Tính liên tục tấn công, Trương Vô Kỵ không có cách gì trả đòn, nhưng cứ so khinh công của hai người thì đã phân hơn kém rõ ràng. Không Tính phi bộ tới trước, còn Trương Vô Kỵ nhảy lùi về sau, khó dễ hai bên ai cũng biết cả, vậy mà Không Tính vẫn không nắm được đối thủ, bước chân như thế đã thua hẳn rồi. Trương Vô Kỵ chỉ cần xoay người chạy mấy bước, lập tức sẽ bỏ cách ông ta thật xa.
    Kỳ thực Trương Vô Kỵ không cần phải quay người, chỉ cần nhảy lùi cũng đủ thoát khỏi được thế công của nhà sư, thế nhưng trước sau vẫn không đỡ, cũng không chạy, lúc nào cũng cách khoảng hai ba thước, chính vì muốn quan sát những bí áo trong Long Trảo Thủ của Không Tính. Chàng coi đến chiêu thứ ba mươi bảy, thấy tay trái của ông ta vươn thẳng ra đằng trước, sử trở lại chiêu thứ tám là Nã Vân Thức. Chiêu thứ ba mươi tám hai tay từ trên cùng chụp xuống, phương vị tuy biến, tư thức cũng giống hệt như chiêu thứ mười hai Sang Châu Thức. Tên những chiêu thức đó dĩ nhiên Vô Kỵ không sao biết được, nhưng cách ra chiêu, chiêu nào chàng cũng nhìn rõ, nhớ vào trong bụng.
    Thì ra Long Trảo Thủ chỉ có ba mươi sáu thức, yếu chỉ của nó là nhanh nhẹn độc địa, không phải biến hóa nhiều. Không Tính khi còn trung niên đã mấy lần gặp đại địch, nhưng chỉ cần sử dụng Long Trảo Thủ, lập tức được thượng phong ngay, trong mười hai chiêu là đã thắng rồi, còn từ chiêu thứ mười ba chỉ để một mình luyện tập, chưa bao giờ phải sử dụng khi lâm địch. Lần này sử đến hết cả ba mươi sáu chiêu rồi vẫn chưa chế thắng được là chuyện bình sinh chưa hề có. Đến chiêu thứ ba mươi bảy phải quay về chiêu cũ, ông nghĩ thầm: “Tên tiểu tử này chỉ dựa vào khinh công cao siêu, bộ pháp nhanh nhẹn, từ đầu đến cuối né đông tránh tây, nếu quả thực hai bên sách chiêu, chắc gì chống đỡ nổi mình được mười hai chiêu Long Trảo Thủ”.
    Trương Vô Kỵ lúc này đã biết hết ba mươi sáu thức Long Trảo Thủ pháp, tuy không tìm thấy một sơ hở nào nhưng dù bất cứ quyền chiêu nào của dối phương, Càn Khôn Đại Na Di cũng có thể tạo thành sai sót để phá vỡ. Thế nhưng chàng còn trù trừ: “Nếu lúc này ta lấy mạng ông ta thì không có gì là khó, nhưng phái Thiếu Lâm uy danh lừng lẫy, vị Không Tính đại sư này lại là một trong ba kỳ túc của họ, nếu ta đánh bại ông ta trước mặt anh hùng thiên hạ, phái Thiếu Lâm còn mặt mũi nào? Còn như làm sao để ông ta tự nhiên biết khó mà chịu thua thì người này võ công cao hơn phái Không Động nhiều, ta đâu có cách gì làm được”. Chàng còn đang trong cảnh khó xử, bỗng nghe Không Tính quát lớn:
    - Tiểu tử, ngươi chỉ chạy trốn chứ đâu có phải là tỉ võ.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Muốn tỉ võ...
    Không Tính nhân cơ hội chàng đang há miệng, chân khí không tập trung được liền xuất công hai chiêu liền. Trương Vô Kỵ tung mình nhảy ra, miệng vẫn tiếp tục nói:
    - ... cũng được, nếu như tại hạ thắng được đại sư thì tính sao?
    Mấy câu đó âm thanh vẫn liền lạc không ngừng lại chút nào, nếu như nhắm mắt mà nghe, tưởng như chàng đang ngồi nói chuyện một cách bình thường, chẳng biết được rằng trong ba câu đó, chàng đã phải liên tục né tránh năm chiêu tấn công vũ bão của Không Tính.
    Không Tính đáp:
    - Khinh công của ngươi giỏi thật, nhưng nến muốn thắng được ta bằng đường quyền ngọn cước thì đừng hòng.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tỉ võ ra chiêu, ai biết thế nào được thắng hay bại? Vãn bối so với đại sư tuổi kém xa, võ nghệ tuy kém cỏi, nhưng nói về khí lực lại được lợi hơn.
    Không Tính hung hăng đáp:
    - Nếu như tại quyền cước mà ta thua ngươi, ngươi muốn giết thì giết, muốn xẻo thịt thì xẻo thịt.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Chuyện đó thì không dám. Nếu vãn bối thua, đương nhiên phải tùy theo đại sư sai bảo, không dám nửa lời nói khác. Thế nhưng nếu may mắn tại hạ thắng được đại sư nửa chiêu một thức, chỉ xin phái Thiếu Lâm rời khỏi Quang Minh Đính.
    Không Tính đáp:
    - Việc của phái Thiếu Lâm, do sư huynh ta định đoạt, ta chỉ lo việc của ta được thôi. Ta không tin rằng Long Trảo Thủ này lại không thắng được ngươi đâu.
    Trương Vô Kỵ trong lòng bỗng chợt nghĩ ra một cách, nói:
    - Ba mươi sáu chiêu Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm không có một chút sơ hở nào, là vô thượng tuyệt nghệ của cầm nã pháp trong thiên hạ, chỉ có điều đại sư luyện vẫn còn có một chỗ chưa đúng hẳn.
    Không Tính giận dữ đáp:
    - Giỏi nhỉ, nếu ngươi phá giải được Long Trảo Thủ của ta, ta lập tức quay về chùa Thiếu Lâm, suốt đời thề không ra khỏi cửa chùa một bước.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Không cần phải như thế.
    Hai người đối đáp mọi người đứng chung quanh reo hò như tiếng sấm, mỗi lúc một thêm vang dậy. Thì ra tuy hai người miệng vẫn nói, tay chân thân pháp không vì thế mà ngừng lại, tuy càng đấu càng nhanh, nhưng ngữ điệu so với bình thời chẳng có gì khác, không ngập ngừng chút nào. Khi Không Tính nói câu “Khinh công của ngươi giỏi thật” thì đã liên tiếp đánh ra hai chiêu vù vù, khi nói tới “nhưng nếu muốn thắng được ta bằng đường quyền ngọn cước” thì năm ngón tay trái đã chụp xuống, còn nói tới đoạn “thì đừng hòng” giọng nói uy mãnh, hai tay cùng phát ra liên tiếp ba chiêu.
    Hai người vừa nói vừa đánh, tiếng reo hò của người chung quanh vẫn không át được tiếng của họ. Khi Trương Vô Kỵ nói tới câu sau cùng: “ Không cần phải như thế”, tự nhiên thân hình vọt lên, ở trên không lượn liên tiếp bốn vòng, càng lượn càng cao, rồi đổi hướng một cái, nhẹ nhàng đáp xuống ngoài xa mấy trượng. Mọi người nhìn thấy như thế ai nấy mắt trợn trừng, không ai tin nổi trên đời này lại có loại khinh công như thế. Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu vẫn tự hào khinh công của mình trên đời không ai sánh kịp, lúc này cũng không khỏi tắc lưỡi thán phục.
    Trương Vô Kỵ rơi xuống đất rồi, Không Tính lại xông tới trước mặt, nhưng không thừa cơ truy kích, lớn tiếng nói:
    - Thế bây giờ mình tỉ đấu chưa?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Được rồi, mời đại sư phát chiêu.
    Không Tính nói:
    - Ngươi có còn nhảy lùi về sau nữa thôi?
    Trương Vô Kỵ mỉm cười trả lời:
    - Vãn bối nếu còn lùi nửa bước thì xem như thua.
    Những người trong Minh giáo như Dương Tiêu, Lãnh Khiêm, Chu Điên, Thuyết Bất Đắc, trong Thiên Ưng giáo như Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Lý Thiên Viên tuy thân thể cử động khó khăn, mắt tai vẫn bình thường, nghe thấy chàng nói như thế đều kinh hoảng thầm. Bọn họ ai cũng hiểu rộng biết nhiều, thấy Long Trảo Thủ của nhà sư thật là ghê gớm, muốn tiếp ông ta một chiêu, cũng không phải dễ dàng, võ công Trương Vô Kỵ tuy giỏi thật, nhưng muốn thắng được cũng phải trăm hiệp trở lên, công thủ tránh né, làm sao có cách nào không lùi lại nửa bước? Ai nấy đều thấy câu nói đó quá ư là khoa trương.
    Lại nghe Không Tính nói:
    - Không cần phải thế. Thắng cũng phải cho công bình, thua cũng phải cho tâm phục.
    Nói vừa xong, quát lên:
    - Tiếp chiêu.
    Tay trái chộp hờ ra, tay phải kẹp lại thành một luồng kình phong, đánh thẳng vào huyệt Khuyết Bồn ở vai trái của Trương Vô Kỵ, chính là chiêu Nã Vân Thức.
    Trương Vô Kỵ thấy tay trái ông ta vừa hơi động, biết ngay nhà sư định sử chiêu này, lập tức tay trái cũng chộp hờ ra, tay phải chộp luôn vào huyệt Khuyết Bồn của đối phương. Hai người sử dụng cùng một chiêu thức, cũng không có gì phân biệt, nhưng Trương Vô Kỵ ra sau mà tới trước, tuy chỉ là một sát na thôi nhưng đã chiếm được tiên cơ. Ngón tay của Không Tính còn cách chàng khoảng hai tấc thì năm ngón tay của Vô Kỵ đã chộp trúng huyệt Khuyết Bồn trên vai ông ta. Không Tính chỉ thấy huyệt đạo tê chồn, kình lực trên bàn tay phải hoàn toàn mất hết. Thế nhưng Trương Vô Kỵ không sử kình vào ngón tay, lập tức rút lại ngay.
    Không Tính ngạc nhiên, hai tay lại cùng đưa ra, sử chiêu Sang Châu Thức chộp vào hai huyệt Thái Dương hai bên mang tai của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại hậu phát tiên chí, hai tay cũng đưa ra, lại đi trước một bước, chộp đúng vào hai huyệt Thái Dương hai bên của Không Tính. Thái Dương huyệt là nơi trọng yếu, đối với nội gia cao thủ khi tỉ võ, đánh trúng là chết ngay, không có cách gì cứu được. Thế nhưng Trương Vô Kỵ chỉ lấy đầu ngón tay vuốt nhẹ, rồi cuốn vòng trở ra, biến thành thức thứ mười bảy trong Long Trảo Thủ là Lao Nguyệt Thức, đánh nhứ vào huyệt Phong Phủ ở sau đầu.
    Không Tính bị chàng phất trúng huyệt Thái Dương đã đứng chết trân, đến lúc chàng sử dụng Lao Nguyệt Thức, lại càng kinh hãi hơn, lập tức nhảy lui về sau nửa trượng, quát lên:
    - Ngươi... ngươi tại sao lại học lén Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm ta?
    Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
    - Võ công trong thiên hạ tất cả đâu đâu cũng đều qui về một nguồn gốc, lẽ nào còn cưỡng phân các phái khác nhau, cái này của mình, cái này của người, công phu Long Trảo Thủ chắc gì đã chỉ có quí phái mới có được mà thôi?
    Thế nhưng trong lòng chàng không khỏi bội phục: “Long Trảo Thủ này quả thực lợi hại, hẳn là phái Thiếu Lâm phải thiên trùy bách luyện hàng mấy trăm năm qua, có thể nói là một thứ võ công “bất bại”, nếu ta không dùng chính môn Long Trảo Thủ này đối địch với ông ta, nếu dùng quyền pháp khác để thủ thắng, quả thực là mười phần gian nan. Huống chi những quyền pháp, chưởng pháp ta học được, còn chưa bằng nhân vật hạng hai hạng ba của phái Thiếu Lâm, làm sao so sánh được với một trong ba đại thần tăng là Không Tính đại sư này?”.
    Không Tính cúi đầu suy nghĩ, nhất thời không hiểu rõ đạo lý của việc này, nói đến công phu tu luyện Long Trảo Thủ, thì dù cho sư huynh Không Văn, Không Trí mà ngay cả đương niên Không Kiến cũng đều không bằng được mình, vậy mà sao thanh niên này tiếp mình hai chiêu, đều hậu phát tiên chí, lối xuất chiêu từ thủ pháp đến kình lực, phương hướng bộ vị đều vừa ổn định, vừa nhanh nhẹn, chẳng khá gì đã khổ luyện mấy chục năm?
    Ông ta ngơ ngẩn không nói, cả mấy nghìn đôi mắt trên quảng trường đều chăm chăm nhìn vào mặt nhà sư. Vừa rồi hai người động thủ ra chiêu, chỉ trong chớp nhoáng lại phân ra, ngoài những cao thủ hạng nhất ra, không ai nhìn thấy ai người nào thắng người nào bại, nhưng trước mắt thấy Trương Vô Kỵ thì dường như vô sự, Không Tính lại nhăn tít đôi lông mày trầm tư suy nghĩ, hiển nhiên hơn kém đã rõ rồi.
    Không Tính đột nhiên hét lớn một tiếng, tung mình nhảy tới, hai bàn tay như gió táp mưa sa, Bổ Phong Thức, Tróc Ảnh Thức, Phủ Cầm Thức, Cổ Sắt Thức, Phê Kháng Thức, Đảo Hư Thức, Bão Tàn Thức, Thủ Khuyết Thức tám thế liên hoàn ào ào đánh tới. Trương Vô Kỵ thản nhiên như không, cứ theo đúng như thế từng thức một mà trả lại. Bổ Phong Tróc Ảnh, Phủ Cầm Cổ Sắt, Phê Kháng Đảo Hư, Bão Tàn Thủ Khuyết liên tiếp tám chiêu, chiêu nào cũng ra sau mà tới trước.
    Tám thức Long Trảo Thủ này của Không Tính thần tăng liên hoàn bất tuyệt, chẳng khác gì một chiêu biến ra tám cách khác nhau, nhanh nhẹn vô cùng, nào ngờ ông ta càng nhanh thì Trương Vô Kỵ lại nhanh hơn, chiêu nào cũng chiếm được trước. Mỗi khi Không Tính xuất một chiêu, lại bị ép lùi một bước, lùi đến bước thứ bảy rồi, Bão Tàn Thức và Thủ Khuyết Thức ổn trọng như núi bấy giờ mới tung ra. Hai chiêu này là hai chiêu sau cùng thứ ba mươi nhăm và ba mươi sáu của Long Trảo Thủ, trong nháy mắt tưởng như bên trong có hàng trăm sơ hở, người ra chiêu tay chân luống cuống, hết sức chống đỡ, kỳ thực hai chiêu này tưởng là thủ mà chính là công, cực kỳ khéo mà làm như vụng, trong mỗi chỗ sơ hở đều ẩn phục những bẫy rất là lợi hại.
    Long Trảo Thủ vốn dĩ là một môn võ công cương mãnh, nhưng đến hai thức sau cùng này, trong cương mãnh có ẩn âm nhu, đã đạt đến mức phản phác hoàn chân, lô hỏa thuần thanh.[3] Trương Vô Kỵ hú lên một tiếng trong trẻo, mạnh dạn tiến lên một bước, hai chiêu Bão Tàn, Thủ Khuyết đánh nhứ ra, đột nhiên biến ngay thành chiêu Nã Vân Thức, đi thẳng vào ngay chính giữa. Không Tính cả mừng, nghĩ thầm: "Sau cùng ngươi đã lọt vào bẫy của ta rồi". Ông ta thấy tay phải của Vô Kỵ rơi vào vòng vây, không còn cách nào có thể lui về được nữa, song chưởng liền quay trở về đánh vào, nghe bụp một tiếng đánh trúng ngay khuỷu tay Trương Vô Kỵ. Không Tính là một cao tăng hữu đạo, thấy thanh niên này tinh thông tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, ngại rằng chàng có uyên nguyên gì với môn phái chăng, huống chi mấy chiêu trước rõ ràng đã đánh vào trọng huyệt của mình, đều cố ý nhường nhịn rút tay về, nên chiêu này ông ta cũng không hạ sát thủ, chỉ cần đánh gãy cánh tay Trương Vô Kỵ mà thôi. Ngờ đâu song chưởng vừa chạm vào cánh tay chàng, bỗng thấy một nguồn kình lực nhu hòa hậu trọng đẩy ra, giữ chặt song chưởng không cho đánh tới. Ngay lúc đó, năm ngón tay của Trương Vô Kỵ đã ấn nhẹ vào huyệt Đãn Trung trên ngực Không Tính rồi.
    Chỉ trong một chớp mắt, bao nhiêu ý niệm trong lòng Không Tính đều nước lã đổ ra sông, mấy chục năm khổ luyện võ công, xưng hùng giang hồ đều chỉ là một trường huyễn mộng. Ông gật đầu, chậm rãi nói:
    - Tăng chí chủ cao siêu hơn lão nạp nhiều lắm.
    Tay trái nắm lấy năm ngón tay phải, vừa vận sức lên toan bẻ gãy, đột nhiên cổ tay trái thấy tê đi, kình đạo hoàn toàn không sử ra được, chính là Trương Vô Kỵ phất vào huyệt đạo trên cổ tay. Chỉ thấy chàng lớn tiếng nói:
    - Vãn bối dùng Long Trảo Thủ của phái Thiếu Lâm để thắng đại sư, có làm tổn thương gì đến uy danh của phái Thiếu Lâm đâu? Nếu vãn bối không dùng tuyệt nghệ của Thiếu Lâm để đối công với đại sư, thiên hạ không có võ công thứ hai nào có thể chiếm thượng phong được với đại sư nửa thức.
    Không Tính nhất thời phẫn khích, định tự mình bẻ gãy năm ngón tay mình, suốt đời không nói tới võ công nữa, nghe chàng nói như thế, thấy đối phương ngôn ngữ hành sự đều hết sức bao che cho bản môn, nếu không uy danh của phái Thiếu Lâm hàng nghìn năm qua, có thể nói là tự tay mình làm hỏng mất cả, mình chẳng hóa ra là kẻ đại tội của môn phái hay sao?
    Trong bụng nghĩ như thế, không khỏi mười phần cảm kích, nước mắt ứa ra, chắp hai tay nói:
    - Tăng thí chủ nhân hiệp hơn người, lão nạp vừa cảm ơn, vừa bội phục.
    Trương Vô Kỵ vái lại một vái thật sâu, nói:
    - Vãn bối phạm thượng bất kính, mong được đại sư thứ tội cho.
    Không Tính mỉm cười, nói:
    - Long Trảo Thủ này vào tay Tăng thí chủ, thành ra uy lực đến thế, trước đây lão nạp có nằm mơ cũng không nghĩ ra được, sau này có khi nào rảnh rỗi, mong được giá lâm tệ tự, lão nạp thể nào cũng hết lòng chủ nhà xin được một phen chỉ dạy cho thật nhiều.
    Trong võ lâm mỗi khi nói đến “thỉnh giáo” đều có hàm ý khiêu chiến trong đó, thế nhưng Không Tính quả thực lòng khẩn khoản, rõ ràng bội phục võ nghệ của đối phương, tự thẹn không bằng được, có ý xin học hỏi thực sự.
    Trương Vô Kỵ vội vàng nói:
    - Không dám, không dám. Chùa Thiếu Lâm võ công bác đại tinh thâm, vãn bối ít học tuổi trẻ, chỉ mong mai này có cơ duyên được đại sư chỉ điểm thêm cho.
    Câu nói đó chàng thực từ ruột gan nên giọng thật là thiết tha khẩn khoản. Không Tính tại chùa Thiếu Lâm địa vị cực cao, chỉ vì tính tình mộc mạc, không có tài trị sự nên không giữ một địa vị trọng yếu nào, nhưng nhân phẩm võ công, tăng chúng ai ai cũng kính phục. Phái Thiếu Lâm từ Không Trí đại sư đổ xuống thấy chàng nói thế đều thấy hả dạ, ai nấy đều thầm cảm kích Trương Vô Kỵ giữ cho bản phái không bị mất mặt, đều biết việc ngày hôm nay, mình không còn có thể ra khiêu chiến với chàng được nữa.
    Không Trí đại sư là thủ lãnh của kỳ vi công Minh giáo này, thấy tình thế như thế, trong lòng thật là hổ thẹn, ma giáo sắp bị tiêu diệt đến nơi lại bị gã thanh niên vô danh này ra tay ngăn trở, nếu như bây giờ rút về, anh hùng hào kiệt trong thiên hạ chẳng cười đến rụng cả răng ư? Thành ra nhất thời không biết tính sao bèn đưa mắt cho chưởng môn phái Hoa Sơn là Thần Cơ Tử Tiên Vu Thông nháy một cái.
    Tiên Vu Thông túc trí đa mưu, là quân sư của cả sáu môn phái trong kỳ vây đánh Quang Minh Đính này, thấy Không Trí đại sư đưa mắt cầu cứu, lập tức xòe quạt đưa lên phe phẩy, từ từ bước ra.
    Trương Vô Kỵ thấy người đi ra là một văn sĩ trung niên chừng ngoài bốn mươi, mi mục thanh tú, tuấn nhã tiêu dật, tự nhiên có vài phần cảm tình, chắp tay nói:
    - Xin chào, không biết vị tiền bối này có điều chi chỉ bảo?
    Tiên Vu Thông chưa kịp trả lời, Ân Thiên Chính nói:
    - Đây là chưởng môn phái Hoa Sơn Tiên Vu Thông, võ công chỉ bình thường nhưng rất nhiều quỉ kế.
    Trương Vô Kỵ vừa nghe tên Tiên Vu Thông nghĩ thầm: “Cái tên này quen quá, không biết mình nghe nói tới khi nào?”. Chỉ thấy Tiên Vu Thông đi tới trước mặt cách xa chừng hơn một trượng, liền đứng lại, ổn định rồi mới chắp tay nói:
    - Xin chào Tăng thiếu hiệp.
    Trương Vô Kỵ hoàn lễ nói:
    - Xin chào Tiên Vu chưởng môn.
    Tiên Vu Thông nói:
    - Tăng thiếu hiệp thần công cái thế, liên tiếp đánh bại chư lão của phái Không Động, ngay cả thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng phải chịu hạ phong, tại hạ thật là bội phục. Không biết thiếu hiệp là môn hạ của vị tiền bối cao nhân nào, điều giáo được một thiếu niên anh hiệp, trên đời khó thấy như thế?
    Trương Vô Kỵ đang suy nghĩ xem mình đã nghe đến tên người này vào lúc nào, câu hỏi của y chàng chưa kịp trả lời. Tiên Vu Thông ngửng mặt lên trời cười ha hả, lớn tiếng nói:
    - Không hiểu Tăng thiếu hiệp đối với sư thừa lai lịch có gì khó ăn khó nói cần phải dấu diếm chăng? Cổ nhân nói rằng: “Kiến hiền tư tề, kiến bất hiền...”[4] Trương Vô Kỵ nghe tới “kiến hiền tư tề”, lập tức nghĩ ngay đến “kiến tử bất cứu”, liền nhớ ngay năm năm trước nơi Hồ Điệp Cốc, Hồ Thanh Ngưu từng nói với chàng: “Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn giết hại em gái ông ta”. Khi đó Trương Vô Kỵ tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã định bụng: “Gã Tiên Vu Thông này thật là đáng ghét, nếu sau này không bị báo ứng thì quả là trời không có mắt”. Chàng ngưng thần nhớ lại mọi chuyện Hồ Thanh Ngưu đã kể cho nghe:
    Một thanh niên bị trúng Kim Tàm trùng độc ở xứ Miêu Cương, lẽ ra thể nào cũng chết. Ta ba ngày ba đêm không ngủ, hao tận tâm huyết cứu sống được y, lại cùng y kết nghĩa kim lan, tình như chân tay, không ngờ sau này y lại làm chết chính đứa em ruột của ta... Ôi, đứa em đáng thương của ta ơi... hai anh em ta từ bé cha mẹ mất sớm, đùm bọc lẫn nhau.
    Hồ Thanh Ngưu nói đến đó, mặt nhăn nhúm, mắt nhòa lệ khiến cho Trương Vô Kỵ cực kỳ đau xót. Hồ Thanh Ngưu lại kể tiếp, về sau từng mấy lần đi kiếm y báo cừu, nhưng vì phái Hoa Sơn người nhiều thế mạnh, Tiên Vu Thông lại giảo hoạt, lắm mưu nhiều kế khiến Hồ Thanh Ngưu suýt chết về tay y.
    Chàng nghĩ đến đó, đôi lông mày dựng ngược, đôi mắt như tóe lửa, nhìn thẳng vào Tiên Vu Thông, lại nghĩ đến y có một tên đệ tử là Tiết Công Viễn, bị Kim Hoa bà bà đả thương nhờ mình cứu y thoát chết, vậy mà về sau toan bắt mình làm thịt ăn, hai thầy trò y lấy oán báo ân, đều là một bọn gian ác, đê tiện vô sỉ. Tiết Công Viễn nay chết rồi, còn tên Tiên Vu Thông này không thể không trừng trị một phen cho bõ ghét, chàng liền mỉm cười nói:
    - Tôi có bị trúng độc ở Miêu Cương đâu, cũng không giết chết em gái của người kết nghĩa kim lan, có gì mà khó ăn khó nói?
    Tiên Vu Thông nghe chàng nói thế, liền toàn thân run rẩy, toát mồ hôi lạnh sau lưng. Năm xưa y được Hồ Thanh Ngưu cứu chữa khỏi chết rồi, cùng em gái của Hồ Thanh Ngưu là Hồ Thanh Dương yêu thương nhau. Hồ Thanh Dương trao thân cho y để rồi mang thai, nào ngờ Tiên Vu Thông tham cái địa vị chưởng môn phái Hoa Sơn, bỏ rơi Hồ Thanh Dương để kết hôn với người con gái độc nhất của chưởng môn. Hồ Thanh Dương xấu hổ tự tận, gây ra cái thảm cảnh một xác hai mạng người, trước nay Tiên Vu Thông vẫn cố gắng che đậy không cho ai hay biết, không ngờ chuyện đã trên mười năm, đột nhiên bị gã thanh niên này trước mặt mọi người kể ra, y không kinh hồn thất đảm sao được? Y liền nghĩ ngay một ý tưởng độc ác: “Gã thanh niên này không hiểu vì sao lại biết được chuyện riêng tư của ta, không thể không lập tức ra tay trừ ngay, không để cho y sống thêm một giờ một buổi nào nữa, nếu không để nó rêu rao chuyện của mình ra thì làm sao?”.
    Chỉ giây lát y trấn tĩnh ngay được, nói:
    - Tăng thiếu hiệp nếu không chịu nói ra sư thừa, tại hạ xin lãnh giáo cao chiêu của các hạ. Chúng mình chỉ vừa tới chỗ là ngừng lại, ra tay lưu lại chút tình, được chăng?
    Nói xong y nghiêng tay phải, tay trái chém xuống đầu vai của Trương Vô Kỵ, lớn tiếng nói:
    - Xin mời Tăng thiếu hiệp.
    Cốt để Trương Vô Kỵ không còn cơ hội nói tiếp nữa. Trương Vô Kỵ hiểu tâm ý của y, tiện tay đưa chưởng lên gạt nhẹ, nói:
    - Phái Hoa Sơn võ nghệ thật là cao minh, lãnh giáo hay không thì cũng vậy. Thế nhưng cái tài lấy oán báo ơn, vong ân phụ nghĩa, cái đó người ngoài mới theo không kịp...
    Tiên Vu Thông không để cho chàng nói tiếp, lập tức xông lên tấn công, sử một tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn là bảy mươi hai lộ Ưng Xà Sinh Tử Bác. Y gập cái quạt lại cầm nơi tay phải, để lộ cái cán bằng thép đúc thành hình đầu rắn, dùng xà đầu điểm, đánh, đâm, chọc, tay trái sử dụng Ưng Trảo Công để nắm, bắt, vặn, móc, hai tay chiêu số hoàn toàn khác nhau. Lộ Ưng Xà Sinh Tử Bác này là tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn truyền đã trên trăm năm, ưng xà thi triển, trong một thức cùng xuất hiện thế hùng mạnh của chim, thế linh động của rắn, bao gồm vừa nhanh vừa độc.
    Thế nhưng lực phân ắt yếu đi, lộ võ công này nếu dùng đối phó với người thường sẽ khiến cho người ta phải luống cuống, tránh được bên đông thì bị đòn bên tây. Trương Vô Kỵ chỉ tiếp qua vài chiêu, biết ngay đối phương chiêu số tuy tinh, kình lực lại không đủ, so với Không Tính thần tăng thật kém xa, nên tay vẫn chống đỡ, miệng vẫn nói tiếp:
    - Tiên Vu chưởng môn, tại hạ có một điểm chưa rõ ràng muốn thỉnh giáo. Năm xưa ông thân trúng kịch độc, đến mức chín chết một sống, người ta phải ba ngày ba đêm không ngủ, kiệt lực tận tâm cứu ông khỏi, lại cùng ông kết nghĩa kim lan, đối với ông tình như anh em. Vậy mà tại sao ông đang tâm làm chết em gái người ta là thế nào?
    Tiên Vu Thông không sao trả lời được, há miệng chửi:
    - Hồ...
    Y định chửi một câu “Hồ thuyết bát đạo[5]” toan cãi chầy cãi cối. Tiên Vu Thông vốn dĩ ăn nói khéo léo, mồm miệng lanh lợi nổi tiếng trong võ lâm, nghe đến Trương Vô Kỵ nói toạc chuyện bí mật của mình, liền toan đặt điều dùng tài biện bác vu hãm, vừa che dấu chuyện thất đức, vừa chờ dịp Trương Vô Kỵ phẫn nộ chia trí hầu thừa cơ hạ độc thủ. Tài nghệ như Không Tính đại sư còn không thắng nổi địch thủ, y không mong gì dùng võ nghệ áp đảo được đối phương.
    Nào ngờ vừa mới nói được một chữ “Hồ”, bỗng thấy một chưởng lực nặng nề ập tới đè vào ngực, Tiên Vu Thông thấy hơi thở hụt hẫng, ba chữ “... thuyết bất đạo” nghẹn tại cổ nói không ra, trong giây lát thấy hơi trong ngực dường như đã bị đối phương đẩy ra ngoài rồi, vội vàng tiềm vận nội lực, hết sức chống đỡ, tai vẫn nghe rõ ràng từng câu từng chữ Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế, đúng thế. Ngươi vẫn còn nhớ được họ Hồ, thế nhưng sao chỉ nói ra họ Hồ mà không nói cho hết? Hồ gia tiểu thư bị ngươi hãm hại chết thảm như thế, bao nhiêu năm qua ngươi không thấy áy náy sao?
    Tiên Vu Thông ngộp chịu không nổi, hơi thở dường như đứt quãng, vội vàng liên tiếp đánh ra ba chiêu. Trương Vô Kỵ chưởng lực liền nhả ra, y thấy vừa thấy nhẹ nhàng, vội hít một hơi dài, quát lên:
    - Ngươi...
    Thế nhưng chỉ mới nói được một chữ “ngươi”, chưởng lực của đối phương lại ép tới trước ngực, tiếng lại đứt quãng. Trương Vô Kỵ nói tiếp:
    - Đại trượng phu dám làm dám chịu, đúng ra đúng, sai ra sai, việc gì cứ phải ấp a ấp úng, che đầu che đuôi? Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu năm xưa cứu mạng cho ngươi, có phải không? Em gái của ông ta chính ngươi làm hại đến chết, có phải không?
    Chàng không biết em gái Hồ Thanh Ngưu bị hại như thế nào nên không thể nào nói cho rõ ràng, thế nhưng Tiên Vu Thông lại tưởng bao nhiêu chuyện y làm, Trương Vô Kỵ đều biết hết, thế nhưng khổ một nỗi không sao mở miệng được, thành ra mặt cứ tái đi.
    Những người chung quanh ai nấy đều biết Tiên Vu Thông miệng lưỡi trơn như mỡ, có tài hùng biện, vậy mà bị đối phương trách mắng nặng nề như thế không đối đáp được một lời nào, khiến không thể không tin lời của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ dùng thần công tuyệt đỉnh ép vào ngực y không cho y thở, khiến cho Tiên Vu Thông chẳng khác gì người câm ăn phải ớt, muốn nói cũng không được, người ngoài chỉ thấy Trương Vô Kỵ hay tay múa may, sách giải thế công của Tiên Vu Thông, thỉnh thoảng phản kích một chưởng, cho nên dù là cao thủ của các phái cũng không ai nhìn ra cái ngoắt ngoéo ở bên trong. Các danh túc của phái Hoa Sơn, các môn nhân thấy chưởng môn bị bôi tro trát trấu trước mặt mọi người, bị mắng chửi không còn mặt mũi nào như thế, mà không có được một lời biện giải, ai nấy đều hết sức bẽ bàng. Thế nhưng một số người biết Tiên Vu Thông quỉ kế đa đoan, nghĩ rằng y tạm thời ẩn nhẫn, để chờ cơ hội báo phục cực kỳ lợi hại.
    Lại nghe Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói tiếp:
    - Người trong võ lâm chúng ta, quan trọng nhất là ơn phải đền, oán phải trả. Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu là người trong Minh giáo, ngươi chịu đại ân của Minh giáo, vậy mà hôm nay tất lãnh môn nhân đến đánh Minh giáo. Người ta cứu mạng cho ngươi, y lại giết chết thân nhân người ta, quả thật không bằng loài cầm thú, còn mặt mũi nào mà làm chưởng môn một phái?
    Chàng mắng y một trận thật là hả lòng hả dạ, nghĩ thầm nếu như Hồ tiên sinh hôm nay giá như có ở đây, được chính tai nghe chàng mắng y rửa hận cho ông ta, chắc cũng bớt đi được phần nào nỗi phẫn uất trong lòng bao lâu nay. Thế nhưng chàng cũng biết rằng chỉ nên mắng chửi nhưng không thể nào lấy mạng của y, ngày sau sẽ tìm cách trả thù sau, nên thu chưởng lực lại, nói:
    - Nếu ngươi đã biết hổ thẹn rồi, ta tạm để cái đầu ngươi trên cổ.
    Tiên Vu Thông đột nhiên hô hấp thoải mái, quát lên:
    - Tiểu tặc, chỉ nói láo thôi.
    Y vung cán quạt chỉ ngay vào mặt Trương Vô Kỵ điểm một cái, lập tức nhảy vọt ra một bên. Trương Vô Kỵ đột nhiên ngửi thấy một mùi thơm, lập tức đầu óc choáng váng, chân đứng không vững, chỉ thấy trời đất quay cuồng, mắt nổ đom đóm...
    Tiên Vu Thông quát lên:
    - Tiểu tặc, để cho ngươi biết tuyệt nghệ của phái Hoa Sơn Ưng Xà Sinh Tử Bác lợi hại như thế nào.
    Nói xong y nhảy tới trước, năm ngón tay trái vung ra chộp vào huyệt Uyên Dịch nơi nách Trương Vô Kỵ. Y thấy ngũ trảo chộp xuống, Trương Vô Kỵ hoàn toàn không phản kháng được, nhưng nơi đụng vào trơn tuột chẳng khác gì một con cá, không sao sử được một chút kình đạo nào. Lại nghe môn hạ phái Hoa Sơn hò reo vang động:
    - Ưng Xà Sinh Tử Bác hôm nay dương danh thiên hạ.
    - Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn thần kỹ kinh người.
    - Có thế mới dạy cho tên tiểu tặc võ công chân thực ra sao.
    Trương Vô Kỵ mỉm cười, thổi một hơi ngay mũi Tiên Vu Thông. Tiên Vu Thông bỗng ngửi thấy một mùi thơm, đầu óc choáng váng, sợ không để đâu cho hết, vội há mồm toan kêu cứu. Trương Vô Kỵ tay trái phất luôn vào hai khoeo chân của y, Tiên Vu Thông đứng không vững, khuỵu luôn xuống, quì ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, chẳng khác gì đang lạy lục xin tha.
    Biến cố đó thật ngoài sự tưởng tượng của mọi người, trước mắt thấy Trương Vô Kỵ bị trọng thương, lảo đảo muốn ngã, nào ngờ chỉ trong khoảnh khắc, biến thành Tiên Vu Thông quì ngay trước mặt, chẳng lẽ chàng có yêu pháp hay sao?
    Trương Vô Kỵ cúi xuống, cầm cái quạt trong tay Tiên Vu Thông lên, lớn tiếng nói:
    - Phái Hoa Sơn tự cho là danh môn chính phái, ai ngờ lại có tuyệt nghệ phóng trùng hạ độc, xin các vị coi thử.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:54:49 | Chỉ xem của tác giả
   Nói xong chàng phẩy tay một cái, mở chiếc quạt ra, một bên vẽ ngọn núi Hoa Sơn cao vút từng từng lớp lớp, lật qua bên kia viết sáu câu thơ trong bài Thái Hoa Tán (ca tụng ngọn núi Hoa Sơn) của Quách Phác:
    Hoa sơn tuấn nhã uy linh, Bốn bề cao tỏa chập chùng chen mây.
    Xem chừng tiên nữ đâu đây, Rót quỳnh tương để chuốc nơi thiên đình.
    Ai kia du ngoạn vân hương, Xe rồng thấp thoáng lẫn cùng xiêm y.
    (Hoa nhạc linh tuấn, Tước thành tứ phương.
    Viên hữu thần nữ, Thị ấp ngọc tương.
    Kỳ thùy du chi?
    Long giá vân thường.) Trương Vô Kỵ xếp cái quạt lại, nói:
    - Ai ngờ đâu chiếc quạt phong nhã này bên trong lại có dấu một cơ quan đê hèn âm độc.
    Nói xong chàng đi đến trước một bụi hoa, chỉ ngay cái cán vào một bông hoa vẫy mấy cái, chỉ giây lát, cánh hoa lả tả rơi xuống, lá cây cũng héo úa biến thành màu vàng.
    Mọi người ai nấy kinh hãi, nghĩ thầm: “Tiên Vu Thông dấu trong cái quạt này chất độc gì ghê gớm thế?”. Chỉ thấy Tiên Vu Thông nằm phục xuống đất, kêu la thảm thiết như heo bị chọc tiết, âm thanh rùng rợn khiến ai ai cũng sờn lòng:
    - A... a...
    Tiếng kêu của y kéo dài, tưởng như có ai dùng dao bén cắt từng miếng thịt. Đúng ra một người võ học cao cường như y, dù có bị dao cắt thực chăng nữa, cũng phải cố chịu đau, không nên kêu la mất tư cách trước mặt mọi người, thành thử mỗi tiếng kêu của y, lại như lột một lớp da mặt của người trong phái Hoa Sơn. Y kêu la mấy tiếng rồi lớn tiếng nói:
    - Mau... mau giết ta đi... mau đánh chết ta đi...
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Ta có cách chữa được cho ngươi, không biết rằng trong cái quạt này ngươi dấu loại độc vật gì? Không biết chất độc thì không cách gì giải cứu.
    Tiên Vu Thông nói:
    - Đó... đó là Kim Tàm... Kim Tàm trùng độc... mau... mau đánh chết ta... a... a...
    Mọi người nghe đến Kim Tàm trùng độc, người còn trẻ không biết là ghê gớm chẳng nói gì, nhưng những người có tuổi của các môn phái mặt đều biến sắc, nhân sĩ chính trực liền lên tiếng trách cứ ngay. Thì ra Kim Tàm trùng độc là độc vật đứng đầu trong thiên hạ, vô hình vô sắc, người bị trúng phải tưởng như có muôn ngàn con tằm cùng cắn xé khắp người, đau đớn khó chịu, không sao hình dung cho nổi. Người trong võ lâm khi nghe nói đến ai cũng nghiến răng hậm hực, loại tàm độc này không có dấu vết gì, dù cho thần công vô địch vẫn có thể bị một người đàn bà, một đứa trẻ con không biết võ công hạ độc. Cũng may loại này rất khó tìm, trước đây người ta chỉ nghe tiếng, đến nay mới chính mắt thấy trạng huống của Tiên Vu Thông bị trúng phải.
    Trương Vô Kỵ lại hỏi:
    - Ngươi dấu Kim Tàm trùng độc trong cán quạt, sao lại tự mình mắc phải?
    Tiên Vu Thông đáp:
    - Mau... giết ta đi... ta không biết, ta không biết...
    Nói đến đây tay y cào lung tung trên chính người mình, lăn lộn dưới đất. Trương Vô Kỵ nói:
    - Ngươi phóng trùng độc trong cái quạt định hại ta, lại bị ta dùng nội lực tống trở ra, ngươi có muốn nói gì thêm không?
    Tiên Vu Thông kêu rú lên:
    - Chính ta gây nên tội nghiệt... tự ta gây tội...
    Y đưa hay tay cấu vào yết hầu toan tự tận, nhưng người trúng phải Kim Tàm trùng độc rồi, muốn sống không được mà muốn chết cũng không xong, thần trí hoàn toàn tỉnh táo, mỗi chỗ trên thân mình đau đớn càng thêm đau đớn, so với người bị trúng độc chết ngay còn đáng sợ hơn nhiều.
    Năm xưa Tiên Vu Thông ở tại Miêu Cương có tư tình vơi một cô gái bản địa, sau lại ruồng bỏ, cô gái đó liền hạ Kim Tàm trùng độc trên người y. Thế nhưng vì mong y hồi tâm chuyển ý nên liều lượng thuốc rất nhẹ để dễ bề giải cứu. Tiên Vu Thông trúng độc rồi liền đào tẩu ngay, nhưng y cũng rất quỉ quyệt, khi trốn đi có ăn trộm của cô gái Miêu gia đó hai đôi kim tàm, nhưng bỏ chạy chưa được bao lâu thì bị tê liệt ngã quị. May thay Hồ Thanh Ngưu chính đang hái thuốc ở Miêu Cương, nên cứu sống y. Tiên Vu Thông về sau theo đúng phương pháp nuôi kim tàm, chế thành độc phấn, dấu ở trong cán quạt. Ở cán quạt có cơ quan, chỉ cần ấn nút rồi dùng nội lực tống ra, giết người một cách vô hình vô ảnh. Nào ngờ y vừa ra tay đấu với Vô Kỵ lập tức bị chế ngự, nội lực không phát ra được, đến khi chàng triệt thủ nhường đòn, y lập tức sử chiêu Ưng Dương Xà Thoán, cán quạt giả vờ điểm để bắn trùng độc.
    Cũng may Trương Vô Kỵ nội lực thâm hậu không ai sánh kịp, khi gặp lâm nguy liền nín thở, ngưng khí, phun ngược độc khí ra, nếu như nội lực kém một chút thì người nằm lăn lộn rên la dưới đất kia không phải là Tiên Vu Thông mà chính là chàng vậy. Chàng đọc kỹ Độc Kinh của Vương Nạn Cô, biết rõ sự lợi hại của kim tàm như thế nào, vội ngầm vận chân khí chạy khắp thân thể, không thấy gì khác lạ, lúc ấy mới yên lòng, thấy Tiên Vu Thông đau đớn như thế, nổi lòng trắc ẩn, nghĩ thầm: “Cứu thì mình có thể cứu được nhưng phải bắt y chính miệng khai ra những điều tàn ác đã làm năm xưa mới được”.
    Chàng liền lớn tiếng nói:
    - Phương pháp cứu trị Kim Tàm trùng độc này, ta cũng có biết, nhưng có điều ta hỏi gì, ngươi phải trả lời cho thành thực, nếu chỉ nói dối nửa câu, ta sẽ thõng tay không lý đến, để cho ngươi chịu đựng bảy ngày bảy đêm, đến khi thịt thối tới tận xương, không lấy gì làm thích thú đâu.
    Tiên Vu Thông tuy đau đớn, thần trí vẫn hết sức tỉnh táo, nghĩ thầm: “Năm xưa cô gái Miêu Cương khi hạ độc trên ta rồi, cũng có nói là ta sẽ phải chịu khốn khổ đày đọa bảy ngày bảy đêm, khi thịt thối đến xương mới chết được, sao tiên tiểu tử này nói đúng thế không sai chút nào?”.
    Tuy nhiên y không tin chàng có tài nghệ như Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu để có thể giải độc được nên nói:
    - Ngươi... ngươi không cứu nổi ta đâu...
    Trương Vô Kỵ mỉm cười, xoay ngược cán quạt, điểm vào ngang hông y, nói:
    - Đục một cái lỗ ở chỗ này, đổ thuốc vào rồi khâu lại, có thể khu trừ được chất độc.
    Tiên Vu Thông vội vàng nắm ngay lấy:
    - Đúng đó, đúng đó. Hoàn toàn... hoàn toàn... không sai chút nào.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Vậy ngươi nói ra đi, trong đời ngươi làm những chuyện gì không phải.
    Tiên Vu Thông nói:
    - Không... không có...
    Trương Vô Kỵ chắp tay:
    - Vậy thì thôi, xin cứ ở đây chịu bảy ngày bảy đêm đi.
    Tiên Vu Thông vội nói:
    - Để... để tôi nói...
    Thế nhưng trước mặt mọi người nói ra những điều không nên không phải của mình, quả thực hết sức khó khăn, y ấp úng hồi lâu, mãi vẫn không nói ra. Đột nhiên từ phái Hoa Sơn có hai tiếng hú rền vang, hai người cùng nhảy ra, một người cao, một người lùn, tuổi tác đều chừng ngoài năm mươi, trong tay cầm trường đao sáng choang đến ngay trước mặt Trương Vô Kỵ. Ông già lùn cất tiếng the thé:
    - Họ Tăng kia, phái Hoa Sơn ta có thể giết chứ không có thể làm nhục, ngươi đối phó với Tiên Vu chưởng môn của chúng ta như thế, đâu phải là hành động của kẻ anh hùng hảo hán.
    Trương Vô Kỵ ôm quyền hỏi lại:
    - Tôn tính đại danh của hai vị là gì?
    Ông già lùn giận dữ đáp:
    - Cái mặt ngươi đâu đã xứng đáng hỏi danh hiệu của anh em ta.
    Ông ta cúi xuống tay trái định ôm Tiên Vu Thông. Trương Vô Kỵ đánh ra một chưởng, đẩy ông ta lùi lại một bước, lạnh lùng nói:
    - Y toàn thân đầy chất độc, chỉ cần đụng vào thì cũng giống như y không khác chút nào, các hạ nên cẩn thận.
    Ông già lùn sững sờ, sợ đến toàn thân run rẩy, lại nghe Tiên Vu Thông kêu la:
    - Cứu tôi... mau cứu tôi... Bạch Viên Bạch sư ca, chính tôi dùng Kim Tàm trùng độc sát hại đó, ngoài ra không còn ai nữa, cũng không làm gì không nên không phải.
    Y nói câu đó ra, cả hai lão cao lùn lẫn người trong phái Hoa Sơn đều kinh hãi. Ông già lùn hỏi lại:
    - Bạch Viên bị ngươi giết đấy ư? Có đúng thế không? Thế sao ngươi lại bảo y chết về tay Minh giáo?
    Tiên Vu Thông rền rĩ:
    - Bạch... Bạch sư ca... xin sư ca tha cho tôi...
    Y một mặt thảm thiết kêu la, một mặt rập đầu van lạy:
    - Bạch sư ca...anh chết thật thảm thiết, bởi vì anh khăng khăng hăm dọa... sẽ khai ra chuyện Hồ tiểu thư, sư phụ sẽ không tha tôi đâu, cho nên tôi phải giết anh để bịt miệng. Bạch sư ca... tha cho tôi... tha cho tôi...
    Hai tay y nắm chặt cổ họng, nói tiếp:
    - Tôi hại anh để giá họa cho Minh giáo, thế nhưng... thế nhưng... tôi đã đốt bao nhiêu là vàng mã, làm bao nhiêu là tuần chay, sao anh vẫn còn đòi mạng tôi? Gia đình anh trẻ già lớn bé, tôi cũng chu cấp đầy đủ... có thiếu thốn gì đâu.
    Khi ấy đang giữa ban ngày, trên sân rộng đâu đâu cũng đầy người nhưng mấy câu kêu than của Tiên Vu Thông đầy âm phong u uất, khiến ai nấy lạnh cả gáy, tưởng như hồn ma của Bạch Viên đang đến đây đòi mạng. Người của phái Hoa Sơn ai quen biết Bạch Viên lại càng sợ hãi.
    Trương Vô Kỵ nghe y nói như thế quả thực không ngờ nổi, những tưởng chỉ ép y cung khai thừa nhận chuyện lấy oán báo đức, giết hại em gái Hồ Thanh Ngưu nào ngờ y lại nói ra chuyện giết hại chính sư huynh của mình. Hồ Thanh Dương tuy vì y mà chết nhưng do bà ta tự tận, Tiên Vu Thông vốn là kẻ trăng hoa, trong bụng đâu có hổ thẹn chút nào, còn Bạch Viên mới là người chính tay y làm hại. Năm xưa Bạch Viên bị trúng Kim Tàm trùng độc lăn lộn kêu la, nay chính y cũng bị như thế, trong đầu chỉ nhơ tới hai chữ Bạch Viên, vừa kinh hoàng, vừa đau đớn nên tưởng như hồn ma Bạch Viên đến đòi mạng.
    Trương Vô Kỵ thật ra chẳng biết Bạch Viên là ai nhưng nghe giọng lưỡi Tiên Vu Thông thì liệu chừng y đem chuyện ám hại Bạch Viên đổ lên đầu Minh giáo, phái Hoa Sơn sở dĩ tham gia chiến dịch vây đánh Quang Minh Đính, phần lớn cũng vì đó mà ra nên lớn tiếng nói:
    - Các vị trong phái Hoa Sơn thấy chưa? Bạch Viên Bạch sư phụ nào phải do Minh giáo làm hại đâu, các vị trách sai người rồi.
    Ông già cao đột nhiên vung đao lên, nhắm ngay đầu Tiên Vu Thông chém xuống. Trương Vô Kỵ vội vàng đưa chiếc quạt ra, điểm vào đao của ông ta một cái, cương đao liền dạt ra ngoài, nghe cạch một tiếng phập ngay xuống đất sâu đến hơn một thước. Ông già cao giận dữ hỏi:
    - Tên này là bạn đồ của bản phái, bọn ta thanh lý môn hộ, sao ngươi lại xen vào làm gì?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vãn bối đã bằng lòng chữa Kim Tàm trùng độc cho y, nói rồi lẽ nào không giữ lời. Chuyện phân tranh trong môn hộ của quí phái, xin đợi về lại núi Hoa Sơn, từ từ thanh lý cũng chưa muộn.
    Ông già lùn nói:
    - Sư đệ, gã này nói đúng đấy.
    Ông ta giơ chân lên đá ngay vào huyệt Đại Truy trên lưng Tiên Vu Thông khiến y văng đi, nghe bịch một tiếng rớt trúng ngay trước mặt người của phái Hoa Sơn. Tiên Vu Thông bị đá vào huyệt đạo rồi, tuy đau đớn toàn thân không giảm nhưng không còn kêu lên thành tiếng được nữa, chỉ còn quằn quại dưới đất mà thôi. Các môn nhân đệ tử thân tín của y ai cũng sợ trúng phải chất kịch độc, chẳng người nào đám chạy ra đỡ y dậy.
    Ông già lùn quay sang Trương Vô Kỵ nói:
    - Anh em ta là sư thúc của tên Tiên Vu Thông kia, ngươi giúp phái Hoa Sơn làm sáng tỏ một đại sự, khiến cho cái chết oan của Bạch Viên sư điệt được phanh phui, xin đa tạ.
    Nói xong vái một vái thật sâu. Ông già cao cũng cúi xuống vái một cái. Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ nói:
    - Không dám, không dám.
    Ông già lùn lại vung đao lên chém nhứ một cái, gay gắt nói:
    - Thế nhưng danh thanh phái Hoa Sơn cũng lại bị tên tiểu tử này trước mặt mọi người làm cho không còn thể thống gì nữa, sư huynh đệ chúng ta nhất định phải thí mạng với ngươi mới xong.
    Ông già cao cũng nói:
    - Sư huynh đệ chúng ta nhất định phải thí mạng với ngươi mới xong.
    Ông ta tuy cao to hơn nhưng chuyện gì cũng phải bắt chước sư huynh, ông già cao nói gì ông ta lập lại y như thế. Trương Vô Kỵ nói:
    - Phái Hoa Sơn kẻ nào trong thì vẫn trong, kẻ nào đục thì vẫn đục, chẳng may quí phái có một kẻ bại hoại uy danh đâu có vì thế mà giảm đi chút nào. Trong võ lâm những kẻ chẳng ra gì, các đại môn phái có phái nào không có, hai vị việc gì mà phải bận tâm?
    Ông già cao nói:
    - Nếu ngươi nói thế thì không sao cả, phải không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Chẳng sao cả.
    Ông già cao nói:
    - Sư ca, tiểu tử này nói là không sao cả, vậy mình nên bỏ qua đi.
    Ông ta vốn cũng hơi ngại Trương Vô Kỵ nên không muốn cùng chàng động thủ.
    Ông già lùn vẫn gay gắt nói:
    - Tiên trừ ngoại vũ, tái thanh môn hộ[6]. Phái Hoa Sơn hôm nay không thắng được tên tiểu tử này thì còn làm sao đứng trong võ lâm được nữa?
    Ông già cao nói:
    - Tốt lắm, úy, này thằng nhỏ, bọn ta phải hai người đánh với một mình ngươi. Nếu như ngươi thấy thế là không công bình, biết điều nhận thua trước đi thì hơn.
    Ông già lùn nhíu mày, quát:
    - Sư đệ, ngươi...
    Trương Vô Kỵ vội tiếp lời:
    - Hai vị đánh một mình vãn bối, thế cũng được không sao. Thế nhưng nếu hai vị thua thì không được làm khó Minh giáo nữa.
    Ông già cao mừng quá, lớn tiếng nói:
    - Nếu hai anh em ta đánh một mình ngươi chắc chắn ngươi không thể nào thắng được. Sư huynh đệ ta có một pho Lưỡng Nghi đao pháp, biến hóa không sao tưởng nổi, liên đao công địch, dù cả vạn người cũng không chống nổi. Ta chỉ sợ ngươi đòi đơn đả độc đấu, một người đánh một người. Thế nhưng ngươi chịu một mình đánh với hai người chúng ta, thì thua là cái chắc. Ngươi nói rồi không được hối hận đấy nhé.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Vãn bối nhất quyết không hối hận đâu, xin lão tiền bối nhẹ tay cho.
    Ông già cao nói:
    - Ta sử đao không thể nào nhẹ tay được, lộ đao pháp Lưỡng Nghi này thi triển rồi, càng lúc càng ghê gớm, không có nể nang chút nào. Ta xem tiểu tử ngươi nhân phẩm không đến nỗi kém cỏi, chém chết ngươi thì thật đáng thương...
    Ông già lùn giận dữ quát:
    - Sư đệ, nói bớt đi một câu có được không nào?
    Ông già cao nói:
    - Bớt đi một câu cũng được chứ sao. Chẳng qua tiểu đệ cho y biết trước để y cẩn thận. Pho Lưỡng Nghi đao pháp này của sư huynh đệ ta là phản lưỡng nghi, thức nào cũng không giống như qui tắc bình thường...
    Ông già lùn gay gắt quát lớn:
    - Câm mồm.
    Rồi quay qua Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin tiếp chiêu.
    Lập tức múa đao chém tới. Trương Vô Kỵ cầm cây quạt của Tiên Vu Thông đè xuống sống đao của ông già. Ông già cao vội vàng kêu lên:
    - Ấy, ấy, không được, không được. Cứ cái điệu này bọn ta không đánh nữa.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Sao thế?
    Ông già cao nói:
    - Trong cái quạt này có chất độc, không cẩn thận một tí là phóng ra, đâu phải chuyện đùa.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng vậy, cái vật kịch độc này, để trên đời chỉ tổ hại người.
    Chàng lấy ngón tay trỏ và giữa kẹp cái quạt ném xuống một cái, nghe soẹt một tiếng, chiếc quạt chui ngập vào trong đất chỉ để lại một cái lỗ nhỏ. Thần công đó trên cả quảng trường không một người thứ hai nào làm nổi, mọi người không nhịn nổi liền lớn tiếng hoan hô.
    Ông già cao cắp đao vào nách, vỗ tay nói:
    - Ngươi đi lấy binh khí vào đây.
    Trương Vô Kỵ bản tính không muốn phô trương trước mặt mọi người, thế nhưng hôm nay cục thế không phải tầm thường, nếu không hiển thị thần công, chứng tỏ tài nghệ hơn hẳn những người đang có mặt để cho lục đại môn phái ngừng tay, trở về Trung Nguyên, thật là thiên nan vạn nan, liền nói:
    - Tiền bối thử xem tôi dùng binh khí nào thì tốt hơn cả?
    Ông già cao giơ tay vỗ lên vai y mấy cái, cười nói:
    - Thằng bé này cũng thú vị thật, ngươi thích dùng binh khí gì sao lại hỏi ta là sao?
    Trương Vô Kỵ biết ông ta vỗ vai mình chẳng qua là người già yêu mến người trẻ đấy thôi, không có ác ý. Thế nhưng người ở bên ngoài thấy thế đều giật mình kinh hãi, hai bên đang sắp tỉ đấu, một người lại giơ tay vỗ vai người kia, đối phương lại không né tránh, nếu như ông già cao lại sử kình, hay thừa cơ vỗ vào huyệt đạo, có phải là không đấu mà đã thắng rồi ư? Có ngờ đâu Trương Vô Kỵ thần công hộ thân, ông già cao dù có bất ngờ ám toán cũng không thể nào làm hại chàng được.
    Ông già cao cười nói:
    - Thế ta bảo ngươi dùng binh khí gì ngươi cũng nghe lời hay sao?
    Trương Vô Kỵ mỉm cười đáp:
    - Có thể lắm.
    Ông già cao cười:
    - Thằng bé con võ nghệ thật giỏi, mười tám món binh khí chắc môn gì cũng biết dùng. Vậy ngươi tay không đấu với anh em chúng ta, thế có được chăng?
    Trương Vô Kỵ cười:
    - Tay không cũng được.
    Ông già cao đưa mắt nhìn chung quanh, định tìm một món binh khí thật không vừa tay cho chàng dùng, bất ngờ thấy ở bên góc sân có mấy hòn đá lớn, liền nói:
    - Để ta cho ngươi được lợi thế, dùng một loại binh khí thật nặng nề.
    Nói xong chỉ tay vào mấy hòn đá, cười lên ha hả. Mấy khối đá đó phải nặng đến hai ba trăm cân, người yếu đến lay một viên cũng không chuyển động, huống chi người dùng làm chỗ ngồi lâu ngày, chung quanh nhẵn nhụi không có chỗ nào có thể bám tay, làm thế nào mà dùng như binh khí được? Ông già cao bản tâm muốn làm khó để đùa Trương Vô Kỵ mà thôi, nếu như đối phương thấy khó bỏ cuộc không làm nổi, cuộc đấu coi như không thành. Nào ngờ Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
    - Món binh khí này cũng có thể dùng được, lão tiền bối định thử công phu của vãn bối đấy chăng?
    Nói xong đi đến trước khối đá, giơ tay trái ra móc một tảng đá lên trên tay nói:
    - Xin mời hai vị.
    Nói chưa dứt cả người lẫn đá đã nhảy lên, vọt tới trước mặt hai ông già.
    Mọi người trông thấy ai nấy đều há hốc mồm, quên cả hò reo. Ông già cao giơ tay vặt một nắm râu, kêu lên:
    - Cái... cái này thật là kỳ quái.
    Ông già lùn biết mình hôm nay gặp phải một địch thủ trên đời chưa từng gặp, lập tức ổn bộ ngưng khí, chăm chăm nhìn đối thủ, nói:
    - Xin vô phép.
    Một luồng ánh sáng lóe lên, thân hình đã theo đao đâm luôn vào mạng sườn bên phải Trương Vô Kỵ. Ông già cao hỏi:
    - Sư ca, đánh thật hay sao?
    Ông già lùn nói:
    - Chẳng lẽ lại giả?
    Cương đao xoay một nửa vòng đột nhiên biến hướng, chém xéo vào đầu vai Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ né qua một bên thấy, lại thấy một luồng ánh sáng lấp lóe, chính là ông già cao vung đao chém tới. Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Càng tốt.
    Chàng xoay tảng đá đưa ra đỡ, nghe choang một tiếng, nhát đao đó đã chém phải tảng đá, đốm lửa lóe ra, đá vụn bay ra tung tóe. Trương Vô Kỵ giơ tảng đá thuận chiều đẩy tới. Ông già cao kêu lên:
    - Ối chà, đây là Thuận Thủy Thôi Chu, ngươi dùng tảng đá mà cũng có chiêu số đấy à?
    Ông già lùn quát lớn:
    - Sư đệ, Hỗn Độn Nhất Phá.
    Ông ta vung đao từ sau lưng vạch tới một hình vòng cung, cong cong chém vào Trương Vô Kỵ. Ông già cao tiếp lời:
    - Thái Ất Sinh Manh, Lưỡng Nghi Hợp Đức...
    Ông già lùn tiếp theo:
    - Nhật Nguyệt Hối Minh.
    Hai người miệng đọc, chiêu thức liên miên bất tuyệt đánh ra, Trương Vô Kỵ thi triển Cửu Dương thần công, nhẹ nhàng xoay chuyển tảng đá qua lại chống đỡ. Hai ông già lùn cao sử dụng Phản Lưỡng Nghi đao pháp, thế đao nào cũng độc địa, chiêu số trầm mãnh nhưng hòn đá trong tay Trương Vô Kỵ quá lớn, chỉ cần xoay qua xoay lại một chút là chặn ngay được chiêu số của hai ông già. Ông già cao kêu lớn:
    - Binh khí của ngươi dùng có lợi nhiều quá, đánh như thế này chẳng công bình chút nào.
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Thế thì không dùng binh khí cục mịch này nữa xem sao.
    Đột nhiên chàng tung viên đá lên cao, hai ông già không nhịn nổi ngửng đầu lên nhìn, nào ngờ chỉ vừa sơ ý, huyệt đạo sau gáy đã bị đối phương nắm được, không còn cử động gì nữa. Trương Vô Kỵ búng mình về sau, tảng đá lớn từ trên cao rơi xuống đầu hai ông già.
    Mọi người ai nấy kinh hoảng kêu la, Trương Vô Kỵ lại nhảy vọt tới trước, tả chưởng đánh ra, đẩy viên đá ra xa hơn một trượng, nghe bình một tiếng rơi ngay xuống, lõm vào mặt đất đến hơn một thước. Chàng giơ tay vỗ nhẹ vào đầu vai hai ông già mấy cái, mỉm cười nói:
    - Xin lỗi nhé, vãn bối chỉ đùa một tí với hai vị đấy thôi.
    Cái vỗ của chàng giải khai huyệt đạo bị điểm cho hai ông già. Ông già lùn mặt xám ngắt, thở dài:
    - Thôi rồi, thôi rồi.
    Ông già cao lắc đầu:
    - Cái này không tính.
    Trương Vô Kỵ hỏi lại:
    - Sao lại không tính?
    Ông già cao nói:
    - Chẳng qua ngươi cậy khỏe, mang nổi tảng đá lớn chứ có phải chiêu số thắng được anh em ta đâu.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Thế thì mình tái đấu.
    Ông già cao nói:
    - Tái đấu cũng được, nhưng phải tìm cách nào mới để cho ngươi khỏi được lợi thế, chúng ta thua mới tâm phục, ngươi nghĩ có phải không?
    Trương Vô Kỵ gật đầu:
    - Phải lắm.
    Tiểu Siêu từ nãy đến giờ chăm chú nhìn cuộc đấu, lúc này giơ tay lên má lêu lêu ghẹo ông già:
    - Xấu hổ quá, xấu hổ quá!
    Ỷ có râu dài nên lợi thế, Vậy mà vẫn bị đánh tanh banh.[7] Tay cô ta chuyển động, giây xích nơi cổ tay kêu leng keng lại càng dễ nghe. Ông già cao cười ha hả:
    - Người đời thường nói: Có học mới nên khôn. Này cô bé con, muối bọn ta ăn còn nhiều hơn cơm ngươi ăn, cầu bọn ta đi qua, còn dài hơn đường ngươi đi, xí xa xí xố cái gì thế?
    Ông ta quay lại nói với Trương Vô Kỵ:
    - Nếu như ngươi không phục, thì cũng chẳng cần tỉ đấu nữa. Có điều trận đấu vừa rồi ngươi không thua mà bọn ta cũng không thắng, hai bên coi như huề. Để ba mươi năm nữa, hai bên lại đấu một trận cũng chưa muộn...
    Ông già lùn nghe ông già cao càng lúc càng tỏ ra cù nhầy, hai sư huynh đệ dù gì cũng là kỳ túc phái Hoa Sơn đâu có thể chây chả như thế được, liền quát lên:
    - Họ Tăng kia, bọn ta nhận không bằng, ngươi muốn xử trí thế nào chúng ta cũng đều nghe theo cả.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin hai vị cứ tùy tiện, tại hạ chỉ muốn điều giải những chuyện hiểu lầm trước đây giữa quí phái với Minh giáo thôi, thực không có ý gì khác.
    Ông già cao lớn tiếng nói:
    - Cái đó không được, chưa bàn xong cách tỉ võ mới, sao ngươi đã toan tháo lui là sao? Thế chẳng phải là lâm trận rụt cổ, mới nghe hơi đã chạy ư?
    Ông già lùn nhíu mày không nói gì, biết vị sư đệ này ăn nói rồ rồ dại dại, nhưng có điều mặt trơ trán bóng nên vẫn thường khiến cho đối phương phải bí lối nhức đầu, chuyển bại thành thắng. Hôm nay ông ta trước mặt anh hùng thiên hạ lại giở trò đó, tuy không lấy gì làm quang minh lỗi lạc, nhưng nếu may mà thắng được Trương Vô Kỵ, ít ra cũng lấy công chuộc tội được.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Thế theo ý tiền bối thì mình phải làm sao?
    Ông già cao đáp:
    - Phái Hoa Sơn chúng ta có Phản Lưỡng Nghi đao pháp là tuyệt nghệ thần công, ngươi đã nếm qua rồi. Ta nghĩ ngươi chưa biết rằng phái Côn Lôn có một pho Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp, biến hóa tinh kỳ áo diệu, so với đao pháp của phái Hoa Sơn cũng ngang ngửa, bên nào cũng có điểm hay riêng. Thế nhưng đao kiếm hợp bích, lưỡng nghi hóa tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, âm dương đắp đổi lẫn nhau, thủy hỏa hỗ tế, ôi...
    Nói đến đây lắc đầu không ngớt, thủng thẳng thở dài:
    - Uy lực ghê gớm quá, uy lực ghê gớm quá, ngươi không dám chống đỡ đâu.
    Trương Vô Kỵ quay lại nói với phái Côn Lôn:
    - Chẳng hay vị cao nhân nào trong phái Côn Lôn có thể ra dạy bảo?
    Ông già cao cướp lời:
    - Phái Côn Lôn trừ vợ chồng Thiết Cầm tiên sinh, người khác không đủ trình độ để phối hợp liên thủ với anh em ta, nhưng chẳng biết Hà tiên sinh có gan ra tay hay không?
    Mọi người đều vui mừng: “Ai bảo ông già này đần độn, nhưng thực ra đâu có đần độn chút nào, y đang khích cho hai đại cao thủ phái Côn Lôn hạ trường tương trợ”. Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, không biết hai ông già cao lùn này là cỡ nào, nhưng họ là sư thúc của chưởng môn Tiên Vu Thông, vai vế rất cao, chắc là bình thời ít hành tẩu giang hồ, còn mình ẩn cư nơi Tây Vực thành ra không biết đến. Hai vợ chồng đều nghĩ thầm: “Hai lão già này đánh không lại thanh niên họ Tăng, nên xúi mình cùng xông vào, nếu có thắng hai người cũng đỡ ê mặt”. Lại nghe ông già cao nói tiếp:
    - Vợ chồng họ Hà phái Côn Lôn không dám động thủ với y, cũng không trách được. Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp của họ tuy không phải là dở, nhưng có điều không linh hoạt cho lắm, nếu so với Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn thì về phần tiêu dật có kém hơn một chút.
    Ban Thục Nhàn giận dữ, nhảy vọt vào trong sân, chỉ vào ông già cao nói:
    - Tôn tính đại danh các hạ là gì?
    Ông già cao đáp:
    - Tôi họ Hà, xin chào Hà phu nhân.
    Câu nói đó xem ra chiếm được lợi thế, khiến trong sân nhiều người cười ồ lên. Ban Thục Nhàn là “Thái Thượng chưởng môn” của phái Hoa Sơn, ngay cả Hà Thái Xung cũng phải nể mụ ba phần, mấy chục năm nay ở núi Côn Lôn quen thói hống hách, chung quanh mấy trăm dặm coi bà ta chẳng khác gì một nữ vương, lẽ nào lại để cho người ta chế nhạo? Chỉ nghe soẹt một tiếng, đã rút kiếm đâm luôn vào vai trái ông già cao. Thủ pháp rút kiếm đâm đó cực kỳ nhanh nhẹn, chỉ một chớp mắt trước còn tay không, liễu mi nhướng lên, một chớp mắt sau trường kiếm đã ở trong tay, đầu kiếm cách ông già cao không đầy nửa thước.
    Ông già cao hoảng hốt, thu đao về gạt, nghe keng một tiếng, đao kiếm chạm nhau, chỉ trong tơ tóc lại dãn ra. Ban Thục Nhàn sử chiêu Kim Châm Độ Kiếp, còn ông già cao sử chiêu Vạn Kiếp Bất Phục, một chính một phản đều là tối cao của lưỡng nghi thuật số. Ông già cao đấu với Trương Vô Kỵ tay chân quờ quạng, tưởng như tài nghệ cũng chỉ bình bình, bây giờ mới thấy công phu đao pháp của ông ta quả thật không phải tầm thường.
    Hai người đao kiếm tương giao, mỗi người đều lùi lại một bước, không khỏi ngạc nhiên nhưng trong bụng mười phần kính phục đối phương đánh ra một chiêu tinh diệu. Hai người hai phái, võ công khác hẳn, trong đời chưa từng gặp bao giờ, nhưng chỉ qua một chiêu đã thấy được võ công của mình với bên kia rất ăn khớp, nếu phối hợp sẽ không có một chút sơ hở nào, nên vui sướng chẳng khác nào kẻ suốt đời sống cô đơn nay bỗng gặp người tri kỷ.
    Ban Thục Nhàn không nhịn nổi tính ngay: “Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn quả nhiên ghê gớm, nếu cùng bọn họ liên thủ công địch thì có thể phát huy cực độ chiêu số của hai loại binh khí”. Rồi lại nghĩ: “Hai gã này của phái Hoa Sơn không phải là địch thủ của anh chàng nọ, phái Côn Lôn mình nếu có đánh với y cũng không thể thắng được. Nếu bọn mình ra đấu thì là tứ đại cao thủ hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn hợp chiến một thanh niên vô danh, không khỏi quá mất thân phận, nhưng có gì thì đây là chủ ý của phái Hoa Sơn”. Bà ta bèn quay lại gọi Hà Thái Xung:
    - Này, anh qua đây.
    Hà Thái Xung tuy không dám cãi lệnh vợ, nhưng trước mắt bao nhiêu người, không thể để mất cung cách của một chưởng môn, hừ một tiếng, từ từ đứng lên. Bốn tên tiểu đồng đi trước, một đứa bưng trường kiếm, một đứa bưng thiết cầm, còn hai đứa kia cầm phất trần. Năm người đi đến giữa sân, đứa bưng kiếm nâng lên quá đỉnh đầu, khom lưng dâng lên. Hà Thái Xung tiếp lấy thanh kiếm, bốn tên tiểu đồng cúi mình lui về.
    Ban Thục Nhàn nói:
    - Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn, chiêu số cũng không tệ lắm.
    Ông già cao nhếch mép nói:
    - Cám ơn đã tán thưởng.
    Ban Thục Nhàn lườm ông ta nói:
    - Bốn người bọn ta dợt ít chiêu với cậu nhỏ này, để thử cho biết võ công hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn.
    Mụ nói xong quay đầu nhìn lại bỗng dưng "A" lên một tiếng, trừng trừng nhìn Trương Vô Kỵ nói:
    - Ngươi... ngươi...
    Bà ta cùng Trương Vô Kỵ chia tay chỉ mới năm năm, tuy trong thời gian đó chàng từ một đứa bé đã thành một thanh niên, thân thể cao lớn hơn nhiều, nhưng vẫn còn nhận ra. Trương Vô Kỵ nói:
    - Những chuyện cũ của chúng ta, bà có cần phải nói ra không? Tôi là Tăng A Ngưu.
    Ban Thục Nhàn lập tức hiểu ngay dụng ý của chàng không muốn nói thực tên tuổi mình, nếu như mình nói toạc chân tướng đối phương, bao nhiêu chuyện lấy oán báo đức sẽ bị chàng nói ra cho mọi người biết. Mụ bèn giơ thanh kiếm lên, nói:
    - Tăng thiếu hiệp võ công đại tiến, thật đáng mừng, xin được xuất thủ chỉ giáo.
    Lời nói rõ ràng ám chỉ mình chỉ tỉ thí võ nghệ không đề cập chuyện cũ. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
    - Đã từ lâu ngưỡng một kiếm pháp thông thần của hiền phu phụ, cũng mong hạ thủ lưu tình.
    Hà Thái Xung hỏi:
    - Tăng thiếu hiệp dùng binh khí gì thế?
    Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy y lại nhớ đến đôi Kim Ngân huyết xà. Khi chàng bị rơi vào tuyệt cốc, đôi rắn này không có độc vật gì để ăn nên dần dần chết đói. Chàng lại nghĩ đến y lên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình, ép mình và Dương Bất Hối uống rượu độc, đánh mình đến sưng mắt sưng mũi, rồi cầm mình ném vào đá, nếu không gặp được Dương Tiêu đứng ngay bên cạnh cứu cho, lúc này xác mình cũng đã mục nát, nói gì chuyện khác? Mình có lòng cứu mạng cho ái thiếp của y, vậy mà y lấy oán báo ân còn tính chuyện giết mình.
    Chàng nghĩ đến đó, khí giận bốc lên, nghĩ thầm: “Hà Thái Xung ơi, năm xưa ngươi đánh ta chết lên chết xuống, hôm nay tuy ta không thể giết ngươi, nhưng ít ra cũng phải đánh ngươi một trận để cho hả cơn tức”.
    Vợ chồng Hà Thái Xung và hai ông già lùn cao của phái Hoa Sơn liền đứng ra bốn góc, hai thanh đao, hai thanh kiếm dưới ánh mặt tròi lấp lánh bất định. Đột nhiên hai cánh tay Trương Vô Kỵ rung nhẹ một cái, thân hình bay vụt lên, trên không trung nhẹ nhàng chuyển hướng lượn qua một cây mai ở phía tây, tay giơ ra, bẻ ngay một cành rồi lại nhẹ nhàng quay về chỗ cũ.
    Chàng tay cầm cành cây, chầm chậm đi vào giữa bốn người, giơ lên cao nói:
    - Tại hạ dùng cành mai này làm binh khí, lãnh giáo cao chiêu của hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn.
    Cành mai đó lấm tấm mấy đóa hoa, quá nửa còn là nụ chưa nở. Mọi người nghe chàng nói thế, đều kinh ngạc: “Cành mai này đụng phải là gãy ngay, làm sao có thể giao đấu với bảo kiếm lợi đao của đối phương?”.
    Ban Thục Nhàn cười nhạt nói:
    - Tốt lắm, ngươi không coi công phu hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn vào đâu nhỉ?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tại hạ từng nghe tiên phụ nói rằng, đương niên Hà Túc Đạo tiền bối của phái Côn Lôn, cầm kiếm kỳ tam tuyệt, người đời gọi là Côn Lôn Tam Thánh. Chỉ tiếc rằng chúng ta sinh sau đẻ muộn, không được có duyên chiêm ngưỡng phong phạm của tiền bối, thật đáng tiếc thay.
    Câu nói đó mọi người nghe đều hiểu rằng chàng tán dương tiền bối của phái Côn Lôn, nhưng người đương thời của môn phái này chàng không coi vào đâu cả. Bỗng nghe từ phái Côn Lôn tiếng một người oang oang như chuông rè:
    - Thằng giặc con, ngươi tài cán được bao nhiêu mà dám vô lễ với sư phụ, sư thúc ta?
    Tiếng quát chưa dứt, một đạo nhân mặt đầy râu ria từ trong phái Côn Lôn nhảy vọt ra, giơ kiếm đâm thẳng vào lưng Trương Vô Kỵ. Đạo nhân đó thân pháp cực nhanh, nhát kiếm đó dường như cảnh cáo từ trước, nhưng kiếm chiêu quá nhậm lẹ, nên cũng chẳng khác gì đánh trộm.
    Trương Vô Kỵ không quay mình lại, đợi khi mũi kiếm chạm vào y phục, chân trái mới đá ngược về sau, đè luôn lưỡi kiếm, thuận thế đạp xuống dưới đất. Đạo nhân đó cố sức kéo về nhưng không lay chuyển gì cả. Trương Vô Kỵ từ từ quay lại, nhìn lại đạo nhân kia thì ra là Tây Hoa Tử, người chàng đã gặp khi còn đang ở trên thuyền lúc mới về tới Trung Nguyên. Người này tính tình nóng nảy, đã có lần nói năng vô lễ với mẹ chàng là Ân Tố Tố. Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, hỏi lại:
    - Phải ông là Tây Hoa Tử đạo trưởng không?
    Tây Hoa Tử mặt đỏ gay, không trả lời, vẫn hết sức giựt kiếm về. Chân trái Trương Vô Kỵ đột nhiên lỏng ra, gót chân điểm vào thanh kiếm một cái. Tây Hoa Tử đâu ngờ chàng bỏ chân ra, cố sức kéo, bị mất đà ngã ngửa về sau. Cứ như võ công tập luyện của y, việc xảy ra tuy xuất kỳ bất ý, nhưng cũng có thể gượng đứng ngay được, nào ngờ vừa sử dụng Thiên Cân Trụy thì từ thanh kiếm truyền vào một luồng lực đạo cực kỳ mạnh mẽ đẩy y một cái, lập tức ngồi phịch ngay xuống, không có một chút kháng lực nào, tiếp theo là keng keng keng mấy tiếng, trường kiếm trong tay gãy ra từng tấc một, chỉ còn cầm cán kiếm mà thôi.
    Tây Hoa Tử sợ hãi không cùng, y là đệ tử thân truyền của Ban Thục Nhàn, thành thử gọi Ban Thục Nhàn là sư phụ, còn gọi Hà Thái Xung là chưởng môn sư thúc, nhìn thấy sư phụ mặt hầm hầm, biết rằng kỳ này mình làm sư môn cực kỳ mất mặt, thể nào cũng bị phạt nặng, trong lòng kinh hoảng, nhảy nhổm lên, quát lớn:
    - Thằng giặc con...
    Trương Vô Kỵ vốn đã định cho y về, nhưng nghe y chửi “thằng giặc con” làm nhục cả đến cha mẹ mình, cành hoa trong tay phất lên người y một cái, vận kình điểm ngay ba nơi huyệt đạo trên ngực y, quay sang nói với hai ông già lùn cao và vợ chồng Hà Thái Xung:
    - Xin tiến chiêu đi.
    Ban Thục Nhàn hạ giọng quát Tây Hoa Tử:
    - Cút đi, làm người lớn mất mặt thế chưa đủ sao?
    Tây Hoa Tử đáp:
    - Vâng.
    Thế nhưng vẫn đứng yên không di chuyển. Ban Thục Nhàn giận dữ nói:
    - Ta bảo ngươi tránh ra, có nghe không hả?
    Tây Hoa Tử đáp:
    - Vâng, vâng, thưa sư phụ, vâng.
    Miệng cực kỳ cung kính nhưng vẫn bất động. Ban Thục Nhàn giận dữ tột cùng, không hiểu tên này bỗng dưng sao không nghe lời mình? Thì ra thủ pháp phất huyệt của Trương Vô Kỵ nhanh quá, nhãn quang Ban Thục Nhàn tuy mẫn nhuệ, nhưng đâu có ngờ chàng có thể mượn một vật mềm mại để truyền kình lực, nhẹ nhàng phất một cành hoa mai cũng chẳng khác gì dùng phán quan bút điểm huyệt đạo, liền giơ tay đẩy mạnh vào đầu vai Tây Hoa Tử, hét lên:
    - Còn đứng đây làm bẩn mắt người ta ư?
    Tây Hoa Tử đáp:
    - Vâng, thưa sư phụ, vâng.
    Thân hình lệch kệch văng ra bên cạnh mấy thước, tay chân tư thế không khác mảy may, chẳng khác gì một tượng đá bị người ta đẩy. Ban Thục Nhàn và Hà Thái Xung bấy giờ mới biết y đã bị Trương Vô Kỵ điểm huyệt từ bao giờ, trong bụng không khỏi kinh hãi. Hà Thái Xung giơ tay bóp mấy cái vào hông Tây Hoa Tử định giải huyệt cho y, nào ngờ kình lực thấu vào quá sâu, Tây Hoa Tử vẫn không động đậy gì được.
    Trương Vô Kỵ chỉ vào Dương Bất Hối đang tựa vào Dương Tiêu nói:
    - Cô bé kia năm năm trước bị các hạ điểm huyệt ép uống độc tửu, tại hạ không cách nào giải huyệt được, hôm nay lệnh đồ cũng thế thôi. Phép điểm huyệt của quí phái và tệ phái không giống nhau, chuyện đó cũng không lấy gì làm lạ.
    Mọi người nghe chàng nói thế, ai nấy liền nhìn về phía Dương Bất Hối, thấy nàng chỉ là một cô gái tuổi còn thơ, năm năm trước ắt còn bé hơn nhiều, vợ chồng Hà Thái Xung là địa vị chưởng môn một phái, vậy mà lại hiếp đáp một đứa trẻ con, thực mất hết thân phận. Ban Thục Nhàn thấy mọi người nhìn mình bằng cặp mắt khác lạ, bụng nghĩ nói thêm chuyện cũ chẳng hay ho gì, vung kiếm đâm vào mi tâm Trương Vô Kỵ. Ngay lúc đó, trường kiếm của Hà Thái Xung đâm vào sau lưng, hai ông già phái Hoa Sơn cũng xông ra tấn công.
    Trương Vô Kỵ thân hình chuyển động, theo đường hở giữa các thanh đao kiếm mà lách ra, cành mai gạt vào trường kiếm của Hà Thái Xung. Hà Thái Xung vội vàng đâm xéo vào cạnh sườn. Trương Vô Kỵ giơ ngón tay trái búng vào thanh đao của ông già lùn, cành mai lại quét vào thanh kiếm của Hà Thái Xung. Kiếm của Hà Thái Xung hơi chuyển qua, lưỡi kiếm nhắm ngay cành mai chém tới, bụng nghĩ dù ngươi võ công cao cường, gỗ không thể nào chống đỡ một nhát kiếm chém phải. Nào ngờ cành mai của Trương Vô Kỵ xoay lại gạt bình bình vào lưỡi kiếm của Hà Thái Xung, một luồng kình lực nhu hòa tống ra, trường kiếm của Hà Thái Xung bị dạt ra ngoài, nghe keng một tiếng gạt luôn thanh đao ông già cao vừa chém tới.
    Ông già cao kêu lên:
    - À há, Hà Thái Xung, ngươi lại giúp cho địch à?
    Hà Thái Xung mặt hơi đỏ lên, không dám nhận là kiếm mình bị kình lực của địch đẩy ra, chỉ nói:
    - Chỉ láo lếu nào.
    Y hậm hực đâm một kiếm thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trong khi Hà Thái Xung ra chiêu công địch, Ban Thục Nhàn chờ khi Trương Vô Kỵ lùi lại thì tấn công ở đằng sau, còn hai ông già phái Hoa Sơn thì thi triển Phản Lưỡng Nghi đao pháp. Lưỡng Nghi kiếm pháp và Lưỡng Nghi đao pháp tuy hai bên chính phản khác nhau, nhưng cũng đều biến hóa ở bát quái mà ra, rồi lại quay về bát quái có thể nói hai đường khác nhau nhưng cùng qui về một hướng. Qua lại vài chiêu, bốn người càng lúc càng nhuần nhuyễn, lưỡng đao song kiếm phối hợp với nhau thật là chặt chẽ.
    Trương Vô Kỵ đã liệu rằng bốn người liên thủ ắt sẽ cực kỳ khó khăn, quả nhiên chính phản hai pho võ công hợp lại thành một, âm dương hỗ trợ lẫn nhau, không có một chút sơ hở nào. Chàng mấy lần lâm vào hiểm cảnh, nhưng vì quá ỷ y chỉ cầm một cành mai nên không thể vận kình đánh gãy đao kiếm đối phương như trong tay cầm một món binh khí. Vừa lúc đó cương đao trong tay ông già lùn vòng tới, Trương Vô Kỵ nghiêng người né qua, kiếm của Ban Thục Nhàn đâm vèo tới, quát lên một tiếng:
    - Trúng.
    Đâm luôn vào đùi rạch xoạc một đường trên quần Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ tay điểm vào thì kiếm của Hà Thái Xung đã đâm tới, song đao hai ông già lùn cao lại chia ra tấn công thượng hạ bàn. Trương Vô Kỵ nhất thời không chống cự nổi, nghĩ ra một mẹo, liền lách ra đằng sau Tây Hoa Tử.
    Ban Thục Nhàn liền đuổi theo đâm một kiếm, chiêu số độc địa, kình lực mãnh liệt, nhất quyết đưa Trương Vô Kỵ vào tử địa, chẳng còn là tỉ võ thử tài chi nữa. Trương Vô Kỵ ở sau lưng Tây Hoa Tử thu mình lại, kiếm của Ban Thục Nhàn đâm thẳng vào học trò mình vội vàng lách qua, Tây Hoa Tử kêu lên: “Ối chà” một tiếng. Đến khi Hà Thái Xung từ bên trái công tới, Trương Vô Kỵ cũng tránh qua một bên Tây Hoa Tử.
    Chàng nhất thời chưa tìm ra yếu chỉ của hai pho võ công chính phản lưỡng nghi, không sao nghĩ ra cách phá giải, chỉ còn cách né đông tránh tây chung quanh Tây Hoa Tử, tạm dùng y làm cái lá chắn đao kiếm, trong bụng nghĩ thầm: “Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi coi anh hùng thiên hạ chẳng vào đâu. “Kiêu giả tất bại” bốn chữ đó, từ nay về sau phải nhớ kỹ trong lòng. Vẫn biết rằng trên đời này không võ công nào lợi hại bằng Càn Khôn Đại Na Di, cũng chẳng nội kình nào hồn hậu bằng Cửu Dương thần công, nhưng cũng phải nhớ mình giỏi người cũng giỏi, ra đường còn lắm kẻ dòn hơn ta”.
    Chỉ thấy chung quanh tiếng cười rộ lên, Tây Hoa Tử đứng sững như tượng đá giữa sân, Trương Vô Kỵ ở bên cạnh chui qua lách lại, mỗi khi đao kiếm của bốn người kia đâm chém chỉ cách y chừng một tấc, Tây Hoa Tử lại kêu lên “Ối”, “A”, “Chao ôi”, nhưng không sao cử động được, khiến cho cảnh tượng vừa kinh hoàng, vừa hoạt kê.
    Ban Thục Nhàn nộ khí xung lên, mấy lần tưởng đã giết được Trương Vô Kỵ, nhưng vì có Tây Hoa Tử chắn giữa đường, vướng chân vướng tay, hận không thể một kiếm chém y đứt đôi, chỉ vì tình sư đồ không nỡ ra tay. Ông già cao của phái Hoa Sơn kêu lên:
    - Hà phu nhân, mụ không ra tay, để ta ra tay vậy.
    Ban Thục Nhàn hậm hực đáp:
    - Ta có ngăn cản gì ngươi đâu?
    Ông già cao vung đao chém ngang, nhắm ngay ngang lưng Tây Hoa Tử. Trương Vô Kỵ thấy không ổn, nếu như đao đó chém thực, không những mình mất cái mộc che binh khí, Tây Hoa Tử chết đi cũng lại thêm phiền, lập tức tay áo bên trái phất ra một luồng kình phong, đẩy dạt đao của ông già cao ra ngoài.
    Ông già lùn không nói tiếng nào, đơn đao nhắm ngay cổ Trương Vô Kỵ chém xéo tới. Trương Vô Kỵ né qua bên phải nhưng đao của ông già lùn không đổi hướng, vẫn tiếp tục chém thẳng vào vai Tây Hoa Tử, làm như thu về không kịp, không thể nào không trúng y, miệng nói:
    - Tây Hoa đạo huynh, coi chừng.
    Ông ta biết nếu giết chết Tây Hoa Tử, sẽ gây oán chuốc cừu với phái Côn Lôn, nhưng làm như không còn cách nào khác, không phải tự mình, về sau có gì còn đổ qua đổ lại. Trương Vô Kỵ quay lại đánh một chưởng, đánh thẳng vào ngực ông già lùn. Ông già lùn vừa thấy khó thở, tả chưởng giơ ra, đơn đao trong tay vẫn chém vào Tây Hoa Tử. Hai chưởng đụng nhau, ông già lùn lùi về sau một bước, lao đao muốn ngã.
    Tây Hoa Tử thấy Trương Vô Kỵ hai lần ra tay bảo vệ cho mình, lòng ngầm cảm kích, nghĩ thầm: “Hôm nay nếu ta không chết, quyết không bỏ qua cho hai lão tặc của phái Hoa Sơn”.
    Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn thấy Trương Vô Kỵ che chở cho Tây Hoa Tử, cả hai cùng thầm nghĩ: “Tiểu tử này lại phải lo thêm một người nữa, càng thêm bó chân bó tay”. Hai người đã không cảm ơn cứu học trò mình, kiếm chiêu càng thêm độc địa hung bạo. Hai ông già cao lùn cũng múa đao nhanh hơn, biết rằng giết được Trương Vô Kỵ không phải dễ, nhưng nếu tấn công Tây Hoa Tử để chàng phải cứu thì có thể theo những sơ hở trong thân pháp, biến khách thành chủ, thành thử hai thanh đao mỗi lúc tấn công Tây Hoa Tử một nhiều.
    Các cao thủ của Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi thấy tình cảnh đó đều ngán ngẩm lắc đầu, trong lòng thấy hơi hổ thẹn, nghĩ rằng bốn người dù có giết được Trương Vô Kỵ, thì mình cũng không khỏi có chiều bất an.
    Trương Vô Kỵ càng đấu càng thấy bất lợi, nghĩ thầm: “Ta đánh không lại bọn họ, có chết cũng đành, nhưng việc vì phải kéo theo cả gã đạo nhân này?”. Chàng liền đánh một chưởng đẩy lui ông già cao, cành mai bên tay phải hơi rung động, giải khai huyệt đạo cho Tây Hoa Tử.
    Ngay lúc đó, ông già lùn lại chém một đao vào hạ bàn Tây Hoa Tử, Trương Vô Kỵ phi cước đá ngay vào cổ tay ông ta, ông già lùn vội rụt tay về, không ngờ Tây Hoa Tử huyệt đạo đã giải rồi, đột nhiên nghe bình một tiếng, đấm một cái đích đáng ngay sống mũi ông già lùn, lập tức máu tuôn ra ồng ộc. Võ công ông già lùn so với Tây Hoa Tử cao hơn nhiều, nhưng đâu ngờ y đang đứng trơ trơ bỗng dưng có thể hoạt động, sự việc quá bất ngờ nên né không kịp. Mọi người thấy thế ai nấy đều cười sằng sặc.
    Ban Thục Nhàn cố nhịn cười nói:
    - Tây Hoa, mau lui xuống.
    Tây Hoa Tử nói:
    - Vâng, nhưng tên giặc cao kia còn thiếu đệ tử một quyền.
    Y giơ tay toan đánh ông già cao, ông già lùn đã đấm ra một quả, chém nhứ một đao, nghe bịch một cái, cùi chỏ trái đã huých vào ngực y. Ba chiêu liên hoàn này là một tuyệt kỹ của phái Hoa Sơn, Tây Hoa Tử thân hình loạng choạng, thấy mặn trong cổ họng, ọe ra một ngụm máu tươi.
    Hà Thái Xung giơ tay đỡ vào hông y, chưởng lực đẩy ra, tống thân thể mập mạp của y ra ngoài mấy trượng, quay lại nói với ông già lùn:
    - Chiêu Hoa Nhạc Tam Thần Phong đẹp nhỉ.
    Trường kiếm trong tay lại đâm tới Trương Vô Kỵ. Y một tay đẩy đứa học trò, miệng ra lời mỉa mai, kiếm vẫn công địch, phân biệt đối phó ba người, nhưng vẫn tiêu sái như thường.
    Hai ông già không trả lời, chăm chú tấn công Trương Vô Kỵ. Tuy lúc này bốn người mỗi người đều có đố kỵ riêng, nhưng Tây Hoa Tử đi khỏi rồi không còn chướng ngại nữa, đao kiếm phối hợp chẳng khác nào thiên y vô phùng[8], người này công thì người kia giúp đỡ, kẻ nọ thoái thì kẻ kia tiến lên, bốn người hợp thành một đại cao thủ tám chân tám tay, chiêu số qua lại biến hóa, liên miên không cùng.
    Thuật lưỡng nghi chính phản đao kiếm của hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn là từ Hà Đồ, Lạc Thư của cổ nhân mà thành, suy diễn theo phương vị bát quái của Phục Hi, Văn Vương, nếu như thâm cứu đến nơi đến chốn, tinh vi áo diệu chỉ có hơn chứ không kém Càn Khôn Đại Na Di của Tây Vực. Tuy nhiên Dịch lý sâu xa, hai vợ chồng Hà Thái Xung và hai ông già Hoa Sơn chỉ mới hiểu được độ hai ba thành, nếu không thì hợp lực đã giết được đối phương rồi. Hai bên sở dĩ giằng dai đến bây giờ, chính vì Trương Vô Kỵ thân mang nội lực hồn hậu tuyệt thế, nếu không khó mà thoát được khốn cảnh.
    Trận kịch đấu này ai nấy coi mà tim đập bình bình, tinh thần rúng động. Chỉ thấy trường kiếm của vợ chồng họ Hà kêu lên vù vù, kiếm khí tung hoành, hai ông già lùn cao múa đao cũng ra gió, đao quang lấp lánh, bốn người mỗi lúc một ép sát thêm.
    Trương Vô Kỵ biết rằng nếu muốn ra khỏi vòng vây thì không có gì khó khăn, chỉ cần thi triển khinh công bốn người kia không thể nào đuổi kịp. Thế nhưng mình chạy thì đã đành nhưng còn giảng hòa chuyện vây công Minh giáo, thì không còn có thể đề cập được nữa. Trước mắt chỉ còn cách thủ hộ nghiêm mật, chờ chơ đối phương mệt rồi tìm cách tấn công. Thế nhưng cả bốn người đều nội công tinh thâm, song đao song kiếm đan thành một màn ánh sáng, bốn phương tám hướng bao vây chặt chẽ, không biết bao giờ mới tỏ ra mỏi mệt. Trương Vô Kỵ không còn cách nào khác hơn, chỉ đành cố gắng chống đỡ.
    Bọn Hà Thái Xung tuy chiếm thượng phong, nhưng cả bốn người đều không thấy gì là thú vị. Bằng vào thân phận của họ không nói chi bốn người liên thủ, dẫu có một đánh một, để một thanh niên hậu bối cầm cự được hơn ba trăm hiệp mà chưa thắng được, cũng đã bẽ bàng lắm rồi. Cũng may là Trương Vô Kỵ trước đã từng đánh bại Không Trí thần tăng, không ai dám coi thường chàng, nếu không chắc không còn mặt mũi nào nữa. Bốn người thấy Trương Vô Kỵ phản kích càng lúc càng thưa, nhưng vẫn không sao đả thương chàng được. Cả bốn người đều dày kinh nghiệm lâm địch, từng trải qua hàng trăm trận đấu, càng lâu càng không dám khinh suất nên không người nào tỏ ra bồn chồn nóng nảy, luôn luôn dè dặt, không ai tham công, mạo hiểm tấn kích.
    Các trưởng lão, danh túc trong đám bàng quan, nhân tiện chỉ chỉ trỏ trỏ, giáo huấn đệ tử.
   

- o O o -

    [1] Một quyền đánh ra có thể gãy ngọn núi [2] Nguyên văn: Ngũ hành chi khí điều âm dương, Tổn tâm thương phế tồi can trường. Tạng ly tinh thất ý hoảng hốt, Tam tiêu tề nghịch hề, hồn phách phi dương.
    [3] Ngọc trở lại như khi còn nguyên vẹn chưa mài giũa, lửa trong lò đốt đến mức hoàn toàn xanh biếc là những từ của Đạo gia nói về công phu tu luyện tới mức tuyệt cao.
    [4] Thấy người hiền thì xét tới chỗ mình không bằng họ [5] Nói năng láo lếu vô căn cứ [6][6] Trừ kẻ làm nhục mình trước, làm sạch môn hộ sau.
    [7] Hồ tử nhất đại bả, tự kỷ lão chiếm tiện nghi, phản thuyết ngật khuy (một loại câu châm chọc của trẻ con) [8]áo trời không đường chỉ may ý nói hoàn toàn chặt chẽ không sơ hở
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:55:05 | Chỉ xem của tác giả
QUẦN HÙNG QUI TÂM ƯỚC TAM CHƯƠNG

    Oán thù càng kết càng chồng, Lửa mê muốn dập từ lòng đi ra.

    Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn của phái Nga Mi nói với các đệ tử:
    - Thanh niên này võ công cực kỳ quái dị nhưng hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn đã kiềm chế được y, khiến y bị bó chân bó tay. Võ công Trung Nguyên bác đại tinh thâm, bàng môn tả đạo của Tây Vực đời nào sánh kịp. Lưỡng nghi hóa tứ tượng, tứ tượng hóa bát quái, chính biến tám tám sáu mươi tư chiêu, kỳ biến tám tám sáu mươi tư chiêu, chính kỳ tương hợp, sáu mươi bốn lần sáu mươi bốn thành ra bốn nghìn chín mươi sáu cách biến hóa. Võ công thiên hạ biến hóa tuy có phức tạp, nhưng cũng không đâu bằng được.
    Từ khi Trương Vô Kỵ hạ trường tới giờ, Chu Chỉ Nhược trong lòng khắc khoải. Trong đám môn hạ phái Nga Mi, nàng vốn được Diệt Tuyệt sư thái cưng chiều nên đã tâm truyền Dịch kinh nguyên lý, bây giờ liền lớn tiếng nói:
    - Sư phụ, chính phản lưỡng nghi này, chiêu số tuy nhiều thật, nhưng cũng không ra khỏi thái cực hóa từ đạo lý âm dương lưỡng nghi. Đệ tử xem bốn vị tiền bối này chiêu số quả thật tinh diệu, nhưng lợi hại nhất chính là bộ pháp phương vị ở chân.
    Tiếng nàng trong trẻo, mỗi tiếng đều dùng khí từ đan điền chậm rãi nói ra, Trương Vô Kỵ tuy đang ra sức chiến đấu nhưng nghe vẫn rõ ràng, liếc mắt thấy người nói chính là Chu Chỉ Nhược, không khỏi xao xuyến: “Tại sao nàng lại nói lớn thế, chẳng lẽ cố ý chỉ điểm cho mình chăng?”.
    Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Mắt con nhìn quả không sai, đã thấy được chỗ tinh yếu trong võ công các vị tiền bối.
    Chu Chỉ Nhược tự nói một mình:
    - Dương chia ra Thái Dương, Thiếu Âm, âm chia ra Thiếu Dương, Thái Âm, đó là tứ tượng. Thái Dương gồm Càn Đoài, Thiếu Âm gồm Ly Chấn, Thiếu Dương gồm Tốn Khảm, Thái Dương gồm Cấn Khôn. Càn ở phương Nam, Khôn ở phương Bắc, Ly ở phương Đông, Khảm ở phương Tây, Chấn là Đông Bắc, Đoài là Đông Nam, Tốn là Tây Nam, Cấn là Tây Bắc. Từ Chấn đến Càn là thuận, tự Tốn đến Khôn là nghịch.
    Nàng bỗng lớn tiếng hỏi:
    - Sư phụ, đúng như thầy đã dạy: Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, bát quái tương thác. Sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch[1]. Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn đi từ Chấn vị đến Càn vị là thuận, còn Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn, đi từ Tốn vị đến Khôn vị là nghịch, sư phụ, có phải thế không?
    Diệt Tuyệt sư thái thấy học trò vạch ra được như thế thật hả dạ, gật đầu nói:
    - Học trò như con không uổng công ta dạy dỗ.
    Bà ta trước nay rất ít khi khen ai trước mặt người ngoài, hai câu như thế là đã tưởng lệ tột cùng rồi.
    Diệt Tuyệt sư thái vì quá vui mừng nên không để ý tại sao học trò mình lại lớn tiếng, hai người đối diện nói chuyện việc gì phải dùng trung khí để truyền âm thanh ra xa? Thế nhưng chung quanh người lưu tâm đến chuyện hơi khác thường đó không phải ít. Chu Chỉ Nhược thấy nhiều cặp mắt đổ dồn vào mình, giả vờ làm như ngây thơ vô tình, vỗ tay reo lên:
    - Sư phụ, đúng rồi, đúng rồi. Tứ Tượng Chưởng của phái Nga Mi ta trong tròn có vuông, âm dương tương thành. Bên ngoài tròn là dương, bên trong vuông là âm, tròn mà động là trời, vuông mà tĩnh là đất, thiên địa âm dương, vuông tròn động tĩnh, so với chính phản lưỡng nghi xem ra còn hơn một mức.
    Diệt Tuyệt sư thái trước nay vẫn tự cao tự đại cho rằng Tứ Tượng Chưởng của phái Nga Mi là tuyệt học trong thiên hạ, nghe Chu Chỉ Nhược nói thế, chính là gãi đúng chỗ ngứa, mỉm cười nói:
    - Đạo lý thì thế đấy, nhưng cũng còn phải xem công lực tu tập sử dụng thế nào.
    Về phương vị bát quái, Trương Vô Kỵ lúc còn nhỏ đã từng nghe phụ thân giảng qua nhưng sở học thật là nông cạn, chỉ từ khi trong đường hầm đọc di thư của Dương Đính Thiên, được Tiểu Siêu chỉ điểm, mới biết được vị trí của hướng Vô Vọng. Tới lúc này chàng nghe Chu Chỉ Nhược nói về lẽ thuận nghịch trong tứ tượng, trong lòng chấn động, để ý đến bộ pháp chiêu số của vợ chồng họ Hà và hai ông già cao lùn, quả nhiên biến hóa từ tứ tượng bát quái mà ra, thảo nào Càn Khôn Đại Na Di của mình không sao thi triển được.
    Thì ra võ học cao thâm nhất của Tây Vực gặp phải sở học tinh diệu nhất của Trung Thổ, cứ hình thức mà nói thì nghĩa lý của Trung Thổ sâu xa hơn. Trương Vô Kỵ sở dĩ đến bây giờ chưa bị thua, chỉ vì chàng đã luyện võ công Tây Vực đến mức tối cao rồi, còn vợ chồng họ Hà và hai ông già lùn cao sở học Trung Thổ còn nông cạn.
    Chỉ trong nháy mắt, trong đầu chàng nổi lên bảy tám ý niệm, tìm ra bảy tám phương pháp, cách nào cũng chỉ ra tay là đánh bại bốn người này ngay.
    Thế nhưng chàng lại nghĩ thầm: “Nếu như ngay bây giờ mình thi triển, chỉ e Diệt Tuyệt sư thái lại đổ tội cho Chu Chỉ Nhược, bà ni cô này lòng dạ độc ác, việc gì mà chẳng dám làm? Ta không nên làm liên lụy đến Chu cô nương”.
    Thành ra chiêu thức trên tay không đổi thay chút nào, chàng chỉ chăm chú quan sát chiêu số của bốn địch thủ, để học thêm tổng cương về võ học của họ, thấy chỗ nào cũng có đường đi nước bước, không như lúc đầu chỉ thấy rối như tơ vò, không biết đâu mà mò.
    Chu Chỉ Nhược thấy chàng không thay đổi chút nào, trong bụng hơi băn khoăn, nghĩ thầm: “Chàng đang hết sức chống đỡ kẻ địch, không thể nào trong chốc lát mà hiểu được chỗ tinh vi đó”. Lại thấy vợ chồng họ Hà mỗi lúc một ép tới gần hơn, Trương Vô Kỵ xem chừng càng lúc càng khó chống đỡ nên lớn tiếng nói:
    - Sư phụ, đệ tử xem ra bước sắp tới của Thiết Cầm tiên sinh sẽ là cung Qui Muội, không biết có phải hay không?
    Diệt Tuyệt sư thái chưa kịp trả lời, Ban Thục Nhàn đã dựng ngược mày tằm, quát lớn:
    - Này tiểu cô nương của phái Nga Mi, tiểu tử này là gì của cô mà cô lại nối giáo cho giặc vậy? Đừng có ở ngoài xía vào, phái Côn Lôn ta không vừa đâu nhé?
    Chu Chỉ Nhược bị bà ta nói trúng tim đen, mặt đỏ bừng. Diệt Tuyệt sư thái cũng lớn tiếng mắng:
    - Chỉ Nhược, không được lắm lời, phái Côn Lôn người ta không phải vừa, con không nghe sao?
    Hai câu đó giọng điệu rõ ràng là bênh học trò. Trương Vô Kỵ trong lòng thật là cảm kích, nghĩ thầm nếu còn cố gắng dây dưa, Chu Chỉ Nhược lại nghĩ cách giúp mình nữa, thể nào Diệt Tuyệt sư thái cũng nhìn ra, nàng sẽ thật là nguy hiểm. Chàng cất tiếng cười ha hả, nói:
    - Ta là bại tướng dưới phái Nga Mi, đã từng bị Diệt Tuyệt sư thái bắt giữ, phái Nga Mi hiển nhiên cao thâm hơn phái Côn Lôn nhiều.
    Chàng đi qua bên trái hai bước, tay phải cầm cành mai phất ra, một luồng kình lực đánh ngay vào sau lưng ông già lùn. Chiêu này cả phương vị lẫn thời khắc đều hết sức nhịp nhàng khít khao, ông già lùn không điều khiển được thân mình, cương đao nhắm ngay vai Ban Thục Nhàn chém xuống. Thì ra Trương Vô Kỵ đã sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, cũng theo đúng phương vị bát quái, đẩy luôn thế đao của ông già lùn ra chỗ khác. Ban Thục Nhàn vội thu kiếm về đỡ, nghe phụp một tiếng, đao của ông già cao cũng chém tới luôn.
    Hà Thái Xung vội tiến lên bảo vệ cho vợ, giơ kiếm gạt luôn đao ông già cao ra ngoài, Trương Vô Kỵ liền rút tay về đánh tới, dẫn đao của ông già lùn đâm vào bụng dưới y. Ban Thục Nhàn giận lắm, soẹt soẹt soẹt ba kiếm, áp đảo ông già lùn đến cuống cả chân tay. Ông già lùn kêu lên:
    - Đừng mắc kế của tiểu tử này.
    Hà Thái Xung lập tức tỉnh ngộ, quay kiếm lại đâm vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xoay chuyển càn khôn, thế kiếm đi đến giữa đường liền đổi hướng, nghe bụp một tiếng đâm luôn vào cánh tay bên trái ông già cao. Ông già cao đau quá kêu lên oai oái, giơ đao nhắm ngay đầu Hà Thái Xung bổ xuống, ông già lùn vội vung đao gạt ra, quát lên:
    - Sư đệ đừng có lộn xộn, đó là tên tiểu tử này tác quái, ối trời...
    Thì ra ngay lúc đó. Trương Vô Kỵ đã chuyển hướng kiếm của Ban Thục Nhàn, đâm vào sau vai ông già lùn.
    Chỉ trong khoảnh khắc, Hoa Sơn nhị lão đều trúng kiếm thụ thương, người đứng xem chung quanh đều náo loạn cả lên. Chỉ thấy Trương Vô Kỵ phất nhẹ cành mai, tay đi xéo theo, dẫn đao của ông già cao chém vào mạng sườn Ban Thục Nhàn, còn kiếm Hà Thái Xung thì đâm vào lưng ông già lùn. Đấu thêm vài hiệp nữa, chẳng hiểu sao kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung gạt lẫn nhau, song đao của hai ông già cũng người nọ chém người kia.
    Tới lúc này thì mọi người đã thấy rõ là Trương Vô Kỵ đã dẫn dắt khiến binh khí của bốn người mất hết phương hướng, thế nhưng chàng sử dụng phương cách nào thì không ai có thể giải thích được. Chỉ có Dương Tiêu đã từng học chút công phu sơ bộ Càn Khôn Đại Na Di nên nhìn ra được chút manh mối, nhưng cũng không tin nổi là chàng thanh niên này lại học được thần công.
    Trên đấu trường vợ chồng đánh lẫn nhau, đồng môn chém loạn xạ, càng lúc càng ác liệt. Ban Thục Nhàn không ngớt hô hoán:
    - Chuyển qua Vô Vọng, tiến qua vị trí Mông, cướp lấy chỗ Minh Di...
    Thế nhưng Càn Khôn Đại Na Di bốn phương tám hướng chỗ nào cũng bao trùm cả, dù họ có chuyển biến thay đổi phương vị cách nào, dù cố gắng cách mấy thì mỗi khi sử dụng đao kiếm, đều không cách nào có thể điều khiển được mà vẫn chém vào bên mình. Ông già cao kêu lên:
    - Sư ca ra tay nhẹ một chút được không?
    Ông già lùn đáp:
    - Ta chém tên tiểu tặc chứ có chém ngươi đâu.
    Ông già cao lại lớn tiếng:
    - Sư ca cẩn thận nhé, đao này đệ chém e rằng chuyển hướng...
    Quả nhiên không ngoài dự liệu, nói chưa dứt câu, thanh đao trên tay y đã chém xiên xiên vào ngang lưng ông già lùn. Hà Thái Xung nói:
    - Nương tử, tên tiểu tặc này...
    Ban Thục Nhàn vứt kiếm xuống đất, nghe keng một tiếng. Ông già lùn thấy vậy hiểu ngay, nếu như dùng quyền cước bắt nắm, tên tiểu tử này chắc không thể nào sử dụng tà pháp, bèn ném đơn đao xuống, giơ tay đấm vào ngực Trương Vô Kỵ. Nào ngờ nghe vù một tiếng, trường kiếm của Hà Thái Xung đâm luôn vào mặt. Ông già lùn trong tay không có binh khí vội vàng hụp xuống né tránh. Ban Thục Nhàn kêu lên:
    - Vứt hết binh khí.
    Hà Thái Xung vung tay một cái, ném trường kiếm ra tận xa. Ông già cao cũng bắt chước vứt đao đi, dùng cầm nã thủ chộp vào sau ót Trương Vô Kỵ. Năm ngón tay bóp chặt, trong tay đã bắt được một vật cứng ngắc, nhìn lại hóa ra cương đao của chính mình. Thì ra Trương Vô Kỵ đã bắt lấy nhét lại vào tay ông ta. Ông già cao kêu lên:
    - Ta không dùng binh khí.
    Rồi cố sức vứt xuống đất. Trương Vô Kỵ nghiêng người bắt lấy, lại nhét vào tay ông ta. Qua mấy lần như thế, ông già cao không sao có thể vứt bỏ binh khí được, sợ hết hồn, càng nghĩ càng thấy lạ lùng, cười lên sằng sặc nói:
    - Con mẹ nó, tiểu tử thối tha này đúng là tà môn.
    Khi đó ông già lùn và vợ chồng Hà Thái Xung cùng thi triển quyền cước, chia ra tấn công Trương Vô Kỵ. Quyền chưởng của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn đâu có kém gì binh khí, một cú đấm, một ngọn đá đều uy lực rất lớn. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại trơn như cá đang bơi, luồn lách chỉ trong tơ tóc, thỉnh thoảng phản kích lại một chiêu nửa thức, lại làm cho ba người phải tránh né thật khó khăn.
    Đến khi đó, bốn người biết rằng chẳng hi vọng gì thắng được Trương Vô Kỵ, ai cũng chỉ mong rút lui êm thắm mà thôi. Ông già cao đột nhiên hét lên:
    - Xú tiểu tử, coi ám khí đây.
    Ông ta khạc một cái, một bãi đờm nhắm ngay Trương Vô Kỵ phun tới. Trương Vô Kỵ nghiêng mình tránh qua, ông già cao nhân cơ hội đó ném cương đao về phía sau, cười nói:
    - Để xem ngươi... ối trời... xin lỗi nhé.
    Thì ra Trương Vô Kỵ tay trái kéo luôn, lôi luôn Ban Thục Nhàn tới, nghe bẹt một tiếng, cục đờm của ông già cao trúng ngay giữa mặt bà ta. Ban Thục Nhàn giận quá, mười ngón tay chồm tới vồ Trương Vô Kỵ. Ông già lùn cũng một tay chộp tới, chặn đường không cho Trương Vô Kỵ tháo lui. Ông già cao và Hà Thái Xung thấy có cơ hội tốt, cùng xông lên, chắc ăn lần này bao vây được rồi, thể nào cũng bắt được địch thủ, nên cả bọn tay nắm, bóp, bẻ, vặn, tuy xem ra có chiều bất nhã, nhưng để chàng không cách nào chạy thoát được.
    Hai tay Trương Vô Kỵ đồng thời thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hú lên một tiếng, thân hình bay vọt lên cao, trên không trung lượn một vòng, nhẹ nhàng đáp xuống bên ngoài cả trượng.
    Chỉ thấy Hà Thái Xung ôm lưng vợ, Ban Thục Nhàn túm vai chồng, còn hai ông già lùn cao ôm chặt lấy nhau, bốn người đang lăn lộn dưới đất. Vợ chồng họ Hà thấy không ổn, vội buông tay nhỏm dậy. Ông già cao kêu lên:
    - Bắt được rồi, xem lần này ngươi chạy được đi đâu? Ối ối không phải...
    Ông già lùn giận dữ quát:
    - Bỏ ra mau.
    Ông già cao đáp:
    - Sư ca không bỏ tay ra, làm sao đệ bỏ ra được?
    Ông già lùn nói:
    - Nói bớt đi một câu có được không?
    Ông già cao đáp:
    - Bớt đi một câu, dĩ nhiên là được, có điều...
    Ông già lùn buông tay ra, hậm hực nói:
    - Đứng lên.
    Ông già cao đối với sư ca vốn e ngại, vội vàng rụt tay lại, cả hai cùng nhỏm dậy. Ông già cao nói:
    - Này, xú tiểu tử, cái này không phải là tỉ võ, chỉ là tà pháp, đâu có gì là anh hùng?
    Ông già lùn biết rằng nếu đấu thêm nữa chỉ càng thêm bẽ mặt, ôm quyền hướng về Trương Vô Kỵ nói:
    - Các hạ thần công cái thế, lão hủ từ khi cha sinh mẹ để đến giờ chưa từng gặp, phái Hoa Sơn xin chịu thua.
    Trương Vô Kỵ hoàn lễ đáp:
    - Xin lỗi, vãn bối may mắn, nếu chẳng được bốn vị tiền bối thủ hạ dung tình thì đã chết vì chính phản lưỡng nghi đao kiếm rồi.
    Câu nói đó chẳng phải nói khiêm tốn lấy lòng, nếu Chu Chỉ Nhược không chỉ điểm, chàng hẳn khó mà sống sót. Dẫu rằng sau cùng đã thắng, đối với võ công của bốn người này quả không dám coi thường chút nào, nhưng cũng biết cả bốn đều xuất toàn lực, thành thử “thủ hạ dung tình” cốt để cho dễ nghe thôi.
    Ông già cao đắc ý, mặt mày hớn hở nói:
    - Thế sao? Ngươi cũng biết thắng chẳng qua là may mắn thôi ư?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Xin hỏi tôn tính đại danh của hai vị? Ngày sau nếu gặp lại cho tiện đường xưng hô.
    Ông già cao đáp:
    - Sư ca của ta là Uy Chấn...
    Ông già lùn quát lớn:
    - Câm mồm.
    Rồi quay sang Trương Vô Kỵ nói:
    - Tướng của đội quân đánh thua, xấu hổ không có đất mà dung, tiện danh đâu có đáng nhắc tới?
    Nói xong quay trở lại đám người của phái Hoa Sơn. Ông già cao phủi tay cười đáp:
    - Thắng bại là chuyện thường của binh gia, lão đây chẳng coi vào đâu cả.
    Nhặt hai thanh đao dưới đất, lững thững đi về.
    Trương Vô Kỵ đi đến bên cạnh Tiên Vu Thông, cúi xuống điểm hai nơi huyệt đạo của y, nói:
    - Đại sự ở đây xong rồi, ta sẽ chữa độc cho các hạ, bây giờ tạm cho độc khí khỏi đi vào tâm khẩu đã.
    Ngay lúc đó, bỗng thấy gió lạnh thổi vào sau lưng, hơi thấy đau, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, không kịp tránh né, đầu ngón chân nhún một cái thân hình xeo xéo phóng vụt lên. Chỉ nghe hai tiếng soẹt soẹt nho nhỏ, tiếp theo là một tiếng “A” rú lên thảm thiết, chàng ở trên không quay đầu nhìn xuống, thấy hai thanh kiếm của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đã cắm vào ngực Tiên Vu Thông.
    Thì ra vợ chồng Hà Thái Xung tung hoành nửa đời người, nay trước đám đông thua về tay một thanh niên hậu bối, dù cách nào cũng không thể nuốt mối căm hờn. Khi hai người nhặt trường kiếm lên, thấy Trương Vô Kỵ đang cúi xuống điểm huyệt Tiên Vu Thông, đưa mắt nhìn nhau, tâm ý tương thông, cùng gật đầu, đột nhiên ra chiêu “Vô Thanh Vô Sắc”, cùng phóng vào lưng Trương Vô Kỵ.
    Chiêu Vô Thanh vô sắc này là một tuyệt chiêu trong kiếm học của phái Côn Lôn, sử dụng phải có hai người, công lực tương đương, nội kình tương đồng. Khi kiếm chiêu tung ra, kình lực hai bên trái ngược, nên những phản lực của hai thanh kiếm, tiếng rít trong không gian, đều làm triệt tiêu lẫn nhau.
    Lộ kiếm chiêu này vốn dùng trong khi chiến đấu trong đêm tối không cho đối phương có thể nghe tiếng gió mà biện vị, trước khi ra tay hoàn toàn không có hình tích gì nên kiếm đụng vào người mới biết, vào ban ngày nếu dùng để đánh trộm từ sau lưng sẽ khiến người ta không sao phòng bị được.
    Nào ngờ Trương Vô Kỵ tuy tâm ý bất động, Cửu Dương thần công tự nhiên hộ thân, biến chiêu cực nhanh, tuy vậy áo sau lưng vẫn bị rách một đường dài, thực là nguy hiểm. Vợ chồng họ Hà không thu kiếm về kịp, khiến song kiếm đâm chết tươi chưởng môn phái Hoa Sơn.
    Trương Vô Kỵ rơi xuống đất rồi, nghe tiếng xôn xao, la lối. Hà thị phu phụ đâm lao phải theo lao, song kiếm cùng hướng về tấn công Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: “Cái trò đê tiện đâm sau lưng thì mọi người ai cũng đã nhìn thấy rồi, từ nay về sau còn mặt mũi nào? Không đâm chết được y thì vợ chồng mình cũng sống làm gì?”.
    Thành thử chiêu nào cũng đều là đánh thí mạng. Trương Vô Kỵ tránh được mấy nhát rồi, thấy đường kiếm nào cũng muốn hai bên cùng chết, quả thực khó có thể yên ổn mà ngừng tay, nghĩ ra một mẹo, bèn ngồi thụp xuống, tay trái nhặt ngay một cục đất, một mặt né tránh kiếm chiêu, một mặt dùng mồ hôi tay vo thành hai viên thuốc nho nhỏ. Khi Hà Thái Xung từ phía bên trái, Ban Thục Nhàn từ phía phải tấn công tới, chàng liền nhảy vọt tới chỗ thi thể Tiên Vu Thông, giả vờ mò trong bọc của y mấy cái, quay đầu lại, song chưởng chia ra đánh vào hai người. Kỳ này chàng sử dụng đến sáu, bảy thành công lực, vợ chồng họ Hà thấy tức ngực, khó thở dường như muốn ngộp, vội vàng há mồm để hút khí trời. Trương Vô Kỵ vung tay một cái, hai viên đất chui tọt vào mồm hai người, thuận theo luồng kình lực mãnh liệt tuột luôn vào cổ họng.
    Vợ chồng Hà Thái Xung thấy vật đó lấy từ trong người Tiên Vu Thông, nghĩ thầm người này thích dùng độc dược độc trùng, thì trong người đâu có thứ gì tốt lành, trong bụng kinh hoảng, liên tiếp ho khạc, nhưng không sao có thể nhả được viên đất ra. Hai người mặt tái mét, nghĩ lại thảm trạng Kim Tàm trùng độc mà Tiên Vu Thông vừa phải chịu, Ban Thục Nhàn gần như muốn ngất đi.
    Trương Vô Kỵ lạnh lùng nói:
    - Vị Tiên Vu chưởng môn này nuôi Kim Tàm, dấu trong bao sáp, hai vị mỗi người uống một viên. Nếu như thổ được ra ngay, nhân khi bao sáp chưa tan, may ra cứu được.
    Nghe nói như thế vợ chồng họ Hà cố trấn tĩnh, vội vận nội lực, hết sức rặn để nôn viên thuốc. Hai người nội công cao siêu, ọe hai ba lần quả nhiên nhả được “lạp hoàn” ra, nhưng lúc này đã tan vào dịch vị, đâu có còn gì?
    Ông già cao của phái Hoa Sơn chạy đến coi, chỉ chỉ trỏ trỏ cười nói:
    - Ối chao, đây là cứt con Kim Tàm, Kim Tàm vừa mới vào trong bụng đã ỉa ngay rồi.
    Ban Thục Nhàn vừa sợ vừa tức, chưa có chỗ phát tiết, lập tức giơ tay đánh ngay một chưởng. Ông già cao hụp xuống tránh khỏi, nhảy trở ra lớn tiếng nói:
    - Con mụ ngang ngược phái Côn Lôn kia, ngươi giết chết chưởng môn bản phái, phái Hoa Sơn không thể bỏ qua cho ngươi đâu.
    Vợ chồng Hà Thái Xung nghe y nói thế, trong bụng càng lo thêm, nghĩ thầm Tiên Vu Thông tuy nhân phẩm gian ác, nhưng dẫu sao cũng là chưởng môn phái Hoa Sơn, vợ chồng mình lỡ tay giết chết y, tạo nên một vụ án lớn trong võ lâm. Thế nhưng Kim Tàm trùng độc đã vào bụng rồi, chẳng còn sống được bao lâu, chuyện gì thôi cũng đành chịu. Xem ra chỉ có tên tiểu tử Trương Vô Kỵ này là giải được thuốc độc, nhưng trước đây mình đã tệ bạc với y, y lẽ nào ra tay cứu mạng?
    Trương Vô Kỵ cười nhạt nói:
    - Hai vị không phải hoảng sợ, Kim Tàm tuy đã vào bụng rồi, độc tính phải sáu giờ sau mới phát tác, chuyện lớn ở đây xong rồi, vãn bối sẽ tìm cách cứu chữa cho. Chỉ mong Hà phu nhân không ép tại hạ uống rượu độc nữa là được rồi.
    Vợ chồng Hà Thái Xung mừng quá, tuy bị chàng mắng xéo một câu, nhưng cũng không dám để bụng, nhưng lời cám ơn cũng không dám nói ra, chỉ bẽn lẽn đi về chỗ. Trương Vô Kỵ nói:
    - Hai vị đến phái Không Động xin bốn viên Ngọc Động Hắc Thạch Đơn uống đi, để cho độc tính tạm thời không chạy vào tim.
    Hà Thái Xung cúi mặt nói:
    - Xin đa tạ đã chỉ giáo.
    Lập tức sai đại đệ tử đến phái Không Động xin thuốc uống ngay. Trương Vô Kỵ cười thầm, thứ Ngọc Động Hắc Thạch Đơn này tuy là thuốc giải dược thật, nhưng uống vào thì hai tiếng đồng hồ liền bụng đau như thắt ruột lại, thành thử chẳng bao lâu vợ chồng họ Hà thấy quặn bụng, chỉ nghĩ là Kim Tàm trùng độc phát tác, biết đâu chuyện đó. Chẳng qua Trương Vô Kỵ chỉ răn đe sơ sơ cho họ hoảng sợ một phen, nếu như để báo thù lúc trước, đâu lẽ nào chỉ nhẹ nhàng như thế? Thế nhưng từ nay trở về sau, chỉ cần không cho họ giải dược, nếu như có cùng các phái phân tranh, phái Côn Lôn thể nào chẳng phải đứng về phe mình. Nhớ năm xưa chàng dùng Tang Bối Hoàn gọi là Cưu Tì Hoàn để cho cô Năm uống, nhưng vì nói thật quá sớm, suýt nữa chết dưới tay Hà Thái Xung, lần này nhất định không đi lại vết xe đổ nữa.
    Ở bên kia Diệt Tuyệt sư thái nói với Tống Viễn Kiều:
    - Tống đại hiệp, trong sáu đại phái chỉ còn lại quí phái và chúng tôi, lão ni cô là phận nữ lưu, toàn do Tống đại hiệp chủ trì toàn cục.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Tại hạ đã cùng Ân giáo chủ tỉ thí quyền cước nhưng không thắng nổi. Sư thái kiếm pháp thông thần, hẳn sẽ chế phục được gã tiểu bối này.
    Diệt Tuyệt sư thái cười nhạt một tiếng, rút phắt Ỷ Thiên kiếm đeo trên lưng, từ từ đi ra. Du Liên Châu Du nhị hiệp của phái Võ Đương từ nãy vẫn chăm chú xem xét động tĩnh của Vô Kỵ, rất là lo lắng, lúc này nghĩ thầm: “Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp tuy tinh, chưa chắc đã hơn được bốn người của Hoa Sơn, Côn Lôn liên thủ, nếu như bà ta không xong, phái Võ Đương cũng chế phục không được, thì cả sáu phái đều thua hết, ta phải xem hư thực thế nào”. Ông liền rảo bước tiến vào trong sân nói:
    - Sư thái, để cho năm sư huynh đệ chúng tôi vào thử xem công lực thanh niên này đến đâu, sư thái sau cùng chỉ ra tay một lần là thắng ngay.
    Mấy câu đó ý thật rõ ràng, phái Võ Đương trước nay vẫn nổi tiếng về nội lực bền bỉ, từ Tống Viễn Kiều đến Mạc Thanh Cốc năm người nếu luân phiên tỉ đấu với Trương Vô Kỵ, dẫu cho không thắng được, nhưng dù cho cao thủ bậc nào trên đời mà liên tiếp đấu với Võ Đương ngũ hiệp cũng phải mỏi mệt kiệt sức, thành thế cung cứng giương quá đà đấu với Diệt Tuyệt sư thái kiếm thuật vô song, phái Nga Mi thể nào cũng phải thắng.
    Diệt Tuyệt sư thái hiểu ngay dụng ý của Du Liên Châu, nghĩ thầm: “Phái Nga Mi lẽ nào lại phải chịu ơn phái Võ Đương? Nếu thế thì dù có thắng chăng nữa cũng chẳng vinh hạnh gì. Chưởng môn phái Nga Mi lại phải lợi dụng như thế để đối phó với một tiểu bối hậu sinh hay sao?”. Bà ta xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, mục hạ vô nhân, tuy thấy Trương Vô Kỵ võ công kinh người, nhưng cho rằng người các phái ra đấu toàn là đồ bị thịt, tiểu tử này hôm trước mình vừa ra tay là bắt được ngay. Về sau khi mình ra tay đồ sát giáo đồ Ma giáo của Nhuệ Kim Kỳ, tiểu tử này chen vào can thiệp, nội lực tuy lạ lùng, nhưng cũng có gì là ghê gớm đâu?
    Nghĩ thế bèn phất tay áo một cái, nói:
    - Xin mời Du nhị hiệp trở về. Ỷ Thiên kiếm của lão ni đã ở trong tay, không thể vô cớ cho trở vào bao được.
    Du Liên Châu nghe bà ta nói thế, chỉ còn nước ôm quyền chào nói:
    - Vâng.
    Rồi quay trở về phái Võ Đương. Diệt Tuyệt sư thái giơ kiếm ngang ngực, mũi kiếm chênh chếch hướng lên trời, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ. Giáo chúng Minh giáo chết dưới thanh kiếm Ỷ Thiên không biết bao nhiêu, lúc này thấy bà ta ra đấu trường, người nào người nấy đều căm phẫn, lớn tiếng xôn xao. Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy nói:
    - Nhốn nháo cái gì? Để ta lo liệu xong tiểu tử này, sẽ thanh toán các ngươi từng người một, bộ sợ chết chưa được sớm sủa hay sao?
    Ân Thiên Chính biết thanh Ỷ Thiên kiếm của bà ta thật là khó đối phó, nhiều hảo thủ của bản giáo chịu chưa nổi một hiệp, binh khí đã bị chặt đứt, bị chém chết ngay, nên hỏi:
    - Tăng thiếu hiệp dùng binh khí gì?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vãn bối không có binh khí. Lão gia tử, tiền bối thử xem đối phó với bảo kiếm đó cách nào mới xong?
    Thanh kiếm Ỷ Thiên cứng rắn dị thường, chính mắt chàng đã thấy, nghĩ đến không lạnh mà run, trong bụng không biết phải tính toán ra sao. Ân Thiên Chính từ cái bọc bên mình lấy ra một thanh trường kiếm, nói:
    - Thanh Bạch Hồng kiếm này ta tặng cho thiếu hiệp. Thanh kiếm này tuy không nổi danh như thanh kiếm Ỷ Thiên của lão tặc ni, nhưng cũng là một món binh khí hãn hữu trên giang hồ.
    Nói xong giơ tay búng vào lưỡi kiếm một cái, lưỡi kiếm bèn cong lại, rồi bật ngược trở ra, kêu lên u u, âm thanh trong vắt. Trương Vô Kỵ cung kính nhận lấy, nói:
    - Đa tạ lão gia tử.
    Ân Thiên Chính nói:
    - Thanh kiếm này theo ta đã lâu, hơn mười năm nay không còn dùng tới. Ỷ vào binh khí sắc bén để mà thắng, ha ha, thế có gì là anh hùng hảo hán đâu? Hôm nay mong được thấy nó uống máu cổ họng của lão tặc ni, lão phu có chết cũng không còn ân hận gì nữa.
    Trương Vô Kỵ không trả lời, nghĩ thầm: “Ta quyết không thể giết sư thái này được”.
    Chàng cầm thanh Bạch Hồng kiếm, quay đầu lại, tiến lên mấy bước, mũi kiếm chỉ xuống đất, hai tay ôm lấy cán kiếm, nói với Diệt Tuyệt sư thái:
    - Kiếm pháp của vãn bối thật là tầm thường, không thể nào là địch thủ của sư thái được, quả thực không dám cùng tiền bối tỉ đấu. Tiền bối đã từng tha cho không giết giáo chúng Minh giáo trong Nhuệ Kim Kỳ, lẽ nào không nương tay thêm một lần nữa?
    Hai hàng lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái xụ hẳn xuống, lạnh lùng đáp:
    - Chúng tặc của Nhuệ Kim Kỳ là do ngươi cứu, dưới tay Diệt Tuyệt sư thái quyết chẳng tha ai. Ngươi thắng được trường kiếm trong tay ta, lúc đó muốn gì cũng chưa muộn.
    Những giáo chúng Minh giáo trong Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ Ngũ Hành Kỳ liền xôn xao mắng chửi, kêu lên:
    - Lão tặc ni, ngươi có giỏi thì tay không đánh với Tăng thiếu hiệp xem nào.
    - Kiếm pháp của nhà ngươi có gì là ghê gớm đâu, chỉ ỷ vào thanh kiếm sắc thôi.
    - Tăng thiếu hiệp kiếm pháp giỏi hơn ngươi nhiều, ngươi có giỏi thì thay một thanh kiếm thường, nếu đỡ được ba chiêu thì phái Nga Mi mới gọi là cao minh.
    - Cái gì mà ba chiêu? Sợ một chiêu nửa thức cũng chưa xong nữa là.
    Diệt Tuyệt sư thái thần sắc trơ trơ, không để ý gì đến những lời khích bác đó, lớn tiếng nói:
    - Tiến chiêu đi.
    Trương Vô Kỵ chưa từng luyện qua kiếm pháp, lúc này phải ra chiêu tấn công, chân tay quờ quạng, nghĩ đến Lưỡng Nghi kiếm pháp của bọn Hà Thái Xung mới rồi quả là tinh diệu, nên xeo xéo đâm ra một kiếm. Diệt Tuyệt sư thái hơi lạ lùng, nói:
    - Tiêu Bích Đoạn Vân của phái Hoa Sơn.
    Thanh kiếm Ỷ Thiên hơi lắc một cái, không thèm đỡ nhát kiếm của đối phương, chiêu đầu tiên đã tấn công liền, mũi kiếm đâm ngay vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ, ra tay vừa độc địa, vừa cực kỳ nhanh nhẹn không ai ngờ nổi.
    Trương Vô Kỵ kinh hoảng, lách qua tránh né, chỉ thấy kiếm của Diệt Tuyệt sư thái lóe lên một cái, mũi kiếm đã ngóc lên phóng vào yết hầu chàng. Trương Vô Kỵ hoảng hốt vội lăn xuống đất, vừa nhỏm dậy cảm thấy sau cổ khí lạnh ùa tới, biết là không ổn, đầu ngón chân phải vội đạp một cái, thân hình bay vọt lên không.
    Cảnh tượng đó quả thực là thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, mọi người chung quanh ai nấy hò reo, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái không đợi chàng rơi xuống, nhẹ nhàng phi thân lên, giữa lưng chừng trời giơ kiếm múa tới, kiếm quang bao phủ một vòng mấy thước chung quanh.
    Trương Vô Kỵ còn đang trên không, không cách nào có thể tránh né, trong vòng bao vây của Diệt Tuyệt sư thái, nếu như thân hình rơi xuống một thước thì hai chân ắt sẽ đứt ngay, còn nếu xuống đến ba thước thì sẽ bị chặt đứt ngang hông.
    Tình cảnh đó thực kinh hiểm vạn phần, chàng không còn kịp suy nghĩ gì nữa, vội đâm ra, mũi kiếm thanh Bạch Hồng điểm luôn vào đầu kiếm Ỷ Thiên, thanh kiếm lập tức cong lại, nghe coong một tiếng, lưỡi kiếm bật lại, chàng đã mượn sức vọt lên trên cao.
    Diệt Tuyệt sư thái lập tức xông tới tấn công, soẹt soẹt soẹt đâm luôn ba nhát, đến chiêu thứ ba thân hình Trương Vô Kỵ đã rơi xuống thấp, chỉ còn nước vung kiếm ra gạt, nghe keng một tiếng, thanh Bạch Hồng kiếm trong tay đã gãy làm hai. Tay phải chàng thuận thế nhắm ngay đỉnh đầu Diệt Tuyệt sư thái đánh xuống, lão ni cô liền vung kiếm lên toan chặt đứt cổ tay Trương Vô Kỵ.
    Trương Vô Kỵ nhắm thật chính xác, búng luôn một cái vào sống kiếm, thân hình lại bay vọt ra ngoài. Diệt Tuyệt sư thái tay tê dại, hổ khẩu đau nhói, trường kiếm bị Trương Vô Kỵ búng phải tưởng như muốn tuột ra, trong lòng chấn động. Trương Vô Kỵ rơi xuống cách xa hơn hai trượng, tay cầm thanh kiếm gãy, ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
    Mấy chiêu đó thật nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ nháy mắt, Diệt Tuyệt sư thái đã công liên tiếp tám chiêu, chiêu nào cũng chí mạng độc địa. Trương Vô Kỵ nhất nhất phá giải trong đường tơ kẽ tóc, tám lần tử lý đào sinh, trong cái chết tìm đường sống. Người tấn công đã tinh xảo không đâu sánh bằng, người né tránh cũng lại lạ lùng kỳ quái. Không ai tin con người có thể làm nổi, người tấn công tựa hồ thiên tướng ra oai, kẻ né tránh thật như quỉ mị biến hình, khác gì sấm vang chớp dậy, tuy qua đã lâu rồi nhưng người người vẫn còn kinh hãi, ai ai cũng nín thở, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài.
    Qua một lúc lâu, tiếng hoan hô vang cả trời đất bấy giờ mới nổi lên. Qua tám chiêu tấn công, tám chiêu trốn tránh, Trương Vô Kỵ hoàn toàn chỉ chống đỡ, trường kiếm trong tay lại bị chém gẫy, rõ ràng ở vào thế hạ phong, nhưng Ỷ Thiên kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái bị chàng búng một cái, lập tức nửa người tê bại, Trương Vô Kỵ vì ít kinh nghiệm đối địch, nếu không thừa thế phản kích lúc đó thì đã thắng rồi. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng thấy thật may, không khỏi kinh hãi thầm, nói:
    - Ngươi thay binh khí khác, ra đây tái đấu.
    Trương Vô Kỵ nhìn thanh kiếm gãy trong tay, nghĩ thầm: “Ông ngoại tặng cho ta thanh bảo kiếm này, ta vừa ra tay đã bị hủy, đối với lão nhân gia thực không phải tí nào. Đâu còn bảo đao lợi kiếm nào có thể chống đỡ được với Ỷ Thiên kiếm?”.
    Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng thấy Chu Điên kêu lên:
    - Ta có một thanh bảo đao, thiếu hiệp dùng nó đấu với kiếm của lão tặc ni một phen. Lại đây cầm lấy.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kiếm Ỷ Thiên quá ư sắc bén, chỉ sợ làm hỏng mất bảo đao của tiền bối.
    Chu Điên nói:
    - Hỏng thỉ hỏng cũng chẳng sao. Ngươi đấu không lại mụ ta, bọn ta ai ai cũng tống mệnh qui thiên, còn giữ gì được bảo đao?
    Trương Vô Kỵ nghị lại thấy quả không sai, đi đến tiếp lấy thanh đao. Dương Tiêu hạ giọng nói:
    - Trương công tử, công tử nên tấn công bà ta, đừng chống đỡ nữa.
    Trương Vô Kỵ thấy ông ta gọi mình là “Trương công tử”, hơi ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay, Dương Bất Hối đã nhận ra mình, thể nào chẳng nói cho cha hay, liền nói:
    - Cám ơn tiền bối đã chỉ giáo.
    Vi Nhất Tiếu cũng nói nhỏ:
    - Hãy thi triển khinh công đừng ngừng lại nửa bước.
    Trương Vô Kỵ thật mừng, nói:
    - Đa tạ tiền bối chỉ điểm.
    Quang Minh sứ giả Dương Tiêu, Vi Bức Vương Vi Nhất Tiếu võ công cao thâm, đấu với Diệt Tuyệt sư thái chưa chắc đã thua, chỉ vì bị Viên Chân ám toán trọng thương nên một thân võ công không còn thi thố gì được. Thế nhưng đôi mắt vẫn còn tinh, những điều hai người chỉ cho Vô Kỵ, chính là yếu quyết đối phó với bảo kiếm khoái chiêu của Diệt Tuyệt sư thái.
    Trương Vô Kỵ cầm đao trên tay, thấy thanh đao này nặng độ hơn bốn mươi cân, ánh xanh lấp lánh, sống dày lưỡi mỏng, trên lưỡi đao có khắc hoa văn cổ kính, quả là một trân phẩm lâu đời. Chàng nghĩ đến làm hủy thanh kiếm Bạch Hồng tuy đáng tiếc thật, nhưng dẫu sao cũng là binh khí ông ngoại đã tặng cho mình, còn bảo đao này là vật sở hữu của Chu Điên, không thể làm hư trong tay mình nữa nên quay lại nói:
    - Sư thái, vãn bối tiến chiêu đây.
    Chàng triển khai khinh công, như một làn khói bay vụt ra sau lưng Diệt Tuyệt sư thái, không đợi bà ta quay lại, né bên phải, lách qua trái, chạy xuôi một vòng, chạy ngược một vòng, soẹt soẹt chém ra hai nhát.
    Diệt Tuyệt sư thái vung kiếm chặn lại, đang toan biến thế ra chiêu, Trương Vô Kỵ đã biến mất đi đâu không biết. Ngay từ trước khi luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, khinh công chàng đã cao hơn Diệt Tuyệt sư thái rồi, lúc này càng chạy càng nhanh, chẳng khác gì gió bay lửa bốc, chớp giật sấm ran, ngay cả Vi Nhất Tiếu khinh công vốn dĩ hơn hẳn quần hùng cũng phải ngầm kinh hãi. Chỉ thấy Trương Vô Kỵ bốn bề tám hướng chuyển động, thỉnh thoảng sấn vào chém một đao, chiêu số chưa xong đã lùi ra ngoài. Kỳ này công thủ đổi khác, Diệt Tuyệt sư thái không còn cơ hội nào phản kích một kiếm, chỉ vì Trương Vô Kỵ ngại rằng kiếm Ỷ Thiên quá sắc bén nên không dám tới thật gần. Chàng chạy qua mấy chục vòng rồi, Cửu Dương chân khí trong người càng lúc càng sung vượng thêm, chân không bén đất chẳng khác gì lăng không phi hành.
    Quần đệ tử phái Nga Mi thấy tình hình không ổn, nếu đấu dây dưa, thể nào sư phụ cũng thua. Tĩnh Huyền kêu lên:
    - Hôm nay chúng ta vây diệt ma giáo, không phải là tỉ võ tranh thắng. Các vị sư muội sư đệ cùng tiến lên chặn tiểu tử này lại, không để cho y ma mãnh, bắt phải đem bản lãnh chân thực đấu với sư phụ.
    Nói xong cầm kiếm nhảy tới. Nam nữ đệ tử phái Nga Mi liền cùng xông lên, tay cầm binh khí, chặn hết bốn phương tám hướng, Chu Chỉ Nhược đứng ở góc phía tây nam. Đinh Mẫn Quân cười nhạt nói:
    - Chu sư muội, chặn hay không là ở ngươi, mà nhường hay không cũng là ở ngươi đó.
    Chu Chỉ Nhược vừa giận vừa thẹn, nói:
    - Sao sư tỉ lại chỉ nói mình tôi là sao?
    Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ đã vọt tới trước mặt, Đinh Mẫn Quân liền vung kiếm đâm ra. Trương Vô Kỵ tay trái vươn ra, khoắng một cái đoạt luôn thanh trường kiếm, tiện tay ném luôn vào Diệt Tuyệt sư thái. Diệt Tuyệt sư thái vung kiếm lên chém đứt thanh kiếm bay tới. Thế nhưng sức của Trương Vô Kỵ ném thanh kiếm đó thật là mạnh, kiếm đã bị chém gãy rồi, kình lực vẫn làm cho cổ tay bà ta ngâm ngẩm tê. Trương Vô Kỵ vẫn không dừng bước, tay trái vung ra liên tiếp đoạt kiếm, liên tiếp ném vào. Phái Nga Mi kỳ này đi đánh Tây Vực toàn là cao thủ, nhưng mỗi khi chàng vung tay đoạt kiếm, không ai né được mảy may, khiến cứ thò tay là được, mấy chục thanh trường kiếm bay lượn trên không, bạch quang lấp loáng, không ngừng phóng vào Diệt Tuyệt sư thái.
    Diệt Tuyệt sư thái mặt lạnh như phủ một làn sương, thấy kiếm bay tới là chém gãy, đến lúc tay phải tê dại, vội chuyển kiếm sang tay trái. Công phu sử dụng kiếm bằng tay trái của bà ta không kém tay phải bao nhiêu, nên chỉ thấy kiếm bay tung tóe trên trời, có mảnh bay văng ra ngoài, kình lực vẫn còn mạnh mẽ khiến người đứng chung quanh phải lật đật tháo lui. Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy tay không, chỉ còn một mình Chu Chỉ Nhược trường kiếm vẫn còn trong tay chưa bị cướp mất.
    Trương Vô Kỵ muốn báo ơn nàng mới rồi chỉ điểm, ngờ đâu như thế bỗng dưng nàng trở nên khác hẳn mọi người. Nàng biết rằng chẳng ổn, tiến lên định công kích vài chiêu, nhưng Trương Vô Kỵ thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, huống chi lại cố ý tránh nàng ra, không đến gần nàng trong vòng năm thước. Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, nhất thời chân tay luống cuống. Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:
    - Chu sư muội, quả nhiên y đối với ngươi không như người khác.
    Lúc này Trương Vô Kỵ tuy bị đám đệ tử phái Nga Mi ngăn trở nhưng chàng chạy qua chạy lại, coi như không có ai, ánh đao nhằm những nơi yếu hại của Diệt Tuyệt sư thái mà tấn công. Diệt Tuyệt sư thái ở vào thế chỉ còn chống đỡ, không còn cách nào phản kích được, trong bụng gấp gáp, lời ăn tiếng nói của Đinh Mẫn Quân từng tiếng lọt vào tai:
    - Ngươi thấy sư phụ đang bị tiểu tử này công kích, sao không tiến lên tương trợ? Ngươi trong tay có kiếm, sao đứng như trời trồng, chắc trong bụng ngươi mong cho tiểu tử này đánh bại sư phụ chăng?
    Diệt Tuyệt sư thái chợt hiểu ra: “Sao tiểu tử này lại không đoạt binh khí của Chỉ Nhược, không lẽ hai đứa ngầm cấu kết với nhau? Ta thử xem thì biết ngay”. Liền lớn tiếng quát:
    - Chỉ Nhược, ngươi dám khi sư diệt tổ sao?
    Giơ kiếm lên nhắm ngay ngực Chu Chỉ Nhược đâm tới. Chu Chỉ Nhược cực kỳ kinh hãi, không dám giơ kiếm lên đỡ, chỉ kêu:
    - Sư phụ, con... con...
    Tiếng “con” mới ra khỏi miệng, kiếm của Diệt Tuyệt sư thái đã đâm tới ngực rồi. Trương Vô Kỵ đâu biết nhát kiếm đó chỉ là để dò xét xem hai người có tình ý gì với nhau không, mũi kiếm tới ngực sẽ rút ngay về. Chàng chính mắt thấy bà ta cực kỳ ác độc giết chết Kỷ Hiểu Phù, biết rằng bà tru sát đồ đệ không dung tình chút nào, không kịp suy nghĩ, nhảy vọt tới, ôm ngay Chu Chỉ Nhược nhảy ra ngoài xa cả trượng.
    Diệt Tuyệt sư thái liền chuyển khách thành chủ, trường kiếm rung động, đâm ngay vào sau lưng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nội lực tuy mạnh, nhưng chưa từng luyện qua khinh công nên không được như Vi Nhất Tiếu tay ôm một người mà chân không chậm lại, nghe thấy hơi gió từ sau lưng, chỉ còn nước quay đao lại gạt, nghe cách một tiếng, bảo đao trong tay đã cụt mất một nửa. Thanh kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái liền tiện đà đâm tới, Trương Vô Kỵ vận kình, sử đến chín thành công lực ném ngược nửa thanh đao lại. Diệt Tuyệt sư thái liền cảm thấy ngộp thở, không dám giơ kiếm lên chặt, vội vàng phục xuống né tránh. Nửa thanh đao bay xẹt qua đỉnh đầu, kình phong khiến bà ta rát cả mặt. Trương Vô Kỵ không bỏ lỡ dịp may, chưa kịp bỏ Chu Chỉ Nhược xuống, lập tức lướt tới, tay phải vươn ra, múa chưởng đánh tới. Diệt Tuyệt sư thái chân phải khuỵu xuống, giơ kiếm lên toan chém cổ tay chàng, Trương Vô Kỵ lập tức biến chưởng thành cầm nã, uốn tay giựt về, nhẹ nhàng đoạt luôn thanh Ỷ Thiên kiếm.
    Công phu biến chuyển chỉ trong một sát na từ cương thành nhu, chính là thần công Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, Diệt Tuyệt sư thái võ công tuy cao, nhưng trong lúc đang đối phó với chưởng lực cương mãnh ép vào người, làm sao có thể sách giải được thế chuyển sang cầm nã nhu hòa của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tuy đắc thắng, nhưng đối với một đại địch như Diệt Tuyệt sư thái vẫn phải hết sức cẩn thận, không dám khinh thị chút nào, liền cầm kiếm Ỷ Thiên chỉ thẳng vào yết hầu bà ta, sợ bà ta có kỳ chiêu thi triển, sau đó mới từ từ lùi trở lại hai bước.
    Chu Chỉ Nhược đãy dụa kêu lên:
    - Buông ta ra.
    Trương Vô Kỵ kinh hoảng kêu lên:
    - Ối, vâng.
    Mặt chàng đỏ bừng, vội để nàng xuống đất, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, chỉ thấy làn tóc mềm mại của nàng quệt qua má, không khỏi liếc nàng một cái, thấy nàng dường như muốn ngất đi, vừa thẹn thùng vừa bối rối, tuy thần sắc sợ hãi nhưng ánh mắt đầu mày không khỏi có phần hoan hỉ.
    Diệt Tuyệt sư thái từ từ đứng dậy, không nói nửa lời nhìn Chu Chỉ Nhược, lại nhìn Trương Vô Kỵ, mặt mỗi lúc một tái đi. Trương Vô Kỵ quay ngược thanh kiếm nói với Chu Chỉ Nhược:
    - Chu cô nương, bảo kiếm của quí phái, xin cô nương chuyển lại cho tôn sư.
    Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn sư phụ, thấy bà thần sắc trơ trơ, chẳng biết là nên nhận hay không nên nhận, trong một giây trong lòng chuyển qua bao nhiêu ý niệm: "Cục diện hôm nay tuy thật là đáng xấu hổ, Trương công tử đãi ta như thế, sư phụ thể nào chẳng cho là ta có tình ý với chàng, từ nay ta sẽ là khí đồ của phái Nga Mi, thành một kẻ phản bội vô sỉ trong võ lâm. Trời đất mang mang, ta biết đi đâu dung thân bây giờ? Trương công tử đối với ta như thế nhưng quyết không thể vì chàng mà phản bội sư môn”. Bỗng nghe Diệt Tuyệt sư thái hậm hực rít lên:
    - Chỉ Nhược, đâm một kiếm giết nó đi.
    Năm xưa Chu Chỉ Nhược theo Trương Tam Phong lên núi Võ Đương, Trương Tam Phong thấy núi Võ Đương không có đàn bà, thật là bất tiện nên đưa thư giới thiệu nàng sang đầu nhập làm môn hạ Diệt Tuyệt sư thái. Nàng thiên tư thật là thông tuệ, lại gặp đại biến cha mẹ đều qua đời từ nhỏ, cố gắng học nghệ, tiến bộ thần tốc, được sư phụ hết sức thương yêu. Trong bảy năm qua, mỗi lời nói, mỗi cử động của sư phụ đối với nàng quả như thiên kinh địa nghĩa, trong đầu chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện trái lời, bây giờ nghe sư phụ quát lên, không kịp suy nghĩ, thuận tay cầm luôn thanh kiếm Ỷ Thiên đâm ra, nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ phóng tới.
    Trương Vô Kỵ đâu ngờ rằng nàng lại hạ thủ với mình nên không tránh né, chỉ nháy mắt kiếm đã chạm vào ngực. Chàng giật mình kinh hãi, định tránh qua thì không còn kịp nữa. Chu Chỉ Nhược cổ tay run rẩy, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ mình đâm chết chàng thực sao?”. Trong cơn hoảng loạn, tay hơi chếch qua, trường kiếm lệch sang một bên, nghe soẹt một tiếng nhỏ, kiếm Ỷ Thiên đã đâm vào ngực bên phải Trương Vô Kỵ.
    Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên, vội rút kiếm ra, thấy mũi kiếm đỏ loang, máu từ trên ngực Trương Vô Kỵ vọt ra như suối, bốn bên tiếng xôn xao vang lên. Trương Vô Kỵ giơ tay chặn vết thương, thân hình lảo đảo, thần sắc thật là cổ quái tựa hồ muốn hỏi: “Cô quả thực muốn giết tôi ư?”. Chu Chỉ Nhược lắp bắp:
    - Tôi... tôi...
    Định bước tới xem vết thương cho chàng, nhưng ngần ngừ không dám, sau cùng ôm mặt chạy về. Nàng chỉ một kiếm đã thành công, thật ngoài dự liệu của mọi người. Tiểu Siêu mặt tái nhợt, chen lên đỡ Trương Vô Kỵ luôn mồm gọi:
    - Công tử... công tử...
    Trương Vô Kỵ nhìn Tiểu Siêu hỏi:
    - Cô... cô... cô sao lại muốn giết tôi...
    Nhát kiếm đó cũng may lệch qua, không trúng tim, nhưng cũng làm lá phổi bên phải bị thương nặng. Chàng nói mấy tiếng, phổi không hút được hơi vào, khom lưng ho sù sụ. Chàng bị thương nặng rồi, nhìn không phân biệt được Tiểu Siêu và Chu Chỉ Nhược, máu tươi vẫn tiếp tục vọt ra, ướt đẫm cả một nửa áo trên Tiểu Siêu. Người chung quanh không kể là lục đại môn phái, Minh giáo hay Thiên Ưng giáo nhất thời lặng yên không một tiếng động. Trương Vô Kỵ mới rồi liên tiếp đánh bại cao thủ các phái, võ công cao cường, lòng dạ quảng đại, không kể là bạn hay thù, ai nấy đều ngầm kính phục, bây giờ thấy chàng vô cớ bị Chu Chỉ Nhược đâm một kiếm, không khỏi phẫn nộ, thấy Ỷ Thiên kiếm đâm thẳng vào ngực, thương thế cực kỳ nghiêm trọng, đều tự hỏi không biết nhát kiếm có chí mạng không.
    Tiểu Siêu đở chàng từ từ ngồi xuống, lớn tiếng hỏi:
    - Vị nào có thuốc kim sang tốt không?
    Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm vội vàng bước ra, lấy trong bọc ra một bao thuốc bột, nói:
    - Ngọc Linh Tán của tệ phái là thánh dược trị thương.
    Ông đưa tay xé luôn áo trước ngực Trương Vô Kỵ, thấy vết thương sâu đến mấy tấc, vội đắp Ngọc Linh Tán vào, nhưng máu vẫn túa ra, trôi hết cả thuốc. Không Tính không biết làm sao, vội hỏi:
    - Làm thế nào đây? Làm thế nào đây?
    Vợ chồng Hà Thái Xung cực kỳ bồn chồn, hai người nghĩ mình đã uống phải Kim Tàm trùng độc, nếu như người này trọng thương chết đi, hai vợ chồng không còn ai cho thuốc giải, cũng không thể nào sống được. Hà Thái Xung chen đến trước mặt Trương Vô Kỵ, hỏi gấp:
    - Kim Tàm trùng độc làm sao giải cứu? Nói mau, nói mau.
    Tiểu Siêu khóc nói:
    - Cút ra. Ông hối cái gì? Trương công tử nếu không sống được, mọi người đều chết hết.
    Nếu như bình thời, thân phận cao quí như Hà Thái Xung, đâu có để cho một tiểu tì áo xanh la lối như thế. Thế nhưng lúc này tình hình gấp gáp, y vẫn liên tiếp hỏi gặng:
    - Kim Tàm trùng độc làm sao giải cứu?
    Không Tính cáu quá quát lên:
    - Thiết Cầm tiên sinh, nếu ông không đứng tránh ra, lão nạp sẽ chẳng nể nang gì đâu nhé.
    Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, hơi suy nghĩ, giơ ngón trỏ tay trái điểm luôn bảy nơi huyệt đạo chung quanh vết thương, máu liền chảy chậm lại. Không Tính mừng quá, lập tức đắp luôn Ngọc Linh Tán lên. Tiểu Siêu xé vạt áo, giúp chàng buộc chặt vết thương, thấy Trương Vô Kỵ mặt trắng bệch, không còn chút huyết sắc nào, trong lòng vừa bồn chồn, vừa lo sợ.
    Trương Vô Kỵ lúc này thần trí đã hơi tỉnh táo, ám vận nội tức lưu chuyển, thấy chân khí đi đến ngực bên phải thì bị chặn lại, nghĩ thầm: “Ta còn một hơi thở, quyết không để cho lục đại phái giết một người của Minh giáo”. Chàng liền đem chân khí vận chuyển qua bên trái ngực và bụng vài lần, từ từ đứng lên, nói:
    - Phái Nga Mi, phái Võ Đương nếu còn vị nào không phục tại hạ dàn xếp, xin mời bước ra tỉ thí.
    Chàng nói câu đó, mọi người ai nấy đều kinh hãi, thấy Chu Chỉ Nhược đâm một kiếm lợi hại như thế, vậy mà vẫn dám mở mồm khiêu chiến. Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
    - Phái Nga Mi hôm nay thì đã thua rồi, nếu ngươi không chết, ngày sau thể nào cũng có dịp thanh toán. Chúng ta nay chỉ còn trông vào phái Võ Đương. Công việc này thành hay bại, đều do phái Võ Đương lo liệu cả.
    Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính, năm phái Không Động, Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Côn Lôn, Nga Mi đều đã thua Trương Vô Kỵ rồi, chỉ còn một phái Võ Đương chưa từng giao thủ với chàng. Lúc này chàng đã bị kiếm thương, mười phần chết, một phần sống, không nói gì một cao thủ hạng nhất mà chỉ cần vài người thường đến gây rối, chàng cũng chịu không nổi, thậm chí không cần phải ai ra tay, đợi một lát có thể cũng lăn ra chết rồi. Võ Đương ngũ hiệp bất cứ người nào tiến lên, không phải phí sức cũng có thể giết được chàng, sau đó cứ theo kế sách đã vạch ra mà tru diệt Minh giáo.
    Mọi người đều nghĩ thầm, phái Võ Đương từ trước đến nay vốn rất trọng hai chữ “hiệp nghĩa”, nếu muốn họ ra tay đối phó với một thanh niên đang bị thương nặng ắt thanh danh sẽ bị tổn hại rất lớn, e rằng Võ Đương ngũ hiệp không ai đứng ra đâu. Thế nhưng nếu như phái Võ Đương không chịu ra tay, không lẽ việc “lục đại phái vi công Quang Minh Đính” vang rền võ lâm kia lại cụp đuôi ra về? Như thế thì từ nay trở về sau, sáu đại môn phái còn mặt mũi nào trong giang hồ nữa? Sự chọn lựa quả thực là khó khăn biết bao. Câu nói đó của Diệt Tuyệt sư thái, ý nói hôm nay vinh nhục của sáu đại môn phái, toàn do phái Võ Đương quyết định cả, xem phái Võ Đương có ai dám vì bảo toàn đại cục mà hi sinh thanh danh cá nhân không?
    Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình, Mạc Thanh Cốc năm người nhìn nhau, mặt mày đăm chiêu, không ai dám có chủ ý. Tống Thanh Thư đột nhiên nói:
    - Thưa cha, thưa bốn vị sư thúc, để hài nhi ra lo liệu y cho.
    Võ Đương ngũ hiệp hiểu ngay ý của Tống Thanh Thư, y là hậu bối của phái Võ Đương, nếu có ra tay cũng không làm tổn thương anh danh của ngũ hiệp. Du Liên Châu nói:
    - Không được. Chúng ta để cháu ra tay, có khác gì chính chúng ta ra tay đâu.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Nhị ca, cứ ý kiến của đệ, đại cục là nặng mà tên tuổi năm anh em mình là nhẹ.
    Mạc Thanh Cốc nói:
    - Tên tuổi chỉ là vật ngoại thân, có điều đối phó với một thanh niên trọng thương như thế, lương tâm mình không an.
    Nhất thời bàn cãi không quyết định được, mọi người đưa mắt nhìn Tống Viễn Kiều, chờ ý kiến của ông ta. Tống Viễn Kiều thấy Ân Lê Đình trước sau không nói nột lời, nhưng trên mặt đầy vẻ phẫn nộ, biết rằng người vợ chưa cưới là Kỷ Hiểu Phù bị thất thân vì Dương Tiêu của Minh giáo, khiến cho phải chết, là một đại hận, đại sỉ trong đời, nếu không giết tận Minh giáo, quét sạch gian ác dâm đồ thì làm sao tiêu tan được nỗi niềm đó, nên chậm rãi nói:
    - Ma giáo tác ác biết bao nhiêu, trừ ác phải trừ cho hết, chính là đại tiết của đạo hiệp nghĩa. Thanh danh dĩ nhiên quan trọng rồi, nhưng trước mắt không thể vẹn được cả hai, thành thử chỉ giữ được cái lớn. Thanh Thư, con cẩn thận.
    Tống Thanh Thư khom lưng đáp: “Vâng” đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, lớn tiếng nói:
    - Tăng thiếu hiệp, nếu thiếu hiệp không phải là người trong Minh giáo, vậy thì cứ tự tiện đi khỏi, xuống núi tìm cách dưỡng thương. Lục đại phái chỉ tru diệt tà đồ ma giáo, không liên can gì đến người khác.
    Trương Vô Kỵ tay trái giữ vết thương trên ngực, nói:
    - Đại trượng phu đứng ra lo chuyện khó cho người, đến chết mới thôi. Đa tạ... đa tạ hảo ý của Tống huynh, có điều tại hạ... tại hạ quyết cùng với Minh giáo sống cùng sống chết cùng chết.
    Người trong Minh giáo và Thiên Ưng giáo xôn xao lớn tiếng kêu lên:
    - Tăng thiếu hiệp, thiếu hiệp đối với chúng tôi như thế là hết lòng hết dạ rồi, anh em chúng tôi cảm kích vô cùng. Đến nước này, không cần phải tái đấu nữa.
    Ân Thiên Chính loạng choạng bước đến gần, nói:
    - Họ Tống kia, để lão phu tiếp cao chiêu của ngươi.
    Nào ngờ hơi thở đứt quãng, đầu gối nhũn xuống, ngã phịch trên mặt đất. Tống Thanh Thư nhìn Trương Vô Kỵ nói:
    - Tăng huynh, nếu đã như thế, tiểu đệ chỉ vì đại cục, đành phải đắc tội.
    Tiểu Siêu chặn ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kêu lên:
    - Vậy ngươi giết ta trước đi rồi hãy tính.
    Trương Vô Kỵ nói nhỏ:
    - Tiểu Siêu, sao cô đối với tôi tốt quá như thế?
    Tiểu Siêu nghẹn ngào đáp:
    - Chỉ vì... chỉ vì công tử đối với tôi thật tốt.
    Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn nàng giây lát, nghĩ thầm: “Nếu như mình có chết ngay bây giờ, cũng có một người tri kỷ đối với mình thật hết lòng hết dạ”.
    Tống Thanh Thư quay sang quát Tiểu Siêu:
    - Ngươi mau cút ra chỗ khác.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Sao ngươi đối với vị tiểu cô nương này hung hăng hò hét, thật là vô lễ.
    Tống Thanh Thư giơ tay xô vào vai Tiểu Siêu một cái, đẩy nàng ra mấy bước, nói:
    - Yêu nữ, tà nam, có ra quái gì đâu. Mau đứng dậy, đỡ chiêu của ta.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Lệnh tôn Tống đại hiệp là người khiêm khiêm quân tử, thiên hạ không ai không phục. Các hạ lại thô bạo như thế, cùng ngươi động thủ, chắc chẳng cần... chắc chẳng cần đứng lên đâu.
    Kỳ thực chàng không vận nổi kình lực, biết mình không sao đứng lên được. Trương Vô Kỵ sau khi bị thương, mất hết hơi sức, ai ai cũng đều biết cả. Du Liên Châu lớn tiếng nói:
    - Thanh Thư, điểm huyệt để y không cử động được là đủ, không cần phải giết hắn ta làm gì.
    Tống Thanh Thư đáp:
    - Vâng.
    Tay trái khoát lên lấy đà, tay phải tung ra nhắm ngay đầu vai Trương Vô Kỵ điểm tới. Trương Vô Kỵ ngồi yên, đợi ngón tay y điểm tới huyệt Kiên Trinh, mới dẫn nội lực đi lên, đẩy chỉ lực của y bật ra ngoài. Một chỉ đó của Tống Thanh Thư tưởng như đâm vào nước, không thấy một chút lực khí nào, vì bất ngờ không dự liệu, nên thân hình bổ nhào tới trước, suýt nữa ngã đè lên Trương Vô Kỵ, vội vàng gượng lại, nhưng cũng không khỏi luống cuống.
    Y định thần, đá chân phải lên, nhằm ngay ngực Trương Vô Kỵ đạp tới, ngọn cước đó sử dụng đến sáu, bảy thành công lực. Tuy Du Liên Châu bảo y không nên giết Trương Vô Kỵ, nhưng không hiểu vì sao, trong lòng y đối với thanh niên này đầy thù hận, chẳng phải vì đã mắng y là thô bạo, mà chính vì Chu Chỉ Nhược nhìn chàng bằng cặp mắt đầy trìu mến, thiết tha, tuy sau vâng lệnh thầy đâm chàng một kiếm nhưng sắc mặt thật đau khổ, rõ ràng trong lòng hết sức xót xa.
    Tống Thanh Thư từ khi gặp Chu Chỉ Nhược, mắt như dán vào người nàng, tuy đã hết sức tự chế, không dám nhìn lâu, để người khác khỏi coi y là người khinh bạc, nhưng nhất cử nhất động của nàng, dù khi nhíu mày, khi cười nụ, đều không qua khỏi mắt y, trong lòng chua chát nghĩ thầm: “Sau khi nàng đâm y một kiếm rồi, dù y chết hay y sống, kể từ nay trong lòng nàng sẽ không thể nào quên y được nữa”. Y biết rằng nếu như y đánh chết Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược sẽ cực kỳ oán hận, thế nhưng lửa ghen bốc lên, y không thể nào bỏ qua cơ hội hiếm có này để giết kẻ thù. Tống Thanh Thư văn võ song toàn, lại là nhân vật xuất quần bạt tụy trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Võ Đương, vốn xưa nay chính trực trọng nghĩa, thế nhưng khi vướng vào cái cửa “tình” này, bụng dạ không còn an bình được nữa.
    Mọi người thấy Tống Thanh Thư đá cú ấy, nếu Trương Vô Kỵ không nhảy ra ngoài tránh thì cũng phải giơ tay lên đỡ, thế nhưng chàng gượng ngồi cũng đã cực kỳ khó khăn, xem ra cú đá này thể nào cũng khiến chàng táng mạng. Vừa thấy năm ngón chân chạm vào ngực, năm ngón tay của Trương Vô Kỵ liền phẩy nhẹ, chân Tống Thanh Thư lập tức chuyển hướng, đâm xéo xuống bên cạnh người, chỉ cách Vô Kỵ chừng ba tấc, cú đá đó hóa ra đá vào chỗ không.
    Tống Thanh Thư không cách nào có thể thu chân về, liền tiện đà bước tới một bước, gót chân trái nhắm ngay lưng Trương Vô Kỵ đạp trở lại, chiêu đó vừa nhanh lại vừa ác liệt, là một chiêu số cực kỳ cao minh khó ai liệu nổi. Thế nhưng mấy ngón tay của Trương Vô Kỵ lại phất nhẹ, lập tức đẩy ngay gót chân y ra ngoài.
    Ba chiêu qua, những người chung quanh ai nấy đều lạ lùng. Tống Viễn Kiều kêu lên:
    - Thanh Thư, bản thân y không còn một chút hơi sức nào cả, đây là phép bốn lượng gạt nghìn cân đấy thôi.
    Ông nhãn quang già dặn, nhìn thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn mất hết kình lực, công phu sử dụng có vẻ quái dị, nhưng căn bản cũng không ngoài phương pháp mượn sức đánh sức trong võ học.
    Tống Thanh Thư được cha lên tiếng chỉ bảo, chiêu số liền biến đổi, hai tay nhẹ nhàng phiêu phiêu, khi có khi không đánh ra, chính là Miên Chưởng, một trong những tuyệt học của phái Võ Đương. Tá lực đả lực chính là căn bản võ công của phái Võ Đương nên Miên Chưởng y sử dụng lúc có lúc không chính là để đối phương không có cách nào mượn sức. Thế nhưng Trương Vô Kỵ đã luyện đến Càn Khôn Đại Na Di thần công cấp thứ bảy, Miên Chưởng tuy nhẹ nhàng nhưng vẫn hữu hình hữu kình, tay trái chàng chặn vết thương trên ngực, năm ngón tay phải tưởng như gảy đàn, lúc khẩy lúc xoay, khi búng khi gạt, nửa thân trên hoàn toàn bất động, trong giây lát đã hoàn toàn hóa giải ba mươi sáu chiêu Miên Chưởng của Tống Thanh Thư.
    Tống Thanh Thư hết sức kinh hãi, ngẫu nhiên quay đầu, chạm phải ánh mắt Chu Chỉ Nhược, thấy nàng mặt đầy vẻ lo âu, cảm thấy vừa cay cú vừa tức bực, biết nàng quan thiết không phải cho mình, lập tức hít một hơi dài, tay trái giơ ra tát mạnh mào má Trương Vô Kỵ, tay phải giơ chỉ điểm vào huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai trái. Chiêu đó có tên là Hoa Khai Tịnh Đế, tên dễ nghe như vậy nhưng chiêu số cực kỳ lợi hại, hai tay đánh xong rồi, lập tức tay phải biến thành tát, tay trái biến thành chỉ điểm vào huyệt Khuyết Bồn của vai bên phải. Cả hai chiêu Hoa Khai Tịnh Đế liền lạc thành một, liên tiếp bốn thức đánh ra, tưởng như gió táp mưa sa, thế đạo cực kỳ mãnh liệt, thủ pháp nhanh nhẹn cấp kỳ, quả thật ghê gớm không thể tả. Mọi người trông thấy tình hình như thế ai nấy hoảng hốt kêu lên, không hẹn mà cùng tiến lên một bước.
    Chỉ nghe bốp bốp hai tiếng thật dòn, chưởng trái của Tống Thanh Thư đánh luôn vào má trái của mình, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn vào huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai trái, tiếp theo chưởng phải đánh luôn vào má bên phải, tay trái lại điểm luôn vào huyệt Khuyết Bồn bên phải. Bốn thức của chiêu Hoa Khai Tịnh Đế Tống Thanh Thư đánh ra đều trúng cả, nhưng bị Trương Vô Kỵ dùng Càn Khôn Đại Na Di công phu đẩy ngược lại chính mình. Nếu y đánh ra chậm đi một tí, thì khi huyệt Khuyết Bồn trên vai phải của mình bị điểm rồi, hai chiêu sau không có lực đánh ra, nhưng vì bốn thức liên hoàn, cực kỳ nhanh nhẹn, huyệt bên vai trái tuy đã bị điểm rồi, cánh tay vẫn chưa kịp tê, đến khi sử xong nửa sau của chiêu Hoa Khai Tịnh Đế rồi, bấy giờ chân tay mới nhũn ra, bình một tiếng ngã ngửa, vùng vẫy một hồi mới đứng lên được.
    Tống Viễn Kiều lập tức lao vụt ra, tay trái nắn mấy cái, giải khai huyệt đạo cho con. Chỉ thấy hai bên má y sưng vù, mỗi bên hằn vết năm ngón tay tím bầm, biết y bị thương tuy nhẹ nhưng Tống Thanh Thư tâm cao khí ngạo, hôm nay bị nhục trước mặt mọi người, so với giết y đi còn dễ chịu hơn, thành thử không nói một lời, dắt tay con trở về bản phái.
    Bấy giờ bốn bên tiếng hoan hô nổi lên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, bàn tán khen ngợi xôn xao, nghe ù cả tai. Đột nhiên Trương Vô Kỵ há hốc mồm, ọc ra một ngụm máu tươi, tay chặn ngực ho lên sù sụ. Mọi người chăm chăm nhìn chàng, hết sức lo lắng, nghĩ thầm: “Y sau khi bị thương nặng rồi còn phải cố gắng chống đỡ thế tấn công như bão táp của Tống Thanh Thư, tuy đắc thắng, nhưng nội lực tiêu hao rất nhiều”. Có người nhìn chàng, rồi lại nhìn phái Võ Đương, không biết đã chịu thua chưa, hay vẫn cử người khác ra đấu tiếp.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Việc ngày hôm nay, phái Võ Đương cũng đã tận lực rồi, chắc rằng ma giáo khí số chưa dứt, nên trời mới sai một thanh niên kỳ quái xuống đây. Nếu còn tiếp tục đấu dây dưa mãi, danh môn chính phái và ma giáo có khác gì nhau?
    Du Liên Châu nói:
    - Đại ca nói đúng lắm. Bọn ta hôm nay lập tức quay về núi, xin sư phụ chỉ điểm thêm. Ngày sau phái Võ Đương có dịp quay lại, đợi thanh niên này thương thế khỏi rồi, tái quyết thắng phụ.
    Mấy câu đó ông nói thật quang minh lỗi lạc, hào khí ngùn ngụt, hôm nay tuy thua, nhưng không tin là phái Võ Đương tài nghệ lại chịu kém người. Trương Tùng Khê và Mạc Thanh Cốc cũng nói:
    - Quả đúng như thế.
    Bỗng nghe soạt một tiếng, Ân Lê Đình đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, đôi mắt rưng rưng, hung hăng tiến tới, mũi kiếm chỉ vào Trương Vô Kỵ, nói:
    - Họ Tăng kia, ta và ngươi vô oán vô cừu, nếu bây giờ ra tay giết ngươi, Ân Lê Đình này không đáng xưng là “hiệp nghĩa”. Thế nhưng Dương Tiêu và ta thù sâu như bể, ta không giết y không xong, ngươi đứng tránh ra.
    Trương Vô Kỵ lắc đầu:
    - Vãn bối còn một hơi thở, quyết không để ai giết một người nào của Minh giáo.
    Ân Lê Đình nói:
    - Nếu thế ta phải giết ngươi trước.
    Trương Vô Kỵ lại hộc ra một ngụm máu, thần trí hôn mê, tâm tình khích động, thều thào nói:
    - Ân lục thúc, lục thúc giết cháu đi.
    Ân Lê Đình nghe thấy ba tiếng “Ân lục thúc” giọng điệu cực kỳ quen thuộc, trong đầu chợt lóe lên: “Vô Kỵ khi còn bé vẫn thường gọi ta như thế, thanh niên này...”. Ông chăm chăm nhìn chàng, càng nhìn càng thấy giống, tuy xa cách đã chín năm, Trương Vô Kỵ từ một đứa bé nay thành một thanh niên tráng kiện, tướng mạo đã thay đổi rất nhiều, nhưng trong lòng Ân Lê Đình đã nghĩ rằng “không lẽ đây là cháu Vô Kỵ”, nên khi nhìn kỹ, từng điểm từng điểm khuôn mặt xưa kia của Vô Kỵ hiện ra, giật mình run run kêu lên:
    - Ngươi... ngươi là Vô Kỵ đấy ư?
    Trương Vô Kỵ toàn thân không còn một chút khí lực, biết mình sắp chết đến nơi, không còn gì để phải dấu diếm, kêu lên:
    - Ân lục thúc, cháu... cháu lúc nào cũng... nhớ tới chú.
    Ân Lê Đình nước mắt ròng ròng, nghe keng một tiếng ném luôn thanh kiếm, cúi xuống bế ngay chàng lên, kêu lớn:
    - Ngươi là Vô Kỵ, ngươi là cháu Vô Kỵ, ngươi là thằng cháu con của ngũ ca Trương Vô Kỵ.
    Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc bốn người lập tức vây quanh, vừa mừng vừa sợ. Trong giây lát ai nấy đều hết sức hoan hỉ, bao nhiêu thù hận tranh chấp của sáu đại môn phái và Minh giáo đều biến mất. Tiếng kêu của Ân Lê Đình, trừ vợ chồng Hà Thái Xung, Chu Chỉ Nhược, Dương Tiêu vài người, những người khác ai nấy đều kinh ngạc, ai dám ngờ kẻ xả mệnh cứu Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương Thúy Sơn phái Võ Đương.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:55:18 | Chỉ xem của tác giả
Ân Lê Đình thấy Trương Vô Kỵ đã ngất đi, vội vàng lấy ra một viên Thiên Vương Hộ Tâm Đơn nhét vào miệng chàng, đưa cho Du Liên Châu bế, nhặt trường kiếm lên, xông đến trước mặt Dương Tiêu, chỉ vào mặt mắng:
    - Họ Dương kia, ngươi là một dâm đồ không bằng loài cầm thú, ta... ta...
    Chàng nghẹn lời, không chửi thêm được nữa, trường kiếm vung ra, định đâm vào ngực Dương Tiêu. Dương Tiêu không thể cử động được, mỉm cười, nhắm mắt chờ chết. Đột nhiên bên cạnh một thiếu nữ chạy vụt ra, chắn ngay trước mặt Dương Tiêu, kêu lên:
    - Đừng giết cha tôi.
    Ân Lê Đình ngừng kiếm lại không đâm tới, nhìn kỹ, đột nhiên “A” lên một tiếng, toàn thân run rẩy, thấy cô gái nọ thân hình mảnh mai, mắt to mày dài, chính là Kỷ Hiểu Phù chứ ai đâu.
    Từ khi chàng dự tính kết thân với Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi luyện võ có chút thì giờ thong thả, trong đầu lại êm đềm tơ tưởng đến hình ảnh yêu kiều của người vị hôn thê. Về sau khi nghe tin nàng bị Dương Tiêu bắt cóc, thất thân cùng y, lại vì đó mà táng mạng, trong lòng phẫn uất không nói cùng ai được; bây giờ đột nhiên gặp lại nàng, thân hình loạng choạng, kêu lên thất thanh:
    - Hiểu Phù muội tử, em... em...
    Người con gái đó chính là Dương Bất Hối, nói:
    - Tôi họ Dương, Kỷ Hiểu Phù là mẹ tôi, bà ấy chết lâu rồi.
    Ân Lê Đình sững sờ, bấy giờ mới hiểu, lẩm bẩm:
    - Ừ, đúng rồi, tôi thật hồ đồ. Cô tránh ra, hôm nay tôi vì mẹ cô mà báo thù rửa hận.
    Dương Bất Hối chỉ Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Hay lắm! Ân thúc thúc, chú lại giết lão tặc ni kia đi.
    Ân Lê Đình lắp bắp:
    - Sao... sao lại thế?
    Dương Bất Hối đáp:
    - Mẹ tôi bị lão tặc ni đánh một chưởng chết đó.
    Ân Lê Đình nói:
    - Nói nhăng nói cuội nào. Cô là trẻ con biết gì đâu?
    Dương Bất Hối lạnh lùng đáp:
    - Hôm xưa ở Hồ Điệp Cốc, lão tặc ni sai mẹ tôi đi giết cha tôi, mẹ tôi không chịu, lão tặc ni liền đánh chết mẹ tôi. Chính mắt tôi trông thấy, Vô Kỵ ca ca cũng trông thấy. Nếu chú không tin, sao không tự mình lại hỏi lão tặc ni thử xem.
    Khi Kỷ Hiểu Phù chết, Dương Bất Hối còn nhỏ không hiểu chuyện gì, nhưng về sau lớn lên, nghĩ lại tự nhiên hiểu được chuyện năm xưa. Ân Lê Đình quay đầu lại, nhìn Diệt Tuyệt sư thái, nét mặt ngờ vực, ấp úng hỏi:
    - Sư thái... cô ta nói... Kỷ cô nương bị...
    Diệt Tuyệt sư thái giọng khàn khàn đáp:
    - Đúng vậy, thứ nghiệt đồ vô liêm sỉ đó, để sống trên đời này làm gì? Nó với Dương Tiêu hai người tình ý với nhau, phản bội sư môn, không nghe lệnh thầy đi giết tên dâm đồ ác tặc. Ân lục hiệp, vì muốn giữ thể diện cho lục hiệp, ta trước sau cố nhịn không nói ra. Hừ, thứ con gái vô sỉ đó, sao lục hiệp vẫn canh cánh không quên là sao?
    Ân Lê Đình mặt tái đi, lớn tiếng kêu:
    - Ta không tin, ta không tin.
    Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Ông hỏi con bé kia xem, tên nó là gì?
    Mắt Ân Lê Đình chuyển qua nhìn Dương Bất Hối, nước mắt chan hòa, mông lung chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù, tai nghe rõ ràng tiếng nàng nói:
    - Tôi tên Dương Bất Hối. Mẹ tôi bảo rằng, chuyện này mẹ tôi không bao giờ hối hận cả.
    Keng một tiếng, Ân Lê Đình ném trường kiếm xuống đất, quay người lại, hai tay ôm mặt chạy xuống núi. Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu cùng gọi:
    - Lục đệ, lục đệ.
    Thế nhưng Ân Lê Đình không trả lời, cũng chẳng quay đầu, đề khí chạy thật nhanh, bỗng nhiên xẩy chân vấp một cái, lại đứng dậy, chỉ giây lát không còn thấy bóng dáng đâu nữa.
    Chuyện của chàng và Kỷ Hiểu Phù mọi người ai cũng nghe qua, biết đến, thấy việc đã hơn mười năm mà vẫn còn thương tâm như vậy, không khỏi đau lòng dùm, võ công như Ân lục hiệp của phái Võ Đương, lẽ nào lại chạy có thể vấp được? Chẳng qua chỉ vì ý loạn tình mê, mất hồn mất vía mà ra cớ sự.
    Bấy giờ Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc bốn người ngồi bốn phía, mỗi người giơ một chưởng ra, đè lên bụng ngực, lưng eo bốn nơi đại huyệt của Trương Vô Kỵ vận nội công giúp chàng trị thương. Bốn người vừa nhả nội lực, thấy trong thân thể chàng có một sức hút rất mạnh, cuồn cuộn tuôn ra. Bốn người kinh hãi, nghĩ thầm nếu cứ tiếp tục bị hút như thế, chỉ trong một hai giờ, không ai còn chút nội lực nào nữa. Thế nhưng chưa biết chàng sống chết ra sao, biết làm thế nào cho phải? Còn đang phân vân, Trương Vô Kỵ từ từ mở mắt ra, kêu “A” lên một tiếng. Cả bọn Tống Viễn Kiều thấy giật một cái, lòng bàn tay có một luồng hơi ấm, chính là Cửu Dương thần công của chàng đang truyền ngược lại cho bốn người.
    Tống Viễn Kiều kêu lên:
    - Không được đâu, cháu tĩnh dưỡng cho mình cần hơn.
    Bốn người vội rụt tay về đứng lên, thấy như có một dòng suối chạy quanh cơ thể, khoan khoái vô cùng, hiển nhiên không những chàng đã trả lại nội lực đã mượn, mà chân khí Cửu Dương còn tuôn vào, tăng cường nội lực cho họ nữa. Cả bọn ngơ ngác đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc thầm, thấy chàng bị thương tưởng chết, không ngờ nội lực vẫn còn hồn hậu mạnh mẽ đến thế.
    Đến lúc này, Trương Vô Kỵ ngoại thương tuy nặng, nội tức đã lưu chuyển như thường, từ từ đứng lên, nói:
    - Tống đại bá, Du nhị bá, Trương tứ bá, Mạc thất thúc, xin tha cho điệt nhi tội vô lễ. Chẳng hay thái sư phụ lão nhân gia phúc thể có an khang chăng?
    Du Liên Châu đáp:
    - Sư phụ lão nhân gia vẫn mạnh khỏe. Vô Kỵ, cháu... cháu... lớn quá rồi...
    Nói đến đây, trong đầu tuy có trăm nghìn điều muốn nói, nhưng nghẹn ngào không nên lời, chỉ nở một nụ cười, nước mắt long lanh chạy quanh.
    Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính thấy đại ân nhân cứu mạng cho mình lại chính là đứa cháu ngoại, cao hứng quá cười lên ha hả, nhưng vẫn không cách nào đứng lên được. Diệt Tuyệt sư thái mặt tím ngắt, phất tay một cái, lập tức dẫn quần đệ tử phái Nga Mi xuống núi.
    Chu Chỉ Nhược cúi đầu đi mấy bước, sau cùng không nhịn nổi phải liếc Trương Vô Kỵ một cái. Trương Vô Kỵ lúc ấy cũng nhìn theo tiễn nàng, ánh mắt hai người gặp nhau, đôi má trắng bệch của Chu Chỉ Nhược liền đỏ bừng lên, nhãn quang dường như muốn nói: “Em đâm chàng một kiếm bị thương nặng như thế, thật đáng tội biết bao nhiêu, chàng cố gắng bảo trọng thân thể”. Trương Vô Kỵ dường như cũng hiểu ý nàng, nhè nhẹ gật đầu. Chu Chỉ Nhược lập tức mặt mày sáng rỡ, thần thái phi dương, vội quay lại rảo bước ra đi.
    Phái Võ Đương và Trương Vô Kỵ nhận ra nhau rồi, kế đến phái Nga Mi bỏ đi, công việc vi tiễu Minh giáo của lục đại môn phái không nói mà tan. Phái Không Động, phái Hoa Sơn kẻ khiêng người chết, dìu người bị thương cũng lục tục xuống núi.
    Hà Thái Xung tiến lên mấy bước, ấp úng nói:
    - Tiểu huynh đệ, chúc mừng huynh đệ và người thân gặp lại a...
    Trương Vô Kỵ không đợi ông ta nói hết câu, móc trong túi ra hai viên thuốc trừ lam sơn, chướng khí, khứ uế tầm thường, đưa cho ông ta, dặn:
    - Xin hiền phu phụ mỗi người uống một viên, Kim Tàm trùng độc sẽ tiêu giải.
    Hà Thái Xung nhận hai viên thuốc, chỉ thấy màu đen xì chẳng đẹp chút nào, không tin rằng có thể tiêu trừ được thiên hạ chí độc Kim Tàm trùng. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tại hạ đã nói tiêu giải được, thì tiêu giải được.
    Tiếng nói của chàng tuy còn yếu ớt, nhưng trận chiến trên đỉnh Quang Minh trấn nhiếp cả sáu môn phái, trong khí độ đó tự nhiên giọng nói có một vẻ uy nghiêm, khiến Hà Thái Xung không thể không tin. Y nghĩ thầm: “Nếu y nói láo, thuốc này không tiêu giải được trùng độc thì có Võ Đương tứ hiệp ở đây, cũng không thể nào ép y cho mình thuốc thật được. Huống chi thêm lão trọc Không Tính của phái Thiếu Lâm lại có vẻ như bênh gã này, hôm nay chỉ đành chịu vậy biết sao hơn”. Nghĩ thế đành cười gượng nói:
    - Cám ơn.
    Chia cho Ban Thục Nhàn mỗi người uống một viên, chỉ huy môn nhân đệ tử thu thập người chết, cáo từ hạ sơn.
    Du Liên Châu nói:
    - Vô Kỵ, cháu bị thương nặng không thể xuống núi, tốt hơn hết là ở đây điều dưỡng, bọn ta không thể ở lại với cháu được. Bao giờ khỏi rồi thì đi về núi Võ Đương một chuyến, để sư phụ gặp lại cháu cho người được vui.
    Trương Vô Kỵ nuốt nước mắt gật đầu. Mỗi người có biết bao nhiêu chuyện cần hỏi, bao nhiêu điều cần nói, nhưng thấy chàng thần tình ủ rũ, biết rằng nói thêm một câu chỉ làm thương thế chàng nặng thêm một chút, nên đành nhịn không ai mở lời.
    Bỗng nghe từ phái Thiếu Lâm có người lớn tiếng kêu lên:
    - Thi thể Viên Chân sư huynh đâu mất rồi?
    Lại có người tiếp theo:
    - Lạ nhỉ, sao không thấy pháp thể Viên Chân sư bá đâu?
    Mạc Thanh Cốc cảm thấy lạ lùng, bước qua xem thử, thấy bảy tám xác nhà sư chết trong khi giao chiến thu thập tại đó, quả nhiên không thấy Viên Chân đâu. Viên Âm chỉ vào giáo chúng Minh giáo, lớn tiếng quát:
    - - Mau đem pháp thể Viên Chân sư huynh giao ra ngay, nếu không hòa thượng này nổi khùng lên, cho một mồi lửa thì chúng bay thành tro hết.
    Chu Điên cười:
    - Ha ha, ha ha! Thật là tức cười quá đỗi. Đến thằng trọc sống là ngươi bọn ta chẳng cần, thì lấy hòa thượng chết để làm gì? Chẳng lẽ làm như con lợn con dê, mổ ra lấy xương gặm hay sao?
    Người của phái Thiếu Lâm nghĩ cũng phải, hơn một chục nhà sư liền tản ra tìm kiếm nhưng không ai thấy thi thể Viên Chân đâu. Mọi người tuy lạ lùng, nhưng chắc có lẽ phái Hoa Sơn, Không Động khi thu thập đệ tử bản môn đã lấy nhầm xác Viên Chân, nên cũng không kiếm thêm nữa.
    Sau đó hai phái Võ Đương, Thiếu Lâm lần lượt xuống núi. Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, khom lưng tiễn đưa. Tống Viễn Kiều nói:
    - Vô Kỵ hài nhi, cuộc chiến hôm nay, tên tuổi con đã vang khắp thiên hạ, đối với Minh giáo ân trọng như sơn. Cháu từ nay nên khuyên răn dẫn dắt, làm sao cho Minh giáo cải tà qui chính, bớt làm điều xằng bậy.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Hài tử xin ghi nhớ lời giáo huấn của sư bá, sẽ hết sức để làm chuyện ấy.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Con phải hết sức cẩn thận, mọi việc đề phòng tiểu nhân gian ác.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Xin vâng.
    Chàng và Võ Đương tứ hiệp xa cách lâu ngày, nay mới gặp lại chia tay ngay, năm người ai nấy lưu luyến không muốn rời.
    Dương Tiêu và Ân Thiên Chính đợi cho mọi người của sáu môn phái đi rồi, đưa mắt nhìn nhau, cùng nói:
    - Toàn thể giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo, rập đầu tạ ơn Trương đại hiệp hộ giáo cứu mạng.
    Chỉ trong khoảnh khắc, toàn thể mọi người cùng quì xuống đầy cả mặt đất. Trương Vô Kỵ thấy thế chân tay quýnh quáng, huống chi trong đó lại có cả ông ngoại và cậu mình, vội vàng quì xuống hoàn lễ. Chàng hành động gấp gáp, vết thương trên ngực lại bung ra, miệng phun ra mấy ngụm máu, lập tức ngất đi.
    Tiểu Siêu vội tiến lên đỡ dậy. Hai đầu mục không bị thương trong số giáo chúng liền mang lên một cái giường vải, để chàng nằm lên. Dương Tiêu nói:
    - Mau đưa Trương đại hiệp vào phòng ta tĩnh dưỡng.
    Hai tên đầu mục khom lưng vâng lệnh, đưa Trương Vô Kỵ vào phòng của Dương Tiêu. Tiểu Siêu lẽo đẽo theo sau, khi qua trước mặt Dương Bất Hối, Dương Bất Hối lạnh lùng nói:
    - Tiểu Siêu, ngươi giả vờ thật khéo. Ta đã biết ngươi có điều gì khác lạ, chỉ không ngờ một người xấu như ma hóa ra lại là một tiểu mỹ nhân thiên kiều bách mị.
    Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Trong mấy ngày liền, giáo chúng Minh giáo lo chuyện ma chay chữa trị, bận rộn đủ mọi chuyện. Qua một trận đại chiến tưởng chừng cả bọn phải bỏ mình, ai nấy đều thấy chuyện tranh giành chém giết nhau trước đây để cho người ngoài khai thác quả là không phải. Ai ai cũng lo cho thương thế của Trương Vô Kỵ, không người nào dám nhắc lại thù xưa, chỉ yên ổn nằm dưỡng thương trên Quang Minh Đính.
    Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ đã thành, tuy vết thương có nặng thật, nhưng khi Chu Chỉ Nhược đâm vào lệch qua mấy tấc, chỉ trúng lá phổi mà không trúng tim, thành ra chỉ tĩnh dưỡng bảy tám ngày thì miệng vết kiếm đã dần dần khép lại. Bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cũng phải nằm trên cáng vải, ngày nào cũng cho người khiêng vào thăm nom, thấy chàng càng ngày càng khá thêm ai nấy đều mừng rỡ.
    Đến ngày thứ tám, Trương Vô Kỵ đã ngồi dậy được. Buổi chiều hôm đó, Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu lại đến hỏi thăm, Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Hai vị từ khi trúng phải Huyễn Âm Chỉ đến giờ, mấy hôm nay thấy sao?
    Dương Vi hai người ngày nào cũng bị hàn độc thấu xương dày vò khổ sở, thương thế xem ra mỗi lúc một nặng nhưng sợ chàng lo lắng nên cùng đáp:
    - Xem ra đỡ nhiều.
    Trương Vô Kỵ thấy hai người mặt xám ngoét, nói năng thều thào yếu ớt nói:
    - Nội lực của cháu đã hồi phục được sáu, bảy phần, để cháu thử trị cho hai vị xem sao.
    Dương Tiêu vội nói:
    - - Chớ, chớ nên! Trương đại hiệp làm gì mà gấp gáp thế? Đợi khi nào quí thể hoàn toàn khỏi hẳn, lúc đó hãy chữa cho chúng tôi cũng không muộn. Bây giờ sử lực quá sớm, vết thương quay trở lại, chúng tôi sao an lòng?
    Vi Nhất Tiếu nói:
    - Chữa sớm hay muộn đâu phải chỉ vài ngày. Trương đại hiệp tĩnh dưỡng mới là quan trọng.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Oâng ngoại cháu Ưng Vương, nghĩa phụ cháu Sư Vương đều ngang vai với hai vị, hai vị là bề trên của cháu, nếu còn gọi “đại hiệp” gì gì đó, điệt nhi đâu có dám nhận.
    Dương Tiêu mỉm cười nói:
    - Sau này chúng tôi đều là thuộc hạ của đại hiệp, ở trước mặt ngài đến ngồi cũng không được ngồi, đâu dám nói chuyện vai trên, vai dưới.
    Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi lại:
    - Dương bá bá nói thế là sao?
    Vi Nhất Tiếu đáp:
    - Trương đại hiệp, trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, nếu không do ngài đảm trách, thì còn ai vào đây nữa?
    Trương Vô Kỵ hoảng hốt xua tay, nói ngay:
    - - Ấy chết, chuyện đó không thể được, nhất quyết không thể được.
    Ngay lúc đó, từ hướng đông có tiếng còi lanh lảnh chói tai xa xa truyền đến, chính là tín hiệu dưới chân Quang Minh Đính có việc phải báo động. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Không lẽ lục đại môn phái thua nhưng chưa phục, quay lại đánh nữa hay sao?”. Thế nhưng mặt hai người vẫn trấn tĩnh như thường, Dương Tiêu hỏi:
    - Hôm qua nhân sâm ăn có vừa miệng không? Tiểu Siêu, ngươi trở lại dược thất lấy thêm, sắc cho Trương đại hiệp dùng.
    Lại nghe phía tây và phía nam tiếng còi cùng nổi lên, Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Có ngoại địch đến tấn công ư?
    Vi Nhất Tiếu nói:
    - Bản giáo và Thiên Ưng giáo không thiếu hảo thủ, Trương đại hiệp không phải quan tâm, vài tên giặc cỏ có đáng gì đâu?
    Thế nhưng chỉ trong giây lát, tiếng còi nổi lên càng gần, địch nhân tiến vào thật nhanh, hiển nhiên chẳng phải chỉ là giặc cỏ. Dương Tiêu nói:
    - Để tôi ra sắp xếp, Vi huynh ở trong này bồi tiếp Trương đại hiệp. Ha ha, Minh giáo không lẽ tệ hại đến nỗi ai ai cũng có thể khinh khi được hay sao?
    Ông ta tuy bị thương nặng không cử động nổi, nhưng trong giọng vẫn đầy hào khí. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thiếu Lâm, Nga Mi là danh môn chính phái, nhất quyết không thể bất kể tín nghĩa, quay lại báo thù. Kẻ đến đây ắt là bọn gian ác, tàn nhẫn, trên Quang Minh Đính cao thủ đều bị trọng thương, trong bảy tám ngày qua đâu đã ai khỏi, không thể nào chống lại ngoại địch cho nổi, nếu như miễn cưỡng xuất chiến, chỉ uổng mạng mà thôi”.
    Đột nhiên bên ngoài có bước chân rầm rập, một người chạy vào, mặt đầy máu, trên ngực còn cắm một con dao găm, kêu lên:
    - Địch nhân từ ba mặt... đánh lên trên núi... anh em không... không chống nổi...
    Vi Nhất Tiếu hỏi lại:
    - Địch nhân nào thế?
    Người kia chỉ tay ra ngoài, đang định nói gì, bỗng ngã sấp mặt xuống, chết rồi. Lại nghe tiếng còi kêu gọi cứu viện, chỗ này ngừng thì chỗ kia nổi lên, rõ ràng tình hình thật là cấp bách.
    Lại có thêm hai người chạy đến, Dương Tiêu nhận ra người đi trước là chưởng kỳ phó sứ Hồng Thủy Kỳ, trên mình đầy máu, mặt mày gớm ghiếc như ma quỉ nhưng vẫn có vẻ trấn tĩnh, hơi cúi mình, bẩm:
    - Trương đại hiệp, Dương tả sứ, Vi pháp vương, bên dưới chân núi đến tấn công là nhân vật trong Cự Kình Bang, phái Hải Sa, Thần Quyền Môn các lộ.
    Dương Tiêu lông mày nhướng lên, hừ một tiếng nói:
    - Mấy tên nhãi nhép đó mà cũng dám coi thường mình sao?
    Chưởng kỳ phó sứ đáp:
    - Địch nhân vốn không có gì lợi hại, có điều anh em hầu hết đều mang thương tích...
    Y nói đến đây, Lãnh Khiêm, Thiết Quan đạo nhân Trương Trung, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên năm người lục tục do người khiêng đến. Chu Điên hổn hển quát lớn:
    - Bọn Cái Bang giỏi thật, dám cấu kết với Tam Môn Bang, Vu Sơn Bang đến đây cháy nhà hôi của, Chu Điên này còn một hơi thở, cùng chúng nó suốt đời không...
    Y nói đến đây, hai cha con Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương cũng chống gậy, tiến vào phòng. Ân Thiên Chính nói:
    - Vô Kỵ hài nhi, cháu cứ ngủ đi đừng lo gì cả. Con mẹ nó chứ hai cái môn phái bé tí teo là Ngũ Phụng Đao và Đoạn Hồn Thương mà cũng dám coi chúng ta không ra gì ư?
    Trong đám ở đây, trong Minh giáo thì Dương Tiêu có địa vị cao nhất, còn Ân Thiên Chính là giáo chủ của Thiên Ưng giáo, Bành Oánh Ngọc là người mưu trí hơn cả, ba người bình sinh gặp không biết bao nhiêu phong ba bão táp, lần nào cũng tùy cơ mà ứng xử, chuyển nguy thành an, thế nhưng trước mặt hãm vào tuyệt cảnh, mọi người ai nấy trọng thương, kẻ địch lại đến đánh, không nói gì những bang hội môn phái khác, riêng Cái Bang vốn là đệ nhất đại bang trên giang hồ, trong bang rất nhiều nhân tài, thanh thế thật không phải nhỏ, xem ra chỉ còn nước bó tay chịu chết. Lúc này ai ai đều coi Trương Vô Kỵ như giáo chủ, không hẹn mà cùng nhìn chàng mong đưa ra kế lạ giải quyết cảnh ngộ khó khăn.
    Trương Vô Kỵ trong giờ phút ấy, trong đầu xoay chuyển bao nhiêu ý niệm. Chàng biết rằng tuy võ công so với Dương Tiêu, ông ngoại, Vi Nhất Tiếu mình có giỏi hơn, nhưng kiến thức mưu kế, những cao thủ kia đương nhiên hơn chàng rất nhiều, nếu họ không có kế hay, thì mình làm sao có thể có được biện pháp lạ cho được. Còn đang suy nghĩ, đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vội buột miệng nói ngay:
    - Bọn mình tạm thời chui xuống bí đạo trốn tránh, địch nhân chưa chắc đã phát giác được, nếu có tìm ra, nhất thời chưa chắc đã đánh vào được.
    Chàng nghĩ ra kế đó, tự cảm thấy đây là cách tốt nhất trong lúc này, giọng đầy hào hứng, nào ngờ mọi người ai nấy ngơ ngẩn nhìn nhau, không ai lên tiếng phụ họa, dường như đều cho rằng phương pháp đó không thể nào thi hành được. Trương Vô Kỵ nói:
    - Đại trượng phu khi co khi duỗi, bọn mình chỉ tạm thời trốn tránh, đợi khi thương thế khỏi rồi sẽ cùng địch nhân một phen sống mái, cái đó cũng không có gì gọi là mất uy danh.
    Dương Tiêu nói:
    - Kế của Trương đại hiệp hay lắm.
    Oâng ta quay lại nói với Tiểu Siêu:
    - Tiểu Siêu, ngươi đỡ Trương đại hiệp vào đường hầm đi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tất cả mình cùng vào.
    Dương Tiêu đáp:
    - Mời Trương đại hiệp vào trước, chúng tôi sẽ đi sau.
    Trương Vô Kỵ nghe giọng điệu của ông ta, biết họ sẽ không đi cùng, chẳng qua nói thế để mình đi đấy thôi, lớn tiếng nói:
    - Các vị tiền bối, cháu tuy không phải người trong quí giáo, nhưng đã cùng quí giáo qua chung một phen hoạn nạn, có thể nói l à sinh tử chi giao. Không lẽ cháu lại là người tham sống sợ chết, bỏ các vị lại, một mình mình đi lánh nạn hay sao?
    Dương Tiêu đáp:
    - Trương đại hiệp có điều chưa hiểu rõ, Minh giáo trước nay truyền lại nghiêm qui, cái bí đạo trên Quang Minh Đính này, ngoại trừ giáo chủ ra, các giáo chúng bản giáo không một ai được vào cả, ai vào thì mang tội chết. Đại hiệp và Tiểu Siêu không thuộc Minh giáo, nên không phải giữ cái qui củ này.
    Bấy giờ nghe văng vẳng tiếng kêu la chém giết từ bốn phương tám hướng truyền đến. Cũng may là đường đi trên Quang Minh Đính đều khó khăn, địa thế hiểm trở, chỗ nào cũng có cửa đá, khóa sắt, tuy Minh giáo không chống cự kịch liệt, kẻ đến tấn công cũng không dễ dàng vượt qua được. Lại thêm danh tiếng Minh giáo rất lớn, địch nhân vẫn còn e dè, không dám khinh suất tiến vào. Thế nhưng tiếng kêu la hò hét, xem chừng mỗi lúc một gần thêm. Đột nhiên nghe thấy từ xa vọng về mấy tiếng kêu rống lên khi sắp chết, hiển nhiên giáo chúng Minh giáo đã kiệt lực ngự địch, đến lúc này đang bị chém giết.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nếu không trốn tránh, chỉ e trong một giờ nữa thôi, Minh giáo trên dưới không còn ai sống sót”. Nghĩ thế bèn nói:
    - Cái qui củ không được đi vào bí đạo này, không lẽ không thay đổi được hay sao?
    Dương Tiêu mặt mày sầu thảm, buồn bã lắc đầu. Bành Oánh Ngọc đột nhiên nói:
    - Các vị nghe tôi một lời: Trương đại hiệp võ công cái thế, nghĩa khí ngất trời, có đại ân mất còn sống chết với bản giáo. Chúng ta ủng hộ Trương đại hiệp lên làm giáo chủ đời thứ ba mươi tư của bản giáo. Nếu như giáo chủ ra lệnh, cho phép mọi người tiến nhập bí đạo, lúc đó tất cả chúng ta tuân lệnh giáo chủ, như thế không ai vi phạm giáo qui nữa.
    Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu ai ai cũng đã có ý tôn Trương Vô Kỵ lên làm giáo chủ, nay nghe Bành hòa thượng nói thế, đều gật đầu khen hay. Trương Vô Kỵ vội vàng xua tay, nói:
    - Tiểu tử tuổi còn nhỏ, kiến thức nông cạn, không tài không đức, đâu có dám đảm đương trách nhiệm lớn lao như thế? Lại thêm thái sư phụ cháu là Trương chân nhân năm xưa đã từng căn dặn, bảo cháu không được gia nhập Minh giáo, tiểu tử đã vâng dạ rồi. Lời của Bành đại sư thật vạn lần không dám.
    Ân Thiên Chính nói:
    - Ta là ông ngoại của cháu, bảo cháu gia nhập Minh giáo. Dẫu rằng ông ngoại sao thân bằng thái sư phụ được, chung qui thì cũng kẻ tám lạng, người nửa cân, lời của Trương chân nhân và của ta coi như ngang nhau đều không còn gì nữa, cứ xem như chưa ai từng nói gì. Gia nhập hay không gia nhập Minh giáo, toàn do cháu tự quyết định cả.
    Ân Dã Vương cũng nói:
    - Lại thêm một người cậu nữa không lẽ chẳng thêm một phần phân lượng nào ư? Người đời nói rằng, thấy cậu khác gì thấy mẹ. Mẹ cháu nay không còn nữa, ta có khác gì mẹ cháu đâu.
    Trương Vô Kỵ nghe ông ngoại và cậu nói thế, trong lòng khó nghĩ, nói:
    - Năm xưa Dương giáo chủ có một di thư, cháu lấy trong đường hầm ra, vốn định khi mọi người bị thương khỏi rồi sẽ đưa cho xem. Dương giáo chủ di mệnh cho nghĩa phụ cháu Kim Mao Sư Vương tạm nhiếp quyền giáo chủ.
    Nói xong chàng lấy trong túi ra tờ thư của Dương Đính Thiên, giao lại cho Dương Tiêu. Bành Oánh Ngọc nói:
    - Trương đại hiệp, đại trượng phu gặp lúc đại biến, không nề tiểu tiết. Tạ Sư Vương là nghĩa phụ của ngài, cũng có khác gì cha ruột, xưa nay con kế nghiệp cha, Tạ Sư Vương không có ở đây, vậy xin đại hiệp cứ theo di ngôn của Dương giáo chủ, tạm nhiếp chức giáo chủ.
    Mọi người cùng nói:
    - Nói thế đúng lắm.
    Trương Vô Kỵ nghe thấy tiếng chém giết càng gần thêm, trong bụng càng thêm gấp rút, nhất thời không biết tính sao, nghĩ thầm: “Hiện tại chuyện cứu người là quan trọng, chuyện khác tính sau”. Chàng bèn lớn tiếng nói:
    - Các vị nếu như đã có lòng thương như thế, tiểu tử nếu không vâng lời ắt sẽ thành đại tội nhân của Minh giáo. Tiểu tử Trương Vô Kỵ, tạm nhiếp chức vị giáo chủ Minh giáo, qua khỏi khó khăn hôm nay rồi, lúc ấy xin các vị sẽ tuyển người hiền năng khác.
    Mọi người cùng lớn tiếng hoan hô, tuy đại địch đã đến gần, họa như lửa cháy lông mày, nhưng ai nấy đều vui sướng hiện ra nét mặt. Ai nấy nghĩ rằng từ khi tiền giáo chủ Dương Đính Thiên bất ngờ mất đi, không ai thống suất, một đại giáo phái trên giang hồ trở nên tàn sát lẫn nhau, chia năm xẻ bảy. Kẻ gác đi mọi chuyện đứng ngoài cũng có, kẻ tự mình lập thành môn hộ cũng có, kẻ lại làm điều sằng bậy cũng có, khiến cho Minh giáo dần dần suy bại, mọi nguy cơ từ đó mà ra. Hôm nay trùng lập giáo chủ, có hi vọng trung hưng, làm sao mọi người không phấn chấn? Kẻ có thể hành động lập tức quì xuống vái lạy. Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương tuy là người thân thuộc trưởng bối cũng không ngoại lệ.
    Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ, nói:
    - Xin các vị đứng lên. Nhờ Dương tả sứ truyền hiệu lệnh xuống: bản giáo từ trên xuống dưới, tất cả thoái nhập bí đạo.
    Dương Tiêu đáp:
    - Vâng! Cẩn tôn lệnh dụ giáo chủ. Khải bẩm giáo chủ, chúng ta cho Liệt Hỏa Kỳ phóng hỏa ngăn chặn địch, đốt hết phòng xá trên Quang Minh Đính. Địch nhân sẽ tưởng chúng ta bỏ chạy cả rồi, không biết có nên không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Kế này hay lắm, xin Dương tả sứ truyền lệnh cho.
    Bụng nghĩ thầm: “Phép này Chu Trường Linh đã từng sử dụng, kế sách vốn dĩ hay, nhưng có điều y dùng để lường gạt ta mà thôi”. Dương Tiêu lập tức tuyền hiệu lệnh xuống, triệt hồi giáo chúng đang chống giữ, yêu cầu Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ đoạn hậu, mọi người còn lại, rút lui vào đường hầm. Minh giáo là chủ, Thiên Ưng giáo là khách, nên truyền cho giáo chúng Thiên Ưng giáo rút xuống trước, kế đến là Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, các chức sự nhân viên trên Quang Minh Đính, Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hậu Thổ ba kỳ, Ngũ Tản Nhân và Vi Nhất Tiếu trước sau đi xuống. Sau khi Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ rút xuống rồi, Hồng Thủy kỳ mới đi xuống, hai mặt đông tây lửa bốc lên ngất trời.
    Lửa càng lúc càng cao, người trong Liệt Hỏa Kỳ tay cầm ống phun, liên tiếp phun thạch du[2] là đặc sản của vùng Tây Vực vào, thạch du gặp lửa bén ngay, bốc lên cực kỳ lợi hại, các môn các phái đến tấn công tuy đông, nhưng đều sợ lửa không dám tiến đến gần, chỉ xa xa vây bốn mặt, không cho người của Minh giáo chạy lọt mà thôi. Người của Liệt Hỏa Kỳ rút vào hầm rồi đóng cửa lại. Chẳng mấy chốc phòng xá đều sụp đổ, bịt chặt luôn cả miệng hầm Lửa cháy liên tiếp hai ngày hai đêm vẫn chưa tắt hẳn. Quang Minh Đính là tổng đàn của Minh giáo, đã xây đắp hơn một trăm năm qua, mấy trăm căn sảnh đường, nhà cửa cực kỳ tráng lệ nay thành tro cả. Địch nhân đợi lửa tắt rồi, đi đến vùng lửa cháy xem xét, thấy một số lớn giáo đồ Minh giáo chết cháy đã thành than, không còn nhận ra ai với ai, chỉ nghĩ rằng giáo chúng Minh giáo thà chết không hàng, tự đốt mà chết, bọn Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu chắc cũng trong số đó.
    Giáo chúng Thiên Ưng giáo và Minh giáo theo bản đồ đường hầm, chia nhau vào từng phòng để ở. Dĩ nhiên họ đã ở sâu trong lòng đất, bên trên tuy lửa cháy bừng bừng nhưng trong bí đạo không nghe tiếng gì cả, cũng không thấy nóng chút nào. Mọi người mang theo đủ lương thực nước uống, dù cho một hai tháng cũng không sợ đói khát. Minh giáo và Thiên Ưng giáo, kỳ nào về kỳ nấy, đàn nào về đàn nấy không nói một lời. Mọi người biết rằng bí đạo này vốn là thánh địa không được bén mảng tới, nhờ ân điển giáo chủ mới được vào để tị nạn, thành ra không ai dám tự ý đi lại.
    Dương Tiêu và các nhân vật thủ lãnh đều xúm quanh thi thể vợ chồng Dương Đính Thiên, nghe Trương Vô Kỵ thuật lại làm sao nhặt được di thư của Dương giáo chủ, làm sao luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công tâm pháp. Chàng nói xong, đem tấm da dê ghi tâm pháp giao lại cho Dương Tiêu. Dương Tiêu không nhận, khom lưng đáp:
    - Dương tiền giáo chủ trong thư đã viết rõ ràng: Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, về sau sẽ giao lại cho tân giáo chủ. Vậy thì tâm pháp này phải do chính giáo chủ chưởng quản.
    Sau đó mọi người chuyền tay nhau đọc di thư của Dương Đính Thiên, ai nấy đền phẫn khái thở dài:
    - Có ai ngờ một người thần dũng trí mưu như Dương giáo chủ, chỉ vì tình nghĩa vợ chồng đến nỗi tẩu hỏa nhập ma mà qui thiên. Nếu như chúng ta sớm được đọc lá thư này, thì đâu đến nỗi hôm nay thua một trận không còn manh giáp thế này.
    Mọi người nghĩ đến đồng bọn bị chết thảm, chính mình phải bỏ chạy nhục nhã, ai nấy nghiến răng chửi bới Thành Côn. Dương Tiêu nói:
    - Gã Thành Côn kia tuy là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, là sư phụ của Kim Mao Sư Vương nhưng trước kia chúng ta chưa ai gặp y lần nào, thấy người này quả thực là tâm kế. Thì ra mấy chục năm trước, y đã chăm chăm tìm cách phá hủy bản giáo rồi.
    Chu Điên nói:
    - Dương tả sứ, Vi Bức Vương, hai người đều rơi vào kế của y mà không hề hay biết, có thể nói là bất tài đó.
    Y vốn định nói cả Ân Thiên Chính luôn, nhưng vì nể mặt giáo chủ nên không nhắc đến bốn chữ “lão già Bạch Mi” mà thôi. Dương Tiêu mặt đỏ lên, nói:
    - Thế nhưng “lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”, tên ác tặc Thành Côn kia sau cùng cũng bị táng mạng dưới chưởng của Dã Vương huynh.
    Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ là Tân Nhiên hậm hực nói:
    - Tên ác tặc Thành Côn kia làm biết bao điều ác nghiệt, vậy mà chết như thế thì quả thật là sướng cho y.
    Mọi người bàn tán một hồi, rồi chia ra tĩnh tọa dụng công để dưỡng lành thương thế. Ở trong bí đạo bảy tám ngày, vết thương của Trương Vô Kỵ đã khỏi đến chín phần, thành một cái sẹo dài hơn tấc, liền ra tay trị cho các anh em bị ngoại thương. Tuy nơi đây dược vật thiếu thốn, nhưng với tài xoa nắn, châm cứu của chàng, vẫn chẳng kém gì một đại danh y. Trước kia mọi người chi biết rằng vị giáo chủ trẻ tuổi này võ công cao thâm không ai lường được, có biết đâu y đạo chàng cũng tinh thông đến thế, chẳng kém gì Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu năm xưa.
    Lại thêm vài ngày nữa, kiếm thương của Trương Vô Kỵ hoàn toàn khỏi hẳn, lập tức vận Cửu Dương thần công giúp cho Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ngũ Tản Nhân khu trục hàn độc Huyễn Âm Chỉ trong người ra. Chỉ trong ba ngày, nội thương của các đại cao thủ đều hết, người nào người nấy ý khí phấn chấn, muốn ra khỏi đường hầm, tiến lên tấn công kẻ địch. Trương Vô Kỵ nói:
    - Các vị thương thế mới khỏi, nội lực chưa đầy đủ, mình đã nhẫn nại lâu nay, vậy xin cố đợi thêm ít hôm nữa.
    Mấy ngày đó mọi người càng ra công rèn luyện, kẻ võ công thấp thì mài đao dũa kiếm, kẻ võ công cao thì luyện khí vận kình, từ khi lục đại phái vi công Quang Minh Đính đến giờ, Minh giáo chỉ toàn là bị đánh thật là nhục nhã, bao nhêu oán khí đều tích tụ vào đây.
    Buổi chiều hôm đó, Dương Tiêu đem giáo nghĩa tông chỉ của Minh giáo, các qui củ tương truyền từ đời trước đến nay, thế lực chi đàn các nơi thế nào, tính cách tài năng các nhân vật thủ lãnh, bẩm báo Trương Vô Kỵ hết cả.
    Bỗng nghe tiếng dây xích leng keng, Tiểu Siêu bưng trà đem vào, đưa lên hai chén trà nóng. Trương Vô Kỵ nói:
    - Dương tả sứ, cô gái này gần đây không làm điều gì sai trái, xin ông mở khóa thả cô ta ra đi.
    Dương Tiêu đáp:
    - Giáo chủ đã có lệnh, đâu không dám không theo.
    Lập tức gọi Dương Bất Hối vào, nói:
    - Bất Hối, giáo chủ dặn rằng con mở khóa cho Tiểu Siêu đi.
    Dương Bất Hối đáp:
    - Chìa khóa con để trong ngăn kéo trong phòng, không đem xuống đây.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cái đó cũng không sao, chìa khóa chắc đốt không cháy đâu.
    Dương Tiêu đợi con gái và Tiểu Siêu ra khỏi rồi, nói:
    - Giáo chủ, con tiểu a đầu Tiểu Siêu tuy tuổi nhỏ, nhưng lại thực là quái lạ, với nó không thể không lưu tâm giữ gìn.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Lai lịch tiểu cô nương đó ra sao?
    Dương Tiêu trả lời:
    - Nửa năm trước đây, thuộc hạ và Bất Hối xuống núi du ngoạn, gặp nó một thân một mình trong sa mạc, đang ngồi ôm hai cái xác chết khóc lóc. Chúng tôi liền đến gần tra hỏi, nó nói người chết chính là cha mẹ nó. Cha nó ở Trung Nguyên đắc tội với quan quân, cả nhà ba người bị xung quân đưa đi Tây Vực, mấy hôm trước vì không chịu nổi cảnh lăng nhục của quân Mông Cổ nên bỏ trốn. Cha mẹ nó bị thương nên kiệt lực hai người cùng chết cả. Tôi thấy đứa bé này còn nhỏ mà đã cô khổ lênh đênh, tuy mặt mày cực kỳ xấu xí, nhưng nói năng không đến nỗi ngu đần nên giúp nó chôn cha mẹ, nhận nó đem về hầu hạ Bất Hối.
    Trương Vô Kỵ gật đầu nghĩ thầm: ‘Thì ra cha mẹ Tiểu Siêu cùng chết cả rồi, thân thế thật là đáng thương, chẳng khác gì ta cả”. Dương Tiêu nói tiếp:
    - - Chúng tôi đưa Tiểu Siêu về Quang Minh Đính rồi, một hôm tôi dạy võ nghệ cho Bất Hối, Tiểu Siêu đứng bên cạnh nghe, nào ngờ khi tôi giải thích phương vị của sáu mươi tư quẻ, Bất Hối còn chưa hiểu, mắt của Tiểu Siêu đã nhìn đúng ngay vị trí rồi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Có lẽ cô ta thiên tư thông tuệ, ngộ tính so với Bất Hối muội tử nhanh hơn chăng?
    Dương Tiêu nói:
    - Lúc đầu thuộc hạ cũng nghĩ như thế cho nên rất cao hứng, nhưng chỉ suy nghĩ lại, bỗng khởi nghi, cố ý nói sai mấy câu khẩu quyết thật khó mà tôi chưa dạy Bất Hối bao giờ. Lúc đó mặt trời đã ngả về phương tây, địa hỏa Minh Di, thủy hỏa Vị Tế[3], tôi cố tình nói sai phương vị, con bé đó liền cau mày, dĩ nhiên đã nhìn ra chỗ sai của tôi. Từ đó thuộc hạ lưu tâm, biết là tiểu cô nương này đã được cao nhân truyền thụ, thân mang thượng thừa võ công, lên Quang Minh Đính này không phải là chuyện bình thường, mà có một mục đích nào đó.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hoặc giả cha cô ta tinh thông Dịch lý, đây là sở học gia truyền, nên biết được như thế.
    Dương Tiêu đáp:
    - Xin giáo chủ minh giám: cái học về Dịch lý của văn sĩ so với dịch lý trong võ học có chút khác nhau. Nếu như sở học của Tiểu Siêu là do cha mẹ truyền cho thì cha mẹ nó phải là nhất lưu cao thủ trong võ lâm, thế thì lẽ nào lại bị quan quân Mông Cổ lăng nhục mà chết? Khi đó tôi giả tảng như không biết, vài hôm sau mới hỏi qua tên tuổi, thân thế cha mẹ nó. Nó chối sạch nhưng cũng không để lộ một chút dấu vết nào. Khi đó tôi cũng chưa hành động chỉ dặn Bất Hối để ý thôi.
    Một buổi kia tôi kể chuyện vui, Bất Hối cười khanh khách, Tiểu Siêu đứng bên nghe, nhịn không nổi cũng cười theo. Khi đó nó đứng đằng sau tôi và Bất Hối, nghĩ rằng cha con tôi không nhìn thấy nó, nào ngờ trong tay Bất Hối đang cầm chơi một con dao găm, con dao đó sáng loáng như gương, phản chiếu rõ ràng nụ cười của con bé đó. Nó đâu có phải là một con bé xấu như ma lem mà so với Bất Hối còn đẹp hơn nhiều. Đến khi tôi quay đầu nhìn lại, nó lập tức biến thành một đứa bé quái tướng mồm méo mắt lệch.
    Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
    - Suốt ngày giả cách thành quái dị như thế, quả thực không phải dễ dàng.
    Bụng lại nghĩ: “Dương tả sứ là một nhân vật lợi hại thế này, Tiểu Siêu chỉ là một cô bé con mà lại muốn bẻ trộm hoa trước mặt ông ta thì làm sao dấu nổi”.
    Dương Tiêu nói tiếp:
    - Thế nhưng khi đó tôi vẫn để yên không nói, tối hôm đó, canh khuya khi mọi người đã ngủ yên, tôi len lén đến phòng con gái để xem Tiểu Siêu làm gì. Ngay lúc đó Tiểu Siêu từ phòng Bất Hối đi ra, đi qua bên các phòng phía đông, không biết đi tìm cái gì, mỗi gian, mỗi chỗ kín đáo đều lục lọi cả. Tôi không còn nhịn nổi nữa, bước ra hỏi nó tìm cái gì, do ai phái đến Quang Minh Đính dò xét nằm vùng.
    Nó vẫn trấn tĩnh, không một chút hoảng hốt, nói không ai phái đến cả, chỉ vì hiếu kỳ thích đi nơi này nơi khác chơi cho vui thôi. Tôi dọa nạt khuyên bảo dụ dỗ cách nào, nó chung qui vẫn không lộ nửa câu. Tôi nhốt nó bảy ngày bảy đêm không cho ăn, đói đến nỗi chỉ còn thoi thóp, nó cũng không chịu nói. Thành thử tôi mới đem chiếc xích lưu truyền trong bản giáo đã lâu nay khóa nó lại, để khi nào đi lại vang tiếng leng keng, không thể lén gia hại Bất Hối. Tôi sở dĩ chưa giết nó ngay, cốt để tra xét lai lịch của nó. Giáo chủ, con tiểu a đầu này do địch nhân sai đến đây nằm vùng, không còn nghi ngờ gì nữa, cứ xét việc nó tinh thông phương vị bát quái ra, e rằng nếu không phải Côn Lôn, cũng là Nga Mi gửi đến. Thế nhưng một đứa bé con thì làm được gì? Vì tình nó chăm lo hầu hạ giáo chủ, giáo chủ từ bi tha cho nó, cũng là may cho nó lắm rồi.
    Trương Vô Kỵ đứng dậy, cười nói:
    - Bọn mình ở trong địa lao này tù túng đã lâu ngày, bây giờ đi ra ngoài cho thư thái một chút nên chăng?
    Dương Tiêu mừng rỡ, hỏi lại:
    - Mình định đi ra ư?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Những người bị thương chưa khỏi, dù thế nào chăng nữa cũng không được động thủ, muốn lập công không phải chỉ ngày hôm nay. Còn bao nhiêu đều ra cả, có được không?
    Dương Tiêu liền đi ra truyền lệnh, trong bí đạo tiếng hoan hô ầm ỹ. Mọi người khi vào đường hầm là theo cửa ngõ trong phòng Dương Bất Hối, bây giờ đi ra là theo cửa hông, đi thông qua phía hậu sơn. Trương Vô Kỵ đẩy tảng đá chắn lối, tự mình ra trước, đợi mọi người ra hết rồi mới đẩy tảng đá trở lại. Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên là người có thần lực mạnh nhất trong Minh giáo, liền đẩy thử tảng đá trông như hòn núi nhỏ kia xem sao, thấy chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột nhà, không nhúc nhích chút nào, kinh hãi le lưỡi không rụt lại được, càng nghĩ càng phục vị giáo chủ trẻ tuổi này.
    Mọi người ra khỏi bí đạo, sợ rằng địch nhân phát giác, đến tiếng đằng hắng cũng không ai dám mở miệng. Trương Vô Kỵ đứng trên một tảng đá lớn, dưới ánh trăng, thấy giáo chúng Thiên Ưng giáo dàn thành vị trí khách ở hướng tây, Thiên Vi, Tử Vi, Thiên Thị tam đường, Thần Xà, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Võ ngũ đàn, đâu đâu cũng có hàng ngũ, sắp đặt nhịp nhàng trật tự. Ở phía đông là ngũ kỳ của Minh giáo: Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ các kỳ do chính, phó chưởng kỳ sứ tất lãnh anh em trong kỳ chia theo phương vị ngũ hành mà đứng. Ở giữa là thuộc hạ của Dương Tiêu gồm Thiên, Địa, Phong, Lôi tứ môn do các môn chủ thống lãnh giáo chúng trên Quang Minh Đính. Thiên Tự Môn là nam giáo chúng Trung Nguyên, Địa Tự Môn là nữ giáo chúng, Phong Tự Môn là người tu hành Thích gia, Đạo gia, còn Lôi Tự Môn là người thuộc phiên bang, Tây Vực. Tuy liên tiếp chiến đấu nhiều ngày qua, Ngũ Hành, Tứ Môn số người thương vong rất lớn nhưng lúc này ai ai cũng đều phấn chấn. Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu và Ngũ Tản Nhân đứng sau lưng hộ vệ giáo chủ. Ai nấy đều yên lặng chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh.
    Trương Vô Kỵ chậm rãi nói:
    - Địch nhân đến tấn công trọng địa của bản giáo, chúng ta tuy muốn chấm dứt một cách an lành nhưng cũng không xong. Thế nhưng bản nhân vốn không muốn tàn sát, cũng mong các vị thể niệm ý nguyện đó cho. Thiên Ưng giáo do Ân giáo chủ tất lãnh, từ phía tây tấn công tới, Ngũ Hành Kỳ do Cự Mộc Kỳ chưởng kỳ sứ Văn Thương Tùng thống lãnh, từ phía đông đánh qua. Dương tả sứ tất lãnh Thiên, Địa Tự Môn từ phía bắc đánh xuống. Ngũ Tản Nhân tất lãnh Phong, Lôi Tự Môn từ phía nam đánh lên còn Vi Bức Vương cùng bản nhân ở giữa điều động.
    Mọi người cùng khom lưng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ phất tay một cái, hạ giọng nói:
    - Tiến lên.
    Bốn đội giáo chúng liền chia ra bốn mặt đông tây nam bắc bao vây Quang Minh Đính. Trương Vô Kỵ quay sang nói với Vi Nhất Tiếu:
    - Bức Vương, bọn mình từ đường hầm chui lên, đánh cho chúng trở tay không kịp.
    Vi Nhất Tiếu mừng quá, nói:
    - Hay lắm.
    Hai người quay trở lại đường hầm, theo khuê phòng của Dương Bất Hối đi ra. Lúc đó bên trên đã đầy gạch ngói, gỗ cháy sụp xuống, mất rất nhiều công lao mới chui ra được, mùi khói khét lẹt. Khi đó giáo chúng Minh giáo còn ở xa nhưng địch nhân trú đóng trên Quang Minh Đính đã phát giác rồi, kêu la om xòm, báo động lẫn cho nhau. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: “Bọn này hoảng hoảng hốt hốt, chưa cần đánh đã biết thắng bại ra sao rồi”.
    Qua một lúc lâu, Thuyết Bất Đắc và Chu Điên cùng tiến vào, từ phía nam đến, xông vào trong đám người chém giết chẳng khác gì cắt dưa, thái rau. Kế đến Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Ngũ Hành Kỳ cũng đến, hung hăng hò hét chẳng khác gì hổ vào đàn dê.
    Bọn đến chiếm đóng Quang Minh Đính là Cái Bang, Vu Sơn Bang, Hải Sa phái bao gồm hơn một chục tiểu bang hội, thấy Quang Minh Đính cháy thành một khu đất trống, giáo chúng Minh giáo không thoát một ai, những tưởng mình đã toàn thắng. Cái Bang, Cự Kình Bang và những phái khác hơn một nửa mấy ngày qua đã từ từ xuống núi, trên núi chỉ còn Thần Quyền Môn, Tam Giang Bang, Vu Sơn Bang, Ngũ Phượng Đao bốn môn phái bang hội. Giáo chúng Minh giáo đột nhiên tấn công vào chém giết, bốn môn phái đó tuy cũng có một số hảo thủ, nhưng làm sao có thể chống với Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, thành thử thời gian chưa đến một bữa ăn, tử thương đã quá nửa.
    Trương Vô Kỵ liền ra mặt, lớn tiếng nói:
    - Các cao thủ Minh giáo đã tụ hội trên Quang Minh Đính rồi, các môn phái, bang hội hãy vứt binh khí đầu hàng, đừng tiếp tục đánh nữa vô ích. Ta sẽ tha mạng cho các ngươi, đưa xuống núi.
    Các hảo thủ trong Thần Quyền Môn, Tam Giang Bang, Vu Sơn Bang, Ngũ Phượng Đao đã chết gần hết, những người còn lại thấy địch tụ tập quá đông, không ai còn ý chí nào mà chiến đấu lần lượt ném binh khí đầu hàng. Chỉ có hơn hai chục hán tử ngoan cố kháng cự, trong giây lát đã bị giết sạch.
    Trong mấy chục ngày qua, bọn Vu Sơn Bang đã cắt tranh, lá dựng trên núi tạm mấy chục cái lều để trú thân, giáo chúng trong Cự Mộc Kỳ liền cắt gỗ, xẻ cây, dựng thêm nhà cửa, còn đàn bà con gái trong Địa Tự Môn thì đun nước, đắp lò nấu ăn.
    Trên đỉnh Quang Minh đốt lên một ngọn lửa lớn để cảm tạ Minh Tôn, Hỏa Thánh đã gia hộ phù trì.
    Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính đứng lên, dõng dạc nói:
    - Các người trong Thiên Ưng giáo nghe đây: Bản giáo và Minh giáo đồng khí liên chi, vốn là một phái cả. Hơn hai mươi năm trước, bản nhân cùng với một số anh em trong Minh giáo bất hòa, vì thế đi xuống tận miền đông nam, tự lập môn hộ. Hiện nay Minh giáo do Trương đại hiệp đứng ra đảm trách nhiệm vụ giáo chủ, ai ai cũng bỏ qua hết hiềm thù cũ, cùng nhau chung lo chung sức. Thiên Ưng giáo mấy chữ đó trên đời này kể từ hôm nay không còn nữa, tất cả chúng ta đều là giáo đồ Minh giáo cả, ai ai cũng dưới quyền Trương giáo chủ phân phái hiệu lệnh. Nếu có ai không bằng lòng, thì mau ra khỏi đây, hạ sơn đi.
    Giáo chúng trong Thiên Ưng giáo hoan hô ầm ỹ, cùng nói:
    - Thiên Ưng giáo vốn từ Minh giáo mà ra, chuyện này chẳng qua chỉ là phản bản qui tông mà thôi. Anh em chúng ta ai ai cũng gia nhập Minh giáo, còn gì tốt đẹp hơn. Ân giáo chủ với Trương giáo chủ là người nhà chí thân, nghe hiệu lệnh vị giáo chủ nào thì cũng vậy.
    Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
    - Kể từ hôm nay thì chỉ còn Trương giáo chủ mà thôi, nếu ai còn gọi ta một tiếng Ân giáo chủ tức là phạm thượng phản nghịch đó.
    Trương Vô Kỵ chắp tay nói:
    - Thiên Ưng giáo và Minh giáo chia rồi lại hợp, quả thực không còn điều gì vui mừng hơn. Chỉ vì tại hạ tình thế cấp bách, tạm nhiếp chức vụ giáo chủ. Hiện nay đại địch đã trừ xong rồi, chính là lúc chúng ta suy cử một vị giáo chủ khác. Trong bản giáo có biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, tiểu tử tuổi trẻ, tài nông, đâu dám đứng đầu quí vị.
    Chu Điên lớn tiếng nói:
    - Giáo chủ, xin ngài nghĩ hộ cho chúng tôi, chúng tôi vì chức vụ giáo chủ mà trở thành chia năm xẻ bảy, bây giờ anh em ai ai cũng cảm phục ông. Nếu ông lại từ chối nữa, thì cứ đưa ra một người khác làm giáo chủ mà xem. Hứ hừ, dù ai chăng nữa, Chu Điên này là người đầu tiên không phục. Còn nếu bảo Chu Điên này làm ư, người khác cũng chẳng phục.
    Bành Oánh Ngọc nói:
    - Nếu ông không chịu đảm trách việc lớn, Minh giáo trở lại tàn sát lẫn nhau, đi lại vết xe cũ, không lẽ lúc đó lại mời ông ra cứu nữa hay sao?
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mấy người này quả thực bụng mà nói, trong tình huống như thế ta không thể nào tụ thủ không lý đến. Thế nhưng cái chức giáo chủ này, ta thực tình không muốn làm, mà cũng chẳng nghĩ đến chuyện làm”. Chàng bèn lớn tiếng nói:
    - Nếu quả thực các vị có bụng thương yêu, tiểu tử không dám suy từ, chỉ đành tạm trọng nhiệm chức vụ giáo chủ, nhưng có ba điều mong các vị bằng lòng cho, nếu không tiểu tử dù chết cũng không dám nhận Mọi người nhao nhao nói:
    - Giáo chủ đã ra lệnh, đừng nói ba điều, mà có đến ba mươi điều cũng đều tôn phụng, không dám trái. Khộng hiểu ba điều đó là điều gì, xin giáo chủ chỉ thị cho.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Bản giáo vốn bị người ngoài coi là tà ma ngoại đạo, tuy người ta quả có không hiểu rõ chân tướng chúng ta, nhưng nhân số của bản giáo thật đông, không khỏi xấu tốt chen nhau, có kẻ không ra gì làm điều càn rỡ, tàn hại người lương thiện. Thành ra điều thứ nhất là hôm nay trở đi, từ bản nhân trở xuống, ai ai cũng phải nghiêm thủ giáo qui, làm điều thiện, trừ kẻ ác, hành hiệp trượng nghĩa. Anh trong bản giáo, phải thân ái giúp đỡ, tình như chân tay, cố gắng không được chống chỏi lẫn nhau.
    Chàng quay sang liếc mắt nhìn Chu Điên, nói:
    - Mồm chửi thì không sao, động thủ nhất quyết là không được. Bản nhân mời Lãnh Khiêm Lãnh tiên sinh đảm nhiệm giới đường chấp pháp, nếu ai vi phạm giáo qui, giết hại anh em trong nhà, nhất luật dùng trọng hình xử tội, dù cho có là tôn trưởng như ông ngoại, cậu của bản nhân cũng không đứng ngoài.
    Mọi người khom lưng đồng thanh đáp:
    - Chính là như thế.
    Lãnh Khiêm tiến lên một bước, nói:
    - Phụng lệnh.
    Oâng ta không thích nói nhiều, nhưng hai tiếng đó đã nói lên sẽ kiệt tận sở năng, tuân hành mệnh lệnh giáo chủ. Trương Vô Kỵ nói:
    - Việc thứ hai xem ra còn khó hơn nhiều. Bản giáo và các đại môn phái ở Trung Nguyên kết oán đã sâu, hai bên môn nhân đệ tử, gia nhân bằng hữu, bên nào cũng có người chết. Từ nay chúng ta chuyện cũ bỏ qua, không nhớ oán thù xưa nữa, không được đi tìm các môn phái khác trả thù.
    Mọi người nghe xong, trong bụng ai nấy không cảm thấy hài lòng, một hồi lâu không ai nói tiếng nào. Chu Điên nói:
    - Nếu như người các môn phái khác đến gây chuyện với mình thì sao?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Lúc đó tùy cơ ứng biến, nếu như đối phương nhất định làm khó mình, mình đâu có thể bó tay chịu chết.
    Thiết Quan đạo nhân nói:
    - Thôi được, tính mạng chúng ta dó giáo chủ cứu, giáo chủ bảo sao chúng ta nghe vậy.
    Bành Oánh Ngọc lớn tiếng nói:
    - Các vị huynh đệ, những môn phái Trung Nguyên giết anh em chúng ta không phải là ít, anh em chúng ta giết họ cũng nhiều, thành ra hai bên thù oán dây dưa, qua qua lại lại, người chết mỗi lúc một nhiều. Giáo chủ bảo chúng ta không được tầm cừu, chính là điều tốt lành cho mình đó.
    Mọi người nghe thấy điều đó quả không sai nên đều chấp nhận. Trương Vô Kỵ trong lòng vui lắm, vòng tay nói:
    - Các vị khoan hồng đại lượng, là phúc cho võ lâm, thật may mắn cho tất cả mọi người.
    Bèn ra lệnh cho các kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ thả hết những người của Thần Quyền Môn, Vu Sơn Bang bị bắt giữ, nói với họ Minh giáo sẽ không còn là kẻ địch của các môn phái Trung Nguyên, rồi thả họ xuống núi. Trương Vô Kỵ nói tiếp:
    - Chuyện thứ ba là cứ theo di mệnh của Dương tiền giáo chủ mà theo. Dương tiền giáo chủ trong thư có viết là người nào đem được thánh hỏa lệnh về sẽ tiếp nhiệm chức vụ đời thứ ba mươi tư, khi ông chết đi thì do Kim Mao Sư Vương tạm thời đảm trách. Chúng ta lập tức phải đi ra hải ngoại, nghênh đón Tạ pháp vương trở về, để ông ta nhiếp hành giáo chủ, sau đó sẽ tìm cách đi tìm thánh hỏa lệnh. Lúc đó tiểu tử sẽ thoái vị nhượng hiền, các vị không thể dị nghị được nữa.
    Mọi người nghe xong, ai nấy bần thần, nghĩ thầm: “Bọn mình như rắn mất đầu mấy chục năm qua, nay may mắn được một người trí dũng song toàn, nhân nghĩa hào hiệp làm giáo chủ. Sau này nếu như bản giáo có một kẻ tầm thường vô năng vô ý cướp được thánh hỏa lệnh, không lẽ cũng đưa y lên làm giáo chủ?”.
    Dương Tiêu nói:
    - Di ngôn của Dương tiền giáo chủ viết hơn hai chục năm trước, lúc đó thế cục so với hôm nay không giống nhau chút nào. Kim Mao Sư Vương lẽ dĩ nhiên phải đi đón rồi, thánh hỏa lệnh cũng phải đi tìm rồi, thế nhưng để người khác làm giáo chủ thì thật khó mà làm cho mọi người tâm phục.
    Trương Vô Kỵ cương quyết cho rằng lệnh của Dương tiền giáo chủ không thể nào vi phạm, mọi người không biết tính sao, chỉ đành y theo, nghĩ thầm: “Kim Mao Sư Vương có khi chết rồi không chừng, còn thánh hỏa lệnh thất lạc đã gần trăm năm nay, biết đâu mà kiếm? Cứ theo lời ông ta đã, sau này nếu có gì thay đổi, lúc đó sẽ xét lại”.
    Ba điều này, Trương Vô Kỵ mấy chục ngày qua đã suy đi tính lại, lúc này nghe thấy mọi người đồng ý tuân theo, rất lấy làm hoan hỉ, liền ra lệnh giết dê mổ bò, cùng mọi người trích máu ăn thề, không vi phạm ba điều ước ngôn.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Việc to lớn trước mắt của bản giáo là đi ra hải ngoại nghênh đón Kim Mao Sư Vương Tạ pháp vương trở về, không chính bản nhân đi thì không xong, vậy có ai nguyện ý đi với bản nhân không?
    Mọi người ai nấy đều đứng lên, nói:
    - Nguyện đi theo giáo chủ cùng ra hải ngoại.
    Trương Vô Kỵ mới đảm nhiệm trọng trách, biết mình tài năng, hiểu biết đều không có, xử phân đại sự khó mà chu đáo, nên hạ giọng thương nghị với Dương Tiêu một hồi rồi mới lớn tiếng nói:
    - Đi ra hải ngoại không cần đông, huống chi ngoài ra còn rất nhiều việc phải làm gấp. Thành thử ra, mời Dương tả sứ tất lãnh Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, ở lại trấn giữ Quang Minh Đính, xây dựng lại tổng đàn. Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ ngũ kỳ chia nhau đi các nơi, chiêu tập những anh em trong bản giáo bị tứ tán, truyền dụ ba điều anh em chúng ta đã ước định. Xin ông ngoại và cậu tất lãnh Thiên Ưng Kỳ, nghe ngóng xem có còn ai định làm khó bản giáo nữa không, luôn thể đi tìm Quang Minh hữu sứ và Tử Sam Long Vương xem ở đâu. Còn Vi Bức Vương đi đến các chưởng môn lục đại môn phái nói rõ ý định tốt đẹp muốn ngừng chiến của Minh giáo, nếu như không thể hóa địch thành bạn, thì cũng chấm dứt can qua. Việc này thật không phải dễ, nhưng với đại tài của Vi Bức Vương, mong rằng sẽ thành công. Còn việc đi ra hải ngoại nghênh đón Tạ pháp vương, thì do bản nhân và Ngũ Tản Nhân cùng đi.
    Lúc này chàng là giáo chủ, tuy ngôn ngữ khiêm tốn lễ độ, nhưng câu nào câu nấy đều là mệnh lệnh không thể vi phạm, ai ai cũng tuân theo không dám phản kháng câu nào. Dương Bất Hối nói:
    - Cha ơi, con muốn đi ra hải ngoại xem cảnh băng sơn thế nào.
    Dương Tiêu mỉm cười nói:
    - Con xin với giáo chủ, cha không thể quyết định được.
    Dương Bất Hối dẩu môi, không nói lời nào. Trương Vô Kỵ mỉm cười, nghĩ đến mấy năm trước đưa cô nàng qua Tây Vực, trên đường đi đòi chàng kể chuyện xưa, mình đã từng nói về cảnh vật kỳ lạ trên Băng Hỏa đảo, đến cả gấu trắng, hải cẩu, quái ngư các loại động vật lạ lùng cho cô ta nghe, thành thử giờ phút này cô nàng muốn đến tận nơi xem, bèn nói:
    - Bất Hối muội tử, hải hành rất nhiều nguy hiểm, em không sợ nhưng Dương tả sứ không yên tâm. Thôi thế thì cả Dương tả sứ lẫn cô em cùng đi với tôi ra hải ngoại vậy.
    Dương Bất Hối vỗ tay reo lên:
    - Có gì đâu mà sợ? Cha ơi, mình cùng đi với Vô Kỵ ca ca... không, đi với giáo chủ nhé.
    Dương Tiêu không trả lời, nhìn Trương Vô Kỵ đợi lệnh. Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu đã như thế, phiền Lãnh tiên sinh ở lại trấn giữ Quang Minh Đính, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn tạm do Lãnh tiên sinh thống suất.
    Lãnh Khiêm đáp:
    - Vâng.
    Chu Điên vỗ tay dậm chân, kêu lên:
    - Hay lắm, hay lắm.
    Thuyết Bất Đắc nói:
    - Chu huynh, hay cái gì thế?
    Chu Điên nói:
    - Giáo chủ coi trọng Lãnh Khiêm như thế, cũng nở mày nở mặt cho Ngũ Tản Nhân chúng ta. Hơn nữa, biển cả mênh mông, không biết phải đi bao nhiêu ngày giờ trên thuyền. Có thêm cha con Dương tả sứ, nói chuyện nọ chuyện kia, có phải thích không? Ta muốn kiếm người cãi qua cãi lại, chỉ có Dương tả sứ là đối thủ thôi. Nếu như đi cùng với Lãnh Khiêm, có khác gì đi với cái khúc gỗ không mở mồm.
    Mọi người cười ồ cả lên. Lãnh Khiêm cũng không giận, cũng chẳng cười, làm như không nghe thấy. Hôm đó mọi người ăn uống xong chia ra nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối mở khóa cho Tiểu Siêu nhưng chìa khóa bị lạc mất trong đám gạch ngói, than gỗ cháy đen tìm không thấy. Tiểu Siêu thản nhiên nói:
    - Cháu đeo sợi dây xích này kêu leng keng, đi lại nghe càng hay, có nó cũng tốt.
    Trương Vô Kỵ an ủi cô:
    - Tiểu Siêu, cô cứ an tâm ở lại trên Quang Minh Đính, tôi đi đón nghĩa phụ về rồi, mượn thanh đao Đồ Long của ông ấy chặt đứt dây xích này cho cô.
    Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu, không trả lời. Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ tất lãnh mọi người, chia tay cùng Lãnh Khiêm. Lãnh Khiêm nói:
    - Giáo chủ, bảo trọng.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Lãnh tiên sinh tọa trấn tổng đàn, thật là khó nhọc quá.
    Lãnh Khiêm lại quay sang nói với Chu Điên:
    - Cẩn thận, quái ngư, ăn ngươi.
    Chu Điên nắm chặt tay y, trong lòng thật cảm kích. Ngũ Tản Nhân tình như anh em, Lãnh Khiêm hôm nay phá lệ nói thêm sáu chữ, quả thật hết sức lo lắng quái ngư trên biển cả ăn thịt anh em. Lãnh Khiêm và các thủ lãnh Thiên, Địa, Phong, Lôi tứ môn tiễn chân mọi người xuống khỏi Quang Minh Đính rồi mới chịu chia tay.
   

- o O o -

    [1] Đây là những câu để nhớ phương vị theo Tiên Thiên bát quái (Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn) trong đó Càn Khôn (Thiên Địa) đối xứng, Cấn Đoài (Trạch Sơn) đối xứng, Chấn Tốn (Lôi Phong) đối xứng, Khảm Ly (Thủy Hỏa) đối xứng. Càn Đoài Ly Chấn đi ngược chiều kim đồng hồ là thuận, Tốn Khảm Cấn Khôn đi xuôi chiều kim đồng hồ là nghịch.
    [2] Dầu thô (tức dầu hỏa chưa chế biến, còn trong dạng thiên nhiên là dạng mà người Trung Hoa biết dùng từ thời cổ).
    [3] Hai quẻ trong sáu mươi tư quẻ Dịch
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:55:35 | Chỉ xem của tác giả
LINH PHÙ TÚY KHÁCH LỤC LIỄU TRANG

    Hương thắm thơm nồng nơi thủy các, Sóng tình Mông-Hán đã xiêu xiêu.
    Dẫu cho hai ngả khôn đường gặp, Một lần rung động cũng nên yêu.

    Đoàn người đi được độ hơn một trăm dặm, giữa sa mạc liền dừng lại nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ phía tây mơ hồ vọng về tiếng leng keng, leng keng kim loại chạm nhau, trong bụng thảng thốt, lập tức len lén trở dậy, đi về phía thanh âm truyền tới. Được hơn một dặm, chàng thấy một bóng người mảnh khảnh di động dưới ánh trăng, vội tiến tới, kêu lên:
    - Tiểu Siêu, sao cô lại tới đây?
    Bóng người đó chính là Tiểu Siêu. Nàng đột nhiên gặp lại Trương Vô Kỵ, òa lên khóc, sà vào lòng chàng, nức nở không nói gì. Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ lên đôi vai, nói:
    - Thôi em ngoan, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa.
    Tiểu Siêu dường như bao nhiêu nỗi niềm bây giờ mới có dịp phát tiết, lại càng khóc lớn thêm, thổn thức:
    - Công tử đi đâu, em... em sẽ đi theo đó.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô bé này cha mẹ mất cả rồi, lại bị cha con Dương tả sứ nghi ngờ, mười phần đáng thương. Có lẽ vì mình đối với cô ta ôn hòa trìu mến, nên cô ta mới quyến luyến không muốn rời”. Chàng bèn nói:
    - Được rồi, đừng khóc nữa, vậy tôi mang cô cùng đi hải ngoại nhé.
    Tiểu Siêu mừng quá, ngẩng đầu lên, dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt xinh đẹp nhỏ nhắn của nàng như phủ một lớp lụa mỏng, những giọt lệ chưa khô lấp lánh, đôi mắt xanh như màu nước biển dường như tỏa ra một nỗi bồi hồi. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
    - Tiểu Siêu, mai này lớn lên cô thể nào cũng cực kỳ xinh đẹp.
    Tiểu Siêu hỏi lại:
    - Sao công tử biết?
    Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng vó ngựa lộp bộp, một đại đội nhân mã từ tây sang đông, chạy vụt qua, ít ra cũng phải hơn trăm con. Qua một lúc sau, Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu trước sau chạy đến, nói:
    - Giáo chủ, trong đêm hôm khuya khoắt có đại đội nhân mã chạy như thế, không chừng có địch ý với bản giáo.
    Trương Vô Kỵ bảo Tiểu Siêu đi đến gặp bọn Bành Oánh Ngọc, còn mình cùng Dương Vi hai người chạy về phía có tiếng vó ngựa để tra xét. Đi đến gần, quả nhiên trên sa mạc còn một dãy vết chân ngựa. Vi Nhất Tiếu cúi xuống xem, bốc một nắm cát lên, nói:
    - Có vết máu.
    Trương Vô Kỵ cũng bốc một nắm cát đưa lên mũi, quả nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Ba người theo vết chân ngựa đến ba bốn dặm, Dương Tiêu bỗng thấy phía bên trái trong bãi cát có một mảnh đao gãy, vội cầm lên xem, thấy cán đao có khắc ba chữ “Phùng Viễn Thanh”, hơi trầm ngâm, nói:
    - Đây là người của phái Không Động. Thưa giáo chủ, có lẽ phái Không Động dự bị ngựa xe tại chỗ này để về Trung Nguyên.
    Vi Nhất Tiếu nói:
    - Từ Quang Minh Đính xuống đã hơn nửa tháng, nếu như họ còn lẩn quẩn ở đây chẳng biết làm trò quỉ quái gì?
    Ba người thấy là phái Không Động rồi, không thèm để ý nữa, quay về chỗ cũ nằm ngủ.
    Đi được năm ngày, từ thảo nguyên trước mặt có một đoàn người đi đến, phần lớn mặc áo đen kiểu ni cô, nhưng cũng có bảy tám nam nhân. Hai bên đến gần, một ni cô the thé kêu lên:
    - Đây là ác tặc của ma giáo.
    Cả bọn lập tức rút binh khí, tản ra nghinh địch. Trương Vô Kỵ thấy đây là người của phái Nga Mi, không hiểu sao đã đi rồi còn quay trở lại, mà những người này chàng chưa gặp bao giờ nên cao giọng nói:
    - Các vị sư thái có phải là môn hạ phái Nga Mi chăng?
    Một ni cô người nhỏ bé vượt đám đông tiến ra, gay gắt hỏi:
    - Ác tặc ma giáo kia, hỏi cái gì? Mau ra đây chịu chết.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Sư thái thượng hạ xưng hô ra sao? Cớ sao lại nổi giận như thế?
    Ni cô đó quát lớn:
    - Ác tặc, thứ như ngươi mà dám hỏi danh hiệu ta ư? Ngươi là ai?
    Vi Nhất Tiếu phóng vụt ra, vào thẳng đám đông, điểm huyệt hai nam đệ tử, nắm cổ cả hai người, chạy thẳng ra ngoài xa, ném xuống đất, rồi lại chạy về chỗ cũ. Hành động đó chẳng khác gì chim cắt bắt mồi, nhanh không thể tả. Y cười khẩy mấy tiếng, nói:
    - Vị này là Trương giáo chủ của Minh giáo, người võ công đệ nhất đời nay, một kỳ nam tử can đảm vô song, thống suất Tả Hữu Quang Minh Sứ Giả, Tứ Đại Hộ Giáo Pháp Vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, đã từng đuổi phái Nga Mi xuống núi, đoạt thanh bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái, với một nhân vật như thế có đủ để hỏi pháp danh của sư thái hay chăng?
    Y nói một thôi một hồi, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy đều kinh hãi, lại vừa mới thấy Vi Nhất Tiếu trổ chút công phu ngoài sức tưởng tượng như thế, còn ai dám hoài nghi lời nói của y. Ni cô trung niên kia lấy lại bình tĩnh rồi nói:
    - Các hạ là ai?
    Vi Nhất Tiếu đáp:
    - Tại hạ họ Vi, ngoại hiệu là Thanh Dực Bức Vương.
    Trong phái Nga Mi có mấy tiếng kêu lên hoảng hốt, bốn người vội chạy đến xem hai gã đồng môn vừa bị Vi Nhất Tiếu điểm huyệt vứt ngoài xa. Vi Nhất Tiếu nói:
    - Phụng Trương giáo chủ hiệu lệnh, Minh giáo và lục đại môn phái chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ giao hảo với nhau. Quí đồng môn cũng may lắm đó nên Vi Bức Vương lần này tha không hút máu họ đâu.
    Từ khi y được Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công chữa thương, không những trừ hết âm độc Huyễn Âm Chỉ mà những độc khí từ trước tích tụ cũng hết đi quá nửa, nên không cần phải hút máu kháng hàn mỗi khi hành công vận kình.
    Bốn người đó dìu hai đồng môn bị điểm huyệt kia về, đang định tìm cách giải huyệt chữa trị, bỗng nghe tách tách hai tiếng, tiếp theo nghe tiếng bay vút trong không khí, hai viên sỏi nhỏ đã bắn tới, trúng ngay huyệt đạo hai người kia, lập tức giải khai ngay các nơi bị điểm. Đó là Dương Tiêu dùng Đạn Chỉ Thần Thông[1] ngược lại với công phu Trịch Thạch Điểm Huyệt[2].
    Ni cô trung niên kia thấy đối phương người cũng không ít, mà chỉ mới hai người lộ chút tài năng, võ công đã cao siêu ghê gớm, nếu như động thủ, không thể nào không bị đánh tan tành. Thành thử dù tám chữ “chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ” không biết thật hay giả cũng nói:
    - Bần ni pháp danh Tĩnh Không. Các vị có thấy sư phụ chúng tôi đâu không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôn sư từ Quang Minh Đính xuống núi đã hơn nửa tháng, chắc lúc này đã vào Ngọc Môn Quan rồi đó. Các vị từ phía đông lại, không lẽ trên đường không gặp nhau hay sao?
    Một người đàn bà chừng khoảng ba mươi ở đằng sau Tĩnh Không liền nói:
    - Sư tỉ đừng nghe y nói láo, chúng ta chia ba ngả tiếp ứng, có hỏa tiễn làm tín hiệu liên lạc, lẽ nào trên đường lại hụt không bắt gặp nhau?
    Chu Điên thấy người kia ăn nói vô lễ, muốn dạy cho mấy câu bèn nói:
    - Cái đó cũng lạ thật...
    Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:
    - Chu tiên sinh đừng chấp nhất bà ta làm chi. Bọn họ không kiếm thấy sư phụ, dĩ nhiên nóng ruột.
    Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, nói:
    - Gia sư và anh em đồng môn có phải đã vào tay Minh giáo rồi chăng? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, việc gì phải dấu diếm?
    Chu Điên cười nói:
    - Thôi nói thực cho các người nghe, phái Nga Mi không lượng sức mình, đến đánh Quang Minh Đính, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống đều bị bắt cả rồi, hiện nay đang nhốt dưới thủy lao, để cho họ ăn năn sám hối mười năm tám năm, đến lúc đó có thả hay không còn tùy.
    Bành Oánh Ngọc vội nói:
    - Các vị đừng nghe vị Chu huynh này nói giỡn. Diệt Tuyệt sư thái thần công cái thế, môn hạ đệ tử ai ai võ công cũng cao cường, làm sao lại lạc vào tay Minh giáo cho được? Lúc này hai bên quí phái và bản giáo đã ngừng chiến giảng hòa với nhau, các vị trở về núi Nga Mi đi, tự nhiên sẽ gặp.
    Tĩnh Không nửa tin nửa ngờ, chần chừ không thể quyết định được. Vi Nhất Tiếu nói:
    - Vị Chu huynh này thích nói đùa, không lẽ đường đường địa vị giáo chủ tôn quí của bản giáo cũng lại đánh lừa tiểu bối hay sao?
    Người đàn bà trung niên kia lại nói:
    - Trước nay ma giáo quỉ kế đa đoan, gian trá giảo hoạt, lời nói làm sao tin cho được?
    Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương liền phất tay một cái, lập tức Ngũ Hành Kỳ giãn ra xa xa, sau đó lại bao vây trở lại. Cự Mộc ở phía đông, Liệt Hỏa tại phía nam, Nhuệ Kim tại phía tây, Hồng Thủy tại phía bắc, còn Hậu Thổ thì ở bên ngoài di động tiếp ứng, vây chặt tất cả người của phái Nga Mi.
    Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
    - Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương, chỉ cần một mình ta ra tay, là đã có thể bắt được tất cả bọn tiểu bối chúng bay rồi. Minh giáo hôm nay thủ hạ lưu tình, những người ít tuổi các ngươi sau này ăn nói cho có ý tứ.
    Mấy câu đó oang oang vang động, chấn động đến nỗi những người của phái Nga Mi ù cả tai, tâm thần hoảng hốt, không tự chế nổi. Chỉ thấy ông ta mày râu trắng xóa, thần uy lẫm lẫm, ai nấy đều kinh hãi.
    Trương Vô Kỵ chắp tay nói:
    - Khi nào gặp lại tôn sư, xin cho Trương Vô Kỵ của Minh giáo gửi lời hỏi thăm sức khỏe lão nhân gia.
    Nói xong quay về hướng đông đi thẳng. Đường Dương đợi Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính cả bọn đi rồi lúc ấy mới vẫy tay triệu hồi Ngũ Hành Kỳ. Quần đệ tử phái Nga Mi thấy thế, trong bụng hãi thầm, đứng nhìn Trương Vô Kỵ và đồng bọn đi xa xa, miệng há hốc, không nói nên lời. Bành Oánh Ngọc nói:
    - Giáo chủ, tôi xem chuyện này bên trong có điều bất thường. Diệt Tuyệt sư thái cùng đệ tử trở về theo hướng đông, không lẽ lại lạc không gặp môn nhân. Các môn các phái đi đường thể nào chẳng có tín hiệu, lẽ nào biến mất không để lại tăm hơi gì?
    Mọi người vừa đi vừa bàn thảo, cảm thấy phái Nga Mi bao nhiêu người bỗng dưng mất tích trên sa mạc, quả thật khó hiểu, Trương Vô Kỵ lại lo lắng cho an nguy của Chu Chỉ Nhược, nhưng không tiện nói với người ngoài.
    Hôm đó đi đến tối, chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên bỗng nói:
    - Ở đây có điều gì khác lạ.
    Y chạy đến một hàng cây thấp ở phía trước quan sát, giật một chiếc thuổng từ tay một giáo chúng bản kỳ rồi hì hục đào dưới đất. Một lát sau, quả nhiên lộ ra một xác người. Cái xác đó đã thối rữa, mặt mũi không còn nhận ra, nhưng cứ theo quần áo trên người, rõ ràng là đệ tử phái Côn Lôn. Các giáo chúng Hậu Thổ Kỳ liền nhất tề đào bới, trong chốc lát đã thành một cái hố lớn, trong hố để chất đống mười sáu tử thi, tất cả đều là người của phái Côn Lôn. Nếu như người của môn phái họ chôn cất, ắt không thể nào đơn sơ như thế, hiển nhiên là do kẻ địch mai táng. Xem xét những xác này, ai ai cũng có vết thương trên người. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho Hậu Thổ Kỳ chia ra từng người chôn cất riêng rẽ cho tử tế.
    Cả bọn người nọ nhìn người kia, bụng ai cũng hỏi thầm: “Ai giết bọn này?”. Ngơ ngẩn một hồi, Bành Oánh Ngọc nói:
    - Nếu không truy cứu cho đến đầu đến đũa, cái món nợ này thể nào cũng đổ lên đầu Minh giáo chúng ta.
    Thuyết Bất Đắc lớn tiếng nói:
    - Các anh em nghe đây, nếu như đánh nhau ban ngày ban mặt, mình có giáo chủ tất lãnh, tuy không dám nói là vô địch thiên hạ, nhưng cũng không thể thua ai. Thế nhưng tên bắn trộm thì khó mà đề phòng, từ rày trở đi, ăn uống gì, nghỉ ngơi ở đâu, chỗ nào cũng phải đề phòng địch nhân ám toán, hạ độc.
    Tất cả đồng thanh đáp ứng. Đi một quãng nữa, thấy mặt trời đỏ như máu, trời từ từ tối dần, mọi người đang tính chuyện tìm chỗ nghỉ ngơi, bỗng thấy trên trời phía đông bắc có bốn con kên kên ở trên không bay lượn vòng vòng. Đột nhiên một con bay lao xuống, rồi lại bay vọt lên, lông rơi tơi tả, kêu kéc kéc mấy tiếng, hiển nhiên bị vật gì đánh trúng.
    Từ khi chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh bị chết vì kiếm Ỷ Thiên, Trương Vô Kỵ đưa phó kỳ sứ Ngô Kình Thảo lên làm chính kỳ sứ, lúc này thấy chim kên kên có vẻ lạ lùng, liền nói:
    - Để tôi đi xem.
    Y dẫn theo hai người đồng bọn, vội chạy về phía đó. Một lúc sau, một giáo chúng chạy trở lại, bẩm với Trương Vô Kỵ:
    - Bẩm cáo giáo chủ, Ân lục hiệp của phái Võ Đương bị rơi xuống dưới vực cát.
    Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nói:
    - Ân lục hiệp ư? Có bị thương không?
    Người kia đáp:
    - Dường như bị thương nặng, Ngô kỳ sứ thấy là Ân lục hiệp, sai thuộc hạ cấp tốc báo cho giáo chủ. Ngô kỳ sứ hiện đang xuống dưới sa cốc cứu giúp...
    Trương Vô Kỵ lòng nóng như lửa đốt, không đợi y nói hết, vội vàng chạy đi. Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn lục tục chạy theo. Đi đến gần, thấy đó là một cái vực cát thật lớn, sâu đến hơn chục trượng, Ngô Kình Thảo tay trái ôm Ân Lê Đình, đi một bước lại sụp một cái, đang cố gắng hết sức để trèo lên. Trương Vô Kỵ liền theo vách cát trượt xuống, đưa tay nắm cánh tay phải của Ngô Kình Thảo, tay kia đưa vào thăm hơi thở, thấy vẫn còn thoi thóp, cũng hơi yên lòng, vội đón lấy Ân Lê Đình. Chàng nhảy mấy cái đã ra khỏi sa cốc, để ông ta nằm trên mặt đất, chăm chú xem kỹ, không khỏi vừa kinh hãi, vừa tức giận, không biết tính sao.
    Chỉ thấy Ân Lê Đình hơi thở yếu ớt đầu gối, khuỷu tay, cổ chân, cổ tay, ngón chân, ngón tay tất cả các khớp xương đều bị đánh gãy không cử động được, đối phương hạ độc đến thế thực khiến người ta phải ghê rợn. Tuy nhiên thần trí vẫn chưa đến nỗi hôn mê, thấy Trương Vô Kỵ, mặt lộ vẻ vui mừng, nhả ra hai viên đá. Thì ra sau khi bị thương, chàng bị người ta vứt xuống vực cát, nhờ có nội lực tinh thuần, không đến nỗi chết ngay, kên kên sà xuống toan ăn thịt, bị chàng nghiêng đầu ngoạm mấy viên đá, phun ra chặn chúng lại, cứ khổ sở chống đỡ như thế đã mấy hôm nay.
    Dương Tiêu thấy bốn con kên kên kia vẫn vòng vòng chưa chịu bỏ đi, chắc chúng đợi khi nào bỏ xác Ân Lê Đình rồi sẽ đáp xuống ăn thịt, liền nhặt bốn viên sỏi dưới đất, tách tách bắn liền mấy phát, cả bốn con kên kên đều rơi xuống, con nào đầu cũng bị viên sỏi bắn trúng vỡ tan.
    Trương Vô Kỵ trước hết cho Ân Lê Đình uống thuốc an thần giảm đau, sau đó mói coi kỹ lại một lần nữa, thấy chân tay đến hơn hai mươi chỗ gãy, mỗi nơi gãy đều bị địch dùng trọng thủ, lấy ngón tay bóp nát nhừ, không cách nào nối lại được. Ân Lê Đình nói nhỏ:
    - Chẳng khác gì tam ca, bị phái Thiếu Lâm dùng... Kim Cương chỉ lực... đánh đó...
    Trương Vô Kỵ nhớ tới năm xưa nghe cha kể chuyện Du tam sư bá Du Đại Nham bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương chỉ lực bóp nát các khớp xương, phải nằm liệt trên giường hơn hai mươi năm nay. Lúc đó cha chàng chưa gặp mẹ chàng, không ngờ việc đã bao nhiêu năm, lại thêm một vị sư thúc bị thương vì Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm lần nữa. Chàng suy nghĩ một lát rồi nói:
    - Lục thúc không phải lo lắng, chuyện này cứ giao cho điệt nhi, kẻ gian nhất định chạy trời không khỏi nắng. Kẻ nào trong phái Thiếu Lâm, lục thúc có nhận ra không?
    Ân Lê Đình lắc đầu, mấy hôm nay chàng kiệt lực ráng sống, hơi sức không còn chút nào, lúc này trong lòng vừa hết lo, chịu không nổi lập tức ngất đi. Trương Vô Kỵ nghĩ đến thân thế mình, cha mẹ tự vẫn mà chết, cũng chỉ vì không nên không phải với Tam sư bá, bây giờ Lục sư thúc lại gặp nạn, nếu không ép được phái Thiếu Lâm giao ra kẻ gây nên tội lỗi, thì còn ra gì với hai vị Du Ân? Thì còn ra gì đối với song thân đã quá cố? Chàng thấy Ân Lê Đình tuy bất tỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại, chỉ có điều tay chân gãy khó mà nối lại được, xem ra sẽ chẳng khác gì Du Đại Nham.
    Chàng kinh lịch chưa nhiều, thấy việc không quyết định được, phải kiếm chỗ nào thanh tĩnh suy nghĩ cho chín, bèn chắp tay sau lưng, đi ra đằng xa, trèo lên trên một cái gò nhỏ ngồi xuống, trong đầu hai ý nghĩ không ngừng xung đột: “Nên hay không nên lên chùa Thiếu Lâm đi tìm kẻ tội khôi họa thủ kia, để báo thù cho cha mẹ, tam sư bá, lục sư thúc? Nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận giao hung thủ ra thì mọi việc đều tốt đẹp, nếu không Minh giáo sẽ phải liên kết với phái Võ Đương, cùng đối phó với phái Thiếu Lâm? Mình đã cùng tất cả anh em cắt máu ăn thề, nhất quyết không đi sinh sự, tầm thù các môn phái bang hội khác, nhưng nay việc lại đến ngay với mình, chính mình lại vứt bỏ lời thề không lý gì nữa thì làm sao cho mọi người tuân phục được? Một khi đầu họa đã mở ra rồi, từ nay oán oán tương báo, e rằng không biết bao nhiêu đời máu chảy, bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng vì chuyện này?”.
    Lúc này trời đã tối hẳn, người của Minh giáo liền đốt lửa lên, làm lò nấu ăn. Trương Vô Kỵ vẫn ngồi trên ngọn đồi, nhìn trăng lên dần, vẫn không định được chủ ý, mãi đến nửa đêm, mới quyết định: “Phải lên núi Thiếu Lâm gặp chưởng môn Không Văn thần tăng, nói rõ đầu đuôi, yêu cầu ông ta đưa ra một biện pháp”. Nghĩ thế xong lại tưởng: “Nếu như mình nói xong rồi không đến đâu, phải động thủ thì làm sao đây?”.
    Chàng thở dài một tiếng, đứng lên, nghĩ thầm: “Ta tuổi còn trẻ, mới giữ nhiệm vụ lớn, gặp ngay một chuyện thật khó nghĩ, chỉ một lòng muốn bãi chiến, không tranh giành, thế nhưng những món nợ máu này lại ép mình phải tiến tới. Ta đảm đương trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, từ chối cũng không xong, bỏ đi cũng không được, từ nay còn bao nhiêu là lo buồn, khốn khổ thực không kể đâu cho xiết. Giá như không làm giáo chủ có phải sướng biết bao?”.
    Chàng trở về bên đống lửa, mọi người tuy bụng đói, nhưng chưa ai dám cầm đũa ăn trước, vội vàng cung kính đứng lên. Trương Vô Kỵ thấy vậy áy náy, vội nói:
    - Các vị từ rày về sau cứ dùng bữa tự nhiên, không phải đợi tôi làm gì.
    Chàng đến thăm Ân Lê Đình, thấy Dương Bất Hối đang dùng nước nóng lau những vết thương, đang cho chàng ăn cháo. Ân Lê Đình thần trí mơ hồ, đột nhiên mắt mở to, trừng trừng nhìn Dương Bất Hối, kêu lên:
    - Hiểu Phù muội tử, anh nhớ em biết là chừng nào, em có biết không?
    Dương Bất Hối mặt đỏ bừng, thần sắc thật là bẽn lẽn, tay phải cầm muỗng nói nhỏ:
    - Lục hiệp uống thêm vài thìa nữa.
    Ân Lê Đình nói:
    - Em hứa đừng bao giờ xa anh nữa nhé.
    Dương Bất Hối nói:
    - Được rồi, được rồi. Lục hiệp ăn thêm vài thìa rồi sẽ nói sau.
    Ân Lê Đình dường như trong lòng hết sức vui sướng, vội há mồm ăn ngay. Hôm sau Trương Vô Kỵ truyền lệnh xuống, mọi người tạm thời đừng phân tán vội, tất cả cùng đi lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, hỏi cho ra nguyên ủy việc Ân Lê Đình bị thương rồi sẽ tính sau. Cả bọn Vi Nhất Tiếu, Chu Điên thấy Ân Lê Đình bị thương nặng như thế, trong bụng ai cũng bất bình, nghe giáo chủ bảo đi lên Thiếu Lâm vấn tội, đều lớn tiếng hoan hô. Dương Tiêu vì việc Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình hết sức thương cảm, tuy không nói ra nhưng trong bụng đã có chủ ý, quyết tâm hết sức vì chàng mà báo thù, lại bảo con gái cố gắng chăm lo săn sóc, bù lại phần nào lỗi lầm khi xưa.
    Từ đó trên đường không gặp chuyện gì khác lạ. Ân Lê Đình lúc mê lúc tỉnh, Trương Vô Kỵ hỏi chàng bị thương thế nào, Ân Lê Đình ngơ ngẩn không kể rõ được, chỉ nói:
    - Năm hòa thượng phái Thiếu Lâm vây đánh một mình ta. Đúng là võ công phái Thiếu Lâm không thể nào lầm được.
    Chẳng bao lâu cả đoàn tiến vào Ngọc Môn Quan, liền bán hết lạc đà chuyển sang cưỡi ngựa, lại sợ người ngoài dòm ngó nên mua quần áo cải trang làm khách thương. Có người thì đánh xe lừa, giả vờ như chở theo hàng hóa, thuốc men.
    Hôm đó sáng sớm mọi người đã ra đi, theo đường lớn Cam Lương mà đi, ánh mặt trời chói lọi, trời đã bắt đầu nóng. Đi được chừng hai giờ, thấy trước mặt một hàng dương liễu khoảng hai chục cây, ai nấy đều mừng rỡ, vội vàng thúc ngựa đi tới dưới bóng cây nghỉ ngơi.
    Đến gần hơn, đã thấy dưới tàn cây có chín người ngồi đó, tám người đàn ông mặc quần áo kiểu thợ săn, bên hông đeo đao, lưng đeo cung tên, còn thêm năm sáu con chim ưng dùng để đi săn, lông đen móng sắc, hình dáng trông rất hiên ngang. Một người nữa là thanh niên công tử, mặc áo dài lam, phe phẩy quạt lông không dấu vẻ ung dung sang trọng.
    Trương Vô Kỵ nhảy xuống ngựa, liếc nhìn thanh niên công tử kia một cái, thấy chàng ta tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, đôi mắt trắng đen rõ ràng, lấp loáng hữu thần, cái quạt trong tay cán làm bằng bạch ngọc, bàn tay cầm quạt cũng trắng không khác gì cán quạt. Bỗng mọi người không hẹn mà cùng nhìn xuống ngang hông công tử đó, thấy thắt lưng có khóa bằng vàng, đeo một thanh trường kiếm, trên cán kiếm có khắc hai chữ Ỷ Thiên theo kiểu triện. Nhìn kiếm đó, hình dáng dài ngắn, chính là thanh kiếm Ỷ Thiên mà Diệt Tuyệt sư thái đã dùng để đồ sát giáo chúng Minh giáo và Chu Chỉ Nhược đã dùng để đâm Trương Vô Kỵ một nhát suýt chết. Người trong Minh giáo ai nấy ngạc nhiên, Chu Điên nhịn không nổi toan lên tiếng hỏi. Ngay lúc đó, thấy trên đường cái từ phía đông có tiếng vó ngựa lộp cộp, một đoàn người cưỡi ngựa chạy ào tới.
    Đoàn người đó là một đội quân Nguyên, khoảng chừng năm sáu chục người, lại có thêm khoảng trên trăm phụ nữ, bị quân Mông Cổ dùng thừng trói lôi theo. Những người đàn bà đó phần lớn chân yếu tay mềm, làm sao chạy kịp với ngựa, có người ngã lăn, liền bị kéo lê trên đất. Họ đều là người Hán, hiển nhiên là dân chúng bị đoàn quân Nguyên này bắt cóc, hơn nửa y phục rách bươm, có người lộ cả thân trên, khóc khóc mếu mếu, cực kỳ thảm thiết. Quân Nguyên có đứa tay cầm bình rượu, uống đã nửa tỉnh nửa say, có kẻ vung roi đánh túi bụi vào đám phụ nữ. Những tên quân Mông Cổ này lớn lên trên lưng ngựa, thuật đánh roi cực kỳ xảo diệu, roi vung ra lúc rút về đều cuốn một mảng quần áo của những người đàn bà. Những kẻ khác liền lớn tiếng reo hò, cười nói xí xố.
    Người Mông Cổ xâm nhập Trung Quốc đã gần một trăm năm, trước nay vẫn coi người Hán chẳng bằng súc vật, nhưng ngay giữa ban ngày ban mặt làm trò dâm ô hối nhục thế này thì là điều ít thấy. Người trong Minh giáo ai nấy mắt như đổ lửa, chỉ chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh một tiếng, là lập tức xông ra giết bọn quân binh cứu người.
    Thanh niên công tử kia bỗng nói:
    - Ngô Lục Phá, ngươi ra bảo bọn chúng thả những người đàn bà ra, quấy rối như thế, còn ra cái giống gì nữa.
    Thanh âm trong trẻo, vừa yểu điệu vừa nũng nịu, tưởng như giọng con gái. Một đại hán đáp lời: “Vâng”, cởi giây buộc một con ngựa vàng dưới gốc cây, nhảy lên lưng ra roi chạy lên, lớn tiếng quát:
    - Này, ban ngày mà làm loạn như thế, các ngươi không có quan trưởng ước thúc hay sao? Mau thả đàn bà con gái ra ngay lập tức.
    Một tên quan quân trong đám Nguyên binh giục ngựa chạy ra, mắt lờ đờ say, tay vẫn còn cắp một thiếu nữ, cười ha hả nói:
    - Thằng chó chết kia không muốn sống hả, sao dám xen vào chuyện của các ông?
    Đại hán nọ cười nhạt nói:
    - Thiên hạ loạn lạc khắp nơi, cũng vì chúng mày không biết thương xót trăm họ mà ra cả, để ta dạy các ngươi một trận cho biết phép tắc.
    Tên quân nọ đánh giá đám người dưới bóng cây, trong lòng hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm dân chúng mỗi khi thấy quan binh, chạy cho nhanh còn không kịp, còn bọn này không biết uống mật báo, ăn gan hổ hay sao mà lại dám can thiệp vào việc của quan quân? Y liếc qua thấy trên khăn đầu của công tử nọ có đính hai hạt châu to bằng quả long nhãn, lấp lánh phát quang, liền nổi lòng tham, cười lớn:
    - Này chú thỏ con kia, đi theo ông, ta cho mày hưởng phúc.
    Nói xong hai đùi thúc một cái, giục ngựa xông đến chàng thanh niên công tử. Chàng kia vốn dĩ mặt mày hòa hoãn, thấy bọn Nguyên binh bạo hành không nổi giận, bấy giờ nghe tên quân này vô lễ như thế, đôi lông mày hơi nhướng lên nói:
    - Không để tên nào sống sót.
    Tiếng “sót” vừa ra khỏi miệng, nghe vụt một tiếng, một mũi tên đã xuyên thủng ngực tên quân kia, chính là do một người thợ săn đứng bên cạnh chàng thanh niên bắn ra. Người đó phát tiễn thủ pháp thật nhanh nhẹn, kình lực lại mạnh, dường như là một cao thủ bậc nhất võ lâm, thợ săn tầm thường làm sao có tài như thế?
    Chỉ nghe tách tách tách liên tiếp, cả tám người cùng bắn, quả thực có tài bách bộ xuyên dương, không mũi tên nào hụt, một mũi tên bắn chết một tên Nguyên binh. Bọn quân Nguyên thấy tình thế đột biến, giật mình kinh hoảng, nhưng vốn cung tên thuần thục nên lớn tiếng kêu la lập tức bắn trả. Bảy người thợ săn cũng đều nhảy lên lưng ngựa xông ra, cứ một mũi tên là một đứa, chỉ trong khoảnh khắc đã bắn chết trên ba chục tên. Những đứa còn lại thấy tình hình không ổn, luôn mồm kêu la, vội bỏ đám phụ nữ giục ngựa chạy ngay. Thế nhưng ngựa của tám người thợ săn đều là tuấn mã, chạy nhanh như gió đuổi theo, cứ tám mũi tên buông ra là có tám tên ngã xuống, đuổi chưa đầy một dặm, tất cả quân Mông Cổ không còn ai sống sót.
    Thanh niên công tử kia cũng nhảy lên ngựa, giục ngựa chạy đi, không quay đầu nhìn lại lấy một lần. Y ra lệnh cho bộ thuộc trong nháy mắt giết hơn năm chục tên quân Mông Cổ, tưởng như ăn cơm uống nước thường ngày, không coi vào đâu cả. Chu Điên kêu lên:
    - Này, này, hượm đã, cho tôi hỏi một câu.
    Công tử kia không thèm để ý đến, do tám người thợ săn hộ vệ theo sau, chạy về hướng xa xa.
    Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu nếu như thi triển khinh công đuổi theo, cũng có thể kịp ngựa đang chạy, hỏi chàng công tử này cho minh bạch, thế nhưng thấy tám người thợ săn kia thần tiễn sát địch như thế, vẻ đầy hiệp nghĩa, trong bụng ai cũng ngầm kính phục, không tiện mạo phạm đến họ. Mọi người bàn tán xôn xao nhưng không ai đoán ra được lai lịch của chín người này. Dương Tiêu nói:
    - Thanh niên công tử kia rõ ràng là gái giả trai, còn những cao thủ ăn mặc như thợ săn kia đối với chàng ta cực kỳ cung kính. Tiễn pháp của tám người đó thật là thần diệu, không giống nhân vật của môn phái nào ở Trung Nguyên.
    Lúc đó Dương Bất Hối và những giáo chúng trong Hậu Thổ Kỳ đã chạy ra an ủi những người đàn bà bị bắt cóc, hỏi thăm tình hình mới biết đều là người ở các thôn trấn chung quanh, bèn lục các xác quân Nguyên lấy kim ngân tài bảo chia cho họ bảo họ tìm đường nhỏ tự kiếm đường về nhà.
    Mấy ngày liền, quần hào vẫn tiếp tục bàn về chín người dừng cung tên giết quân Nguyên kia, trong bụng ai ai cũng có chiều ái mộ, ân hận không có dịp làm quen. Chu Điên nói với Dương Tiêu:
    - Dương huynh, lệnh ái vốn dĩ là một mỹ nữ, thế nhưng so với tiểu thư mặc giả trai kia, cứ bề ngoài mà nói, xem ra còn kém một chút.
    Dương Tiêu nói:
    - Đúng vậy, đúng vậy. Bọn họ nếu như gia nhập bản giáo, cứ tám người thợ săn kia phải xếp hạng trên cả Ngũ Tản Nhân.
    Chu Điên giận dữ nói:
    - Nói thối bỏ mẹ, bọn ta cưỡi ngựa có kém gì ai đâu? Ngươi thử bảo bọn họ thi tài với Chu Điên xem nào.
    Dương Tiêu trầm ngâm rồi nói:
    - Cứ so với Chu huynh thì quả có kém thực, nhưng nếu chỉ tính võ công thôi, xem ra họ có vẻ hơn Lãnh Khiêm huynh một chút.
    Trong năm người Ngũ Tản Nhân của Minh giáo thì Lãnh Khiêm võ công đứng đầu, chuyện đó ai ai cũng biết. Dương Tiêu và Chu Điên trước nay vẫn không hợp tính, tuy không còn công khai kèn cựa với nhau nhưng Chu Điên hễ có cơ hội là cãi với Dương Tiêu vài câu ngay, bây giờ nghe y nói võ công tám người thợ săn kia cao hơn Lãnh Khiêm, rõ ràng là trên tất cả Ngũ Tản Nhân, trong bụng tức lắm, đang tính châm chọc mấy câu trả miếng, Bành Oánh Ngọc cười nói:
    - - Chu huynh lại bị Dương tả sứ cho vào tròng rồi, y định chọc cho Chu huynh tức đấy mà.
    Chu Điên cười sằng sặc nói:
    - Vậy ta không thèm tức xem làm gì được nào?
    Thế nhưng chẳng mấy chốc, Chu Điên lại chỉ trích Dương Tiêu cưỡi ngựa không được tinh thông, quần hào chỉ mặc kệ không ai trả lời.
    Ân Lê Đình được Trương Vô Kỵ ngày ngày chữa trị, thần trí đã tỉnh táo nhiều, kể lại hôm đó từ Quang Minh Đính chạy xuống, tâm thần khích động, nên lạc lối, càng chạy càng xa, lang thang trong sa mạc mênh mông tám chín ngày. Đến khi kiếm được đường cũ quay về thì không còn liên lạc được với huynh đệ đồng môn phái Võ Đương nữa.
    Hôm đó chàng bất ngờ gặp phải năm nhà sư Thiếu Lâm, những hòa thượng đó không nói một lời, lập tức tiến lên gây sự. Năm nhà sư đó võ công rất cao, tuy Ân Lê Đình đánh bại hai người nhưng quả bất địch chúng, cuối cùng bị đánh trọng thương. Chàng thấy võ công họ đều thuộc phái Thiếu Lâm không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng chưa từng lên Quang Minh Đính nên không gặp mặt bao giờ, xem ra có thể là người đi sau tiếp viện, nhưng vì cớ gì lại hạ độc thủ thì không nghĩ ra. Chàng cũng đã thông báo tên tuổi, như thế không thể nói là lầm người được.
    Trên đường đi, Dương Bất Hối săn sóc Ân Lê Đình cực kỳ chu đáo, nàng biết cha mẹ mình đã không phải với chàng thật nhiều, lại thấy bị nạn thê thảm như thế, không khỏi chạnh lòng thương hại.
    Đế sẩm tối hôm đó, quần hào qua khỏi Vĩnh Đăng, cố giục ngựa chạy nhanh hơn mong đến được Giang Thành Tử nghỉ ngơi. Đang đi bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, trên đường cái có hai kỵ sĩ song song chạy đến, cách chừng mươi trượng liền nhảy xuống ngựa, đứng tránh qua một bên đường, cử chỉ thật là cung kính. Hai người đó mặc theo lối đi săn, chính là người trong bát hùng bắn tên giết quân Nguyên hôm trước. Quần hào vui mừng, vội vàng nhảy xuống ngựa đến chào hỏi.
    Hai người đó đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng hành lễ. Một người cao giọng nói:
    - Tệ thượng[3] ngưỡng mộ hành vi nhân hiệp cao nghĩa của Trương giáo chủ Minh giáo, cùng cung cách anh hùng của quí liệt vị, nên sai tiểu nhân mời các vị dừng ngựa nơi tệ trang để tỏ lòng hâm mộ.
    Trương Vô Kỵ hoàn lễ hỏi lại:
    - Không dám, không dám. Không hiểu quí thượng tên họ xưng hô thế nào?
    Người kia đáp:
    - Tệ thượng họ Triệu, khuê danh không dám gọi tới.
    Mọi người thấy y nhận ngay thanh niên công tử kia là con gái giả trang, quả thực có thành ý, trong bụng mừng thầm. Trương Vô Kỵ nói:
    - Từ khi được chứng kiến thần kỹ bắn tên của quí vị, chúng tôi ai ai cũng khen ngợi hết lời, quí vị không hiềm hạ mình kết giao thì thật vinh dự xiết bao, chỉ e như thế không tiện.
    Người kia đáp:
    - Các vị là anh hùng đời nay, tệ thượng đã ngưỡng mộ từ lâu, hôm nay có dịp đi qua đất nhà, nếu chẳng được dâng lên ba chén rượu nhạt thì e không hết được lễ nghi của địa chủ.
    Trương Vô Kỵ đang muốn được quen biết thêm với những nhân vật anh hùng này, lại muốn hỏi xem thanh kiếm Ỷ Thiên vì đâu qua tay đổi chủ như thế nên nói:
    - Nếu đã như thế, từ chối quả là không cung kính, vậy xin được đến viếng quí trang.
    Hai người kia mừng lắm, lên ngựa đi trước dẫn đường. Qua khoảng chưa tới một dặm, trước mặt lại có hai người cưỡi ngựa chạy đến, ở xa xa xuống ngựa đứng đợi, cũng là người trong thần tiễn bát hùng. Đi thêm một dặm nữa, bốn người còn lại trong bát hùng lại phi ngựa đến đón tiếp. Quần hào Minh giáo thấy bên kia lễ số chu đáo như thế, ai nấy cực kỳ cảm động.
    Cả bọn đi theo một con đường lát đá xanh dẫn đến một đại trang viện, có sông nhỏ uốn khúc vây quanh, bờ sông trồng đầy dương liễu xanh rờn, suốt một dải Cam Lương bây giờ bỗng thấy phong cảnh chẳng khác gì ở Giang Nam, quần hào ai cũng thấy tinh thần sảng khoái hẳn lên. Trước mặt trang môn mở lớn, cầu treo đã hạ xuống từ bao giờ, vị cô nương họ Triệu kia vẫn mặc nam trang, đứng ngay tại cửa nghênh tiếp.
    Triệu tiểu thư tiến lên hành lễ, dõng dạc nói:
    - Quí vị hào hiệp của Minh giáo hôm nay giá lâm Lục Liễu Sơn Trang, quả thực là rạng rỡ cho nhà tranh vách đất của chúng tôi. Xin mời Trương giáo chủ, mời Dương tả sứ, mời Ân lão tiền bối, mời Vi Bức Vương...
    Nàng biết hết từng người trong quần hào Minh giáo, không cần phải giới thiệu, thuận miệng nói ra danh hiệu, kẻ cao người thấp không sai một ai. Cả bọn kinh ngạc, Chu Điên nhịn không nổi liền hỏi:
    - Đại tiểu thư, sao cô biết hết tên tuổi chúng tôi? Chẳng lẽ cô có bản lãnh tiên tri hay sao?
    Triệu tiểu thư mỉm cười nói:
    - Quần hiệp Minh giáo danh mãn giang hồ, ai chẳng hay biết? Trận đánh trên Quang Minh Đính mới rồi, Trương giáo chủ dùng tuyệt thế thần công uy nhiếp lục đại môn phái, việc đó đã vang động cả võ lâm. Các vị đến Trung Nguyên, trên đường biết bao bằng hữu võ lâm mong được tiếp đãi, có phải chỉ mình tiểu nữ đâu?
    Mọi người nghe thấy quả không sai, trong bụng mừng thầm nhưng miệng ai cũng khiêm tốn, hỏi ngay đến sư thừa tên tuổi thần tiễn bát hùng. Một người thân thể cao to đáp:
    - Tại hạ là Triệu Nhất Thương, đây là Tiền Nhị Bại, đây là Tôn Tam Hủy, đây là Lý Tứ Tồi.
    Y chỉ tiếp qua mấy người kia nói:
    - Đây là Chu Ngũ Thâu, đây là Ngô Lục Phá, đây là Trịnh Thất Diệt, còn đây là Vương Bát Suy.
    Quần hào Minh giáo nghe xong, ai cũng ngẩn người, nghĩ thầm tám người này họ sắp xếp theo Bách Gia Tính[4] là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương, đã là hết sức lạ lùng rồi nhưng tên lại toàn những chữ không gì tốt lành như Vương Bát Suy chẳng hạn, thật ngoài dự liệu. Thế nhưng người trên giang hồ vì lánh nạn, tránh thù, tùy nghi lấy tên giả là chuyện rất thường, thành ra không dám hỏi thêm.
    Triệu tiểu thư tự mình dẫn đường, nhường cho mọi người tiến vào đại sảnh trước. Quần hào thấy đại sảnh trên cao có treo một tấm biển viết bốn chữ đại tự Lục Liễu Sơn Trang. Ngay tại chính giữa treo một bức tranh Bát Tuấn Đồ[5] do Triệu Mạnh Phủ[6] vẽ, tám con ngựa mỗi con một kiểu không con nào giống con nào, con nào cũng ra vẻ thần mã. Bên phía trái treo một bức bút thiếp, văn viết:
    Bạch hồng tòa thượng phi, Thanh xà hạp trung hống.
    Sát sát sương tại phong, Đoàn đoàn nguyệt lâm nữu.
    Kiếm quyết thiên ngoại vân, Kiếm xung nhật trung đẩu.
    Kiếm phá yêu nhân phục, Kiếm phất nịnh thần thủ.
    Tiềm tương tịch lị mị, Hốt đãn kinh thiếp phụ.
    Lưu trảm hoằng hạ giao, Mạc thí nhai trung cẩu.
    Mống trắng bay vụt lên, Rắn xanh kêu lồng lộn.
    Sương đọng trên đỉnh núi, Mây quấn quanh vầng trăng.
    Kiếm quyết tỏa tận mây, Kiếm khí xung tinh đẩu.
    Kiếm phá phục yêu ma, Kiếm cắt đầu gian nịnh.
    Nằm yên ma quỉ kinh, Vung lên thiếp rùng mình.
    Xuống vực chém giao long, Ai giết chó chạy rông.
    Dưới bài thơ đề một hàng chữ nhỏ: “Dạ thí Ỷ Thiên bảo kiếm, tuân thần vật dã, tạp lục Thuyết Kiếm thi dĩ tán chi. Biện Lương Triệu Mẫn” (Ban đêm lấy bảo kiếm Ỷ Thiên ra thử, thấy quả là thần vật nên tạm chép Thuyết Kiếm ra để ca ngợi. Triệu Mẫn ở Biện Lương đề thơ) Trương Vô Kỵ thư pháp tuy không giỏi nhưng đã theo Chu Cửu Chân học tập phép viết chữ, người khác viết xấu đẹp chàng cũng tạm nhận ra, thấy bức thiếp đó nét bút tung hoành, nhưng vẫn có nét ủy mị, rõ ràng là chữ con gái, biết là vị Triệu tiểu thư này viết. Chàng ngoài y thư ra chẳng đọc sách bao nhiêu, nhưng ý thơ không mấy khúc mắc, đọc là hiểu ngay, nghĩ thầm: “Thì ra nàng vốn là người Biện Lương[7], tên chỉ có một chữ Mẫn, liền nói:
    - Triệu cô nương văn võ toàn tài, thật là bội phục. Thì ra cô nương vốn là thế gia ở cựu kinh đô.
    Triệu tiểu thư Triệu Mẫn mỉm cười nói:
    - Tôn đại nhân của Trương giáo chủ có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, hẳn là danh gia thư pháp. Trương giáo chủ gia học uyên nguyên, tiểu nữ mong được giáo chủ ban cho một bức thiếp.
    Trương Vô Kỵ nghe câu đó, mặt đỏ bừng. Cha chàng mất khi mới lên mười, chưa từng được theo cha tập viết chữ, về sau học thuốc học võ, chữ nghĩa quả thật ít ỏi, liền nói:
    - Cô nương bảo tôi viết chữ, có khác gì giết tôi. Tại hạ bất hạnh, tiên phụ qui tiên từ khi còn nhỏ, chưa được kế thừa sở học của cha, thật là xấu hổ.
    Còn đang nói chuyện, trang đinh đã đem trà lên, thấy trong những chén sứ vũ quá thiên thanh (màu xanh như trời sau cơn mưa), nổi mấy lá trà Long Tỉnh xanh rờn, mùi thơm ngào ngạt. Quần hào ai nấy đều lạ lùng, nơi này cách đất Giang Nam cả mấy nghìn dặm, làm sao có được trà Long Tỉnh còn tươi như thế này? Cô nương này cái gì cũng đều cực kỳ lạ lùng. Triệu Mẫn cầm chén lên uống trước một ngụm, dường như muốn cho mọi người biết trà không có gì độc, đợi mọi người uống xong mới nói:
    - Các vị đường xa chiếu cố đến, tệ trang thật là giản mạn, xin thứ tội cho. Các vị đi đường chắc cũng đã mệt, xin qua bên này ăn chút cơm dùng chút rượu.
    Nói xong, nàng đứng dậy, đưa quần hào qua một hành lang đến một vườn hoa lớn. Trong vườn có giả sơn đá xù xì, suối hồ nước trong vắt, hoa tuy không nhiều nhưng thật là thanh nhã. Trương Vô Kỵ chưa lãnh hội được vẻ đẹp của thú chơi vườn cảnh nhưng Dương Tiêu đã ngầm gật gù, biết rằng chủ nhân của vườn hoa này là kẻ lòng mang chí lớn không phải người thô tục tầm thường.
    Trong thủy các đã bày hai mâm tiệc, Triệu Mẫn liền mời mọi người vào bàn, còn bọn thần tiễn bát hùng Triệu Nhất Thương, Tiền Nhị Bại thì ở sảnh đường bên cạnh bồi tiếp các giáo chúng Minh giáo khác. Ân Lê Đình không sao dậy được, nên Dương Bất Hối phải ở trong phòng đút cơm cho ăn.
    Triệu Mẫn rót đầy một chén rượu lớn, một hơi cạn sạch, nói:
    - Đây là Nữ Trinh Thiệu Hưng trần tửu, đã được một trăm mười tám năm, các vị thử nếm xem tửu vị thế nào?
    Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính tuy đã tin rằng Triệu tiểu thư là người hiệp nghĩa, nhưng vẫn mười phần cẩn thận, xem kỹ hồ rượu, chén rượu không có gì khác lạ, Triệu tiểu thư lại uống một chén trước rồi, mới hết nghi kỵ ăn uống tự nhiên. Giáo qui Minh giáo trước nay vẫn là “ăn chay thờ ma” cấm uống rượu, kỵ ăn mặn nhưng từ khi tổng đàn dọn vào trong dãy Côn Lôn mới bỏ đi các lề luật cấm kỵ này. Tây Vực khó kiếm rau dưa, chỉ toàn là thịt, hơn nữa khí hậu lạnh buốt, nếu như không ăn mỡ bò mỡ cừu, chỉ thuần nội lực thì không đề kháng nổi.
    Trong hồ bao quanh nơi thủy các có trồng bảy tám cây hoa trông giống như thủy tiên nhưng lớn hơn, hoa màu trắng hương thơm thoang thoảng. Quần hào được ngửi hoa thơm, uống rượu ngon, gió hiu hiu mát rượi thật không còn gì thoải mái bằng.
    Triệu tiểu thư ăn nói rất tự nhiên, bàn luận về các nhân vật võ lâm Trung Nguyên thật sành sỏi, nhiều điều đến cha con Ân Thiên Chính cũng không biết. Đối với võ công các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Lôn nàng không khen ngợi lắm nhưng khi nhắc tới Trương Tam Phong và Võ Đương thất hiệp thì hết lời tán tụng, cũng ca ngợi võ công môn phái các thủ lãnh Minh giáo, thoạt nghe tưởng như không có gì đặc sắc nhưng mỗi câu khen ngợi đều đúng vào chỗ trọng yếu. Quần hào vừa hoan hỉ, vừa bội phục, thế nhưng khi hỏi đến võ công môn phái của chính nàng, Triệu Mẫn chỉ mỉm cười không đáp, lảng qua chuyện khác.
    Rượu được mấy tuần, rót đến đâu nàng cạn ly đến đó, thật là hào sảng. Mỗi món ăn đưa lên, nàng cũng đưa đũa gắp một miếng ăn trước, đôi má hồng lên, dường như đã hơi say, trông càng thêm diễm lệ. Người đẹp xưa nay, nếu không dịu dàng ẻo lả thì cũng kiều diễm tươi tắn, nhưng cô gái họ Triệu này không những mười phần xinh đẹp, lại thêm ba phần anh khí, ba phần hào hùng, mà vẫn ung dung cao quí, toát ra một vẻ đoan nghiêm khiến người ta phải nổi lòng kính trọng, không dám coi thường.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Triệu cô nương, được cô nương hậu đãi như thế này, tệ giáo từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích. Tại hạ có một câu muốn hỏi, có điều ngại nên không dám mở miệng mà thôi.
    Triệu Mẫn đáp:
    - Trương giáo chủ sao phải dè dặt thế? Chúng ta hành tẩu giang hồ, bốn bể đều là anh em, các vị nếu không hiềm thì cho tiểu muội được kết bạn. Có chuyện gì sai bảo hỏi han, ắt sẽ hết sức trình bày.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu đã như thế, tại hạ mong được thỉnh vấn, thanh bảo kiếm Ỷ Thiên của cô nương vì sao mà có được?
    Triệu Mẫn mỉm cười, cởi thanh kiếm Ỷ Thiên ở hông ra, đặt lên trên bàn, nói:
    - Tiểu muội từ khi gặp các vị đến giờ, ai nấy chăm chăm mắt không rời thanh kiếm này, không hiểu vì duyên cớ gì, mong cho biết được chăng?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Quả không dám dấu, thanh kiếm này nguyên là sở hữu của Diệt Tuyệt sư thái chưởng môn phái Nga Mi, anh em trong tệ giáo táng thân dưới thanh kiếm này không phải ít. Chính tại hạ đây cũng đã từng bị kiếm này đâm vào ngực, suýt nữa bỏ mạng, vì thế mà ai nấy đều để ý.
    Triệu Mẫn nói:
    - Trương giáo chủ thần công vô địch, từng nghe dùng Càn Khôn Đại Na Di đoạt thanh kiếm này trên tay Diệt Tuyệt sư thái, sao lại có thể bị thương vì nó được? Lại nghe nói kẻ dùng kiếm đâm Trương giáo chủ chỉ là một nữ đệ tử trẻ tuổi của phái Nga Mi, võ công cũng chỉ bình bình, tiểu muội quả không sao hiểu được.
    Nàng nói câu đó không chớp mắt, chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, trên môi dường như điểm một nụ cười. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ thầm: “Sao cô ta biết rõ như thế nhỉ?” liền đáp:
    - Đối phương đâm đột ngột quá, tại hạ chưa kịp để ý cho nên sẩy tay.
    Triệu Mẫn mỉm cười:
    - Chắc Chu Chỉ Nhược Chu tỉ tỉ xinh đẹp lắm, phải không nhỉ?
    Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc, ngượng nghịu nói:
    - Cô nương lại nói đùa rồi.
    Chàng cầm chén lên định uống một ngụm để chữa thẹn, nào hay tay trái hơi run, làm sánh mấy giọt rượu ra ngoài, văng cả lên tà áo. Triệu Mẫn cười nụ nói:
    - Tiểu muội tửu lực không bao nhiêu, ăn nói đã không biết nặng nhẹ nữa rồi, sợ uống thêm đâm ra thất thố. Để xin phép vào trong thay quần áo, sẽ trở ra ngay, xin các vị cứ tự nhiên, đừng khách sáo gì cả.
    Nói xong đứng dậy, làm như kiểu cách nam nhi, cung kính vái một vái rồi đi ra khỏi thủy các, lần theo những luống hoa cành liễu vào bên trong. Thanh Ỷ Thiên kiếm kia vẫn để trên bàn, không đem theo.
    Các gia đinh phục thị tiếp tục đem các món ăn lên. Quần hào không dám ăn tiếp nữa, đợi một lúc lâu, không thấy Triệu Mẫn quay trở lại. Chu Điên nói:
    - Nàng ta để bảo kiếm lại đây, quả là tin bọn mình quá.
    Nói xong cầm thanh kiếm lên để trong tay, đột nhiên “Ối” một tiếng, nói:
    - Sao nhẹ thế này?
    Y cầm cán kiếm rút ra, kiếm vừa khỏi vỏ, quần hào đều đứng bật cả lên, ai nấy cực kỳ kinh ngạc. Kiếm này đâu phải Ỷ Thiên bảo kiếm, chém vàng chặt sắt sắc bén phi thường đâu? Chẳng qua chỉ là một thanh kiếm gỗ màu vàng. Mọi người lập tức ngửi thấy một mùi hương thơm nhè nhẹ, chính là bằng gỗ đàn hương.
    Chu Điên nhất thời không hiểu tại sao, đút kiếm trở lại vỏ, lắp bắp:
    - Dương... Dương tả sứ, cái này... cái này là cái trò gì đây?
    Y tuy ngày ngày cãi cọ với Dương Tiêu, nhưng trong bụng thực sự bội phục Dương Tiêu kiến thức siêu việt, bây giờ gặp chuyện nghi nan, tự nhiên mở mồm hỏi ngay như thế. Dương Tiêu mặt mày trịnh trọng, hạ giọng nói:
    - Giáo chủ, Triệu tiểu thư này mười phần đến chín không có ý tốt đâu. Bây giờ bọn mình ở trong cảnh nguy khốn, nên đi ngay là hơn.
    Chu Điên nói:
    - Việc gì mà sợ? Nếu nàng ta có giở trò gì, với bây nhiêu người chúng ta, chẳng lẽ không đánh cho một trận tan tành hay sao?
    Dương Tiêu nói:
    - Từ khi vào trong Lục Liễu Sơn Trang này, cái gì cũng thấy thần bí, chính chẳng ra chính, tà chẳng ra tà, không biết đường đâu mà mò. Bọn mình việc gì phải ở nơi đây, để cho mọi việc người ta khắc chế?
    Trương Vô Kỵ gật đầu:
    - Dương tả sứ nói phải lắm. Bọn mình ăn uống xong rồi, cáo từ là vừa.
    Nói xong lập tức đứng lên. Thiết Quan đạo nhân hỏi:
    - Thế thanh Ỷ Thiên kiếm thực nay ở đâu, giáo chủ không muốn dò hỏi hay sao?
    Bành Oánh Ngọc nói:
    - Theo thuộc hạ, Triệu tiểu thư này dàn nghi binh, đã toan tính chuyện gì rồi. Mình nếu không đi kiếm cô ta, cô ta sẽ đi kiếm mình.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế, chúng mình bây giờ đang có việc phải làm, không nên thêm việc làm chi. Mai sau mình cứ chờ họ đến, bao giờ rõ ràng mọi việc hãy hay.
    Mọi người ra khỏi thủy các, trở về đại sảnh, bảo gia đinh thông báo tiểu thư, gửi lời cảm ơn bữa thịnh yến rồi lập tức cáo từ. Triệu Mẫn lật đật đi ra, nàng đã thay một bộ áo thêu màu vàng nhạt, hình dung thật là tiêu sái phiêu dật, mặt mày sáng rỡ nói:
    - Vừa mới gặp nhau sao đã vội đi? Hay là chê tiểu nữ tiếp đãi đơn sơ quá chăng?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đa tạ cô nương tiếp đãi hậu hĩ như thế, đâu thể gọi là “đơn sơ” được. Chúng tôi có những việc cần kíp, không dám ở nán lại lâu. Ngày sau có dịp gặp lại, sẽ xin học hỏi thêm.
    Khóe miệng Triệu Mẫn tưởng như cười mà không phải cười, đưa mọi người ra khỏi sơn trang. Thần tiễn bát hùng cung kính đứng hai bên đường, khom lưng tiễn khách. Quần hào ôm quyền từ biệt, không nói một lời giục ngựa chạy ngay, chẳng mấy chốc thấy đã cách xa Lục Liễu Sơn Trang, bốn bề chung quanh là đồng trống, nhưng không thấy ai khác. Chu Điên lớn tiếng nói:
    - Cái cô Triệu tiểu thư này chưa chắc đã sắp đặt chuyện gì không tốt đâu, chẳng qua tính đàn bà trẻ con hay dỡn hớt, nên đem một thanh kiếm gỗ để đùa giáo chủ, có gì mà lo? Dương tả sứ, kỳ này ngươi đi quá xa rồi.
    Dương Tiêu trầm ngâm nói:
    - Là cái trò gì, thực tình tôi không biết rõ, chỉ thấy có gì không ổn thôi.
    Chu Điên cười nói:
    - Dương tả sứ đại danh vang dậy của chúng ta sau trận chiến Quang Minh Đính đã biến thành kinh cung chi... ối chà...
    Y nói tới đây bỗng lảo đảo ngã xuống ngựa. Thuyết Bất Đắc ở gần y nhất, vội vàng nhảy ra, đỡ y lên, hỏi:
    - Chu huynh, sao thế?
    Chu Điên cười nói:
    - Chẳng... chẳng sao cả. Có lẽ uống quá chén, đầu hơi váng vất thôi.
    Y nói tới “váng vất”, quần hào ai nấy đều thất sắc. Thì ra từ khi rời Lục Liễu Sơn Trang, trên đường chạy, ai ai cũng thấy hơi váng vất, nhưng cũng chỉ cho rằng vì uống mấy chén rượu, không ai để ý, thế nhưng Chu Điên võ công cao cường, tửu lượng lại mạnh, uống có vài chén đâu đến nỗi phải ngã ngựa? Bên trong hẳn có gì bất thường.
    Trương Vô Kỵ ngửng đầu lên, duyệt lại một lượt Độc Kinh của Vương Nạn Cô trong đầu, xem có loại độc dược nào không vị, không sắc, không mùi, làm cho người ta choáng váng. Khắp cuốn Độc Kinh xem ra không thấy chỗ nào phù hợp, mà chính mình cùng với quần hào uống chung ăn chung, sao không thấy gì khác lạ? Đột nhiên, trong óc như một ánh chớp lóe lên, giật mình nghĩ tới một chuyện, khiến chàng kinh hoảng kêu to:
    - Tất cả các vị uống rượu ở trong thủy các xuống ngựa hết, ngồi xếp bằng trên đất, nhất định không được vận khí điều tức, cứ để tự nhiên.
    Chàng lại hạ lệnh:
    - Các đệ tử Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia ra bố phòng bốn mặt, nghiêm mật bảo vệ các thủ lãnh, bất luận ai đến gần đều giết hết không tha.
    Mọi người nghe thấy giáo chủ hạ nghiêm lệnh, đáp ứng vang dậy, lập tức rút binh khí chia ra tứ phương. Trương Vô Kỵ lại nói:
    - Phải đợi đến khi ta về, không được ly tán.
    Quần hào không hiểu lý do tại sao, chỉ thấy hơi hơi váng vất, không thấy gì khác, sao giáo chủ lại có vẻ kinh hoảng như thế? Trương Vô Kỵ lại dặn thêm:
    - Dù cho có nhức đầu khó chịu đến đâu, tuyệt đối không được điều vận nội tức, nếu không chất độc phát ra không sao chữa được.
    Quần hào ai nấy hoảng sợ tự hỏi: “Mình trúng độc như thế nào?”.
    Trương Vô Kỵ thân hình hơi lắc một cái, đã vọt ra ngoài hơn chục trượng. Chàng sợ cưỡi ngựa chậm quá, lập tức thi triển khinh công chạy về phía Lục Liễu Sơn Trang. Chàng gấp gáp dị thường biết rằng kỳ này bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính đều trúng chất kịch độc, nếu phát tác thì tính mạng chỉ còn được một giờ ba khắc, không phải như trúng Huyễn Âm Chỉ xong còn có thể diên trì ngày này sang ngày khác, nếu không cướp được giải dược, tất cả mọi người đều chết cả. Đoạn đường hơn hai mươi dặm kia chốc lát đã tới ngay, đến trước sơn trang, chàng lao một cái, thân hình như một mũi tên bắn tới. Những trang đinh canh nơi cửa chỉ thấy hoa mắt, dường như có một cái bóng vụt qua nhưng không nhìn rõ là người nào đã vào trang môn.
    Trương Vô Kỵ liền vọt vào ngay vườn sau, chạy đến thủy các, thấy một thiếu nữ mặc áo màu xanh nhạt, tay trái cầm chén, tay phải cầm sách, đang ngồi uống trà đọc sách, chính là Triệu Mẫn. Lúc này cô ta đã đổi sang y phục đàn bà.
    Nàng nghe thấy tiếng chân Trương Vô Kỵ, quay đầu nhìn lại, mỉm cười. Trương Vô Kỵ nói:
    - Triệu cô nương, tại hạ xin cô vài cây hoa.
    Không đợi nàng trả lời, chân trái điểm một cái, nhảy từ bờ hồ sang thủy các, thân hình tà tà bay qua, chẳng khác gì chuồn chuồn điểm nước, hai tay đã nhổ sạch mấy cây hoa trông như thủy tiên trồng trong hồ. Chàng đang toan đạp lên thủy các, bỗng nghe soẹt soẹt, mấy ngọn ám khí nhỏ li ti đã bắn vào mặt. Tay áo phải Trương Vô Kỵ liền phất một cái, cuộn hết ám khí vào trong, tay áo bên trái hất ra, đánh vào Triệu Mẫn.
    Triệu Mẫn nghiêng người né tránh, chỉ thấy gió nổi vù vù, bao nhiêu bình trà, chén trà, đĩa trái cây trên bàn bị tụ phong thổi bay qua hồ rơi vào trong đám cây cỏ, vỡ tan tành. Trương Vô Kỵ thân hình đứng vững rồi, nhìn lại mấy cây hoa trong tay, thấy mỗi cây đều có một chùm rễ dài màu tím, trên mỗi cái rễ dính đầy những củ lớn bằng hạt hạt ngọc trai, xanh biếc như phỉ thúy, mừng lắm biết là đã có được thuốc giải, lập tức bỏ vào trong túi nói:
    - Đa tạ giải dược, cáo từ.
    Triệu Mẫn nói:
    - Đến thời dễ nhưng đi thì khó.
    Nàng ném quyển sách đi, thuận tay rút từ trong quyển sách hai lưỡi kiếm mỏng như giấy, sáng loáng như gương, đâm tới. Trương Vô Kỵ lo cho thương thế của bọn Ân Thiên Chính, không dám đánh lâu, tay áo phải phất ra, hơn chục mũi kim châm dính trong tay áo cùng bắn tới. Triệu Mẫn nghiêng người nhảy ra khỏi thủy các, chân trái điểm vào bậc thềm một cái nhảy trở lại, trong khi nhảy ra nhảy vào như thế, những mũi kim châm đều rơi cả xuống ao. Trương Vô Kỵ khen ngợi:
    - Hảo thân pháp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:55:45 | Chỉ xem của tác giả
   Chàng lại thấy nàng tay trái ra trước, tay phải ra sau đâm hai thanh đoản kiếm tới, nghĩ thầm: “Con a đầu này lòng dạ độc ác đến thế, nếu ta không luyện được Cửu Dương thần công, đọc được Độc Kinh của Vương Nạn Cô, hôm nay Minh giáo đều bị chết vì tay nó một cách bất minh bất bạch”. Chàng hai tay vươn ra, khi chập lại toan cướp hai thanh đoản kiếm. Triệu Mẫn liền xoay cổ tay dùng kiếm chặt ngón tay Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ không cướp được binh khí của đối phương, cũng hơi lấy làm lạ nhưng thần công của chàng biến ảo khôn lường, khéo léo biết bao, mấy ngón tay liền phất một cái trúng ngay những huyệt đạo trên cổ tay. Kiếm trong tay Triệu Mẫn cầm không vững, thừa thế ném tới, Trương Vô Kỵ nghiêng đầu, nghe băng băng hai tiếng, hai thanh kiếm cắm luôn vào cột thủy các, kình lực vẫn còn rung rung không ngớt. Trương Vô Kỵ trong bụng hơi sợ, nếu nói về võ công, nàng kém xa Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, nhưng nói về cơ cảnh linh mẫn, biến chiêu vừa nhanh vừa độc, song kiếm không còn giữ được vẫn còn toan đả thương người, nếu như né tránh chậm một chút có phải chết dưới kiếm của nàng rồi không?
    Triệu Mẫn mất hai thanh kiếm rồi, liền lật tay lại cầm luôn thanh kiếm gỗ Ỷ Thiên nhưng không rút ra, múa lên đâm vào hông Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ liền giơ ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên trái điểm vào huyệt Kiên Trinh trên vai nàng, đợi Triệu Mẫn vừa né qua, liền thò tay phải dùng Càn Khôn Đại Na Di đoạt luôn thanh kiếm gỗ.
    Triệu Mẫn vừa đứng vững liền cười hì hì nói:
    - Trương công tử, công phu đó là công phu gì thế? Có phải Càn Khôn Đại Na Di đấy không? Tôi xem cũng bình bình không có gì lạ.
    Trương Vô Kỵ liền xòe tay trái ra, trong lòng bàn tay có một đóa hoa kết bằng ngọc trai đang rung động, chính là bông hoa nàng cắm ở trên mái tóc. Triệu Mẫn sắc mặt hơi đổi khác, Trương Vô Kỵ lấy bông hoa trên tóc nàng không hay biết gì cả, nếu như thay vì thò tay lấy bông hoa lại đánh vào huyệt thái dương một cái thì mạng nàng đâu còn nữa. Thế nhưng Triệu Mẫn trấn tĩnh ngay, cười nhạt một tiếng nói:
    - Nếu công tử thích bông châu hoa đó thì tôi tặng cho công tử cần gì phải ra tay cướp đoạt.
    Trương Vô Kỵ nghe nàng nói dường như cho mình có ý không tốt, tay trái liền vung lên một cái ném trả bông hoa, nói:
    - Trả lại cho cô.
    Quay mình ra khỏi thủy các. Triệu Mẫn giơ tay đón lấy bông hoa, kêu lên:
    - Khoan đã.
    Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy nàng cười nói:
    - Sao công tử lại lấy mất hai viên ngọc trai lớn nhất trên đóa hoa này là sao?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Chỉ nói quấy quá, tôi không hơi đâu mà đùa với cô.
    Triệu Mẫn giơ cao đóa hoa, nghiêm mặt nói:
    - Xem này, chẳng phải mất hai viên ngọc trai đấy ư?
    Trương Vô Kỵ nhìn đến quả nhiên có hai sợi chỉ vàng thiếu mất hạt châu, biết là nàng cố tình giựt đứt để dụ cho mình đến gần hầu thi hành ngụy kế nên chỉ hừ một tiếng không thèm để ý đến nữa. Triệu Mẫn tay vịn vào thành bàn, thống thiết kêu lên:
    - Trương Vô Kỵ, ngươi có giỏi thì đến cách ta ba bước xem nào.
    Trương Vô Kỵ không mắc vào kế nói khích của nàng, nói:
    - Cô bảo tôi nhát gan sợ chết cũng chẳng sao.
    Nói xong nhảy xuống hai bậc thềm. Triệu Mẫn thấy mình khích tướng không đi đến đâu mặt liền biến sắc, buồn bã nói:
    - Thôi rồi, thôi rồi. Hôm nay ta đã đến nước này, còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ?
    Nàng vói tay rút ngay một thanh đoản kiếm cắm trên cột, kêu lên:
    - Trương giáo chủ, đa ta ngươi đã thành toàn cho ta.
    Trương Vô Kỵ quay đầy nhìn lại, chỉ thấy một ánh sáng trắng lóe lên, nàng đã đâm thẳng mũi kiếm vào ngực. Trương Vô Kỵ cười nhạt:
    - Ta đâu có để cho...
    Chưa nói tới chữ “cô lừa” thì thấy mũi kiếm quả thật đã đâm vào ngực, Triệu Mẫn thảm thiết kêu lên một tiếng, gục ngay xuống bàn. Trương Vô Kỵ kinh hoảng không để đâu cho hết, không ngờ cô gái lại ngang ngạnh đến vậy, vài chiêu chưa thắng đã vung kiếm tự sát ngay, nghĩ thầm nếu như nhát kiếm không trúng tim thì may ra còn cứu được. Chàng liền quay trở lại chạy tới coi thương thế của nàng thế nào.
    Chàng vừa tới cách bàn chừng ba bước, đang toan thò tay nắm lấy vai cô ta, bỗng nhiên dưới chân hỗng xuống, đạp vào chỗ không, thân hình rơi tụt ngay xuống. Chàng biết là không ổn, hai tay áo vận khí phất xuống, thân hình đang trên không lập tức ngừng lại, liền giơ tay đánh một chưởng vào cạnh bàn. Chưởng đó nếu đánh trúng, chàng có thể mượn sức vọt lên, không để rơi vào chiếc hầm dưới chân. Nào ngờ Triệu Mẫn tự sát là giả nên đã liệu trước chuyện này, chưởng phải vận kình đánh ra không để cho tay chàng đụng vào bàn.
    Chuyện đó nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ trong nháy mắt, song chưởng đụng nhau, Trương Vô Kỵ đã rơi tụt xuống lưng chừng, vội vàng lật tay một cái, chộp luôn mấy ngón tay phải của Triệu Mẫn. Bàn tay nàng trơn tuột, dường như muốn thoát ra, nhưng Vô Kỵ chỉ cần một chút lực có thể mượn được, là có thể bay vụt lên, chàng liền vươn tay nắm cánh tay cô gái. Thế nhưng đang sức rơi rất mạnh, chàng vừa nắm được Triệu Mẫn, hai người cùng lộn xuống hầm.
    Chỉ thấy tối đen như mực, thân hình tiếp tục rơi xuống, nghe một tiếng cách ở trên đầu, cửa hầm bên trên đã đóng chặt lại. Hai người rơi đến bốn năm trượng mới tới đáy. Trương Vô Kỵ vừa chạm đất, lập tức nhảy lên, thi triển Bích Hổ Du Tường Công[8] bò lên đến tận trên, giơ tay đẩy nắp đậy. Tấm bửng đó vừa chắc vừa lạnh, là một thiết bản thật lớn, đẩy vào chỉ trơ trơ. Chàng tuy có Càn Khôn Đại Na Di thần công nhưng thân hình lơ lửng trên không đâu có được như đứng trên mặt đất mà lực đạo chuyển qua chuyển lại, đẩy tới đẩy lui một hồi, tấm sắt không hề lay chuyển, thân hình lại tụt trở xuống.
    Triệu Mẫn cười khanh khách:
    - Bên trên có tám thanh sắt to chặn lại, công tử ở bên dưới, dù có mạnh đến đâu cũng không sao mở được.
    Trương Vô Kỵ giận nàng giảo hoạt gian trá, không thèm để ý đến, lần mò chung quanh cái hố để tìm cách thoát thân nhưng cả bốn bề đều lạnh ngắt, trơn tuột, cứng rắn dị thường. Triệu Mẫn cười nói:
    - Trương công tử, công phu Bích Hổ Du Tường cửa công tử thật là tài tình. Cái hầm này làm bằng thép đúc, rèn trơn như thế, ngay cả đường nối cũng không, thế mà công tử vẫn trèo lên được, hi hi, ha ha.
    Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
    - Chính cô cũng bị nhốt chung với tôi ở dưới đây, có gì đáng cười đâu?
    Đột nhiên nghĩ ra: “Con a đầu này gian xảo lắm, cái hố này hẳn phải có đường ra, không thể để nó trốn ra một mình”. Chàng bèn tiến lên nắm chặt tay cô gái. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:
    - Ngươi làm gì thế?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô đừng nghĩ chuyện thoát ra một mình. Nếu muốn sống thì mau mau mở tấm nắp đậy ra.
    Triệu Mẫn cười đáp:
    - Công tử làm gì mà lo thế? Mình đâu có chết đói ở dưới này đâu mà sợ. Để họ tìm không thấy tôi, ắt sẽ mở cho mình ra. Có lo là thủ hạ của tôi lại tưởng tôi đi ra ngoài, cái đó mới là phiền.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Thế cái hố này không có cơ quan để mở đường ra hay sao?
    Triệu Mẫn cười đáp:
    - Trông mặt công tử có vẻ thông minh mà sao hỏi một câu ngớ ngẩn thế? Cái hố này có phải làm ra để chơi cho vui đâu. Làm ra để bắt kẻ địch mà lại cố ý thiết lập cơ quan đóng mở thì địch nhân ra mất còn gì?
    Trương Vô Kỵ nghĩ nàng ta nói không sai nói:
    - Có người rơi xuống hố, không lẽ bên ngoài không hay biết gì? Cô mau bảo người ta mở nắp hầm ra.
    Triệu Mẫn nói:
    - Thủ hạ của tôi sai đi ra ngoài cả rồi, công tử có thấy ai khác ở trong thủy các đâu? Ngày mai giờ này họ mới trở về. Công tử không phải nóng ruột, cứ nghỉ một lát, mình cũng mới ăn xong chưa đến nỗi đói.
    Trương Vô Kỵ nổi khùng, nghĩ thầm: “Ta có đợi thêm cũng đâu có sao nhưng làm sao cứu được ông ngoại với những người khác?”. Năm ngón tay bóp chặt, sử đến hai thành kình lực, quát lên:
    - Cô không thả tôi ra ngay, tôi sẽ giết cô trước.
    Triệu Mẫn cười nói:
    - Nếu công tử giết tôi thì vĩnh viễn không thể nào ra khỏi cương lao này được. Mà này, nam nữ thụ thụ bất thân, sao công tử cứ nắm tay tôi mãi thế?
    Trương Vô Kỵ bị cô ta trách cứ, vội vàng bỏ tay nàng ra, lùi lại hai bước, ngồi dựa vào tường. Cái hầm này vuông vức bất quá vài thước, dù có xa nhất hai người cũng chỉ cách nhau một bước, càng bồn chồn, càng bực bội, ngửi thấy hơi thở của cô gái, cộng thêm hương thơm của những cây hoa trong túi, lòng chàng không khỏi lâng lâng liền đứng lên giận dữ nói:
    - Minh giáo chúng tôi vốn không quen biết, không thù oán gì với cô, sao cô lại mưu tính ác độc đưa tất cả chúng tôi vào chỗ chết?
    Triệu Mẫn nói:
    - Công tử còn nhiều chuyện chưa biết, nếu đã hỏi đến, để tôi nói cho nghe từ đầu. Công tử có biết tôi là ai không?
    Trương Vô Kỵ nghĩ lại quả không sai, tuy cũng muốn biết dụng ý và lai lịch của cô gái này nhưng nếu chờ được cô ta từ đầu kể lại đầy đủ, bọn Ân Thiên Chính chắc đã bị chất độc phát tác chết cả rồi, huống chi biết được cô ta nói thật hay giả, nếu như bịa chuyện nói lăng nhăng thì mất biết bao nhiêu thì giờ. Trước mắt thấy không còn biện pháp gì khác chỉ còn cách ép cho nàng phải mở cửa hầm cho mình ra, liền nói:
    - Tôi không biết cô là ai, cũng không có hơi đâu mà nghe cô nói. Cô có gọi người mở cho tôi ra không thì bảo?
    Triệu Mẫn nói:
    - Có ai đâu mà gọi? Hơn nữa, ở dưới này có kêu gào bên trên cũng không nghe thấy. Nếu công tử không tin thì kêu mấy tiếng thử xem.
    Trương Vô Kỵ giận dữ giơ tay nắm đầu vai cô gái, Triệu Mẫn hoảng sợ kêu lên một tiếng, giơ tay ra gạt nhưng đã bị điểm trúng huyệt đạo nơi hông không cử động được. Trương Vô Kỵ tay trái giơ ra nắm ngay yết hầu nàng nói:
    - Tôi chỉ bóp nhẹ một cái thì cô sẽ táng mạng ngay.
    Lúc đó hai người đứng sát bên nhau, thấy nàng thở hổn hển, hơi thơm như lan, Trương Vô Kỵ vội ngửng đầu về sau cho mặt mình xa mặt cô ta một tí. Triệu Mẫn đột nhiên khóc rấm rứt:
    - Ngươi hà hiếp ta, ngươi hà hiếp ta.
    Việc đó quả ngoài dự liệu nên chàng ngạc nhiên, vội vàng bỏ tay ra nói:
    - Tôi đâu có ý định hà hiếp cô, chỉ muốn cô thả tôi ra thôi.
    Triệu Mẫn khóc nói:
    - Có phải tôi không bằng lòng đâu. Được rồi, để tôi gọi.
    Nàng cao giọng gọi lớn:
    - Này, này, có ai không? Mở nắp hầm ra, ta bị rơi xuống cương lao đây này.
    Nàng liên tiếp kêu réo, bên ngoài vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Triệu Mẫn cười nói:
    - Thấy chưa, có ích gì đâu?
    Trương Vô Kỵ cực kỳ giận dữ nói:
    - Không biết xấu, vừa khóc xong lại cười, còn ra cái trò gì nữa?
    Triệu Mẫn nói:
    - Chính ngươi mới là không biết xấu. Thân con trai mà sao lại ăn hiếp con gái chân yếu tay mềm?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô mà chân yếu tay mềm ư? Cô ngụy kế đa đoan, còn ghê gớm gấp mười người đàn ông.
    Triệu Mẫn cười:
    - Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám nhận.
    Trương Vô Kỵ thấy tình thế khẩn cấp, nếu không ra tay độc ác thì toàn thể người trong Minh giáo sẽ chết sạch, liền nghiến răng, thò tay ra, soẹt một tiếng đã xé ngay một mảnh vải quần của cô ta. Triệu Mẫn tưởng chàng đột nhiên có tà ý, lúc này cực kỳ hoảng sợ kêu lên:
    - Ngươi... ngươi làm gì thế?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu cô bằng lòng thả tôi ra thì gật đầu.
    Triệu Mẫn nói:
    - Để làm gì?
    Trương Vô Kỵ không thèm để ý, nhổ nước miếng cho ướt mảnh vải nói:
    - Xin lỗi nhé, tôi cũng đành vậy biết sao hơn.
    Chàng lấy mảnh vải bịt chặt mồm mũi cô gái lại, Triệu Mẫn không thở được nữa chỉ giây lát đã thấy tức ngực chịu không nổi. Thế nhưng nàng ta thật ương ngạnh, nhất định không gật đầu, sau cùng dãy dụa mấy cái rồi ngất đi.
    Trương Vô Kỵ giơ tay thăm mạch thấy nhảy rất yếu ớt nên bỏ miếng vải ướt bịt miệng mũi cô ta ra. Một lát sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, rên lên mấy tiếng. Trương Vô Kỵ nói:
    - Như thế đâu có thích thú gì phải không? Cô thả tôi ra hay không nào?
    Triệu Mẫn hậm hực nói:
    - Dù ta có ngất đi một trăm lần, ta cũng không thả, để xem ngươi có dám giết ta chăng?
    Nàng đưa tay chùi miệng mũi, hứ mấy tiếng nói:
    - Nước miếng ngươi, hừ, thối muốn chết được.
    Trương Vô Kỵ thấy nàng ta cứng đầu như thế, không biết phải làm sao, thêm một lúc nữa càng thêm nóng ruột nói:
    - Tôi vì cứu mạng cho mọi người đành phải làm ẩu một phen, đừng trách vô lễ nhé.
    Chàng nắm lấy bàn chân trái nàng, lột luôn giày vớ ra. Triệu Mẫn vừa giận vừa sợ, kêu lên:
    - Xú tiểu tử, ngươi làm gì thế?
    Trương Vô Kỵ không trả lời, lại lột luôn giày vớ chân phải, giơ ngón tay trỏ điểm vào huyệt Dũng Tuyền dưới gan bàn chân, vận Cửu Dương thần công lên, một luồng khí ấm liền theo ngón tay truyền vào.
    Huyệt Dũng Tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân khởi đầu của Túc Thiếu Âm Thận Kinh, là nơi nhạy cảm hơn cả. Trương Vô Kỵ tinh thông y lý biết rõ như thế. Trẻ con chơi đùa thường lấy tay cù vào gan bàn chân sẽ làm cho đối phương tê cả người, lúc này chàng dùng khí nóng của Cửu Dương thần công mơn man huyệt Dũng Tuyền, so với lấy lông chim hay tóc cọ xát vào còn khó chịu gấp bội. Chỉ mới cù mấy cái, Triệu Mẫn nhịn không nổi phải cười lên khanh khách, toan rút chân về để tránh nhưng khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm làm sao cử động gì được? Nỗi khổ đó còn khó chịu hơn dùng dao cắt, dùng roi đánh, chẳng khác gì muôn ngàn con rận cùng thi nhau cắn ngũ tạng lục phủ, cốt tủy huyết quản một lượt, khiến nàng chỉ cười được mấy tiếng rồi chịu không nổi khóc òa lên.
    Trương Vô Kỵ mặc kệ tiếp tục tra tấn. Trái tim Triệu Mẫn dường như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài, các chân lông chân tóc toàn thân ngứa không chịu nổi như muốn rụng hết, mở miệng mắng chửi:
    - Tên thối tha... tên giặc con... sẽ có ngày ta đem ngươi ra... lăng trì tùng xẻo... thôi... thôi... tha... tha cho tôi... Trương... Trương giáo chủ... Trương công tử... Trương giáo... giáo chủ... hu hu... hu hu...
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Cô đã chịu thả tôi ra chưa?
    Triệu Mẫn khóc nói:
    - Để tôi... thả... mau ngừng... ngừng tay...
    Trương Vô Kỵ bấy giờ mới ngưng lại nói:
    - Xin lỗi nhé.
    Chàng nắn mấy cái vào lưng giải khai huyệt đạo cho nàng. Triệu Mẫn thở phào một hơi, mắng:
    - Tặc tiểu tử, đi vớ xỏ giày vào cho ta.
    Trương Vô Kỵ cầm chiếc vớ lụa, một tay cầm chân nàng. Khi trước chàng chỉ chăm chăm lo thoát thân, không có ý gì khác, lúc này cầm bàn chân nhỏ nhắn mềm mại của cô gái, trong lòng không khỏi lâng lâng. Triệu Mẫn thẹn thùng rụt chân về, mặt đỏ bừng, cũng may là trong hầm tối đen nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy, nàng chẳng nói chẳng rằng tự mình đi vớ xỏ giày, trong chỉ một giây bỗng thấy lòng nổi lên một cảm giác lạ kỳ, tưởng như lại mong được chàng cầm chân mình lần nữa. Bỗng nghe Trương Vô Kỵ hậm hực quát lên:
    - Mau lên, mau lên, thả tôi ra.
    Triệu Mẫn không nói một lời, giơ tay mò lên tường kiếm chỗ có khắc một cái vòng tròn, xoay ngược cán kiếm, tại cái vòng đó gõ khi chậm khi nhanh, lúc dài lúc ngắn đâu bảy tám tiếng. Gõ vừa xong, nghe xạch một tiếng, một luồng ánh sáng từ trên đầu chiếu xuống, cái nắp hầm đã mở ra. Cái vòng đó có cơ quan liên lạc với bên ngoài, nàng đã ước định tín hiệu nên khi nghe thấy, người canh cửa liền mở nắp hầm ra.
    Trương Vô Kỵ đâu ngờ bảo mở là mở nhanh đến thế, không khỏi ngạc nhiên nói:
    - Thôi mình đi ra.
    Triệu Mẫn cúi đầu đứng qua một bên, không nói lời nào. Vô Kỵ nghĩ nàng là một cô gái nhỏ, nếu mình còn chì chiết thêm nữa không khỏi thất thố, vái một vái nói:
    - Triệu cô nương, vừa rồi chuyện chẳng đặng đừng mới làm như thế, bây giờ xin tạ tội.
    Triệu Mẫn hất đầu quay sang nhìn vào tường, đôi vai rung rung hình như đang khóc. Khi nàng ta gian trá độc ác, Trương Vô Kỵ cùng nàng đấu trí đấu lực không có một chút tạp niệm nào, bây giờ thấy lòng hổ thẹn, thấy tấm lưng thon của nàng, nước da nơi cổ trắng như ngọc, làn tóc xõa ra, không khỏi nhủ lòng thương cảm nói:
    - Triệu cô nương, tôi đi nhé. Trương mỗ thật là không phải.
    Chàng thấy bóng lưng Triệu Mẫn rung rung nhưng nàng không quay lại. Trương Vô Kỵ không dám nấn ná thêm, lập tức thi triển công phu Bích Hổ Du Tường trèo lên, đến khoảng còn chừng hơn một trượng, chân phải điểm vào tường một cái, bay vọt lên cao, tay áo phất một cái bảo vệ trên đỉnh đầu sợ có kẻ nào ở trên đánh lén. Chân chàng chưa rơi chạm đất nhìn chung quanh, thấy thủy các không một bóng người. Chàng không muốn gây thêm chuyện, vượt qua tường theo đường nhỏ chạy về nơi quần hào Minh giáo đang đợi. Trước mắt thấy trời đã ngả bóng, hóa ra chàng bị hãm dưới hầm hơn nửa giờ, không biết tính mệnh bọn Ân Thiên Chính giờ này ra sao, trong bụng lo lắng lại càng chạy nhanh hơn, chẳng bao lâu đã về gần tới nơi quần hào dừng chân, không khỏi giật mình kinh hãi.
    Trước mặt đại đội kỵ binh Mông Cổ chạy qua chạy lại, vây chặt người của Minh giáo, quân Nguyên ai nấy giương cung, nhắm vào người trong vòng bắn tới. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Những nhân vật thủ lãnh của bản giáo ai ai cũng trúng độc cả, không ai ra lệnh chỉ huy, làm sao chống trả được với đại đội quân địch vây đánh?". Chàng gia tăng cước lực, chạy vọt lên.
    Chạy đến gần hơn, thấy trong đám người một giọng con gái trong trẻo cất lên:
    - Nhuệ Kim Kỳ tấn công mặt đông bắc, Hồng Thủy Kỳ bao vây phương tây nam.
    Đó chính là giọng của Tiểu Siêu. Nàng vừa ra lệnh xong, một đội giáo chúng mang cờ trắng liền xung sát mặt đông bắc, còn một đội giáo chúng mang cờ đen bao vòng qua mặt tây nam. Quân Nguyên chia ra chống đỡ, đột nhiên đội cờ vàng Hậu Thổ Kỳ, cờ xanh Cự Mộc Kỳ song song từ trong đánh ra, chẳng khác gì một con rồng xanh, một con rồng vàng chộp tới. Quân Nguyên bị đánh tập hậu, trận thế liền đại loạn, phải lùi về sau.
    Trương Vô Kỵ nhảy mấy cái, đã tới trước mặt các giáo chúng. Mọi người thấy giáo chủ quay về đều reo hò ầm ỹ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trương Vô Kỵ thấy Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Chu Điên và các chính phó kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ vẫn ngồi dưới đất, còn Tiểu Siêu tay cầm cờ lệnh, đứng trên gò đất chỉ huy giáo chúng ngự địch. Những người trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ đều võ nghệ cao cường, chỉ vì thủ lãnh trúng độc nên loạn cả lên, đến khi Tiểu Siêu dùng thuật số bát quái bố trí chống đỡ, quân Nguyên không thể tấn công lên được nữa.
    Tiểu Siêu mừng rỡ kêu lên:
    - Trương công tử, mời công tử lên chỉ huy.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi đang bận, cô cứ chỉ huy tốt hơn, để tôi xung sát một trận, giết vài tên quân quan.
    Chỉ thấy vèo vèo mấy tiếng, mấy mũi tên nhắm chàng bắn tới. Trương Vô Kỵ giật ngay một thanh trường mâu của một giáo chúng, gạt hết những mũi tên đó ra, vung tay một cái ném chiếc thương đó bay vụt ra ngoài, xuyên qua ngực một tên bách phu trưởng, đóng chặt y xuống đất. Quân Nguyên liền kêu la ầm ỹ, lui ra ngoài mấy chục bước.
    Đột nhiên nghe tiếng tù và u u vang lên, độ mươi tên kỵ binh từ xa chạy tới. Trương Vô Kỵ thấy đi trước chính là bọn thần tiễn bát hùng, thủ hạ của Triệu Mẫn, không khỏi nhíu mày nghĩ thầm: “Tám người này tiễn pháp quá ư ghê gớm, nếu để bọn chúng bắn tên e rằng anh em sẽ bị thương không phải ít, ta nên tiên hạ thủ vi cường”.
    Người thủ lãnh của thần tiễn bát hùng là Triệu Nhất Thương tay cầm một cây đoản trượng khắc đầu rồng màu vàng kêu lớn:
    - Chủ nhân có lệnh, lập tức thu binh.
    Người thiên phu trưởng chỉ huy đội quân Nguyên liền nói xí xố mấy tiếng Mông Cổ, bọn quân quan liền quay đầu ngựa chạy đi. Tiền Nhị Bại tay cầm một cái khay, xuống ngựa tiến đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng nói:
    - Chủ nhân chúng tôi xin giáo chủ nhận món quà lưu niệm.
    Trương Vô Kỵ nhìn đến thấy khay lót một tấm nhiễu màu vàng, trên để một chiếc hộp hoàng kim, trạm trổ cực kỳ tinh xảo. Trương Vô Kỵ không ngại y làm trò quỉ gì, giơ tay cầm lấy. Tiền Nhị Bại cung thân hành lễ, lùi lại ba bước, quay mình lên ngựa đi thẳng.
    Trương Vô Kỵ thuận tay giao luôn cái hộp cho Tiểu Siêu, chàng lo lắng cho bệnh tình của mọi người, không thì giờ đâu mà xem trong hộp có gì, lập tức lấy trong bọc ra những cây hoa, sai người đem nước lạnh tới nghiền nát những rễ màu đỏ và những củ màu xanh, hòa vào trong nước, chia cho Ân Thiên Chính, Dương Tiêu và các chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ uống. Chuyến đi này, tất cả những ai yến ẩm nơi thủy các, trừ Trương Vô Kỵ có Cửu Dương thần công hộ thể ra nên chư độc bất xâm, các thủ lãnh Minh giáo ai ai cũng đều bị trúng độc cả. Chỉ có Dương Bất Hối vì phải đút cơm cho Ân Lê Đình ở bên ngoài, Tiểu Siêu và các giáo chúng ăn cơm ngoài đại sảnh, ai ai theo lệnh giáo chủ, phàm vật gì trước khi cho vào mồm đều dùng ngân châm thử trước nên không ai bị trúng độc.
    Thuốc giải độc thật công hiệu, chưa đến nửa giờ sau, độc tính trong cơ thể quần hào đều tiêu giải không còn thấy đầu váng mắt hoa nhưng toàn thân dường như hơi sức mất hết, lập tức hỏi xem đã bị trúng độc như thế nào.
    Trương Vô Kỵ thở dài:
    - Bọn ta mọi việc đều đã đề phòng, những món ăn uống rượu thịt không hề có chất độc bản nhân đã xem xét kỹ. Nào ngờ cách hạ độc của Triệu cô nương thật không sao ngờ nổi. Cây hoa trông như thủy tiên kia gọi là Túy Tiên Linh Phù, tuy rất khó kiếm nhưng vốn không có độc tính. Còn thanh kiếm Ỷ Thiên giả kia làm bằng một loại gỗ dưới đáy biển tên là Kỳ Lăng Hương Mộc, vốn cũng không độc. Thế nhưng hai mùi kia trộn lại với nhau thì biến thành kịch độc.
    Chu Điên vỗ đùi kêu lên:
    - Cũng tại ta cả, ai bảo ta ngứa tay rút thanh kiếm Ỷ Thiên kia ra làm cái mẹ gì cơ chứ.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô ta nếu đã tính toán chuyện hại chúng ta, nếu Chu huynh không động thủ thì cũng sai người đến rút ra để hạ độc không thể nào phòng bị nổi.
    Chu Điên nói:
    - Đi, mình đến cho một mồi lửa đốt rụi cái Lục Liễu Sơn Trang đó cho rồi.
    Y vừa nói tới câu đó, thấy đằng xa khói đen đã bốc lên, bên trong ánh lửa thấp thoáng chính là Lục Liễu Sơn Trang đang cháy.
    Quần hào ai nấy nhìn nhau không nói được một lời nào, trong bụng ai cũng nghĩ thầm: “Triệu cô nương này chuyện gì cũng tính trước được cả, biết rằng mình giải độc xong thể nào cũng tới đốt trang viện thành ra phóng hỏa trước cho chắc ăn. Cô ta tuổi còn nhỏ, lại phận đàn bà nhưng quả là một kình địch”.
    Chu Điên lại vỗ đùi kêu lên:
    - Cô nàng đốt trang viện thì ăn thua gì? Mình cũng cứ tới đuổi đánh cho một trận tan tành mới thôi.
    Dương Tiêu nói:
    - Đến như trang viện cô ta cũng đã đốt rồi đủ biết chuyện gì cũng tính toán trước, xem ra mình có đuổi cũng không kịp đâu.
    Chu Điên nói:
    - Dương huynh, võ công ngươi không nói làm gì, ngay cả mưu kế xem ra cũng còn hơn Chu Điên này một bực.
    Dương Tiêu cười:
    - Không dám, không dám. Chu huynh thần cơ diệu toán, tiểu đệ làm sao bì kịp?
    Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Hai vị bất tất quá khiêm nhường. Bọn mình kỳ này không bị tổn thất lớn, chỉ có mười ba mười bốn anh em bị trúng tên, cũng là may lắm rồi, thôi lên đường là vừa.
    Trên đường đi quần hào hỏi Vô Kỵ xem làm sao tìm ra được nguyên ủy bị trúng độc, Trương Vô Kỵ nói:
    - Ta nhớ trong Độc Kinh có một đoạn chép:
    Kỳ Lăng Hương Mộc nếu như gặp phải hương thơm của một loại giống như thủy tiên, có thể làm cho người ta say sưa mê mẩn mấy ngày, nếu dùng cái củ tròn của cây hoa pha với nước thì giải được. Nếu không giải kịp, độc tính sẽ ăn vào tim phổi.
    Túy Tiên Linh Phù so với loại phù dung thường còn lợi hại hơn nhiều. Vì thế tôi dặn các vị chớ nên vận tức dụng công, nếu không hương hoa sẽ đi vào các kinh mạch có thể nguy hiểm đến tính mạng.
    Vi Nhất Tiếu nói:
    - Không ngờ con a hoàn Tiểu Siêu lại lập được kỳ công, nhân khi nguy cấp nếu không có cô ta đứng ra, bọn mình bị chết chắc nhiều lắm.
    Dương Tiêu vốn cho rằng Tiểu Siêu là của kẻ địch sai đến nằm vùng nhưng sau chuyện hôm nay, cô nàng đã thành một công thần của Minh giáo, khiến y không sao ngờ nồi, nhất thời không hiểu nguyên do ra sao.
    Mọi người trên đường đi đàm luận lai lịch Triệu Mẫn nhưng chẳng ai có được đầu mối nào. Trương Vô Kỵ không nói chuyện chàng bị rơi xuống hố cùng với Triệu Mẫn, việc mình cù gan bàn chân nàng để thoát thân, tuy trong lòng không có điều gì phải hổ thẹn nhưng trước mặt mọi người thì chuyện này thì cũng khó ăn khó nói. Tối hôm đó mọi người vào quán trọ nghỉ ngơi, còn đại đội nhân mã chia ra tìm đền đài miếu mạo ngủ tạm. Tiểu Siêu lấy một thau nước bưng vào phòng, Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiểu Siêu, hôm nay em lập được kỳ công, từ rày không phải làm những tiện dịch của tôi đòi như trước nữa.
    Tiểu Siêu cười nói:
    - Em rất thích được hầu hạ công tử, có gì đâu mà tiện dịch hay không tiện dịch?
    Đợi chàng rửa mặt xong, Tiểu Siêu lấy chiếc hộp vàng ra nói:
    - Không biết bên trong hộp có độc trùng độc dược, độc tiễn ám khí gì không?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng vậy, cứ cẩn thận là hơn.
    Chàng để chiếc hộp trên bàn, cầm tay nàng kéo ra xa, lấy trong túi ra một đồng tiền vung tay ném tới, nghe keng một tiếng trúng ngay mép cái hộp, nắp hộp liền mở tung ra, không có gì khác lạ. Chàng đến gần xem thấy trong hộp là một chiếc hoa kết bằng trân châu, vẫn còn đang rung rinh, chính là đóa hoa Triệu Mẫn cài trên đầu. Hai viên ngọc trai Triệu Mẫn ngắt đi nay đã đính lại trên sợi chỉ bằng vàng. Chàng không khỏi ngẩn người, không hiểu có dụng ý ra sao.
    Tiểu Siêu cười nói:
    - Công tử, vị Triệu cô nương này đối với công tử tốt quá, trịnh trọng sai người đến biếu công tử một đóa hoa kết bằng ngọc trai.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Ta là đàn ông, có được món trang sức của đàn bà này làm gì? Tiểu Siêu, cô cầm lấy mà đeo vậy.
    Tiểu Siêu xua tay, cười nói:
    - Thế sao được? Người ta có tình ý với công tử, sao em dám lấy?
    Trương Vô Kỵ dùng ba ngón tay cầm lấy bông hoa, cười nói:
    - Trúng.
    Vung tay ném ra, không nặng không nhẹ cắm luôn vào tóc Tiểu Siêu, chiếc kim dưới bông hoa không hề chạm vào da thịt. Tiểu Siêu toan dứt xuống, Trương Vô Kỵ xua tay nói:
    - Chẳng lẽ tôi tặng em một món quà nhỏ cũng không được hay sao?
    Tiểu Siêu hai má hồng lên, nói nhỏ:
    - Vậy thì đa tạ công tử. Chỉ sợ tiểu thư thấy lại bực mình.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hôm nay cô đã làm được một việc lớn, cha con Dương tả sứ lẽ nào còn nghi ngờ cô?
    Tiểu Siêu lòng đầy vui sướng, nói:
    - Em thấy công tử đi lâu quá không về, trong bụng thật nôn nóng. Thế rồi bọn Thát tử đến tấn công, không biết vì sao dám lớn mật đứng lên hô hoán, bây giờ nghĩ lại thật là sợ hãi. Công tử, nhờ công tử nói lại với quí vị trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ là Tiểu Siêu to gan làm càn, xin các vị đó đừng trách.
    Trương Vô Kỵ mỉm cười:
    - Bọn họ cám ơn cô còn chưa đủ, sao lại trách cứ?
    Chẳng bao lâu đã đến cảnh giới tỉnh Hà Nam. Lúc ấy thiên hạ đại loạn, quần hùng bốn phương nổi lên, quan quân Mông Cổ tra xét càng thêm nghiêm nhặt. Đại đội Minh giáo đi thành đoàn không tiện, chia ra nhiều nhóm hẹn đến chân núi Tung Sơn sẽ gặp lại nhau, rồi sẽ cùng lên ngọn Thiếu Thất, lúc ấy Chưởng kỳ sứ Cự Mộc Kỳ là Văn Thương Tùng sẽ đem danh thiếp mọi người đưa lên chùa Thiếu Lâm.
    Trương Vô Kỵ biết rằng kỳ này mình lên Thiếu Lâm vấn tội, tuy không muốn tái động can qua nhưng kết quả ra sao thực khó mà biết. Nếu tăng chúng chùa Thiếu Lâm ngang ngược không nói phải quấy ra tay động võ, Minh giáo không thể không tiếp chiến, thành thử truyền lệnh xuống, các thủ lãnh tiến vào chùa trước, còn các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ sẽ chia ra vây bốn mặt chờ ở bên ngoài, nếu nghe ba tiếng hú, thì lập tức tấn công vào tiếp ứng. Các giáo chúng nhận lệnh chia nhau mà đi.
    Chẳng bao lâu, một tri khách tăng đã già đi theo Văn Thương Tùng xuống núi nói:
    - Phương trượng và các trưởng lão bản tự đều bế quan tịnh tu, xin lỗi không tiếp khách được.
    Quần hào nghe thấy nói thế ai nấy đều biến sắc. Chu Điên giận dữ nói:
    - Vị này là giáo chủ Minh giáo đích thân đến chùa Thiếu Lâm bái sơn, lão hòa thượng cũng không cho gặp chẳng lẽ coi thường lắm ư?
    Vị tri khách tăng kia cúi đầu ủ rũ, mặt đầy vẻ sầu khổ chỉ nói:
    - Không tiếp.
    Chu Điên nổi cọc, giơ tay nắm ngay ngực áo nhà sư, Thuyết Bất Đắc vội giơ tay ngăn lại nói:
    - Chu huynh không được lỗ mãng.
    Bành Oánh Ngọc nói:
    - Phương trượng nếu đã tọa quan, chúng tôi xin gặp hai vị Không Trí, Không Tính thần tăng cũng được.
    Nhà sư kia chắp hai tay, nói cụt ngủn:
    - Không tiếp.
    Bành Oánh Ngọc hỏi tiếp:
    - Thế còn thủ tọa Đạt Ma Đường thì sao? Thủ tọa La Hán Đường thì sao?
    Vị tri khách tăng kia cũng chỉ đáp:
    - Không tiếp.
    Ân Thiên Chính quát lên một tiếng như sấm rền:
    - Nhất định không tiếp hay sao?
    Song chưởng đẩy ra như bài sơn đảo hải, nghe bùng một tiếng đánh gãy đôi một cây đại tùng ở bên đường, nửa thân trên cả cành cả lá, thêm ba tổ quạ đều lách cách ngã xuống. Nhà sư lúc này mặt mới có vẻ sợ, nói:
    - Các vị đường xa đến đây, đúng ra phải lấy lễ tiếp đãi, có điều tất cả các trưởng lão đều tọa quan cả rồi, xin để dịp sau vậy.
    Nói xong chắp tay khom mình, quay lưng đi thẳng. Vi Nhất Tiếu thân hình hơi rung động đã chặn ngay trước mặt ông ta nói:
    - Đại sư thượng hạ xưng hô thế nào?
    Vị tri khách tăng đáp:
    - Pháp danh của tiểu tăng, không nói tới là hơn.
    Vi Nhất Tiếu vỗ nhẹ hai cái vào đầu vai ông ta, cười nói:
    - Tốt lắm, tốt lắm. Oâng chỉ nói hai chữ “bất kiến”, chắc hẳn là Bất Kiến đại sư, là sư huynh của Không Kiến thần tăng. Thế nhưng không biết nếu Diêm Vương mời đi, không biết Bất Kiến thần tăng có chịu gặp hay không?
    Nhà sư kia bị y vỗ hai cái, một luồng khí lạnh chạy thẳng từ vai vào tim, toàn thân lập tức run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau lập cập. Y cố nhịn, xoay người lách qua bên hông Vi Nhất Tiếu chạy đi, vừa đi vừa run, thất thểu lên núi. Vi Nhất Tiếu nói:
    - Gã này đái nghệ đầu sư [9], võ công của y không phải thuộc phái Thiếu Lâm.
    Trương Vô Kỵ nghĩ ngay đến Viên Chân, biết rằng chuyện đi học nơi khác rồi sau học võ Thiếu Lâm là chuyện bình thường, nói:
    - Vi Bức Vương đánh y hai đòn Hàn Băng Miên Chưởng, sư tổ, sư phụ y lẽ nào bỏ qua? Thôi cả bọn mình lên, xem các đại hòa thượng có thật tiếp hay không tiếp?
    Mọi người biết rằng khó có thể tránh khỏi một trường ác đấu, phái Thiếu Lâm trước nay vẫn là Thái Sơn, Bắc Đẩu của võ lâm, hơn một nghìn năm qua giang hồ vẫn gọi là "môn phái chỉ thắng mà không thua", hôm nay đại chiến một trận, xem thử Minh giáo và Thiếu Lâm bên nào mạnh, bên nào yếu.
    Mọi người ai nấy hăng tiết, rảo bước lên núi, nghĩ đến phái Thiếu Lâm cao thủ nhiều vô kể, trận đại chiến trước mắt nhất định ác liệt không để đâu cho hết. Chưa tới thời gian uống một chén trà đã đến thạch đình trước cửa chùa. Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa theo thái sư phụ lên núi, gặp tam đại thần tăng chính ở tại nơi đây, hôm nay trở lại, tuy trước sau chỉ mới vài năm, nhưng năm xưa là một đứa bé bệnh hoạn gầy gò, cô khổ lênh đênh, hôm nay là giáo chủ Minh giáo tôn quí, nghĩ lại chuyện xưa tưởng như chuyện từ tiền kiếp.
    Căn thạch đình đó hai chiếc cột đá bị gãy, chiếc bàn đá cũng đổ lăn lóc. Thuyết Bất Đắc cười nói:
    - Các nhà sư chùa Thiếu Lâm thích đánh nhau thật, mấy cái cột này mới gãy đây thôi, xem ra mấy hôm trước có một trận chiến khủng khiếp nên mới không kịp tu sửa.
    Chu Điên nói:
    - Để khi mình đắc thắng rồi, mình sẽ phá hết cái đình này.
    Quần hào ở nơi thạch đình chờ đợi, liệu rằng trong chùa sẽ có một đám cao thủ ào ra nên đã định tiên lễ hậu binh, trách hỏi tại sao hạ độc thủ đối với Ân Lê Đình, nếu chúng tăng vẫn ngang ngược không nghe, lúc ấy mới động võ. Nào ngờ chờ cả nửa ngày, trong chùa hoàn toan không thấy chút gì động tĩnh. Thêm một lúc nữa, thấy một đoàn người từ sau chùa chạy xuống hậu sơn, nhìn từ xa phải đến bốn năm chục người. Bành Oánh Ngọc nói:
    - Hừ, chắc họ điều binh khiển tướng, mai phục bốn bên chăng?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Thôi vào chùa.
    Lập tức Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu ở phía bên trái, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương bên phải, Thuyết Bất Đắc, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân và Chu Điên tứ tản nhân tại đằng sau, cùng hộ vệ Trương Vô Kỵ tiến vào chùa. Đến Đại Hùng Bảo Điện, thấy chiếc bàn thờ trước tượng Phật ngã chỏng chơ một bên, lư hương còn lăn lóc dưới đất, mặt đất đầy tàn nhang nhưng không thấy một ai. Thuyết Bất Đắc cười nhạt nói:
    - Phái Thiếu Lâm thấy bọn mình đến đây, tâm hoảng thần loạn, chân tay quờ quạng, đến bình hương mà cũng đánh rơi, nực cười ơi là nực cười.
    Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
    - Minh giáo Trương Vô Kỵ, cùng với các người trong tệ giáo Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu tiền lai bái sơn, cầu kiến phương trượng đại sư.
    Tiếng của chàng tuy không lớn lắm nhưng nội lực hồn hậu, các chuông trống treo bên ngoài đại điện bị âm thanh khích đãng, cùng u u vang lên. Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cùng đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: “Giáo chủ nội lực thật thâm hậu thực ai nghe thấy cũng phải sợ, đương niên Dương giáo chủ còn tại thế, xem ra cũng còn kém xa. Trận chiến hôm nay, bản giáo thể nào cũng thắng”.
    Mấy câu đó của Trương Vô Kỵ, tiền viện hậu viện chùa Thiếu Lâm chỗ nào cũng nghe thấy cả. Thế nhưng đợi thêm một hồi, trong chùa vẫn không thấy ai bước ra. Chu Điên quát lớn:
    - Này, tất cả bọn sư sãi lớn bé chùa Thiếu Lâm đâu, rụt đầu rụt cổ trốn cả thì còn ra giống gì nữa? Bộ còn hú hí với vợ hay sao?
    Tiếng của y so với Trương Vô Kỵ lớn hơn nhiều, nhưng chuông trống trong điện không thấy vang lại. Quần hào lại đợi thêm một lát, vẫn không thấy ai ra. Bành Oánh Ngọc nói:
    - Tôi trong lòng bỗng thấy khác lạ, thấy chùa này âm khí u uất, thật là điều không hay.
    Chu Điên cười nói:
    - Hòa thượng quay về chùa là đúng chỗ rồi, còn gì mà khác lạ nữa?
    Thiết Quan đạo nhân bỗng nói:
    - Ồ, nơi đây có một thiền trượng gãy đầu.
    Thuyết Bất Đắc nói:
    - Ồ, nơi đây lại có một vũng máu lớn.
    Chu Điên cười nói:
    - Chắc là sau trận chiến Quang Minh Đính, uy danh giáo chủ truyền ra xa nên phái Thiếu Lâm mới treo cao “miễn chiến bài”. Xem chừng họ chạy bán sống bán chết, đến binh khí cũng quẳng bỏ luôn.
    Thiết Quan đạo nhân lắc đầu:
    - Không phải thế đâu.
    Chu Điên hỏi:
    - Có gì mà không phải?
    Thiết Quan đạo nhân nói:
    - Thế còn vũng máu này thì sao?
    Chu Điên nói:
    - Chắc là họ sợ quá nên cắt phải tay...
    Nói tới đây y khựng lại, tự biết như thế không đúng nên không hết câu. Ngay lúc đó, một trận gió thổi qua, khiến quần áo mọi người tung bay. Chu Điên vui vẻ nói:
    - Gió mát quá.
    Bỗng nghe có tiếng lách cách, một cây tùng lớn ngả xuống cách vài mươi trượng ở phía tây. Quần hào ai nấy kinh ngạc, cùng nhảy lên chạy ngay đến chỗ cây đổ, thấy cây tùng đó ở bên góc đông nam của một tòa đại viện, trong viện cũng không có ai, không hiểu vì sao cây tùng lớn thế mà lại bị gió thổi gãy được, làm sập cả một mảng tường. Mọi người tới gần quan sát, thấy các sớ gỗ nát vụn, hiển nhiên bị người nào dùng trọng thủ đánh nát, chỗ gãy cũng đã khô, không phải mới gãy.
    Quần hào coi kỹ một hồi, bàn tán xôn xao:
    - Ồ, không phải.
    - A, nơi đây có động thủ.
    - Ghê gớm thật, chết nhiều người quá.
    Trong tòa đại viện chỗ nào cũng có dấu vết một cuộc kịch chiến, trên nền đá xanh, những cành cây khô, tường đá vây quanh để lại biết bao nhiêu vết binh khí chém xuống, quyền cước đấm đá. Nơi nào cũng đầy vết máu, đủ biết nơi đây giao chiến kịch liệt dị thường. Trên nền đất cũng còn nhiều vết chân nông sâu, là của cao thủ tỉ đấu nội lực còn lưu lại.
    Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Mau bắt gã tri khách tăng kia hỏi cho ra lẽ.
    Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc mọi người liền chia ra tìm kiếm, nhưng không biết nhà sư kia trốn nơi đâu. Ngũ Hành Kỳ cũng chia ra các nơi tra xét, qua đến nửa giờ, các chưởng kỳ sứ quay về bẩm báo, nói là trong chùa không có ai nhưng chỗ nào cũng có dấu vết kịch đấu. Nhiều điện đường còn cả vết máu, binh khí gãy nhưng không thấy xác người. Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Dương tả sứ, ông nghĩ sao?
    Dương Tiêu đáp:
    - Trận chiến ghê gớm này chỉ mới hai ba ngày trước, không lẽ toàn thể phái Thiếu Lâm bị tiêu diệt, hoặc bị giết, hoặc bị bắt không còn một ai hay sao?
    Thuyết Bất Đắc nói:
    - Hồi nãy chẳng có mấy chục người chạy về phía hậu sơn đấy ư?
    Dương Tiêu đáp:
    - Rất có thể đó là bọn đối đầu của phái Thiếu Lâm lựu lại thủ ngự nơi đây, thấy đại đội nhân mã của mình nên bỏ chạy trước.
    Bành Oánh Ngọc nói:
    - Cứ theo sự thế mà suy đoán thì hẳn là như thế. Gã tri khách tăng kia cũng chỉ là mạo xưng thôi, tiếc là không giữ hắn lại. Thế nhưng đối đầu với phái Thiếu Lâm có môn phái bang hội nào ghê gớm đến thế? Không lẽ là Cái Bang?
    Chu Điên nói:
    - Cái Bang thế lực tuy có lớn thật, cao thủ tuy nhiều thật nhưng đâu có thể chỉ đánh một trận mà giết sạch bọn đầu trọc chùa Thiếu Lâm đâu. Chỉ có Minh giáo chúng ta mới làm nổi, nhưng rõ ràng bọn mình đâu có làm?
    Thiết Quan đạo nhân nói:
    - Chu Điên, ngươi nói bớt một câu tầm ruồng đi có được không? Bản giáo có làm chuyện đó hay không, không lẽ chính bọn ta không biết?
    Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên quay về báo:
    - Khải bẩm giáo chủ, mười tám pho tượng Phật La Hán trong La Hán Đường không biết ai đã di động, không hiểu có chuyện gì không?
    Quần hào biết Nhan Viên giỏi ngành nề mộc xây cất, nếu y đã khởi nghi, ắt có chuyện gì liền nói:
    - Bọn mình đến xem thử.
    Đến La Hán Đường thấy trên tường đầy vết máu, giới đao thiền trượng còn đầy mặt đất. Chu Điên nói:
    - Nhan huynh, mười tám vị La Hán này có gì khác lạ?
    Nhan Viên đáp:
    - Tòa La Hán nào cũng bị người ta xô đẩy, lúc đầu huynh đệ nghi đằng sau có thể có lối đi, nhưng xem xét tường vách không thấy có cửa bí mật hay đường bí mật.
    Dương Tiêu trầm ngâm một hồi, nói:
    - - Mình thử đẩy tượng La Hán ra lần nữa xem sao?
    Nhan Viên nhảy lên bệ thờ, đẩy tượng trường mi La Hán sang một bên, lộ tường ra quả nhiên không có gì khác lạ. Dương Tiêu cũng nhảy lên bệ, xem kỹ pho tượng La Hán, đột nhiên “Ồ” một tiếng nói:
    - Sau lưng La Hán có viết chữ.
    Liền xoay ngược pho tượng lại. Quần hào ngạc nhiên thấy có khắc một chữ “Diệt” lớn bằng cái đấu. Pho tượng này vốn dĩ sơn son thếp vàng, lúc này lớp sơn bên ngoài bị người nào dùng lợi khí khắc một chữ Diệt lớn, sâu vào cả tấc, lộ cả đất ra. Vết xem ra còn mới hiển nhiên khắc chưa bao lâu. Chu Điên nói:
    - Chữ Diệt này là cái quái gì? A, đúng rồi, chắc là phái Nga Mi đến quấy phá chùa Thiếu Lâm, Diệt Tuyệt sư thái để chữ lại thị uy đấy mà.
    Ai nấy thấy chuyện đó ngoài sức tưởng tượng, đều lắc đầu. Trong khi đang nói chuyện, những người khác đã xoay cả mười tám pho tượng lại, trừ pho Hàng Long La Hán ở tận cùng bên phải, và Phục Hổ La Hán ở tận cùng bên trái, mười sáu pho tượng La Hán còn lại sau lưng đều có khắc mỗi pho một chữ, từ phải sang trái thành như sau:
    Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương.
    Duy ngã Minh giáo, Võ lâm xưng vương.
    (Diệt phái Thiếu Lâm trước, Rồi diệt Võ Đương sau.
    Chỉ còn mình Minh giáo, Trong võ lâm đứng đầu.) Ân Thiên Chính, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc mọi người không hẹn mà cùng kêu lên:
    - Đây là kế Di Họa Giang Đông.
    Quần hào thấy mười sáu chữ đó giương nanh khoe vuốt, hình dáng thật ghê rợn, nghĩ đến quần tăng chùa Thiếu Lâm bị thảm họa, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu Minh giáo, không khỏi lo âu. Chu Điên kêu lên:
    - Mình mau mau cạo sạch mấy chữ này đi, để khỏi bị tiếng oan.
    Dương Tiêu nói:
    - Địch nhân dụng tâm ác độc, chỉ cạo mấy chữ đi đâu đã đủ.
    Lần này Chu Điên thấy y ăn nói có lý, không cãi lại chỉ hỏi:
    - Thế thì làm thế nào?
    Thuyết Bất Đắc nói:
    - Cứ để sau làm chứng cớ. Mình đi kiếm kẻ lập tâm di họa, bắt đối chất với mười sáu chữ này.
    Dương Tiêu gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói:
    - Tiểu tăng vẫn còn một chuyện chưa rõ, muốn được Dương tả sứ chỉ giáo. Kẻ khắc mười sáu chữ này là đã lập tâm giá họa cho bản giáo, để chúng ta phải chịu cái đại tội tiêu diệt Thiếu Lâm, khiến cho anh hùng võ lâm cùng nổi lên tấn công, thế nhưng sao lại xoay lưng các pho tượng này quay vào tường? Sao không để mười sáu chữ đó hướng ra ngoài? Nếu Nhan kỳ sứ không xét nét, thì có ai biết được sau lưng tượng La Hán lại có khắc chữ?
    Dương Tiêu mặt mày ngưng trọng nói:
    - Cứ mỗ suy xét, các pho tượng La Hán này có ai đó xoay ngược lại, hẳn là bí mật giúp cho bản giáo, mình chịu một ân tình lớn của người đó.
    Quần hào cùng hỏi:
    - Người đó là ai? Sao Dương tả sứ lại biết?
    Dương Tiêu thở dài:
    - Nguyên ủy khúc chiết trong chuyện này, chính mỗ cũng chưa nghĩ ra...
    Câu nói của ông ta chưa xong, Trương Vô Kỵ bỗng nhiên “A” lên một tiếng, kêu hoảng lên:
    - Tiên tru Thiếu Lâm, tái diệt Võ Đương, chỉ sợ... chỉ sợ phái Võ Đương cũng đang gặp nạn rồi.
    Vi Nhất Tiếu nói:
    - Chúng ta nghĩa chẳng dung từ, lập tức đến cứu viện ngay, để xem bọn chó má nào tính làm gì.
    Ân Thiên Chính cũng nói:
    - Việc không thể chậm trễ, mình phải lập tức đi ngay. Bọn gian tặc này đã đi trước một hai ngày rồi.
   

- o O o -

    [1] Thần công búng ngón tay [2] Ném đá điểm huyệt [3] tiếng khiêm tốn để nói tới cấp trên của mình [4] Một trăm họ phổ biến nhất ở bên Tàu làm thành một bài thơ có vần điệu cho dễ nhớ, tương truyền là từ đời Tống nên lấy họ Triệu (hoàng tộc) đứng đầu trăm họ.
    [5] Tám con ngựa [6] Một danh họa gia đời Nguyên (xin xem thêm Thư Họa, bài viết của Nguyễn Duy Chính) [7] kinh đô đời Bắc Tống, còn gọi là Biện Kinh, nay thuộc Hà Nam.
    [8] Công phu bò trên tường như con thạch sùng [9] đã học võ trước rồi sau mới xin học chùa Thiếu Lâm
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:56:04 | Chỉ xem của tác giả
THÁI CỰC SƠ TRUYỀN NHU KHẮC CƯƠNG

    Âm dương đắp đổi, Thái cực xoay vòng.
    Đỉnh đầu lơ lửng như bông, Tọa thiền kia với hành công khác gì[1].
   

- o O o -

     
    Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và các người không biết đã từ Tây Vực về đến núi chưa, trên đường đi tuyệt nhiên không nghe tin tức gì của họ cả, nếu như gặp phải biến cố, ở lại núi chỉ có thái sư phụ và một số đệ tử đời thứ ba, tam sư bá Du Đại Nham tàn phế nằm đó, nếu như cường địch đến lấy gì chống trả? Chàng nghĩ vậy, trong bụng không khỏi bồn chồn như lửa đốt liền lớn tiếng nói:
    - Các vị tiền bối, huynh trưởng, phái Võ Đương là nơi tiên phụ xuất thân, thái sư phụ đối với tại hạ ơn nặng như núi. Hiện nay đang gặp đại nạn, cứu binh như cứu hỏa, sớm khắc nào hay khắc đó. Vậy xin Vi Bức Vương đi theo bản nhân, đến cứu viện trước, các vị kế tiếp chia ra đến sau, mọi việc nhờ Dương tả sứ và ông ngoại an bài.
    Nói xong vòng hai tay lên chào, lách mình vọt ra khỏi cửa. Vi Nhất Tiếu thi triển khinh công, đi song song với chàng. Tiếng đáp ứng của quần hào chưa dứt, hai người đã đến cửa chùa Thiếu Lâm rồi, khinh công đẹp như thế, nhanh như thế thật trên đời không có được một người thứ ba sánh kịp.
    Hai người không dám hao phí một giây một khắc, chân không ngừng bước, chạy một mạch mấy chục dặm. Thoạt đầu Vi Nhất Tiếu không kém chút nào nhưng càng lâu, nội lực dần dần sút giảm. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Đường lên núi Võ Đương thật xa, không thể chạy một mạch không nghỉ như thế này. Huống chi cường địch ngay trước mặt, mình phải giữ sức để còn chiến đấu”. Chàng liền nói với Vi Nhất Tiếu:
    - Đến thị trấn đằng trước mình tìm mua hai con ngựa cưỡi để dưỡng sức.
    Vi Nhất Tiếu vốn có ý ấy nhưng không tiện nói ra, liền đáp:
    - Giáo chủ, mua bán ngựa mất nhiều thì giờ lắm.
    Chẳng mấy chốc, thấy từ xa có năm sáu người cưỡi ngựa chạy lại, Vi Nhất Tiếu liền tung mình nhảy tới, nắm cổ hai người, nhẹ nhàng vứt ngay xuống đất, kêu lên:
    - Giáo chủ, lên ngay.
    Trương Vô Kỵ chần chừ đứng lại, nghĩ thầm mình chặn đường cướp ngựa như thế có khác gì cường đạo đâu? Vi Nhất Tiếu kêu lên:
    - Làm chuyện lớn đừng câu nệ tiểu tiết, họ còn nhiều mà.
    Trong khi la lối, y lại vứt thêm hai người khác xuống đất. Mấy người đó cũng biết chút ít võ nghệ, quát mắng chửi bới, rút binh khí ra toan động thủ. Vi Nhất Tiếu hai tay cầm bốn con ngựa, giơ chân đá tung hết võ khí trong tay bốn người đó. Lại nghe một người quát lên:
    - Kẻ cậy mạnh cướp đường kia, có giỏi thì để lại tên tuổi.
    Trương Vô Kỵ nghĩ nếu còn dây dưa, ắt sẽ thêm nhiều phiền phức, tung mình nhảy lên lưng ngựa, cùng Vi Nhất Tiếu mỗi người dắt thêm một con, quất ngựa chạy thẳng. Những người kia luôn mồm chửi rủa nhưng không dám đuổi theo.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Chúng ta ở vào chỗ không còn cách nào khác, nhưng biết đâu người ta cũng có việc gấp phải làm, làm thế này trong bụng không an.
    Vi Nhất Tiếu cười đáp:
    - Giáo chủ, chuyện nhỏ nhặt này có đáng gì đâu? Năm xưa Minh giáo hành sự, có thể nói là “không còn e dè, ngang ngược vô pháp”.
    Nói xong cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Minh giáo bị người ta coi là tà giáo dị đoan cũng có lý của nó. Thế nhưng thế nào là ngay, thế nào là cong thì cũng thật khó mà luận”. Nghĩ đến mình mang trọng nhiệm giáo chủ trên vai nhưng kiến thức ít ỏi, nhiều chuyện không quyết định được, ngay như chuyện nhỏ nhặt đoạt ngựa đây, cũng do dự không biết sao cho phải, dù có võ công cao cường, nhưng việc trên đời đâu phải chỉ dựa vào võ lực? Chàng nghĩ đến đó, trong lòng cảm thán, chỉ mong sớm đón được Tạ Tốn về để trút được gánh nặng trên vai không còn phải lo gì nữa.
    Ngay lúc đó, bỗng thấy thấp thoáng, hai người nhảy ra chặn ngay lối đi, trong tay đều cầm cương trượng. Vi Nhất Tiếu quát lên:
    - Tránh ra.
    Y lấy roi cuốn bên lưng vung ra, giục ngựa phóng tới. Một người giơ trượng đỡ roi, còn người kia huýt một tiếng còi, giơ gậy ra chặn. Con ngựa Vi Nhất Tiếu đang cỡi hoảng sợ, dựng hai vó trước. Ngay lúc đó, từ trong lùm cây bốn hán tử mặc áo đen chạy ra, xem thân pháp đều là những tay luyện ngạnh công. Vi Nhất Tiếu kêu lên:
    - Giáo chủ cứ việc đi trước, để bọn chuột nhắt này thuộc hạ tính cho.
    Trương Vô Kỵ thấy họ có ý ngăn chặn cứu binh cho phái Võ Đương, dụng tâm ác độc thoáng nhìn là biết, tình hình rất là hung hiểm, biết Vi Nhất Tiếu khinh công võ kỹ đều xuất chúng, có thể lo liệu được bọn này, nếu không thắng thì cũng tự bảo vệ được thân. Chàng bèn kẹp hai đùi, giục ngựa xông tới. Hai tên hắc y giơ cương trượng ra chặn ngay đầu ngựa, Trương Vô Kỵ cúi xuống, vung hai tay đoạt luôn hai cây gậy, thuận thế ném ra. Chỉ nghe “a” “a” hai tiếng thảm khốc, hai tên áo đen đã bị hai cây gậy chia ra đánh gãy xương đùi, ngã lăn quay trên mặt đất. Chàng thấy bốn tên quấy rối Vi Nhất Tiếu võ công không phải là kém, e rằng mình đi rồi, Vi Nhất Tiếu sẽ khó mà xoay trở nên giúp y thanh toán trước hai tên.
    Tung Sơn và Võ Đương sơn mặc dù ở hai tỉnh Dự Ngạc khác nhau, nhưng một đằng ở Dự Tây, một đằng ở Ngạc Bắc, cách nhau không xa lắm. Đi qua Mã Sơn Khẩu rồi, về phía nam đường toàn đồng trống, ngựa chạy thật nhanh, mới chính ngọ đã đến Nội Hương. Trương Vô Kỵ trong bụng đói meo, liền ghé một cái chợ mua mì, bánh bao ăn đỡ, bỗng nghe phía sau một con ngựa của mình hí lên thảm thiết, quay đầu nhìn lại, đã thấy một con dao sáng loáng đâm dưới bụng ngựa, một bóng người thoáng qua rồi biến mất.
    Trương Vô Kỵ phi thân đuổi theo chộp được người nọ, thấy y mặc áo đen, vạt trước áo dính đầy máu ngựa. Chàng quát hỏi:
    - Ngươi là thủ hạ của ai? Bang hội môn phái nào? Đại đội nhân mã chúng bay đã đến núi Võ Đương chưa?
    Chàng hỏi liền mấy câu nhưng người kia chỉ nhắm mắt không trả lời. Trương Vô Kỵ không muốn mất thì giờ thêm, nghĩ thầm cứ lên đến núi Võ Đương sẽ biết, lập tức giơ tay đóng huyệt Đại Truy để cho y đau đớn khổ sở ba ngày ba đêm cho biết. Chàng giục ngựa chạy tiếp một mạch đến Tam Quan Điện, qua sông Hán Thủy đi về hướng nam. Thuyền đến giữa dòng, nhìn thấy nước sông cuồn cuộn nghĩ đến năm nào thái sư phụ dẫn mình đi lên núi Thiếu Lâm cầu chữa bệnh không xong phải quay về, trên sông Hán Thủy gặp Thường Ngộ Xuân, lại cứu được Chu Chỉ Nhược. Trong đầu chàng hiện ra hình bóng kiều diễm của nàng, nhớ đến đôi mắt chăm chăm nhìn mình trên Quang Minh Đính khiến chàng không khỏi xuất thần.
    Qua Hán Thủy rồi chàng tiếp tục phóng ngựa xuôi nam. Bấy giờ trời đã nhá nhem, chỉ nhìn thấy lờ mờ, chạy thêm một giờ nữa không có ánh trăng sao, con ngựa cực kỳ mỏi mệt, không còn sức nữa, khụy xuống đường. Chàng vỗ vỗ lưng nó nói:
    - Ngựa ơi, ngựa ơi, ngươi ở đây nghỉ ngơi, rồi muốn đi đâu thì đi.
    Nói xong chàng thi triển khinh công chạy tiếp. Chạy đến canh tư, bỗng nghe văng vẳng tiếng vó ngựa phía trước, xem ra một đoàn người đang đi. Chàng càng gia tăng kình lực, đi lẻn qua đoàn người này. Thân pháp chàng vừa nhanh vừa nhẹ, lại trong đêm khuya cho nên không một ai hay biết. Cứ xem hướng đi của bọn này chính là đang lên núi, hơn hai chục người không nói một tiếng thành thử không thể biết được lai lịch thế nào, nhưng ai ai cũng mang binh khí hẳn là đối địch với phái Võ Đương, không còn ngờ gì nữa. Chàng trong lòng thấy an tâm: “Thế là mình cũng đuổi kịp bọn chúng rồi, phái Võ Đương như vậy chưa bị tấn công”.
    Lại chạy thêm nửa giờ nữa, trước mặt lại có một đoàn người cũng đi lên núi Võ Đương. Trước sau chàng gặp năm nhóm, mỗi nhóm nhiều thì ba chục người, ít cũng khoảng mươi người. Khi gặp đoàn thứ năm, chàng bỗng thấy lo lắng: “Không biết đã có bao nhiêu nhóm lên trên núi rồi? Đã có nhóm nào động thủ cùng người trong bản phái chưa?”.
    Chàng tuy không phải đệ tử Võ Đương, nhưng vì gốc tích của cha nên từ trước tới nay vẫn coi phái Võ Đương là môn phái của mình. Nghĩ như thế chàng càng cố chạy nhanh hơn.
    Chẳng mấy chốc chàng đã lên núi, cũng may không gặp nhóm địch nào. Đến lưng chừng bỗng thấy đằng trước có một người đang cố sức chạy, áo rộng đầu trọc chính là một nhà sư, khinh công cực giỏi. Trương Vô Kỵ chạy theo xa xa để xem động tĩnh của y.
    Nhà sư đó chạy một mạch lên núi, tới trên đỉnh rồi bỗng nghe một người quát hỏi:
    - Bằng hữu ở lộ nào đó mà đang đêm lại đến viếng núi Võ Đương?
    Tiếng quát chưa dút, đằng sao khe đá chạy ra bốn người, hai đạo sĩ, hai tục gia chính là đệ tử đời thứ ba, thứ tư của phái Võ Đương. Tăng nhân đó chắp tay làm lễ nói:
    - Thiếu Lâm tăng nhân Không Tướng, cớ chuyện gấp cầu kiến Võ Đương Trương chân nhân.
    Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên: “Thì ra y là một tiền bối hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm, cùng Không Văn phương trượng, các vị Không Trí, Không Tính thần tăng là sư huynh đệ. Y không nề gian khổ chạy lên núi Võ Đương, hẳn là đi đến báo tin.
    Một đạo nhân của phái Võ Đương nói:
    - Đại sư đường xa mệt nhọc, xin mời quá bước vào tệ quan dùng trà.
    Nói xong đi trước dẫn đường. Không Tướng bỏ giới đao đeo ở hông xuống, giao cho một đạo nhân, để tỏ ý không dám đeo binh khí bước vào quan. Trương Vô Kỵ thấy đạo nhân đó dẫn Không Tướng vào điện Tam Thanh trong Tử Tiêu Cung, liền náu ở bên ngoài cửa sổ. Lại nghe Không Tướng lớn tiếng nói:
    - Xin đạo trưởng lập tức bẩm báo Trương chân nhân, sự việc khẩn cấp không thể diên trì một phút nào cả.
    Đạo nhân kia đáp:
    - Đại sư đến thật không phải lúc, tệ sư tổ tọa quan từ năm ngoái, đến nay đã hơn một năm, đệ tử bản phái đã lâu chẳng một ai được thấy tư phạm của lão nhân gia.
    Không Trí nói:
    - Như vậy phiền thông báo Tống đại hiệp.
    Đạo nhân trả lời:
    - Đại sư bá cùng gia sư và các chư vị sư thúc, liên minh với quí phái, viễn chinh Minh giáo chưa trở về.
    Trương Vô Kỵ nghe đến mấy tiếng “viễn chinh Minh giáo chưa trở về”, trong bụng kinh hoảng, quả nhiên nhóm Tống Viễn Kiều đã gặp chuyện gì không hay trên đường trở về. Lại nghe Không Tướng thở dài một tiếng nói:
    - Nếu quả như thế phái Võ Đương cũng không khác gì phái Thiếu Lâm chúng tôi, hôm nay khó mà qua khỏi được kiếp nạn này.
    Đạo nhân kia không hiểu ý tứ nói:
    - Sự vụ trong tệ phái, hiện nay do Cốc Hư Tử sư huynh chủ trì, tiểu đạo sẽ thông báo ngay, mời ra tham kiến đại sư.
    Không Tướng hỏi:
    - Cốc Hư đạo trưởng là đệ tử của vị nào thế?
    Đạo nhân kia đáp:
    - Là môn hạ Du tam sư thúc.
    Không Tướng nhướng đôi lông mày dài nói:
    - Du tam hiệp tay chân bị thương, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, mấy câu này lão tăng nói lại với Du tam hiệp vậy.
    Đạo nhân kia nói:
    - Vâng, xin theo lời đại sư chỉ bảo.
    Nói xong quay mình đi vào. Nhà sư Không Tướng ở trong sảnh đi đi lại lại, xem ra cực kỳ nóng ruột, thỉnh thoảng lại nghiêng tai nghe ngóng, hiển nhiên lo lắng địch nhân tấn công lên núi. Chẳng bao lâu, đạo nhân kia rảo bước đi ra, khom mình nói:
    - Du tam sư thúc có lệnh mời, nói là xin đại sư tha thứ cho tội không đi ra ngoài nghênh tiếp được.
    Lúc này thần thái cử chỉ của đạo nhân kia so với khi trước cung kính hơn nhiều, chắc là Du Đại Nham nghe thấy nhà sư thuộc hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm giá lâm nên dặn y lễ mạo phải mười phần chu đáo. Không Tướng gật đầu, đi theo y vào ngọa phòng của Du Đại Nham. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Tam sư bá tàn phế tứ chi, tai mắt hẳn là linh mẫn hơn nhiều, nếu ta đến bên ngoài phòng ông ta nghe ngóng, chỉ e sẽ bị phát giác”. Chàng đi đến cách phòng Du Đại Nham chứng vài trượng liền dừng lại.
    Qua chừng thời gian uống một chén trà, đạo nhân kia lật đật đi ra khỏi phòng Du Đại Nham, hạ giọng gọi:
    - Thanh Phong, Minh Nguyệt, qua bên này.
    Liền có hai đạo đồng chạy đến trước mặt ông ta, kêu lên một tiếng:
    - Sư thúc.
    Đạo nhân kia nói:
    - Chuẩn bị cáng, tam sư thúc muốn ra ngoài.
    Hai đạo đồng bèn vâng dạ đi ngay. Trương Vô Kỵ ở trên núi Võ Đương mấy năm, tri khách đạo nhân kia là đệ tử của Du Liên Châu mới thu về sau nên chàng không biết, nhưng lại biết hai đạo đồng Thanh Phong, Minh Nguyệt. Mỗi khi Du Đại Nham muốn ra ngoài phải nằm trên cáng do hai đạo đồng đó khiêng đi. Chàng thấy hai đạo đồng đó đi về hướng phòng để cáng liền rón rén đi theo sau, đợi cho hai người vào phòng đột nhiên gọi:
    - Thanh Phong, Minh Nguyệt, nhận ra ta không?
    Hai tiểu đồng sợ hãi nhảy dựng lên, chăm chú nhìn Trương Vô Kỵ, xem thấy quen quen, nhưng chưa biết là ai. Trương Vô Kỵ cười nói:
    - Ta là Vô Kỵ tiểu sư thúc đây, các ngươi quên rồi sao?
    Hai đưa tiểu đồng liền nhớ lại, mừng rỡ kêu lên:
    - Ồ, tiểu sư thúc về rồi. Sư thúc khỏi bệnh chưa?
    Ba người tuổi tác cùng lứa, trước kia thường chơi đùa với nhau. Trương Vô Kỵ nói:
    - Thanh Phong, để ta giả làm ngươi, đến khiêng tam sư bá, xem ông ấy có nhận ra ta không?
    Thanh Phong trù trừ nói:
    - Cái đó. .. không được đâu.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tam sư bá thấy ta khỏi bệnh trở về, vui không để đâu cho hết, vui sướng còn chưa đủ, lẽ nào còn trách mắng ngươi?
    Hai đạo đồng biết là từ tổ sư Trương Tam Phong trở xuống, Võ Đương lục hiệp đối với vị tiểu sư thúc này cực kỳ sủng ái, y khỏi bệnh về núi, thật là một chuyện vui rất lớn, muốn nghịch ngợm một tí, Du Đại Nham đang bệnh sẽ vui không có gì là không được. Minh Nguyệt nói:
    - Tiểu sư thúc bảo sao thì làm vậy.
    Thanh Phong nghe thế liền cười hì hì cởi đạo bào, giày vớ để cho chàng thay. Minh Nguyệt thì giúp Trương Vô Kỵ tết một cái búi tóc. Chỉ trong giây lát, chàng đã biến thành một tiểu đạo đồng. Minh Nguyệt nói:
    - Nếu sư thúc mạo xưng Thanh Phong, tướng mạo không giống, vậy nói là đệ tử mới thu trong đạo quan. Thanh Phong bị ngã què chân nên sư thúc vào thay.
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Hay lắm. ..
    Đạo nhân kia ở ngoài quát mắng:
    - Hai thằng nhãi kia, còn hi hi ha ha cái gì trong đó, sao lâu thế không chui ra.
    Trương Vô Kỵ và Minh Nguyệt le lưỡi, vác cáng lên vai đi về phía phòng Du Đại Nham. Hai người đỡ Du Đại Nham ngồi vào cáng, Du Đại Nham mặt thật là trịnh trọng không để ý đến đạo đồng là ai nói:
    - Đến tiểu viện sau núi để gặp tổ sư gia gia.
    Minh Nguyệt đáp:
    - Vâng Quay mình lại tiến bước còn Trương Vô Kỵ khiêng đằng sau. Du Đại Nham chỉ thấy sau lưng Minh Nguyệt nhưng không thấy Trương Vô Kỵ. Không Tướng đi theo ngang bên cáng cùng đến hậu sơn. Viên tri khách đạo nhân kia không được Du Đại Nham gọi đến nên không dám đi theo.
    Nơi Trương Tam Phong bế quan tĩnh tu là một tiểu viện nằm sâu trong rừng trúc tại sau núi, cây cối um tùm, bóng râm che phủ mặt đất, ngoài tiếng chim kêu không nghe một tiếng nào khác. Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ khiêng Du Đại Nham đến trước tiểu viện, hạ võng xuống. Du Đại Nham đang toan mở miệng cầu kiến, bỗng nghe từ sau cửa truyền ra tiếng nói già cả của Trương Tam Phong:
    - Vị cao tăng nào của phái Thiếu Lâm quang lâm hàn cư, lão đạo không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ lỗi.
    Nghe kẹt một tiếng, cửa tre mở rộng, Trương Tam Phong từ từ bước ra. Không Tướng ngạc nhiên, thấy Trương Tam Phong nhận ra người đến thăm thuộc phái Thiếu Lâm thật là kỳ quái nhưng nghĩ ngay có lẽ tri khách đạo nhân đã đến bẩm trước rồi. Du Đại Nham biết là sư phụ càng ngày càng tinh thâm, chỉ nghe tiếng bước chân Không Tướng đã nhận ra ngay môn phái võ công, trình độ nông sâu. Nội công của Trương Vô Kỵ cao thâm hơn Không Tướng nhiều, từ thực quay trở lại hư, quá tinh thuần nên lại thành giản phác, cử chỉ, ánh mắt, bước chân, giọng nói mọi thứ đều không lộ ra chút nào khiến Trương Tam Phong không nhận ra. Chàng thấy thái sư phụ tuy mặt mày hồng hào nhưng râu tóc đã bạc phơ, so với lúc chia tay năm xưa đã già hơn một chút, trong lòng vừa hoan hỉ, vừa bi thương, nhịn không nổi nước mắt chảy ròng ròng, vội quay đầu ra chỗ khác.
    Không Tướng chắp tay vái chào nói:
    - Tiểu tăng Thiếu Lâm Không Tướng, tham kiến Võ Đương tiền bối Trương chân nhân.
    Trương Tam Phong cũng chắp tay đáp lễ nói:
    - Không dám, đại sư bất tất đa lễ, xin mời vào nói chuyện.
    Cả năm người bước vào tiểu viện. Chỉ thấy trên bàn có một bình trà, một chén uống trà, dưới đất là một tấm bồ đoàn, trên tường treo một thanh kiếm gỗ, ngoài ra không còn gì khác. Trên bàn dưới đất đầy những bụi bặm.
    Không Tướng nói:
    - Trương chân nhân, phái Thiếu Lâm gặp phải kiếp nạn nghìn năm qua chưa hề có, ma giáo đột nhiên bất ngờ tấn công, bản phái từ phương trượng Không Văn sư huynh đổ xuống, hoặc chiến đấu đến chết vì chùa, hoặc sức yếu bị bắt, chỉ một mình tiểu tăng liều chết chạy thoát. Đại đội ma giáo đang tiến về núi Võ Đương, vinh nhục mất còn của võ lâm Trung Nguyên hôm nay toàn nằm trong tay một mình Trương chân nhân đấy thôi.
    Nói xong khóc òa lên. Trương Vô Kỵ bị chấn động mạnh, chàng biết rõ phái Thiếu Lâm đã bị tai kiếp ra sao nhưng không ngờ toàn phái đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ngay cả Trương Tam Phong đã một trăm năm tu tập, nghe tin đó cũng giật mình kinh hoảng, một hồi lâu không nói được tiếng nào, định thần rồi mới hỏi:
    - Ma giáo tuy ngang ngược như thế nhưng phái Thiếu Lâm cao thủ biết bao nhiêu, làm sao đến nổi phải rơi vào độc thủ của chúng được?
    Không Tướng nói:
    - Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh đem môn hạ đệ tử, cùng năm đại môn phái Trung Nguyên thề ước tây chinh, vây đánh Quang Minh Đính. Tăng chúng còn ở lại chùa ngày ngày mong ngóng tin vui. Hôm đó dưới chân núi báo tin lên, những người viễn chinh đại thắng trở về. Phương trượng Không Văn sư huynh nghe tin mừng lắm, cùng mọi người trong chùa ra nghênh đón, quả nhiên thấy Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh cùng các đệ tử trở về đến chùa rồi, ngoài ra còn bắt được đến mấy trăm người dẫn theo.
    Mọi người vào đến đại viện, phương trượng hỏi han tình hình đắc thắng, Không Trí sư huynh ấp úng nói không ra. Không Tính sư huynh đột nhiên kêu lên: “Sư huynh cẩn thận, chúng tôi đã lọt vào tay người ta rồi, những kẻ bị bắt toàn là địch nhân. ..”. Phương trượng còn đang kinh ngạc, bọn tù binh liền rút binh khí dấu trong người ra tay tấn công. Đệ tử bản phái một là trở tay không kịp, hai là các hảo thủ tây chinh bị địch bắt rồi, những người còn lại trong chùa chẳng bao nhiêu, mọi hướng ra trong đại viện đều bị địch chặn lại hết, kịch đấu một trận, đều bị chúng đánh cho tan tành cả, Không Tính sư huynh tuẫn nạn ngay tại đương trường. ..
    Nói tới đây Không Tướng khóc lên thành tiếng. Trương Tam Phong trong bụng xót xa, nói:
    - Bọn ma giáo tàn độc như thế, thi hành ác kế làm sao ai mà đề phòng cho nổi?
    Không Tướng cởi cái bọc vải màu vàng đeo trên lưng, mở bao ra, bên trong là một lớp vải dầu, mở lớp vải dầu, quả nhiên lộ ra một cái thủ cấp, mắt tròn xoe trợn ngược, mặt đầy vẻ phẫn nộ, chính là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm Không Tính đại sư. Trương Tam Phong và Trương Vô Kỵ đều biết mặt Không Tính, vừa thoạt nhìn không nhịn nổi cùng kêu “A” lên một tiếng.
    Không Tướng khóc nói:
    - Tiểu tăng liều chết cướp được pháp thể của Không Tính sư huynh, Trương chân nhân, ngài xem đại cừu này làm sao trả được?
    Nói xong cung kính đặt chiếc đầu của Không Tính lên bàn rồi phục xuống lạy. Trương Tam Phong buồn bã khom lưng chắp tay đáp lễ. Trương Vô Kỵ nhớ đến khi tỉ võ trên Quang Minh Đính, Không Tính thần tăng khẳng khái lỗi lạc, hào khí hơn người, không thên là đường đường một đại tông sư của phái Thiếu Lâm, đâu ngờ bị gian nhân làm hại đến nỗi đầu một nơi, mình một nẻo, trong lòng thật là đau xót.
    Trương Tam Phong thấy Không Tướng nằm phục xuống hồi lâu không dậy, khóc lóc thật thảm thiết, liền đưa tay ra đỡ lên nói; - Không Tướng sư huynh, Thiếu Lâm Võ Đương vốn cũng một nhà, thù này không thể không báo. ..
    Oâng vừa nói tới chữ “báo” thì không ngờ nghe bình một tiếng, song chưởng của Không Tướng cùng đánh thẳng vào bụng dưới.
    Biến cố đó thật là đột ngột, Trương Tam Phong võ công tuy đã đến mức tòng tâm sở dục, cảnh giới tối cao muốn gì được nấy, nhưng đâu ngờ nhà sư Thiếu Lâm đang mang mối huyết cừu, từ xa đến báo tin cho mình tự nhiên lại bất ngờ đánh lén. Ngay lúc đầu, ông tưởng đâu Không Tướng vì bi thương quá độ nên tâm trí mê man, trong cơn hôn loạn tưởng mình là địch nhân, nhưng lập tức biết rằng không phải, nơi bụng dưới trúng phải chưởng lực, chính là ngoại môn thần công Kim Cương Bát Nhã Chưởng, cảm thấy Không Tướng đang dồn hết sức đẩy kình lực ra, mặt mày trắng bệch nhưng khóe miệng lộ một nụ cười hiểm ác.
    Trương Vô Kỵ, Du Đại Nham, Minh Nguyệt ba người đâu ngờ biến cố đó xảy ra, ai nấy kinh sợ đến chết trân. Du Đại Nham khổ nỗi thân thể tàn phế, không cách nào tiến lên giúp sư phụ một tay, còn Trương Vô Kỵ tuổi trẻ hiểu biết ít, trong một sát na, đâu đã hiểu được rằng Không Tướng đang toan giết chết thái sư phụ mình. Hai người vừa kêu lên một tiếng thì Trương Tam Phong đã đẩy chưởng trái ra, nghe bộp một tiếng nhỏ, đánh trúng ngay đỉnh đầu Không Tướng. Chưởng đó thật mềm như bông mà cứng còn hơn sắt, sọ Không Tướng nát bấy, người sụm xuống như một đống bùn nát chết ngay, chẳng kịp kêu lên một tiếng.
    Du Đại Nham vội kêu:
    - Sư phụ, lão nhân gia. ..
    Nói tới đó ông liền ngừng lại thấy Trương Tam Phong nhắm mắt ngồi xuống, chỉ trong chốc lát, trên đầu tỏa ra những làn hơi trắng li ti, bỗng dưng há mồm hộc ra một ngụm máu tươi.
    Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, biết rằng thái sư phụ bị thương thực không phải nhẹ, nếu như ông nôn ra máu bầm đen, thì với nội công thâm hậu vô tỉ của ông chỉ ba bốn ngày sẽ hoàn toàn bình phục, thế nhưng lại hộc máu tươi, phun ra ồng ộc ắt là tạng phủ đã bị trọng thương. Trong giây phút đó, lòng chàng trù trừ không biết tính sao: “Mình có nên lập tức bước ra thố lộ thân phận để cứu thái sư phụ? Hay làm cách nào?”.
    Ngay khi đó bỗng nghe tiếng chân, có người đã đến trước cửa, nghe có vẻ gấp rút, xem ra mười phần hoảng hốt nhưng không dám tiến vào. Du Đại Nham hỏi:
    - Linh Hư đấy ư? Chuyện gì thế?
    Tri khách đạo nhân Linh Hư đáp:
    - Bẩm báo tam sư thúc, đại đội ma giáo đã đến bên ngoài cung, xin gặp tổ sư gia gia, nói ra những lời thô bỉ, nói muốn san phẳng phái Võ Đương. ..
    Du Đại Nham quát lên:
    - Câm mồm. ..
    Oâng sợ Trương Tam Phong bị phân tâm sẽ khích động đến thương thế. Trương Tam Phong từ từ mở mắt, nói:
    - Kim Cương Bát Nhã chưởng của phái Thiếu Lâm quả thực là ghê gớm, nếu không tĩnh dưỡng ba tháng thì không khỏi được.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hóa ra thái sư phụ bị thương còn nặng hơn ta tưởng nhiều”.
    Lại nghe Trương Tam Phong nói:
    - Minh giáo kéo đại đội binh mã lên núi, ôi, không biết Viễn Kiều, Liên Châu bọn nó có được bình an không? Đại Nham, con nghĩ mình phải làm sao?
    Du Đại Nham lặng yên không đáp, biết rằng trên núi ngoài sư phụ và mình ra, còn lại đệ tử đời thứ ba thứ tư chẳng có gì đáng kể, đưa ra ngự địch, chẳng qua chỉ đẩy vào chỗ chết. Việc hôm nay, chỉ có nước mình liều mạng ra cho địch làm gì thì làm, để sư phụ tìm nơi dưỡng thương, sau này sẽ tìm cách báo thù. Nghĩ thế ông bèn cao giọng nói:
    - Linh Hư, ngươi đi ra bảo họ chờ tại điện Tam Thanh ta sẽ ra gặp.
    Linh Hư vâng lời đi ngay. Trương Tam Phong và Du Đại Nham tình thầy trò với nhau đã lâu, tâm ý tương thông, nghe ông nói như thế biết ngay ý định nói:
    - Đại Nham, sống chết ăn thua, chẳng có gì đáng phải để bụng cả nhưng tuyệt học phái Võ Đương không thể vì chuyện này mà đứt gánh. Ta tọa quan mười tám tháng, đắc ngộ tinh yếu võ học, một pho Thái Cực Quyền và một pho Thái Cực Kiếm bây giờ ta truyền cho con.
    Du Đại Nham ngẩn ngơ, nghĩ thầm bản thân mình tàn phế đã lâu làm sao còn học được quyền pháp kiếm thuật? Huống chi lúc này cường địch đã nhập quan, còn đâu ở không mà tập luyện võ công, nên chỉ kêu lên:
    - Sư phụ.
    Rồi không nói thêm gì được nữa. Trương Tam Phong cười buồn nói:
    - Từ khi ta khai sáng phái Võ Đương đến nay, hành hiệp giang hồ, làm nhiều điều nhân nghĩa, cứ đại số mà nói, quyết không thể nào bị đứt đoạn như thế này. Hai pho Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm của ta so với đạo lý võ học từ trước đến nay hoàn toàn khác hẳn, chuyên về lấy tĩnh chế động, hậu phát chế nhân. Sư phụ con đã hơn trăm tuổi, nếu như chẳng gặp cường địch, thì cũng còn sống được bao năm? Điều vui là đến cuối cuộc đời lại sáng chế được pho võ công này.
    Viễn Kiều, Liên Châu, Tùng Khê, Lê Đình, Thanh Cốc chẳng có ai ở bên ta, còn đệ tử đời thứ ba, thứ tư thì trừ Thanh Thư ra không có nhân tài nào kiệt xuất, mà y lại cũng không có ở trên núi. Đại Nham, con phải mang trọng trách truyền lại bình sinh tuyệt nghệ của ta, vinh nhục một ngày của phái Võ Đương có gì đáng kể? Nếu như pho Thái Cực Quyền này truyền lại được cho người sau, thanh danh của phái Võ Đương sẽ lưu đến muôn đời.
    Ông nói đến đây, thần thái phấn khởi, hào khí bốc lên ngùn ngụt, tưởng như coi cường địch đang uy hiếp kia chẳng để vào đâu.
    Du Đại Nham vâng vâng dạ dạ, hiểu ý sư phụ muốn mình nhẫn nại để đảm trách việc lớn, làm sao tiếp truyền tuyệt kỹ của bản phái mới là quan trọng. Trương Tam Phong từ từ đứng dậy, hay tay buông thõng, lưng bàn tay hướng ra ngoài, ngón tay để tự nhiên, hai chân dang ra ngang nhau. Kế đến hai cánh tay từ từ đưa lên đến ngang ngực thì tay trái ôm thành hình bán nguyệt, lòng bàn tay úp thành âm chưởng, tay phải lật lên thành dương chưởng, nói:
    - Đây là thế khởi đầu của Thái Cực Quyền.
    Rồi tiếp tục từng chiêu, từng thức diễn ra một lượt, miệng đọc các tên thế: Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Xí, Lâu Tất Câu Bộ, Thủ Huy Tì Bà, Tiến Bộ Ban Lan Truy, Như Phong Tự Bế, Thập Tự Thủ, Bão Hổ Qui Sơn … Trương Vô Kỵ ngưng thần nhìn không nháy mắt, lúc đầu tưởng là thái sư phụ cố ý đem từng thức diễn thật chậm, cốt để cho Du Đại Nham nhìn cho rõ ràng, nhưng đến chiêu thứ bảy “Thủ Huy Tì Bà”, chỉ thấy ông tay trái dương chưởng, tay phải âm chưởng, mắt chăm chú nhìn cánh tay bên trái, hay tay từ từ hợp lại, xem tưởng ngưng trọng như núi, lại tựa nhẹ nhàng như lông. Trương Vô Kỵ đột nhiên tỉnh ngộ:
    - Đây là một loại võ công thượng thừa lấy chậm chống với nhanh, lấy tĩnh chế động, không ngờ là trên thế gian này lại có một loại công phu cao minh đến thế.
    Chàng vốn dĩ võ công cực cao, một khi đã lãnh hội, càng xem càng thêm nhập thần. Chỉ thấy Trương Tam Phong hai tay ôm thành hình vòng tròn, chiêu nào cũng hàm ý âm dương biến hóa, tinh vi ảo diệu, quả thực mở ra một khung trời mới cho võ học.
    Ước chừng ăn xong một bữa cơm, Trương Tam Phong sử đến thượng bộ Cao Thám Mã, thượng bộ Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên rồi hợp trở lại thái cực. Ông đứng yên thần định khí nhàn, tuy mới bị trọng thương mà luyện xong quyền pháp, tinh thần xem ra lại sung vượng hơn. Trương Tam Phong hai tay ôm vòng thành thức thái cực, nói:
    - Quyết khiếu của môn quyền pháp này là mười sáu chữ "hư linh đính kình, hàm hung bạt bối, túng yêu thùy đồn, trầm kiên trụy trửu[2]". Thuần lấy ý mà đi quyền, tối kỵ dùng sức, hình thần hợp nhất, đó chính là yếu chỉ của quyền pháp.
    Nói xong ông giải thích kỹ lưỡng một lần. Du Đại Nham không nói một lời chỉ chăm chú lắng nghe, biết rằng thời thế khẩn bách, không có thì giờ để hỏi, tuy có rất nhiều điều chưa hiểu rõ nhưng chỉ cốt chăm chăm ghi nhớ, nếu như sư phụ có chuyện gì chẳng lành, những khẩu quyết chiêu thức mình còn truyền lại được, sau này có kẻ nào tài trí thông minh suy nghĩ được chỗ tinh áo trong đó. Còn Trương Vô Kỵ lãnh hội được nhiều hơn, mỗi câu mỗi thế Trương Tam Phong diễn ra đều khiến chàng như được mở ra một con đường mới, lòng vui sướng không sao tả nổi.
    Trương Tam Phong thấy mặt Du Đại Nham có vẻ như hoang mang chưa rõ, hỏi lại:
    - Con hiểu được mấy phần?
    Du Đại Nham đáp:
    - Đệ tử ngu độn, chỉ hiểu độ ba bốn phần nhưng chiêu thức và khẩu quyết thì nhớ hết.
    Trương Tam Phong nói:
    - Cũng thật khó cho con. Nếu như Liên Châu ở đây thì có thể hiểu được năm thành. Ôi, ngũ sư đệ của con ngộ tính cao hơn cả, tiếc thay không may chết sớm, nếu ta có được ba năm ra tay điểm bát, thì có thể truyền môn tuyệt kỹ này cho y.
    Trương Vô Kỵ nghe ông đề cập đến cha mình, trong lòng không khỏi chua xót. Trương Tam Phong lại nói tiếp:
    - Quyền kình của môn này chủ yếu là tưởng lỏng nhưng không phải lỏng, sắp bung ra nhưng chưa bung ra, kình dứt rồi mà ý chưa dứt. ..
    Ông đang định giải thích tiếp, bỗng nghe từ phía điện Tam Thanh xa xa truyền đến một giọng già nua:
    - Nếu Trương Tam Phong lão đạo cứ rụt đầu không ra, bọn ta đem đồ tử đồ tôn của y giết sạch đã.
    Lại có một giọng đàn ông ồm ồm nói:
    - Hay lắm, cứ cho một mồi lửa đốt tiêu cái đạo quan này rồi tính sau.
    Tiếp đến có một giọng the thé:
    - Để lão chết thui thì lão sướng quá. Mình phải tóm cổ lão, trói lại dẫn đi các môn các phái cho họ nể mặt, để mọi người xem cái lão già sống dai vẫn được gọi là Thái Sơn, Bắc Đẩu mặt mũi ra thế nào.
    Tiểu viện nơi hậu sơn cách tiền điện đến hơn hai dặm, nhưng thanh âm mấy người này truyền đến rõ ràng, hiển nhiên địch nhân cố ý khoe khoang công lực, mà công lực cũng quả không tầm thường.
    Du Đại Nham nghe những lời hối nhục sư tôn, trong bụng giận lắm, mắt như muốn tóe lửa. Trương Tam Phong nói:
    - Đại Nham, những lời ta dặn dò con, mới đây sao đã quên rồi? Không nhẫn nại được, làm sao đảm trách chuyện lớn?
    Du Đại Nham nói:
    - Vâng, con xin theo lời giáo huấn của sư phụ.
    Trương Tam Phong nói:
    - Con đã hoàn toàn tàn phế, địch nhân sẽ không đề phòng, tuyệt đối không được gấp gáp nóng nảy. Nếu như tuyệt nghệ ta khổ tâm sáng chế không truyền được cho hậu thế, thì con sẽ là tội nhân của phái Võ Đương ta đó.
    Du Đại Nham nghe mà lưng toát mồ hôi, biết dụng ý tại sao sư phụ nói thế thế, dù địch nhân lăng nhục thầy trò thế nào chăng nữa, thì cũng phải giả như hèn nhát để sống, cốt sao truyền được tuyệt nghệ. Trương Tam Phong lấy bên mình ra một đôi La Hán bằng thép đúc, giao cho Du Đại Nham nói:
    - Tên Không Tướng này nói phái Thiếu Lâm đã bị diệt sạch, không biết có thật hay không. Người này là cao thủ của phái Thiếu Lâm, đến như y mà còn đầu hàng kẻ địch, đến trước ám toán ta thì phái Thiếu Lâm ắt đã bị đại nạn không còn nghi ngờ gì nữa. Đôi La Hán này là do Quách Tương Quách nữ hiệp tặng cho ta một trăm năm trước, con sau này gửi lại truyền nhân của phái Thiếu Lâm, may ra từ đôi La Hán này mà còn lưu truyền được một tuyệt nghệ của môn phái.
    Nói xong ông phất tay áo một cái, đi ra khỏi cửa. Du Đại Nham nói:
    - Khiêng ta đi theo sư phụ.
    Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ hai người liền ghé vai khiêng chiếc cáng đi theo Trương Tam Phong.
    Bốn người đến điện Tam Thanh, thấy trong điện đầy kẻ đứng người ngồi, phải đến ba bốn trăm chứ không ít. Trương Tam Phong đứng giữa điện, ra hiệu chào khách nhưng không nói lời nào. Du Đại Nham lớn tiếng nói:
    - Vị này là sư tôn chúng tôi Trương chân nhân. Các vị đến núi Võ Đương, không hiểu muốn dạy bảo điều gì?
    Đại danh Trương Tam Phong uy chấn võ lâm, lập tức bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào ông, chỉ thấy ông mặc một chiếc đạo bào cũ kỹ dơ bẩn màu tro, râu mày bạc trắng, thân thể cực kỳ cao to, ngoài ra không có gì khác thường.
    Trương Vô Kỵ nhìn thấy những người kia thấy một nửa ăn mặc theo lối giáo chúng Minh giáo, còn hơn chục người đứng đầu mặc quần áo bản phái, có lẽ vì thân phận cao cấp, không muốn mạo xưng người khác. Cao lùn tăng tục, mấy trăm người đều dồn vào trong điện, nhất thời không thể nhìn rõ mặt từng người.
    Ngay lúc đó, nghe thấy bên ngoài có người truyền vào:
    - Giáo chủ đến.
    Người trong điện nghe thế, lập tức im phăng phắc, hơn chục thủ lãnh liền tiến ra ngoài nghênh tiếp, những người khác cũng rảo bước theo sau. Chỉ trong giây lát, mấy trăm người đều đi hết sạch không còn một ai.
    Lại nghe tiếng chân hơn chục người kia từ xa đến gần, đến trước điện thì dừng lại. Trương Vô Kỵ từ trong ngó ra, không khỏi giật mình, thấy tám người khiêng một chiếc kiệu bọc gấm vàng, có thêm bảy tám người đi trước sau ủng vệ, dừng ngay trước cửa. Tám người kiệu phu kia chính là thần tiễn bát hùng ở Lục Liễu Sơn Trang.
    Trương Vô Kỵ trong lòng chợt nảy ra một ý, hai tay liền bốc đất dưới chân xoa đầy lên mặt. Minh Nguyệt nghĩ rằng chàng thấy đại địch đến đánh, hãi sợ vô cùng nên mới giả làm như thế, nhất thời cũng bấn loạn theo, bắt chước cũng bốc đất trét lên mặt. Hai đứa đạo đồng lập tức biến thành hai ông vua bếp, không còn nhìn ra mặt mũi thật ra sao.
    Cửa kiệu mở ra, từ trong bước ra một thanh niên công tử, mặc áo bào trắng, trên áo thêu một ngọn lửa đỏ đang cháy, tay cầm quạt lông phe phẩy, chính là Triệu Mẫn cải nam trang.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra mọi việc đều do cô này sắp xếp, thảo nào phái Thiếu Lâm một trận tan tành”. Triệu Mẫn đi vào trong điện, có độ hơn chục người đi theo. Một gã thân thể cao lớn bước tới một bước, khom lưng nói:
    - Khải bẩm giáo chủ, người này là lão đạo Trương Tam Phong của phái Võ Đương, còn gã tàn phế kia ắt là đệ tử thứ ba của y là Du Đại Nham.
    Triệu Mẫn gật đầu, đi lên vài bước, cụp quạt lại, vái Trương Tam Phong một vái thật sâu nói:
    - Vãn sinh Trương Vô Kỵ chấp chưởng Minh giáo, hôm nay được dịp gặp bậc Thái Đẩu của võ lâm, thực là may mắn biết chừng nào.
    Trương Vô Kỵ giận lắm, trong bụng chửi thầm: “Con tặc a đầu này mạo xưng giáo chủ Minh giáo, cái đó cũng chẳng sao, lại cả gan mạo luôn cả tên ta đến lừa dối thái sư phụ”. Trương Tam Phong nghe ba chữ “Trương Vô Kỵ” thật lạ lùng: “Sao giáo chủ Minh giáo lại là một cô gái tuổi trẻ xinh đẹp thế này, tên lại giống thằng cháu Vô Kỵ của ta”. Oâng liền chắp tay hoàn lễ nói:
    - Không biết giáo chủ đại giá quang lâm, chẳng kịp ra xa nghênh đón, xin tha lỗi cho”.
    Triệu Mẫn nói:
    - Không dám, không dám.
    Tri khách đạo nhân Linh Hư đưa các đạo đồng nhà bếp đem trà lên. Triệu Mẫn một mình ngồi trên ghế, các thủ hạ của nàng đứng thõng tay xa xa ở đằng sau, không dám đến gần nàng quá năm thước, tựa hồ sợ là bất kính mạo phạm đến nàng. Trương Tam Phong đã tu luyện một trăm năm, khiêm xung tĩnh lãng, đến mức vạn sự không còn gì phải để trong lòng nữa nhưng tình thầy trò thâm trọng, nghĩ đến an nguy sống chết của bọn Tống Viễn Kiều, mười phần khắc khoải nên hỏi ngay:
    - Mấy đứa học trò của lão đạo không biết lượng sức mình, từng đến quí giáo học hỏi cao chiêu, đến nay chưa về, không biết bọn chúng bây giờ ra sao, xin được Trương giáo chủ minh thị.
    Triệu Mẫn cười hì hì nói:
    - Tống đại hiệp, Du nhị hiệp, Trương tứ hiệp, Mạc thất hiệp bốn vị, hiện nay nằm trong tay bản giáo. Mỗi người bị thương chút đỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại.
    Trương Tam Phong nói:
    - Bị thương chút đỉnh ư? Có lẽ trúng chút đỉnh chất độc thì đúng hơn.
    Triệu Mẫn cười nói:
    - Trương chân nhân quả thật tự hào về Võ Đương tuyệt học. Nếu chân nhân bảo họ trúng độc, thì cứ coi như là trúng độc đi.
    Trương Tam Phong biết rằng các học trò mình đều là cao thủ bậc nhất đời nay, nếu vì ít người không chống lại được với số đông, thì dẫu sao cũng có một hai người thoát thân quay về báo, còn nếu cả bọn bị bắt, chắc là trúng phải độc dược vô ảnh vô tung khó mà phòng bị. Triệu Mẫn thấy ông đoán trúng ngay như thế nên thản nhiên thừa nhận.
    Trương Tam Phong lại hỏi:
    - Thế còn tiểu đồ họ Ân thì sao?
    Triệu Mẫn thở dài:
    - Ân lục hiệp bị phái Thiếu Lâm mai phục, cũng bị y hệt chẳng khác gì vị Du tam hiệp kia, bốn chân tay bị đại lực Kim Cương Chỉ bẻ gãy, chết thì không chết nhưng cử động thì không được.
    Trương Tam Phong nhìn mặt mà xét, thấy những lời của nàng ta không phải nói láo, trong lòng đau đớn, òa một tiếng, lại phun ra một ngụm máu tươi.
    Những người đứng sau Triệu Mẫn lộ vẻ mừng rỡ, biết là Không Tướng đã đánh lén được rồi, vị cao nhân của phái Võ Đương đã bị thương nặng, bọn họ vốn chỉ sợ một mình Trương Tam Phong, lúc này không còn gì phải úy kỵ nữa. Triệu Mẫn nói:
    - Vãn sinh có một lời khuyên bảo, không hiểu Trương chân nhân có muốn nghe không?
    Trương Tam Phong đáp:
    - Xin nói ra.
    Triệu Mẫn nói:
    - Dưới khắp gầm trời này, không chỗ nào không phải là đất của hoàng đế. Tất cả mọi thứ trên bờ cõi của nhà vua, không gì không phải là phận bầy tôi[3]. Hoàng đế Mông Cổ chúng ta uy trùm bốn bể, nếu như Trương chân nhân tòng thuận thì hoàng thượng lập tức tấn phong, cả phái Võ Đương đều được vinh sủng, cả bọn Tống đại hiệp ai nấy đều an toàn không còn gì phải nói nữa.
    Trương Tam Phong ngửng đầu nhìn xà nhà, lạnh lùng đáp:
    - Minh giáo tuy làm nhiều điều bất nghĩa, càn rỡ không đâu vào đâu, nhưng xưa nay vẫn chống lại người Mông Cổ, không biết qui thuận triều đình từ bao giờ? Lão đạo thật là quê mùa kém hiểu biết quá.
    Triệu Mẫn đáp:
    - Bỏ chỗ tối vào chỗ sáng, xưa nay kẻ am hiểu thời vụ mới là người tuấn kiệt. Phái Thiếu Lâm từ Không Văn, Không Trí thần tăng đổ xuống, ai ai cũng qui thuận, tận trung với triều đình. Bản giáo chẳng qua nhìn thấy được đại thế nên đi theo các bậc hiền hào, chứ có gì đâu?
    Trương Tam Phong hai mắt sáng quắc, nhìn thẳng vào Triệu Mẫn nói:
    - Người Nguyên tàn bạo, tàn hại bách tính, khiến cho hôm nay thiên hạ quần hùng đều nổi lên, chính là lúc đuổi quân Hồ Lỗ, lấy lại giang sơn. Chúng ta phàm đã là con cháu Hoàng Đế [4] ai ai mà chẳng có chí đuổi quân Thát Đát, đó mới chính là đại thế phải theo. Lão đạo tuy là người xuất gia không lý chuyện đời, nhưng cũng biết được đâu là đại nghĩa. Không Văn, Không Trí là bậc đương thế thần tăng, lẽ nào khuất phục trước thế lực? Sao cô nương lại nói năng lăng nhăng, lộn xộn như thế?
    Đằng sau Triệu Mẫn vọt ra một đại hán, lớn tiếng quát lên:
    - Lão đạo đần độn kia, nói năng không biết nặng nhẹ gì cả. Phái Võ Đương chỉ trong chớp mắt là bị tiêu diệt rồi, lão không sợ chết, không lẽ hơn trăm đạo nhân đệ tử trên núi này, đứa nào cũng không sợ chết?
    Kẻ đó nói năng trung khí sung túc, thân thể cao to, bắp tay gân guốc, hình tướng thật là uy võ. Trương Tam Phong liền cất tiếng ngâm:
    Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
    (Có ai sống mãi đâu nào, Lòng son sao được ghi vào sử xanh) Đây là hai câu thơ của Văn Thiên Tường[5]. Khi Văn Thiên Tường khẳng khái chết vì nghĩa thì Trương Tam Phong tuổi còn nhỏ, rất kính ngưỡng vị thừa tướng anh hùng này. Về sau ông hay than thở khi đó võ công chưa thành nếu không thể nào cũng xả thân cứu ông ta thoát nạn, nay đến lúc vào cảnh sinh tử quan đầu, tự nhiên ngâm ra hai câu thơ trên. Ông ngừng lại một chút nói tiếp:
    - Xem ra Văn thừa tướng cũng còn có chỗ chấp nê, chỉ cần giữ mình một tấm lòng son còn sử sách sau này chép sao thì chép.
    Ông liếc Du Đại Nham một cái, nghĩ thầm: “Ta mong sao pho Thái Cực Quyền được lưu truyền hậu thế, có khác gì Văn thừa tướng muốn để tiếng thơm cho đời sau? Thực ra nếu đã hành sự không hổ cùng trời đất rồi, thì còn lo gì Thái Cực Quyền Kiếm có truyền hay không truyền, phái Võ Đương tồn tại hay không tồn tại”.
    Bàn tay trắng như ngọc của Triệu Mẫn vẫy nhẹ một cái, đại hán kia liền lui lại phía sau. Nàng mỉm cười nói:
    - Nếu Trương chân nhân đã cố chấp như thế, tạm thời mình không nói đến nữa. Vậy thì mời các vị đi theo ta.
    Nói xong nàng đứng lên, bốn người đứng đằng sau lập tức tiến lên vây Trương Tam Phong lại. Bốn người đó gồm một đại hán cao to, một người áo vải đầy mụn vá, một hòa thượng gầy gò, và một người Hồ Tây Vực râu xồm mắt biếc. Xem ra nếu Trương Tam Phong nếu không đi theo họ, bốn người này sẽ ra tay.
    Trương Vô Kỵ thấy mấy người đó thân pháp kẻ ngưng trọng, kẻ phiêu dật ai nấy đều thật là phi thường, trong bụng hơi hoảng: “Sao dưới tay cô ả họ Triệu này lại nhiều cao thủ đến thế?” Chàng lại nghĩ thầm: “Phe địch cao thủ thật nhiều, bọn này ai nấy đều gian trá vô sỉ, không kể tín nghĩa, không phải như sáu môn phái vây công Quang Minh Đính. Ta muốn bảo hộ thái sư phụ và tam sư bá được bình an không phải dễ. Nếu có đánh bại được vài người, bọn họ nhất định không chịu thua, thể nào cũng ùa lên một lượt. Thế nhưng việc đến nước này, chỉ còn một phen hết sức, tốt nhất là làm sao bắt giữ được Triệu cô nương để uy hiếp đối phương”.
    Chàng đang toan tiến ra ngăn trở bọn kia, bỗng nghe bên ngoài cửa một tiếng cười dài ghê rợn, một người áo xanh bay vụt vào trong điện, thân pháp chẳng khác gì quỉ mị, thoáng một cái như gió bay, như chớp lòe đã tới sau lưng gã cao to, múa chưởng đánh ra. Đại hán đó liền xoay người, múa ngược tay lại đỡ, ý muốn dùng ngạnh công đấu với người kia. Thế nhưng người áo xanh không để chiêu đó đánh xong, tay trái đã đánh luôn vào vai người Hồ Tây Vực. Người Hồ nghiêng qua né tránh, giơ chân lên đá vào bụng dưới y. Người kia khi đó đã đánh tiếp qua nhà sư gầy gò, vội vàng nghiêng người lùi lại, tả chưởng đánh luôn vào người ăn mặc rách rưới. Chỉ trong nháy mắt, y liên tiếp đánh ra bốn chưởng, công kích bốn cao thủ, tuy không chưởng nào trúng nhưng thủ pháp nhanh như thế không ai ngờ nổi. Bốn người kia biết mình đã gặp kình địch nên đều nhảy lùi mấy bước, ngưng thần tiếp chiến.
    Người áo xanh không thèm để ý đến phía địch, khom lưng xuống vái Trương Tam Phong nói:
    - Vãn bối Vi Nhất Tiếu, tọa hạ của Trương giáo chủ Minh giáo, tham kiến Trương chân nhân.
    Người đó chính là Vi Nhất Tiếu. Y thoát khỏi những kẻ chặn đường rồi lập tức chạy đến đây. Trương Tam Phong thấy y xưng là “Minh giáo Trương giáo chủ tọa hạ”, cho rằng y cũng cùng bọn với Triệu Mẫn, giơ tay đánh bốn người kia chắc có âm mưu gì nên lạnh lùng đáp:
    - Vi tiên sinh không phải đa lễ. Đã từ lâu nghe danh Thanh Dực Bức Vương khinh công tuyệt đính, trên đời ít có, hôm nay được thấy quả thực danh bất hư truyền.
    Vi Nhất Tiếu mừng lắm, y ít đến Trung Nguyên, trước nay tên tuổi không mấy nổi, nào ngờ Trương Tam Phong cũng nghe tiếng khinh công cao siêu của mình, khom mình đáp:
    - Trương chân nhân là Bắc Đẩu của võ lâm, vãn bối được chân nhân khen một câu, quả thực vinh hạnh không để đâu cho xiết.
    Y quay lại, chỉ vào Triệu Mẫn nói:
    - Triệu cô nương, sao cô lén lút mạo danh Minh giáo làm bại hoại tên tuổi bản giáo là để làm gì? Nam tử hán, đại trượng phu sao lại độc ác, âm hiểm như thế?
    Triệu Mẫn cười khanh khách nói:
    - Ta vốn có phải nam tử hán đại trượng phu đâu, độc ác âm hiểm thì ngươi làm gì được nào?
    Vi Nhất Tiếu mới nói một câu đã bị bắt bẻ khiến không biết đối đáp ra sao, y ngẩn ngơ rồi nói:
    - Các vị tấn công Thiếu Lâm rồi lại tới làm phiền phái Võ Đương, rốt ráo lai lịch thế nào? Nếu như các vị có oán cừu với hai phái này, Minh giáo trước nay không hay xen vào việc người khác, thế nhưng nếu mạo xưng tên tuổi chúng tôi, ăn mặc giả làm giáo chúng thì Vi Nhất Tiếu này không thể không can thiệp.
    Trương Tam Phong vốn biết Minh giáo là tử địch với triều đình đã hơm trăm năm nên không tin nay lại đầu hàng Mông Cổ, nghe Vi Nhất Tiếu nói mấy câu đó bấy giờ mới minh bạch, nghĩ thầm: “Thì ra cô gái này mạo xưng. Ma giáo tuy thanh danh không tốt nhưng những chuyện lớn thế này họ không thể hồ đồ được”. Triệu Mẫn quay sang người to cao kia nói:
    - Nghe y to mồm huyên hoang nhỉ, ngươi ra thử xem y có tài thật hay chỉ nói phét?
    Đại hán kia khom lưng đáp :
    - Vâng.
    Y đưa tay sửa lại dây thắt lưng, khệnh khạng đi ra giữa điện nói:
    - Vi Bức Vương, tại hạ muốn lãnh giáo công phu Hàn Băng Miên Chưởng.
    Vi Nhất Tiếu không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Gã này làm sao lại biết ta có môn Hàn Băng Miên Chưởng? Y biết thế mà vẫn tiến lên khiêu chiến, ta hẳn không thể coi thường được”. Y hai tay vỗ một cái nói:
    - Xin thỉnh giáo tính danh của các hạ?
    Người kia đáp:
    - Bọn ta đã mạo xưng Minh giáo đến đây, không lẽ lại dùng tên thật? Câu hỏi đó của Bức Vương quả thật ngốc quá.
    Hơn một chục tên đứng sau lưng Triệu Mẫn bật lên tiếng cười ha hả. Vi Nhất Tiếu lạnh lùng nói:
    - Đúng thế, câu hỏi của ta ngu thật. Các hạ cam chịu làm ưng khuyển cho triều đình, làm nô tài cho dị tộc, không nói tên ra tốt hơn, nếu không thì làm nhục cả tổ tiên.
    Đại hán kia đỏ mặt, lửa giận bốc lên, nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng vào thẳng ngực Vi Nhất Tiếu, kình lực thật là lợi hại. Vi Nhất Tiếu xoay chuyển cước bộ né qua ngay, thân hình chỉ nhấp nháy đã lòn ra sau lưng giơ tay điểm vào lưng địch. Y chưa giở Hàn Băng Miên Chưởng ra vì còn muốn thăm dò xem đối phương kia hư thực nông sâu thế nào. Đại hán kia liền giơ tay trái đỡ ngược lại, trong thủ có ẩn thế công. Chỉ qua mấy chiêu, chưởng thế của gã kia nhanh dần, chưởng lực mỗi lúc một thêm mạnh mẽ. Tuy nội thương Vi Nhất Tiếu đã được Trương Vô Kỵ chữa, mỗi lần vận công không còn phải uống máu nóng để chế ngự âm độc trong cơ thể như trước, nhưng mới khỏi chưa bao lâu, nay gặp cường địch lại ra tay trước mặt một đại tông sư như Trương Tam Phong, thành thử không dám khinh suất, lập tức vận dụng Hàn Băng Miên Chưởng công phu ra chống đỡ. Hai người chưởng thế chậm dần, dần dần đi vào chỗ đấu nội lực.
    Đột nhiên nghe vù một tiếng, từ cửa chính một vật đen xì ném thẳng vào gã đại hán. Vật đó xem ra còn to hơn một bao gạo, quả thật lạ kỳ thiên hạ làm gì có loại ám khí nào lớn đến thế. Đại hán chẳng biết vật gì liền vận kình đánh bật vật đó ra văng xa hơn một trượng. Chỉ nghe một tiếng “A” thảm khốc, thì ra đó là một cái bao trong đó có người, kẻ đó bị một chưởng mãnh liệt vô luân của đại hán kia làm sao không đứt gân gãy xương cho được?
    Đại hán kia còn đang ngạc nhiên, chưa hiểu ra sao, Vi Nhất Tiếu lập tức lẻn ra sau, lẳng lặng đánh ngay một Hàn Băng Miên Chưởng vào huyệt Đại Truy chính giữa hậu tâm y. Đại hán đó vừa giận vừa sợ, vội quay lại, hết sức đánh một chưởng lên đầu Vi Nhất Tiếu.
    Vi Nhất Tiếu cười ha hả, không tránh né cũng không đỡ gạt. Chưởng của đại hán đó đến giữa chừng, cánh tay đột nhiên mềm nhũn không hơi sức, chưởng đó tuy đánh trúng thiên linh cái đối phương nhưng hoàn toàn không có một chút kình lực, chẳng khác gì để tay lên đầu. Vi Nhất Tiếu biết rằng một khi trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực đối phương lập tức mất hết thế nhưng cao thủ đối chiến, ai dám cho địch đánh vào đầu mình, liều lĩnh như thế xưa nay chưa ai thấy, người đứng ngoài không khỏi toát mồ hôi.
    Nếu đại hán kia có thuật chế ngự Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực nhất thời chưa mất, chưởng đó đánh lên đỉnh đầu, làm sao khỏi nát sọ? Vi Nhất Tiếu suốt đời hành sự quá đản lạ lùng, những chuyện không ai dám làm, không chịu làm, chưa từng làm y càng khoái chí. Y thừa cơ đối phương phân tâm ra tay đánh lén, xem ra cũng không được quang minh chính đại, thế nhưng lại đám để cho địch thẳng cánh đánh vào đầu, thì tuy không quang minh chính đại thì cũng phải là lớn mật làm càn, đem sống chết ra đùa cợt.
    Gã áo quần rách rưới liền xé chiếc bao, lôi ra một người, thấy y mặt đầy máu, đã bị đại hán nọ đánh một chưởng chết rồi. Kẻ đó mặc áo đen, chính là đồng bọn của họ, không hiểu vì sao lại bị bỏ trong bao vứt vào đây. Gã giận quá, quát lên:
    - Đứa nào thập thò. ..
    Nói chưa hết câu, một chiếc bao trắng đã chụp xuống đầu y. Y đề khí nhảy lùi lại, tránh được, thấy ngay một nhà sư mập mạp đứng ngay trước mặt đang cười hì hì, chính là Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc.
    Chiếc túi Càn Khôn Nhất Khí của Thuyết Bất Đắc bị Trương Vô Kỵ làm vỡ trên Quang Minh Đính rồi, không có binh khí cầm tay, đành phải lấy mấy cái túi vải dùng tạm, dĩ nhiên không thể nào lợi hại như cái túi Càn Khôn đao kiếm chém không đứt kia được. Khinh công của y tuy không bằng Vi Nhất Tiếu, nhưng cũng ghê gớm lắm, trên đường lại không bị ngăn trở, chân trước chân sau đã đến ngay.
    Thuyết Bất Đắc khom mình chào Trương Tam Phong nói:
    - Tọa hạ Trương giáo chủ Minh giáo, nhà sư túi vải rày đây mai đó Thuyết Bất Đắc xin tham kiến chưởng giáo tổ sư Trương chân nhân của phái Võ Đương.
    Trương Tam Phong hoàn lễ đáp:
    - Đại sư đi đường xá xa xôi vất vả quá.
    Thuyết Bất Đắc nói:
    - Các anh em tọa hạ của tệ giáo chủ gồm Quang Minh sứ giả, Bạch Mi Ưng Vương , Tứ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ cùng nhân mã các lộ đều đã kéo đến núi Võ Đương. Xin Trương chân nhân xuôi tay đứng ngoài, để xem Minh giáo chúng tôi cùng bọn vô liêm sỉ mạo danh người khác quấy hôi bôi nhọ này so tài cao thấp.
    Câu này của y chỉ là hư trương thanh thế, đại đội nhân mã của Minh giáo làm gì đến nhanh thế được. Thế nhưng Triệu Mẫn nghe rồi, đôi lông mày nhíu lại, nghĩ thầm: “Bọn chúng đến nhanh như thế là do kẻ nào tiết lộ cơ mật?”. Nàng nhịn không nổi buột miệng hỏi:
    - Trương giáo chủ các ngươi đâu? Bảo y ra gặp ta.
    Nói xong trừng mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, ánh mắt dường như có ý nghi ngờ, hỏi xem giáo chủ bây giờ ở đâu? Vi Nhất Tiếu cười ha hả nói:
    - Thế bây giờ cô không mạo xưng nữa ư?
    Y trong bụng cũng hỏi thầm :”Giáo chủ hẳn đã đến rồi, nhưng bây giờ đang ở đâu?”. Trương Vô Kỵ từ nãy đến giờ đứng nấp đằng sau Minh Nguyệt, biết rằng Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc chưa nhận ra mình, thấy có hai tay thuộc hạ đắc lực, bụng thật mừng rỡ.
    Triệu Mẫn cười nhạt nói:
    - Một con dơi độc, một nhà sư thối thì làm được trò trống gì?
    Nói chưa dứt, bỗng từ góc mái nhà phía đông một chuỗi cười dài rồi có tiếng hỏi:
    - Thuyết Bất Đắc đại sư, Dương tả sứ đã tới hay chưa?
    Người đó tiếng nói vang dội, già dặn hào hùng, chính là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Thuyết Bất Đắc chưa kịp trả lời, tiếng cười của Dương Tiêu ở trên mái nhà phía tây đã vọng xuống vui vẻ nói:
    - Ưng Vương, lão huynh đúng là càng già càng dẻo càng dai, đã đến trước đệ một bước.
    Ân Thiên Chính cười đáp:
    - Dương tả sứ không phải khách sáo làm gì, hai người mình cùng đến một lượt, chẳng ai hơn ai. Hẳn là tả sứ nể mặt Trương giáo chủ nên nhường mỗ đấy thôi.
    Dương Tiêu nói:
    - Đương nhân bất nhượng[6]. Tại hạ đã dùng hết sức mình, nhưng vẫn không thể nào nhanh được như Ưng Vương.
    Hai người trên đường thi đua kình lực xem ai chạy nhanh hơn, nội lực Ân Thiên Chính cao thâm, còn bộ pháp của Dương Tiêu thì nhanh nhẹn nên khởi hành cùng một lượt, cùng đến một lần. Hai người cười ha hả, nhảy từ trên mái nhà xuống.
    Trương Tam Phong đã nghe danh Ân Thiên Chính từ lâu, hơn nữa ông ta lại là nhạc phụ của Trương Thúy Sơn, còn Dương Tiêu thì là nhân vật nổi danh trên giang hồ, cho nên tiến lên ba bước, chắp tay nói:
    - Trương Tam Phong cung nghinh Ân huynh, Dương huynh đại giá.
    Trong bụng có điều không hiểu: “Ân Thiên Chính rõ ràng là giáo chủ Thiên Ưng Giáo, sao lại nói cái gì “nể mặt Trương giáo chủ” là sao?”.
    Ân Dương hai người khom mình đáp lễ, Ân Thiên Chính nói:
    - Đã từ lâu nghe tiếng của Trương chân nhân, nhưng chưa có duyên bái kiến, hôm nay được thấy tôn nhan, đúng là tam sinh hữu hạnh.
    Trương Tam Phong nói:
    - Hai vị đều là nhất đại tông sư, lại cùng đại giá quang lâm, quả thực là hiếm có.
    Trong bụng Triệu Mẫn mỗi lúc thêm bực bội, thấy các cao thủ của Minh giáo càng lúc càng đông, tuy chưa thấy Trương Vô Kỵ xuất hiện nhưng e rằng lời của Thuyết Bất Đắc không phải dọa xuông, y quả đang đứng sau sắp xếp, bố trí một trận thế ghê gớm hơn. Kế hoạch của mình đã an bài đâu đấy, xem ra khó mà thành công, nhưng việc ám toán được Trương Tam Phong trọng thương là chuyện ngàn năm một thuở, không thể nào có lần thứ hai, hôm nay không đánh tan phái Võ Đương để sau này ông ta chữa khỏi rồi thì không còn cơ hội nào nữa.
    Nàng liếc qua liếc lại đôi mắt đen nhánh, cười khẩy nói:
    - Giang hồ vẫn truyền ngôn Võ Đương là danh môn chính phái nhưng tai nghe đâu bằng mắt thấy? Thì ra phái Võ Đương lén lút bắt tay với ma giáo, được ma giáo đỡ đầu, còn võ công bản môn chẳng đáng vào đâu.
    Thuyết Bất Đắc nói:
    - Triệu cô nương, nói như cô đúng là giọng điệu đàn bà, kiến thức con nít. Thời Trương chân nhân uy chấn võ lâm, chỉ sợ đến ông nội cô cũng chưa ra đời, thứ trẻ con như cô biết làm sao được?
    Đằng sau Triệu Mẫn lập tức có mươi người hung hăng tiến ra, hầm hầm nhìn y. Thuyết Bất Đắc mặt nhơn nhơn, cười nói:
    - Các ngươi bảo ta không được nói như thế phải không? Thì tên ta đã là “Thuyết Bất Đắc” mà. Cái gì nói được là ta nói, các ngươi làm gì ta đây?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:56:17 | Chỉ xem của tác giả
    Nhà sư gầy gò thủ hạ Triệu Mẫn giận dữ nói:
    - Chủ nhân, để thuộc hạ giải quyết tên to mồm lắm miệng này.
    Thuyết Bất Đắc kêu lên:
    - Hay lắm, hay lắm. Ngươi là sư đi hoang, mà ta cũng lang thang không chùa, hai đứa mình làm một keo xem nào. Mời Võ Đương tông sư Trương chân nhân chỉ điểm những chỗ sai sót, còn hơn tự mình khổ luyện mười năm.
    Nói xong hai tay vung ra, từ trong bọc lấy thêm một cái túi vải nữa. Người ngoài thấy y hết túi này đến túi khác, lấy mãi không hết, không biết dưới áo bào y còn dấu bao nhiêu cái túi nữa.
    Triệu Mẫn khe khẽ lắc đầu:
    - Hôm nay chúng ta lên đây học hỏi tuyệt nghệ của phái Võ Đương, phái Võ Đương vị nào hạ trường, chúng ta đều vui vẻ phụng bồi. Phái Võ Đương có chân tài thực học không, hay chỉ được cái tiếng hão, một trận hôm nay cả thiên hạ sẽ biết hết. Còn Minh giáo với chúng ta dây mơ rễ má thế nào, ngày sau tính sổ cũng chưa muộn. Tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ gian trá giảo quyệt, ta chưa rút được gân, lột được da y thì chưa tiêu được mối hận lòng, nhưng không gấp gì một hôm nay.
    Trương Tam Phong nghe nói “tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ”, trong bụng lạ lùng: “Không lẽ giáo chủ Minh giáo tên là Trương Vô Kỵ thật? Thế nhưng sao lại “tiểu quỉ” là sao?”. Thuyết Bất Đắc cười khì khì nói:
    - Trương giáo chủ bản giáo tuổi trẻ tài cao, Triệu cô nương e rằng còn kém bản giáo chủ vài tuổi, chi bằng lấy quách giáo chủ chúng tôi, hòa thượng này xem ra xứng đôi. ..
    Y nói chưa hết câu, bọn người sau lưng Triệu Mẫn cùng gầm lên:
    - Đừng nói láo.
    - Câm mồm.
    - Sư hoang nói thối lắm.
    Triệu Mẫn hai má đỏ bừng, dung nhan càng thêm kiều diễm, thần sắc chỉ có ba phần tức giận nhưng đến bảy phần e ấp, một thủ lãnh quần hào oai nghi trong giây lát thành ngay một thiếu nữ thẹn thùng. Thế nhưng thần thái đó chỉ chớp mắt đã qua ngay, nàng lập tức trấn tĩnh, mặt trở lại lạnh như tiền, quay sang nói với Trương Tam Phong:
    - Trương chân nhân, nếu ông không muốn ra tay, chỉ cần nói một câu thôi cũng đủ. Cứ nhận rằng phái Võ Đương trước nay chỉ bịp bợm tiếm danh, bọn ta sẽ vỗ tay đi ngay, bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cũng được thả về chẳng suy suyển một mảy.
    Ngay lúc đó, Thiết Quan đạo nhân và Ân Dã Vương trước sau cùng đến, chẳng bao lâu thêm Chu Điên và Bành Oánh Ngọc cũng tới nơi, Minh giáo thế là có thêm bốn tay hảo thủ.
    Triệu Mẫn đoán định tình hình, nếu hai bên quyết chiến, chưa chắc đã thắng ngay được, sợ nhất là Trương Vô Kỵ còn trong bóng tối ra tay gì chưa biết. Nàng đưa mắt nhìn khắp lượt mọi người trong Minh giáo, nghĩ thầm: “Trương Tam Phong trở thành mối lo gan ruột của triều đình, chẳng qua chỉ vì có cái uy danh quá lớn, trong võ lâm ai ai cũng coi như Bắc Đẩu, Thái Sơn, nếu đối địch với triều đình thì võ lâm cũng không ai qui phục. Thế nhưng y già cả heo hắt như ngọn đèn trước gió, sống thêm được bao lâu? Hôm nay không cần phải giết lão, chỉ cần làm nhục một phen, cho tiếng tăm phái Võ Đương tiêu ma hết, thế cũng coi như thành công lớn rồi”. Nàng bèn lạnh lùng nói:
    - Bọn ta đến thăm núi Võ Đương, chỉ muốn lãnh giáo võ công Trương chân nhân xem thật hay giả, nếu như muốn tiễu diệt Minh giáo, chẳng lẽ không biết tìm đường lên Quang Minh Đính? Việc gì phải tỉ võ trên núi Võ Đương, không lẽ trên đời này chỉ có một mình Trương chân nhân là có thể phẩm bình cao thấp, thắng bại hay sao? Thôi chuyện đó gác qua một bên. Trong nhà tôi có ba người giúp việc, một người luyện được vài ngày chút kiếm pháp giết heo, mổ chó, một người biết sơ qua chút ít nội công, còn một người thì học được vài miếng quyền mèo quào. A Đại, A Nhị, A Tam[7], ba người đứng ra đây! Trương chân nhân chỉ cần đánh bại được ba gia nhân vô tích sự của ta, thì mọi người sẽ bội phục võ công phái Võ Đương là thật chứ không phải giả. Còn không thì giang hồ sẽ có công luận, ta chẳng phải nói nhiều làm gì.
    Nói xong nàng ta vỗ tay một cái. Chỉ thấy "A Đại" là một ông già mình hạc xác ve, hai tay bưng một thanh trường kiếm, chính là bảo kiếm Ỷ Thiên. Người đó vừa gầy vừa cao, mặt đầy nếp nhăn, dúm dó khổ sở, tưởng như mới bị ai chửi mắng, đánh đập một hồi, nếu không thì hẳn là vợ con mới chết, ai nhìn mặt y cũng thấy chạnh lòng muốn rơi nước mắt. "A Nhị" thì cũng gầy gò như thế, người hơi thấp hơn, đầu nhẵn thín, hói đến nỗi không còn một sợi tóc nào, hai bên huyệt thái dương tụt lõm xuống, sâu đến nửa tấc. Còn "A Tam" thì thân hình rắn rỏi chắc nịch, dềnh dàng có uy, trên mặt, cánh tay, cần cổ chỗ nào có bắp thịt cũng thấy cuồn cuộn săn chắc, tưởng như toàn thân đầy tinh lực muốn bật tung ra ngoài. Trên má trái y có một nốt ruồi đen, trên nốt ruồi có một sợi lông dài. Trương Tam Phong, Ân Thiên Chính, Dương Tiêu nhìn thấy hình dáng ba người này, trong bụng ai cũng kinh thầm.
    Chu Điên nói:
    - Triệu cô nương, ba người này đều là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm, Chu Điên này một tên đánh còn chưa lại, sao không biết thẹn đóng vai kẻ ăn người làm, đến đùa cợt với Trương chân nhân?
    Triệu Mẫn nói:
    - Có thực họ là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm không? Sao ta lại không biết? Thế tên bọn họ là gì?
    Chu Điên tắc tị ú ớ, nhưng lập tức giả vờ cười ha hả, nói:
    - Vị này là Nhất Kiếm Chấn Thiên Hạ Xu Mi Thần Quân, vị này là Đơn Khí Bá Bát Phương Ngốc Đầu Thiên Vương. Còn vị này ư, thiên hạ ai mà chẳng biết, ai mà không hay, hì hì, chính là. .. chính là. . Thần Quyền Cái Thế Đại Lực Tôn Giả.
    Triệu Mẫn nghe y nói quấy nói quá, không khỏi cười khúc khích nói:
    - Ba người ở nhà tôi nấu cơm pha trà, lau bàn quét rác, làm gì có thần quân, thiên vương, tôn giả nào ở đây? Trương chân nhân, xin ông tỉ quyền cước với A Tam trước.
    "A Tam" tiến lên một bước, vòng tay nói:
    - Xin mời Trương chân nhân.
    Chân trái y dậm một cái, nghe lách cách một tiếng, ba miếng gạch vuông dưới chân đã nát vụn. Y dậm nát miếng gạch dưới chân không có gì lạ, nhưng lạ là hai miếng gạch hai bên cũng bị y dậm vỡ luôn. Dương Tiêu đưa mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, hai người cùng nghĩ: “Tay này ghê thật”.
    Hai tên còn lại "A Đại, A Nhị" từ từ lui về sau, vẫn cúi gầm mặt xuống, chẳng nhìn một ai. Ba người này từ khi vào trong điện, chỉ đứng sau lưng Triệu Mẫn, lúc nào cũng lặng lẽ cúi đầu, dáng điệu hèn mọn, không một ai thèm để ý, không ngờ vừa mới bước ra chẳng khác nào ngọn núi vươn ra khỏi vực sâu, có ngay khí phái của một đại tông sư, nhưng khi lui về, lại rụt rè co ro, trở lại dáng điệu một người đầy tớ.
    Tri khách đạo nhân của phái Võ Đương Linh Hư từ nãy vẫn lo lắng cho thương thế của thái sư phụ, lúc này không còn nhịn nổi quát lên:
    - Thái sư phụ ta vừa mới bị thương thổ huyết, các ngươi không thấy hay sao? Các ngươi sao lại. .. sao lại. ..
    Nói đến đây, âm thanh nghẹn ngào muốn khóc. Ân Thiên Chính nghĩ thầm: “Thì ra Trương chân nhân đã bị thương thổ huyết, nhưng không biết bị ai đả thương. Dù cho ông ta còn khỏe mạnh thì tuổi tác đã cao, làm sao có thể tỉ quyền cước với gã kia cho được? Xem võ công người này, toàn là một đường cương mãnh, để ta ra thử xem nào”. Nghĩ thế ông cao giọng nói:
    - Trương chân nhân thân phận thế nào mà lại động thủ với một kẻ ăn người ở? Nghe thế có tức cười không? Không nói gì đến Trương chân nhân, ngay cả họ Ân này, hừ hừ, thứ đầy tớ như ngươi không chịu nổi một quyền một cước.
    Oâng biết rõ "A Đại, A Nhị, A Tam" đâu phải loại tầm thường, nhưng chê họ không đáng vào đâu cốt để buộc y đấu với mình. Triệu Mẫn nói:
    - "A Tam", việc mới nhất của ngươi là việc gì? Nói cho họ nghe đi, xem có xứng để đấu với cao nhân phái Võ Đương không?
    Nàng mỗi câu mỗi chữ đều nhấn mạnh hai tiếng “Võ Đương”. "A Tam" đáp:
    - Tiểu nhân gần đây chẳng làm được chuyện gì, chỉ tại đường đi nơi mạn tây bắc quá chiêu với một hòa thượng chùa Thiếu Lâm tên là Không Tính, chỉ lực đấu với chỉ lực, phá được Long Trảo Thủ của y, tiện tay cắt luôn thủ cấp.
    Câu đó nói xong, cả đại sảnh ai nấy đều rúng động. Không Tính thần tăng từng dùng Long Trảo Thủ đấu với Trương Vô Kỵ trên Quang Minh Đính, có hồi đã chiếm thượng phong, người trong Minh giáo ai ai cũng chứng kiến, không ngờ táng mạng trong tay gã này. Với thân phận giết được Thiếu Lâm thần tăng đã có thể đấu tay đôi với Trương Tam Phong được rồi.
    Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
    - Được lắm, đến cả Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng bị ngươi giết chết, vậy để cho họ Ân này đấu với ngươi một phen, cũng là một việc thật thú vị.
    Nói xong tiến lên hai bước, xoải chân xuống tấn, lông mày trắng dựng ngược thần uy lẫm lẫm.
    "A Tam" nói:
    - Bạch Mi Ưng Vương, nhà ngươi là tà ma ngoại đạo, còn "A Tam" này thì cũng ngoại đạo tà ma. Hai chúng ta cũng cùng một “lò”, phe mình lẽ nào đánh phe ta. Nếu ngươi thích đánh thì cứ định ngày trước rồi sẽ đấu một phen. Hôm nay chủ nhân chỉ ra lệnh cho ta thử xem phái Võ Đương võ công hư thực thế nào.
    Y quay sang nói với Trương Tam Phong:
    - Trương chân nhân, nếu như ông không muốn hạ trường, chỉ cần nói một câu là xong, bọn ta không ngang ngược ép uổng gì đâu. Phái Võ Đương chỉ cần nhận thua là được, không lẽ bọn ta nhất định phải lấy mạng ông hay sao?
    Trương Tam Phong mỉm cười, nghĩ thầm tuy mình đang bị thương nặng nhưng nếu thi triển thượng thừa pháp môn “dĩ hư ngự thực” trong pho Thái Cực Quyền mới sáng chế, chưa chắc y đã thắng được. Cái khó là sau khi đánh bại "A Tam" rồi, tên "A Nhị" thể nào cũng lên đấu nội công, cái đó không thể nào khôn khéo gì được, cửa ải đó khớ mà có thể vượt qua. Thế nhưng sự việc như lửa cháy lông mày, tình thế trước mắt, chỉ có cách đánh bại tên "A Tam" đã rồi tính sau.
    Nghĩ thế ông từ từ đi ra giữa điện, quay sang nói với Ân Thiên Chính:
    - Mỹ ý của Ân huynh, bần đạo xin tâm lãnh. Bần đạo mấy năm gần đây có sáng tạo được một môn quyền thuật, gọi là Thái Cực Quyền, tự biết không giống như những ngành võ học khác. Vị thí chủ này nếu muốn ấn chứng công phu phái Võ Đương, nếu như Ân huynh đánh bại y, y sẽ không cam lòng. Vậy bần đạo đem vài chiêu số trong pho Thái Cực Quyền ra đấu xem sao, cũng là dịp tốt để bần đạo được trình cho các vị xem pho quyền nhiều năm tâm huyết này.
    Ân Thiên Chính nghe thế, vừa vui mừng, vừa lo lắng, nghe giọng ông nói đến Thái Cực Quyền đầy vẻ tự tin. Trương Tam Phong là hạng người thế nào, đã nói như thế, hẳn đã có chủ định, đâu lẽ làm mất cả thanh danh một đời? Thế nhưng ông vừa bị thương thổ huyết, chỉ e quyền kỹ tuy tinh, nội lực lại không chịu nổi. Ông không tiện nói thêm, chỉ còn nước vòng tay nói:
    - Vãn bối cung kính đứng ngoài chiêm ngưỡng thần kỹ của Trương chân nhân.
    "A Tam" thấy Trương Tam Phong vẫn thản nhiên hạ trường, trong bụng nẩy sinh ba phần khiếp sợ nhưng chuyển niệm nghĩ ngay: “Hôm nay ta chỉ hết sức cùng lão đạo sĩ già này lưỡng bại câu thương”, cũng đã rúng động võ lâm rồi. Nghĩ thế y nín thở ngưng thần, hai mắt chăm chăm nhìn vào mặt Trương Tam Phong, lẳng lặng vận nội tức, xương cốt toàn thân chuyển động nghe răng rắc, phát ra tiếng lốp bốp không ngừng. Mọi người thấy thế ai nấy đều kinh ngạc, biết đây là võ công tối thượng thừa của Phật môn chính tông, trông tưởng ngoại hình mà thực sự là nội công, không nhuốm chút tà khí nào, chính là Kim Cương Phục Ma thần thông.
    Trương Tam Phong thấy y như thế, cũng phải kinh hãi: “Người này lai lịch không phải nhỏ. Không biết pho Thái Cực Quyền của ta có đối phó nổi chăng?”. Nghĩ rồi ông từ từ giơ hai cánh tay lên, ý muốn nhường "A Tam" tiến chiêu.
    Đột nhiên một tiểu đạo đồng đầu bù tóc rối, mặt mày nhem nhuốc từ đằng sau Du Đại Nham chạy ra, nói:
    - Thái sư phụ, vị thí chủ này nếu muốn biết quyền kỹ của phái Võ Đương ta thì việc gì phải mất công thái sư phụ đại giá? Để đệ tử diễn vài chiêu cho y xem, cũng đã đủ rồi.
    Đạo đồng mặt mũi dơ dáy kia chính là Trương Vô Kỵ. Cả bọn Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cùng chàng chia tay chưa bao lâu, tuy lúc này hình dáng, quần áo hoàn toàn thay đổi, nhưng chỉ nghe giọng nói, lập tức nhận ra ngay. Quần hào Minh giáo thấy giáo chủ đã ở đây tự bao giờ, ai ai cũng mừng rỡ.
    Thế nhưng Trương Tam Phong và Du Đại Nham làm sao nghĩ ra được? Trương Tam Phong nhìn không rõ diện mạo của chàng, nhưng theo áo quần trên người chỉ đoán là Thanh Phong, liền nói:
    - Vị thí chủ này chuyên về Kim Cương Phục Ma ngoại công của phái Thiếu Lâm, hẳn là một cao thủ của Thiếu Lâm Tây Vực. Còn trẻ như con chỉ một chiêu là đã nát xương đứt gân, đâu phải chuyện đùa.
    Trương Vô Kỵ tay trái nắm chéo áo Trương Tam Phong, tay phải cầm bàn tay ông lắc nhè nhẹ, nói:
    - Thái Cực Quyền thái sư phụ dạy cho con, con chưa hề dùng đến, cũng chẳng biết có được hay không. May quá có vị thí chủ đây là ngoại gia cao thủ, xin để con ra đấu xem nhu có khắc nổi cương không, hư có chế ngự được thực không, chẳng hay lắm ư?
    Trong khi nói, chàng vận dụng Cửu Dương thần công đưa một luồng khí cực kỳ hồn hậu, cực kỳ nhu hòa theo bàn tay truyền vào cơ thể Trương Tam Phong. Trong một sát na, Trương Tam Phong thấy một luồng lực đạo vô cùng mạnh mẽ theo lòng bàn tay đi vào mình, tuy còn kém xa nội lực của ông về mặt tinh thuần chuyên nhất, nhưng hàng hàng lớp lớp, liên miên bất tuyệt dường như không bao giờ dứt, không bao giờ cùng. Ông kinh hoảng, định thần nhìn kỹ mặt Trương Vô Kỵ, thấy mắt chàng không lộ quang hoa, chỉ ẩn dấu một nét trong sáng, ôn hòa, hiển nhiên đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh, bình sinh ông gặp chỉ có vài người như bản sư Giác Viễn đại sư, đại hiệp Quách Tĩnh là đạt đến cảnh giới này thôi. Còn đương thời, ngoại trừ chính ông ra, không tìm ra một người thứ hai có mức độ tương đương. Trong nháy mắt, lòng ông rộn lên bao nỗi hồ nghi, nhưng nội lực của thanh niên này truyền vào rõ ràng để giúp ông trị thương, quyết không phải vì ác ý, vì nhất thời chưa nghĩ ra, ông mỉm cười đáp:
    - Ta tầm thường lẩm cẩm, có được công phu gì dạy cho con đâu? Con muốn lãnh giáo công phu ngoại môn tuyệt đính của vị thí chủ này thì cũng được, nhưng phải cẩn thận.
    Oâng chỉ đoán rằng tiểu đạo đồng là một thanh niên cao thủ của một môn phái nào đến tiếp viện, cho nên trong ngôn ngữ có phần khiêm tốn nể nang. Trương Vô Kỵ đáp:
    - Thái sư phụ đối với hài nhi ơn nặng như non, dù hài nhi có tan xương nát thịt cũng chưa trả nổi đại ân của thái sư phụ và các sư bá sư thúc. Phái Võ Đương ta tuy võ công không dám nói là thiên hạ vô địch nhưng quyết không thua môn hạ của Tây Vực Thiếu Lâm, thái sư phụ cứ yên tâm.
    Mấy câu đó chàng nói hết sức thành khẩn, những chữ “thái sư phụ” ra khỏi cửa miệng thật là tự nhiên, không một chút ngập ngừng khiến Trương Tam Phong cũng ngạc nhiên: “Hay là y đúng là đệ tử bản môn thật, bí mật cố công tập luyện, chẳng khác gì bản sư Giác Viễn năm xưa?”. Oâng nhẹ nhàng thả tay Trương Vô Kỵ ra, lùi lại chỗ cũ, ngồi xuống ghế, đưa mắt nhìn Du Đại Nham, thấy người học trò cũng ngơ ngẩn không hiểu ra sao.
    "A Tam" thấy Trương Tam Phong để một tiểu đạo đồng xuất chiến, có thể nói là khinh miệt coi thường mình đến cực điểm, định bụng sẽ đánh một quyền chết tươi đối phương, khích cho lão đạo thảng thốt bồn chồn, rồi sẽ cùng ông ta động thủ, lúc đó sẽ dễ dàng chế thắng hơn. Nghĩ thế y không nói gì, chỉ nói:
    - Thằng nhãi kia, ra chiêu đi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Pho quyền thuật này là do thái sư phụ Trương chân nhân nhiều năm tâm huyết mới sáng tạo ra, tên gọi Thái Cực Quyền. Vãn bối mới học, chưa kịp tập luyện, không chắc đã lãnh ngộ được tinh yếu của quyền pháp, trong ba mươi chiêu e rằng không đánh ngã được các hạ. Nếu thế bởi vì tôi học nghệ chưa tinh, chứ không phải là vì pho quyền thuật này không hiệu quả, chuyện đó phải nói để các hạ biết trước.
    "A Tam" không giận nổi mà phá ra cười, quay đầu lại nói với "A Đại", "A Nhị":
    - Đại ca, nhị ca, trên đời này sao lại có một tiểu tử cuồng vọng đến thế nhỉ?
    "A Nhị" cũng cười ha hả theo. Còn "A Đại" nhìn ra tiểu đạo đồng này không phải là kẻ đối phó dễ dàng nói:
    - Tam đệ, chớ có khinh địch.
    "A Tam" tiến lên một bước, nghe vù một tiếng, tay phải đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Chiêu đó thần tốc như điện, quyền đến nửa chừng, quyền bên trái lại thành nhanh hơn, phát chiêu sau mà tới trước, đánh luôn vào mặt Trương Vô Kỵ, chiêu số kỹ thuật thật là kỳ quái, trên đời ít thấy.
    Trương Vô Kỵ từ khi nghe Trương Tam Phong diễn giảng về nguyên lý Thái Cực Quyền, hơn một giờ liền, chàng chỉ suy nghĩ về quyền lý của pho quyền này, thấy quyền tay trái của "A Tam" đánh ra, lập tức sử chiêu Lãm Tước Vĩ [8] trong Thái Cực Quyền, chân phải thực, chân trái hư, vận dụng yếu quyết chữ “tễ”, nương theo đối phương, chưởng phải đã nắm được cổ tay trái của địch, vận kình đẩy ngang ra. "A Tam" thân hình lập tức bổ nhào về trước, loạng choạng liền hai bước mới đứng lại được. Người chung quanh thấy thế ai nấy đều kinh hãi kêu lên.
    Chiêu Lãm Tước Vĩ này là chiêu đầu tiên từ khi pho Thái Cực Quyền được sáng tác ra đến nay mới có dịp dùng, Trương Vô Kỵ thân mang đầy Cửu Dương thần công, lại thiện dụng phép chuyển đổi trong Càn Khôn Đại Na Di, đột nhiên sử dụng yếu quyết chữ “niêm” trong Thái Cực Quyền, tuy học chưa đầy hai giờ nhưng cũng không kém gì người cả đời khổ luyện.
    "A Tam" bị chàng “vuốt” một cái, kình lực nghìn cân của ngọn quyền như rơi vào biển cả, không còn thấy tăm hơi, chính mình cũng bị quyền kình lôi tới trước hai bước. Y trong cơn kinh hãi, trở thành tức giận liên tiếp đánh ra, tưởng như có hàng chục cánh tay, hàng chục nắm đấm cùng tung ra một lượt. Mọi người thấy y tấn công chẳng khác gì gió táp mưa sa, ai nấy nghĩ thầm: “Thảo nào một người cao cường như Không Tính đại sư mà cũng bỏ mạng dưới tay y”. Ngoại trừ đám đồng đảng đi theo Triệu Mẫn, ai ai cũng lo thầm cho Trương Vô Kỵ.
    Trương Vô Kỵ cố ý hiển dương uy danh phái Võ Đương nên chàng không sử dụng đến võ công của mình, mọi chiêu thức đều dùng pho Thái Cực Quyền do Trương Tam Phong sáng tạo như Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Sí, Lâu Tất Câu Bộ. Đến khi chàng ra chiêu Thủ Huy Tì Bà, tay phải lỏng ra, tay trái thu vào, trong nhất thời hiểu ngay được chỗ tinh vi áo diệu trong pho quyền nên chiêu này chàng sử dụng chẳng khác gì nước chảy mây trôi, cực kỳ nhàn nhã.
    "A Tam" thấy thượng bàn bị song chưởng của chàng nhốt chặt như trong một cái lồng, không thể nào tránh né được, cũng không chống đỡ gì được, chỉ còn nước vận kình ra lưng, chịu cho chàng đánh một chưởng, đồng thời quyền bên phải đấm ra, cốt sao mỗi người chịu một chiêu, thành thế cả hai cùng chết, lấy đòn đổi đòn. Nào ngờ Trương Vô Kỵ hai tay vòng lại như ôm thái cực trong người, một luồng kình đạo vô cùng hồn hậu hợp thành một cơn gió lốc, lôi "A Tam" xoay luôn tại chỗ bảy tám vòng như con quay, khiến y phải vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy mới đứng lại được nhưng cũng thẹn đến mặt đỏ gay, cực kỳ bẽ bàng.
    Quần hào Minh giáo lớn tiếng reo hò. Dương Tiêu kêu lên:
    - Công phu Thái Cực Quyền của phái Võ Đương thật là thần diệu quả thực khiến người ta được mở mắt.
    Chu Điên cười nói:
    - "A Tam" lão huynh, ta khuyên ngươi nên đổi tên đi, gọi là “A Chuyển”.
    Ân Dã Vương nói:
    - - Có quay thêm vài vòng cũng chẳng có gì xấu mặt, cổ nhân chẳng từng nói "Ba mươi sáu kế, kế xoay là hơn cả" đấy ư?
    Thuyết Bất Đắc bồi thêm:
    - Năm xưa hảo hán Lương Sơn Bạc có một người tên Hắc Toàn Phong, đã có gió lốc thì đương nhiên là xoay tít.
    "A Tam" nghe xong tức giận đến mặt đang đỏ biến thành tím ngắt, rống lên một tiếng, nhảy chồm tới, tay trái lúc thì quyền lúc thì chưởng, biến ảo khôn lường, trong khi tay phải lại dùng thuần chỉ lực công phu, chộp cào đâm chọc, vồ cào cấu phất, năm ngón tay khi thì như phán quan bút, lúc lại như điểm huyệt quyết, như đao như kiếm, như thương như kích, thế công cực kỳ ác liệt.
    Thái Cực Quyền của Trương Vô Kỵ chưa thuần thục, cho nên tay chân luống cuống, không ứng phó nổi, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, tay áo đã bị rách một đường, chỉ còn nước thi triển khinh công, vừa chạy vừa né tránh mới tạm thoát được công phu chỉ lực ghê gớm chưa từng thấy kia. "A Tam" hò hét đuổi theo, nhưng làm sao theo kịp khinh công phiêu dật của đối phương, chộp luôn mười trảo đều hụt cả.
    Trương Vô Kỵ một mặt né tránh, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu ta chỉ chạy mà không đấu, chẳng hóa ra thua hay sao? Pho Thái Cực Quyền này ta chưa nhuần nhuyễn lắm, chi bằng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công, đấu với y xem sao”. Chàng liền quay lại, hai tay ra chiêu Dã Mã Phân Tông[9] trong Thái Cực Quyền nhưng tay trái lại sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp. Một ngón tay phải của "A Tam" đâm vào đầu vai đối phương, nhưng không hiểu sao bị lôi kéo thế nào, nghe cạch một tiếng lại đâm ngay vào bên trái của chính mình, đau đến mắt nổ đom đóm, cánh tay dường như không nhắc lên nổi.
    Dương Tiêu biết đó không phải là Thái Cực Quyền nhưng lập tức nói khỏa lấp đi:
    - Thái Cực Quyền quả hay thực là hay.
    "A Tam" vừa đau vừa tức, quát lên:
    - Cái này là yêu pháp tà thuật, Thái Cực Quyền cái gì?
    Vụt vụt vụt y đâm luôn ba chỉ. Trương Vô Kỵ tung mình tránh được, thấy "A Tam" lại vươn tay, hai ngón tay đâm tới chàng liền sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, vừa kéo vừa dẫn, nghe cộp một tiếng, hai ngón tay của "A Tam" đâm luôn vào một cái cột gỗ lớn trong đại điện, lút tới tận gốc. Mọi người vừa tức cười, vừa kinh hãi.
    Trong khi ai nấy đang cười ồ, bỗng có tiếng của Du Đại Nham cất lên:
    - Khoan đã! Ngươi đang sử dụng Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm, phải không?
    Trương Vô Kỵ tung mình nhảy qua, nghe thấy “Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm” lập tức nghĩ ra, Du Đại Nham bị thương vì Kim Cương chỉ lực, trong hơn hai mươi năm qua, phái Võ Đương vẫn vì việc này mà thâm thù phái Thiếu Lâm, xem ra hung thủ ngay tại trước mắt. Chỉ nghe "A Tam" cười khẩy nói:
    - Kim Cương Chỉ Lực thì đã sao? Ai bảo ngươi cứng đầu, không chịu nói nơi dấu đao Đồ Long? Nếm mùi tàn phế hai mươi năm qua có thích không?
    Du Đại Nham hậm hực nói:
    - Cám ơn ngươi hôm nay nói ra chân tướng, thì ra thân ta tàn phế là do phái Tây Vực Thiếu Lâm hạ độc thủ. Chỉ đáng buồn. .. đáng buồn thay ngũ sư đệ ta.
    Ông nói đến câu cuối, giọng nghẹn ngào. Năm xưa Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết chỉ vì Du Đại Nham bị Ân Tố Tố dùng ngân châm đả thương, không còn mặt mũi nào nhìn sư huynh. Thực ra Du Đại Nham trúng phải ngân châm rồi, Ân Tố Tố đã nhờ Long Môn tiêu cục đưa lên núi Võ Đương, chữa thuốc chừng một tháng là sẽ khỏi. Chân tay ông bị người bẻ gãy, chính là do độc thủ của Đại Lực Kim Cương Chỉ, nếu khi đó tìm được ra kẻ gây nên tội lỗi, vợ chồng Trương Thúy Sơn đâu đến nỗi chết thảm như thế?
    Du Đại Nham thương cho sư đệ chẳng tội tình gì chết oan, lại hận cho mình thành người tàn phế, mắt như muốn tóe lửa ra ngoài. Trương Vô Kỵ chỉ nghe hai người đối đáp, lập tức minh bạch tiền nhân hậu quả. Khi còn nhỏ chàng đã từng nghe cha nói qua, nhà sư nấu bếp ở chùa Thiếu Lâm học lén võ nghệ, đánh chết thủ tọa Đạt Ma Đường là Khổ Trí thiền sư, các cao thủ trong phái Thiếu Lâm tranh chấp đến nỗi Khổ Tuệ thiền sư phải chạy sang Tây Vực, khai sáng phái Thiếu Lâm Tây Vực, xem ra gã này là truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư năm xưa.
    Quả nhiên nghe Trương Tam Phong nói:
    - Thí chủ bụng dạ thật là tàn ác, ta không ngờ trong những truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư, lại có một người như thí chủ.
    "A Tam" cười gằn:
    - Khổ Tuệ là cái quái gì thế?
    Trương Tam Phong vừa nghe, lập tức hiểu ngay. Năm xưa khi Du Đại Nham bị Đại Lực Kim Cương Chỉ đả thương, phái Võ Đương đã cho người sang chất vấn phái Thiếu Lâm, chưởng môn phái Thiếu Lâm kiên quyết không nhận, nên cũng nghi là phái Thiếu Lâm Tây Vực. Thế nhưng nghe ngóng lâu năm biết phái này rất ít ỏi, đệ tử chuyên về nghiên cứu Phật học, không thông võ công, lúc này nghe "A Tam" nói một câu “Khổ Tuệ là cái quái gì thế?”, lập tức biết ngay nếu y là người của phái Thiếu Lâm Tây Vực, quyết không thể nào dám mở miệng nhục mạ tổ sư khai sáng, ông liền cao giọng nói:
    - Thảo nào! Thảo nào! Thì ra thí chủ là truyền nhân của hỏa công đầu đà, không những học được võ công của ông ta, lại học luôn được cả tính tình độc ác âm hiểm. Thế gã gọi là Không Tướng gì gì đó, có phải là sư huynh đệ của thí chủ không?
    "A Tam" đáp:
    - Đúng đó. Y là sư đệ của ta, nhưng không phải tên là Không Tướng mà pháp danh Cương Tướng. Trương chân nhân, Bát Nhã Kim Cương chưởng của Kim Cương môn, so với chưởng pháp của phái Võ Đương thì thế nào?
    Du Đại Nham hậm hực đáp:
    - Kém xa thật là xa. Đầu y bị sư phụ ta đánh một chưởng, phọt óc chết ngay. Đánh trống qua cửa nhà sấm, thật đáng kiếp.
    "A Tam" rống lên một tiếng, tung mình xông tới. Trương Vô Kỵ liền dùng chiêu Như Phong Tự Bế trong Thái Cực Quyền chặn y lại, nói:
    - "A Tam", mau đưa Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao ra đây.
    Vừa nói chàng vừa đưa tay ra. "A Tam" giật mình kinh hãi: “Tục cốt diệu dược của bản môn cực kỳ bí mật, ngay cả đệ tử tầm thường cũng chưa biết tên, tên tiểu đạo đồng này nghe ở đâu thế?”.
    Y đâu biết trong Y Kinh của Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu có chép là “Tây Vực có một lộ ngoại gia võ công, nghi là bàng chi của phái Thiếu Lâm, thủ pháp thật là quái dị, bẻ gẫy xương chân ta người ta, không có thuốc gì trị được chỉ có bí dược của chính họ là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao mới có thể cứu thôi, nhưng cao đó phương thuốc phối chế thế nào thì không truyền ra ngoài”. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chi tiết đó, thuận mồm nói ra, vốn chỉ thử xem có đúng không, nhưng thấy y biếc sắc liệu là mình đoán không sai, nên lớn tiếng nói:
    - Đưa đây.
    Chàng nghĩ đến cha mẹ chết thảm, lại thêm hai vị Ân Dư sư bá sư thúc bị tàn phế, hận không thể lập tức giết chết y, nhưng cũng không muốn nói thêm với y lời nào. Còn "A Tam" vừa rồi giao thủ với Trương Vô Kỵ tuy có lúc bị nguy hiểm đôi chút, nhưng khi sử dụng Đại Lực Kim Cương Chỉ thì đối phương chỉ có nước trốn tránh, không cách gì hoàn thủ. Y nghĩ thầm chỉ cần để ý đừng để bị thủ pháp cổ quái lôi kéo, đấu thêm nữa thể nào cũng thắng, nên tiến lên một bước, quát lớn:
    - Thằng nhãi kia, ngươi quì xuống rập đầu cho kêu lạy ta ba lạy thì ta tha cho, nếu không thì cũng như tên họ Du kia thôi.
    Trương Vô Kỵ nhất định lấy cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, nhưng đối phó với Kim Cương Chỉ thế nào, nhất thời chàng chưa nghĩ ra, Càn Khôn Đại Na Di tuy có thể làm y bị thương nhưng làm sao ép y đưa thuốc ra mới là khó. Còn đang trầm ngâm, Trương Tam Phong bỗng nói:
    - Này con, con lại đây.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Thưa thái sư phụ, vâng.
    Trương Tam Phong nói:
    - Dùng ý chứ không dùng sức, cốt sao thái cực xoay vòng, không được để cho đứt đoạn. Nếu được như thế rồi, cái gốc của đối phương tự nhiên sẽ đứt. Mỗi chiêu mỗi thức, cần phải liền lạc với nhau, như sông dài biển rộng, chảy hoài không hết.
    Oâng thấy Trương Vô Kỵ đối địch ra chiêu cũng đã phần nào thấu được cái tinh hoa của pho quyền, nhưng chỉ vì còn quá rạch ròi, quyền pháp minh bạch chiêu nào ra chiêu nấy nên không thể hiện được ý tứ bốn chữ “viên chuyển bất đoạn” (xoay vòng không đứt).
    Trương Vô Kỵ võ công đã cao rồi, biết được nguyên lý của nó, nghe Trương Tam Phong nói mấy câu đó, lập tức lãnh ngộ ngay, liền nhẩm thử cái ý xoay vòng không đứt, âm dương biến hóa của pho quyền.
    "A Tam" cười khẩy nói:
    - Lâm trận học võ không trễ lắm sao?
    Trương Vô Kỵ lông mày dựng lên, nói:
    - Có kịp hay không, các hạ cứ thử thì biết.
    Nói xong quay lại, tay phải vòng ra phía trước, nhắm ngay mặt "A Tam" đánh tới, chính là chiêu Cao Thám Mã trong Thái Cực Quyền. Năm ngón tay phải của "A Tam" lập tức chụm lại thành hình cương đao chém xuống, Trương Vô Kỵ biến thành chiêu Song Phong Quán Nhĩ, vẫn tiếp tục đánh cả hai tay. Biến chiêu đó đúng là lãnh hội được tinh nghĩa “viên chuyển bất đoạn” trong Thái Cực Quyền mà thái sư phụ vừa chỉ điểm, rồi khi thì vòng tay trái, khi thì vòng tay phải, hết vòng này tới vòng khác, vòng to, vòng nhỏ, vòng ngang, vòng dọc, vòng thẳng, vòng xéo, hết vòng nọ lại tới vòng kia liên tiếp, khiến cho "A Tam" phải lật đật lắc lư, chân đứng không vững chẳng khác nào người say rượu.
    Đột nhiên năm ngón tay "A Tam" hết sức đâm tới, Trương Vô Kỵ liền sử chiêu Vân Thủ, tay trái cao, tay phải thấp thành một vòng tròn chặn ngay tay y lại, kình lực Cửu Dương thần công vận ra, chỉ nghe cắc một tiếng, cánh tay phải của "A Tam" cả trên lẫn dưới đều gãy rời. Cương kình của Cửu Dương thần công thật là ghê gớm, xương bả vai của "A Tam" gãy thành năm sáu mảnh, các đầu xương nát vụn, không còn thành hình thù gì nữa. Cứ riêng kình lực đó không thôi, pho Thái Cực Quyền lấy nhu kình làm chủ không thể nào bì kịp.
    Trương Vô Kỵ hận y tàn ác, Vân Thủ chàng sử ra liên miên bất tuyệt, như một áng mây trắng bay ngang bầu trời, vòng tròn này chưa xong, vòng kế tiếp đã bắt đầu, lại nghe cắc thêm một tiếng nữa, cánh tay trái "A Tam" cũng gãy luôn, tiếp theo cắc cắc hai tiếng, cả hai bên đùi trái phải của y cũng gãy vụn. Trương Vô Kỵ trong đời động thủ cùng người, chưa bao giờ hạ độc thủ như thế, nhưng người này giết hại cha mẹ mình, là hung thủ làm khổ tam sư bá, lục sư thúc, nếu không phải vì còn cần Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì chàng đã hạ thủ đánh chết y rồi.
    "A Tam" chỉ hự được một tiếng, đã nằm gục xuống, trong đám thủ hạ Triệu Mẫn một người liền vọt ra, ôm y lên quay về chỗ. Những người chung quanh thấy thần công của Trương Vô Kỵ như thế, ai nấy kinh hãi, ngay đến các cao thủ Minh giáo cũng ngơ ngẩn không kịp mở miệng hò reo.
    Tên đầu hói "A Nhị" lập tức nhào ra, chưởng phải nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ tấn công. Chưởng của y chưa tới, Trương Vô Kỵ đã thấy tức ngực, vội vàng sử dụng chiêu Tà Phi Thế, dẫn lực đạo của y lệch qua một bên. Gã hói đầu đó chẳng nói chẳng rằng, hạ bàn vững chãi như đóng đinh xuống đất, chăm chăm hết chưởng này đến chưởng khác đánh ra, nội lực hùng hồn không ai sánh kịp.
    Trương Vô Kỵ thấy chưởng pháp của y với "A Tam" cũng cùng một loại, nhìn tuổi tác hẳn là sư huynh của "A Tam", tuy không nhanh nhẹn bằng nhưng trầm ổn hơn nhiều, chàng liền sử dụng các chiêu thức niêm, dẫn, tễ, án trong Thái Cực Quyền định đẩy cho y nghiêng qua, nào ngờ người này nội lực quá mạnh, lại kéo chàng nhủi tới một bước.
    Hùng tâm của Trương Vô Kỵ nổi lên, nghĩ thầm: “Để ta tỉ đấu với y một phen xem nội lực Tây Vực Thiếu Lâm kia mạnh, hay Cửu Dương thần công của ta ghê gớm hơn”. Chàng thấy chưởng của y đánh ra liền múa chưởng ra đỡ, đó là thuần lấy cứng chọi cứng, không có chút nào khéo léo gì ở bên trong. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, cả hai người đều lắc lư.
    Trương Tam Phong “Ý” một tiếng, trong bụng kêu thầm: “Không xong, đánh kiểu thô lỗ này, ai mạnh người ấy thắng, hoàn toàn tương phản với quyền lý của Thái Cực. Gã hói đầu này nội lực hồn hậu, trong võ lâm quả ít thấy, chỉ e đấu thêm chưởng nữa, tiểu hài nhi sẽ bị trọng thương”.
    Ngay lúc đó, chưởng thứ hai của đôi bên lại đụng nhau, nghe bình một tiếng, "A Nhị" thân hình lảo đảo, lùi lại một bước, còn Trương Vô Kỵ thản nhiên nhàn nhã vẫn đứng tại chỗ.
    Cửu Dương thần công và nội công của phái Thiếu Lâm nếu luyện đến cảnh giới tối cao, có thể nói không bên nào kém bên nào. Thế nhưng sáng phái tổ sư hỏa công đầu đà của Kim Cương Môn bên Tây Vực là người học lén võ công của chùa Thiếu Lâm. Quyền cước binh khí thì học trộm được, còn nội công là cách vận chuyển khí tức trong cơ thể, dù có trông thấy người ta đả tọa tĩnh tu mười năm, tám năm, cũng không sao hiểu được phương pháp điều quân thế nào, dẫn các đường chân khí đi ra sao? Thành ra ngoại công y cớ thể bắt chước, còn nội công thì không sao học lóm được. Kim Cương Môn ngoại công rất mạnh không kém gì Thiếu Lâm chính tông, còn nội công thì thua xa không thể nào bằng.
    "A Nhị" là một dị nhân trong môn phái Kim Cương, vốn có thần lực trời sinh, từ ngoại công biến ngược trở lại thành nội công, đi theo một đường riêng luyện thành một người nội công cực kỳ thâm hậu, tài năng còn hơn xa cả tổ sư hỏa công đầu đà năm xưa, có thể coi là trời cho. Dưới song chưởng của y, rất ít ai đỡ nổi ba chiêu, lúc này đánh theo kiểu tay ngang, nhưng lại bị chưởng lực của Trương Vô Kỵ đẩy lùi một bước.
    Y vừa giận vừa sợ, hít một hơi dài, hai chưởng cùng đánh ra, nhắm thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Ân lục thúc, chú xem cháu rửa hận cho chú đây.
    Thì ra khi đó Ân Lê Đình đang được Dương Bất Hối, Tiểu Siêu hộ tống, do hai tên giáo chúng Minh giáo dùng cáng khiêng, vừa tới núi Võ Đương. Trương Vô Kỵ vừa quát lên, chưởng phải đánh ra, nghe bình một tiếng lớn, gã hói đầu phải lùi liên tiếp ba bước, hai mắt lồi ra, khí huyết trong ngực trộn trạo. Trương Vô Kỵ quát lớn:
    - Ân lục thúc, trong đám vây đánh chú có tên đầu hói hay không?
    Ân Lê Đình đáp:
    - Chính hắn, tên này chính là đầu sỏ.
    Chỉ thấy tên đầu hói "A Nhị" toàn thân xương cốt kêu lách cách mấy tiếng, chính đang vận kình. Du Đại Nham biết tên này nội lực cương mãnh, y vận nội công, chưởng lực sẽ không biết đâu mà lường, cực kỳ khó chống đỡ, kêu lên:
    - Qua sông chưa xong, đánh vào giữa dòng.
    Ý xúi Trương Vô Kỵ đừng đợi "A Nhị" vận kình hoàn thành, hãy tiến lên đánh cho y trở tay không kịp. Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vâng.
    Chàng tiến lên một bước nhưng không ra tay. "A Nhị" hay tay đẩy ra, một luồng lực đạo bài sơn đảo hải đánh tới. Trương Vô Kỵ hít một hơi, chân khí trong cơ thể lưu chuyển, hữu chưởng đánh ra, một tay đỡ một tay đón, đem toàn bộ chưởng lực đối phương hất trả lại. Hai luồng chưởng lực dồn lại làm một, "A Nhị" chỉ kêu lên được một tiếng, chẳng khác nào viên đá nằm trên nỏ bắn ra, nghe lách cách lách cách, thân hình y đụng vỡ tung bức tường, bay thẳng ra ngoài.
    Ai nấy còn đang kinh hãi thất sắc, bỗng thấy một người theo lỗ hổng trên tường chui vào, xách "A Nhị" đặt ngay dưới đất. Người đó béo tròn lùn xủn như cái trống đá, hình dáng thật là tức cười nhưng thân pháp hết sức nhanh nhẹn, chính là chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ của Minh giáo Nhan Viên. Hai xương cánh tay, xương lồng ngực, xương đòn gánh, tất cả đều bị chưởng lực cương mãnh hồn hậu chấn động gãy nát. Nhan Viên bỏ "A Nhị" xuống đất rồi, khom lưng chào Trương Vô Kỵ, rồi lại theo lỗ hổng trên tường chui ra, luồn ra luồn vào, chẳng khác gì một con chuột chũi mập mạp.
    Triệu Mẫn thấy tiểu đạo đồng liên tiếp đánh bại hai cao thủ hạng nhất của mình, vốn đã sinh nghi, lại thấy Nhan Viên hành lễ, nàng liền nhìn kỹ lập tức nhận ra ngay, tự trách mình: “Đáng chết thực, đáng chết thực. Ta vào trước là chủ, vẫn tưởng tên tiểu quỉ này ở ngoài bố trí, đâu ngờ y giả trang đạo đồng, ở đây phá bĩnh, làm hỏng hết việc của ta”.
    Nghĩ thế nàng liền khinh khỉnh nói:
    - Trương giáo chủ, sao giáo chủ không nghĩ đến thanh danh mà lại đi giả làm đứa tiểu đồng? Luôn mồm thái sư phụ nọ, thái sư phụ kia không biết thẹn hay sao?
    Trương Vô Kỵ thấy nàng đã nhận ra mình, liền cao giọng đáp:
    - Tiên phụ Thúy Sơn công chính là đệ tử thứ năm của thái sư phụ, tôi không gọi “thái sư phụ” thì gọi bằng gì bây giờ? Có gì mà thẹn hay không thẹn?
    Nói xong chàng quay lại quì xuống khấu đầu trước Trương Tam Phong, nói:
    - Hài nhi Trương Vô Kỵ, khấu đầu bái kiến thái sư phụ và tam sư bá. Sự việc cấp bách, không kịp bẩm rõ mọi điều, mong tha tội khinh mạn cho hài nhi.
    Trương Tam Phong và Du Đại Nham vừa mừng vừa lo, không thể nào ngờ thanh niên đánh bại hai cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực, lại chính là đứa bé ốm o, chết đi sống lại ngày nào. Trương Tam Phong cười ha hả, đưa tay đỡ dậy, nói:
    - Hảo hài tử, con chưa chết, Thúy Sơn đã có người nối dòng.
    Trương Vô Kỵ võ công trác tuyệt, cũng chỉ là thứ yếu, việc Trương Tam Phong mừng hơn cả chính là vì vẫn tưởng chàng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống, thành thử đúng là trời cho, lòng như mở cờ trong bụng, quay đầu sang nói với Ân Thiên Chính:
    - Ân huynh, chúc mừng Ân huynh có được đứa cháu ngoại thế này.
    Ân Thiên Chính cười đáp:
    - Trương chân nhân, chúc mừng Trương chân nhân dạy được một đồ tôn giỏi là dường ấy.
    Triệu Mẫn trả miếng liền:
    - Cái gì mà hảo ngoại tôn, hảo đồ tôn. Hai lão già sống dai, dạy được một tên tiểu quỉ gian trá giảo hoạt. "A Đại", ngươi ra thử kiếm với y xem nào!
    Kẻ mặt mày sầu khổ "A Đại" kia liền lớn tiếng đáp: “Vâng”, nghe soẹt một tiếng rút phắt thanh Ỷ Thiên kiếm, mọi người chỉ thấy ánh sáng xanh lè, dường như có một làn khí lạnh tỏa ra, đúng là một thanh kiếm tốt. Trương Vô Kỵ nói:
    - Kiếm này là sở hữu của phái Nga Mi, sao lại ở trong tay cô được?
    Triệu Mẫn hứ một tiếng nói:
    - Tiểu quỉ, ngươi biết gì mà nói? Diệt Tuyệt lão ni ăn cắp thanh kiếm này của nhà ta, bây giờ vật về chủ cũ, kiếm Ỷ Thiên có liên quan gì đến phái Nga Mi đâu?
    Trương Vô Kỵ đâu có biết lai lịch của thanh kiếm Ỷ Thiên ra thế nào, bị nàng hỏi vặn ngược lại, không biết trả lời ra sao, bèn đánh trống lảng qua chuyện khác, nói:
    - Triệu cô nương, xin cô cho tôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, để tôi trị dứt xương gãy cho tam sư bá và lục sư thúc, mọi sự đã qua chúng ta bỏ đi không nói đến nữa.
    Triệu Mẫn nói:
    - Hừ, bỏ qua chuyện cũ? Nói dễ nghe nhỉ? Thế ngươi có biết Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm, cùng bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu của phái Võ Đương, hiện nay đang ở đâu không?
    Trương Vô Kỵ lắc đầu:
    - Tôi không biết. Mong cô nương chỉ rõ.
    Triệu Mẫn cười khẩy nói:
    - Việc gì ta phải nói cho ngươi nghe? Ta chưa chém ngươi thành muôn mảnh thì chưa trả được cái tội khinh bạc làm nhục hôm trước ở trong cương lao tại Lục Liễu Sơn Trang.
    Nàng nói tới mấy tiếng “khinh bạc làm nhục”, nghĩ đến tình cảnh ở trong hầm tối, không khỏi mặt đỏ lên, vừa tức vừa thẹn.
    Trương Vô Kỵ nghe tới chuyện “khinh bạc làm nhục” cũng bẽn lẽn, nghĩ đến việc hôm đó vì phải cứu quần hào Minh giáo bị trúng độc, việc đang khẩn cấp thành ra phải giở hạ sách, dùng tay cù gan bàn chân nàng, tuy không có ý trăng hoa, nhưng nam nữ thụ thụ bất thân, dẫu phải tòng quyền, cũng chưa nói với ai, nhưng nếu có người biết được chàng đùa dỡn với đàn bà con gái, thì thật than ôi. Thấy không cách gì biện bạch lúc này, chàng chỉ còn nước lảng qua:
    - Triệu cô nương, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao cô có cho tôi hay không nào?
    Triệu Mẫn liếc một cái, cười hì hì nói:
    - Ngươi muốn có Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, cũng chẳng có gì khó cả. Ngươi chỉ bằng lòng nhận làm ba điều, ta sẽ hai tay dâng lên ngay.
    Trương Vô Kỵ hỏi dồn:
    - Ba chuyện gì thế?
    Triệu Mẫn đáp:
    - Ba điều đó bây giờ ta chưa nghĩ ra. Sau này khi nào nghĩ ra được, nói điều nào thì ngươi làm điều đó.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Cái đó sao được? Chẳng lẽ cô bảo tôi tự sát, hay bảo tôi làm heo làm chó, tôi cũng phải theo hay sao?
    Triệu Mẫn cười đáp:
    - Ta không bảo công tử tự sát, cũng không bảo công tử làm heo làm chó, nhưng đã nhận lời thì sau đừng có chối.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô nói cho tôi nghe trước đi, nếu như không vi phạm đạo hiệp nghĩa, mà tôi có thể làm được, thì tôi sẽ làm cho cô nương.
    Triệu Mẫn đang toan trả lời, nhìn qua bỗng thấy trên mái tóc của Tiểu Siêu có đính một bông hoa kết bằng ngọc trai, chính là đóa hoa nàng tặng cho Trương Vô Kỵ, lập tức nổi giận, lại thấy Tiểu Siêu mắt sáng miệng tươi, mặt mày rạng rỡ, tuổi tuy còn nhỏ nhưng đã mơn mởn như một đóa phù dung, thật là dễ thương, trong bụng càng bực bội, liền nghiến răng nói với "A Đại":
    - Ra chém đứt hai cánh tay tiểu tử họ Trương cho ta.
    "A Đại" đáp lời: “Vâng”, tay cầm kiếm Ỷ Thiên tiến lên một bước, nói:
    - Trương giáo chủ, chủ nhân ra lệnh, sai tại hạ chém hai cánh tay của giáo chủ đó.
    Chu Điên trong bụng ấm ức đã lâu, lúc này không nhịn nổi, ngoạc mồm chửi ngay:
    - Con mẹ mày nói nghe thối quá, sao ngươi không chém chính tay mình đi có được không?
    "A Đại" mặt mày sầu khổ, nhăn nhăn nhó nhó nói:
    - Nói thế cũng hợp lý lắm.
    Chu Điên nghe thế như mở cờ trong bụng, lớn tiếng nói:
    - Thế thì mau chặt tay đi.
    "A Đại" đáp:
    - Chẳng đi đâu mà vội.
    Trương Vô Kỵ thấy hơi lo, thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén dị thường, binh khí nào đụng phải cũng gãy ngay, chỉ còn một nước dùng Càn Khôn Đại Na Di tay không đoạt binh khí của y, thế nhưng khi đưa tay vào gân thanh kiếm nếu như kiếm chiêu của y kỳ lạ, biến hóa không lường được, tay chàng dù chỗ nào đụng phải cũng sẽ đứt ngay. Chàng chưa biết phải đối địch cách nào, còn đang trù trừ, bỗng nghe Trương Tam Phong nói:
    - Vô Kỵ, ta sáng tạo ra Thái Cực Quyền con đã học rồi, còn một pho Thái Cực Kiếm, để ta truyền cho con luôn, để dùng quá chiêu với vị thí chủ này.
    Trương Vô Kỵ mừng rỡ đáp:
    - Đa tạ thái sư phụ.
    Chàng quay sang nói với "A Đại":
    - Vị tiến bối kia, tôi kiếm thuật không tinh xảo, cần được thái sư phụ chỉ điểm thêm, sau đó sẽ đấu với ông.
    "A Đại" vốn có lòng e ngại Trương Vô Kỵ, tuy có bảo kiếm trong tay chiếm được ưu thế, nhưng thắng được không cũng chưa biết, nghe chàng muốn học chiêu thức mới, thật mừng hết cỡ, nghĩ thầm kiếm chiêu mới học dù có tinh diệu đến đâu, không khỏi ngượng nghịu. Trong đạo kiếm, cốt nhất là nhẹ nhàng linh động, ít nhất cũng phải luyện một hai chục năm, khi lâm địch mới lòng muốn sao tay ra chiêu như thế, thuần thục tự nhiên. Y liền gật đầu, nói:
    - Ngươi đi học chiêu, ta ở đây chờ. Học hai giờ liệu có đủ chưa?
    Trương Tam Phong nói:
    - Chẳng cần phải đi đâu xa, ta dạy ngay tại đây, Vô Kỵ học ngay ở đây, “hàng mới ra lò nóng hổi[10]”. Chẳng đến nửa giờ là dạy xong pho Thái Cực Kiếm.
    Ông nói câu đó, ngoại trừ Trương Vô Kỵ ra, ai nấy kinh hãi, tưởng như không tin vào tai mình, nghĩ thầm: “Dù cho Thái Cực Kiếm pháp của phái Võ Đương áo diệu thần kỳ đến đâu, nhưng ở đây công nhiên dạy kiếm thuật, địch nhân nhìn thấy rõ ràng, thì còn gì gọi là bí áo nữa?”.
    "A Đại" đáp:
    - Thế cũng được, vậy ta ra ngoài điện đứng chờ.
    Y chứng tỏ mình không muốn được lợi thế, dẫu là phận đầy tớ, nhưng hành vi chẳng khác gì một bậc tông sư trong võ lâm. Trương Tam Phong nói:
    - Không cần phải vậy, pho kiếm pháp này ta mới sáng tạo ra, chẳng biết có dùng được không? Các hạ là danh gia kiếm thuật, chính mong được các hạ nhìn xem, chỉ cho những chỗ sơ hở, khiếm khuyết.
    Lúc ấy Dương Tiêu bỗng chợt nghĩ ra, lớn tiếng hỏi:
    - Thì ra các hạ chính là Bát Tí Thần Kiếm[11] Phương trưởng lão. Các hạ đường đường đứng đầu trong các trưởng lão Cái Bang, sao lại cam chịu làm đầy tớ cho người khác?
    Quần hào Minh giáo nghe nói thế, ai nấy đều kinh hãi. Chu Điên hỏi:
    - Ngươi chẳng phải đã chết rồi sao? Sao lại sống đây. .. cái đó. .. cái đó sao lại thế được?
    "A Đại" thở dài một tiếng, cúi đầu nói:
    - Lão hủ trăm lần chết cũng chưa đủ, chuyện đã qua chẳng nói làm gì nữa. Tại hạ không còn là trưởng lão Cái Bang từ lâu rồi.
    Những người lớn tuổi một chút ai cũng biết Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch là người đứng đầu trong tứ đại trưởng lão của Cái Bang, kiếm thuật tinh kỳ, danh vang thiên hạ, nổi tiếng là xuất kiếm cực nhanh chẳng khác nào có bảy tám cánh tay nên được cái danh hiệu đó. Hơn mười năm trước, người ta nghe y bị bệnh nặng chết đi, khi đó ai cũng lấy làm tiếc, đâu ngờ vẫn còn sống đến ngày nay.
    Trương Tam Phong nói:
    - Pho Thái Cực Kiếm của lão đạo nếu được Bát Tí Thần Kiếm chỉ điểm cho vài chiêu thì thật là vinh hạnh. Vô Kỵ, con có mang kiếm không?
    Tiểu Siêu liền tiến lên mấy bước, đưa cho ông thanh kiếm Ỷ Thiên giả bằng gỗ Trương Vô Kỵ lấy được của Triệu Mẫn. Trương Tam Phong cầm lên cười nói:
    - Kiếm gỗ à? Lão đạo có vẽ bùa bắt quyết, trừ tà tróc quỉ đâu?
    Ông đứng lên, tay trái cầm kiếm, tay phải thành hình kiếm quyết, hai tay ôm thành vòng tròn, từ từ đưa lên, đó là Khởi Thủ Thức, tiếp theo là Tam Hoàn Sáo Nguyệt, Đại Khôi Tinh, Yến Tử Sao Thủy, Tả Lan Tảo, Hữu Lan Tảo. .. từng chiêu một diễn ra, đến thế thứ năm mươi ba Chỉ Nam Châm, hai tay cùng vẽ thành hình tròn, vòng trở lại thành thức thứ năm mươi bốn Trì Kiếm Qui Nguyên.
    Trương Vô Kỵ không ghi nhớ chiêu thức, chỉ nhìn kỹ những yếu chỉ “thần tại kiếm tiên, miên miên bất tuyệt[12]” trong kiếm chiêu mà thôi. Trương Tam Phong sử xong pho kiếm pháp, chẳng thấy một ai reo hò, người nào cũng đều thất vọng: “Thứ kiếm pháp chậm như rùa, mềm như bún thế này làm thế nào có thể dùng để ra chiêu đối địch?”. Nhưng lại nghĩ ngay "Chắc là Trương chân nhân cố ý múa kiếm thật chậm, cốt để cho giáo chủ có thể nhìn cho rõ".
    Trương Tam Phong hỏi:
    - Hài nhi, con có nhìn ra không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Con nhìn ra rồi.
    Trương Tam Phong hỏi tiếp:
    - Có nhớ được chăng?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đã quên gần một nửa rồi.
    Trương Tam Phong nói:
    - Hay lắm, cũng thật khó cho con. Con tự mình suy nghĩ thêm đi.
    Trương Vô Kỵ cúi đầu trầm tư, một lúc sau, Trương Tam Phong hỏi lại:
    - Bây giờ ra sao?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đã quên mất quá nửa rồi.
    Chu Điên thất thanh kêu lên:
    - Ôi chao, càng lúc càng quên nhiều hơn. Trương chân nhân, lộ kiếm pháp này thâm áo quá, xem một lần làm sao nhớ được? Xin ngài diễn thêm một lần nữa cho giáo chủ chúng tôi xem lại.
    Trương Tam Phong mỉm cười:
    - Được, để ta biểu diễn lại một lần nữa.
    Ông cầm kiếm ra chiêu, diễn lại lần thứ hai. Mọi người mới coi vài chiêu, trong bụng ai cũng lạ lùng, lần này không chiêu nào giống lần trước. Chu Điên kêu lên:
    - Ôi chao, ôi chao, thế này thì càng làm cho người ta thêm rối trí.
    Trương Tam Phong vạch kiếm thành vòng tròn, hỏi:
    - Hài nhi, thấy thế nào?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Còn ba chiêu chưa quên được.
    Trương Tam Phong gật đầu, quay về chỗ ngồi. Trương Vô Kỵ đi chầm chậm vòng quanh trong điện, trầm tư hồi lâu, lại đi thêm nửa vòng nữa, ngửng đầu lên, mặt rạng rỡ, kêu lên:
    - Con đã quên hết rồi, quên không còn chút nào nữa rồi.
    Trương Tam Phong nói:
    - Khá lắm, khá lắm. Quên nhanh như thế, con có thể mời Bát Tí Thần Kiếm chỉ giáo được rồi.
    Nói xong đưa thanh kiếm gỗ trong tay cho chàng. Trương Vô Kỵ khom mình tiếp lấy, quay lại nói với Phương Đông Bạch:
    - Xin mời Phương tiền bối.
    Chu Điên vò đầu bứt tai, cực kỳ lo lắng. Phương Đông Bạch vươn mình đâm ra nói:
    - Xin mạo muội.
    Chỉ thấy ánh sáng xanh lấp lánh, nghe vù một tiếng, nội lực mạnh chẳng kém gã "A Nhị" chút nào. Ai nấy rùng mình kinh hãi, nghĩ thầm dẫu y chỉ cầm một thanh đồng nát sắt rỉ, với nội lực như thế uy lực cũng không gì đương cự nổi, huống chi lại cầm bảo kiếm Ỷ Thiên sắc bén cắt vàng chặt ngọc. Hai chữ Thần Kiếm quả nhiên danh bất hư truyền.
    Trương Vô Kỵ tay trái để xéo kiếm quyết, mộc kiếm đưa ngang qua, vạch thành nửa vòng tròn, đè luôn lên trên sống kiếm Ỷ Thiên, kình lực truyền vào, thanh bảo kiếm lập tức bị dìm xuống. Phương Đông Bạch khen:
    - Hảo kiếm pháp.
    Y lật cổ tay hất thanh kiếm, mũi kiếm liền ngóc lên đâm thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Trương Vô Kỵ liền quay kiếm vòng về, nghe cách một tiếng, hai thanh kiếm đụng nhau, cả hai đều phi thân lùi ra ngoài. Thanh kiếm Ỷ Thiên trong tay Phương Đông Bạch rung động không ngừng, nghe tiếng u u hồi lâu chưa hết.
    Hai thứ binh khí, một đằng là bảo kiếm, một đằng là kiếm gỗ, thế nhưng khi chạm vào nhau, hai bên không bên nào hơn bên nào. Chiêu đó của Trương Vô Kỵ đã “dùng cái cùn nhụt của mình, đụng vào chỗ không sắc bén của địch” chính là tinh áo của Thái Cực Quyền. Nên biết Trương Tam Phong truyền cho chàng là truyền “Kiếm Ý”, không phải “Kiếm Chiêu”, cho nên bao nhiêu kiếm chiêu chàng quên hết, chính là đã đạt được cốt tủy của kiếm pháp, đến khi lâm địch dùng ý mà ra chiêu, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận.
    Nếu như còn một hai chiêu không quên được, trong lòng sẽ vướng mắc, kiếm pháp sẽ không thể nào tinh thuần. Nguyên lý đó những cao thủ như Dương Tiêu, Ân Thiên Chính lờ mờ hiểu được, còn Chu Điên dẫu sao cũng kém một mức, khiến y phải lo lắng một hồi lâu.
    Khi đó tiếng vi vút trong điện càng lúc càng mạnh, kiếm chiêu của Phương Đông Bạch lợi hại ghê gớm, lại thêm nội lực vô cùng hồn hậu, thanh kiếm cực kỳ sắc bén, ra chiêu thật là tinh diệu, ánh sáng xanh lập lòe, kiếm khí bao phủ, người trong điện tưởng như một khối tuyết đang di động trước mắt, tỏa ra một làn hơi lạnh thấu xương. Thanh kiếm gỗ của Vô Kỵ trong vòng hàn khí đó vạch thành vòng tròn, chiêu nào cũng thành vòng cung đâm ra, lại theo hình vòng cung thu về, trong lòng chàng không mảy may vương vấn, chỉ lấy ý mà vận dụng thanh kiếm, thanh kiếm gỗ tung ra chẳng khác nào một sợi tơ mỏng manh, quấn lấy thanh Ỷ Thiên kiếm. Thế nhưng sợi tơ ấy mỗi lúc một dày, tưởng chừng biến thành một khối bông, bao chặt lấy thanh bảo kiếm. Hai người đấu đến quá hai trăm chiêu, Phương Đông Bạch kiếm chiêu mỗi lúc một thêm trì trệ, thanh kiếm trong tay càng lúc càng nặng, từ năm cân, thành sáu cân, bảy cân. .. mười cân, hai chục cân. .. thỉnh thoảng vận kiếm tung ra không đủ kình lực, lại bị kiếm gỗ lôi đi mấy vòng.
    Phương Đông Bạch càng đấu càng hoảng sợ, đến ba trăm chiêu mà hai lưỡi kiếm không đụng vào nhau, trong đời y chưa từng gặp phải bao giờ. Đối phương tưởng như tung ra một cái lưới lớn, thắt mình vào giữa. Phương Đông Bạch liên tiếp thay đổi đến sáu, bảy kiếm thuật khác nhau, tung hoành biến hóa, huyễn ảo vô cùng người chung quanh ai cũng phải hoa cả mắt. Còn Trương Vô Kỵ trước sau cũng chỉ vạch kiếm thành vòng tròn, người ngoài trừ Trương Tam Phong ra, không biết chàng ra chiêu đó là công hay thủ. Lộ Thái Cực Kiếm pháp này chỉ có đủ các loại vòng, cái to cái nhỏ, cái ngược, cái xuôi, cái thẳng, cái xéo, nếu nói là chiêu số, có thể nói chỉ có một chiêu, nhưng chiêu đó biến hóa khôn cùng.
    Chỉ nghe Phương Đông Bạch hú lên một tiếng dài, râu tóc dựng đứng, kiệt tận toàn lực bình sinh nhằm thẳng trung cung đâm tới. Trương Vô Kỵ thấy thế đâm tới ác liệt thu kiếm về gạt, Phương Đông Bạch cổ tay hơi lắc, thanh kiếm Ỷ Thiên liền ngóc lên, nghe cạch một tiếng nhỏ, mũi kiếm gỗ đã gãy một khúc chừng sáu tấc. Thanh kiếm Ỷ Thiên không còn gì ngăn chặn đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kinh hãi, kiếm quyết tay trái vung ra, hai ngón tay trỏ và giữa kẹp ngay vào thân thanh Ỷ Thiên kiếm, nửa thanh kiếm gỗ bên tay phải chém luôn xuống tay phải Phương Đông Bạch. Tuy chỉ là thanh kiếm gỗ, nhưng với Cửu Dương thần công vận vào cũng chẳng khác gì cương đao. Phương Đông Bạch vận lực vào cánh tay giật về, nhưng kiếm Ỷ Thiên đã bị đối phương kẹp chặt, như trong một chiếc kìm sắt không lay chuyển gì được. Trong tình cảnh đó, ngoại trừ buông kiếm nhảy vọt về sau, không còn cách nào khác.
    Chỉ thấy Trương Vô Kỵ quát lên:
    - Rút tay mau.
    Phương Đông Bạch nghiến răng, không chịu buông, chỉ như một ánh chớp lóe lên, nghe chát một tiếng, một cánh tay của y đã bị thanh kiếm gỗ chặt đứt, không khác gì một thanh kiếm sắc bén. Phương Đông Bạch không chịu buông ra là đã có ý hi sinh cánh tay để bảo vệ binh khí, tay trái liền vươn ra chộp ngay không để thanh kiếm rơi xuống. Cánh tay đứt kia đã rời ra rồi, năm ngón tay vẫn khư khư giữ chặt thanh kiếm Ỷ Thiên. Trương Vô Kỵ thấy y dũng cảm như thế, bụng hơi ái ngại, lòng thấy ăn năn, không còn muốn tranh đoạt thanh kiếm của y nữa.
    Phương Đông Bạch đi đến trước mặt Triệu Mẫn, khom lưng nói:
    - Chủ nhân, tiểu nhân vô năng, cam chịu trách phạt.
    Triệu Mẫn không nhìn đến y, lạnh lùng nói:
    - Hôm nay ta nể mặt Trương giáo chủ của Minh giáo, tha cho phái Võ Đương.
    Nàng phất tay một cái, ra lệnh:
    - Thôi đi!
    Các thủ hạ của nàng ẵm Phương Đông Bạch, gã hói đầu "A Nhị", "A Tam" đi ra khỏi điện. Trương Vô Kỵ kêu vói theo:
    - Khoan đã, không để lại Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì đừng tính chuyện rời khỏi núi Võ Đương.
    Chàng phóng mình tới, giơ tay ra chộp vào đầu vai Triệu Mẫn. Tay Trương Vô Kỵ còn cách người Triệu Mẫn chừng một thước, bỗng thấy có hai luồng chưởng phong vô thanh vô tức từ hai bên đánh tới, trước đó không có dấu hiệu gì, chàng giật mình kinh hãi, hai chưởng đẩy ra, tay phải đỡ chưởng đánh từ bên phải, tay trái đỡ chưởng đánh từ bên trái, bốn chưởng đụng nhau, chỉ thấy kình lực mạnh lạ thường, bên trong chưởng lực có một luồng hàn khí âm độc vô tỉ. Luồng hàn khí đó chàng thật là quen thuộc, chính là hơi lạnh làm chàng chết đi sống lại khi còn nhỏ, Huyền Minh thần chưởng.
    Trương Vô Kỵ kinh hoảng, Cửu Dương thần công trong người lập tức nảy sinh, nhưng tiếp theo hai bên mạng sườn đã bị địch nhân đánh trúng mỗi bên một chưởng. Chàng chỉ kêu hự lên một tiếng, ngã ngửa về sau, thấy hai người tấn công mình là hai ông già cao gầy. Hai người ra hai chưởng bị Trương Vô Kỵ đỡ được, còn lại hai tay vô hình vô ảnh đánh luôn vào người chàng. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng giận dữ quát lên, tung mình xông tới. Hai lão kia lại múa chưởng đánh ra, bình bình hai tiếng, Dương Vi hai người lịch kịch lùi lại mấy bước, máu trong ngực trộn trạo, khí lạnh thấu xương. Hai lão già cũng lảo đảo. Người bên phải cười khẩy nói:
    - Minh giáo tên tuổi là thế, hóa ra cũng chỉ có vậy.
    Cả hai quay lại, hộ tống Triệu Mẫn ra đi.
   
- o O o -

    [1] Lấy ý của Hư Vân hòa thượng [2] Lòng trống không, đỉnh đầu treo. Ngực thu vào, lưng ưỡn ra. Eo thả lỏng, mông trĩu xuống. Vai để chìm, khuỷu tay buông.
    [3] Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Suất thổ chi tân, mạc phi vương thần.
    [4] Một trong những vị vua khai sáng nước Tàu, cũng như Hùng Vương nước ta.
    [5] Người đời Tống, tự Tống Thụy, hiệu Văn Sơn, đỗ tiến sĩ đời Lý Tông, làm quan tới chức An Vũ Sứ Giang Tây. Khi quân Nguyên đánh nước Tàu, ông vâng chiếu cần vương đem quân chống lại quân Mông Cổ. Sau được cử đi sứ nhà Nguyên, ông bị giặc bắt. Đời Đoan Tông ông được phong Tín Quốc Công, lại đem quân đánh với Nguyên binh nhưng thế yếu bị cầm tù rồi bị giết, trong ngục có làm bài Chính Khí Ca rất nổi danh.
    [6] Đương nhân bất nhượng ư sư (Gặp việc nhân thì không nhường thầy mà mình phải làm trước) [7]A Đại, A Nhị, A Tam là những cái tên này rất thông dụng giống như ta gọi anh Hai, anh Ba ở miền Nam nhưng không nhất thiết chỉ có một nghĩa mà tùy tuổi tác có thể tương đương với thằng, chú, bác, ông. .. Tuy nhiên phần lớn dùng để chỉ một người vai vế thấp kém hay kẻ ăn người ở trong nhà. Người dịch lúc đầu toan dịch là chú Hai, chú Ba, chú Tư cho có vẻ Việt Nam vì những người này tuổi đã lớn, dịch là thằng nghe không ổn. Tuy nhiên về sau giữ nguyên tiếng Hán để khỏi thêm khó khăn. Độc giả có ý kiến hay đề nghị gì xin cho biết. Đa tạ.
    [8] nắm đuôi con chim sẻ [9] ngựa hoang dựng bờm [10] Trương Tam Phong là người thích hoạt kê, hay đùa rỡn [11] Thần Kiếm có tám cánh tay [12] thần đi trước kiếm, liên miên không dứt
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách