Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mint.doli
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp - Xuất Bản] Ỷ Thiên Đồ Long Ký | Kim Dung

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:36:35 | Chỉ xem của tác giả
Người kia toàn thân bị chế ngự, đành phải đưa Vô Kỵ cho Ân Tố Tố. Vô Kỵ nằm trong lòng mẹ, khóc nói:
    - Mẹ ơi, sao người ta lại bức tử cha con? Ai bức tử cha con đó?
    Ân Tố Tố nói:
    - Nhiều người lắm, tất cả những người lên núi hôm nay đều ép cha con phải chết.
    Vô Kỵ trừng mắt chầm chậm nhìn từ trái sang phải một vòng. Y tuy tuổi còn nhỏ, nhưng ai ai chạm phải mắt nó trong lòng không khỏi chấn động. Ân Tố Tố nói:
    - Vô Kỵ, con nghe mẹ nói một câu này.
    Vô Kỵ nói:
    - Mẹ nói đi.
    Ân Tố Tố nói:
    - Con không phải nóng lòng báo thù gấp, cứ từ từ mà đợi, nhưng không bỏ qua một người nào.
    Mọi người nghe câu nói lạnh như băng ấy, không khỏi có một làn hàn khí chạy sau lưng. Vô Kỵ kêu lên:
    - Mẹ ơi, con không muốn báo thù, con chỉ muốn cha con sống lại thôi.
    Ân Tố Tố buồn bã nói:
    - Người chết rồi không thể nào sống lại được.
    Thân hình nàng hơi run run, nói:
    - Con ơi, cha con chết rồi, thôi mình đem chỗ ở của nghĩa phụ nói cho mọi người nghe đi.
    Vô Kỵ vội kêu lên:
    - Đừng, đừng nói.
    Ân Tố Tố nói:
    - - Không Văn đại sư, tôi chỉ nói cho một mình đại sư nghe thôi. Xin ông ghé tai lại đây.
    Câu đó quả thực ngoài liệu định của mọi người, ai nấy ngạc nhiên. Không Văn nói:
    - Thiện tai, thiện tai. Nữ thí chủ nếu nói sớm một chút, Trương ngũ hiệp đã không táng mệnh.
    Ông đi đến gần Ân Tố Tố, ghé tai nghe. Ân Tố Tố miệng mấp máy một hồi, nhưng không phát ra một âm thanh nào. Không Văn hỏi:
    - Cái gì?
    Ân Tố Tố đáp:
    - Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đang ở tại Sau hai chử ở tại, thanh âm thật mơ hồ, không nghe rõ. Không Văn hỏi lại:
    - Cái gì?
    Ân Tố Tố nói:
    - Thì ở chỗ đó, phái Thiếu Lâm các ông đến đó mà kiếm thì gặp.
    Không Văn sốt ruột, nói:
    - Bần tăng không nghe thấy gì cả.
    Nói xong ông đứng thẳng dậy, giơ tay gãi đầu, trên mặt lộ vẻ hoang mang. Ân Tố Tố cười nhạt:
    - Tôi chỉ nói được đến thế thôi, ông cứ đến nơi đó thì sẽ gặp được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
    Nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, hạ giọng nói:
    - Hài nhi, khi con khôn lớn rồi, phải đề phòng đàn bà lừa dối con. Đàn bà càng đẹp, lừa người càng giỏi.
    Nàng ghé sát mồm vào tai con, nói thật nhỏ:
    - Mẹ không nói cho lão hòa thượng đó biết đâu, mẹ lừa ông ta đó con xem mẹ đó mẹ lừa người ta giỏi lắm.
    Nói xong nàng mỉm một nụ cười thê lương, đột nhiên hai tay lỏng ra, thân hình từ từ đổ xuống, trên ngực đã cắm một thanh chủy thủ[12]. Thì ra khi nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, đã ngầm dùng dao găm đâm vào mình, nhưng vì Vô Kỵ ngồi trước mặt nên không ai trông thấy.
    Vô Kỵ chồm tới ôm mẹ, kêu lên:
    - Mẹ ơi, mẹ ơi.
    Thế nhưng Tố Tố tự đâm mình đã lâu cố gượng tới bây giờ thì tắt thở. Vô Kỵ đau lòng nhưng không khóc, trừng mắt nhìn Không Văn đại sư, hỏi:
    - Phải ông giết mẹ tôi không, phải ông không? Tại sao ông lại giết mẹ tôi?
    Không Văn trông thấy thảm biến trước mắt, tuy là chưởng môn của đệ nhất tông phái trong võ học, nhưng cũng không khỏi chấn động, nghe Vô Kỵ hỏi thế, bất giác lùi lại một bước, chối biến:
    - Không, không phải ta. Đó là bà ấy bà ấy tự tận đấy chứ.
    Nước mắt Vô Kỵ chảy ròng ròng, nhưng cố dằn lại, nói:
    - Ta không khóc, ta nhất định không khóc, không để cho bọn ác nhân các người trông thấy ta khóc đâu.
    Không Văn đại sư đằng hắng một cái, nói:
    - Trương chân nhân, biến cố này ôi ôi thật không ai liệu trước được. Trương ngũ hiệp phu phụ đã tự tận rồi, mọi việc không còn gì để truy cứu nữa, vậy chúng tôi xin cáo từ.
    Nói xong chắp hai tay làm lễ. Trương Tam Phong trả lại một lễ lạnh nhạt nói:
    - Tha lỗi không tiễn xa được.
    Tăng chúng Thiếu Lâm lập tức đứng lên, đi ra. Ân Lê Đình giận dữ quát lên:
    - Các người các người bức tử ngũ ca ta Chàng bỗng nghĩ lại: Ngũ ca sở dĩ tự sát, cũng vì có lỗi với tam ca, không can hệ gì tới họ cả. Chàng nói chưa dứt câu, không nói tiếp được nữa, nằm phục xuống bên cạnh thi thể Trương Thúy Sơn, òa lên khóc.
    Mọi người cảm thấy bẽ bàng, đều hướng về Trương Tam Phong cáo từ, nghĩ thầm: Chuyện này kết thúc thật là rắc rối, phái Võ Đương chắc sẽ không để yên, từ nay về sau hậu hoạn không biết đâu mà lường. Chỉ có Tống Viễn Kiều đôi mắt đỏ hoe, tiễn khách ra ngoài cổng. Khi chàng quay lại, nước mắt nhỏ xuống ròng ròng, trong đại sảnh phái Võ Đương ai nấy đều đau lòng khóc nức nở.
    Phái Nga Mi đứng lên cáo từ sau cùng. Kỷ Hiểu Phù thấy Ân Lê Đình khóc thật thương tâm, đôi mắt nàng cũng đỏ hồng, đi đến bên cạnh, nói nhỏ:
    - Lục ca, tiểu muội đi đây, chàng chàng cố gắng tự mình bảo trọng.
    Ân Lê Đình đôi mắt nhòa lệ, ngẩng đầu lên, nghẹn ngào nói:
    - Các người các người phái Nga Mi cũng đến để làm khó dễ ngũ ca ta ư?
    Kỷ Hiểu Phù vội nói:
    - Không phải đâu, gia sư chỉ muốn hỏi Trương sư huynh chỗ ở của Tạ Tốn thôi.
    Nàng dừng lại một lát, răng cắn chặt môi dưới, rồi lại nhả ra, trên môi hằn sâu một vết răng, tưởng như muốn bật máu ra, run run giọng nói:
    - Lục ca, em em đối với chàng thật không phải chút nào, mong chàng hiểu cho. Em em chỉ có kiếp sau mới báo đáp được thôi.
    Ân Lê Đình nghe nàng nói có điều quá đáng, nói:
    - Việc này không can hệ gì đến Kỷ sư muội, chúng tôi không trách gì sư muội đâu.
    Kỷ Hiểu Phù mặt trắng bệch, nói:
    - Không không phải chuyện Nàng không dám nói chuyện tiếp với Ân Lê Đình, quay sang nhìn Vô Kỵ, hỏi:
    - Cháu bé ngoan, chúng ta chúng ta cùng một nhà, sẽ săn sóc cháu chu đáo.
    Nàng tháo trên cổ chiếc vòng vàng, định đeo cho Vô Kỵ, dịu dàng nói:
    - Cái này cô cho cháu Vô Kỵ hất đầu về phía sau, nói:
    - Tôi không lấy.
    Kỷ Hiểu Phù bẽ bàng, tay cầm chiếc vòng 嬠không biết phải làm sao. Nước mắt nàng vẫn đang long lanh, lúc này ròng ròng chảy xuống. Tĩnh Huyền sư thái sa sầm nét mặt, nói:
    - Kỷ sư muội, nói với trẻ con làm gì? Thôi mình đi về.
    Kỷ Hiểu Phù ôm mặt chạy ra. Vô Kỵ nhịn hồi lâu, đợi cho Tĩnh Huyền, Kỷ Hiểu Phù cả bọn ra khỏi cổng rồi, đang toan khóc òa, nào ngờ há mồm nhưng không thở được, nghe phịch một tiếng, ngã lăn ra đất. Du Liên Châu vội bồng thằng nhỏ lên, biết nó trong khi đau buồn cố giữ không khóc, đến nỗi ngất đi, vội gọi:
    - Cháu ơi, cháu khóc đi.
    Chàng xoa mấy cái trên ngực nó, Vô Kỵ vẫn không thở được, toàn thân lạnh ngắt, hơi thở cực kỳ mong manh. Du Liên Châu vận lực thúc đẩy nhưng thằng bé vẫn không tỉnh. Mọi người thấy chỉ trong giây lát thằng nhỏ sẽ chết, không khỏi thất sắc.
    Trương Tam Phong lấy tay đè vào huyện Linh Đài trên lưng Vô Kỵ, một luồng nội lực hùng hậu truyền qua áo trút vào người đứa bé. Với công phu tu luyện của Trương Tam Phong hiện nay, chỉ có người hấp hối mới phải bó tay, ngoài ra dù bị thương nặng cách nào, nội lực của ông đổ vào cũng phải tỉnh lại. Nào ngờ nội lực của ông truyền vào Vô Kỵ rồi, sắc mặt của nó từ trắng chuyển qua xanh, từ xanh thành tím, thân thể giật giật liên tiếp. Trương Tam Phong giơ tay sờ trán đứa trẻ, thấy đầu nó lạnh ngắt, chẳng khác gì sờ vào một khối nước đá, kinh hãi, tay phải vội luồn vào trong áo sờ lưng Vô Kỵ, thấy trên lưng có một vùng bằng chiếc chén nóng hừng hực như lửa, chung quanh thì lạnh thấu xương, nếu không đạt đến trình độ như Trương Tam Phong, e rằng sờ vào không khỏi run rẩy vì lạnh. Ông nói:
    - Viễn Kiều, tên Thát tử bắt thằng bé đâu rồi? Mau đem y vào đây.
    Tống Viễn Kiều vâng lời đi ra, Du Liên Châu từng thụ thương vì đối chưởng với tên Nguyên binh này rồi, biết đại sư ca cũng không phải địch thủ của y, vội nói:
    - Để đệ đi cùng.
    Hai người sóng vai đi ra. Khi Trương Tam Phong dẫn tên quân Mông Cổ vào sảnh, Trương Thúy Sơn đã tự sát chết, tiếp đến Ân Tố Tố lại tuẫn phu, mọi người trong lúc đau buồn, đâu có ai để ý đến tên quân Mông Cổ, chỉ trong chớp mắt y đã đi mất dạng.
    Trương Tam Phong cởi áo Vô Kỵ ra, thấy trên lưng thằng bé, rõ ràng vết một bàn tay năm ngón màu xanh biếc. Trương Tam Phong lại đưa tay xem thử, thấy nơi bàn tay đó nóng lạ thường, chung quanh thì lại lạnh ngắt như băng, sờ vào quả thực khó chịu, Vô Kỵ bị thương như thế, đủ biết khổ sở đến chừng nào.
    Một lát sau, Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu hấp tấp quay lại nói:
    - Trên núi không còn ai khác.
    Hai người thấy hình bàn tay kỳ quái trên lưng Vô Kỵ đều giật mình kinh hãi. Trương Tam Phong nhíu mày nói:
    - Ta vẫn tưởng ba mươi năm trước Bách Tổn đạo nhân chết đi rồi, cái môn Huyền Minh thần chưởng âm độc vô tỉ này cũng thất truyền theo, nào ngờ trên đời này vẫn còn có kẻ biết công phu đó.
    Tống Viễn Kiều kinh hãi hỏi:
    - Thằng bé bị Huyền Minh thần chưởng đả thương ư?
    Chàng lớn tuổi hơn hết, đã từng biết đến Huyền Minh thần chưởng, còn Du Liên Châu đổ xuống ngay cái tên cũng chưa nghe tới bao giờ. Trương Tam Phong thở dài không trả lời, trên khuôn mặt già nua hai hàng lệ nhỏ xuống, hai tay ôm Vô Kỵ, nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, nói:
    - Thúy Sơn, Thúy Sơn, con bái ta làm thầy, trước khi chết trọng thác vào ta, nhưng đến giọt máu duy nhất của con ta cũng không giữ được, ta sống đến trăm tuổi để làm gì? Phái Võ Đương danh chấn thiên hạ để làm gì? Giá ta chết đi lại hóa hay hơn.
    Chúng đệ tử ai nấy đều kinh dị. Từ khi theo thầy đến giờ, lúc nào họ cũng thấy thầy tiêu dao tự tại, chưa bao giờ nghe ông nói một câu bi đát, tiêu trầm như thế bao giờ. Ân Lê Đình nói:
    - Sư phụ, thằng bé này thằng bé này không thể cứu được hay sao?
    Trương Tam Phong hai tay ôm chặt Vô Kỵ, đi đi lại lại trong đại sảnh, rồi nói:
    - Trừ phi trừ phi sư phụ ta Giác Viễn đại sư sống lại, đem toàn bộ Cửu Dương Chân Kinh truyền cho ta.
    Các đệ tử ai nấy đều thất vọng, câu nói đó của sư phụ có khác gì nói thương thế của Vô Kỵ vô phương cứu chữa. Mọi người yên lặng một hồi, Du Liên Châu nói:
    - Sư phụ, hôm đó con đối chưởng với y, chưởng lực người đó quả nhiên âm độc ghê gớm trên đời ít thấy, đệ tử bị thương ngay. Thế nhưng bây giờ con đã hoàn toàn bình phục, vận khí dụng kình, không có gì trở ngại cả.
    Trương Tam Phong nói:
    - Đó cũng là nhờ cái phúc của đại danh Võ Đương thất hiệp. Huyền Minh thần chưởng này nếu đem ra đấu với người, nếu đối phương nội lực thắng y, chưởng lực sẽ quay trở lại thân thể, người sử dụng ắt gặp đại họa. Nếu sau này các con có gặp tên này, phải thật cẩn thận.
    Du Liên Châu đáp lời:
    - Vâng.
    Trong lòng rung động, nghĩ thầm: Thì ra tên này qua ư cẩn thận, sợ ta chưởng lực thắng y, cho nên lúc đó không đem toàn lực Huyền Minh thần chưởng ra sử dụng, nếu không giờ này tính mệnh ta chắc không còn. Nếu kỳ sau gặp lại ta, chắc y hạ thủ không dung tình nữa. Lại nghĩ: Ta bị trúng một chưởng mà đã như thế, Vô Kỵ còn bé, e rằng e rằng .
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Khi đó trong khoảnh khắc, con chỉ thấy tên này chừng độ năm mươi, mũi cao mắt sâu, tựa hồ người từ Tây Vực.
    Mạc Thanh Cốc tiếp lời:
    - Tên đó đã bắt được Vô Kỵ đi rồi, còn đem nó đến đây làm gì?
    Trương Tùng Khê nói:
    - Tên đó tra hỏi Vô Kỵ không xong, nên dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương y, để cho vợ chồng ngũ đệ chính mắt trông thấy Vô Kỵ bị hành hạ, không thể không thổ lộ chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
    Mạc Thanh Cốc tức giận nói:
    - Tên đó quả thực lớn mật, dám lên tận núi Võ Đương để quấy rối.
    Trương Tùng Khê lặng lẽ đáp:
    - Lên núi Võ Đương quấy rối hôm nay đâu phải ít người? Huống chi y lại hiếp chế Vô Kỵ, tin chắc chúng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám đả thương y.
    Sáu người ở trong đại sảnh thừ người suy nghĩ. Vô Kỵ đột nhiên mở mắt, kêu lên:
    - Cha ơi, cha ơi. Con đau, con đau quá.
    Thằng bé ôm chặt Trương Tam Phong, chúi đầu vào trong lòng ông già. Du Liên Châu nghẹn ngào nói:
    - Vô Kỵ, cha cháu chết rồi, cháu phải cố sống, sau này luyện thành võ công, để trả thù cho cha cháu.
    Vô Kỵ kêu lên:
    - Cháu không muốn báo thù, cháu không muốn báo thù, cháu chỉ muốn cha mẹ cháu sống lại thôi. Nhị bá, mình tha thứ hết cho những kẻ xấu xa đó, chỉ nghĩ việc làm sao cứu sống cha mẹ cháu thôi.
    Trương Tam Phong nghe mấy câu đó, nhịn không nổi nước mắt lại lã chã rơi xuống nói:
    - Tất cả thầy trò mình hết sức mà làm, may ra ông trời từ bi cho nó sống thêm được chút nào hay chút đó.
    Ông nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, gạt lệ kêu lên:
    - Thúy Sơn, Thúy Sơn, tội nghiệp cho con quá.
    Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ lên đi vào vân phòng[13] của mình, giơ ngón tay điểm liên tiếp hai mươi tám đại huyệt trên mình thằng bé. Vô Kỵ huyệt đạo bị điểm rồi, lập tức không còn run rẩy nữa, thế nhưng khí xanh trên mặt càng lúc càng đậm. Trương Tam Phong biết rằng một khi sắc xanh biến thành đen thì tức là khí tuyệt không còn đường cứu chữa, lập tức cởi hết quần áo nó ra, chính mình cũng cởi đạo bào, ôm sát lưng Vô Kỵ vào ngực mình.
    Trong khi đó Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình ở bên ngoài lo liệu tang ma cho vợ chồng Trương Thúy Sơn. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc ba người đến vân phòng của sư phụ, biết sư phụ đang dùng Thuần Dương Vô Cực Công hút âm hàn độc khí trong người Vô Kỵ ra. Trương Tam Phong trước nay chưa lấy vợ, tuy đã trăm tuổi nhưng thân thể vẫn là đồng nam, tám mươi năm tu luyện, môn Thuần Dương Vô Cực Công của ông đã đến mức tột đỉnh. Ba người Du Liên Châu đứng bên hầu hạ, qua khoảng chừng nửa giờ, thấy trên mặt Trương Tam Phong lờ mờ một làn lục khí, đầu ngón tay cũng hơi run. Ông mở mắt ra, nói:
    - Liên Châu, còn vào đây thay ta, nếu khi nào chịu không nổi thì giao lại cho Tùng Khê, tuyệt đối không được miễn cưỡng.
    Du Liên Châu đáp lời nói:
    - Vâng.
    Chàng cởi trường bào, đưa tay ôm Vô Kỵ vào lòng, da thịt vừa chạm phải lưng thằng bé lập tức lạnh run, chẳng khác gì ôm một khối nước đá, liền nói:
    - Thất đệ, chú đi ra bảo đem vào vài lò than, càng nóng càng tốt.
    Một lát sau lò đem vào nhưng Du Liên Châu vẫn thấy lạnh chịu không nổi. Trương Tam Phong ngồi một bên, từ từ đem chân khí vận qua tam quan[14], thúc đẩy Nhân Uân Tử Khí[15] hóa giải từng chút từng chút một khí độc đã hút vào cơ thể. Đến khi ông hóa giải hết rồi đứng dậy thấy Mạc Thanh Cốc cũng đang chịu không nổi, liền sai đạo đồng đi gọi Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình vào thay.
    Công việc dùng nội lực trị thương này, công phu sâu nông, lập tức lộ ra ngoài, không thể nào giả tá được. Mạc Thanh Cốc chỉ chịu được độ thời gian uống một chén trà, còn Tống Viễn Kiều chịu được đến tàn hai nén nhang. Ân Lê Đình vừa ôm Vô Kỵ vào lòng, lập tức kêu hoảng lên, toàn thân run bần bật. Trương Tam Phong kinh hoàng kêu lên:
    - Đưa thằng bé cho ta. Con ngồi một bên ngưng thần điều tức, không để trong lòng có lẫn tạp niệm.
    Thì ra Ân Lê Đình trong lòng thương ngũ ca thảm tử nên thần bất thủ xá, mê mê tỉnh tỉnh, phải đến lúc tinh thần định tĩnh mới ôm được Vô Kỵ vào lòng. Cứ như thế sáu người luân phiên, trong suốt ba ngày ba đêm đầu tiên không nề gian khổ, từ từ hóa giải hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, thời gian mỗi người chịu đựng được mỗi lúc một dài thêm. Đến ngày thứ tư, sáu người mới có thể lợi dụng lúc ở không chợp mắt được một chút. Từ ngày thứ tám trở đi, mỗi người chia ra giúp Vô Kỵ liệu thương hai giờ, thì giờ còn lại từ từ tu bổ lại nội lực đã mất mát.
    Lúc đầu Vô Kỵ tiến triển rất nhanh, hàn khí trong cơ thể mỗi ngày một giảm, thần trí mỗi ngày một khôi phục, đã bắt đầu ăn uống được, ai nấy đều hi vọng cái mạng sống nho nhỏ của nó có cơ cứu chữa. Nào ngờ đến ngày thứ ba mươi sáu, Du Liên Châu bỗng nhiên phát giác, dù cho chàng có thúc đẩy nội lực thế nào chăng nữa, vẫn không thể hút bớt được một chút hàn độc nào trong cơ thể của Vô Kỵ. Thế nhưng thân thể thằng bé vẫn lạnh, trên mặt khí xanh vẫn chưa tan. Du Liên Châu tưởng vì công lực của mình sa sút nên vội nói với sư phụ. Trương Tam Phong thử, nhưng cũng không làm sao được. Năm ngày năm đêm liền, sáu người thiên phương bách kế dùng hết tất cả những điều biết về phép vận khí nhưng đều không công hiệu chút nào.
    Vô Kỵ nói:
    - Thái sư phụ, chân tay cháu ấm lại rồi, thế nhưng đỉnh đầu, tâm khẩu, và bụng dưới ba nơi càng lúc càng lạnh[16].
    Trương Tam Phong trong bụng kinh hãi, an ủi nó:
    - Thương thế của cháu bớt nhiều rồi, bây giờ mọi người không còn phải ôm cháu suốt ngày nữa. Thôi cháu lên giường của thái sư phụ ngủ một giấc đi.
    Trương Tam Phong gọi các đồ đệ vào trong đại sảnh, than thở:
    - Hàn độc đã xâm nhập vào trong đính môn, tâm khẩu và đan điền rồi, ngoại lực không sao giải được. Xem ra ba mươi mấy ngày tân khổ của thầy trò mình đổ xuống sông xuống biển hết.
    Ông trầm ngâm hồi lâu, nghĩ thầm: Muốn hóa giải hàn độc trong cơ thể, người ngoài không cách gì giúp đỡ được, chỉ có cách tự nó tu luyện nội công chí cao vô thượng trong Cửu Dương Chân Kinh, để lấy chí dương mà trừ chí âm. Thế nhưng khi tiên sư Giác Viễn truyền thụ kinh văn, sở học của ta chưa đủ, đến nay tuy đã bế quan mấy lần, hết sức nghiên cứu, nhưng cũng chỉ hiểu được ba bốn thành. Trước mắt chỉ còn cách dạy cho nó tự luyện, sống thêm được ngày nào hay ngày đó.
    Nghĩ thế ông bèn đem khẩu quyết và cách thức luyện Cửu Dương thần công dạy cho Vô Kỵ. Môn công phu này biến hóa phức tạp, một lời không thể nói cho hết. Một cách giản dị, sơ bộ công phu là luyện Đại Chu Thiên Bàn Vận, dùng một luồng chân khí ấm áp dẫn từ đan điền đi theo Âm Kiều Khố[17] đổ vào ba mạch Nhâm, Đốc, Xung, chạy xuống Vĩ Lữ Quan[18], sau đó chia thành hai nhánh chạy lên đi qua Lộc Lô Quan ở hai bên đốt xương sống thứ mười bốn, đi tiếp lên sau lưng qua vai, cổ cho đến tận Ngọc Trẩm Quan, đó gọi là Nghịch Vận Chân Khí Thông Tam Quan. Sau đó chân khí đi tiếp lên đến huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, chia làm năm nhánh, rồi tất cả chân khí trong thân thể hội tụ tại huyệt Đàn Trung (ở ngực), sau đó phân ra hai nhánh rồi lại tụ vào Đan Điền, nhập khiếu qui nguyên. Tuần hoàn một vòng như thế, thân thể chẳng khác gì được tưới nước cam lộ, trong đan điền như được đốt hương trầm, tiêu diêu tự tại cho nên gọi là Nhân Uân Tử Khí.
    Nhân Uân Tử Khí này khi luyện đã đến mức hỏa hầu tương đương thì có thể hóa giải hàn độc tụ trong đan điền. Đạo lý của các môn phái không khác nhau bao nhiêu, nhưng phương pháp luyện thì lại không giống. Tâm pháp mà Trương Tam Phong dạy cho Vô Kỵ nếu nói về uy lực phải nói là thiên hạ đệ nhất.
    Trương Vô Kỵ cứ theo đó mà luyện, luyện được hơn hai năm, khí Nhân Uân trong đan điền cũng đã tiểu thành, có điều hàn độc đã phân tán đi các mạch kinh lạc nên không cách gì hóa trừ được. Lục khí trên mặt ngày một đậm thêm, mỗi khi hàn độc phát tác, càng lúc càng thêm ghê gớm. Trong hai năm đó, Trương Tam Phong toàn lực chiếu cố đến sự tu tập của Vô Kỵ, còn bọn Tống Viễn Kiều cố gắng đi khắp nơi tìm kiếm tiên đan diệu dược, nào là dã sơn nhân sâm trên trăm năm, thủ ô thành hình, phục linh tuyết sơn các loại trân quí linh vật, cho thằng nhỏ uống không biết bao nhiêu mà kể, nhưng chẳng khác gì dã tràng se cát. Mọi người thấy nó mỗi ngày một tiều tụy, ốm yếu, mặc dầu ai nấy cố vui cười, nhưng trong lòng đều thương xót, nghĩ đến hạt máu sau cùng của Trương Thúy Sơn không còn cách gì bảo tồn.
    Phái Võ Đương vì bận rộn việc cứu thương trị bệnh, đâu còn thì giờ nào nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ đã hại Du Đại Nham và kẻ thù của Vô Kỵ. Trong hai năm đó, Thiên Ưng giáo chủ Ân Thiên Chính mấy lần sai người sang thăm cháu ngoại, đưa tặng rất nhiều lễ vật quí giá. Võ Đương chư hiệp trong lòng căm tức Thiên Ưng giáo gián tiếp gây hại cho Du, Trương hai người, lần nào cũng đuổi sứ giả xuống núi, trả lại lễ vật, không lấy cái gì. Một lần Mạc Thanh Cốc còn đánh cho sứ giả một trận, nên từ đó Ân Thiên Chính không sai người lên núi Võ Đương nữa.
    Một hôm nhân tiết Trung Thu, chư hiệp phái Võ Đương cùng sư phụ làm tiệc thưởng trăng. Tiệc chưa dọn ra, Vô Kỵ đột nhiên phát bệnh, mặt xanh lè, run cầm cập không ngừng. Y sợ mọi người mất vui, nên cắn răng cố nhịn, nhưng tình cảnh đó ai mà không biết?
    Ân Lê Đình bế Vô Kỵ vào phòng cho nó ngủ, lấy chăn đắp cho thằng bé, lại gầy một lò lửa lớn bên cạnh. Trương Tam Phong bỗng nói:
    - Ngày mai ta dẫn Vô Kỵ lên Tung Sơn Thiếu Lâm tự một chuyến.
    Mọi người hiểu ngay tâm ý của sư phụ, biết ông không còn cách nào khác hơn, bất dắc dĩ phải cúi đầu trước phái Thiếu Lâm, tự mình lên gặp Không Văn đại sư cầu giáo, hi vọng các cao tăng chùa Thiếu Lâm bổ túc cho chỗ bất toàn trong Cửu Dương thần công, ngõ hầu cứu mạng Vô Kỵ.
    Hai năm trước, sau khi gặp nhau trên núi Võ Đương, hiềm khích hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương càng sâu hơn trước. Trương Tam Phong là tông sư khai sáng ra một môn phái, đã hơn trăm tuổi, phải gác bỏ địa vị tôn quí của mình xuống cầu cạnh phái Thiếu Lâm, quả thực mất hết thân phận. Mọi người nghĩ đến tình nghĩa với Trương Thúy Sơn, biết rằng một khi Trương Tam Phong đã lên Tung Sơn cầu học rồi, từ nay phái Võ Đương mỗi khi nhìn thấy phái Thiếu Lâm không còn sao ngửng đầu lên được nữa, dù chỉ là cái hư danh cũng đành phải bỏ đi.
    Thực ra phái Nga Mi cũng được truyền thụ một phần Cửu Dương Chân Kinh nhưng chưởng môn phái Nga Mi là Diệt Tuyệt sư thái tính tình cực kỳ cổ quái khó chịu, Trương Tam Phong đã mấy lần sai Ân Lê Đình đem thư lên yêu cầu, Diệt Tuyệt sư thái đến bao thư cũng không mở ra xem, chỉ nguyên phong gửi lại. Trước mắt ngoài việc hạ mình trước phái Thiếu Lâm xem ra không còn đường nào khác.
    Nếu như Tống Viễn Kiều và các sư đệ lên chùa Thiếu Lâm cầu giáo, tuy có giữ được phần nào thể diện cho phái Võ Đương, nhưng Không Văn đại sư ắt sẽ không đem chân quyết của Cửu Dương Chân Kinh ra truyền cho. Mọi người nghĩ đến uy danh hiển hách của phái Võ Đương trong hai, ba mươi năm qua từ nay phải chịu đứng sau phái Thiếu Lâm, ai nấy đều u uất không vui. Bữa tiệc khánh hạ thưởng trăng, mỗi người chỉ u sầu uống vài chén rồi chấm dứt.
    Sáng sớm hôm sau, Trương Tam Phong dẫn Vô Kỵ ra đi. Năm người đệ tử ý muốn theo hầu nhưng Trương Tam Phong nói:
    - Nếu mình đi đông không khỏi khiến cho phái Thiếu Lâm khởi nghi, chi bằng để ta một già một trẻ đi thì hơn.
    Hai người cỡi một con lừa đen, đi thẳng về hướng bắc. Võ Đương, Thiếu Lâm hai đại tông phái thực ra rất gần, từ núi Võ Đương ở tỉnh Ngạc phía bắc đến Tung Sơn ở đất Dự phía tây, chỉ vài ngày đã tới. Trương Tam Phong và Vô Kỵ từ Lão Hà Khẩu đi qua sông Hán Thủy, đến Nam Dương, đi về hướng bắc qua Nhữ Châu, lại quẹo qua hướng tây là đến Tung Sơn.
    Hai người đi lên núi Thiếu Thất, đem con lừa buộc vào gốc cây, xuống đi bộ. Trương Tam Phong quay về chốn cũ, nhớ lại hơn tám mươi năm trước, sư phụ Giác Viễn gánh đôi thùng sắt chạy trốn, mang theo Quách Tương và mình xuống núi Thiếu Lâm, lúc này nghĩ lại tưởng như ở một kiếp nào. Ông trong lòng hết sức cảm khái, nắm tay Vô Kỵ chậm rãi lên núi, thấy năm ngọn núi vẫn như xưa, rừng bia đá vẫn chẳng khác, nhưng Giác Viễn, Quách Tương đã ra người thiên cổ tự bao giờ.
    Hai người đến một vi đình[19] nhìn lên chùa Thiếu Lâm, thấy hai nhà sư đang cười cười nói nói đi tới. Trương Tam Phong hỏi thăm nói:
    - Phiền thông báo là Võ Đương Trương Tam Phong cầu kiến phương trượng đại sư.
    Hai nhà sư nọ nghe thấy tên Trương Tam Phong đều giật mình kinh hãi, chăm chú nhìn xem thực hay giả, chỉ thấy ông cao lớn khác thường, râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng nhuận sáng bóng, cười hà hà rất dễ mến, bộ đạo bào xanh trông thật dơ bẩn khó coi. Nên biết Trương Tam Phong tính tình tự tại, không để ý đến bề ngoài, khi còn trẻ, giang hồ sau lưng ông vẫn thường gọi là Liệp Thạp Đạo Nhân[20], có người gọi ông là Trương Liệp Thạp, nhưng sau này võ công càng ngày càng cao, uy danh càng ngày càng lớn nên không ai dám gọi tên đó nữa. Hai nhà sư nghĩ thầm: Trương Tam Phong là đại tông sư của phái Võ Đương, phái này với phái Thiếu Lâm ta vốn bất hòa, không lẽ ông ta đến đây để sinh sự đánh nhau chăng?. Họ thấy ông dắt một đứa trẻ chừng mười một, mười hai tuổi gầy ốm xanh xao, cả hai người đều không lấy gì làm khác thường, không hiểu có gì ghê gớm. Một nhà sư hỏi lại:
    - Có thực ông là Trương Trương chân nhân của phái Võ Đương không?
    Trương Tam Phong cười đáp:
    - Quả thực chính hiệu hàng thật, không phải giả mạo.
    Tăng nhân kia nghe ông nói chuyện không có vẻ gì trang nghiêm khí khái của một tông sư môn phái, lại càng không tin, hỏi thêm:
    - Ông không nói đùa đấy chứ?
    Trương Tam Phong cười:
    - Trương Tam Phong thì có cái gì đâu? Mạo danh ông ta để làm gì?
    Hai nhà sư bán tín bán nghi, vội chạy về chùa thông báo. Một lúc sau, bỗng thấy cửa chùa mở rộng, phương trượng Không Văn đại sư dẫn hai sư đệ Không Trí, Không Tính đi ra. Đằng sau ba người còn thêm mười lão hòa thượng mặc tăng bào màu vàng. Trương Tam Phong biết đây là những trưởng lão trong Đạt Ma viện, vai vế có khi còn cao hơn cả phương trượng, ở trong chùa chỉ tinh nghiên võ học, không hỏi đến việc ngoài, chắc là nghe tin chưởng môn phái Võ Đương đến, hết sức kinh dị, nên cùng phương trượng nghênh tiếp.
    Trương Tam Phong đi ra khỏi đình, khom lưng hành lễ nói:
    - Đâu đáng để phương trượng và chúng vị đại sư nhọc lòng ra ngoài nghênh đón như thế?
    Cả bọn Không Văn đều chắp tay hành lễ. Không Văn nói:
    - Trương chân nhân từ xa đến, quả thực ngoài dự liệu của tiểu tăng, không biết có chuyện gì sai khiến?
    Trương Tam Phong nói:
    - Bần đạo có một chuyện muốn cầu.
    Không Văn nói:
    - Mời ngồi, mời ngồi.
    Trương Tam Phong vào trong đình an vị rồi, lập tức có tăng nhân đem trà tới. Trương Tam Phong bực mình nghĩ thầm: Ta dẫu gì cũng là tông sư một phái, tính ra còn là tiền bối của các ngươi, sao không mời ta vào chùa, để ta ngồi ở giữa lưng chừng núi như thế này? Không nói gì ta, đến một người khách thường, lễ mạo cũng không thể thiếu chu đáo như thế. Thế nhưng tính ông vốn dễ dãi, chỉ nghĩ thoáng như thế nhưng không để tâm.
    Không Văn nói:
    - Trương chân nhân quang giáng tệ sơn, đáng ra phải cung nghinh vào chùa. Thế nhưng khi còn trẻ, Trương chân nhân vốn không từ biệt mà đi khỏi chùa Thiếu Lâm, qui củ của bản phái mấy trăm năm qua, chắc Trương chân nhân cũng đã biết rồi, phàm là khí đồ, bạn đồ của môn phái, chung thân không được đặt chân vào chùa, nếu bước vào sẽ bị chặt chân.
    Trương Tam Phong cười ha hả, nói:
    - Thì ra là thế. Bần đạo khi còn nhỏ, tuy đã từng ở chùa Thiếu Lâm phục thị Giác Viễn đại sư, nhưng chỉ là những việc tạp dịch, quét nhà châm trà, chưa hề xuống tóc, cũng chưa bái sư, không thể nói là đệ tử chùa Thiếu Lâm.
    Không Trí lạnh lùng nói:
    - Thế nhưng Trương chân nhân cũng đã học lén võ công chùa Thiếu Lâm mà đi.
    Trương Tam Phong tức bực dâng lên, nhưng nghĩ lại ngay: Võ công của phái Võ Đương ta, tuy toàn do ta tiềm tâm sáng tác, nhưng suy từ nguồn gốc, nếu không được Giác Viễn đại sư truyền cho Cửu Dương Chân Kinh, Quách nữ hiệp tặng cho một đôi Thiếu Lâm Thiết La Hán, thì những võ công sau này cũng không có chỗ nào làm điểm tựa. Y nói võ công ta từ Thiếu Lâm mà ra, cũng không phải là sai. Nghĩ thế ông tâm bình khí hòa nói:
    - Bần đạo được như ngày nay, quả thực từ đó mà ra.
    Không Văn và Không Trí hai người đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: Không biết ông ta tới đây làm gì? Chắc hẳn không phải có ý gì tốt, phần lớn vì chuyện Trương Thúy Sơn mà đến đây gây chuyện. Không Văn liền nói:
    - Xin nói rõ hơn.
    Trương Tam Phong nói:
    - Không Trí đại sư mới vừa nói, võ công của bần đạo từ Thiếu Lâm mà ra, lời đó quả không sai. Bần đạo năm xưa phục thị Giác Viễn đại sư, được may mắn dạy cho Cửu Dương Chân Kinh. Bộ kinh thư đó bác đại tinh thâm, nhưng khi đó bần đạo tuổi còn nhỏ, sở học bất toàn, đến nay vẫn lấy làm tiếc. Sau đó tại nơi hoang sơn, Giác Viễn đại sư tụng kinh chỉ có ba người may mắn được nghe, một vị là sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách nữ hiệp, một vị là Vô Sắc thiền sư của quí phái, còn một người nữa chính là bần đạo. Bần đạo tuổi nhỏ nhất, tư chất lại ngu độn, không có võ học căn cơ, trong ba phái thì sở đắc ít hơn hết.
    Không Trí lạnh lùng nói:
    - Chưa hẳn như thế. Trương chân nhân từ nhỏ phục thị Giác Viễn, không lẽ ông ta không truyền riêng cho cái gì? Hôm nay phái Võ Đương danh dương thiên hạ, cũng đều là công lao của Giác Viễn.
    Bối phận của Giác Viễn so với Không Trí cao hơn ba bậc, nếu đúng ra ông ta phải gọi bằng thái sư thúc tổ, thế nhưng vì Giác Viễn chạy trốn khỏi chùa Thiếu Lâm, bị coi như khí đồ[21], vai vế trong môn phái cũng không còn nữa, thành ra trong ngôn ngữ của Không Trí không phải giữ lễ.
    Trương Tam Phong đứng dậy, cung kính nói:
    - Ân đức của tiên sư, bần đạo không khi nào dám quên.
    Trong bốn đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, Không Kiến bụng dạ từ bi, tiếc rằng chết sớm, Không Văn trầm tĩnh kín đáo, vui buồn không lộ ra mặt, Không Tính ngờ nghệch, bẩm tính hồn nhiên, không thông thế sự, Không Trí là người bụng dạ hẹp hòi, thường cho rằng Trương Tam Phong học lén võ công của chùa Thiếu Lâm ra đi, nhưng phái Võ Đương tiếng tăm lại còn lừng lẫy hơn cả Thiếu Lâm, trong lòng lúc nào cũng hậm hực. Y nghĩ rằng lần này Trương Tam Phong đến chùa Thiếu Lâm, chắc là vì vụ Trương Thúy Sơn mà đến báo thù. Huống chi hôm đó trước khi chết, Ân Tố Tố lại giả vờ nói cho Không Văn nghe tung tích của Tạ Tốn, cái kế Di Họa Giang Đông thật là độc ác. Trong hai năm qua, cứ vài ba ngày lại có một nhân sĩ võ lâm đến chùa Thiếu Lâm làm phiền, hoặc công khai tiến vào, hoặc len lén dòm dỏ, khi ngọt ngào cầu khẩn, kẻ hung hăng tra vấn, không lúc nào không có người đến hỏi thăm nơi chốn trú ẩn của Tạ Tốn.
    Không Văn đã thề sống thề chết là quả thực không biết, nhưng hôm đó tại Tử Tiêu Cung trên núi Võ Đương, các môn phái trăm người như một ai ai cũng nhìn thấy Ân Tố Tố nói riêng cho Không Văn nghe, còn giả làm sao được? Dù Không Văn nói năng giải thích thế nào, người ngoài đời nào chịu nghe, cho nên tháng nào cũng có vài lần động võ. Người đến chùa chết hay bị thương cũng nhiều, còn cao thủ của Thiếu Lâm thương tổn cũng không phải là ít. Cứ suy cứu ra, tất cả cũng đều do cái mầm họa mà phái Võ Đương cấy vào.
    Cái căm tức của chùa từ trên xuống dưới trong hai năm qua, hôm nay muốn chiết nhục Trương Tam Phong một phen cho hả. Không Trí liền nói:
    - Trương chân nhân đã tự nhận là học lén võ công từ chùa Thiếu Lâm mà ra, tiếc rằng lời nói đó không có ai ngoài nghe thấy, nếu không truyền ra ngoài cho cả giang hồ mọi người thì hay biết mấy.
    Trương Tam Phong nói:
    - Hoa sen hồng hoa sen trắng, võ học thiên hạ cũng một nhà mà thôi, nhưng hàng nghìn năm qua, lấy sở trường bổ túc sở đoản, còn chân chính nguồn gốc cũng không thể nào phân biệt được. Thiếu Lâm phái đã là lãnh tụ võ lâm rồi, trong mấy trăm năm ai cũng công nhận, bần đạo hôm nay lên núi, chính vì hâm mộ võ công quí phái, biết là không bằng, nên muốn cầu giáo chúng vị đại sư.
    Cả bọn Không Văn, Không Trí nghe thấy câu nên muốn cầu giáo chúng vị đại sư lại tưởng đây là lời khiêu chiến, không khỏi ai nấy biến sắc, nghĩ thầm lão đạo sĩ này tu luyện đã đến trăm tuổi, võ công cao siêu không biết đâu mà lường, trên đời còn ai là địch thủ của ông ta nữa. Ông ta một mình lên đây, ắt phải có gì ghê gớm lắm nên không sợ hãi, chắc là trong hai năm qua luyện thành một môn võ công vô cùng lợi hại.
    Trong nhất thời, ba nhà sư không ai dám trả lời. Sau cùng Không Tính mới nói:
    - Lão đạo giỏi nhỉ, nếu ông muốn đấu võ với chúng tôi, Không Tính này không có sợ đâu. Trong chùa Thiếu Lâm có cả trăm, ngàn hòa thượng cùng xông lên, chưa chắc ông đã đánh đổ được Thiếu Lâm tự.
    Tuy miệng ông ta nói không sợ nhưng trong lòng quả thật hãi lắm, nên vội lấy cái số đông trăm, ngàn người cùng xông lên để rào trước. Trương Tam Phong vội nói:
    - Các vị đại sư đừng nên hiểu lầm, bần đạo nói đến cầu giáo, là thực lòng muốn xin chỉ điểm. Chỉ vì bần đạo tu tập Cửu Dương Chân Kinh do tiên sư truyền cho, bên trong còn nhiều chỗ nghi nan bất giải, không được đầy đủ. Chúng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm tinh thâm võ học, nếu như có bụng chỉ giáo để cho Trương Tam Phong được nghe đạo lớn, thì cảm kích không biết chừng nào.
    Nói xong ông đứng dậy vái một cái thật sâu. Những lới nói đó của Trương Tam Phong, quả thực ra ngoài dự liệu của chư tăng chùa Thiếu Lâm. Ông là người thần công đời nay không ai bì kịp, khai tông sáng phái, tu luyện đã chín mươi năm, trong võ lâm hiện thời, thanh vọng đã lớn, thân phận lại cao, làm sao tưởng nổi việc hôm nay ông lên chùa Thiếu Lâm xin học thêm?
    Không Văn vội vàng hoàn lễ, nói:
    - Trương chân nhân đùa thế, chúng tôi hậu bối, nông cạn, đến việc xem của người, sửa của mình[22] còn chưa xong, lấy đâu ra mà nói chuyện chỉ điểm cho người khác?
    Trương Tam Phong biết rằng việc này nói ra kỳ quái, đối phương không tin lời mình, liền đem chuyện Trương Vô Kỵ bị trúng Huyền Minh thần chưởng ra sao, thân thể hàn độc không cách nào đẩy ra ngoài được, lại nói y là đứa con duy nhất của Trương Thúy Sơn, phải làm mọi cách để bảo tồn mạng sống, trước mắt ngoài việc học Cửu Dương thần công ra, không còn đường nào khác. Cũng vì lợi ích của chính phái Thiếu Lâm, ông cam nguyện đem sở học của bản môn Cửu Dương Chân Kinh toàn bộ nói cho chư tăng biết để hai bên tham ngộ bổ túc.
    Không Văn nghe nói trầm ngâm hồi lâu, nói:
    - Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, trăm nghìn năm qua chưa một tăng tục đệ tử nào luyện được trên mười hai môn. Sở học của Trương chân nhân quán tuyệt cổ kim, thế nhưng những gì liệt vị tổ sư tệ phái truyền lại quá nhiều, mười phần học một cũng đã khó khăn. Trương chân nhân nay lại đem một môn thần công trao đổi, thịnh tình đó chúng tôi rất cảm kích, nhưng đứng về bản phái mà nói, có được thêm cũng chỉ dư thừa.
    Oạng ngừng lại một chút, nói tiếp::
    - Võ công của phái Võ Đương, nguyên thủy cũng từ Thiếu Lâm, hôm nay nếu hai bên giao hoán võ học, sau này trên giang hồ không hiểu chân tướng, chẳng nghĩ là phái Võ Đương tổ thuật Thiếu Lâm, lại nghĩ phái Thiếu Lâm nhờ Trương chân nhân mới được như thế. Tiểu tăng mang địa vị chưởng môn phái Thiếu Lâm, những lời đồn đãi như thế quả thực không thể chịu nổi.
    Trương Tam Phong trong lòng than thầm: Ngươi thân danh chưởng môn của đệ nhất môn phái trong võ lâm, lại là một trong tứ đại thần tăng, vậy mà bo bo giữ cái tiếng môn hộ, bụng dạ nhỏ nhen như thế. Thế nhưng đang lúc phải cầu người, không thể nói thẳng phải trái, chỉ nói:
    - Ba vị là thần tăng đương thế, lòng dạ từ bi, mạng của đứa trẻ này chỉ trong sớm tối, mong quí vị nghĩ đến lòng từ bi cứu thế cứu nhân của Phật tổ, đáp ứng lời yêu cầu, bần đạo hết sức cảm kích cao nghĩa của quí vị.
    Thế nhưng ông nói đến rát cổ bỏng họng, ba nhà sư chùa Thiếu Lâm một mực từ chối. Sau cùng Không Văn nói:
    - Không thể tuân mệnh được, xin đừng trách cứ.
    Nói xong quay đầu lại nói với tăng nhân đứng kế bên:
    - Ngươi bảo Hương Tích Trù dọn một mâm cỗ chay thượng đẳng, đem lên đây đãi Trương chân nhân.
    Nhà sư vâng lệnh chạy đi. Trương Tam Phong thần sắc buồn rầu, xua tay:
    - Nếu thế, lão đạo phen này thật quả mạo muội. Thịnh yến không dám nhận, xin thứ tội đã đến làm phiền, vậy xin từ biệt.
    Ông đứng lên khom lưng hành lễ, nắm tay Vô Kỵ hai ông cháu lặng lẽ xuống núi.
    [1] Trong cái đẹp có điểm không toàn vẹn [2] nguyên tác ái ốc cập ô (yêu cái nhà yêu luôn cảcon chim quạ trên nhà nữa, ái kỳ nhân giả, kiêm ái ốc thượng chi ô Thuyết Uyển) [3] ngòi bút làm bằng lông chó sói [4] mực dùng để tiến cống đời Đường [5] giấy đất Tuyên Châu làm bằng cây dó [6] nghiên làm bằng đá Đoan Khê (xin đọc thêm nghiên cứu về Bút Nghiên Giấy Mực của dịch giả) [7] xin đọc thêm nghiên cứu về Thư Họa của dịch giả [8] Anh em đồng lòng thì có thể cắt được kim loại [9] thanh xuất ư lam ý nói đời sau giỏi hơn đời trước, trò giỏi hơn thầy (Thanhm thu chi ư lam, nhi thanh ư lam màu xanh từ màu lam ra, nhưng còn xanh hơn cả màu lam Tuân Tử Khuyến Học Thiên) [10] tức Huyền Võ, là thần của phương Bắc [11] Chuyết Kinh là tiếng người chồng nói nhún gọi vợ mình (người vợ vụng về, kém cỏi của tôi). Đàn bà nói nhún gọi chồng mình là Chuyết Phu (người chồng vụng về của tôi).
    [12] Dao ngắn, dao găm.
    [13] Phòng của tăng nhân hay đạo sĩ [14] xin đọc thêm Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả để biết qua về phép dẫn khí của đạo gia [15] khí dung hợp giữa âm và dương, trời và đất (Tử ở đây là màu tím đỏ) [16] Ba nơi này nói về thượng đan điền, trung đan điền, hạ đan điền là ba vị trí trọng yếu nhất trong phép luyện nội công [17] tức huyệt Hội Âm [18] Là đốt xương sống cuối cùng, đạo gia goị là Hạ Thước Kiều (cầu Ô Thước bên dưới, đối với thượng Thước Kiều là cầu bên trên ở miệng). Khi vận khí, hành giả phải đóng hai nơi đứt đoạn tiếp nối Nhâm và Đốc Mạch nên phải uốn lưỡi lên và nhíu hậu môn. (xin xem thêm Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả) [19] nhà nghỉ lợp tranh [20] đạo nhân nhếch nhác, dơ bẩn (xem thêm Thái Cực Quyền của dịch giả) [21] đệ tử bị đuổi khỏi môn hộ [22] nguyên tác dùng một câu cách ngôn tha sơn chi thạch, khả dĩ công ngọc (lấy hòn đá của núi người về đánh bóng hòn ngọc của mình) ý nói lợi dụng cái hay của người bổ khuyết cho cái khiếm khuyết của mình
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:48:31 | Chỉ xem của tác giả
HỮU NỮ TRƯỜNG THIỆT LỢI NHƯ THƯƠNG

    Đàn bà hồ đã mấy tay, Một lời gươm giáo rung cây gẫy cành.

    Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ xuống khỏi núi Thiếu Thất, nghĩ bụng tính mệnh của thằng nhỏ không kéo dài được lâu, cũng không còn cách nào để trị bệnh nên nói chuyện vui cho nó nghe để giải sầu. Hôm đó đến bờ sông Hán Thủy, hai ông cháu thuê thuyền qua sông. Đến giữa giòng, nước sông cuồn cuộn, chiếc đò ngang nhồi lên hụp xuống, trong lòng Trương Tam Phong cũng dao động chẳng khác gì ba đào.
    Trương Vô Kỵ bỗng nói:
    - Thái sư phụ, ông đừng quá lo, cháu chết rồi sẽ gặp lại cha mẹ cháu, như thế cũng thích.
    Trương Tam Phong nói:
    - Cháu đừng nói vậy, dù thế nào chăng nữa, thái sư phụ cũng sẽ tìm cách cứu cháu được.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cháu vẫn nghĩ rằng nếu như học được Cửu Dương thần công của phái Thiếu Lâm, cháu sẽ nói lại cho tam sư bá nghe, thế thì hay lắm.
    Trương Tam Phong hỏi:
    - Sao lại hay?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Hi vọng là tam sư bá tu luyện võ công của cả hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương có thể trị được chân tay khỏi tàn phế.
    Trương Tam Phong thở dài:
    - Du tam bá của cháu bị gân cốt ngoại thương, nội công có cao cường thế nào cũng không trị lành được.
    Ông nghĩ thầm: “Thằng bé này biết mình không sống được, vậy mà lại không sợ chết, lại nghĩ đến việc trị cho Du Đại Nham khỏi tàn tật, tâm địa như thế thật đúng là bản sắc của kẻ hiệp nghĩa chúng ta”. Đang định khen ngợi nó vài câu, bỗng nghe trên sông một giọng oang oang từ xa truyền đến:
    - Mau dừng thuyền lại, giao đứa trẻ cho ta, phật gia sẽ tha mạng cho, nếu không đừng trách ta vô tình.
    Tiếng nói đó từ sóng truyền đến, lọt vào tai vẫn rõ ràng, hiển nhiên kẻ đó nội lực không phải là yếu. Trương Tam Phong cười thầm trong bụng: “Kẻ nào lớn mật, dám bảo ta để thằng bé lại?” Ngẩng dầu lên ông thấy có hai chiếc thuyền đang chèo như bay từ xa tới, nhìn kỹ thấy trên một chiếc thuyền nhỏ có một đại hán râu xồm, hai tay hai mái chèo thật gấp, trong lòng thuyền còn hai đứa bé một nam một nữ. Đằng sau là một chiếc thuyền khá lớn, trong thuyền có bốn phiên tăng đứng đó, lại thêm bảy tám võ quan Mông Cổ. Bọn võ quan cầm những ván gỗ làm giầm chèo phụ. Gã râu xồm rất khỏe, mỗi lần quạt mái chèo, chiếc thuyền nhỏ vọt lên cả trượng, thế nhưng đằng sau người nhiều thế mạnh, hai chiếc thuyền mỗi lúc một xích lại gần nhau hơn. Chẳng bao lâu, bọn võ quan và phiên tăng lắp tên vào cung hướng về phía đại hán nọ bắn tới, tiếng tên bay nghe vèo vèo.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ bảo gã râu xồm này để đứa bé lại”. Ông bình sinh ghét nhất quan binh Mông Cổ tàn sát người Hán, thấy vậy liền định bụng ra tay cứu giúp. Đại hán nọ tay trái chèo thuyền, tay phải giơ mái giầm gạt những mũi tên bắn tới, thủ pháp thật là nhanh nhẹn. Trương Tam Phong khen thầm: “Người này võ công không phải tầm thường, quả là kẻ anh hùng lâm nạn, làm sao ta có thể ngồi nhìn mà không cứu?”. Ông quay đầu nói với người lái đó:
    - Thuyền gia, chặn họ lại.
    Người chủ thuyền thấy tên bay như mưa, đã sợ mất cả hồn vía, tay chân luống cuống, đang lo chạy không kịp, làm sao lại dám tiến lên ngăn họ. Y run run đáp:
    - Lão … lão đạo gia có nói đùa không đấy?
    Trương Tam Phong thấy tình thế khẩn cấp, cướp lấy sào chống, đẩy mạnh mấy cái xuống nước, chiếc thuyền liền quay ngang, vọt ra chặn hai chiếc thuyền kia. Bỗng nghe “A” một tiếng thảm khốc, đứa con trai trên chiếc thuyền nhỏ bị trúng một mũi tên. Gã râu xồm thất kinh, cúi xuống xem xét, đầu vai và lưng lập tức trúng mấy mũi tên, mái chèo trong tay cầm không vững, rơi tõm xuống sông, chiếc thuyền liền ngừng lại. Thuyền lớn phía sau lập tức vọt lên, bảy tám tên quan quân Mông Cổ và phiên tăng liền nhảy lên trên thuyền nhỏ.
    Gã râu xồm tuy vậy vẫn bất khuất, tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Trương Tam Phong kêu lớn:
    - Thát tử dừng tay, chớ có hành hung giết người.
    Ông vội vã chèo thêm vài cái nữa cho thuyền tới gần hơn, nhún mình một cái, hai tay áo phiêu phiêu, từ trên không nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền nhỏ. Hai tên quan binh Mông Cổ nhắm vào ông bắn tới Trương Tam Phong vẫy tay áo hất hai mũi tên ra ngoài. Chân ông vừa chạm thuyền, chưởng trái liền đánh ra, lập tức hai tên phiên tăng bị văng ra xa hơn một trượng, bõm bõm hai tiếng, rơi thẳng xuống sông. Bọn võ quan thấy ông như thiên tướng từ trời bay xuống, vừa ra tay đã đánh hai tên phiên tăng cao cường nhất bay đi, không khỏi kinh hãi. Tên võ quan thủ lãnh quát lớn:
    - Lão đạo khùng kia, ngươi làm gì thế?
    Trương Tam Phong mắng lại:
    - Bọn Thát tử chó má, chỉ giỏi hành hung tác ác, tàn hại lương dân, có cút đi không nào?
    Tên võ quan kia đáp:
    - Ngươi biết tên này là ai không? Y là dư đảng của phản tặc ma giáo ở Viên Châu, cả thiên hạ ai ai cũng muốn tróc nã khâm phạm.
    Trương Tam Phong nghe thấy “phản tặc ma giáo ở Viên Châu”, giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ y là thuộc hạ của Chu Tử Vượng?”, quay đầu lại hỏi đại hán râu xồm:
    - Y nói có đúng không?
    Người râu xồm toàn thân máu me, tay trái ôm đứa con trai, hổ nhãn rưng rưng, nói:
    - Tiểu chúa công … tiểu chúa công bị chúng nó bắn chết rồi.
    Câu đó vô hình chung thừa nhận thân phận của mình. Trương Tam Phong trong lòng lại càng kinh khủng hơn, hỏi:
    - Phải chăng đây là lang quân của Chu Tử Vượng?
    Đại hán trả lời:
    - Đúng thế, tiểu nhân phụ lòng ủy thác rồi, cái mạng nhỏ này cũng không muốn sống nữa.
    Y nhẹ nhàng đặt cái xác đứa bé xuống, xông vào viên quan kia. Thế nhưng y vốn đã bị thương, trên vai trên lưng hai mũi tên còn cắm vào, đầu tên lại có tẩm thuốc độc, vừa nhảy lên đã kêu một tiếng "Ối" rồi ngã lăn ra sàn thuyền. Cô bé gái kia thì ôm một xác chết đàn ông ở trong khoang, khóc lớn:
    - Cha ơi, cha ơi.
    Trương Tam Phong nhìn trang phục người đó, hiển nhiên là người chủ thuyền. Ông nghĩ thầm: “Nếu mình biết là nhân vật trong ma giáo, chuyện không đâu này mình đã không nhúng tay vào. Thế nhưng mình đã ra tay thì không thể nửa chừng rồi bỏ được”. Ông quay qua nói với tên võ quan:
    - Đứa trẻ này đã chết, còn người kia đã trúng độc tiễn, trong chốc lát cũng sẽ chết theo, các ngươi đã lập công rồi, thôi đi nơi khác.
    Tên võ quan nói:
    - Không được, phải chặt hai cái thủ cấp đó mới xong.
    Trương Tam Phong nói:
    - Sao ngươi lại quá quắt đến thế?
    Gã võ quan hỏi lại:
    - Lão đạo là ai? Cớ gì lại nhúng tay vào việc này?
    Trương Tam Phong mỉm cười, nói:
    - Ngươi hỏi ta làm gì? Việc thiên hạ thì người trong thiên hạ ai chẳng làm được.
    Tên võ qua đưa mắt, nói:
    - Đạo trưởng đạo hiệu là chi? Xuất gia ở đạo quan nào?
    Trương Tam Phong chưa kịp trả lời, hai tên quan quân Mông Cổ đột nhiên vung trường đao, nhắm vai ông chém xuống. Thế hai lưỡi đao đó xuống thật nhanh, trong chiếc thuyền nhỏ cách nhau lại gần không cách gì có thể tránh được.
    Trương Tam Phong nghiêng người, ông vốn dĩ quay mặt về phía đầu thuyền, ông chỉ xoay nhẹ, mặt quay sang phía trái, hai lưỡi đao liền chém vào khoảng không. Hai chưởng ông vung lên, đẩy luôn vào lưng của hai tên đó, quát:
    - Cút đi.
    Chưởng lực nhả ra, hai tên võ quan bay lên, nghe bình bình hai tiếng, rơi trúng ngay cái thuyền bọn chúng vừa đi. Mấy chục năm nay ông không cùng ai động thủ quá chiêu, lúc này ra tay quả là dùng dao mổ trâu để giết gà nhưng vẫn nhanh nhẹn như thường. Gã võ quan đầu lãnh kia há hốc mồm, lập cập nói:
    - Ngươi … ngươi … ngươi … có phải là … là … Trương Tam Phong tay áo vũ động, quát lớn:
    - Lão đạo trước nay chỉ chuyên giết Thát tử thôi.
    Các võ quan và phiên tăng chỉ thấy gió thổi ập vào mặt, ai nấy đều khó thở. Khi Trương Tam Phong ngừng tay, mọi người mặt trắng bệch, đều cùng la hoảng, tranh nhau chạy về thuyền lớn, cứu mấy phiên tăng rơi dưới nước rồi vội vã chèo đi.
    Trương Tam Phong lấy trong bọc ra đơn được, nhét vào mồm đại hán râu xồm, chèo chiếc thuyền nhỏ đến chiếc đò ngang, định đỡ y qua, nào ngờ đại hán đó tính tình thật cứng cỏi, một tay ôm xác đứa con trai, một tay ôm đứa con gái, nhẹ nhàng nhảy qua thuyền bên kia. Trương Tam Phong thầm gật đầu: “Người này đã bị thương nặng, vậy mà vẫn trung với ấu chúa như thế, quả thực là một hảo hán tử khí khái. Tuy lần này ta lỡ tay cứu y, nhưng người như thế ra tay cứu cũng đáng”. Oạng qua trở lại chiếc đò ngang, giúp đại hán nọ nhổ những mũi tên độc ra, bôi thuốc trị thương. Đứa con gái nhìn xác cha theo chiếc thuyền trôi đi, chỉ còn nước ngồi khóc. Gã râu xồm nói:
    - Bọn cẩu quan thật là tàn ác, vừa lên thuyền là bắn chết ngay thuyền phu, nếu lão đạo gia không cứu kịp, đứa con gái nhà thuyền chài kia chắc cũng bị chúng giết chết.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Hiện thời Vô Kỵ không đi lại được, hán tử này lại là khâm phạm, nếu vào nghỉ trong khách điếm tại Lão Hà Khẩu ta phải chiếu cố cho cả hai người, e chẳng chu toàn được”. Ông lấy ra ba lượng bạc giao cho người lái thuyền, nói:
    - Chú lái đò ơi, phiền chú thuận theo dòng đi về hướng đông, qua Tiên Nhân Độ cho chúng tôi lên Thái Bình điếm nghỉ ngơi.
    Người lái đò thấy ông đánh bọn quan binh Mông Cổ một trận tơi bời hoa lá, vốn đã vạn phần kính sợ, huống chi lại được thưởng nhiều tiền như thế, lập tức luôn mồm vâng dạ, bẻ lái thuyền qua hướng đông.
    Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói:
    - Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.
    Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói:
    - Thường anh hùng không cần phải dùng đại lễ.
    Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi:
    - Phải chăng Thường anh hùng đã bị nội thương?
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ xuôi Nam, giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.
    Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng. Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh dưỡng.
    Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép, tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt. Trương Tam Phong thấy cô bé đáng thương, hỏi:
    - Cô nương, tên cô là gì?
    Cô gái đáp:
    - Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay” nên hỏi tiếp:
    - Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về.
    Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:
    - Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền thôi … chứ không có ai khác.
    Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: “Cô gái này nhà tan người mất, lại bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?” Thường Ngộ Xuân nói:
    - Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì?
    Trương Tam Phong cười:
    - Lão là Trương Tam Phong.
    Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng:
    - - Hóa ra lão đạo gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng.
    Trương Tam Phong mỉm cười:
    - Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến vết thương.
    Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo:
    - Ngươi bị thương không phải là nhẹ, chớ nên nói nhiều.
    Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn:
    - Hai chữ chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì cũng là chính nhân quân tử.
    Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt, cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ “tà ma” càng lúc càng thấy ghét bỏ.
    Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh giáo, năm trước khởi sự tại Viên Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng đều là chi lưu của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện[1] tại Triết Giang. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động, và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản nguyện.
    Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu, không chịu ăn.
    Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói:
    - Đạo trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Ta no rồi, không muốn ăn nữa.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư?
    Trương Vô Kỵ nghĩ cô ta nói quả không sai, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm tới miệng vội há mồm ăn. Chu Chỉ Nhược gỡ hết xương cá, xương gà, mỗi miếng cơm lại rưới thêm tí nước thịt, Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng, hết cả một bát lớn.
    Trương Tam Phong trong lòng thấy an ủi, nghĩ thầm: "Vô Kỵ số khổ, từ bé cha mẹ chết sớm, lại bị bệnh nặng. Nếu được người con gái có ý tứ thế này chăm sóc quả thật là hay”.
    Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn sạch bát rau, tuy đang trọng thương, nhưng cũng ăn hết bốn bát cơm trắng. Trương Tam Phong không kiêng thịt, thấy y ăn uống thật hào sảng, nên khuyên y ăn tí thị gà. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát nên không ăn mặn.
    Trương Tam Phong “A” một tiếng:
    - Ồ lão đạo quên.
    Lúc đó mới nhớ là người trong ma giáo qui củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ đời Đường tới giờ, đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lãnh của Minh giáo là Phương Lạp khởi sự tại Triết Đông, đương thời quan cũng như dân gọi họ là “đạo ăn chay thờ ma”. Ăn chay và phụng thờ ma vương là hai qui luật lớn của ma giáo, đã truyền từ mấy trăm năm nay. Đời nhà Tống, quan phủ chém giết ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm cũng coi họ chẳng ra gì, vì thế giáo đồ hành sự cực kỳ ẩn bí, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài phải giả xưng là thờ Phật, bái Bồ Tát, không dám tiết lộ thân phận của mình.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân, ngài có ơn cứu mệnh đối với tôi, lại đã biết rõ lai lịch rồi, nên không dám dấu diếm. Tiểu nhân là người trong Minh giáo, phụng sự Minh tôn. Triều đình quan phủ đối với chúng tôi mười phần căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái cũng coi nhẹ chúng tôi, thậm chí đến bọn đốt nhà cướp của, giết người không gớm tay trong hắc đạo cũng gọi chúng tôi là yêu ma quỉ quái. Lão nhân gia đã biết rõ lai lịch của chúng tôi mà vẫn ra tay tương cứu, cái ân đức đó, quả thực tôi không biết lấy gì báo đáp.
    Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua về lai lịch của ma giáo, biết ma giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh Tôn. Tôn giáo này đến trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường, khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng Minh giáo nhưng người ngoài gọi họ là Ma giáo[2]. Ông trầm ngâm giây lát, nói:
    - Thường anh hùng … Thường Ngộ Xuân vội nói:
    - Lão đạo gia, ngài đừng gọi anh hùng, hào kiệt gì, cứ gọi trống không Ngộ Xuân là được rồi.
    Trương Tam Phong nói:
    - Được rồi, Ngộ Xuân, năm nay anh bao nhiêu tuổi?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Cháu vừa đúng hai mươi.
    Trương Tam Phong hỏi như thế vì thấy y tuy mặt đầy râu ria, nhưng ăn nói cử chỉ xem chừng còn trẻ lắm, nghe xong gật đầu:
    - Anh như thế cũng chỉ mới lớn, tuy đầu nhập ma giáo, nhưng sa chân chưa sâu, nếu biết sớm quay đầu lại thì cũng chưa muộn. Ta có một câu muốn khuyên anh, anh nghe cũng đừng giận.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Lão đạo gia dạy bảo, tiểu nhân làm sao dám giận.
    Trương Tam Phong nói:
    - Tốt lắm, ta khuyên anh hôm nay thay lòng đổi dạ, bỏ tà giáo đi. Nếu anh không hiềm phái Võ Đương bản lĩnh kém cỏi, lão đạo sẽ bảo đại đồ nhi Tống Viễn Kiều thu anh làm đệ tử. Sau này anh hành tẩu giang hồ, hiên ngang oai phong, không ai dám coi thường anh cả.
    Tống Viễn Kiều đứng đầu bảy đệ tử, danh chấn thiên hạ, những người tầm thường trong võ lâm được gặp một lần cũng không phải dễ. Võ Đương chư hiệp đến những năm gần đây mới bắt đầu thu đồ đệ nhưng tuyển chọn thật nghiêm, nếu không phải người có căn cốt tư chất, phẩm hạnh tính tình đều tốt, thì không thể nào được nhận vào làm môn hạ phái Võ Đương. Thường Ngộ Xuân xuất thân ma giáo, người thường nghe tới đã nhíu mày, vậy mà được Trương Tam Phong biệt đãi, muốn y đầu nhập môn hạ Tống Viễn Kiều, cứ như người trong võ học thì thật là một phúc duyên cực kỳ khó gặp trên đời.
    Nào ngờ Thường Ngộ Xuân khẳng khái nói:
    - Tiểu nhân được Trương chân nhân coi trọng, thực cảm kích không để đâu cho hết. Thế nhưng tiểu nhân đã thuộc Minh giáo rồi, suốt đời không thể nào bội giáo được.
    Trương Tam Phong lại khuyên thêm mấy câu nữa, Thường Ngộ Xuân kiên quyết không nghe. Trương Tam Phong thấy y chấp mê không tỉnh ngộ, chỉ còn nước lắc đầu thở dài, nói:
    - Còn tiểu cô nương này … Thường Ngộ Xuân nói:
    - Lão đạo trưởng không lo, cha cô này vì tôi mà chết, tiểu nhân sẽ tìm cách chiếu liệu cho.
    Trương Tam Phong nói:
    - Được rồi, nhưng anh không được để cho nó gia nhập quí giáo đâu nhé.
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Không biết chúng tôi có làm tội ác gì lớn lao mà ai ai đều khinh thị, coi người trong Minh giáo như rắn độc, thú dữ. Vâng, đạo trưởng đã dặn như thế, tiểu nhân xin tuân mệnh.
    Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ vào lòng, nói:
    - Nếu thế thì mình từ biệt nhau nơi đây.
    Ông không muốn dây dưa với người trong ma giáo, nên bốn chữ “sau này gặp lại” không nói ra. Thường Ngộ Xuân lại bái tạ một lần nữa. Chu Chỉ Nhược nói với Trương Vô Kỵ:
    - Tiểu tướng công, tướng công mỗi ngày nhớ ăn cho no, để lão đạo gia khỏi lo lắng.
    Trương Vô Kỵ nước mắt tuôn tràn, nghẹn ngào nói:
    - Đa tạ cô có lòng tốt, thế nhưng … thế nhưng ta cũng chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn đâu.
    Trương Tam Phong lòng buồn bã, lấy tay áo, chùi nước mắt trên má Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược kinh hãi hỏi lại:
    - Sao thế? Ngươi … ngươi … Trương Tam Phong nói:
    - Tiểu cô nương, lòng dạ cô thật tốt, chỉ mong sau này cô đi theo con đường chính đáng, nhất quyết đừng rơi vào vòng tà ma.
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Vâng, thế còn vị tiểu tướng công này nói là chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn là sao?
    Trương Tam Phong lặng lẽ không trả lời. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân, lão nhân gia công lực thâm hậu, thần thông quảng đại, vị tiểu gia này trúng độc dĩ nhiên không phải nhẹ, có thể hóa giải được chăng?
    Trương Tam Phong đáp:
    - Được chứ.
    Thế nhưng tay trái ông thõng bên dưới xua xua mấy cái, ý muốn nói là mặc dù bệnh tình y coi như vô phương nhưng không muốn cho Vô Kỵ biết. Thường Ngộ Xuân thấy ông xua tay, giật mình kinh hoảng, nói:
    - Tiểu nhân bị nội thương nặng, đang định đi nhờ một vị thần y chữa cho, sao không cho vị tiểu gia này đi luôn thể?
    Trương Tam Phong lắc đầu đáp:
    - Hàn độc đã chạy khắp tạng phủ, thuốc men tầm thường chữa không khỏi được đâu, chỉ còn … chỉ còn từ từ hóa giải thôi.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thế nhưng vị thần y này quả có năng lực cải tử hoàn sinh.
    Trương Tam Phong sững người, chợt nghĩ ra bèn hỏi:
    - Ngươi có phải định nói tới “Điệp Cốc Y Tiên” chăng?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:48:44 | Chỉ xem của tác giả
   Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Chính ông ta, thì ra lão đạo trưởng cũng đã nghe tới tên Hồ sư bá của tiểu nhân.
    Trương Tam Phong trù trừ, nghĩ thầm: “Ta đã nghe gã Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu này tuy y đạo cực kỳ cao minh, nhưng lại là người trong ma giáo, xưa nay võ lâm nhân sĩ không ai muốn nói tới. Huống chi tính tình y lại hết sức quái dị, chỉ cần là người trong ma giáo y sẽ tận lực cứu chữa, không lấy một đồng, còn người ngoài cầu y, dù cả vạn lượng vào chồng trước mặt y cũng không đoái hoài đến, thành thử còn một cái ngoại hiệu “Kiến Tử Bất Cứu”. Nếu quả là người đó thì đành để Vô Kỵ hàn độc phát tác mà chết còn hơn để y rơi vào vòng ma giáo”.
    Thường Ngộ Xuân thấy ông nhíu mày suy nghĩ, hiểu rõ tâm ý của Trương Tam Phong liền nói:
    - Trương chân nhân, Hồ sư bá tuy trước nay không chữa bệnh cho người ngoại đạo, nhưng tiểu nhân được lão đạo trưởng cứu, đại ân thâm trọng, Hồ sư bá không thể không phá lệ. Nếu ông ấy không chịu ra tay thì tiểu nhân nhất định không để yên.
    Trương Tam Phong nói:
    - Vị Hồ tiên sinh đó y thuật như thần, ta cũng đã từng nghe tiếng. Có điều hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, không phải tầm thường … Thường Ngộ Xuân lớn tiếng nói:
    - Vị tiểu gia này nếu như cùng lắm trị không xong, thì đằng nào cũng chết, còn có gì mà phải lo?
    Y tính tình sảng trực, bụng nghĩ sao liền nói ra không kiêng dè gì cả. Trương Tam Phong nghe nói “thì đằng nào cũng chết”, trong lòng chấn động nghĩ thầm: “Tên này ăn nói lỗ mãng nhưng quả không sai, xem ra Vô Kỵ chỉ còn sống được độ một tháng nữa thôi, thôi thì đành đánh liều cầu may vậy”. Ông trước nay giao thiệp với ai luôn luôn hết lòng hết dạ, coi ai cũng như mình không nghi ngại, Thường Ngộ Xuân này quả là người trọng nghĩa, thế nhưng Vô Kỵ là giọt máu duy nhất của đứa học trò yêu, nay bảo ông giao vào tay một đệ tử ma giáo, tà ác nổi danh, làm sao có thể yên tâm, thành ra nhất thời không sao quyết định được.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân không muốn đến gặp Hồ sư bá, điều đó cháu cũng hiểu rồi. Trước nay chính tà hai bên không đứng chung, Trương chân nhân là đại tông sư đương thời, lẽ nào đi cầu tà ma ngoại đạo? Hồ sư bá tính tính cổ quái, gặp Trương chân nhân ăn nói vô lễ, hai bên lại gây chuyện không chừng. Vị Trương huynh đệ này tốt hơn do cháu đưa tới, nhưng chắc Trương chân nhân không an lòng. Thôi thì thế này, cháu đưa Trương huynh đệ tới nhờ Hồ sư bá xin ông ấy từ từ cứu chữa, sau đó cháu sẽ lên núi Võ Đương làm con tin. Trương huynh đệ nếu như có gì, Trương chân nhân cứ một chưởng đánh cháu chết là xong.
    Trương Tam Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ có gì sơ sẩy, ta đánh ngươi chết để làm chi? Nếu ngươi không lên núi Võ Đương thì ta biết đi đâu mà tìm? Thế nhưng trước mắt Vô Kỵ hàn độc đã đi vào gan phổi rồi, quả đúng là” đằng nào cũng chết”, ở lúc sinh tử này đành phải quyết định dứt khoát, bèn nói:
    - Thế thì đành gửi anh vậy. Thế nhưng phải nói trước, Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu.
    Ông biết ma giáo hành sự ngụy bí, nếu như dính dấp với họ, họ sẽ luẩn quẩn với mình hoài, không biết hậu hoạn đến chừng nào, Trương Thúy Sơn đã thân bại danh liệt, thật là rành rành ra đấy. Thường Ngộ Xuân ngang nhiên đáp:
    - Trương chân nhân coi Minh giáo chúng tôi chẳng ra gì cả, nhưng thôi cứ theo đúng lời dạy bảo là xong.
    Trương Tam Phong nói:
    - Anh thay ta chăm sóc cho Vô Kỵ, nếu như âm độc trong thân thể trừ được, thì anh dẫn nó lên núi Võ Đương. Còn việc anh lên núi làm con tin, cái đó không cần thiết.
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Tiểu nhân xin hết sức cố gắng.
    Trương Tam Phong nói:
    - Còn tiểu cô nương này, ta dẫn lên núi Võ Đương, sẽ thu xếp lo liệu sau.
    Thường Ngộ Xuân lên bờ dùng tay đào một cái hố dưới một gốc cây to, đem Chu công tử lột hết quần áo rồi mới đem chôn, quì trước phần mộ lạy mấy lạy. Thì ra qui củ của Minh giáo là “khỏa táng”, khi sinh ra không một mảnh vải che thân, thì khi chết đem chôn cũng không mặc quần áo. Trương Tam Phong không hiểu lý do, chỉ nghĩ thầm bọn người này làm gì cũng tà môn thần bí.
    Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược, chia tay cùng Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân. Trương Vô Kỵ từ khi cha mẹ chết đến giờ, coi Trương Tam Phong như ông nội, bây giờ bất ngờ phải xa, không khỏi nước mắt ròng ròng. Trương Tam Phong ôn tồn nói:
    - Vô Kỵ, khi nào cháu khỏi bệnh rồi, Thường đại ca sẽ đưa cháu về núi Võ Đương. Cháu ngoan, chỉ xa ông vài tháng, không có gì phải buồn.
    Trương Vô Kỵ chân tay không cử động được nhưng nước mắt không ngừng chảy dài trên má. Chu Chỉ Nhược trở lại thuyền, lấy trong bọc ra một cái khăn tay, lau nước mắt cho nó, mỉm cười rồi nhét chiếc khăn vào trong túi Vô Kỵ, sau đó mới lên bờ.
    Trương Vô Kỵ nhìn theo thái sư phụ cùng Chu Chỉ Nhược đi về hướng tây, thấy cô gái không ngớt quay đầu giơ tay vẫy nó, mãi đến khi đi khuất sau một hàng dương liễu mới thôi. Lúc này thằng bé thấy mình thê lương lẻ bóng, đau khổ vô chừng, không nhịn nổi khóc òa lên. Thường Ngộ Xuân nhíu mày hỏi:
    - Trương huynh đệ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
    Trương Vô Kỵ nghẹn ngào đáp:
    - Mười hai tuổi.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Hay nhỉ, mười hai tuổi rồi, đâu có còn bé bỏng gì nữa, vậy mà khóc hu hu, không biết xấu. Hồi ta mười hai tuổi, bị đánh không biết mấy trăm lần, nhưng không bao giờ phải chảy nước mắt cả. Nam tử hán đại trượng phu, máu chảy thì được, nước mắt chảy thì không. Nếu chú mày còn thút thít không nín, ta sẽ cho chú mày mấy cái tát.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi không muốn rời xa thái sư phụ nên tôi khóc, còn ai đánh tôi tôi không khóc đâu. Anh muốn đánh tôi cứ việc đánh, hôm nay anh đánh tôi một quyền, ngày sau tôi đánh lại anh mười quyền.
    Thường Ngộ Xuân ngạc nhiên, cười ha hả, nói:
    - Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ, thế mới là một nam tử có cốt khí chứ. Chú mày ghê gớm như thế, làm sao ta dám đánh chú mày.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi cử động còn không được, tại sao đại ca không dám đánh tôi?
    Thường Ngộ Xuân cười đáp:
    - Hôm nay ta đánh chú mày, sau này chú mày theo học thái sư phụ võ công, thần quyền của phái Võ Đương, làm sao ta chịu mổi mười cú đấm.
    Trương Vô Kỵ nghe vậy cũng bật cười, thấy vị Thường đại ca này tuy tướng mạo hung dữ nhưng không phải là người xấu. Thường Ngộ Xuân thuê giang thuyền đi xuống Hán Khẩu, đến Hán Khẩu đổi qua thuyền lớn đi theo Trường giang xuôi về hướng đông. Nơi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ẩn cư là Hồ Điệp Cốc[3], ở tại bên cạnh hồ Nữ Sơn, thuộc Hoàn Bắc[4].
    Trường giang từ Hán Khẩu đến Cửu Giang, chảy theo hướng đông nam, qua Cửu Giang rồi mới bẻ theo hướng đông bắc đi vào cảnh giới đất Hoàn. Hai năm trước, Trương Vô Kỵ từng đi thuyền ngược lên hướng bắc, nhưng lúc đó có cha mẹ cùng đi, lại có nhị bá Du Liên Châu đồng hành, đường đi biết bao nhiêu thích thú. Hôm nay cha mẹ đều đã mất cả rồi, còn mình sống dở chết dở theo Thường Ngộ Xuân đi chữa bệnh, sướng khổ hai đằng, thật cách nhau một trời một vực. Thế nhưng y sợ Thường Ngộ Xuân nổi cáu, tuy trong lòng đau buồn nhưng không dám chảy nước mắt. Lúc đó trên thân thể y những huyệt đạo Trương Tam Phong điểm đã tự động giải khai rồi, mỗi khi hàn độc phát tác đau đớn chịu không nổi, y chỉ còn cách nghiến răng cố chịu, đến nỗi môi trên môi dưới đầy vết răng, mà âm hàn xâm nhập mỗi ngày mỗi nặng thêm.
    Khi đến Qua Phụ ở hạ du Tập Khánh, Thường Ngộ Xuân bỏ thuyền lên bờ, mướn một cỗ xe lớn, đi về hướng bắc, vài ngày sau đến Quang Minh ở phía đông của Phượng Dương. Thường Ngộ Xuân biết rằng vị Hồ sư bá này không thích người ngoài biết được chỗ ông ta ẩn cư, khi đến cách hồ Nữ Sơn khoảng hai chục dặm thì bắt xe phải quay đầu, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, băng băng đi tới.
    Y vẫn tưởng hai chục dặm đi một mạch là tới, nào ngờ vì bị trúng hai âm chưởng của phiên tăng, nội thương khá nặng, chỉ đi được một dặm thì gân cốt đã mỏi nhừ, đau nhức, thở hồng hộc bước đi không nổi. Trương Vô Kỵ không nỡ để y đi tiếp nên nói:
    - Thường đại ca, để tiểu đệ đi một mình cũng được, đại ca đừng phí sức.
    Thường Ngộ Xuân tức khí, giận dữ nói:
    - Bình thời ta đi một hơi cả trăm dặm chưa thấy mệt, không lẽ mấy tên tặc hòa thượng đánh có hai chưởng, đã đi không nổi sao?
    Y hiếu thắng càng ra sức đi nhanh hơn. Thế nhưng nội thương vốn đã trầm trọng, lại thêm nóng nảy cố sức, chỉ được vài chục trượng, đã thấy các khớp xương trong người như muốn rời ra, nhưng không chịu nhận mình yếu, cũng không chịu bỏ Vô Kỵ xuống, chỉ còn loạng choạng đi từng bước một.
    Đi như thế thật là chậm, đến lúc trời tối, chưa được một nửa đường, đường núi lại cheo leo, càng vào sâu càng khó đi. Đi đến giữa một khu rừng, Thường Ngộ Xuân bỏ Trương Vô Kỵ xuống đất, nằm thẳng cẳng nghỉ mệt. Y lấy trong bọc ra mấy cái bánh trái chia cho Vô Kỵ một nửa cùng ăn. Thường Ngộ Xuân nghỉ độ nửa giờ, lên đường đi tiếp. Vô Kỵ cực lực khuyên y nên ngủ lại trong rừng một đêm, đợi trời sáng hãy tiếp tục. Thường Ngộ Xuân nghĩ quả thực nếu trời tối thế này mà đi tiếp, nửa đêm nửa hôm đến kinh động Hồ Thanh Ngưu, thể nào cũng làm ông ta nổi giận, đành nghe lời. Hai người ngồi dưới một gốc cây to, dựa vào nhau mà ngủ.
    Ngủ đến nửa đêm, hàn độc trong người Trương Vô Kỵ lại phát tác, run rẩy không ngừng. Y sợ sẽ làm Thường Ngộ Xuân tỉnh dậy nên không dám kêu, chỉ cố chịu đựng. Ngay lúc đó bỗng có tiếng binh khí va chạm nhau từ xa vọng tới, lại có tiếng người:
    - Định chạy đi đâu?
    - Chặn bên phía đông, dồn y vào trong rừng.
    - Kỳ này nhất định không cho thằng trọc chạy thoát.
    Sau đó có tiếng bước chân, có mấy người chạy vào trong rừng. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng tỉnh giấc, tay phải rút đơn đao ra, tay trái ôm Trương Vô Kỵ, định sẽ vừa đánh vừa chạy. Trương Vô Kỵ nói khẽ:
    - Hình như không phải họ đi kiếm bọn mình đâu.
    Thường Ngộ Xuân gật đầu, nép mình sau gốc cây nhìn ra, trong đêm tối thấy có bảy tám người vây đánh một người, người đó tay không, song chưởng bay múa, ép cho địch nhân không thể tới gần được. Đánh nhau một hồi, vòng vây những người kia dần dần thắt lại.
    Một hồi sau, ánh trăng non từ trong đám mây chui ra chiếu xuống, dãi khắp bốn bề, thấy người bị vây kia là một nhà sư cao gầy chừng bốn chục tuổi mặc áo bào trắng. Những người vây đánh y có tăng có đạo, lại có người mặc theo lối tục gia, lại có thêm hai người đàn bà, tổng cộng tám người cả thảy. Hai nhà sư mặc áo màu xám tro một người cầm thiền trượng, một người cầm giới đao, mỗi lần thiền trượng đánh ngang giới đao múa che bên cạnh thì gió bay ra khiến lá cây rụng xuống lả tả. Một đạo nhân tay cầm trường kiếm, thân pháp nhanh nhẹn, dưới ánh trăng múa ra lấp lóe kiếm hoa từng vùng. Một hán tử thấp bé cầm song đao, lăn qua lăn lại dưới đất, dùng Địa Đường đao pháp tấn công hạ bàn của nhà sư áo trắng.
    Hai người đàn bà thân hình mảnh dẻ, đều cầm trường kiếm, kiếm pháp thật là linh động nhẹ nhàng. Đấu được một hồi, một trong hai người quay ngang, nửa mặt chiếu dưới ánh trăng, Trương Vô Kỵ bất giác suýt tí nữa kêu lên: “Kỷ cô nương”. Người đó chính là vị hôn thê của Ân Lê Đình Kỷ Hiểu Phù. Lúc mới xem tám người vây đánh một người, Trương Vô Kỵ thấy họ lấy nhiều chống ít không công bình, lòng mong thầm hòa thượng nọ có thể đột phá vòng vây chạy thoát. Bây giờ nhận ra được Kỷ Hiểu Phù rồi, tin chắc nhà sư nọ là kẻ địch của Kỷ cô nương ắt không phải kẻ tốt, lòng liền xoay qua ủng hộ phe Kỷ Hiểu Phù.
    Năm xưa khi cha mẹ tự tận, Kỷ Hiểu Phù từng ngọt ngào an ủi nó, tuy Vô Kỵ không nhận cái vòng vàng đeo cổ cô ta cho, nhưng sau nghĩ lại cái hảo ý của cô ta thật đáng cảm kích. Vô Kỵ thấy hòa thượng bị vây kia võ công thật cao cường, chưởng pháp lúc nhanh lúc chậm, hư hư thực thực, biến huyễn đa đoan, khi ra tay nhanh thì ngay cả đường đi của bàn tay y cũng không nhìn rõ. Bên Kỷ Hiểu Phù tuy đông người nhưng đánh lâu y vẫn không chịu kém.
    Bỗng nghe một hán tử quát lên:
    - Dùng ám khí tấn công.
    Một hán tử và một đạo nhân liền dạt qua hai bên, sau đó nghe tiếng vèo vèo liên tiếp, thiết đạn và phi đao bắn ào ào vào hòa thượng áo trắng khiến cho nhà sư không chống đỡ nổi. Đạo nhân râu dài cầm kiếm quát lên:
    - Bành hòa thượng, bọn ta không muốn giết ngươi đâu, việc gì ngươi phải đánh đến cùng? Ngươi đem Bạch Qui Thọ đưa ra, chúng ta sẽ cười mà tha liền, có phải hay không?
    Thường Ngộ Xuân giật mình kinh hãi, hạ giọng:
    - Vị đó là Bành hòa thượng?
    Khi trước đi thuyền, Vô Kỵ từng nghe cha mình kể chuyện dương đao lập uy trên Vương Bàn Sơn đảo cho Du nhị bá nghe, biết tại sao các môn phái kết oán thù với Thiên Ưng giáo. Bạch Qui Thọ chính là đàn chủ Huyền Võ đàn còn sống sót, lâu nay các môn phái đánh nhau với Thiên Ưng giáo cũng vì muốn Bạch đàn chủ thổ lộ tung tích của Tạ Tốn. Y nghĩ thầm: “Không lẽ vị Bành hòa thượng này cũng là nhân vật trong giáo phái của mẹ ta?”.
    Chỉ nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói:
    - Bạch đàn chủ đã bị các ngươi đánh trọng thương, không nói gì ta với y có chút uyên nguyên, dù chẳng liên quan gì cũng đâu có thể thấy người chết mà không cứu?
    Đạo nhân râu dài nói:
    - Cái gì mà “kiến tử bất cứu”? Bọn ta có định giết y đâu, chỉ muốn biết tin tức của một người thôi.
    Bành hòa thượng đáp:
    - Các ngươi muốn hỏi chỗ ở của Tạ Tốn, sao không đến tìm phương trượng chùa Thiếu Lâm mà hỏi?
    Một tăng nhân mặc áo xám tro liền kêu lên:
    - Đó là ác kế của yêu nữ Thiên Ưng giáo Ân Tố Tố giá họa cho chùa Thiếu Lâm ta, ai tin cho nổi?
    Nhà sư đó hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ nghe y nhắc đến tên của mẹ mình, vừa hãnh diện, vừa đau lòng, nghĩ thầm: “Mẹ ta qua đời đã hai năm, nhưng vẫn còn làm cho các ngươi phải đau đầu”. Bỗng nghe đạo nhân đứng bên ngoài vòng kêu lên:
    - Tất cả nằm xuống.
    Sáu người nghe thế, vội vàng hụp xuống, chỉ thấy bạch quang lấp loáng, năm thanh phi đao vù vù phóng ra, nhắm thẳng vào đầu Bành hòa thượng. Đúng ra Bành hòa thượng chỉ cần cúi đầu, khom lưng nhào về phía trước, hay dùng thiết bản kiều ngửa người về sau là phi đao đã bay trượt ra rồi, nhưng khi đó dưới đất sáu người cùng dựng binh khí lên, chặn hết hạ tam lộ của y, làm sao cúi mình né tránh được?
    Trương Vô Kỵ kinh hãi, thấy Bành hòa thượng nhảy vọt lên, năm ngọn phi đao bay dưới chân, tuy y né được nhưng thiền trượng giới đao của hai nhà sư Thiếu Lâm, kiếm của đạo nhân râu dài vẫn đâm tới đùi y. Bành hòa thượng còn đang ở trên không, đành phải mạo hiểm, chưởng trái đánh ra, nghe bịch một tiếng, trúng đầu một tăng nhân, tay phải liền móc một cái, cướp ngay được giới đao của y, thuận thế gạt vào thiền trượng, mượn sức thân hình liền bay ra xa hai trượng.
    Nhà sư Thiếu Lâm bị đánh trúng thiên linh cái chết ngay lập tức. Những người khác liền giận dữ hò hét đuổi theo, còn Bành hòa thượng chân khập khiễng ngã lăn ra đất, bảy người liền bao quanh y. Nhà sư cầm thiền trượng chẳng khác gì con hổ điên, liên tiếp đánh xuống mồm gào:
    - Bành hòa thượng, ngươi giết sư đệ ta, ta quyết thí mạng với ngươi.
    Đạo nhân râu dài kêu lên:
    - Đùi y trúng yết vĩ câu[5] ám khí của ta rồi, chỉ chốc lát chất độc phát tác là chết thôi.
    Quả nhiên chân Bành hòa thượng không đứng vững, lảo đảo không yên. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Y là một đại nhân vật trong Minh giáo ta, không thể không cứu”. Dù y đang bị trọng thương nhưng vẫn định xông ra cứu người, nên hít một hơi dài, chân trái nhảy tới. Nào ngờ y hô hấp quá nhanh, bước lại dài liền động đến vết thương trên ngực, đau quá muốn xỉu. Ngay lúc đó Bành hòa thượng nhảy vọt lên, cũng ngã lăn ra, có lẽ chất độc làm y chết rồi. Thường Ngộ Xuân cố nhịn đau, giương mắt xem động tĩnh, thấy bảy người kia vẫn không dám đến gần Bành hòa thượng.
    Đạo nhân râu dài nói:
    - Hứa sư đệ, ngươi bắn hai ngọn phi đao xem thế nào.
    Đạo nhân nọ liền giơ tay phải lên, nghe cách cách hai tiếng, một ngọn phi đao bắn trúng vai phải, một ngọn phi đao bắn trúng đùi trái của Bành hòa thượng. Bành hòa thượng không động đậy, hiển nhiên không còn sống nữa. Đạo nhân râu dài nói:
    - - Tiếc quá, tiếc quá, y chết mất rồi, không biết y dấu Bạch Qui Thọ ở đâu?
    Bảy người lập tức tiến lên vây quanh xem xét. Bỗng nghe bình bình bình bình bình liên tiếp, năm người bị đánh văng ra ngoài. Bành hòa thượng liền đứng lên, đầu vai và đùi vẫn còn cắm phi đao. Thì ra đùi y trúng ám khí tẩm độc, biết rằng không thể tiếp tục đấu, bèn giả cách chết, dụ địch tới gần, dùng Đại Phong Vân Phi Chưởng thủ pháp nhanh như điện chớp đánh vào ngực năm người đàn ông. Y nằm trên mặt đất đã ám vận chân khí chờ sẵn, nên năm chưởng đó thật là cương mãnh lợi hại.
    Kỷ Hiểu Phù và sư tỉ đồng môn Đinh Mẫn Quân giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy ra ngoài, nhìn lại năm người đồng bạn, người nào cũng ứa máu mồm, hai người công lực kém hơn luôn mồm kêu la. Thế nhưng Bành hòa thượng vận kình gấp rút, cũng đứng không vững lảo đảo muốn ngã. Gã đạo nhân râu dài nói:
    - Đinh Kỷ hai vị cô nương, mau dùng kiếm đâm y đi.
    Hai bên chín người thì một tăng nhân Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng và năm người khác đều bị trọng thương, chỉ còn Kỷ Hiểu Phù và Đinh Mẫn Quân là chưa sao cả. Đinh Mẫn Quân nghĩ thầm: “Bộ ngươi tưởng ta không biết dùng kiếm hay sao mà ngươi phải chỉ điểm?” Thị liền sử chiêu Hư Thức Phân Kim vung kiếm lên chém xuống cổ Bành hòa thượng. Bành hòa thượng thở dài một tiếng, nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe một tiếng leng keng binh khí chạm nhau, mở mắt ra nhìn, thì ra Kỷ Hiểu Phù vung kiếm gạt binh khí của sư tỉ ra. Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi:
    - Sao thế?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Sư tỉ, Bành hòa thượng chưởng hạ lưu tình, mình không nên đuổi tận giết tuyệt.
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Cái gì mà chưởng hạ lưu tình, đó là vì y không còn sức đấy chứ.
    Thị liền gay gắt nói:
    - Bành hòa thượng, sư muội của ta lòng dạ từ bi, cứu mạng cho ngươi, vậy Bạch Qui Thọ đang ở đâu mau nói cho ta nghe.
    Bành hòa thượng ngửa cổ lên cười lớn, nói:
    - Đinh cô nương, cô xem Bành Oánh Ngọc này nhẹ quá. Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương đành chịu tự vẫn mà chết, nhưng quyết không nói ra chỗ ở của nghĩa huynh. Bụng dạ của Bành Oánh Ngọc này tuy không can đảm nghĩa liệt được như Trương ngũ hiệp, dù bất tài nhưng cũng cố học cho được như thế.
    Nói tới đây y hộc máu, phải ngồi bệt xuống. Đinh Mẫn Quân bước tới, giơ chân phải đá luôn ba cái vào chỗ mạng sườn để y không còn cách nào bất ngờ tập kích được nữa. Mấy câu đó của Bành hòa thượng khiến nhiệt huyết trong lòng Vô Kỵ dâng lên, đối với y vừa thấy thân cận, lại sinh cảm kích. Cha y Trương Thúy Sơn tự vẫn chết, những người trong danh môn chính phái khi nói tới đều cho rằng: “Một thiếu niên anh hiệp tài tuấn như thế, chỉ vì lụy phải tà giáo yêu nữ, sẩy một bước thành cái hận nghìn thu, đến nỗi thân tử danh liệt, để cả phái Võ Đương đều phải chịu chung cái nhục”.
    Những câu đó tuy Trương Vô Kỵ không nghe thấy nhưng y tại thái sư phụ và các sư thúc bá ngôn ngữ thần sắc, thấy họ ngoài việc thương tâm không khỏi oán trách giận dữ đối với mẫu thân, cho rằng cha y suốt đời việc gì cũng tốt, chỉ vì lấy vợ nhầm mà ra nông nỗi, chưa ai như Bành hòa thượng tỏ lời khâm phục cả.
    Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
    - Trương Thúy Sơn mắt mù nên mới kết hôn cùng tà giáo yêu nữ, cái đó chính là tự hạ mình, có gì đáng phải học? Phái Võ Đương của y … Kỷ Hiểu Phù xen vào:
    - Sư tỉ … Đinh Mẫn Quân nói:
    - Ngươi đừng lo, ta không nói gì tới Ân lục hiệp đâu mà sợ.
    Thị rung kiếm một cái chỉ vào mắt phải của Bành hòa thượng, nói:
    - Nếu ngươi không nói, ta đâm mù mắt phải của ngươi trước, sau đó sẽ đâm mù mắt trái, kế đó đâm thủng tai phải, rồi đâm thủng tai trái, rồi cắt mũi ngươi, nói chung là ta không cho ngươi chết yên chết lành đâu.
    Mũi kiếm của thị sáng quắc chỉ cách mắt Bành hòa thượng chừng nửa tấc, không ngừng rung động. Bành hòa thượng giương to đôi mắt, lạnh lùng nói:
    - Ta thường ngưỡng mộ Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi hành sự ác độc, những học trò bà ta cũng chẳng khác bao nhiêu. Bành Oánh Ngọc hôm nay rơi vào tay ngươi, ngươi cứ việc giở những trò kiệt tác của phái Nga Mi xem thử.
    Đinh Mẫn Quân lông mày dựng lên, hằn học nói:
    - Thằng trọc chết toi, ngươi dám làm nhục sư môn của ta ư?
    Trường kiếm liền lập tức phóng tới, đâm mù mắt phải của Bành Oánh Ngọc, rồi đưa qua đụng vào mí mắt bên trái. Bành hòa thượng cười ha hả, mắt phải máu chảy ròng ròng, mắt bên trái vẫn trừng trừng nhìn y thị. Đinh Mẫn Quân bực mình, quát lên:
    - Ngươi không phải là người của Thiên Ưng giáo, việc gì phải vì chết vì Bạch Qui Thọ?
    Bành Oánh Ngọc hiên ngang đáp:
    - Đại trượng phu có đạo lý của mình, dù ta có nói cho ngươi nghe, ngươi cũng chẳng hiểu được đâu.
    Đinh Mẫn Quân thấy y không còn cách gì phản kháng, nhưng thần sắc đối với mình vẫn tỏ vẻ khinh miệt, trong cơn phẫn nộ liền đâm tới cho y mù nốt mắt trái. Kỷ Hiểu Phù vung kiếm nhẹ nhàng gạt ra, nói:
    - Sư tỉ, gã hòa thượng này cứng đầu lắm, làm cách nào y cũng không nói đâu, giết y cũng uổng thôi.
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Y dám chửi sư phụ tâm địa độc ác, để ta cho y coi tâm địa độc ác cỡ nào. Bọn yêu nhân trong ma giáo, để sống trên đời chỉ làm hại người lương thiện, giết được đứa nào là thêm công đức đứa ấy.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Tên này xem ra là một hán tử cứng cỏi. Sư tỉ, theo ý tiểu muội mình nên tha cho hắn.
    Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
    - Hai vị sư huynh phái Thiếu Lâm một chết một bị thương, hai vị đạo trưởng phái Côn Lôn bị thương nặng, hai vị đại ca phái Hải Sa bị thương cũng không nhẹ, chẳng lẽ y hạ thủ không độc ác hay sao? Để ta đâm mù nốt mắt trái y đi, rồi hãy tra hỏi.
    Tiếng “hỏi” vừa dứt, kiếm liền lóe lên đâm luôn vào mắt trái Bành hòa thượng. Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm, nhẹ nhàng khéo léo gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân ra, nói:
    - Sư tỉ, người này dĩ nhiên không còn sức lực chống trả, nếu mình đả thương y, trên giang hồ truyền ra, không khỏi không tốt cho phái Nga Mi chúng ta.
    Đinh Mẫn Quân nhướng lông mày, quát:
    - Đứng tránh ra, đừng xen vào chuyện của ta.
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Vâng.
    Trường kiếm của Đinh Mẫn Quân lại rung động đâm vào mắt trái của Bành hòa thượng, lần này tăng thêm ba phần kình lực. Kỷ Hiểu Phù trong lòng không nỡ, lại đưa kiếm gạt ra. Nàng thấy sư tỉ kiếm thế mạnh mẽ, khi đưa kiếm gạt phải dùng nội lực, hai thanh kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng tóe lửa. Hai người bị chấn động khiến tay tê chồn, phải lùi hai bước. Đinh Mẫn Quân giận quá, quát lên:
    - Ngươi năm lần bảy lượt bảo vệ cho tên yêu tăng ma giáo, chẳng hay có ý gì?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Tiểu muội chỉ muốn sư tỉ đừng hành hạ y, muốn y nói nơi chốn của Bạch Qui Thọ cứ từ từ hỏi được rồi.
    Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
    - Bộ ngươi tưởng ta không biết bụng dạ ngươi hay sao. Ngươi thử hỏi lòng thì biết: “Tại sao Ân lục hiệp của phái Võ Đương mấy lần thúc giục làm đám cưới ngươi cứ việc cớ này cớ nọ, ngay cả cha ngươi hối thúc, ngươi thà bỏ nhà ra đi chứ không nghe?”.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Việc riêng của tiểu muội có liên quan gì đến chuyện này đâu? Tại sao sư tỉ lại giằng hai chuyện làm một?
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Hai đứa mình ai chẳng biết, có điều trước mặt người ngoài không nên vạch áo cho người xem lưng đấy thôi. Ngươi thì thân tại Nga Mi nhưng lòng dạ thì để trong ma giáo.
    Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt, run run nói:
    - Tiểu muội lúc nào cũng kính trọng sư tỉ, không bao giờ dám đắc tội, sao hôm nay sư tỉ lại làm nhục tiểu muội?
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Được rồi, nếu lòng dạ ngươi không phải hướng về ma giáo, thì ngươi thay ta dùng kiếm đâm mù mắt trái y xem nào.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Bản môn từ khi Tiểu Đông Tà Quách tổ sư sáng phái tới nay, đồng môn không xuất gia làm ni cô, hay không chịu lấy chồng thật là nhiều, tiểu muội không muốn xuất giá cũng là chuyện thường. Tại sao sư tỉ cứ nhất định phải ép tiểu muội?
    Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
    - Ta không phải muốn nghe ngươi nói chuyện vờ vĩnh. Ngươi không đâm mù mắt y, ta sẽ nói toạc chuyện của ngươi ra cho mọi người biết đó.
    Kỷ Hiểu Phù dịu dàng nói:
    - Sư tỉ, mong sư tỉ niệm tình đồng môn, đừng bức bách tiểu muội.
    Đinh Mẫn Quân cười đáp:
    - Ta có bắt ngươi làm điều gì khó khăn đâu. Sư phụ sai chúng ta đi nghe ngóng tin tức Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, gã hòa thượng này là đầu mối duy nhất có thể biết được. Y đã không cho biết lại còn sát thương bao nhiêu đồng bạn, ta đâm mù mắt phải của y, ngươi đâm mù mắt trái của y, cái đó cũng phải thôi, vì cớ gì ngươi không chịu xuống tay?
    Kỷ Hiểu Phù hạ giọng:
    - Y đối với chúng ta thủ hạ lưu tình, mình cũng nên nghĩ lại mà không nên đuổi tận giết tuyệt. Tiểu muội lòng dạ mềm yếu, không hạ thủ được.
    Nói rồi nàng tra kiếm vào vỏ. Đinh Mẫn Quân cười nhạt:
    - Ngươi lòng dạ mềm yếu ư? Sư phụ vẫn thường khen ngươi kiếm pháp tàn độc, tính tình cương nghị, rất giống sư phụ, đã có ý truyền y bát cho ngươi, ngươi làm sao lòng dạ mềm yếu được?
    Hai sư tỉ muội đồng môn lời qua tiếng lại, mọi người nghe chẳng hiểu đâu vào đâu, bây giờ nghe nói thế, xem ra Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi rất thương yêu Kỷ Hiểu Phù, đã có ý truyền y bát cho nàng, Đinh Mẫn Quân trong lòng đố kỵ, lần này không biết nắm được cái bí mật gì của sư muội, nên định nói xấu nàng trước mặt mọi người. Trương Vô Kỵ vẫn cảm kích chuyện Kỷ Hiểu Phù đối với mình thân thiết, chăm lo khi trước, nay thấy nàng bị bức bách, chỉ hận không thể nhảy ra cho Đinh Mẫn Quân mấy cái tát tai.
    Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói:
    - Kỷ sư muội, để ta hỏi đây. Hôm đó sư phụ triệu tập tất cả đồng môn đệ tử trên núi Nga Mi truyền thụ hai pho Diệt Kiếm và Tuyệt Kiếm chính lão nhân gia sáng tác, tại sao ngươi không đến? Để cho lão nhân gia phải nổi cơn lôi đình?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Tiểu muội ở Cam Châu đột nhiên bị bệnh, không cử động được. Việc đó tiểu muội đã bẩm rõ sư phụ rồi, sao sư tỉ lại tự nhiên hỏi đến?
    Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
    - Chuyện này ngươi che mắt được sư phụ, nhưng đâu có che mắt được ta. Ta còn một câu hỏi, nếu ngươi chịu đâm mù mắt gã hòa thượng kia thì ta không truy vấn nữa.
    Kỷ Hiểu Phù cúi đầu không trả lời, trong lòng dường như có điều khó nghĩ, nói nhỏ:
    - Sư tỉ không còn nghĩ gì đến tình nghĩa đồng môn đồng học nữa ư?
    Đinh Mẫn Quân hỏi:
    - Ngươi đâm hay không đâm?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Sư tỉ cứ yên tâm, sư phụ nếu muốn truyền y bát cho, tiểu muội cũng nhất định không dám nhận đâu.
    Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
    - Giỏi nhỉ. Ngươi nói như thế, chẳng hóa ra ta vì ghen tức với ngươi sao? Ta có điểm nào không bằng ngươi mà phải vị tình, mà phải để ngươi nhường cho? Ngươi có đâm hay không thì bảo?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Tiểu muội có làm gì sai quấy, nếu sư tỉ muốn trách phạt, tiểu muội đâu có dám không tuân theo? Ở đây có các bằng hữu môn phái khác, nếu sư tỉ bức bách … Nói đến đây nàng sụt sùi rơi lệ.
    Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
    - Hừ, ngươi đừng giả vờ làm như đáng thương lắm đấy, trong bụng không biết đang rủa thầm ta những gì. Năm đó ngươi ở Cam Châu, không nhớ ba năm hay bốn năm trước nhỉ, ta nhớ không rõ lắm, chỉ có ngươi mới nhớ được thôi. Lúc đó có thực ngươi sinh bệnh không? Sinh thì có sinh, nhưng là sinh con thì có.
    Kỷ Hiểu Phù nghe nói thế, lập tức xoay mình chạy đi. Đinh Mẫn Quân đã đoán trước nàng sẽ đào tẩu, phi thân lên trước, giơ trường kiếm ra cản ngay trước mặt, nói:
    - Ta khuyên ngươi mau đâm mù mắt Bành hòa thượng đi, nếu không ta sẽ hỏi cha của đứa bé đó là ai? Sẽ hỏi tại sao ngươi là đệ tử danh môn chính phái mà lại đi che chở cho yêu tăng của ma giáo?
    Kỷ Hiểu Phù ấp úng nói:
    - Chị … chị để tôi đi.
    Đinh Mẫn Quân chỉ trường kiếm vào ngực nàng, lớn tiếng:
    - Ta hỏi ngươi, ngươi nuôi đứa nhỏ đó ở đâu? Ngươi là vị hôn thê của Ân Lê Đình Ân lục hiệp của phái Võ Đương, sao lại sinh con với người khác?
    Câu nói trắng trợn đó vào tai mọi người ai nấy đều giật mình. Trương Vô Kỵ trong lòng hoang mang: “Kỷ cô nương là người tốt sao lại đối xử không phải với Ân lục thúc như thế?”. Y đối với việc trai gái dĩ nhiên chưa hiểu biết, nhưng Thường Ngộ Xuân, Bành hòa thượng, đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn mọi người, ai ai cũng đều kinh ngạc.
    Kỷ Hiểu Phù mặt nhợt nhạt, chạy lao về phía trước. Đinh Mẫn Quân đột nhiên hạ sát thủ, đâm tới một kiếm lút vào vai bên phải của sư muội tới tận xương. Kỷ Hiểu Phù bị thương không phải nhẹ, cũng không nhịn nữa, tay trái rút kiếm, nói:
    - Sư tỉ, chị đã khăng khăng làm khó, tiểu muội không thể nể nang được nữa.
    Đinh Mẫn Quân biết rằng hôm nay đã làm cho sư muội mất mặt, nói toạc chuyện bí mật của nàng ra rồi, ắt sẽ giết mình để bịt miệng. Võ công y thị không bằng Kỷ Hiểu Phù, thể nào cũng đánh thí mạng, sự việc thật là nguy hiểm, thành thử thừa cơ đâm trước một kiếm vào vai bên phải. Nghe nàng nói thế, Đinh Mẫn Quân lập tức sử chiêu Nguyệt Lạc Tây Sơn, đâm thẳng vào bụng dưới của sư muội. Kỷ Hiểu Phù vai phải đau đớn, thấy sư tỉ sử chiêu thứ hai không chút dung tình, lập tức dùng tay trái trả lại một chiêu.
    Hai chị em đều biết rõ kiếm pháp của nhau, thế công thế thủ tuy rất nghiêm nhặt nhưng cũng rất kịch liệt. Những người khác ai nấy đều bị trọng thương, không cách nào khuyên giải, cũng không giúp bên nào được, chỉ còn cách giương mắt nhìn, trong lòng không khỏi ngầm bội phục: “Phái Nga Mi là một trong bốn đại môn phái hiện nay, kiếm thuật quả nhiên cao minh, danh bất hư truyền”.
    Vết thương trên vai Kỷ Hiểu Phù xuất huyết không ngừng, càng đấu máu chảy càng nhiều, nàng phải luôn luôn sử sát chiêu mong đẩy được Đinh Mẫn Quân giãn ra, để có đường bỏ chạy. Thế nhưng nàng dùng tay trái sử kiếm nên không mấy thành thục, lại thụ thương nên võ công chỉ còn độ ba phần. Thế nhưng Đinh Mẫn Quân vốn dĩ rất ngại người sư muội này, không dám tiến vào thật gần, chỉ cố đánh dây dưa chờ nàng chảy máu nhiều tự nhiên sẽ suy kiệt. Kỷ Hiểu Phù cước bộ chậm dần, kiếm pháp bắt đầu tán loạn, xem ra không còn chịu nổi nữa. Đinh Mẫn Quân lại đâm soẹt soẹt hai cái trúng đầu vai phải của Kỷ Hiểu Phù, khiến cho một nửa người nàng dính đầy máu tươi.
    Bành hòa thượng đột nhiên cao giọng:
    - Kỷ cô nương, cô lại đâm mắt trái tôi đi, Bành hòa thượng này đối với cô cảm kích không cùng.
    Y nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù cam chịu hi sinh tính mạng bảo vệ cho mình đã là chuyện khó, huống chi Đinh Mẫn Quân lại còn đem thanh danh trinh bạch ra uy hiếp, đối với đàn bà còn nặng hơn cái chết nhiều. Thế nhưng lúc này dù Kỷ Hiểu Phù có đến đâm mù mắt Bành hòa thượng thì Đinh Mẫn Quân cũng không bỏ qua, y thị biết nếu hôm nay không thừa cơ hạ thủ trừ khử người sư muội này, ngày sau họa hoạn không biết đâu mà lường được.
    Bành hòa thượng thấy Đinh Mẫn Quân kiếm chiêu độc ác, liền lớn tiếng chửi:
    - Đinh Mẫn Quân, ngươi thực là mặt dầy. Thảo nào trên giang hồ gọi ngươi là Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân cũng phải. Ngươi bụng dạ như rắn rết, mặt mày xấu hơn cả Chung Vô Diệm. Nếu trên đời này đàn bà con gái ai ai cũng xấu như ngươi, khiến cho vừa gặp đã buồn mửa, đàn ông con trai chắc đi tu hết. Nếu như Độc Thủ Vô Diệm mà đứng ở trước mặt, Bành hòa thượng này đã đi tu rồi xem ra cũng chưa đủ, nếu mù thêm cả hai mắt mới thật là sướng.
    Thực ra Đinh Mẫn Quân tuy không phải là một mỹ nhân nhưng cũng có đôi chút nhan sắc, mặt mũi dễ nhìn không đến nỗi nào. Bành hòa thượng hiểu rõ tâm lý, biết trên đời này người con gái nào dù xấu hay đẹp đều ghét kẻ chê mình khó coi, nếu bị ai chê thể nào cũng căm giận thấu xương. Y thấy tình thế nguy cấp, liền thuận mồm nói lăng nhăng, ban cho nàng ta cái tên Độc Thủ Vô Diệm, mong y thị nổi cơn tam bành lục tặc lên, quay qua đối phó với mình, Kỷ Hiểu Phù sẽ thừa cơ thoát thân, hay ít nhất cũng tìm cách buộc vết thương lại.
    Thế nhưng Đinh Mẫn Quân đã định sẽ giết cho bằng được Kỷ Hiểu Phù, có còn sợ Bành hòa thượng chạy đi đâu được nữa, nên những lời nhục mạ của y chỉ để ngoài tai.
    Bành hòa thượng lại lớn tiếng nói:
    - Kỷ nữ hiệp băng thanh ngọc khiết, trên chốn giang hồ có ai không nghe, không biết? Thế nhưng con mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân kia vốn dĩ lẳng lơ, toan tính mồi chài Ân Lê Đình của phái Võ Đương. Ân Lê Đình đâu thèm ngó ngàng gì tới, mụ mới tính đường gia hại Kỷ nữ hiệp. Hà hà, ngươi gò má cao nghệu, mồm rộng đến mang tai, nước da đen như ma lem, thân hình gầy như que củi, kẻ anh tuấn tiêu sái như Ân lục hiệp đời nào thèm ngó tới. Sao ngươi không soi gương cho thấy cái bản mặt, lại năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình … Đinh Mẫn Quân nghe tới đây giận muốn điên người, nhảy một cái tới trước Bành hòa thượng, giơ kiếm đâm thẳng vào miệng y. Đinh Mẫn Quân quyền cốt quả có hơi cao, miệng thì không phải loại nhỏ như trái anh đào, nước da cũng không trắng nõn, thân thể bẩm sinh cao dong dỏng, vẫn thấy quả mình có đôi điểm không được vừa ý cho lắm. Thế nhưng người ngoài nếu không để ý kỹ cũng chẳng ai nhìn ra. Nào ngờ Bành hòa thượng mục quang sắc bén, không những đã nhận được lại còn thêm dầu thêm mỡ, một nói thành mười, khiến thị không nổi giận sao được?
    Hơn nữa y thị chưa gặp Ân Lê Đình bao giờ, cái chuyện “năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình” gì gì đó làm sao có thể? Kiếm của y thị vừa đâm tới, từ trong rừng đột nhiên một người phóng ra, quát lên một tiếng, chặn ngay trước mặt Bành hòa thượng. Người đó thân pháp cực nhanh, Đinh Mẫn Quân không kịp thu chiêu, trường kiếm vẫn còn đâm tới. Người này so với Bành hòa thượng thấp hơn đến nửa cái đầu, thanh kiếm đâm luôn vào trán y.
    Cũng ngay trong giờ khắc như một ánh chớp lòe ấy, người nọ múa chưởng đánh ra, trúng ngay ngực Đinh Mẫn Quân, nghe bình một tiếng, y thị văng xa mấy bước, ngã lăn ra, hộc máu mồm, còn thanh trường kiếm vẫn cắm vào trán người nọ, xem ra y không sống được nữa rồi.
    Đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn đi tới mấy bước, kinh hoảng kêu lên:
    - Bạch Qui Thọ! Bạch Qui Thọ!
    Nói xong hai gối y nhũn xuống, ngồi bệt xuống đất. Thì ra người nhảy ra chịu thay cho Bành hòa thượng nhát kiếm đó, chính là Huyền Võ Đàn đàn chủ Bạch Qui Thọ của Thiên Ưng giáo. Y bị trọng thương rồi, nghe tin Bành hòa thượng vì che dấu cho mình nên bị hảo thủ các phái Thiếu Lâm, Côn Lôn, Nga Mi, Hải Sa vây đánh, nên cố hết sức kiếm tới nơi. Y chưởng lực hùng hậu, lúc sắp chết đánh ra khiến Đinh Mẫn Quân bị gãy mấy rẻ xương sườn.
    Kỷ Hiểu Phù kinh hoàng cố gắng trấn định, xé vạt áo buộc vết thương trên vai, đưa tay giải những huyệt đạo bị điểm ở hông Bành Oánh Ngọc, không nói một lời, quay mình đi thẳng. Bành hòa thượng nói:
    - Kỷ cô nương, xin dừng bước để Bành Oánh Ngọc này lạy cô một lạy.
    Nói xong quì xuống hành lễ. Kỷ Hiểu Phù né qua một bên không nhận đại lễ của ông ta. Bành hòa thượng nhặt trường kiếm của đạo sĩ râu dài lên, nói:
    - Mụ Đinh Mẫn Quân này nói năng láo lếu, hủy báng thanh danh của cô nương, không nên để cho y thị sống.
    Nói xong đưa kiếm lên nhắm yết hầu cô ta đâm tới. Kỷ Hiểu Phù tay trái giơ kiếm gạt ra nói:
    - Y là đồng môn sư tỉ của tôi, tuy y thị đối với tôi vô tình, nhưng tôi không thể là kẻ vô nghĩa.
    Bành hòa thượng nói:
    - Sự đã đến thế này, nếu không giết y thị, người đàn bà này về sau sẽ rất bất lợi cho cô.
    Kỷ Hiểu Phù rơi lệ đáp:
    - Tôi là người con gái thật là xui xẻo, thiếu may mắn, nhưng số mệnh sao thì chịu vậy. Bành đại sư, ông đừng giết sư tỉ của tôi.
    Bành hòa thượng đáp:
    - Kỷ nữ hiệp đã bảo như thế, đâu dám không tuân theo.
    Kỷ Hiểu Phù quay qua nói với Đinh Mẫn Quân:
    - Sư tỉ, chị tự bảo trọng lấy thân.
    Nói xong tra kiếm vào vỏ, đi ra khỏi rừng. Bành hòa thượng nói với năm người bị trọng thương nằm dưới đất:
    - Bành hòa thượng ta với các ngươi nguyên không có oán cừu gì ghê gớm, vốn không cần giết các ngươi làm gì. Thế nhưng hôm nay những gì mụ họ Đinh này vu miệt Kỷ nữ hiệp, tất cả đều nghe vào tai, nếu như truyền ra giang hồ, Kỷ nữ hiệp còn sao là người được nữa? Ta bất đắc dĩ không thể để một ai sống sót, bọn ngươi cũng đừng trách ta.
    Nói xong mỗi người một nhát kiếm, giết hai đạo nhân của phái Côn Lôn, nhà sư phái Thiếu Lâm, hai hảo thủ của phái Hải Sa rồi tới rạch một đường vào vai Đinh Mẫn Quân. Đinh Mẫn Quân sợ đến mất cả hồn vía, nhưng bị trọng thương rồi, không còn cách gì kháng cự, chửi:
    - Thằng giặc trọc, ngươi đừng giở trò hành hạ, mau đâm ta một kiếm chết cho xong.
    Bành hòa thượng cười đáp:
    - Đàn bà xấu xa, mồm rộng da vàng như ngươi, ta đâu có dám giết. Chỉ sợ ngươi vào địa ngục rồi, khiến cho hàng nghìn hàng vạn ác quỉ dưới âm sợ quá chạy cả lên trần, Diêm vương phán quan thượng thổ hạ tả, không phải tội nghiệt sao?
    Nói xong cười lên ba tiếng, ném trường kiếm, ôm thi thể Bạch Qui Thọ, lại khóc ba tiếng rồi bỏ đi.
    Trận đấu trong rừng kinh tâm động phách đêm hôm đó, Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ hai người chứng kiến từ đầu đến cuối, nghe rõ từng lời, đến khi Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở ra. Trương Vô Kỵ nói:
    - Thường đại ca, Kỷ cô nương là vợ chưa cưới của Ân lục thúc tôi, cái bà họ Đinh kia lại nói … nói cô ấy có con với người khác, đại ca nghĩ cái đó thật hay giả?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Con mụ đó nói năng quấy quá, đừng tin làm gì.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói với Ân lục thúc dạy cho mụ một trận, để cho Kỷ cô nương khỏi bực mình.
    Thường Ngộ Xuân vội đáp:
    - Đừng, đừng, nhất định không nên nói cho Ân lục thúc của ngươi biết chuyện này, hiểu chưa? Ngươi nói ra là hỏng việc hết đấy.
    Trương Vô Kỵ lạ lùng:
    - Sao thế?
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thì những ngôn ngữ khó nghe như thế, ngươi chẳng nên nói cho ai cả.
    Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, một hồi sau mới hỏi lại:
    - Thường đại ca, có phải đại ca sợ rằng việc này có thật, đúng không?
    Thường Ngộ Xuân thở dài:
    - Quả thật ta cũng không biết nữa.
    Đến khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi đã nửa đêm, tinh thần khôi phục, bước đi nhanh nhẹn hơn nhiều. Đi được vài dặm, chuyển qua một con đường lớn. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Hồ sư bá ẩn cư Hồ Điệp Cốc là nơi thật hoang tịch, sao lại có đường lớn đi tới là sao? Hay mình đi nhầm đường rồi?” Y đang định tìm người dân vùng này hỏi thăm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, bốn tên lính Mông Cổ tay múa trường đao phi ngựa đến, kêu lớn:
    - Mau lên, mau lên!
    Đi đến sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua y đi về phía trước. Thường Ngộ Xuân kêu khổ thầm” Không ngờ hôm nay thân vào miệng cọp, lại còn chết thêm cái mạng của Trương huynh đệ nữa”.
    Lúc này y võ công mất hết, dù một tên lính tầm thường cũng không đánh nổi, đành lết từng bước đi tới. Chỉ thấy trên đường bách tính lục tục kéo ra, tất cả đều bị quân Nguyên dồn như súc vật. Thường Ngộ Xuân bụng nghĩ thầm “Thì ra Thát tử đang lùa dân chứ không phải định bắt ta may ra mình còn có đường sống”. Y bèn đi theo đoàn người, đến một ngã ba, thấy một tên quân quan Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa, chỉ huy sáu bảy chục tên lính, người nào cũng cầm đại đao. Người dân đi ngang qua đầu ngựa, ai ai cũng quì xuống khấu đầu. Một tên người Hán thông dịch hỏi:
    - Họ gì?
    Người đó đáp xong, tên Nguyên binh bên cạnh thuận chân liền đá vào mông một cái, có khi thì một cái bạt tai, người dân liền vội vàng chạy đi. Gặp một người dân nói họ Trương, tên lính Mông Cổ liền giữ lại, bắt y đứng qua một bên. Có người dân khám trong giỏ thấy có một chiếc dao cắt rau mới mua ở chợ, tên Nguyên binh cũng bắt đứng qua một bên.
    Trương Vô Kỵ xem thấy tình thế không ổn, ghé vào tai Thường Ngộ Xuân nói nhỏ:
    - Thường đại ca, đại ca giả vờ vấp ngã lăn qua một bên chui vào đám cỏ cởi bỏ chiếc đao đi.
    Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khụy xuống, lăn luôn vào trong đám cỏ dày, cởi bội đao ra, giả đò suýt soa, khập khiễng đi đến trước tên quan quân. Tên Hán nhân thông dịch chửi:
    - Đồ mọi, không biết qui củ gì hết, thấy quan lớn sao không khấu đầu?
    Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của cố chủ Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ giết, lúc này thà chết chứ không chịu lạy tên Thát tử. Một tên Nguyên binh thấy chàng cứng đầu, liền quét vào khoeo chân, Thường Ngộ Xuân đứng không vững liền phải quị xuống. Tên thông dịch người Hán quát hỏi:
    - Họ gì?
    Thường Ngộ Xuân chưa kịp hồi đáp, Trương Vô Kỵ nói thay:
    - Họ Tạ, đây là anh tôi.
    Tên lính Nguyên giơ chân đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, nói:
    - Cút mau.
    Thường Ngộ Xuân tức giận vô cùng, đứng dậy, ngấm ngầm lập một trọng thệ: “ Trong đời ta nếu không đuổi được bọn Thát tử ra ngoài sa mạc, Thường Ngộ Xuân này không kể là người”. Chàng cõng Trương Vô Kỵ lên, hối hả đi về hướng bắc, chỉ mới được vài chục bước nghe tiếng người kêu la thảm thiết, hai người quay đầu lại, thấy hơn chục người dân bị bắt đứng qua một bên đã đầu một nơi, thân một nẻo nằm chết trên mặt đất.
    Thì ra thời đó chính sách bạo ngược, dân chúng nổi lên thật nhiều, đại thần Mông Cổ có ý giết sạch người Hán, nhưng giết sao cho xuể. Thái sư Ba Diên[6] lại ra một pháp lệnh rất tàn ác, giết tất cả những người Hán nào mang các họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Trung Hoa bốn họ Trương, Vương, Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc Tống triều. Nếu bốn họ đó giết hết rồi, nguyên khí người Hán ắt tổn thất nặng nề.
    Về sau những người trong các họ đó hàng Nguyên làm quan cũng rất đông, có đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh đồ sát quái gở đó, nhưng dân đen chết vì lệnh dụ này cũng không biết bao nhiêu mà kể.
    Thường Ngộ Xuân đi nhanh hơn, đến những vùng hoang vắng, biết rằng Hồ Thanh Ngưu ẩn cư chắc ở đâu đó, chỉ cần kiên nhẫn tìm kiếm. Trên đường đi hoa cỏ rực rỡ đủ màu, khắp núi rừng chỗ nào cũng toàn là hoa, nắng xuân nhấp nhô nhưng nghĩ đến thảm trạng vừa qua còn lòng dạ nào mà thưởng ngoạn. Đi qua mấy chỗ quẹo, thấy trước mặt là một vách núi, đường đã hết rồi.
    Chính khi còn đang ngơ ngác chưa biết đâu, bỗng thấy mấy con bướm từ trong những khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói:
    - Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp Cốc thì mình cứ đi theo những con bướm này xem sao.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Tốt lắm.
    Y liền đi vào trong khu rừng hoa. Đi khỏi rừng hoa, trước mặt là một con đường mòn. Thường Ngộ Xuân đi thêm một quãng thấy mỗi lúc bướm một nhiều, có con trắng có con vàng, con đen con tím dập dìu. Bướm cũng không sợ, đến gần đậu cả lên đầu, trên vai, trên tay hai người. Hai người biết đã đến Hồ Điệp Cốc nên đều thấy phấn khởi. Trương Vô Kỵ nói:
    - Để tiểu đệ đi chầm chậm được rồi.
    Thường Ngộ Xuân bèn bỏ y xuống đất. Đi đến quá ngọ, thấy có một giòng suối chảy lượn quanh sáu, bảy gian nhà tranh, trước sau mỗi gian nhà đều có vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Đến rồi, đây hẳn là vườn thuốc của Hồ sư bá.
    Y đến trước những căn nhà tranh, cung kính lớn tiếng gọi:
    - Đệ tử Thường Ngộ Xuân khấu kiến Hồ sư bá.
    Một lúc sau, trong nhà đi ra một tiểu đồng, nói:
    - Mời vào.
    Thường Ngộ Xuân liền dắt tay Trương Vô Kỵ đi vào trong nhà, thấy một người tuổi trạc trung niên, thần thanh cốt tú, chăm chú xem một đồng nhi khác quạt lò đun thuốc, trong nhà đầy mùi dược thảo. Thường Ngộ Xuân quì xuống khấu đầu, nói:
    - Hồ sư bá mạnh khỏe chứ.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, người này chắc hẳn phải là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu nên cũng hành lễ chào một câu:
    - Hồ tiên sinh.
    Hồ Thanh Ngưu nhìn Thường Ngộ Xuân gật đầu, nói:
    - Việc của Chu Tử Vượng ta cũng đã có biết. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bản giáo chưa đến thời kỳ quang đại.
    Ông ta đưa tay cầm mạch trên cổ tay Thường Ngộ Xuân, cởi áo ra nhìn vết thương trên ngực, nói:
    - Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng của phiên tăng, đúng ra thì cũng không sao cả, nhưng vì sau khi trúng chưởng rồi sử lực quá nhiều, hàn độc công tâm, trị cho khỏi cũng mất khá nhiều công phu.
    Chỉ vào Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Còn thằng bé này là ai?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, là con trai của Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương.
    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ giận dữ, nói; - Người của phái Võ Đương ư? Ngươi đem y đến đây làm gì?
    Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y bảo vệ con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt, Trương Tam Phong giải cứu thế nào nói cho Hồ Thanh Ngưu nghe, sau cùng kết luận:
    - Đệ tử được thái sư phụ của y cứu mạng, cầu khẩn sư bá phá lệ, cứu y một lần.
    Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp:
    - Ngươi khẳng khái nhỉ, biết báo đáp ân tình. Hừ, thế nhưng Trương Tam Phong cứu ngươi chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?
    Thường Ngộ Xuân quì xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói:
    - Sư bá, cha của tiểu huynh đệ này vì không chịu bán rẻ bạn bè, cam nguyện tự vẫn, là một hảo hán tử tiếng tăm lừng lẫy.
    Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
    - Hảo hán tử? Trong thiên hạ biết bao nhiêu là hảo hán tử, ta trị được bao nhiêu người? Y chẳng phải là người của phái Võ Đương ư? Là người danh môn chính phái sao còn kẻ tà giáo ngoại đạo như ta chữa trị?
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Mẫu thân của Trương huynh đệ là con gái của Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bản giáo.
    Hồ Thanh Ngưu nghe đến đây, lòng thấy dịu lại, gật đầu:
    - Thôi, ngươi đứng dậy. Nếu y là cháu ngoại của Ân Bạch Mi Thiên Ưng giáo thì lại khác.
    Y đến trước mặt Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:
    - Này cháu, ta từ trước đến nay có qui củ, quyết không chữa trị cho người xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Nếu mẹ cháu là người trong bản giáo, trị thương cho cháu không phải là phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại pháp vương của Minh giáo, sau này y sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với anh em, chứ không phải vỉ phản lại Minh giáo, có thể coi như một chi phái của Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi ta chữa cháu khỏi rồi, cháu phải quay về với ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, từ nay không còn là đệ tử của phái Võ Đương nữa.
    Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói:
    - Sư bá, chuyện đó không được. Trương Tam Phong Trương chân nhân đã nói từ trước với đệ tử rằng: “Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa nó khỏi bệnh, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu”.
    Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, nổi giận, gay gắt nói:
    - Hừ, Trương Tam Phong là cái gì? Y coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì y mà xuất lực? Này cháu, trong lòng cháu quyết định thế nào?
    Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan ra khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể rồi, dù nội lực thâm hậu như thái sư phụ, cũng đành bó tay, mình có sống được hay không, toàn do vị thần y này chịu hay không chịu chữa. Thế nhưng thái sư phụ lúc chia tay dã từng thiết tha nhắn nhủ, quyết chớ nên hãm thân ma giáo, để rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết ma giáo xấu xa đến chừng nào, vì sao mỗi lần nhắc đến thái sư phụ và các sư bá sư thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng y đối với thái sư phụ sùng kính vô tỉ, tin tưởng chắc chắn là ông nói gì quyết không sai, nghĩ thầm: “Thà rằng để ông ta không chịu chữa, hàn độc phát tác chết đi còn hơn vi bội lời giáo huấn của thái sư phụ”. Y lớn tiếng nói:
    - Hồ tiên sinh, mẹ cháu là đường chủ của Thiên Ưng giáo, cháu tin rằng Thiên Ưng giáo chắc phải tốt đẹp. Thế nhưng thái sư phụ đã từng dặn cháu rằng quyết không thể gia nhập ma giáo, cháu đã bằng lòng, không lẽ nói mà không giữ lời? Nếu tiên sinh không trị thương cho cháu, thì cũng đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng theo lời của tiên sinh, thì dù có trị lành cho cháu, thì trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín bất nghĩa, có ích lợi gì?
    Hồ Thanh Ngưu trong bụng cười khẩy: “Thằng nhãi này to mồm khoác lác, làm ra vẻ anh hùng hảo hán, để ta không trị cho ngươi, xem ngươi có quì xuống cầu khẩn hay không?”. Quay qua Thường Ngộ Xuân nói:
    - Y đã quyết ý không gia nhập bản giáo, Ngộ Xuân, ngươi bảo y đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu đời nào có người chết vì bệnh bao giờ?
    Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính tình chấp nê dị thường, nói một là một, ông ta đã không chịu chữa rồi, có cầu cũng vô ích bèn quay qua Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không chung đường lối với các nhân vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay, đời nào cũng có anh hùng hảo hán. Huống chi ông ngoại ngươi là giáo chủ Thiên Ưng giáo, mẹ ngươi là đường chủ Thiên Ưng giáo, ngươi chịu nghe lời Hồ sư bá, sau này Trương chân nhân có hỏi thì ta chịu hết cho.
    Trương Vô Kỵ đứng thẳng dậy, nói:
    - Thường đại ca, đại ca như vậy là đã hết lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ không trách gì đại ca đâu.
    Nói xong ngang nhiên đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng, vội hỏi:
    - Ngươi đi đâu đó?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu tôi chết ở Hồ Điệp Cốc, e rằng sẽ làm hỏng mất cái tên “Điệp Cốc Y Tiên”.
    Y nói xong xăm xăm đi ra khỏi căn nhà tranh. Hồ Thanh Ngưu cười nhạt nói:
    - Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu đã nổi tiếng trong thiên hạ, chết ở bên ngoài cái “Chuồng Bò[7]” trong Hồ Điệp Cốc, đâu phải chỉ một mình thằng bé này.
    Thường Ngộ Xuân chẳng nghe ông ta nói thêm, vội chạy ra đuổi theo Trương Vô Kỵ, bế xốc thằng bé vào, thở hổn hển nói:
    - Hồ sư bá, sư bá nhất định không cứu y, phải không?
    Hồ Thanh Ngưu cười đáp:
    - Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, bộ ngươi chưa biết hay sao mà còn hỏi.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá sẽ chữa phải không?
    Hồ Thanh Ngưu đáp:
    - Đúng vậy.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Được, đệ tử đã nhận lời với Trương chân nhân là sẽ chữa cho chú em này, không thể nào để cho người trong chính phái nói là đệ tử Minh giáo nói không giữ lời. Đệ tử không cầu sư bá trị bệnh, sư bá trị cho vị huynh đệ này đi. Một mạng đổi một mạng, sư bá cũng không phải thiệt thòi.
    Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt đáp:
    - Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng, thương thế không phải nhẹ. Nếu như ta lập tức trị cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Qua bảy ngày thì chỉ mong sống được nhưng võ công từ rày sẽ không bảo toàn. Mười bốn ngày sau nếu không có lương y trị cho, thương thế phát ra thì hết cứu.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử chết cũng không oán giận.
    Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Ta không cần ông cứu, không cần ông cứu.
    Y quay đầu qua Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương Vô Kỵ này là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của mình đánh đổi tính mạng của tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống thì đời cũng có gì thú vị nữa đâu.
    Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi nên cởi thắt lưng, trói chặt thằng nhỏ vào trên ghế. Trương Vô Kỵ vội nói:
    - Đại ca không thả ta ra, ta sẽ chửi cho mà xem.
    Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, y liền chửi lớn:
    - Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu, thật đúng là ngu như bò, không bằng con vật.
    Hồ Thanh Ngưu thấy y chửi bậy bạ cũng không nổi giận, chỉ lạnh lùng nhìn y. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ. Ta đi tìm thầy chữa thuốc.
    Hồ Thanh Ngưu cười nhạt:
    - Trong tỉnh An Huy này không có thầy lang nào cho ra hồn cả, trong bảy ngày ngươi chưa ra khỏi cảnh giới của tỉnh An Huy.
    Thường Ngộ Xuân ha hả cười:
    - Có sư bá thấy chết không cứu, thì cũng có sư điệt đáng sống không chết.
    Nói xong hùng dũng đi ra cửa. Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
    - Ngươi bảo một mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Cả hai ta đều không cứu.
    Tiện tay y nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, nghe vù một tiếng, ném ra, trúng ngay huyệt đạo ở khoeo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không đứng dậy được.
    Hồ Thanh Ngưu đến gần cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay thằng nhỏ, định vứt nó ra ngoài để cho hai người sống chết mặc bay. Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Ngươi làm gì thế?
    Hàn độc xông lên đầu não, lập tức bất tỉnh nhân sự.
   

- o O o -

    [1] Lên tiếng ủng hộ [2] Xem thêm Minh giáo, khảo luận của người dịch [3] Thung lũng có nhiều bướm [4] Hoàn là tên đất ngày xưa, nay thuộc tỉnh An Huy, có con sông Dương Tử (Trường giang) chảy qua chia thành mạn bắc (Hoàn Bắc) và mạn nam (Hoàn Nam) [5] ám khí hình đuôi con rết [6] Bayan, thái sư trong khoảng 1328-1340 [7] Thanh Ngưu là con bò đen nên ông ta ví nhà của mình là cái chuồng bò
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:49:01 | Chỉ xem của tác giả
CHÂM KỲ CAO HỀ DƯỢC KỲ HOANG

    đây nhưng nghiệp chưa tròn, Hoa Đà, Biển Thước cũng còn bó tay.

    Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ, thấy mạch của thằng nhỏ đập rất lạ lùng, không khỏi kinh hãi, vội ngưng thần xem xét, nghĩ thầm: “Hàn độc thằng bé này bị trúng thật là cổ quái, không lẽ Huyền Minh thần chưởng chăng? Chưởng pháp này thất truyền đã lâu, trên đời này đâu còn ai biết sử dụng”. Lại nghĩ tiếp: “Nếu không phải là Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác cả. Y trúng phải chưởng lực cũng đã lâu, sao vẫn chưa chết, cũng thật lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng nội lực thâm hậu của mình giúp nó sống lây lất, đến bây giờ âm độc đã lan vào khắp lục phủ ngũ tạng, bám sâu ở trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu nó sống được thôi”.
    Nghĩ vậy y bỏ Trương Vô Kỵ trở lại trên ghế. Qua một lúc sau, Trương Vô Kỵ từ từ tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò nấu thuốc, xuất thần suy nghĩ, còn Thường Ngộ Xuân vẫn còn nằm ở bãi cỏ trước nhà. Ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai nói một câu nào.
    Hồ Thanh Ngưu cả đời mê say nghề thuốc, những chứng bệnh khó khăn tưởng như bó tay đến y đều chữa khỏi, nên mới được cái danh hiệu Y Tiên. Chữa bệnh mà được chữ tiên có nghĩa là kỹ thuật thần kỳ lắm, không phải người thường. Thế nhưng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng, y trong đời chưa từng gặp qua, mà trúng rồi lại dây dưa mấy năm không chết đến khi hàn độc lan vào lục phủ ngũ tạng thì lại càng không thể có được. Y đã định không chữa cho Trương Vô Kỵ, nhưng khi gặp được cái chứng quái lạ, cả đời chưa chắc gặp này, có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi mùi thịt, làm sao bỏ cho nổi?
    Nghĩ ngợi một hồi lâu, sau cùng y nghĩ ra một cách: “Ta cứ chữa cho nó khỏi đã, sau đó sẽ giết nó đi”. Thế nhưng muốn đuổi được hết âm độc trong ngũ tạng lục phủ ra, đâu phải dễ dàng. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ mấy tiếng đồng hồ, lấy ra mười hai miếng đồng nhỏ, vận nội lực cắm vào các huyệt Trung Cực ở dưới đan điền, Thiên Đột ở dưới cổ, Kiên Tỉnh ở trên vai … tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là điểm tụ hội của Túc Tam Âm và Nhâm Mạch. Thiên Đột thì là chổ gặp nhau của Âm Duy và Nhâm Mạch, còn Kiên Tỉnh thì là điểm hội tụ của Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, Dương Duy. Mười hai miếng đồng đó cắm xuống rồi, mười hai kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch liền bị phân cách ra.
    Trong cơ thể con người tâm, phế, tì, can, thận là ngũ tạng, thêm tâm bao sáu bộ phận đó thuộc âm; vị, đại trường, tiểu trường, đảm, bàng quang, tam tiêu là lục phủ, sáu bộ phận đó thuộc dương[1]. Ngũ tạng lục phủ cộng thêm tâm bao gọi là thập nhị kinh thường mạch. Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều tám mạch không thuộc các mạch chính kinh âm dương, không phối hợp biểu lý, đi theo những đường riêng, gọi là kỳ kinh bát mạch.
    Sau khi các thường mạch và kỳ kinh trên thân thể Vô Kỵ cách biệt ra rồi, âm độc trong ngũ tạng lục phủ không còn thông được với nhau, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ[2] hai huyệt Vân Môn, Trung Phủ trên đầu vai, sau đó lại hơ các huyệt Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương từ cánh tay xuống đến ngón tay cái, mười một huyệt đó thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh cốt để tiêu giảm âm độc trong phổi của Vô Kỵ. Cách đó lấy nhiệt công hàn, khổ sở mà Trương Vô Kỵ phải chịu cũng chẳng kém gì lúc âm độc phát tác. Cứu xong Thủ Thái Âm Phế Kinh, tiếp đến Túc Dương Minh Vị Kinh, Thủ Quyết Âm Tâm Bao Kinh … Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng cần để ý đến Trương Vô Kỵ có đau hay không, ông ta dùng ngải hơ đến nỗi toàn thân thằng bé chỗ nào cũng đen xì. Trương Vô Kỵ không tỏ ra yếu hèn, nghĩ thầm: “Chắc ngươi tưởng ta sẽ rên rỉ kêu la, ta nhất định không thèm xuýt xoa lấy một tiếng”. Y tiếp tục nói chuyện với Hồ Thanh Ngưu về phương vị các huyệt đạo. Tuy y không thông y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn đã từng truyền dạy phép điểm huyệt, giải huyệt, và thuật chuyển dịch huyệt đạo. Thành thử, các vị trí huyệt đạo y cũng rất tỏ tường. So với vị đương thế thần y này, kiến thức của Vô Kỵ về kinh mạch thật là thô thiển, nhưng có liên quan tới y lý chính là ngành mà Hồ Thanh Ngưu rất tâm đắc. Hồ Thanh Ngưu một mặt cứu ngải để rút chất độc trong cơ thể y ra, một mặt giảng giải thao thao bất tuyệt.
    Trương Vô Kỵ nghe vào tai, mười phần thì chín phần chẳng hiểu chi cả, nhưng không dám để lộ là “Phái Võ Đương chúng tôi chẳng biết gì cả”, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, cùng ông ta biện luận một hồi. Hồ Thanh Ngưu lại càng xiển thuật, đến khi biết ra “thằng nhãi này thực ra có biết gì đâu, chỉ nói năng lăng nhăng” thì cũng đã mất bao nhiêu là nước bọt. Thế nhưng ở chỗ thâm sơn cùng cốc như thế này, trừ vài đứa tiểu đồng nấu cơm, đun thuốc có ai bạn bè đâu, hôm nay có thằng bé này, cùng y nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thích thú.
    Đến khi hơ hết mấy trăm huyệt trên mười hai thường mạch thì trời đã xế chiều. Tiểu đồng dọn cơm lên để trên bàn, lại đem một mâm cơm và rau đưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân ăn. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài. Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu khẩn Hồ Thanh Ngưu, đến khi đi ngủ y đi ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng ngủ trên bãi cỏ, để tỏ cái lòng có nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả như nhìn mà không thấy, chẳng thèm nói đến nhưng trong bụng cũng lấy làm lạ: “Thằng bé này quả thực không giống những trẻ con khác”.
    Sáng sớm hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại dùng hết nửa ngày để hơ các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Vô Kỵ. Mười hai kinh thường mạch cũng tựa như sông cái sông con, luôn luôn chảy không ngừng, kỳ kinh bát mạch cũng tựa như hồ biển, súc tích tàng trữ, thành ra muốn trừ khử âm độc trong kỳ kinh bát mạch, xem ra lại còn khó hơn. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc, khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng phương pháp gậy ông đập lưng ông “dĩ hàn trị hàn”. Trương Vô Kỵ uống thang thuốc đó rồi, bị lạnh run hết nửa ngày nhưng sau đó tinh thần thêm thư thái hơn trước.
    Sau buổi trưa, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích ông ta để ông ta chữa cho Thường Ngộ Xuân nhưng Hồ Thanh Ngưu không thèm lý đến, chỉ lạnh lùng đáp:
    - Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh quá kỳ thực. Chữ tiên đâu có thể vọng xưng được đâu? Thế nhưng người ta gọi là Kiến Tử Bất Cứu ta lại thích hơn.
    Khi đó ông ta đang châm tại huyệt Ngũ Khu giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt đó là nơi hội tụ của Túc Thiếu Dương và Đới Mạch, bên cạnh thủy đạo một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:
    - Trên cơ thể con người thì đới mạch kỳ lạ nhất. Hồ tiên sinh, ông có biết không, có người không có đới mạch đó.
    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:
    - Chỉ nói bậy. Làm sao lại không có đới mạch được?
    Trương Vô Kỵ vốn chỉ thuận miệng nói lăng nhăng, liền tiếp:
    - Thiên hạ rộng lớn như thế, chuyện lạ đến đâu cũng có, huống chi đới mạch theo cháu chẳng có lợi ích gì cả.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Đới mạch kỳ lạ thì đúng, nhưng bảo là vô dụng thì sai. Những y sư tầm thường không biết cái tinh áo bên trong, châm kim cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết một cuốn Đới Mạch Luận, ngươi đọc thì biết.
    Ông ta liền đi vào phòng, lấy ra một bộ sách mỏng, giấy đã vàng đem ra đưa cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết:
    Mười hai kinh và kỳ kinh thất mạch, đều lưu chuyển đi lên đi xuống. Riêng đới mạch bắt đầu từ bụng, bên dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng ở eo, như cái đai thắt ngang. Xung, nhâm, đốc ba mạch cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng quấn chung quanh đới mạch.
    Sau đó ông bình luận những sai lầm trong y thư xưa nay, Thập Tứ Kinh Phát Huy nói đới mạch có bốn huyệt, Châm Cứu Đại Thành nói đới mạch có sáu huyệt, thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt ẩn hiện vô chừng, khi có khi không, rất khó biện. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không rõ những áo diệu bên trong, nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức không phải tầm thường nên đem những chỗ ông phê bình cổ nhân ra thỉnh giáo.
    Hồ Thanh Ngưu rất vui vẻ, một mặt tiếp tục châm, một mặt giải thích, đến khi mười huyệt của đới mạch đã châm xong, ông ta mới ngồi nghỉ một chút, nói tiếp:
    - Ta còn một bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh ghi tất cả những điều tâm huyết trong đó.
    Ông ta vào trong phòng đem ra một bộ tất cả mười hai quyển y kinh chép tay. Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này không biết gì về y lý, nhưng y ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy tịch mịch. Những người trước đây đến xin chữa bệnh tuy rất đông, nhưng ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời đó hai mươi năm nay nghe đã chán. Thực ra chuyện ông ta hãnh diện nhất trong đời không phải “y thuật” tinh tường, mà ở tại “y học”, trong đó nhiều điều phát minh sáng kiến mà những người đi trước chưa ai tìm ra. Ông ta biết những thành tựu đó vô cùng to lớn, nhưng chỉ có thể cô phương tự thưởng[3], khiến không khỏi bẽ bàng. Bây giờ thấy thiếu niên này ham thích đọc sách trước tác của mình, ngầm cảm thấy có cái tình tri kỷ, nên đem bộ sách đắc ý cho xem.
    Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang viết kín mít những chữ nhỏ bằng con ruồi theo lối chữ tiểu khải, huyệt đạo bộ vị, thuốc men phân lượng, thời khắc và cách châm nông sâu, không gì không chú thích minh bạch. Y bỗng tâm niệm một điều: “Mình duyệt xem có đoạn nào nói về cách chữa thương cho Thường đại ca hay không?” Giở đến quyển số chín Võ Học Thiên trong đó có phần Chưởng Thương Trị Pháp thấy có Hồng Sa Chưởng, Thiết Sa Chưởng, Độc Sa Chưởng, Miên Chưởng, Khai Sơn Chưởng, Phá Bi Chưởng … các loại chưởng lực, các chứng thương, cách cấp cứu, cách trị liệu, đều có ghi đầy đủ. Đọc hết hơn một trăm tám mươi loại, quả nhiên có Tiệt Tâm Chưởng.
    Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức chăm chú đọc kỹ một lần, trong đó mô tả kỹ càng, nhưng trị pháp lại thật giản lược, chỉ nói “chữa bằng cách châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì, theo biến chuyển của âm dương, ngũ hành, xét hàn, thử, táo, thấp, phong[4] năm loại thời tiết, tùy tình trạng hỉ, nộ, ưu, tư, khủng[5] ngũ tình của bệnh nhân mà bốc thuốc”.
    Y đạo Trung quốc biến hóa đa đoan, cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải quan sát trời nóng hay lạnh, đêm hay ngày, bên ngoài hay bên trong, đầy hay vơi, đầu hay cuối, động hay tĩnh, đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ em … tùy từng trường hợp mà đưa ra phương thức chữa, mọi thay đổi đều do y sinh chứ không có qui tắc nhất định. Chính vì thế mà thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Cái áo diệu đó Trương Vô Kỵ không biết, nên đọc phương pháp vài lần cốt chăm chăm nhớ trong đầu. Cuối cùng trong Chưởng Thương Trị Pháp chính là Huyền Minh thần chưởng, có viết các triệu chứng khi bị thương, nhưng tại trị pháp chỉ có ghi một chữ “Không”.
    Trương Vô Kỵ gập bộ sách lại, cung kính đặt trên bàn, nói:
    - Bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười phần thì chín phần không hiểu gì cả, xin mong được chỉ điểm. “Ngự âm dương ngũ hành chi biến” là thế nào?
    Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt tỉnh ngộ, nói:
    - Ngươi định hỏi làm thế nào để trị thương cho Thường Ngộ Xuân, phải không? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chuyện đó ta không nói.
    Vô Kỵ không còn cách nào khác hơn, đành phải tra khảo trong các y thư, Hồ Thanh Ngưu để y muốn đọc gì thì đọc, không cấm đoán. Trương Vô Kỵ chăm chú nghiên cứu suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, không chỉ đọc hết hơn một chục bộ sách Hồ Thanh Ngưu soạn ra, mà cả Hoàng Đế Nội Kinh, Hoa Đà Nội Chiêu Đồ, Mạch Kinh của Vương Thúc Hòa, Thiên Kim Phương, Thiên Kim Dực của Tôn Tư Mạc, Ngoại Đài Bí Yếu của Vương Đảo … các loại kinh điển trong nghề thuốc, cũng đều đọc cả cốt tìm hiểu ý nghĩa các câu đề cập đến trong phương pháp trị Tiệt Tâm Chưởng, chỗ nào có liên quan là đọc kỹ suy nghĩ. Mỗi ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho y hai lần, một lần giờ thìn, một lần giờ thân để trừ âm độc.
    Cứ như thế mấy ngày liền, Trương Vô Kỵ cắm cúi đọc đủ các loại sách, tuy nhớ được một mớ y lý, thang thuốc, nhưng cái tinh diệu trong y học, y tuổi nhỏ học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày mà hiểu được? Bấm ngón tay tính toán, y đến Hồ Điệp Cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu đã nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trong vòng bảy ngày có thể khỏi hẳn, ngoài bảy ngày thì dù có trị được võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài cỏ sáu ngày sáu đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ y nằm trũng đầy bùn nước, nhưng tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ hết sức giận dữ, nghĩ thầm: “Ta đọc trong các sách thuốc, trừ sách do ngươi soạn ra, sách nào cũng viết là phàm người trong y đạo phải có lòng tế thế huệ dân, còn ngươi thân đầy một bụng y thuật, nhưng lại thấy chết không cứu, vậy thì còn gọi là lương y sao được?”.
    Đến chiều, trời mưa lại càng thêm nặng hạt, sấm chớp ầm ầm, hết tiếng rền nọ lại đến tiếng sét kia. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: “Ngoài việc ta đánh liều chữa cho Thường đại ca, không còn cách nào khác”. Nghĩ vậy y lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu ra tám mũi kim vàng, chạy ra ngồi cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:
    - Thường đại ca, mấy ngày qua tiểu đệ tận tâm kiệt lực, nghiên cứu đọc Hồ tiên sinh y thư, tuy chưa thông hiểu nhưng thời giờ khẩn cấp, không còn diên trì được nữa rồi. Tiểu đệ chỉ còn cách mạo hiểm hạ châm cho Thường đại ca, nếu chẳng may có chuyện gì, tiểu đệ sẽ không sống một mình đâu.
    Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:
    - Tiểu huynh đệ sao lại nói như thế? Ngươi mau mau châm kim chữa bệnh cho ta, nếu may mà trời cho khỏi được, ta sẽ trêu ghẹo Hồ sư bá một phen. Còn nếu mới châm một hai mũi mà ta chết rồi, cũng còn hơn sống mà phải nằm trong vũng bùn này chịu khổ.
    Trương Vô Kỵ hay tay run rẩy, nhìn kỹ mò đúng huyệt đạo của Thường Ngộ Xuân, lập cập cầm một mũi kim châm vào huyệt Quan Nguyên. Y chưa được tập luyện thuật châm cứu, cách đâm kim vào hết sức vụng về, chỉ bắt chước cách Hồ Thanh Ngưu châm cho mình mỗi ngày, theo đó mà làm. Những mũi kim của Hồ Thanh Ngưu lại do vàng ròng đúc thành nên rất mềm, không phải là người có nội lực thâm hậu không thể sử dụng được. Trương Vô Kỵ dùng sức hơi quá nên cái kim bị cong vẹo đi, không tiến sâu hơn được nữa, đành phải rút ra châm lại. Nếu đúng theo châm cứu thuật, rút ra không chảy máu, nhưng vì y lúng túng châm không đúng chỗ, máu từ huyệt Quan Nguyên của Thường Ngộ Xuân chảy vọt ra. Huyệt Quan Nguyên nằm ở bụng dưới là chỗ yếu hại của con người nên chảy máy không cầm được, Trương Vô Kỵ trong bụng càng nôn nóng không còn biết làm gì.
    Bỗng nghe đằng sau có tiếng người cười ha hả, Vô Kỵ quay lại, thấy Hồ Thanh Ngưu tay chắp sau lưng, dáng vẻ tự đắc, cười khà khà nhìn y hay tay đầy máu. Trương Vô Kỵ vội hỏi:
    - Hồ tiên sinh, huyệt Quan Nguyên của Thường đại ca chảy máu không ngừng, phải làm cách nào đây?
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Dĩ nhiên ta biết cách nào cầm máu, nhưng việc gì phải nói cho ngươi nghe?
    Trương Vô Kỵ ngang nhiên nói:
    - - Thôi bây giờ một mạng đổi một mạng, xin ông mau cứu Thường đại ca, tôi lập tức chết ngay trước mặt ông là xong.
    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
    - Ta đã nói không chữa là không chữa. Hồ Thanh Ngưu này chỉ thấy chết không cứu chứ đâu phải quỉ vô thường đi đòi mạng, ngươi chết có ích lợi gì cho ta đâu? Dù có chết mười Trương Vô Kỵ cũng không cứu được một Thường Ngộ Xuân.
    Trương Vô Kỵ biết có nói thêm cũng chỉ mất thì giờ, nghĩ thầm kim này mềm quá, không thể dùng được, lúc này không còn cách nào đi kiếm các loại kim khác, đồng châm thiết châm không thấy đâu, suy nghĩ một chút, bèn đi tìm một khúc tre, dùng dao chẻ thành mấy cái tăm, đâm vào bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên Thiên Trì trên người Thường Ngộ Xuân.
    Mấy cái tăm tre quả nhiên đâm vào không thấy máu chảy. Một lúc sau, Thường Ngộ Xuân nôn ra mấy ngụm máu bầm. Trương Vô Kỵ không biết mình châm lung tung như thế khiến cho Thường Ngộ Xuân bệnh nặng thêm hay có công hiệu trục được ứ huyết trong cơ thể ra, quay đầu lại nhìn Hồ Thanh Ngưu thấy ông ta tuy trên mặt nụ cười có vẻ chế riễu, nhưng có ẩn vài phần khen ngợi. Trương Vô Kỵ biết mấy mũi trúc châm của mình đâm xuống không hẳn sai lạc, nên chạy vào trong lục lọi y thư, suy nghĩ thật kỹ, viết một cái toa thuốc. Tuy y đọc trong sách biết vị nào chữa bệnh nào nhưng sinh địa, sài hồ hình dạng ra sao, ngưu tất, mật gấu như thế nào, y chưa biết đến, đành phải trơ trẽn đem toa thuốc giao cho thằng nhỏ nấu thuốc, nói:
    - Nhờ anh theo toa này nấu dùm một thang.
    Thằng nhỏ đem toa thuốc trình cho Hồ Thanh Ngưu xem, hỏi ông ta xem có nên nấu không. Hồ Thanh Ngưu nhăn mũi hừ một tiếng nói:
    - Thật nực cười, nực cười.
    Y cười khẩy mấy tiếng, nói:
    - Ngươi cứ theo đó mà nấu. Y uống xong nếu không chết thì trên đời này không còn ai chết nữa.
    Trương Vô Kỵ vội giật lại toa thuốc, giảm phân lượng mỗi thứ một nửa. Tên tiểu đồng cứ theo đó mà cắt đem nấu thành một tô thật đặc.
    Trương Vô Kỵ bưng bát thuốc ra để vào miệng Thường Ngộ Xuân nghẹn ngào nói:
    - Thường đại ca, uống thang thuốc này vào lành hay dữ, tiểu đệ hoàn toàn không biết … Thường Ngộ Xuân cười đáp:
    - Tốt lắm, tốt lắm, cái này đúng là thằng mù chữa kẻ thong manh.
    Y nhắm mắt, ngửa cổ uống một hơi hết sạch cả cặn. Đêm hôm đó Thường Ngộ Xuân bụng đau như dao cắt, nôn ọe ra máu không ngừng. Trương Vô Kỵ dưới gió mưa sấm chớp hầu hạ y suốt cả đêm. Đến sáng sớm hôm sau, mưa ngừng hạt, Thường Ngộ Xuân cũng bớt thổ huyết, máu nôn ra không còn đen mà đã thành tím, rồi từ tím sang đỏ. Thường Ngộ Xuân mừng nói:
    - Tiểu huynh đệ, thuốc ngươi cắt hóa ra uống không chết, xem ra thương thế lại giảm đi nhiều.
    Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:
    - Thuốc của tiểu đệ uống thấy thế nào?
    Thường Ngộ Xuân cười đáp:
    - Cha ta đã biết trước có ngày như thế này nên đã đặt tên cho ta là “Thường Ngộ Xuân”, nghĩa là thường thường gặp được danh y diệu thủ hồi xuân[6] mà. Có đều chú mày cắt thuốc xem chừng hơi bá đạo, uống vào bụng chẳng khác nào có mấy chục con dao nhỏ đâm chém loạn xạ trong ấy.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế, đúng thế. Xem ra liều lượng quả có hơi nặng.
    Thực ra y ra toa nào chỉ có “hơi nặng” mà quả là nặng gấp mấy lần bình thường, lại không có những vị khác để điều hòa phụ giúp, nên công phạt càng mạnh hơn. Tuy y đã đọc trong sách của Hồ Thanh Ngưu về thuốc nào trị bệnh nào nhưng đạo dùng thuốc “quân thần tá sứ” hoàn toàn chẳng thông hiểu, nếu Thường Ngộ Xuân không thể phách cường tráng, khỏe mạnh hơn người thì ắt đã ô hô ai tai rồi.
    Hồ Thanh Ngưu rửa mặt chải đầu xong, khoan thai đi ra, thấy Thường Ngộ Xuân mặt mũi hồng hào, tinh thần sảng khoái, không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Một tên thông minh lớn mật, một tên thể phách tráng kiện, thương thế của Tiệt Tâm Chưởng thế mà trị được rồi”.
    Trương Vô Kỵ cũng viết thêm một toa thuốc bổ, nào là nhân sâm, lộc nhung, thủ ô, phục linh bao nhiêu loại bổ dược quí giá viết cả ra. Trong nhà Hồ Thanh Ngưu chứa biết bao nhiêu là thuốc, loại nào cũng đều là loại thật tốt, nên dược lực thật mạnh. Uống thuốc bổ như thế mươi ngày, Thường Ngộ Xuân thấy thần thái sung mãn, võ công hoàn toàn trở lại như xưa, nói với Trương Vô Kỵ:
    - Tiểu huynh đệ, hiện nay thương thế của ta hoàn toàn khỏi hẳn rồi, ngày ngày ngươi ra nằm dầm sương với ta xem ra không hợp lý. Thôi vậy anh em mình từ biệt nhau.
    Trong hơn một tháng qua, Trương Vô Kỵ và y cùng chung hoạn nạn, hai bên xả thân, thành một đôi bạn sinh tử có nhau, nay phải chia tay, thật quyến luyến không muốn rời. Thế nhưng biết rằng Thường Ngộ Xuân không thể ở mãi tại đây, Vô Kỵ đành nuốt lệ chấp nhận.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Tiểu huynh đệ, ngươi đừng quá khổ sở. Ba tháng nữa, ta sẽ quay lại thăm, nếu lúc đó hàn độc trong thân thể ngươi hết rồi, sẽ dẫn ngươi trở về núi Võ Đương để gặp lại thái sư phụ.
    Y đi vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu, nói:
    - Đệ tử thương thế nay đã đỡ, tuy là do Trương huynh đệ ra tay chữa trị nhưng toàn là do sách thuốc của sư bá mà theo, lại uống không biết bao nhiêu là dược vật quí giá của sư bá.
    Hồ Thanh Ngưu gật đầu:
    - Thế nhưng cũng chưa xong đâu. Thương thế của ngươi tuy đã đỡ, nhưng tuổi thọ cũng bị giảm mất bốn mươi năm.
    Thường Ngộ Xuân không hiểu, hỏi lại:
    - Sao thế?
    Hồ Thanh Ngưu đáp:
    - Cứ theo thể phách của ngươi mà nói, ít ra ngươi cũng sống đến tám mươi. Thế nhưng thằng bé dùng thuốc sai lầm, lúc hạ châm lại không đúng cách, từ nay trở về sau, mỗi khi trời âm u mưa gió, ngươi sẽ thấy toàn thân đau nhức, nói chung đến khoảng bốn mươi tuổi, sẽ phải đi gặp Diêm Vương thôi.
    Thường Ngộ Xuân cười ha hả, hiên ngang đáp:
    - Đại trượng phu giúp đời trả nợ nước, nếu như lập nên công nghiệp, thì ba mươi tuổi cũng đã đủ, cần gì phải đến bốn mươi? Còn như sống đời tầm thường, dù có sống đến trăm tuổi, cũng chỉ tốn cơm tốn gạo mà thôi.
    Hồ Thanh Ngưu lại gật đầu, nhưng không nói thêm nữa.[7] Trương Vô Kỵ tiễn chân ra đến tận cốc khẩu, Thường Ngộ Xuân giục y trở lại, hai người mới gạt lệ chia tay. Trương Vô Kỵ trong bụng thầm toan tính: “Ta chữa trị, cắt thuốc sai lầm khiến Thường đại ca giảm thọ bốn mươi năm. Thân thể anh ấy vì ta mà tổn hại, không lẽ về sau ta không thể làm gì giúp ích được sao? Ta phải tìm cách nào làm cho anh ấy hoàn toàn khôi phục như trước mới xong”.
    Từ đó ngày ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu, kê toa cắt thuốc cho Trương Vô Kỵ để tiêu trừ âm độc trong thân thể. Trương Vô Kỵ cũng ngày đêm chăm chú đọc sách thuốc, ghi nhớ dược điển, gặp chỗ nào nghi nan không rõ liền hỏi lại Hồ Thanh Ngưu. Chuyện đó Hồ Thanh Ngưu rất thích nên lại càng ra công giải thích chỉ điểm. Có khi Vô Kỵ đưa ra những câu hỏi lạ lùng, suy nghĩ khác thường mà trước đây Hồ Thanh Ngưu chưa hề tưởng đến. Lúc đầu ông ta định bụng chữa khỏi Trương Vô Kỵ rồi sẽ ra tay giết thằng bé, nhưng bây giờ nghĩ nếu nó chết đi sẽ mất một người bạn tâm đầu ý hợp nên không còn nghĩ đến việc khỏi sớm chết sớm nữa.
    Cứ như vậy mấy tháng liền, một hôm Hồ Thanh Ngưu bỗng nhiên phát giác, huyệt Quan Xung ở bên cạnh ngón tay vô danh, huyệt Thanh Lãnh Uyên ở cách khoeo tay hai tấc, huyệt Ti Trúc Không ở chỗ lõm sau lông mày khi châm vào không phản ứng gì cả. Ba huyệt đó đều thuộc Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh. Tam tiêu bao gồm thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu là một trong lục phủ, từ trước tới nay y thư chép là rất huyền diệu bí áo, khó lòng tìm được.[8] Hồ Thanh Ngưu tiềm tâm suy nghĩ, dùng đủ mọi loại phương pháp xảo diệu vẫn không trục được âm độc trong tam tiêu của Vô Kỵ. Hơn mười ngày sau, đầu tóc ông ta đã bạc thêm hơn chục sợi mà chưa đến đâu.
    Trương Vô Kỵ thấy ông ta lao thần suy nghĩ, hết sức khổ não, trong lòng không khỏi cảm kích, thấy dạ không an, nói:
    - Hồ tiên sinh, ông đã tận tâm kiệt lực khu độc cho cháu. Trên đời này có ai không chết đâu, âm độc chạy vào tam tiêu của cháu không đuổi ra được, âu cũng là số mệnh phải chịu, tiên sinh không phải quá phí tâm sức, vì chuyện cứu mạng cho cháu mà tổn lao thân thể.
    Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, lạnh lẽo đáp:
    - Ngươi coi Minh giáo, Thiên Ưng giáo không vào đâu, đời nào ta muốn cứu mạng cho mi? Chỉ có điều ta trị bệnh cho ngươi không khỏi, hóa ra cái tên Điệp Cốc Y Tiên là kẻ vô năng hay sao? Ta định bụng sau khi chữa khỏi cho ngươi rồi sẽ giết ngươi chết.
    Trương Vô Kỵ không khỏi lạnh người, nghe ông ta nói một cách thản nhiên tưởng như coi chuyện đó chẳng vào đâu, biết y đã nói ra khỏi miệng rồi quyết không thay đổi, thở dài nói:
    - Cháu xem ra âm độc trong cơ thể không cách nào trừ được, tiên sinh không cần ra tay, cháu cũng phải chết. Thế nhân xem ra chỉ muốn người khác chết sạch thì mới vui lòng. Chúng ta học võ luyện công, chẳng phải là để giết người khác hay sao?
    Hồ Thanh Ngưu nhìn vào khoảng không xa vắng ngoài nhà, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:
    - Khi ta còn trẻ ra sức học thuốc, lập chí tế thế cứu nhân, nhưng rồi ra mới biết mình lầm. Ta cứu người ta rồi, người ta quay lại hại ta thật là tàn nhẫn. Có một chàng trai kia trúng phải Kim Tàm trùng độc ở Miêu Cương Quí Châu, là loại độc chất vô cùng nguy hiểm, người trúng độc này thể nào cũng chết nhưng trước khi chết còn phải chịu thống khổ không chịu nổi. Ta ba ngày ba đêm không ngủ, hao phí tâm sức cứu được y, cùng y nghĩa kết kim lan, tình như ruột thịt, lại hứa gả đứa em gái cho y. Nào ngờ về sau y lại hại em ta đến phải chết. Ngươi có biết y là ai không? Hiện nay y chính là một thủ não danh tiếng vang lừng của một danh môn chính phái đó.
    Trương Vô Kỵ thấy trên mặt y các bắp thịt giựt giựt, thần tình cực kỳ đau khổ, trong lòng không khỏi thương xót, nghĩ thầm: “Thì ra ông ta đã từng gặp nhiều thảm cảnh, vì thế nên mới có cái tính “kiến tử bất cứu”. Bèn hỏi:
    - Tên vong ân phụ nghĩa, lòng lang dạ thú đó là ai thế?
    Hồ Thanh Ngưu nghiến răng nói:
    - Y … y chính là chưởng môn phái Hoa Sơn Tiên Vu Thông.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Sao tiên sinh không đi tìm y mà trả thù?
    Hồ Thanh Ngưu thở dài:
    - Trước sau ta đã đi kiếm y ba lần, đều bị thảm bại, lần sau cùng tưởng chết về tay y rồi. Người này võ công cao cường, lại thêm cơ trí tuyệt luân, ngoại hiệu của y là Thần Cơ Tử, ta tài nghệ kém y xa. Huống chi y lại là chưởng môn phái Hoa Sơn, người nhiều thế mạnh. Minh giáo ta mấy năm nay chia năm xẻ bảy, cao thủ trong bản giáo tàn sát lẫn nhau, ai ai cũng nói là mình bận nên không ai giúp đỡ cả. Hơn nữa, ta cũng xấu hổ không đi nhờ cậy ai. Cái oán cừu đó, chỉ e không thể báo thù được. Ôi, đứa em khốn khổ của ta ơi, từ bé ta mồ côi, anh em nương tựa lẫn nhau … Nói đến đây, nước mắt rưng rưng.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Y thực ra không phải là kẻ vô tình lạnh lùng đâu”. Hồ Thanh Ngưu đột nhiêu gay gắt nói:
    - Chuyện ta nói hôm nay, từ rày không được đề cập đến nữa, nếu tiết lộ cho người khác biết, ta sẽ làm cho người sống không được, chết không xong.
    Trương Vô Kỵ định cãi lại vài câu, nhưng bỗng thấy chạnh lòng, biết người này vì gặp thảm sự nên chẳng chấp nê, liền nói:
    - Cháu không nói đâu.
    Hồ Thanh Ngưu xoa đầu nó, thở dài:
    - Tội nghiệp, tội nghiệp.
    Nói xong quay vào hậu đường.
    Từ khi Hồ Thanh Ngưu nói chuyện với Trương Vô Kỵ, lại thấy hàn độc đã chạy vào tam tiêu không có thể khu trừ được, dù được người tinh thâm y thuật chữa trị, cũng chỉ sống thêm được vài năm, khiến ông ta biến đổi tâm tình. Tuy ông ta không thổ lộ thêm về thân thế, tâm sự, nhưng thấy thằng bé nhạy hiểu lòng người, lại sống nơi núi rừng tịch mịch, có một người bạn như thế rất tốt nên ngày ngày ông ta chỉ điểm cho Vô Kỵ về biến hóa âm dương, ngũ hành trong y học cùng các cách châm kim, kê toa bốc thuốc. Trương Vô Kỵ ra công nghiên cứu, hết sức dụng tâm học tập. Hồ Thanh Ngưu thấy ngộ tâm của y thật cao, đọc các sách y thư như Hoàng Đế Hà Mô Kinh, Tây Phương Tử Minh Đường Cứu Kinh, Thái Bình Thánh Huệ Phương, Châm Cứu Giáp Ất Kinh, Thiên Phương Kinh của Tôn Tư Mạc ... đều rất am tường, không khỏi than thầm: "Cứ như tài trí của thằng bé này, lại được gặp minh sư trăm năm khó gặp như ta chỉ dạy, chưa đến hai mươi tuổi cũng đã ngang ngửa với Hoa Đà, Biển Thước rồi, tiếc rằng ... tiếc rằng ... than ôi!” Ý ông ta muốn nói đến là dù Vô Kỵ y học có giỏi bao nhiêu, nhưng số chẳng sống được lâu, thì việc chăm chỉ cần mẫn kia có ích gì? Thế nhưng Trương Vô Kỵ trong bụng đã có chủ tâm, y quyết ý học thành y thuật cao minh, để khi gặp lại Thường Ngộ Xuân, sẽ chữa cho y được trở lại bình thường, hoặc chữa cho Du Đại Nham không còn cần phải ai nâng dắt, đi đứng một mình được. Đó chính là hai đại tâm nguyện của nó, nếu hoàn thành được thì dù có chết đi cũng không có gì ân hận.
    Sống trong thung lũng an tĩnh vô sự, ngày tháng trôi qua, chẳng mấy chốc đã hơn hai năm, Trương Vô Kỵ nay đã mười bốn tuổi. Trong hai năm đó, Thường Ngộ Xuân có đến thăm y mấy lần, nói Trương Tam Phong nghe tin bệnh tình của Vô Kỵ có chiều thuyên giảm, mười phần hoan hỉ, dặn cứ ở lại Hồ Điệp Cốc thêm, bao giờ khỏi hẳn thi thôi. Trương Tam Phong và sáu người đệ tử cũng gửi cho nó quần áo, đồ dùng, tất cả ai cũng nhớ nhung, nhưng vì môn phái khác biệt, không tiện đến thăm.
    Trương Vô Kỵ đối với thái sư phụ và các sư thúc, sư bá càng thương nhớ nhiều, hận không thể về núi Võ Đương ngay để gặp lại. Thường Ngộ Xuân cũng cho hay tin tức bên ngoài, mấy năm nay người Mông Cổ đối với Hán nhân càng thêm bạo ngược, trăm họ không đủ ăn, trộm cướp nổi lên như rươi, xem chừng thiên hạ sắp sửa đại loạn. Ngoài ra, các danh môn chính phái trên giang hồ tranh chấp với ma giáo, tà phái mỗi ngày thêm kịch liệt, hai bên chết chóc cũng nhiều, oán cừu ngày càng thêm sâu.
    Mỗi lần Thường Ngộ Xuân đến Hồ Điệp Cốc đều ở lại vài ngày, dường như công việc trong Minh giáo ngày càng thêm bận rộn.
    Một buổi tối, Trương Vô Kỵ đang đọc cuốn “Thử Sự Nan Tri[9]” của Vương Hảo Cổ, bỗng thấy thấy mệt mỏi, đầu óc mơ mơ màng màng, lập tức lên giường ngủ. Hôm sau tỉnh dậy thấy nhức đầu khôn cùng, đang định đi kiếm mấy loại thuốc trị phong hàn, khi vào trong sảnh thì mặt trời đã ngả về phương tây, hóa ra đã quá trưa. Y giật mình kinh hãi: “Sao mình ngủ giấc này lâu thế, xem ra mình bị bệnh mất rồi”. Vội vàng tự bắt mạch nhưng không thấy gì khác lạ, lòng thầm kinh hãi: “Không lẽ âm độc trong người mình phát tác, đến ngày tận số rồi chăng?”.
    Vô Kỵ đến ngoài phòng của Hồ Thanh Ngưu thấy cửa đóng chặt, ho khẽ một tiếng. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nói ra:
    - Vô Kỵ, hôm nay trong người ta không được khỏe, cổ họng đau, ngươi tự mình học đi nhé.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vâng.
    Y quan tâm đến bệnh tình của Hồ Thanh Ngưu nên hỏi tiếp:
    - Tiên sinh, để cho cháu xem thử cổ họng tiên sinh xem thế nào, được không?
    Hồ Thanh Ngưu giọng khàn khàn đáp:
    - Không cần đâu, ta soi gương xem thử, thấy không có gì nặng lắm, đã uống Ngưu Hoàng Tê Giác Tán rồi.
    Đến chiều hôm đó, khi tiểu đồng mang cơm vào phòng, Trương Vô Kỵ cũng đi theo, thấy Hồ Thanh Ngưu mặt mày tiều tụy, nằm trên giường. Hồ Thanh Ngưu xua tay:
    - Ra ngoài đi, cậu có biết ta bị bệnh gì không? Đậu mùa đấy.
    Trương Vô Kỵ nhìn trên mặt, trên tay ông ta, quả nhiên đầy những chấm đỏ, nghĩ thầm bệnh đậu mùa phát ra rất độc địa, nếu chữa không khéo, nặng ắt chết, nhẹ cũng rỗ mặt. Hồ Thanh Ngưu y đạo tinh thâm, dù có nhiễm bệnh cũng tự chữa lấy được nhưng Vô Kỵ vẫn không khỏi lo lắng. Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Cậu không được vào phòng ta, đũa bát chén đĩa cho ta, đều phải dùng nước nóng tráng qua, cậu và các tiểu đồng không được dùng chung.
    Ngẫm nghĩ một lát, ông ta nói tiếp:
    - Vô Kỵ, cậu nên ra khỏi Hồ Điệp Cốc tìm nơi tá túc một thời gian độ nửa tháng, để khỏi lây bệnh đậu mùa của ta .
    Trương Vô Kỵ vội nói:
    - Không cần. Tiên sinh bị bệnh, cháu lại đi khỏi, ai lo lắng cho ông? Dẫu gì cháu cũng hiểu y lý hơn những tiểu đồng này.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Nhưng cậu tránh đi vẫn hơn.
    Thế nhưng dù ông ta nói sao, Vô Kỵ nhất định không chịu. Mấy năm qua, hai người sớm tối có nhau, Hồ Thanh Ngưu tuy tính tình quái dị, hai thầy trò dẫu sao cũng vẫn có tình, huống chi lúc hoạn nạn lại đi khỏi, thật là không hợp bản tính của Trương Vô Kỵ chút nào. Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Thôi được. Thế nhưng cậu tuyệt đối không được bước chân vào trong phòng của tôi.
    Cứ như thế ba ngày liền, sớm tối Vô Kỵ lại trước cửa phòng hỏi thăm, thấy Hồ Thanh Ngưu tuy bị khản tiếng, tinh thần vẫn đầy đủ, cơm nước xem ra còn ăn nhiều hơn lúc thường, chắc không có gì đáng ngại. Hồ Thanh Ngưu mỗi ngày đọc các vị thuốc cùng liều lượng, tiểu đồng theo đó mà sắc đem vào phòng cho ông ta. Đến chiều hôm thứ tư, Trương Vô Kỵ ngồi trong thảo đường đọc Hoàng Đế Nội Kinh đến thiên Tứ Khí Điều Thần Đại Luận tới câu:
    Cho nên thánh nhân không trị bệnh đã phát ra rồi mà trị bệnh từ khi chưa phát, không trị khi đã loạn rồi mà trị từ khi chưa loạn, chính là vì thế. Đại bệnh có rồi mới cho thuốc, loạn đã có rồi mới cứu chữa, có khác nào khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau rồi mới đúc chùy, chẳng đã trễ ư?
    (Thị cố thánh nhân bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh, bất trị dĩ loạn, trị vị loạn, thử chi vị dã. Đại bệnh dĩ thành nhi hậu dược chi, loạn dĩ thành nhi hậu trị chi, thí do khát nhi xuyên tỉnh, đấu nhi chú trùy, bất diệc vãn hồ?) Không khỏi gật đầu khen hay, nghĩ thầm: “Mấy câu này quả thật là hay, khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đi đúc binh khí làm sao cho kịp. Quốc gia loạn rồi trở lại thanh bình, dù có an định nhưng nguyên khí không khỏi thương tổn rất nhiều. Trị bệnh thì phải trị từ khi chưa có bệnh mới là hay. Thế nhưng bệnh đậu mùa của Hồ tiên sinh là do bên ngoài nhiễm vào, có muốn trị từ trước cũng không được”. Lại nghĩ đến Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận trong Nội Kinh có mấy câu:
    Người giỏi chữa bệnh chữa khi bệnh còn ngoài da, thứ đến là người chữa khi bệnh ở máu thịt, thứ nữa là chữa khi bệnh ở gân mạch, sau nữa mới đến bệnh trong lục phủ, sau nữa mới đến bệnh vào trong ngũ tạng. Trị ngũ tạng thì đã nửa phần sống, nửa phần chết.
    (Thiện trị giả trị bì mao, kỳ thứ trị cơ phu, kỳ thứ trị cân mạch, kỳ thứ trị lục phủ, kỳ thứ trị ngũ tạng. Trị ngũ tạng giả, bán tử bán sinh dã) Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lương y thấy bệnh mới chớm là đã trị. Bệnh đã vào đến lục phủ ngũ tạng mới chữa trị, chỉ còn có một nửa phần hi vọng thôi. Như ta âm độc đã tan vào lục phủ ngũ tạng, đâu phải chỉ nửa sống nửa chết mà là chín chết một sống rồi”.
    Y còn đang tấm tắc khen kiến thức trác tuyệt của người xưa, lại nghĩ đến thương thế của mình, bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ ngoài cửa thung lũng vọng tới, chẳng bao lâu đã đến ngay bên ngoài căn nhà tranh rồi một người lớn tiếng nói:
    - Võ lâm đồng đạo, xin được gặp Y Tiên Hồ tiên sinh, để nhờ lão nhân gia trị bệnh.
    Trương Vô Kỵ đi ra ngoài cửa, thấy một người mặt mũi đen sì đứng bên ngoài, tay dắt ba con ngựa, trên hai con ngựa nằm phục hai người, quần áo loang lổ đầy vết máu, rõ ràng thân bị trọng thương. Hán tử đó đầu băng một mảnh vải trắng, trên cũng thấm đầy máu tươi, tay phải cũng có băng treo lủng lẳng trên cổ, xem ra bị thương cũng không phải nhẹ.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Các vị đến thật không đúng lúc, chính Hồ tiên sinh cũng đang bị bệnh, nằm trên giường không dậy được, không thể nào trị bệnh cho quí vị được, xin đi kiếm thầy lang khác.
    Hán tử đó nói:
    - Chúng tôi chạy mấy trăm dặm đến đây, sống chết chỉ trong sớm tối, chỉ còn trông chờ Y Tiên cứu mạng thôi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hồ tiên sinh đang bị bệnh đậu mùa, bệnh thế thật là ghê gớm, đó là chúng tôi nói thực, không dám man trá đâu.
    Người kia nói:
    - Ba người chúng tôi lần này bị trọng thương nếu như không được Y Tiên cứu, thì chỉ có nước chết thôi. Xin phiền tiểu huynh đệ bẩm lại một lời, để xem Hồ tiên sinh dạy bảo thế nào.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu đã như thế, xin quí vị cho biết tôn tính đại danh.
    Hán tử trả lời:
    - Ba người chúng tôi tiện danh không đáng nói, chỉ nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.
    Nói đến đây, thân hình y lảo đảo muốn ngã, xem ra không chịu nổi nữa rồi, há mồm ọe ra một ngụm máu tươi. Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn là kẻ đại thù của Hồ tiên sinh, không biết ông ta xử trí thế nào, đi đến trước phòng của Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Tiên sinh, ngoài cửa có ba người bị thương nặng đến xin chữa bệnh, nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.
    Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, gắt:
    - - Không chữa, không chữa, bảo chúng nó cút đi.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vâng.
    Y trở lại thảo đường nói với người kia:
    - - Hồ tiên sinh bệnh tình trầm trọng lắm, không thể nào tiếp khách được, kin tha lỗi cho.
    Gã kia nhíu mày, đang định năn nỉ thêm nữa thì một gã gầy gò đang nằm phục trên lưng ngựa bổng ngửng đầu lên, giơ tay búng ra, một ánh vàng lấp lánh, nghe cạch một tiếng, một ám khí nho nhỏ rơi ngay trên bàn trong nhà. Gã hán tử gầy gò nói:
    - Ngươi đem mũi Kim Hoa này cho Kiến Tử Bất Cứu xem, nói ba người bọn ta đều bị chủ nhân của bông hoa vàng này đả thương. Người đó nay mai sẽ đến tìm y để rửa hận, nếu Kiến Tử Bất Cứu trị khỏi cho bọn ta, ba người sẽ ở lại đây, giúp ông ta ngự địch. Dù võ công bọn ta chẳng ra gì, nhưng dù sao cũng có thêm ba tay giúp sức.
    Trương Vô Kỵ thấy tên này ăn nói xấc láo, không phải như hán tử nọ có vẻ lễ độ, đi đến bên cạnh bàn, thấy ám khí nọ là một bông hoa mai đúc bằng vàng, cũng to y hệt một bông mai thật, bạch kim làm nhụy hoa, trông thật là tinh xảo. Y đưa tay cầm lấy, nào ngờ cái búng của gã gầy gò nọ rất mạnh, bông hoa khảm chặt xuống bàn, đành phải lấy ra kẹp dùng để gắp thuốc, nạy mấy cái mới lấy ra được. Y nghĩ thầm: “Võ công của tên gầy gò này không phải dở, nhưng bị chủ nhân bông hoa vàng này đánh cho bị thương nặng như thế, y nói người đó đến tầm cừu, mình cũng nên cho tiên sinh biết”.
    Y cầm bông hoa đến bên ngoài phòng của Hồ Thanh Ngưu chuyển thuật lời của gã gầy gò. Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Đem vào cho ta xem.
    Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng mở cửa phòng, vén tấm màn ra, thấy trong phòng tối như mực, biết rằng người bị đậu mùa sợ gió sợ ánh sáng, cửa sổ đều dùng mền che kín. Hồ Thanh Ngưu trên mặt che một miếng vải xanh, chỉ để lộ đôi mắt. Trương Vô Kỵ cảm thấy sợ hãi: “Không biết dưới miếng vải kia, các nốt đậu trên mặt ông ta mọc như thế nào? Sau khi khỏi rồi, liệu có bị rỗ không?”.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - - Để bông hoa vàng trên bàn cho ta, rồi đi ra cho mau.
    Trương Vô Kỵ y lời để bông hoa xuống bàn, vén màn đi ra, chưa kịp đóng cửa đã nghe Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Ba tên đó chết sống ra sao, họ Hồ này không can hệ gì. Hồ Thanh Ngưu chết hay sống, cũng chẳng cần ba tên đó phải để tâm đến.
    Nghe vèo một tiếng, bông hoa vàng đó xuyên qua màn cửa, bay vụt ra ngoài, nghe keng một tiếng rơi trên mặt đất. Trương Vô Kỵ đã ở chung với ông ta hơn hai năm rồi, không từng thấy ông ta luyện võ công, không ngờ vị thần y trông vẻ thư sinh này lại là một cao thủ, tuy đang bị bệnh nhưng không võ công không mất.
    Trương Vô Kỵ nhặt bông kim hoa lên, đem trả lại cho gã gầy gò, lắc đầu:
    - Hồ tiên sinh quả thật bệnh nặng … Bỗng nghe tiếng chân ngựa cộp cộp, tiếng xe rầm rập, một chiếc xe ngựa chạy vào trong thung lũng. Trương Vô Kỵ đi ra khỏi cửa, thấy con ngựa chạy rất nhanh, chỉ chớp mắt đã tới trước cửa, ngừng ngay lại. Trên xe đi xuống một thanh niên nước da vàng vọt, ôm ra một lão già đầu hói, hỏi:
    - Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh có nhà không? Môn hạ phái Không Động là Thánh Thủ Già Lam[10] Giản Tiệp từ xa đến chữa bệnh … Nói chưa hết câu, y đã lảo đảo, cùng ông già đầu hói hai người đều ngã lăn xuống đất. Cũng thật lạ, hai con ngựa kéo xe đồng thời kiệt sức, miệng sùi bọt mép, gục luôn xuống. Xem thần tình của hai người, không hỏi cũng biết là từ xa bôn ba đến đây, đi đường không nghỉ, nên cả người lẫn ngựa mới mỏi mệt đến thế. Trương Vô Kỵ nghe nói bốn chữ “môn hạ Không Động”, nghĩ đến trên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình có các trưởng lão của phái này, tuy gã đầu hói này hôm đó không thấy lên núi, nhưng chắc cũng chẳng phải kẻ tốt lành gì, đang định cự tuyệt, lại thấy sơn đạo thấp thoáng, thêm bốn năm người chạy đến, kẻ thì chống gậy khập khiễng, kẻ thì người nọ đỡ người kia, người nào cũng bị thương cả.
    Trương Vô Kỵ nhíu mày, không đợi bọn đó đến gần, lớn tiếng nói:
    - Hồ tiên sinh bị bệnh đậu mùa, chính ông ta cũng không biết sẽ ra sao, không thể nào trị thương cho các vị được. Xin các vị sớm đi tìm danh y, để khỏi lỡ dịp chữa thương.
    Đến khi bọn đó tới gần hơn, nhìn rõ tất cả năm người, người nào mặt cũng tái mét nhưng trên người không có dấu máu, xem ra đều bị nội thương. Người đi đầu vừa cao vừa mập, nhìn gã đầu hói Giản Tiệp và gã gầy gò gật đầu, ba người nhìn nhau cười gượng, hóa ra họ đều biết nhau. Trương Vô Kỵ hiếu kỳ, hỏi:
    - Các ông cũng đều bị chủ nhân bông hoa vàng đả thương phải không?
    Gã mập đáp:
    - Chính thế.
    Hán tử đến đầu tiên mới bị hộc máu hỏi lại:
    - Tiểu huynh đệ họ gì? Bà con với Hồ tiên sinh ra sao?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôi là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, Hồ tiên sinh nói không chữa là nhất định không chữa đâu, các ông có nán lại đây cũng vô ích.
    Hai bên đang nói chuyện lại có thêm bốn người nữa tới, có kẻ đi xe, có kẻ cưỡi ngựa, cả bọn ai ai cũng muốn gặp Hồ Thanh Ngưu. Trương Vô Kỵ thấy lạ lùng: “Hồ Điệp Cốc là nơi hoang vắng, ngoại trừ người trong ma giáo ra, trên giang hồ rất ít người biết đến. Những người này không phải Không Động thì cũng Hoa Sơn, đều không phải người đồng đạo, sao lại không hẹn mà cùng bị thương, lại không hẹn mà cùng đến đây xin chữa bệnh?” Lại nghĩ thầm: “Chủ nhân của bông kim hoa này tài nghệ ghê gớm đến thế, muốn giết những người này nào có khó khăn gì, sao lại chỉ đánh cho họ trọng thương thôi?”.
    Mười bốn người đó, có người lên tiếng khẩn cầu, có người một lời không nói, nhưng không ai chịu đi, nhìn ra trời đã sắp tối, mười bốn người ngồi chật cả căn nhà lá. Đứa tiểu đồng nấu ăn đem cơm cho Trương Vô Kỵ, y không nể nang khách sáo gì, ngồi ăn tự nhiên, đốt một ngọn đèn dầu giở sách thuốc ra ngồi đọc, đối với bọn người kia làm như không thấy, nghĩ thầm: “Ta học y thuật của Hồ tiên sinh nhưng cũng phải học luôn cả cái công phu Kiến Tử Bất Cứu của ông ta nữa”.
    Đêm vắng lặng, trong căn nhà tranh ngoài tiếng sột soạt của Trương Vô Kỵ giở sách, và tiếng thở nặng nề của bọn người bị thương, không còn âm thanh gì khác. Bỗng dưng từ con đường mòn ở bên ngoài có tiếng bước chân nhẹ nhàng của hai người, chậm chạp đi về hướng căn nhà tranh. Một lúc sau, giọng thánh thót của một đứa con gái nhỏ cất lên:
    - Mẹ, trong nhà có ánh đèn, mình đến nơi rồi.
    Cứ theo giọng đó thì đứa trẻ còn nhỏ lắm. Có tiếng một người đàn bà nói:
    - Con có mệt không?
    Đứa bé nói:
    - Con không mệt. Mẹ ơi, thầy lang trị bệnh cho mẹ mẹ sẽ hết đau.
    Người đàn bà đáp:
    - Ừ, nhưng không biết thầy lang có chịu chữa cho mẹ không nữa.
    Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động: “Người đàn bà này giọng nói nghe quen lắm, hình như Kỷ Hiểu Phù cô cô thì phải”. Lại nghe cô bé con nói:
    - Thể nào thầy thuốc cũng chữa cho mẹ mà. Mẹ đừng sợ, mẹ đã đỡ đau chưa?
    Người đàn bà nói:
    - Mẹ bớt đau rồi. Ôi, tội nghiệp cho con.
    Trương Vô Kỵ nghe đến đây, không còn hoài nghi gì nữa, chạy ra ngoài cửa, kêu lên:
    - Kỷ cô nương, có phải cô không? Cô bị thương đấy ư?
    Dưới ánh trăng thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay dắt một đứa bé gái, chính là nữ hiệp phái Nga Mi Kỷ Hiểu Phù. Khi nàng gặp Trương Vô Kỵ trên núi Võ Đương, lúc đó nó chưa đầy mười tuổi, lúc này cách nhau gần năm năm, Trương Vô Kỵ từ một đứa bé đã thành một thiếu niên, trong đêm tối đột nhiên gặp lại, làm sao còn nhận cho ra, ngạc nhiên chỉ lắp bắp:
    - Cậu … cậu … Trương Vô Kỵ nói:
    - Kỷ cô nương, cô không nhận ra cháu sao? Cháu là Trương Vô Kỵ. Lúc ở trên núi Võ Đương hôm cha mẹ cháu qua đời, có gặp cô một lần.
    Kỷ Hiểu Phù kinh hoảng “A” một tiếng, không ngờ lại gặp y ở nơi này, nghĩ đến mình là thân con gái chưa chồng, nay tay lại dắt một đứa con. Trương Vô Kỵ lại là sư điệt của người chồng chưa cưới Ân Lê Đình, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng cũng không thể nào giải thích cho xuôi, không khỏi vừa thẹn vừa quẫn mặt đỏ bừng. Nàng bị thương vốn không phải nhẹ, kinh hoảng rồi, thân hình lảo đảo dường như muốn ngã.
    Đứa con gái chỉ chừng tám chín tuổi, thấy mẹ loạng choạng, vội hai tay đưa ra đỡ ï. Tuy nhiên nó bé bỏng yếu sức làm sao đỡ nổi xem ra hai người cùng ngã. Trương Vô Kỵ vội chạy đến đỡ vai Kỷ Hiểu Phù, nói:
    - Kỷ cô nương, mời cô vào đây nghỉ một chốc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:49:13 | Chỉ xem của tác giả
   Y dìu nàng vào trong thảo đường, dưới ánh đèn thấy vai và cánh tay bên trái bị đao kiếm chém cực kỳ trầm trọng, lớp vải băng không ngừng rỉ máu tươi, lại thấy cô ta ho liên tục, không sao ngăn được. Y thuật của Trương Vô Kỵ lúc này đã hơn xa những bậc “danh y” bình thường, thấy tiếng ho của nàng có vẻ khác lạ, biết là lá phổi đã bị chấn thương nặng, liền nói:
    - Kỷ cô nương, cô dùng tay phải đối chưởng với người ta đã bị thương ở phế mạch thái âm.
    Nói rồi lấy ra bảy mũi kim châm, xuyên qua áo châm vào hiệt Vân Môn ở đầu vai, huyệt Hoa Cái ở trên ngực, huyệt Xích Trạch ở cùi chỏ ... tổng cộng bảy chỗ. Lúc này thuật châm cứu của y so với lúc trị thương cho Thường Ngộ Xuân quả là một trời một vực. Trong hơn hai năm qua, y theo Hồ Thanh Ngưu tiềm tâm khổ học, cả chẩn đoán bệnh tình, cách biến hóa dùng thuốc đã hiểu biết rất nhiều, tuy so với Hồ Thanh Ngưu còn kém xa, nhưng riêng châm cứu thì đã học được bảy, tám thành bản lãnh của Y Tiên.
    Lúc đầu Kỷ Hiểu Phù thấy y lấy kim ra chưa biết dụng ý, nào ngờ Vô Kỵ thủ pháp cực nhanh nhẹn, chỉ trong nháy mắt, bảy mũi kim đã đâm vào các huyệt đạo. Bảy huyệt đó đều thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh, kim vừa châm xong, tình trạng tức ngực liền giảm ngay. Nàng vừa mừng vừa sợ, nói:
    - Hảo hài tử, đâu có ngờ cháu ở đây, lại học được bản lãnh thần kỳ như thế.
    Hôm ở trên núi Võ Đương, Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Thúy Sơn, Ân Tố Tố tự sát, thương xót Trương Vô Kỵ cô đơn khổ sở, từng dịu giọng an ủi, lại lấy cái vòng vàng đeo cổ ra cho nó. Thế nhưng lúc đó Trương Vô Kỵ trong lòng phẫn khích, buồn đau coi ai lên núi cũng đều là kẻ thù bức tử cha mẹ nó, thành thử đã hục hặc cả với Kỷ Hiểu Phù, khiến nàng không biết phải ăn nói ra sao. Về sau khi Trương Vô Kỵ đã lớn lên, nghe hôm đó cha nó và các sư bá, sư thúc đã toan cùng các nữ hiệp phái Nga Mi liên thủ, cùng chống cường địch, mới hay phái Nga Mi là bạn chứ không phải thù, cho nên tấm lòng của Kỷ Hiểu Phù đối với nó, mỗi khi nghĩ lại không khỏi cảm kích.
    Đêm nọ ở trong rừng hai năm trước, Vô Kỵ cùng Thường Ngộ Xuân đã thấy Kỷ Hiểu Phù ra sức cứu Bành hòa thượng, biết là vị Kỷ cô nương này đối với người rất tốt, còn việc nàng chưa chồng mà đã có con, vì đâu mà đối đãi không phải với Ân thúc thúc, tuổi còn nhỏ, chuyện nam nữ y chưa để ý tới, nghe qua rồi không để vào tai, cũng không nhớ tới. Còn Kỷ Hiểu Phù trong lòng hổ thẹn, bất ngờ gặp một người quen của Ân Lê Đình nên không khỏi quẫn bách, tưởng như không có cách nào tránh mặt, đâu biết việc này hai năm trước Vô Kỵ đã nghe Đinh Mẫn Quân nói tới. Tuy nhiên y cho rằng Đinh Mẫn Quân là kẻ xấu xa, thành thử những gì cô ta nói ra chưa hẳn đã xấu.
    Vô Kỵ thấy đứa con gái của Kỷ Hiểu Phù đứng bên cạnh mẹ, mặt đẹp như tranh vẽ, đôi mắt to đen láy chăm chăm nhìn mình một cách hiếu kỳ. Cô bé ghé tai mẹ nói nhỏ:
    - Mẹ, cậu bé này là thầy lang đấy ư? Mẹ có còn đau không?
    Kỷ Hiểu Phù nghe đứa bé gọi mẹ, mặt lại đỏ bừng, đến nước này không còn có thể dấu được nữa, lộ vẻ sượng sùng, nói:
    - Đây là Trương gia ca ca, cha anh ấy là bạn của mẹ.
    Quay sang Trương Vô Kỵ nói:
    - Nó … nó tên là Bất Hối.
    Ngừng lại một lát, nói tiếp:
    - Họ Dương, tên là Dương Bất Hối.
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Hay nhỉ, tên tiểu muội muội cũng na ná như tên anh, anh là Trương Vô Kỵ, cô em là Dương Bất Hối.
    Kỷ Hiểu Phù thấy Vô Kỵ thần sắc bình thường, không có vẻ gì trách cứ, lòng thấy yên tâm, quay sang con nói:
    - Bản lãnh của Vô Kỵ ca ca giỏi lắm, mẹ không còn đau nhiều nữa.
    Đôi mắt linh hoạt của Dương Bất Hối chuyển qua mấy vòng, đột nhiên chạy tới ôm lấy Vô Kỵ, hôn trên má y một cái. Ngoài mẹ ra, cô bé chưa từng gặp người ngoài, lần này mẫu thân bị trọng thương, trong cơn hoạn nạn được Trương Vô Kỵ làm cho mẹ bớt đau, trong lòng hết sức cảm kích. Trước nay mỗi khi thương mẹ, cô bé thường sà vào lòng ôm mẹ hôn lên má, nên lúc này cũng làm thế với Trương Vô Kỵ.
    Kỷ Hiểu Phù mỉm cười nói:
    - Bất nhi, đừng làm vậy, Vô Kỵ ca ca không thích đâu.
    Dương Bất Hối mở to đôi mắt, không hiểu nguyên do, hỏi lại Trương Vô Kỵ:
    - Anh không thích ư? Sao anh lại không thích em thương anh?
    Trương Vô Kỵ cười đáp:
    - Anh thích lắm chứ, anh cũng thương em nữa.
    Y nhẹ nhàng hôn lên đôi má bầu bĩnh của cô bé. Dương Bất Hối vỗ tay cười:
    - Thầy lang nhỏ ơi, anh mau mau trị cho mẹ em hết bệnh, em sẽ hôn anh lần nữa.
    Trương Vô Kỵ thấy cô em nhỏ này thơ ngây lanh lợi, thật là dễ thương. Y từ hơn mười năm nay, những người quen biết đều là sư bá, sư thúc lớn tuổi hơn nhiều, Thường Ngộ Xuân tuy gọi nhau huynh đệ, nhưng cũng lớn hơn tám tuổi. Hôm ở trên thuyền gặp Chu Chỉ Nhược, hai đứa cũng chỉ ở với nhau một ngày, rồi lại chia tay, ngoài ra chưa hề có một người bạn nhỏ nào, lúc này không khỏi nghĩ thầm: “Giá như có được đứa em gái dễ thương như thế này, mình sẽ thường thường dẫn nó đi chơi”.
    Y chỉ mới mười bốn tuổi, còn nhiều tính trẻ con, nhưng tuổi thơ đã nhiều gian truân, chẳng được mấy lúc vui đùa. Kỷ Hiểu Phù thấy bọn Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp cũng bị thương nặng, rõ ràng chưa được chữa trị gì cả, nàng không muốn được ưu tiên nên nói:
    - Các vị này đến đây trước cô, cháu xem cho họ đã. Bây giờ cô thấy đỡ nhiều lắm rồi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Bọn họ đến nhờ Hồ tiên sinh chữa trị đâu ngờ chính tiên sinh cũng đang bị bệnh nặng, không chữa cho ai được. Thế nhưng mấy người này không chịu đi. Kỷ cô cô, cô không phải nhờ đến Hồ tiên sinh chữa bệnh, cháu ở đây cũng đã lâu, biết chút đỉnh y đạo, nếu cô bằng lòng, để tiểu điệt xem thương thế ra sao.
    Kỷ Hiểu Phù cũng chẳng khác gì bọn Giản Tiệp, sau khi bị thương được người ta chỉ đến Hồ Điệp Cốc cầu Hồ Thanh Ngưu, thấy tình trạng của bọn người kia, rõ ràng Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa. Khi Trương Vô Kỵ châm kim các yếu huyệt nàng thấy lập tức kiến hiệu, xem ra tuy tuổi y còn nhỏ, y đạo cũng đã rất cao minh, nay nghe nói thế liền đáp:
    - Vậy thì cám ơn cháu. Đại quốc thủ không chịu chữa, nay được tiểu quốc thủ chữa nào có khác gì.
    Trương Vô Kỵ liền mời nàng vào trong phòng, cắt bỏ khúc áo nơi vết thương, thấy trên vai nào có tới ba vết đao chém, xương cánh tay cũng bị gãy, một chỗ bị nát vụn. Xương gãy như thế, nếu ở bên ngoài việc tiếp cốt thật là khó khăn nhưng đối với đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên lại không có gì gay go, y bèn nối xương rắc thuốc cho nàng, lại kê thêm một toa thuốc nói tiểu đồng theo đó mà đun. Đây là lần đầu y nối xương gãy, thủ pháp không được nhanh nhẹn, nhưng cũng chỉ một giờ sau mọi việc đều xong, nói:
    - Kỷ cô cô, cô nên nằm ngủ một giấc, khi thuốc mê tan hết rồi, vết thương sẽ đau lắm đấy.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Cám ơn cháu.
    Trương Vô Kỵ lại đi đến phòng thuốc, lấy một vốc táo tàu, mận khô đem cho Dương Bất Hối, nào ngờ đêm qua thức khuya, lúc này cô bé đã rúc vào lòng mẹ ngủ say sưa. Trương Vô Kỵ bỏ táo, mận vào túi cho nó, quay trở lại thảo đường.
    Tên đệ tử phái Hoa Sơn bị thổ huyết thấy y vội đứng dậy, chắp tay vái một cái thật sâu, nói:
    - Tiểu tiên sinh, nếu Hồ tiên sinh bị nhiễm bệnh, chắc phải phiền thầy chữa bệnh cho chúng tôi, cả bọn ai ai cũng cảm kích đại đức.
    Trương Vô Kỵ từ khi học ngành thuốc tới nay, ngoại trừ Thường Ngộ Xuân và Kỷ Hiểu Phù, chưa hề dùng đến, nay thấy mười bốn người này, kẻ thì nội tạng chấn thương, kẻ thì chân tay gãy, mỗi người một loại thương thế chẳng giống nhau. Người đời thường nói rằng học phải được dùng, nên y cũng muốn thử, ngặt nỗi Hồ Thanh Ngưu đã nói không chữa, nên đáp:
    - Đây là nhà của Hồ tiên sinh, tiểu khả cũng chỉ là bệnh nhân thôi, đâu dám tự tiện như thế.
    Gã hán tử nọ trông mặt đặt tên, thấy y từ chối không có vẻ quyết liệt, lại chắp tay nịnh thêm một câu:
    - Xưa nay danh y người nào cũng phải già cả năm, sáu mươi tuổi, ai ngờ thầy tuổi còn trẻ quá mà đã có được bản lãnh như thế, quả thực trên đời ít thấy, xin thầy ra tay chữa cho.
    Gã mập trông như nhà buôn nói:
    - Bọn chúng tôi mười bốn người trên giang hồ cũng có chút danh tiếng, nếu được tiểu tiên sinh cứu chữa, cả bọn ra ngoài tuyên dương, ai ai cũng nghe đến đại danh y thuật như thần của thầy, chỉ trong sớm tối, tên thầy đã truyền khắp thiên hạ rồi.
    Trương Vô Kỵ tuổi còn nhỏ, không biết tình đời, nghe hai người nịnh mấy câu, không khỏi hoan hỉ, nói:
    - Dang vang thiên hạ đâu có để làm gì? Hồ tiên sinh nếu không chữa, tôi cũng không làm sao được. Thế nhưng các ông bị thương nặng cả, thôi để tôi cắt cho các ông thuốc giảm đau thì được.
    Nói rồi y lấy ra kim sang ra bôi cho họ cầm máu, bớt nhức.
    Khi Vô Kỵ coi kỹ vết thương mỗi người, càng coi càng cảm thấy lạ lùng kinh dị. Thì ra mỗi người một loại thương thế, mà cách đả thương cũng khác nhau, toàn là những loại mà từ trước đến nay Hồ Thanh Ngưu chưa từng dạy qua bao giờ. Có người thị bị ép uống mấy chục mũi cương châm, trên kim lại có tẩm thuốc độc. Có người thì bị nội lực đánh dập can tạng nhưng các huyệt Hành Gian, Trung Phong, Âm Bao, Ngũ Lý là các yếu huyệt để trị gan lại bị dao đâm nát, hiển nhiên người hạ thủ cũng tinh thông y lý, cốt để thầy thuốc không có cách chữa. Có người thì hai lá phổi bị cắm hai cái đinh sắt, không ngừng ho ra máu. Có người gân cốt hai bên bị đánh đứt nhưng tim phổi lại không sao. Có người hai tay bị cắt đứt, nhưng tay phải nối qua tay trái, tay trái nối qua tay phải, máu me bê bết, trông không ra hình thù gì. Lại một người khác cả người bầm tím, nói là bị rết, bò cạp, ong vàng hai mươi loại độc trùng cùng cắn.
    Trương Vô Kỵ chỉ mới coi sáu bảy người đã phải nhíu mày, nghĩ thầm: “Những người này thương thế cổ quái như thế, đến một loại ta còn trị chưa xong. Hung thủ ra tay đánh người, sao lại hành hạ người ta ác độc ghê gớm đến vậy?” Bỗng y chợt nghĩ ra: “Vết thương trên vai và cánh tay Kỷ cô cô xem ra bình thường, hay là cô bị nội thương nào đặc biệt, không lẽ một mình cô không giống người khác?”. Y vội quay vào phòng trong, nắm tay bắt mạch Kỷ Hiểu Phù, lập tức giật mình, thấy mạch cô ta lúc mạnh lúc yếu, lúc sáp, lúc hoạt[11], hiển nhiên nội tạng có gì khác thường, nhưng tại sao lại ra như thế, quả thật khó biết.
    Mười bốn người kia thương thế khác lạ, Vô Kỵ chẳng để tâm, còn thầm nghĩ bọn người phái Không Động có liên quan đến việc bức tử cha mẹ mình, lúc này bị chứng quái dị, có chết cũng đáng. Thế nhưng thương thế của Kỷ Hiểu Phù thì không thể không chữa, nên y bèn đi tới trước phòng của Hồ Thanh Ngưu, hạ giọng hỏi:
    - Tiên sinh, ông đã ngủ chưa?
    Nghe Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Chuyện gì thế? Dù có là ai ta cũng không chữa.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vâng. Có điều những người này bị thương, sao thật là kỳ quái.
    Y đem tất cả bệnh trạng mỗi người nhất nhất kể lại cho Hồ Thanh Ngưu nghe. Hồ Thanh Ngưu ở cách chiếc mền che chăm chú nghe, chỗ nào không rõ ràng, bảo Trương Vô Kỵ đi ra coi lại rồi cho hay. Trương Vô Kỵ tốn mất cả nửa giờ mới kể hết các chứng của mười lăm người kia. Hồ Thanh Ngưu miệng không ngớt ừ hử, rõ ràng đang suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói:
    - Hừ, những quái thương này, ngoài ta ra không ai … Đằng sau Trương Vô Kỵ bỗng có người tiếp lời:
    - Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của bông hoa vàng bảo tôi nhắn lại với ông là “Ngươi uổng xưng Y Tiên, trong mười lăm loại kỳ thương quái độc này, không thể chữa nổi một loại nào cả”. Ha ha, quả nhiên ông chỉ trốn ở trong nhà, giả vờ bị bệnh.
    Trương Vô Kỵ quay đầu lại, thấy người nói câu đó chính là gã hói đầu Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động. Trên đầu y không còn một sợi tóc nào, thoạt tiên Trương Vô Kỵ tưởng y trời sinh đầu hói, sau mới biết y bị người ta bôi một loại thuốc độc lên, đầu tóc rụng sạch, độc dược còn đang ăn xuống, e rằng chỉ vài ngày nữa lan tới tận óc, không khỏi điên cuồng. Lúc này hai tay y bị đồng bạn dùng xích sắt khóa chặt không để cho y đưa lên đầu gãi, nếu không cái cảnh bị ngứa không chịu nổi thế này, chắc y đã cào lòi xương sọ ra rồi.
    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
    - Ta trị được hay không được cũng chẳng sao, nhưng ta không chữa cho ngươi. Ta xem ngươi chỉ còn sống được bảy tám ngày, sao không mau về nhà, còn gặp vợ con được một lần, ở đây nói lảm nhảm, có ích lợi gì?
    Giản Tiệp đầu ngứa chịu không nổi, y vẫn thường hoặc cọ sát, hoặc lao đầu vào tường, lúc này xích khóa tay chân kêu loảng xoảng, thở hổn hển nói:
    - Hồ tiên sinh, chủ nhân bông hoa vàng sớm tối sẽ đến tìm nhà ngươi, ta xem ngươi cũng chẳng được chết yên lành đâu, cả bọn liên thủ, cùng chống cường địch, chẳng hơn là ngươi nằm trốn trong phòng bó tay chờ chết hay sao?
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Bọn ngươi nếu đánh nổi y thì đã giết được hắn rồi, ta được thêm mười lăm cái bị thịt giúp vào thì có ích gì?
    Giản Tiệp lại năn nỉ thêm một hồi, Hồ Thanh Ngưu không thèm lý tới. Sau cùng Giản Tiệp nổi khùng lên, quát lớn:
    - Được rồi, đằng nào cũng chết, ta cho một mồi lửa đốt cái chuồng chó này cho biết tay. Bọn ta vào đâm cho ngươi mấy nhát, để cùng với tên thầy lang khốn nạn này cùng chết cho xong.
    Lúc đó bên ngoài một người khác đi vào, chính là gã hồi trước thổ huyết. Y thò tay vào bọc lấy ra một cái nga mi thích, giơ ra dí vào ngực Giản Tiệp, lạnh lùng nói:
    - Ngươi đắc tội với Hồ tiền bối, họ Tiết này thanh toán ngươi trước. Ngươi muốn dao nhuộm máu thì để ta cho ngươi biết tay.
    Võ công Giản Tiệp vốn cao hơn gã họ Tiết, nhưng y tay chân bị xích chặt, không sao kháng cự được, chỉ còn nước trợn mắt, thở hồng hộc. Gã họ Tiết lớn tiếng nói:
    - Hồ tiền bối, vãn bối là Tiết Công Viễn, là môn hạ của Tiên Vu tiên sinh phái Hoa Sơn, xin khấu đầu trước lão nhân gia.
    Nói xong quì xuống, rập đầu mấy cái. Giản Tiệp lúc ấy trong lòng có chút hi vọng, Hồ Thanh Ngưu nói nặng không nghe, gã tiểu tử này lạy lục cầu khẩn, có khi lại được không chừng. Tiết Công Viễn hành đại lễ xong, nói:
    - Hồ tiền bối thân thể khiếm an, bọn chúng tôi thật là kém phúc. Ở đây có vị tiểu huynh đệ y đạo cao minh, xin Hồ tiền bối ưng thuận cho cậu ấy trị bệnh cho chúng tôi. Chúng tôi người người bị thương quái lạ, trừ đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên ra, khắp thiên hạ không người nào có thể trị khỏi được.
    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:
    - Thằng bé đó tên là Trương Vô Kỵ, là đệ tử của phái Võ Đương, con trai của Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp, đệ tử tái truyền của Trương Tam Phong. Còn Hồ Thanh Ngưu này là người trong Minh giáo, các người trong danh môn chính phái coi không ra gì, sao có can hệ gì với cao nhân đệ tử như y? Y trong người trúng phải âm độc, cầu ta chữa bệnh, nhưng ta đã lập trọng thệ trừ người trong Minh giáo ra, quyết không chữa cho người ngoại đạo. Tên họ Trương đó không chịu gia nhập Minh giáo, ta đâu có chữa cho y làm chi?
    Tiết Công Viễn thất vọng, lúc đầu y tưởng Trương Vô Kỵ là đệ tử của Hồ Thanh Ngưu, bản lãnh chẳng bằng sư phụ, gặp chỗ nghi nan, Hồ Thanh Ngưu thể nào chẳng chỉ điểm, nào ngờ chính y cũng chỉ là bệnh nhân xin chữa không được mà thôi.
    Lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
    - Các ngươi ở lì nhà ta không chịu đi, hừ, bộ các ngươi tưởng ta sẽ rủ lòng thương sao? Bọn ngươi thử hỏi thằng bé đó xem, nó ở đây bao lâu rồi?
    Tiết Công Viễn và Giản Tiệp nhìn Trương Vô Kỵ, chỉ thấy y giơ hai ngón tay, rồi lại giơ một ngón. Tiết Công Viễn hỏi:
    - Hai mươi ngày rồi ư?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tính ra hai năm hai tháng rồi.
    Giản Tiết hai người mặt mày ngơ ngẩn, cùng buông một tiếng thở dài. Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
    - Y có ở lì đây mười năm, ta cũng không cứu mạng đâu. Trong vòng một năm nữa thôi, âm độc tích tụ trong lục phủ ngũ tạng sẽ phát tác, y không cách nào sống được đến ngày này sang năm. Ta Hồ Thanh Ngưu trước đây từng lập trọng thệ trước Minh tôn là dù cho cha ruột ta, con cái ta, nếu không phải đệ tử Minh giáo, ta cũng sẽ không chữa thuốc cứu mạng cho đâu.
    Giản Tiệp và Tiết Công Viễn hai người thất vọng, đang định đi ra, Hồ Thanh Ngưu bỗng nói:
    - Gã đệ tử phái Võ Đương này cũng biết đôi chút nghề thuốc, y lý của phái Võ Đương tuy còn kém xa Minh giáo ta, nhưng cũng không đến nỗi làm chết người. Phái Võ Đương có cứu người cũng tốt, mà thấy chết không cứu cũng tốt, không liên hệ gì đến Minh giáo hay Hồ Thanh Ngưu cả.
    Tiết Công Viễn sựng người, nghe giọng lưỡi y dường như muốn Trương Vô Kỵ ra tay chữa cho họ, liền nói:
    - Hồ tiền bối, vị Trương tiểu hiệp này nếu ra tay cứu độ, chúng tôi cũng có hi vọng sống phải không?
    Hồ Thanh Ngưu đáp:
    - Y cứu hay không cứu, có liên quan chó gì đến ta đâu? Vô Kỵ, ngươi nghe đây, ở trong nhà của Hồ Thanh Ngưu, ngươi không được trổ nghề chữa bệnh, trừ khi ra khỏi nhà ta rồi, thì ngươi làm gì ta không cần biết.
    Tiết Công Viễn và Giản Tiệp mới đầu cũng thầm hi vọng, bây giờ nghe nói thế, lại đâm ra hoang mang, không biết ý tứ ông ta thế nào. Trương Vô Kỵ so với họ thông minh hơn nhiều, lập tức hiểu ngay, nói:
    - Hồ tiên sinh trong người có bệnh, các ông không nên quấy nhiễu ông ấy nữa, xin tất cả cùng đi ra.
    Ba người ra đến thảo đường, Trương Vô Kỵ nói:
    - Các vị, tiểu khả tuổi nhỏ kiến thức nông cạn, vết thương các vị lại thật quái dị, chữa được hay không, không có gì chắc chắn. Nếu các vị tin tưởng ở tôi, thì để tiểu khả hết sức xem sao, sống chết là ở số trời.
    Lúc này mỗi người ai cũng bị thương không ngứa thì đau, không tê thì xót, ai cũng sống dở chết dở, dù có bảo uống tì sương độc dược, họ cũng coi như ăn cục kẹo miễn là hết được đau khổ, nên khi nghe Trương Vô Kỵ nói thế, ai nấy đều vui mừng bằng lòng.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hồ tiên sinh không cho phép tiểu khả ra tay trong nhà ông ta, để nếu như chết người làm tổn lụy cái danh Y Tiên, vậy xin tất cả ra ngoài.
    Mọi người còn đang phân vân, thấy y bất quá chỉ mười bốn, mười lăm, tài ba dẫu sao cũng có giới hạn, ở trong nhà Y Tiên, ít ra còn có chỗ nương tựa, nếu đi ra khỏi nhà rồi, lỡ y chữa lăng chữa nhăng, thương thế càng nặng, chỉ khổ thêm.
    Giản Tiệp lớn tiếng nói:
    - Đầu ta ngứa muốn chết, tiểu huynh đệ, xin ngươi trị cho ta trước.
    Nói xong y loảng xoảng kéo dây xích chạy ra ngoài. Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, đi vào phòng thuốc lấy Nam Tinh, Phòng Phong, Bạch Chỉ, Thiên Ma, Bạch Phụ Tử, Hoa Nhị Thạch hơn mười vị thuốc, sai tiểu đồng cho vào cối giã nát, trộn rượu mạnh, chế thành cao đem ra đắp lên đầu Giản Tiệp.
    Cao vừa đắp lên, Giản Tiệp đau quá nhảy chồm chồm, vừa nhảy vừa kêu:
    - Đau quá, đau đến chết mất. Ôi, thế nhưng đau cũng được, so với ngứa còn đỡ khổ hơn nhiều.
    Y nghiến răng trèo trẹo, trên bãi cỏ nhảy lên nhảy xuống, kêu luôn mồm:
    - Đau quá đi, con mẹ nó, thằng nhỏ này quả có bản lãnh. Không, Trương tiểu hiệp, họ Giản này phải cám ơn cậu mới phải.
    Bọn người kia thấy Giản Tiệp đầu ngứa có công hiệu ngay, lập tức ùa ra nhờ Trương Vô Kỵ trị bệnh. Lúc đó có một người ôm bụng, lăn lộn dưới đất kêu rên, thì ra y bị bắt ép phải nuốt hơn ba chục con đỉa sống. Những con đỉa đó vào trong bụng liền bám vào thành dạ dày và ruột hút máu. Trương Vô Kỵ nhớ đến trong y thư có chép: Đỉa gặp mật liền hóa thành nước. Ở Hồ Điệp Cốc có rất nhiều mật hoa, liền sai tiểu đồng đem ra một bát lớn, cho y uống.
    Cứ như thế đến khi trời sáng, Kỷ Hiểu Phù và Dương Bất Hối tỉnh dậy đi ra khỏi phòng, thấy Trương Vô Kỵ đầu toát mồ hôi đang trị thương cho mọi người. Kỷ Hiểu Phù liền vào giúp y băng bó, và truyền tin việc lấy các loại thuốc. Chỉ có Dương Bất Hối vô tư vô lự, miệng nhai táo, mận chạy tung tăng đuổi bướm. Mãi đến quá trưa, Trương Vô Kỵ mới xong bước đầu trị ngoại thương, người nào chảy máu thì cầm máu, người nào đau thì giảm đau. Thế nhưng mỗi người đều bị thương rất cổ quái, phức tạp, không phải chỉ ở ngoài mà xong. Trương Vô Kỵ về phòng nằm ngủ một lát, trong cơn mơ màng nghe tiếng người rên rỉ, vội choàng dậy chạy ra, thấy vài người bớt đau nhưng quá nửa lại trở thành nguy kịch. Y không biết phải làm sao, đành chạy vào nói lại cho Hồ Thanh Ngưu nghe.
    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
    - Bọn đó không phải người trong Minh giáo, sống cũng tốt mà chết cũng không sao, ta không cần biết đến.
    Trương Vô Kỵ chợt động tâm cơ, nói:
    - Nếu như có một đệ tử Minh giáo, bên ngoài không thương tích gì, nhưng bên trong máu tụ lại trương phù lên, mặt đỏ phị, mê man sắp chết, tiên sinh sẽ phải trị cách nào?
    Hồ Thanh Ngưu đáp:
    - Nếu người đó là đệ tử Minh giáo thì ta dùng Sơn Giáp, Qui Vĩ, Hồng Hoa, Sinh Địa, Linh Tiên, Huyết Kiệt, Đào Tiên, Đại Hoàng, Nhũ Hương, Một Dược, đem rượu đun lên, cho thêm Đồng Tiện, uống vào sẽ tả ứ huyết ra.
    Trương Vô Kỵ lại hỏi:
    - Nếu như có một đệ tử Minh giáo bị người ta đổ thiếc vào tai trái, tai phải thì bị đổ thủy ngân, mắt thì bị trét sơn sống, đau đớn chịu không nổi, không nhìn thấy được, thế thì phải làm sao?
    Hồ Thanh Ngưu nổi giận đùng đùng:
    - Đứa nào mà đám hại đệ tử Minh giáo của ta đến mức đó?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Kẻ đó quả thật tàn ác, nhưng cháu nghĩ là mình phải trị thương tai mắt cho đệ tử Minh giáo đó trước, sau đó mới truy hỏi xem kẻ thù là ai cũng được.
    Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ một chốc nói:
    - Nếu người đó là đệ tử Minh giáo, ta sẽ dùng thủy ngân đổ vào tai trái, thiếc sẽ tan vào thủy ngân, theo đó mà chảy ra ngoài. Còn ta dùng kim vàng ngoáy tai phải, thủy ngân sẽ bám vào kim từ từ kéo ra. Còn sơn sống vào mắt, thử giã cua lấy nước đắp vào có thể hóa giải được không chừng.
    Cứ như thế, Vô Kỵ đem hết những y án khó khăn nghi nan từng việc một kể lại, giả thác làm như đệ tử Minh giáo bị thương hỏi Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu dĩ nhiên hiểu dụng ý của y, nhưng vẫn dạy y cách điều trị. Thế nhưng những vết thương đó hết sức quái dị, Trương Vô Kỵ theo đó mà chữa nhưng vẫn không kiến hiệu, Hồ Thanh Ngưu lại phải suy nghĩ một hồi rồi đưa ra một cách khác.
    Cứ như thế năm sáu ngày sau, thương thế mọi người đều đỡ dần. Nội thương của Kỷ Hiểu Phù vốn do trúng độc, Trương Vô Kỵ chẩn đoán rõ ràng rồi mới dùng Sinh Long Cốt, Tô Mộc, Thổ Cẩu, Ngũ Linh Chi, Thiên Kim Tử, Cáp Phấn[12] các loại cho cô ta uống, giải độc, làm tan máu bầm, bắt mạch lại thấy mạch tế hoãn, thương thế giảm nhiều.
    Lúc này mọi người đã đựng bên ngoài thảo đường một cái nhà tranh, dưới đất trải rơm làm chiếu để nằm. Hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù thì ở một cái chòi cách đó vài trượng, do Trương Vô Kỵ yêu cầu mọi người dựng giùm. Mười bốn người đó vốn là hào khách tung hoành ngang dọc trên chốn giang hồ, lúc này tính mạng nằm trong tay Trương Vô Kỵ, nhất nhất việc gì thiếu niên này sai bảo không dám trái lời. Dịp này tuy Trương Vô Kỵ phải một phen tân khổ nhưng cũng học được rất nhiều điều hay, nhiều phương thuốc lạ, nhiều cách chữa thần kỳ của Hồ Thanh Ngưu.
    Một buổi sáng sớm, khi Trương Vô Kỵ quan sát Kỷ Hiểu Phù, bỗng thấy giữa lông mày nàng có ẩn ẩn một làn hắc khí, dường như thương thế trở bệnh, những độc khí tiêu giải rồi nay lại quay về, vội vàng giơ tay bắt mạch, lại bảo nàng nhổ một bãi nước bọt, hòa vào Bách Hợp Tán để xem, quả nhiên độc tính trong cơ thể lại tăng. Trương Vô Kỵ suy nghĩ một hồi không giải thích được, chạy vào nội đường thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu, Hồ Thanh Ngưu thở dài, đưa ra phép trị. Trương Vô Kỵ theo đó mà làm, quả nhiên hữu hiệu. Thế nhưng đầu Giản Tiệp lại loét ra, thối tha chịu không nổi. Chỉ trong vài ngày cả mười lăm người thương thế đều biến chuyển khó chữa, rõ ràng đã bớt đến tám chín thành chỉ một đêm bệnh lại trở nặng.
    Trương Vô Kỵ không rõ tại sao, vào hỏi Y Tiên, Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Những người này bị thương không phải tầm thường, nếu chỉ chữa một lần là xong thì việc gì phải đến Hồ Điệp Cốc năn nỉ ta chữa bệnh?
    Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ nằm trên giường suy nghĩ: “Thương thế phản phục, tuy cũng là chuyện thường, nhưng sao lại cả mười lăm người đều bị hết, huống chi biến đi rồi lại biến lại quả thật lạ kỳ”. Nằm trằn trọc mãi đến canh ba, cũng vì chuyện đó nên không ngủ được. Bỗng dưng ngoài song cửa có tiếng chân người đạp lên lá cây xào xạc, ai đó đang dùng khinh công đi qua.
    Trương Vô Kỵ nổi tính hiếu kỳ, lè lưỡi nhấm giấy dán cửa sổ, nhìn ra ngoài, thấy bóng người sau lưng vụt qua, nấp sau một cây hòe, nhìn quần áo, quả nhiên là Hồ Thanh Ngưu.
    Vô Kỵ lạ quá, nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh dậy làm gì? Không biết bệnh đậu mùa ông ta đã khỏi chưa?” Thế nhưng xem các đi đứng của Hồ Thanh Ngưu, rõ ràng không muốn cho ai trông thấy, một lúc sau, thấy ông ta đi về phía cái chòi của mẹ con Kỷ Hiểu Phù. Trương Vô Kỵ tim đập thình thịch, tự hỏi: “Ông ta đến làm nhục Kỷ cô cô chăng? Tuy ta không phải là địch thủ của ông ta nhưng việc này không thể không can thiệp”. Y lập tức nhảy ra ngoài cửa sổ, rón rén chạy theo Hồ Thanh Ngưu, thấy y lẻn vào căn lều. Cái chòi đó làm vội cho xong, không tường không cửa, chỉ cốt che mưa trú nắng, người ngoài ai vào cũng được.
    Trương Vô Kỵ gấp gáp, chạy vội đến phía sau căn lều, nằm phục xuống nhìn vào, thấy mẹ con Kỷ Hiểu Phù ôm nhau say sưa nằm ngủ trên đám cỏ khô, Hồ Thanh Ngưu lấy trong bọc ra một viên thuốc, bỏ vào bát thuốc rồi quay mình đi ra. Chỉ trong nháy mắt, Trương Vô Kỵ cũng nhìn rõ ông ta mặt che tấm vải xanh, không biết bệnh đã đỡ chưa. Y lập tức hiểu ngay, trên lưng đổ mồ hôi lạnh: “Thì ra Hồ tiên sinh nửa đêm ra ngoài lén hạ độc, cho nên những người này bệnh mới không khỏi”.
    Hồ Thanh Ngưu lại đi vào căn nhà tranh của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, rõ ràng cũng đến cho họ uống thuốc độc, đợi một lúc lâu chưa thấy ông ta đi ra, chắc là vì mười bốn người này mỗi người một cách khác nhau nên mất nhiều thì giờ. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng chạy vào trong cái chòi của Kỷ Hiểu Phù, cầm bát thuốc lên ngửi. Bát thuốc này vốn đựng Bát Tiên Thang, để cho cô ta sáng sớm uống, bây giờ có mùi nồng nặc xông lên mũi. Vừa lúc đó, bên ngoài có tiếng chân nhẹ nhàng đi qua, biết là Hồ Thanh Ngưu đã quay trở về phòng ngủ.
    Trương Vô Kỵ bỏ bát thuốc xuống, khẽ gọi:
    - Kỷ cô cô, Kỷ cô cô.
    Kỷ Hiểu Phù võ công không phải kém, đúng ra tai mắt rất thính, dù có đang ngủ say, chỉ cần một tiếng động nhẹ là tỉnh ngay, nhưng Trương Vô Kỵ gọi đến mấy lần nàng vẫn chưa thức giấc. Trương Vô Kỵ đành giơ tay lay đầu vai, lay đến bảy tám lần, Kỷ Hiểu Phù lúc đó mới mở choàng mắt, kinh hãi hỏi:
    - Ai đó?
    Trương Vô Kỵ hạ giọng:
    - Kỷ cô cô, cháu Vô Kỵ đây. Bát thuốc của cô có người bỏ thuốc độc vào, không nên uống nữa. Cô đem ra đổ xuống suối nhưng làm như không biết, sáng mai cháu sẽ nói rõ cho cô nghe.
    Kỷ Hiểu Phù gật đầu. Trương Vô Kỵ ngại Hồ Thanh Ngưu phát giác, về đến phòng mình nhảy cửa sổ vào nhà.
    Hôm sau, ăn sáng xong, Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối cùng nhau chạy đuổi bướm trong thung lũng, càng đuổi càng xa. Kỷ Hiểu Phù biết ý, lẽo đẽo theo sau. Mấy hôm nay, Trương Vô Kỵ vẫn thường dẫn Bất Hối đi chơi, nên ai nấy thấy ba người đi cùng chẳng ai để ý. Đi khoảng hơn một dặm, đến một triền núi, Trương Vô Kỵ mới ngồi xuống bãi cỏ. Kỷ Hiểu Phù nói với con:
    - Bất nhi, con đừng đuổi bướm nữa, mau đi hái hoa làm ba cái vòng đội đầu cho mỗi người một cái.
    Dương Bất Hối thích lắm vội chạy đi hái hoa, bẻ lá.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kỷ cô cô, không biết Hồ Thanh Ngưu có gì thù oán với cô mà lại ra tay hạ độc?
    Kỷ Hiểu Phù kinh ngạc nói:
    - Ta với Hồ tiên sinh không hề biết nhau, cho đến hôm nay cũng chưa gặp ông ta lần nào, làm gì có chuyện “thù oán”?
    Nàng trầm ngâm giây lát, nói tiếp:
    - Cha ta và sư phụ mỗi khi nói tới Hồ tiên sinh, đều bảo ông ta y thuật như thần, là người thiên hạ đời nay không ai sánh kịp, chỉ tiếc lại ở trong Minh giáo, đi con đường tà. Cha ta và sư phụ cũng không biết ông ta, vậy sao, sao … ông ta lại hạ độc hại ta nhỉ?
    Trương Vô Kỵ liền đem việc Hồ Thanh Ngưu lén bỏ thuốc độc đêm qua thuật lại cho Kỷ Hiểu Phù nghe, rồi nói:
    - Cháu ngửi mùi thang thuốc Bát Tiên thấy có cỏ Thiết Tuyến và nấm Thấu Cốt xông lên mũi. Hai vị thuốc này vốn dĩ có thể trị thương nhưng độc tính rất mạnh, cắt thuốc không thể cho nhiều, lại kỵ với những vị trong Bát Tiên Thang, có hại cho cơ thể. Tuy không chí mạng nhưng sẽ làm dây dưa khó chữa.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Ngươi nói cả mười bốn người kia cũng bị như vậy, việc này quả thực kỳ quái. Nếu nói cha ta hay phái Nga Mi vô ý đắc tội với Hồ tiên sinh, không lẽ cả mười bốn người kia cũng như thế?
    Trương Vô Kỵ hỏi lại:
    - Kỷ cô cô, Hồ Điệp Cốc này thật kín đáo, làm sao mọi người ai cũng biết mà tìm tới đây? Chủ nhân bông hoa vàng đả thương cô là ai? Những việc đó vốn không can hệ gì tới cháu đáng lẽ không nên hỏi nhưng việc trước mắt sao quá nhiều đầu dây mối nhợ, xin cô đừng trách.
    Kỷ Hiểu Phù đỏ mặt, hiểu ngay ý Trương Vô Kỵ muốn gì, y ngại chuyện này có liên quan đến việc cô ta chưa chồng sao đã có con, e nói ra xấu hổ, liền nói:
    - Cháu cứu tính mạng cô, cô cũng chẳng dấu cháu làm gì? Huống chi cháu đối đãi với cô và em Bất Hối thật tử tế, tuy cháu còn nhỏ tuổi, những nỗi khổ trong lòng, ngoài cháu ra, trên đời này cô chưa nói với một ai khác.
    Nói đến đây nàng không cầm được nước mắt. Kỷ Hiểu Phù lấy khăn tay chùi hai giòng lệ nói:
    - Khoảng hai năm trước, cô và một vị sư tỉ có chuyện bất hòa nên không dám quay về gặp sư phụ nữa, cũng không dám về nhà … Trương Vô Kỵ xen vào:
    - Hừ, con mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân quả là tệ hại. Cô cô, cô không việc gì phải sợ y thị cả.
    Kỷ Hiểu Phù lạ lùng:
    - Ồ, làm sao cháu biết?
    Trương Vô Kỵ bèn kể lại chuyện đêm hôm đó vì sao y và Thường Ngộ Xuân ẩn nấp ở trong rừng, thấy cô ta cứu Bành hòa thượng ra sao. Kỷ Hiểu Phù buồn bã thở dài, nói:
    - Nếu muốn người ta không biết, chỉ có thể đừng làm[13]. Tai mắt người trên đời, không thể nào che dấu được.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cô cô, Ân lục thúc tuy là một người rất tốt, nhưng nếu cô không thích, không lấy lục thúc thì cũng không có gì quan trọng. Lần tới cháu gặp lục thúc, cháu sẽ nói ông ấy đừng ép uổng cô làm chi.
    Kỷ Hiểu Phù thấy Vô Kỵ nói chuyện thật ngây thơ, coi mọi việc trên đời đều nhẹ nhàng như thế, không khỏi gượng cười, ôn tồn nói:
    - Hài tử, không phải ta có ý phụ bạc Ân lục thúc đâu, sự tình lúc đó không còn cách nào khác hơn, nhưng … nhưng về sau ta cũng không có gì phải hối hận … Nàng thấy khuôn mặt Vô Kỵ thật là trong sáng, nghĩ thầm: “Tâm địa thằng bé này chẳng khác chi một tờ giấy trắng, những chuyện tình ái nam nữ, chẳng nên nói với nó thì hơn, vả lại chuyện trước mắt không có liên hệ gì đến đó cả”. Nàng nói tiếp:
    - Ta và Đinh sư tỉ gây gỗ rồi, nên sau đó không về lại núi Nga Mi, dẫn Bất nhi về ẩn cư ở núi Thuấn Canh ở phía tây cách ba trăm dặm. Hai năm qua, ngày ngày chỉ làm bạn với người dân quê, kẻ đốn củi, thật là tiêu dao an lạc. Nửa tháng trước, ta dẫn Bất nhi lên trên chợ mua vải, định may cho con bé vài cái áo mới, thấy trên góc tường vẽ bằng phấn trắng một vòng hào quang giữa có một thanh kiếm nhỏ, nét bút còn mới. Đó là dấu hiệu gọi đồng môn của phái Nga Mi, ta trông thấy không khỏi kinh hoàng. Suy nghĩ một hồi, ta với Đinh sư tỉ tuy bất hòa, nhưng không phải lỗi ở ta, ta cũng không làm chuyện gì khi sư phản môn, hôm nay thấy đồng môn lâm nạn, không thể không đến cứu giúp. Nghĩ thế ta đi theo dấu hiệu chỉ đường, tới Phượng Dương.
    Ở trong thành Phượng Dương, ta lại nhìn thấy dấu hiệu, liền dắt Bất nhi đến Lâm Hoài Các tửu lâu, đã có bảy tám nhân sĩ võ lâm chờ sẵn, Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động, Tiết Công Viễn của phái Hoa Sơn cùng ba sư huynh đệ cũng trong số đó. Thế nhưng không có đồng môn phái Nga Mi.
    Ta trước đây đã từng gặp Tiết Công Viễn, Giản Tiệp rồi, hỏi nguyên do thì mọi người đều nhận được tín hiệu của đồng môn, liền tìm đến nơi này phó ước, còn vì chuyện gì thì chẳng ai hay biết.
    Hôm đó ta chờ cả ngày, không thấy đồng môn Nga Mi nào cả, nhưng về sau lại kéo đến thêm mấy người, có Thần Quyền Môn, có Cái Bang, ai cũng nói là nhận được ước hiệu kêu gọi của đồng môn. Hôm sau lại có thêm mấy người khác, nhưng cũng chỉ những người nhận tín hiệu chứ không có ai là người đưa tín hiệu cả. Mọi người bàn với nhau xong đều nghi ngờ: Phải chăng cả bọn bị địch nhân đùa rỡn?
    Thế nhưng cả mười lăm người tụ tại Lâm Hoài Các tửu lâu, bao gồm cả thảy chín môn phái, mỗi môn phái truyền tín hiệu hoàn toàn khác nhau, lại nghiêm thủ bí mật, ngoài người trong bản môn ra, người khác nhìn thấy không thể biết ý nghĩa thế nào. Nếu quả có địch nhân ở bên trong lén bố trí âm mưu, không lẽ y biết cả mật hiệu của toàn thể chín môn phái? Ta vốn dắt theo Bất nhi ngại gặp hung hiểm, lại cũng không muốn gặp đồng môn, thấy không phải phái Nga Mi cầu cứu liền dắt Bất nhi toan đi về.
    Ta vừa xuống tửu lâu, bỗng nghe có tiếng cộc cộc, dường như có ai dùng gậy gõ vào bậc thang, tiếp theo là tiếng ho khúc khắc, thấy một bà lão lưng còng, tóc trắng như bông đi lên. Bà ta cứ đi vài bước lại ho mấy tiếng, thật là khó khăn, bên cạnh là một cô gái chừng mười hai, mười ba đỡ cánh tay trái. Ta thấy bà lão già cả, lại bệnh hoạn, liền đứng tránh qua một bên, nhường cho bà ta lên trước. Cô bé con thần thanh cốt tú, khuôn mặt thật là xinh đẹp. Bà lão tay phải cầm một cây gậy chống bằng gỗ trắng, mặc áo vải, trông như một bà cụ nghèo nàn, nhưng tay trái cầm một chuỗi tràng hạt màu vàng sáng lấp lánh, nhìn kỹ, thì ra chuỗi tràng hạt đó mỗi một hạt niệm châu đều đúc bằng vàng, hình bông hoa mai … Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nhịn không nổi vội nói chen vào:
    - Bà cụ đó chắc là chủ nhân của bông hoa vàng, phải không?
    Kỷ Hiểu Phù gật đầu:
    - Đúng vậy. Thế nhưng lúc đó có ai nghĩ ra đâu?
    Nàng lấy trong bọc ra một bông hoa mai nhỏ đúc bằng vàng, giống y hệt bông hoa mà lúc trước Trương Vô Kỵ đã đem vào cho Hồ Thanh Ngưu xem. Trương Vô Kỵ thấy lạ lùng, mấy hôm nay y vẫn nghĩ “chủ nhân những bông hoa vàng” này phải là một người hung ác dễ sợ, hình dạng ghê gớm, nay nghe Kỷ Hiểu Phù nói, hóa ra chỉ là một bà lão bệnh hoạn, quả thực y không thể nào tưởng tượng nổi.
    Kỷ Hiểu Phù nói tiếp:
    - Bà cụ đó lên trên lầu rồi lại ho một trận nữa. Cô bé gái nói: “Bà ơi, bà uống thuốc nhé?”. Bà lão gật đầu, cô gái móc ra một cái bình sứ, lấy trong bình ra một viên thuốc, bà già nhai trệu trạo xong niệm mấy câu: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Đôi mắt già nua hấp háy, nói lẩm bẩm: “Chỉ có mười lăm người, hừ, ngươi hỏi họ thử xem, hai phái Võ Đương và phái Côn Lôn có ai đến không?” Khi bà ta lên trên lầu không ai để ý, bây giờ nghe nói thế, mấy người tai thính trên chốn giang hồ liền quay đầu lại, thấy bà lão ốm yếu nghèo nàn, ai nấy tưởng mình nghe lầm. Cô bé con lớn tiếng nói: “Này, bà của ta hỏi các ngươi, hai phái Võ Đương và Côn Lôn có ai đến không?”. Mọi người ai nấy sững sờ, không ai trả lời. Một lát sau, Giản Tiệp của phái Không Động mới trả lời: “Tiểu cô nương, cô nói gì thế?”. Cô bé đó nói: “Bà của ta hỏi: Vì sao không thấy đệ tử hai phái Võ Đương và phái Côn Lôn?”. Giản Tiệp hỏi lại: “Hai người là ai?”. Bà lão lại gập người ho sù sụ một hồi.
    Đột nhiên, một làn tập phong ào tới trước ngực ta. Làn gió đó không biết từ đâu đánh tới, nhưng nhanh lạ thường, ta vội đưa chưởng ra chống đỡ, thấy tức ngực, khí huyết dồn lên, đứng không vững, ngồi phịch xuống sàn, ói ra mấy ngụm máu tươi. Ta còn đang hoang mang chưa biết phải làm gì, thấy bà lão thân hình phiêu động, đông đánh ra một chưởng, tây đấm ra một quyền, thỉnh thoảng vẫn ho vài tiếng, trong nháy mắt đánh ngã tất cả mười bốn người còn lại. Bà ta ra tay thật bất ngờ, thân pháp lại quá nhanh nhẹn, kình lực mạnh mẽ, cả mười lăm người không ai trả lại được một chiêu, nửa thức nào. Người thì bị điểm huyệt, kẻ lại bị nội lực chấn thương tạng phủ. Lão bà bà đó liên tiếp vung tay trái, từng đóa hoa mai trong chuỗi tràng hạt lần lượt phóng ra, cắm vào cánh tay mỗi người. Bà ta quay lại, vịn vào cô gái, nói: “A Di Đà Phật” xong rồi run rẩy đi xuống lầu. Chỉ nghe tiếng gậy của bà ta gõ vào bậc thang cộc cộc chầm chậm, mỗi bước một xa hơn, thỉnh thoảng có tiếng ho khúc khắc truyền đến.
    Kỷ Hiểu Phù nói đến đây, Dương Bất Hối đã kết được một cái vòng đội đầu bằng hoa, cười khúc khích chạy đến, nói:
    - Mẹ, cái vòng hoa này cho mẹ đội nè.
    Nói xong đội lên đầu Kỷ Hiểu Phù. Kỷ Hiểu Phù cười, kể tiếp:
    - Lúc đó trên tửu lâu, cả mười lăm người đều nằm gục dưới sàn, có người thì còn rên được mấy tiếng, có người thở hổn hển không ra hơi … Dương Bất Hối kinh hãi:
    - Mẹ, mẹ nói chuyện bà già ác ôn đấy ư? Đừng nói, đừng nói, con sợ lắm.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Bé ngoan, con chạy đi hái hoa làm cho anh Vô Kỵ một cái vòng nữa.
    Dương Bất Hối nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:
    - Anh thích hoa màu nào?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Anh thích màu đỏ, ồ, có cả màu trắng nữa, càng to càng tốt.
    Dương Bất Hối giang hai tay nói:
    - Bây lớn được không?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Được, cỡ bấy nhiêu đó.
    Bất Hối vỗ tay vừa chạy vừa nói:
    - Em làm xong anh phải đội đó nghe.
    Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:
    - Trong khi ta đang mê man, thấy khoảng một chục người, toàn là tửu bảo, chưởng quĩ, nấu ăn trong tửu lâu, đi tới khiêng cả bọn xuống nhà bếp. Bất nhi lúc đó sợ quá khóc òa lên, líu ríu theo mẹ. Tên chưởng quĩ tay cầm một tờ giấy, chỉ Giản Tiệp nói: “Bôi thuốc cao vào đầu tên này”. Lập tức một tên tửu bảo đem thuốc cao đã dự bị sẵn bôi lên đầu Giản Tiệp. Tên chưởng quĩ lại coi tờ giấy, chỉ một người nói: "Chặt tay bên phải tên này ráp qua tay bên trái". Hai tên đầu bếp lấy hai con dao sắc, theo đúng thế mà làm. Đến lượt ta may quá không bị hình phạt cổ quái nào, chỉ bắt uống một bát thuốc ngòn ngọt. Ta biết là thuốc đó thể nào cũng có chất cực độc, nhưng lúc đó số phận trong tay người, làm sao phản kháng gì được?
    Sau khi cả mười lăm người bị họ thi hành những khổ hình quái dị xong, tên chưởng quĩ nói: “Các ngươi người nào cũng bị những chứng bất trị, không ai sống nổi quá mười ngày nửa tháng. Nhưng chủ nhân của bông hoa vàng nói rằng, lão nhân gia với các ngươi không thù không oán, thấy các ngươi thật đáng thương nên mở lòng từ bi chỉ cho một con đường sống. Các ngươi đi đến bờ hồ Nữ Sơn, kiếm Hồ Điệp Cốc khẩn cầu một người xưng là Điệp Cốc Y Tiên tên Hồ Thanh Ngưu chữa trị cho. Nếu như y bằng lòng ra tay, các ngươi mới mong hi vọng sống được, ngoài ra trên đời này không ai cứu nổi các ngươi đâu. Tên Hồ Thanh Ngưu này cũng còn một cái ngoại hiệu Kiến Tử Bất Cứu, các ngươi nếu không hết sức cầu khẩn, y chắc chắn không chịu động thủ. Các ngươi cũng nhắn với Hồ Thanh Ngưu rằng, chủ nhân bông hoa vàng không lâu sẽ đến kiếm y, bảo y nên mau mau chuẩn bị hậu sự là vừa”. Y nói xong chỉ rõ lộ trình, cả bọn liền kéo nhau đến đây.
    Trương Vô Kỵ càng nghe càng lấy làm lạ, nói:
    - Kỷ cô cô, nếu như thế thì tất cả bọn chưởng quĩ, đầu bếp, tửu bảo đều cùng một bọn với bà già ác ôn kia ư?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Xem ra bọn đó đúng là thủ hạ của bà ta, tên chưởng quĩ cứ theo những điều viết trên tờ giấy của bà già ác ôn mà thi hành những khổ hình. Cho đến hôm nay, ta vẫn chưa minh bạch, tại sao mụ ta lại làm những việc quái dị đó? Nếu như có thù oán với bọn ta, muốn giết tất cả thì chỉ cần giơ tay là xong. Còn như muốn cho cả bọn thêm đau khổ, thì phải hành hạ thêm cách khác chứ sao lại chỉ đường cho đến tìm Hồ tiên sinh xin chữa trị? Lại nói không bao lâu nữa bà ta sẽ đi kiếm Hồ tiên sinh báo thù, không lẽ dùng phải dùng những cách thiên kỳ bách quái kia để thử tài Hồ tiên sinh chăng?
    Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, nói:
    - Nếu Kim Hoa bà bà muốn kiếm Hồ tiên sinh để gây sự, cứ lý mà nói, Hồ tiên sinh quả muốn chữa khỏi cho mọi người rồi cùng tất cả chung sức chống địch. Chính thế mà miệng ông ta nói không chữa, nhưng vẫn chỉ cho cháu các phương pháp giải cứu, đem áp dụng quả nhiên cực kỳ công hiệu. Nói trắng ra, ông ta ngoài mặt nói không, nhưng bên trong mượn tay cháu cứu người. Có điều là dạy cháu chữa cho mọi người khỏi rồi, nửa đêm lại len lén hạ độc, để cho mọi người sống dở chết dở, thật là kỳ quái.
    Hai người bàn tán hồi lâu, không hiểu lý do tại sao. Dương Bất Hối đã làm được một cái vòng hoa thật to, để cho Trương Vô Kỵ đội trên đầu. Trương Vô Kỵ nói:
    - Kỷ cô cô, từ rày chỉ khi nào chính cháu mang thuốc đến cô hãy uống, ngoài ra đừng có uống thuốc nào khác. Ban đêm cô nằm nhớ để sẵn binh khí, phòng có người gia hại. Trước mắt xem ra cô chưa đi khỏi đây được, để cháu làm ít thuốc tễ cho cô uống, sau khi không còn nội thương, sẽ tìm cách dẫn Bất Hối muội muội đào tẩu.
    Kỷ Hiểu Phù gật đầu, nói:
    - Này cháu, nếu gã họ Hồ có bụng khó dò như thế, cháu ở với y không phải là chuyện hay, hay là mình cùng trốn đi là hơn.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Ồ, ông ta trước nay đối với cháu thật tử tế. Hồi xưa ông ấy có nói rằng, chữa khỏi âm độc trong thân thể cháu xong rồi sẽ ra tay giết cháu. Thế nhưng ông ấy trị không xong, thành thử chẳng cần phải ra tay làm chi. Đúng ra lúc này mình cùng trốn đi, thật là ổn thỏa, thế nhưng trị nội thương cho cô còn mấy điều chưa rõ, cháu phải hỏi lại Hồ tiên sinh mới được.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Ông ta len lén hạ độc hại ta, nếu có dạy cháu phương thuật chữa trị sẽ cố ý nói sai không chừng.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Không hẳn thế đâu. Những phương pháp Hồ tiên sinh dạy cháu tất cả đều hiệu nghiệm như thần. Nếu có gì đúng hay sai, cháu đều biện biệt được. Lạ là ở chỗ đó. Cháu nghĩ rằng nếu như chủ nhân bông hoa vàng đến gây chuyện với Hồ tiên sinh, ông ta đang bị bệnh, nhân lúc ông ta gặp khó khăn cháu bỏ đi không đành. Thế nhưng xem ra Hồ tiên sinh giả vờ bị bệnh đấy thôi.
    Tối hôm đó, Trương Vô Kỵ không ngủ, đến lúc canh ba, quả nhiên lại nghe thấy tiếng chân Hồ Thanh Ngưu từ trong phòng đi ra, đến cái chòi của Kỷ Hiểu Phù bỏ thuốc độc. Cứ như thế ba ngày liền, Kỷ Hiểu Phù vì không uống thuốc có độc nên bệnh tình thuyên giảm rất nhanh. Còn bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn lại tái phát, bệnh trở qua trở lại, có mấy người tính tình nông nổi đã tỏ giọng oán thán, chê Trương Vô Kỵ y thuật kém cỏi. Trương Vô Kỵ không thèm lý tới, nghĩ thầm chỉ một đêm nữa thôi, sẽ cùng mẹ con Kỷ Hiểu Phù trốn đi thật xa, vì âm độc trong người mình không trừ được, nên cũng chẳng về núi Võ Đương làm gì để thái sư phụ và các sư thúc, sư bá khỏi thêm đau lòng, chi bằng kiếm một nơi thật hoang vắng rồi chết để khỏi ai hay.
    Đêm hôm đó khi đi ngủ, Trương Vô Kỵ nghĩ đến sáng sớm mai mình sẽ ra đi, Hồ Thanh Ngưu tuy cổ quái nhưng đối với mình không có gì không phải, nếu không nhờ ông ta chữa bệnh làm sao sống được đến hôm nay? Hơn hai năm qua, lại được ông ta dạy cho biết bao nhiêu là y thuật, nghĩ đến điều đó, khi sắp ra đi thấy buồn man mác, bèn đến trước phòng ông ta, hỏi thăm vài câu. Y tưởng đến việc Kim Hoa bà bà nay mai sẽ đến sinh sự, không biết ông ta chống trả cách nào, lòng không khỏi lo lắng, bèn nói:
    - Hồ tiên sinh, ông ở tại Hồ Điệp Cốc này sống cũng đã lâu, bộ không thấy chán sao? Chi bằng đi nơi khác chơi cho đỡ buồn.
    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên nói:
    - Ta đang bị bệnh, làm sao đi được?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kiếm một cỗ xe thì đi được chứ khó gì. Chỉ cần dùng vải che kín cửa trong cửa ngoài, không để cho gió vào là được. Nếu ông muốn đi ra ngoài, cháu sẽ đi cùng.
    Hồ Thanh Ngưu thở dài:
    - Hài tử, cám ơn cháu có lòng tốt. Trời đất tuy rộng, nhưng e rằng ở đâu cũng thế thôi. Mấy hôm nay cháu thấy trong ngực thế nào? Ở đan điền hàn khí có xông lên không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Hàn khí mỗi ngày một nặng, không có thuốc gì chữa được cả, thôi cũng đành để tự nhiên tới đâu hay đó.
    Hồ Thanh Ngưu im lặng một hồi, nói:
    - Để ta cho một cái toa cứu mệnh cho cháu, dùng Đương Qui, Viễn Chí, Sinh Địa, Độc Hoạt, Phòng Phong năm vị, đến canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay đi.
    Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, thấy năm vị đó chẳng liên quan gì với bệnh của mình, dược tính xem ra có chỗ xung đột là khác, dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn thật chẳng thông chút nào, hỏi lại:
    - Tiên sinh, những thuốc đó phân lượng ra sao?
    Hồ Thanh Ngưu nổi giận:
    - Phân lượng càng nhiều càng tốt. Ta đã nói rồi sao không mau mau cút ra đi.
    Mấy năm qua, mỗi khi Hồ Thanh Ngưu bàn luận y lý, dược tính với Trương Vô Kỵ đối với y nửa học trò, nửa bạn hữu, luôn luôn có vẻ lễ mạo, lúc này ăn nói chẳng chút lưu tình, Trương Vô Kỵ nghe xong, không khỏi nổi giận bừng bừng quay về phòng ngủ, nghĩ thầm: “Ta có bụng khuyên ông ta đi xa tránh họa, để khỏi bị sỉ nhục, vậy mà lại cho một cái toa láo lếu, tưởng mình không biết hay sao?”. Y nằm trên giường, nghĩ đến ngôn ngữ vô lễ của Hồ Thanh Ngưu, đang mơ mơ màng màng định ngủ, bỗng dưng nghĩ ra: “Đương Qui, Viễn Chí … sao lại phân lượng càng nhiều càng tốt là sao? Hay là … hay là ông ta muốn nói Đương Qui là “nên đi về đi”?” Khi nghĩ ra Đương Qui là nên đi về đi, y lại nghĩ tiếp Viễn Chí ắt là “chí ở phương xa, cao bay xa chạy”, Sinh Địa và Độc Hoạt thì ý đã rõ ràng đó là sinh lộ, có thể sống được. Còn Phòng Phong thì sao? Ồ, thì là nên “đề phòng tiết lộ phong thanh”. Y nghĩ tiếp: “canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay”. Xuyên Sơn Giáp là theo đường núi đào tẩu, đừng theo đường lớn mà đi, canh hai này nên trốn lập tức.
    Nghĩ đến đây y thấy cái toa thuốc quái đản của Hồ Thanh Ngưu đã giải được liền nhỏm dậy, nhưng lại nghĩ tiếp: “Hồ tiên sinh biết rằng trước mắt đại họa lâm đầu, nên có lòng tốt bảo mình đi trốn, thế nhưng lúc này địch nhân chưa đến, sao ông ta không nói trắng ra cho mình hay, mà lại dùng mật ngữ như thế? Nếu như ta không nghĩ ra, có phải làm hỏng việc không? Bây giờ canh hai đã qua rồi, mình nên chạy ngay. Y nghĩ thầm ắt Hồ tiên sinh có điều khó nói cần dấu, nên trong những ngày qua không chịu trốn đi, rất có thể bên trong đã an bài cơ quan xảo diệu để đối phó với cường địch rồi. Tuy ông ta nói mình “Phòng Phong, Độc Hoạt”, nhưng mẹ con Kỷ cô cô không thể không cứu.
    Nghĩ thế y lặng lẽ ra khỏi phòng, đi đến cái chòi tranh của Kỷ Hiểu Phù. Y thấy Kỷ Hiểu Phù nằm trên đám cỏ, nhưng có một người đang cúi xuống đè lên người nàng. Đêm đó có trăng sáng, dưới ánh trăng chiếu vào căn lều, Trương Vô Kỵ thấy người đó mặc áo xanh, đầu đội khăn vuông, vải xanh che mặt, chính là Hồ Thanh Ngưu, trong một chớp mắt bao nhiêu mối nghi ngờ nổi dậy.
    Hồ Thanh Ngưu tay trái đè lên mặt Kỷ Hiểu Phù, ép cô ta phải há miệng ra, tay phải cầm một viên thuốc, tính nhét vào mồm nàng. Trương Vô Kỵ thấy tình hình nguy cấp, vội nhảy vào, kêu lên:
    - Hồ tiên sinh, ông không thể hại người … Người kia kinh hãi quay đầu lại, tay lơi ra, nghe bình một tiếng, lưng đã bị Kỷ Hiểu Phù đánh trúng một chưởng. Thân hình y ngã xuống, chiếc khăn che mặt cũng tung ra một bên. Trương Vô Kỵ vừa nhìn qua, bất giác kinh hãi kêu lên. Thì ra người đó không phải Hồ Thanh Ngưu, mà là một người đàn bà trung niên, mặt hoa da phấn.
   

- o O o -

    [1] Lục phủ ngũ tạng nói về chức năng của các bộ phận chứ không phải chi nói về cơ quan theo nghĩa sinh lý học (xin xem thêm Đông Y và Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả) [2] tức là cứu (châm là dùng kim đâm vào huyệt-acupunture, cứu là dùng ngải đốt hơ nóng bên ngoài-moxibustion) [3] tự thưởng thức cái thơm tho của mình [4] lạnh, nóng, khô, ẩm ướt, gió [5] vui, giận, lo, suy nghĩ, sợ hãi [6] người thầy thuốc giỏi có thể cải tử hoàn sinh [7] Theo Minh Sử, truyện Thường Ngộ Xuân viết: Thường Ngộ Xuân bị bạo bệnh mà chết năm bốn mươi tuổi.
    [8] Theo y thư Trung Quốc, tam tiêu được dùng để hình dung các loại tuyến nội tiết trong cơ thể. Hiện nay y khoa Tây phương cũng chưa hiểu rõ lắm về hoạt động và sự điều hòa của các tuyến nội tiết, là một bộ môn rất khó khăn trong y khoa.
    [9] những điều khó biết [10] thần hộ vệ đức Phật (Sanharama) [11] mạch sáp là trì trệ, đi không trơn, mạch hoạt là mạch đi nhanh [12] vỏ sò tán nhuyễn [13] Nhược yếu nhân bất tri, Trừ phi kỷ mạc vi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:49:28 | Chỉ xem của tác giả
BẤT HỐI TRỌNG TỬ DU NGÃ TƯỜNG

    Chính tà hai ngả duyên thành tội, Thân đã trao rồi, hạt máu rơi.

    Trương Vô Kỵ thấy đó là một người đàn bà, lạ lùng không sao kể xiết, hỏi:
    - Bà … bà là ai?
    Người đàn bà đó lưng trúng trọng thủ của phái Nga Mi, đau đến mặt mày tái mét, không nói được. Kỷ Hiểu Phù hỏi:
    - Bà là ai? Vì cớ gì mà lại mấy lần đến hại tôi?
    Người đàn bà lặng thinh không trả lời. Kỷ Hiểu Phù rút trường kiếm, chỉ vào ngực bà ta. Trương Vô Kỵ nói:
    - Để cháu đi xem Hồ tiên sinh coi ông ta ra sao.
    Y sợ rằng Hồ Thanh Ngưu đã bị độc thủ của người đàn bà này, nghĩ chắc y thị cũng cùng phe với Kim Hoa ác bà. Y bèn rảo bước đi qua bên ngọa thất của Hồ Thanh Ngưu, đẩy cửa mở toang ra, nghe bình một tiếng, kêu lên:
    - Tiên sinh, tiên sinh, ông có sao không?
    Y gọi nhưng không nghe tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ càng lo, mò trên bàn kiếm được đồ đánh lửa, đốt một ngọn nến lên, trên giường trống trơn, không thấy Hồ Thanh Ngưu đâu cả.
    Trương Vô Kỵ e sợ sẽ thấy Hồ Thanh Ngưu đã bị mụ đàn bà kia hạ thủ nằm chết, lúc này nhìn quanh không có ai, lại an tâm, nghĩ thầm: “Nếu địch nhân bắt tiên sinh đi, lúc này chắc chưa bị sát hại”. Đang định đuổi theo, bỗng nghe dưới gầm giường có tiếng thở nặng nề, y cúi xuống soi đèn, thấy Hồ Thanh Ngưu chân tay bị trói chặt, nhét dưới đó. Trương Vô Kỵ mừng quá, vội lôi ông ta ra, thấy miệng bị nhét một hạt dẻ lớn, không nói năng gì được.
    Trương Vô Kỵ móc hạt dẻ từ trong miệng Hồ Thanh Ngưu ra, tiện tay cởi dây trói chân tay. Hồ Thanh Ngưu vội hỏi:
    - Người đàn bà kia đâu?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Bà ta bị Kỷ cô cô chế ngự rồi, không chạy được đâu. Tiên sinh, ông không bị thương chứ?
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Ngươi không cần phải cởi dây trói cho ta vội, mau mau đem bà ta đến gặp ta, mau mau, chậm một chút e không kịp đâu.
    Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi lại:
    - Sao thế?
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Mau đem bà ta tới đây, ồ không, ngươi mau lấy ba viên Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan cho bà ta uống trước, để ở ô kéo thứ ba, mau lên.
    Y luôn mồm thôi thúc, thần sắc thật là gấp gáp. Trương Vô Kỵ biết Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan là linh dược giải độc, Hồ Thanh Ngưu phối chế bằng không biết bao nhiêu dược vật trân kỳ, chỉ cần một viên đã đủ hóa giải kịch độc, lúc này nói cho bà kia uống đến ba viên, không lẽ bà ta bị trúng độc phân lượng nặng lắm sao?
    Thế nhưng vẻ mặt Hồ Thanh Ngưu thực lạ lùng, hết sức cấp bách nên không dám hỏi thêm, vội lấy Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan, chạy ra cái chòi của Kỷ Hiểu Phù nói với người đàn bà kia:
    - Mau uống ngay.
    Người đàn bà mắng lại:
    - Cút đi, ai cần lòng tốt của thằng tiểu tặc.
    Thì ra bà ta ngửi mùi Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan biết ngay là thuốc giải độc. Trương Vô Kỵ nói:
    - Đây là Hồ tiên sinh cho bà uống đó.
    Bà kia nói:
    - Cút mau, cút mau.
    Bà ta bị Kỷ Hiểu Phù đánh ngã rồi, tiếng nói thật yếu ớt. Trương Vô Kỵ không biết rõ ý định của Hồ Thanh Ngưu, đoán rằng khi con nữ tặc này trói chân tay ông ta đã bị ông ta dùng một loại ám khí cực độc đả thương, nhưng lại muốn giữ cho y thị sống để tra hỏi mọi việc, liền bóp mồm bà ta nhét ba viên thuốc vào, nói với Kỷ Hiểu Phù:
    - Mình đem mụ này giao lại cho Hồ tiên sinh, để xem ông ta định đoạt ra sao.
    Kỷ Hiểu Phù liềm điểm huyệt người đàn bà, cùng Trương Vô Kỵ hai bên mỗi người đỡ một cánh tay, lôi bà ta vào ngọa thất của Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu vẫn còn nằm lăn quay trên mặt đất, vừa thấy người đàn bà kia vào, vội hỏi ngay:
    - Uống thuốc chưa?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Uống rồi.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Tốt lắm, tốt lắm.
    Vẻ mặt ông ta tỏ vẻ vui mừng. Trương Vô Kỵ liền cắt dây trói cho Hồ Thanh Ngưu.
    Hồ Thanh Ngưu chân tay vừa được tự do, lập tức đến vạch mắt người đàn bà ra xem, xem huyết sắc bên trong mắt, lại thò tay ra xem mạch, kinh hoảng kêu lên:
    - Bà … bà sao lại bị nội thương thế này? Ai đánh bà đó?
    Giọng ông ta vừa kinh hoảng, vừa lo lắng. Người đàn bà bĩu môi, hừ một tiếng, nói:
    - Thì cứ hỏi tên đồ đệ của ông thì biết.
    Hồ Thanh Ngưu quay đầu lại, hỏi Trương Vô Kỵ:
    - Có phải ngươi đả thương bà ấy không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Bà ta đang … Mới nói đến đây, Hồ Thanh Ngưu liền bốp bốp tát y hai cái liền. Hai chưởng đó thật mạnh mẽ, ngoài liệu định của mọi người, Trương Vô Kỵ hoàn toàn không phòng bị, cũng không né tránh bị ông ta đánh mắt nổ đom đóm, tưởng chừng muốn ngất đi. Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm ra, quát lên:
    - Ngươi làm gì thế?
    Hồ Thanh Ngưu không thèm để ý tới món binh khí sáng quắc trước mặt, hỏi người đàn bà:
    - Bà thấy trong ngực thế nào? Bụng có đau không?
    Thái độ ông ta thật ân cần, so với cái phong phạm Kiến Tử Bất Cứu bình thời thật khác xa. Người đàn bà kia vẫn lạnh lùng không thèm để ý. Hồ Thanh Ngưu giải khai huyệt đạo cho người đàn bà, xoa bóp chân tay, lại lấy ra mấy loại thuốc, cẩn thận đút vào miệng, sau đó mới bế bà ta đặt lên giường rồi nhẹ nhàng đắp chăn lên. Hành động ôn nhu trìu mến đó, nào phải là đối phó với địch nhân? Trương Vô Kỵ xoa xoa chỗ sưng vều trên má, càng nhìn càng không hiểu nổi.
    Hồ Thanh Ngưu vẻ mặt thương xót, nhìn người đàn bà một hồi, nhỏ nhẹ nói:
    - Phen này bà đã trúng độc lại thêm bị thương, nếu như ta có thể trị lành được thì mình từ nay không tỉ thí nữa nhé?
    Người đàn bà cười:
    - Bị thương nhẹ có đáng gì. Thế nhưng tôi uống thuốc độc gì, làm sao ông biết được? Nếu như ông chữa lành cho tôi được, tôi cảm phục ông lắm. Chỉ sợ rằng bản lãnh của Y Tiên, chưa chắc đã bằng được Độc Tiên đâu?
    Nói xong nở một nụ cười, vẻ mặt thật là kiều mị. Trương Vô Kỵ tuy chuyện tình ái trai gái không hiểu rõ lắm, thế nhưng cũng nhìn thấy hai người quả thực yêu nhau thắm thiết. Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Mười năm trước, ta đã từng nói Y Tiên không thể nào sánh kịp Độc Tiên, bà vẫn không chịu tin. Ôi, thử đâu không thử, lại lấy ngay chính mình ra để tỉ thí. Lần này tôi chỉ mong Y Tiên thắng được Độc Tiên một chuyến. Nói dại nếu có chuyện gì, tôi chẳng muốn sống một mình đâu.
    Người đàn bà nhếch mép cười, nói:
    - Thế nhưng nếu tôi thử vào người khác, ông lại nhường tôi, làm như tài nghệ không bằng tôi vậy. Hì hì, lần này tôi hạ độc chính mình, ông không thể không hết sức ra tay.
    Hồ Thanh Ngưu vuốt tóc bà ta, thở dài nói:
    - Tôi thật lo hết sức, thôi bà đừng nói nữa, nhắm mắt lại dưỡng thần đi. Nếu bà ngầm vận khí tự hại mình, như thế tỉ thí không công bình.
    Người đàn bà mỉm cười:
    - Thắng hay bại phải quang minh lỗi lạc, tôi đâu có phải loại người tệ hại đến thế.
    Nói xong bà ta nhắm mắt lại, trên khóe miệng còn nở một nụ cười. Hai người nói chuyện với nhau, Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ chỉ trơ trơ không hiểu. Hồ Thanh Ngưu quay lại, vái Trương Vô Kỵ một cái thật sâu, nói:
    - Tiểu huynh đệ, tôi nhất thời hốt hoảng, đắc tội với cậu, xin tha thứ cho.
    Trương Vô Kỵ hậm hực nói:
    - Cháu chẳng hiểu gì cả, không biết chuyện này là thế nào.
    Hồ Thanh Ngưu giơ tay lên, tự vả vào mình hai cái thật mạnh, nói:
    - Tiểu huynh đệ, cậu có đại ân cứu mạng cho tôi, chỉ vì nhất thời lo lắng cho chuyết kinh[1], nên đã mạo phạm.
    Trương Vô Kỵ lạ lùng:
    - Bà ấy … bà ấy là phu nhân của tiên sinh đấy ư?
    Hồ Thanh Ngưu gật đầu đáp:
    - Chính thị chuyết kinh. Nếu cậu vẫn còn chưa hả giận, xin cậu cứ tát tôi hai cái nữa, nếu không tôi xin rập đầu tạ tội với cậu. Cậu cứu mạng tôi thì không nói làm gì, nhưng cậu cứu mạng cả vợ tôi nữa.
    Bình thời ông ta đoan nghiêm trang trọng, Trương Vô Kỵ đối với ông có đôi phần kính sợ, lúc này thấy ông ta tự đánh mình hai cái, lại thấy thành khẩn tạ tội, đến khi biết ra người đàn bà đó là vợ ông ta, cơn giận của y tiêu tán hết, nói:
    - Khấu đầu tạ tội thì đâu dám nhận, tiên sinh đánh tôi hai cái có sá gì đâu. Có điều tôi vẫn chưa rõ mọi chuyện.
    Hồ Thanh Ngưu mời Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ ngồi xuống, nói:
    - Câu chuyện hôm nay đã đến nước này, ta cũng không còn có thể dấu được nữa. Chuyết kinh họ Vương, khuê danh Nạn Cô, cùng với ta là sư huynh muội đồng môn. Khi hai chúng ta cùng nhau học nghệ ở sư môn, ngoài võ công, ta chuyên về y đạo, còn nàng học độc thuật. Nàng nói người ta sở dĩ học võ, cũng chỉ để giết người, độc thuật cũng dùng để giết người, võ thuật và độc thuật vì thế tương phụ tương thành. Chỉ cần tinh thông độc thuật thì võ công cũng mạnh không bờ bến. Còn y đạo dùng để trị bệnh cứu người, đối với võ thuật lại trái ngược nhau. Ta cũng phục lời nói của chuyết kinh, kiến thức nàng cao gấp mười ta, có điều ta lại thích chữa bệnh, nên cứ u mê theo con đường của mình. Cũng vì ta ngoan cố làm tàng, không chịu nghe lời khuyên nhủ nên phụ cái mỹ ý của nàng.
    Sở học tuy bất đồng, tình cảm vẫm tốt đẹp, sư phụ tác thành cho hai người, kết thành vợ chồng, về sau dần dần cũng có chút danh trên giang hồ. Có người gọi ta là Y Tiên, còn gọi chuyết kinh là Độc Tiên. Cách sử dụng chất độc của nàng thần diệu vô cùng, không những trên đời không ai sánh kịp mà lại còn thanh xuất ư lam, hơn xa cả sư phụ ta nữa. Hạ độc mà được chữ Tiên thì quả là siêu phàm, không ai bì được. Thế nhưng ta không suy nghĩ sâu xa, có mấy lần nàng dùng thuốc loại chậm phát tác hạ độc người ta, kẻ trúng độc đến ta cầu xin chữa bệnh, ta lại hồ đồ chữa khỏi. Lúc đó ta lấy làm đắc chí lắm, có biết đâu rằng như thế là một hành vi bất trung bất nghĩa đối với ái thê, thực là bội bạc, có thể gọi là thuộc loại “lòng lang dạ thú” cũng không có gì quá đáng.
    Kẻ bị thương dưới tay của Độc Tiên, Y Tiên lại đem chữa khỏi, không khỏi làm phạm cái bản ý của người vợ yêu quí, cũng chẳng phải Y Tiên tài nghệ cao hơn Độc Tiên hay sao?
    Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ hai người nghe rồi thầm lắc đầu, trong lòng không khỏi bất mãn. Lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
    - Nàng đối với ta trước nay ôn nhu hòa thuận, nghĩa nặng tình sâu, trong tất cả đàn bà ở thế gian này, không thể nào kiếm ra một người thứ hai như thế. Thế nhưng cái thái độ sính cường hiếu thắng đối với ái thê, lại hết lần này qua lần khác. Nội nhân[2] chỉ có là người bằng đất, mới có thể trơ trơ ra được. Về sau ta biết mình quá sai lầm mới lập trọng thệ, phàm người nào nàng ra tay hạ độc, ta quyết không bao giờ ra tay chữa bệnh. Ngày này tháng khác, cái tên Kiến Tử Bất Cứu mới truyền ra ngoài.
    Chuyết kinh thấy ta biết lỗi, xem ra có cơ sửa đổi tính tình, nên mới làm hòa với ta. Thế nhưng chỉ được vài năm, ta lại gặp một bệnh án trúng độc cực kỳ cổ quái. Ta vừa thấy biết ngay trừ chuyết kinh ra, không ai có thể hạ độc như thế cho nên quyết tâm không chữa. Thế nhưng người đó bệnh tình thật là lạ lùng, ta nhịn được vài ngày, sau cùng mất hết sức tự chế, ra tay trị cho y lành.
    Chuyết kinh không hề cãi ta nửa lời, chỉ nói: “Được rồi, Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu quả nhiên y đạo thông thần, thế nhưng Độc Tiên Vương Nạn Cô này nhất định không phục, hai người tỉ thí lần nữa, để xem Y Tiên chữa bệnh giỏi, hay Độc Tiên độc thuật ghê gớm hơn?” Ta hết lời xin lỗi, nhưng nàng nhất định không chịu đấu dịu. Thì ra kỳ này nàng hạ độc, không phải vì có thù oán với ai, chỉ vì mới nghiên cứu tìm ra một loại kỳ diệu, không thuốc nào chữa nổi. Nàng mới đem thuốc đó thí nghiệm vào một người, đâu ngờ ta nhất thời làm phách, không biết đầu đuôi gì cả, chữa khỏi cho người kia. Ta đối với ái thê không một chút nương tình, còn gọi là người sao được?
    Trong mấy năm sau đó, nàng càng cố công nghiên cứu độc thuật, kiếm người hạ độc cho ta chữa. Hai người không ngừng tỉ thí tài năng. Một phần cũng vì nàng độc thuật thần diệu, còn y thuật của ta cũng có lúc cùng, một phần ta không muốn để nàng bực tức, cho nên có mấy người chữa không khỏi, đành chịu bó tay. Thế nhưng chuyết kinh lại càng phẫn nộ, bảo rằng ta coi nàng chẳng ra gì, cố ý nhường nhịn, không cùng nàng toàn lực tỉ thí, đùng đùng đi khỏi Hồ Điệp Cốc ta khuyên nhủ cách nào cũng không quay trở lại.
    Sau đó ta tuy không dám khinh thị vọng động, nhưng trị bệnh là cái ý thích trời sinh, đam mê đó không cách nào bỏ được, mỗi khi gặp kỳ bệnh quái độc, là phải ra tay chữa. Có biết đâu là những người ta chữa khỏi kia, có người do chính chuyết kinh phục độc, nhưng vì nàng ra tay hết sức xảo diệu không để lộ hình tích nên ta tra xét không ra, lại hồ đồ chữa cho bằng hết. Làm như thế, không khỏi tổn thương tình vợ chồng. Ôi, ta Hồ Thanh Ngưu nên đổi tên thành Hồ Xuẩn Ngưu mới phải. Người như Nạn Cô mà phải chịu hạ mình lấy ta, không biết ta đã tu bao nhiêu kiếp mà có phúc dường ấy, ta lại không lo hầu hạ nàng, thương yêu nàng, cứ để cho nàng phải giận lẫy, đến nỗi nàng phải bỏ nhà ra đi, lang thang nơi chân trời góc biển, chịu biết bao khổ sở phong sương. Huống chi trên chốn giang hồ, nhân tâm hiểm trá, bọn độc ác thật là đông, nàng yếu đuối một mình, làm sao ta yên tâm cho được?
    Y nói tới đây, lòng sám hối thành khẩn hiện ra trên nét mặt. Kỷ Hiểu Phù liếc mắt nhìn Vương Nạn Cô nằm trên giường, nghĩ thầm: “Vị Hồ phu nhân này tên là Độc Tiên, trên đời này còn ai dám hạ độc bà ta nữa? Bà ta không hại người, cũng đã là may lắm rồi, ai cũng phải tạ trời tạ đất, chứ ai dám đến hại bà ta? Hồ tiên sinh sợ vợ như sợ cọp, khiến cho ai cũng phải nực cười”.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Vì thế ta lập trọng thệ, nếu không phải người trong Minh giáo thì ta không trị để khỏi vô ý làm hỏng kiệt tác của Nạn Cô. Nên biết vợ chồng ta là người của Minh giáo, huynh đệ tỉ muội trong bản giáo, Nạn Cô không đời nào hạ độc cả.
    Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: “Thì ra nếu không phải người trong Minh giáo ông ta không chữa chính là vì thế”. Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:
    - Bảy năm trước, có một đôi vợ chồng già trúng kịch độc, đến Hồ Điệp Cốc nhờ chữa, họ là Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh, chủ nhân Linh Xà đảo ngoài Đông Hải. Hai vợ chồng đó đến Hồ Điệp Cốc lễ số thật là chu đáo, nhưng Kim Hoa bà bà không biết vô tình hay cố ý để lộ một chút võ công, ta nhìn thấy, không khỏi sợ run. Ta tuy không dám thẳng thắn cự tuyệt không chữa, nhưng hai người cũng biết, ta đã quay đầu không còn đi theo con đường mê đắm cũ, hối cải tội lỗi rồi, đâu có dám tái phạm. Thành ra sau khi bắt mạch cho hai người đó xong, chỉ nói: “Cứ theo mạch lý của hai vị, lão đảo chủ và lão phu nhân tuy tuổi đã cao, mạch vẫn không khác gì người còn trẻ cả, chắc là vì nội lực trác tuyệt mà ra. Người già mà mạch như còn trẻ, vãn sinh đây là lần đầu mới thấy qua”. Kim Hoa bà bà nói: “Tiên sinh cao minh lắm”. Ta nói: “Hai vị trúng độc không giống nhau. Lão đảo chủ không thuốc gì chữa được, nhưng cũng còn sống thêm vài năm; còn lão phu nhân trúng độc không nhiều, có thể dùng nội lực bản thân tự hóa giải”.
    Ta hỏi đến người đã hạ độc thì biết là một người Mông Cổ thủ hạ của một đầu đà câm điếc người Tây Vực, không can hệ gì đến chuyết kinh, nhưng ta đã nói trước trừ đệ tử trong Minh giáo ra, ta không trị cho người ngoài, nên không thể vì hai vợ chồng đó mà phá lệ. Kim Hoa bà bà hứa sẽ báo đáp thật trọng hậu, chỉ xin cứu mạng cho lão đảo chủ thôi. Thế nhưng ta nghĩ tình vợ chồng, nên đành tụ thủ không chữa. Hai ông bà đó cũng không dùng võ lực bức bách, chỉ lặng lẽ bỏ đi. Kim Hoa bà bà lúc ra khỏi có nói một câu: “Ha ha, Minh giáo, Minh giáo, thì ra cũng chỉ lại Minh giáo”. Ta biết rằng vì không chịu chữa bệnh, giải độc cho người đã kết biết bao nhiêu là ân oán, tạo ra bao nhiêu kẻ thù. Thế nhưng tình vợ chồng sâu nặng, không thể vì người ngoài mà làm thương tổn cái tình kháng lệ[3], hai người nghĩ có phải không?
    Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ lặng yên không nói, trong bụng hai người thấy chủ trương Kiến Tử Bất Cứu không có gì là phải lắm. Hồ Thanh Ngưu lại nói tiếp:
    - Gần đây chuyết kinh ở bên ngoài nghe tin, Ngân Diệp tiên sinh bị chất độc phát tác đã chết, Kim Hoa bà bà đi tìm ta để rửa hận. Chuyện đó không phải chuyện thường, vợ chồng tình nặng nên nàng vội quay về cùng ta tính toán chuyện chống trả. Nàng thấy trong nhà có thêm một người lạ nên đêm đó trước hết bỏ thuốc mê cho Vô Kỵ.
    Trương Vô Kỵ bấy giờ mới vỡ lẽ: “Hôm đó ta ngủ tới quá trưa hôm sau mới dậy, thì ra trúng phải mê dược của Hồ phu nhân, vậy mà mình tưởng là sinh bệnh. Vị Độc Tiên này hạ thủ không ai hay biết, quả thực lợi hại vô cùng”.
    Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
    - Ta thấy chuyết kinh đột nhiên trở về, trong lòng vui mừng lắm. Nàng bảo ta giả vờ bị bệnh đậu mùa không gặp người ngoài, hai người chỉ ở trong phòng, cùng suy nghĩ phương cách đối phó với Kim Hoa bà bà. Vị tiền bối này bản lãnh quá cao, có muốn chạy cũng không thể nào chạy được. Mấy ngày sau, Tiết Công Viễn, Giản Tiệp và Kỷ cô nương tất cả mười lăm người lục tục kéo đến.
    Ta vừa nghe tình hình bị thương của mỗi người biết là Kim Hoa bà bà có ý muốn thử ta cho biết, xem ta có thực sự giữ lời, ngoại trừ đệ tử Minh giáo, sẽ không chữa cho bất cứ ai ngoại giáo chăng. Mười lăm người là mười lăm kỳ thương quái bệnh, họ Hồ này lại say mê nghề thuốc như tính mạng, chỉ cần thấy một trong những quái thương này, đã không thể nào nhịn nổi mà không ra tay chữa thử xem sao, huống chi là cả mười lăm người? Thế nhưng ta đã rõ tâm ý của Kim Hoa bà bà, chỉ cần ta chữa khỏi cho một người, bà ta sẽ báo cừu trên người ta những hình phạt tàn ác gấp trăm lần như thế, thành thử dù ngứa chân ngứa tay muốn chữa nhưng đành phải làm lơ. Cho đến khi Vô Kỵ đến hỏi cách chữa trị, ta mới nói ra. Nhưng ta cũng nói rõ rằng Vô Kỵ là đệ tử của phái Võ Đương, cùng Hồ Thanh Ngưu này không can hệ gì cả.
    Nạn Cô thấy Vô Kỵ theo đúng cách ta chỉ điểm, chữa bệnh thấy linh nghiệm, trong lòng lại phát cáu, tối tối lại lén bỏ thuốc độc vào thuốc men, thực phẩm, tiếp tục việc đua tài cùng với ta. Hơn nữa, nàng cũng có lòng muốn bảo vệ cho ta, vì nếu Vô Kỵ chữa khỏi mười lăm người này, Kim Hoa bà bà sẽ thể nào cũng đổ tội lên đầu Hồ Thanh Ngưu này. Mười lăm người ai ai cũng là võ lâm hảo thủ, nếu nàng đến bên hạ độc lẽ nào họ chẳng phát giác? Thì ra nàng đánh thuốc mê cả bọn trước, sau đó mới tùy từng trường hợp mà thí dụng các loại độc dược khác nhau. Thủ đoạn cao minh đó trước đây chưa ai bằng mà cả sau này e cũng chẳng ai theo kịp.
    Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, bấy giờ mới hiểu tại sao Trương Vô Kỵ đi đến cái chòi của Kỷ Hiểu Phù phải lay nàng mấy lần mới tỉnh dậy. Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
    - Trong mấy ngày liền, bệnh của Kỷ cô nương thuyên giảm thật nhanh, xem ra thuốc độc Nạn Cô sử dụng không hiệu nghiệm. Nàng để ý tra xét, mới hay là Vô Kỵ phát giác ra được bí mật nên định hạ độc luôn cả Vô Kỵ nữa. Ôi, người đời nói núi sông dễ đổi, bản tính khó thay. Ta Hồ Thanh Ngưu đối với ái thê quả thực hết lòng hết dạ vốn dĩ nhất quyết thõng tay không nhúng vào nhưng đêm hôm qua Vô Kỵ lại khuyên ta xuất du để tránh đại họa, lòng ta bỗng cảm động nên mới ra một cái toa thuốc, nói gồm các vị Đương Qui, Sinh Địa, Viễn Chí, Phòng Phong, Độc Hoạt, vì lúc đó Nạn Cô đang ở bên cạnh, không tiện nói rõ ra.
    Thế nhưng Nạn Cô thông minh tuyệt đính, lại biết dược tính, nghe cái toa thuốc đó không bình thường, chỉ suy nghĩ là biết ngay mưu tính của ta. Nàng bèn trói ta lại, tự mình lấy ra mấy loại thuốc kịch độc uống, nói:
    - Sư ca, hai đứa mình người vợ chồng hơn hai chục năm qua, biển cạn núi mòn tình không thay đổi. Thế nhưng sư ca vẫn coi độc thuật của tiểu muội không ra gì, dù em dùng loại gì, anh cũng cứu được cả. Lần này chính em uống mấy loại kịch độc, nếu anh cứu sống được em, thì em mới thực là phục anh.
    Ta sợ hãi hết cả hồn vía, luôn mồm chịu thua, hết lời năn nỉ, nàng bèn nhét vào mồm ta một quả hồ đào khiến ta không nói được nữa. Chuyện về sau thế nào, các người đã biết rồi.
    Nói xong ông ta liên tiếp lắc đầu. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ cùng ngỡ ngàng, không khỏi vừa tức cười vừa bực mình, hai vợ chồng này thật là cổ quái, trên đời ít ai như thế. Hồ Thanh Ngưu đối với vợ yêu quá hóa sợ, cũng chẳng hề gì, Vương Nạn Cô nhất định phải hơn chồng cho bằng được, đến mức không sợ cả hạ độc chính mình. Hồ Thanh Ngưu lại nói:
    - Các người nghĩ mà xem, ta còn cách nào bây giờ đây? Kỳ này nếu như ta trị cho nàng khỏi được, như thế có khác gì chứng minh bản lãnh của ta hơn nàng, đời nàng rồi sẽ uất ức không vui. Còn nếu không trị được, ắt nàng sẽ nhất mệnh tây qui rồi. Ôi, chỉ mong Kim Hoa bà bà sớm đến đây, đánh ta một gậy chết đi cho rồi, để Nạn Cô khỏi phải phiền não. Huống chi mấy năm nay bản lãnh hạ độc của nàng đại tiến, ta đến bây giờ cũng không biết nàng đã dùng những loại độc dược gì, làm sao giải cứu, không biết phải bắt đầu từ đâu.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiên sinh y thuật thông thần, không lẽ sư mẫu[4] dùng những loại độc dược gì cũng chẩn đoán không ra ư?
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Sư mẫu ngươi mấy năm nay sử độc xuất thần nhập hóa, lần này ta không cách gì có thể chữa khỏi cho nàng được cả. Ta đoán rằng có lẽ nàng uống những loại như tam trùng tam thảo, nhưng sáu loại chất độc đó phối hợp thế nào, ta vẫn không hiểu được.
    Một mặt nói, một mặt ông ta giơ ngón tay trỏ bàn tay phải ra viết một cái toa thuốc trên bàn, rồi xua tay nói:
    - Thôi hai người ra đi, nếu như Nạn Cô chết đi, ta cũng không sống một mình cho đành.
    Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ cùng đáp:
    - Vậy xin tiên sinh bảo trọng và cố gắng khuyên sư mẫu.
    Hồ Thanh Ngưu hỏi:
    - Khuyên bà ấy cái gì bây giờ? Mọi chuyện đều do ta cả, thật đáng chết.
    Nói đến đây thanh âm trở nên nghẹn ngào. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ liền ra ngoài. Hồ Thanh Ngưu xoay tay lại điểm các huyệt đạo ở lưng và ở ngang hông bà vợ, nói:
    - Sư muội, chồng em không đủ tài, không thể nào trị được chất độc tam trùng tam thảo, chỉ còn cách theo nhau đi xuống địa phủ, thành vợ chồng nơi suối vàng.
    Nói xong ông móc trong bọc của Vương Nạn Cô, lấy ra mấy bọc thuốc bột, quả nhiên không ngoài dự tính, là ba loại độc trùng và ba loại độc thảo phơi khô tán ra chế thành. Vương Nạn Cô không thể cử động, nhưng miệng vẫn còn nói được, kêu lên:
    - Sư ca, chàng không thể uống thuốc độc được đâu.
    Hồ Thanh Ngưu không thèm để ý tới, đổ luôn gói thuốc ngũ sắc lóng lánh đó vào mồm, dùng nước bọt uống luôn xuống ruột. Vương Nạn Cô hãi hùng thất sắc, lắp bắp:
    - Sao anh uống nhiều thế? Bấy nhiêu thuốc độc, đến ba người cũng chết.
    Hồ Thanh Ngưu cười buồn, ngồi xuống cái ghế trên đầu giường Vương Nạn Cô, chỉ trong giây lát đã thấy trong bụng như có trăm ngàn con dao đâm chém. Y biết là Đoạn Trường Thảo phát tác đầu tiên, qua một lát nữa, năm loại độc tính của năm độc vật kế tiếp có hiệu lực theo. Vương Nạn Cô cuống quít:
    - Sư ca, sáu loại độc vật của em có cách giải đó.
    Hồ Thanh Ngưu đau đến toàn thân run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau lách cách, lắc đầu:
    - Ta … ta không tin … ta … ta chỉ muốn chết thôi.
    Vương Nạn Cô kêu lên:
    - Mau mau uống Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan và Ngọc Long Tô Hợp Tán, sau đó châm cứu để lấy chất độc ra.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Làm thế có ích gì đâu?
    Vương Nạn Cô vội nói:
    - Em uống thuốc độc phân lượng rất ít, anh uống nhiều quá, mau mau cứu chữa kẻo không kịp mất.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Anh toàn tâm toàn ý yêu thương em, nhưng em lại cứ muốn cùng anh tranh cường đấu thắng, anh thấy sống trên đời này cũng chẳng có ý vị gì, thà chết sướng hơn, kẻo lại … ối chao ôi … chao ôi … Mấy tiếng rên rỉ đó không phải giả nữa mà lúc này nọc độc của rắn hổ và nhện đã tấn công vào tim phổi, Hồ Thanh Ngưu thần trí từ từ hôn mê, sau cùng bất tỉnh nhân sự. Vương Nạn Cô lớn tiếng khóc lóc:
    - Sư ca, sư ca, cũng đều tại em cả, anh đừng chết … em sẽ không bao giờ còn tỉ thí với anh nữa.
    Hai vợ chồng mấy chục năm nay lúc nào cũng tranh giành hơn thua, nhưng thực ra tình sâu nghĩa nặng. Vương Nạn Cô chính mình không sợ chết, lúc trượng phu uống thuốc độc tự tử, thì lại kinh hoảng đau thương, nhưng huyệt đạo bị điểm, không có cách nào ra tay cứu được.
    Trương Vô Kỵ nghe tiếng Vương Nạn Cô kêu khóc, chạy vào trong phòng, hỏi dồn:
    - Sư mẫu, làm cách nào cứu sư phụ bây giờ đây?
    Vương Nạn Cô thấy y chạy vào, thật đúng là gặp được cứu tinh, vội nói:
    - Mau mau cho ông ấy uống Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan và Ngọc Long Tô Hợp Tán, dùng kim châm các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ … Ngay lúc đó, từ ngoài cổng đột nhiên truyền vào mấy tiếng ho, trong đêm tối nghe rõ mồn một. Kỷ Hiểu Phù chạy vụt vào phòng, mặt trắng bệnh, nói lắp bắp:
    - Kim Hoa bà bà … Kim Hoa … Hai chữ bà bà chưa nói dứt, cánh cửa không có gió mà tự động mở ra, một bà già lưng còng dắt một cô gái tuổi chừng mười hai mười ba, đã ở trong nhà từ lúc nào, chính là Kim Hoa bà bà.
    Kim Hoa bà bà thấy Hồ Thanh Ngưu hai tay ôm bụng, mặt đem sạm, hơi thở yếu ớt, sắp chết đến nơi, không khỏi kinh ngạc, hỏi:
    - Y làm sao thế?
    Người ngoài chưa kịp trả lời, Hồ Thanh Ngưu bỗng duỗi chân một cái, chết rồi. Vương Nạn Cô khóc òa lên:
    - Sao anh phải tự làm khổ mình đến thế, uống thuốc độc chết mất rồi.
    Lần này Kim Hoa bà bà từ đảo Linh Xà trở lại Trung Nguyên, ngoài việc đi tìm kẻ thù đã làm chồng bà ta chết, cũng còn đi kiếm Hồ Thanh Ngưu để trả oán, nào ngờ bà ta vừa đến nơi, chính lúc Hồ Thanh Ngưu đã uống thuốc độc. Bà ta cũng là một đại hành gia về thuốc độc nên vừa nhìn sắc mặt Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô đã biết ngay họ trúng độc rất nặng, không có thuốc gì chữa được. Bà ta lại tưởng Hồ Thanh Ngưu vì sợ mình nên phục độc tự tận, cái mối đại cừu coi như đã trả xong, thở dài một tiếng, nói:
    - Tác nghiệt, tác nghiệt.
    Dắt tay cô bé đi ra khỏi phòng. Bà ta vừa ra khỏi căn nhà tranh, tiếng ho khúc khắc đã từ hơn một chục trượng vọng lại, thân pháp nhanh đến thế, không ai có thể ngờ nổi.
    Trương Vô Kỵ giơ tay sờ vào tâm khẩu Hồ Thanh Ngưu, thấy tim vẫn còn thoi thóp đập, vội vàng lấy Ngưu Hoàng Huyết Kiệt Đan và Ngọc Long Tô Hợp Tán cho ông ta uống, lại dùng kim châm các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ … để lấy chất độc ra, sau đó cũng dùng phương pháp đó trị cho Vương Nạn Cô.
    Khoảng hơn nửa giờ sau, Hồ Thanh Ngưu từ từ tỉnh lại. Vương Nạn Cô mừng quá nước mắt ròng ròng, luôn mồm kêu lên:
    - Tiểu huynh đệ, toàn do cậu cứu mạng chúng tôi.
    Nói xong liền viết một cái toa thuốc, sai tiểu đồng đem sắc để trừ độc trong cơ thể hai người. Phương pháp giải độc của Vương Nạn Cô thực ra không lấy gì làm cao minh cho lắm, theo đúng phương pháp của bà ta không thể nào loại được hết chất độc trong người ra. Trương Vô Kỵ theo phương thuốc mà Hồ Thanh Ngưu trước đây đã viết trên bàn, thay đổi các vị thuốc, Vương Nạn Cô tuyệt nhiên không biết. Vô Kỵ nói:
    - Mụ Kim Hoa bà bà nghĩ rằng Hồ tiên sinh uống thuốc độc chết rồi, cũng đỡ được một mối lo tâm phúc.
    Y thấy Kim Hoa bà bà thoắt cái đã đến, thoắt cái lại đi, hình như quỉ mị, lúc này nghĩ lại không khỏi lạnh người. Vương Nạn Cô nói:
    - Nghe người ta nói, Kim Hoa bà bà hành sự hết sức kỹ càng, hôm nay tuy bà ta đi rồi, nhưng mai sau thể nào cũng quay lại tra xét. Vợ chồng ta phải đi trốn ngay. Tiểu huynh đệ, xin cậu làm giùm hai cái mộ phần, trên bia đề rõ tên tuổi vợ chồng chúng tôi.
    Trương Vô Kỵ vâng lời. Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô uống thuốc giải độc rồi, lập tức thu thập hành trang. Hai tên dược đồng mỗi đứa được mười lạng bạc, bảo tự tìm đường về nhà. Hai vợ chồng ngồi một chiếc xe, nhân trời tối đi ngay.
    Trương Vô Kỵ tiễn đưa ra tới cửa thung lũng, một già một trẻ hơn hai năm qua sớm tối có nhau, nay phải chia tay, đều cảm thấy quyến luyến không muốn rời. Hồ Thanh Ngưu lấy ra một bộ y thư viết tay, nói:
    - Vô Kỵ, tất cả sở học một đời của ta, đều viết hết trong bộ sách này, trước đây ta vẫn giữ bí mật, không cho ai xem, nay cho ngươi đó. Âm độc của Huyền Minh thần chưởng trong người ngươi thật là khó trừ, ta thực không biết phải làm sao, chỉ mong ngươi tham cứu bộ y thư này, tìm ra được phương pháp khu trừ hàn độc, sau này mình ắt sẽ còn dịp gặp lại nhau.
    Trương Vô Kỵ tạ ơn nhận lấy. Vương Nạn Cô nói:
    - Cậu cứu mạng vợ chồng tôi, lại làm cho chúng tôi hòa hợp trở lại, tôi mong mang hết công phu một đời truyền cho cậu. Thế nhưng cả đời tôi chỉ nghiên cứu việc hạ độc thương nhân, cậu có học cũng không dùng được. Chỉ mong cậu sớm bình phục, sau này tôi sẽ tìm dịp báo đáp.
    Trương Vô Kỵ nhìn theo đến khi chiếc xe không còn hình bóng nữa mới quay trở lại căn nhà tranh. Sáng sớm hôm sau y đắp hai cái mộ bên cạnh nhà, lại đi ra khỏi thung lũng kiếm thợ đục hai tấm bia đá, một tấm đề “Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh Thanh Ngưu chi mộ”, một tấm đề “Hồ phu nhân Vương thị chi mộ”. Bọn Giản Tiệp thấy vợ chồng Hồ Thanh Ngưu cùng chết cả, mới hay việc y bị bệnh nặng không phải để đánh lừa người, đều rất thương tiếc.
    Vương Nạn Cô đi rồi, không còn ai ám trung hạ độc, Trương Vô Kỵ trị bệnh cho mọi người mỗi ngày một đỡ, chỉ mươi hôm trước sau cảm tạ ra đi. Mẹ con Kỷ Hiểu Phù không biết đi đâu, nên ở lại thêm ít ngày nữa.
    Trong mấy ngày đó, Trương Vô Kỵ chăm chú đọc bộ y thư Hồ Thanh Ngưu sáng tác, thấy quả nhiên bên trong bác đại tinh thâm, tinh vi áo diệu, không hổ cái tên Y Tiên. Y chỉ đọc tám chín ngày, y thuật đã đại tiến, thế nhưng làm sao để khu trừ âm độc trong cơ thể, y vẫn chưa tìm ra đầu mối. Y lật qua lật lại đọc kỹ mấy lần, sau cùng không còn hi vọng gì, nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh nếu biết cách trị thương cho ta, thì ắt đã làm rồi? Còn nếu ông ta không biết, thì dĩ nhiên trong sách làm sao có chép được”. Nghĩ đến như thế, bao nhiêu hi vọng đều tiêu tan.
    Y gập sách lại, đi ra ngoài nhìn hai cái mộ giả, nghĩ thầm: “Không đến một năm nữa, ta cũng sẽ ngủ một giấc nghìn thu dưới lòng đất rồi. Bia trên mộ ta không biết sẽ viết những gì?”. Y còn đang suy nghĩ xuất thần, bỗng nghe từ sau lưng có mấy tiếng ho, Trương Vô Kỵ giật mình quay lại, thấy Kim Hoa bà bà vịn vai cô bé mặt mày xinh đẹp, đang lẩy bẩy đứng cách y chừng vài trượng.
    Kim Hoa bà bà hỏi:
    - Này bé con, ngươi là gì của Hồ Thanh Ngưu? Sao lại đứng nơi đây rầu rĩ?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi bị trúng âm độc của Huyền Minh thần chưởng … Kim Hoa bà bà đi lại, giơ tay nắm cổ tay y xem mạch, lạ lùng hỏi:
    - Huyền Minh thần chưởng? Trên đời này quả có môn công phu đó hay sao? Ai đánh ngươi thế?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Người đó ăn mặc như quan quân Mông Cổ, nhưng không biết thực sự là ai. Tôi đến Hồ tiên sinh để chữa bệnh, nhưng ông ấy nói tôi không phải là người trong Minh giáo, nên không chịu chữa. Bây giờ ông ấy uống thuốc độc chết rồi, bệnh của tôi sẽ không thể nào khỏi được nữa, nghĩ đến chuyện đó thấy đau lòng.
    Kim Hoa bà bà thấy Vô Kỵ anh tuấn, nho nhã dễ làm cho người ta cảm mến, nay bị căn bệnh bất trị, nên than thở:
    - Tiếc quá, tiếc quá.
    Trương Vô Kỵ trong đầu bỗng dưng nổi lên ba câu nói: “Sinh tử tu đoản, khởi năng cưỡng cầu? Dư ố hồ tri duyệt sinh chi phi cảm gia? Dư ố hồ tri ố tử chi phi nhược táng nhi bất tri qui giả gia? Dư ố tri phù tử giả bất hối kỳ thủy chi kỳ sinh hồ” Ba câu đó từ sách của Trang Tử. Trương Tam Phong sùng tín Đạo giáo, bảy người đệ tử của ông tuy không phải là đạo sĩ, nhưng cuốn bảo điển của họ là Nam Hoa Kinh của Trang Tử, ai ai cũng đều thuộc lòng. Trương Vô Kỵ khi còn ở trên Băng Hỏa đảo, lúc năm tuổi Trương Thúy Sơn dạy y tập đọc tập viết, vì không có sách vở gì, chỉ vạch đất thành chữ dạy con, nên đem sách Trang Tử dạy cho y. Mấy câu đó ý tứ như sau: “Con người đời sống ngắn dài, không thể miễn cưỡng được. Nếu biết như thế thì người đời tham sống chẳng phải là u mê không tỉnh hay sao? Nếu biết như thế thì người đời sợ chết có khác gì tuổi trẻ lưu lạc nên quên cả đường về hay sao? Nếu biết như thế thì người chết đi có khi lại hối hận là trước đây đã từng mong sống hay sao?” Ý tứ nguyên thủy của Trang Tử khi diễn giải ra là sống chưa chắc đã sướng mà chết cũng chưa chắc đã khổ, sống chết thực ra không khác gì nhau bao nhiêu. Con người ta khi còn sống, chẳng qua cũng chỉ là “một giấc mộng lớn” mà thôi, nên khi chết đi chính là “tỉnh mộng”, không chừng sau khi chết, lại thấy rằng trước đây mình ham sống thật là ngu xuẩn, sao không chết sớm? Cũng chẳng khác gì sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng, đau thương, tỉnh lại, cảm thấy giấc mộng vừa qua thật là dài.
    Trương Vô Kỵ tuổi còn nhỏ, vốn không hiểu được cái đạo lý của hai chữ sinh tử, nhưng trong bốn năm qua, ngày ngày sống trong cái ranh giới giữa sống và chết nên vì thế thấu hiểu cái hàm nghĩa của Trang Tử. Trước đây y không tin những lời của Trang Tử, nhưng nay những ngày sống trên thế gian này chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, nên cũng mong được sau khi chết đi sẽ lạc vào kỳ cảnh, và hối hận rằng trước đây mình đã tham sống.
    Lúc này y nghe Kim Hoa bà bà luôn mồm nói “Tiếc quá, tiếc quá”, nên mỉm cười, thuận miệng nói ra ba câu của Trang Tử. Kim Hoa bà bà hỏi lại:
    - Ngươi nói thế là ý làm sao?
    Trương Vô Kỵ giải thích xong, Kim Hoa bà bà bỗng dưng ngơ ngẩn. Bà ta nghĩ đến người chồng đã quá cố, thế nhưng tình vợ chồng mấy mươi năm, ân ái vô ngần, bỗng dưng âm dương đôi ngả, không còn bao giờ thấy lại được nhau, nhưng cũng chẳng khác gì người đi chơi xa, nay chết đi tức là quay trở về nhà. Nếu thế thì khi chồng bà ta bị cừu nhân hạ độc, Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa trị, cũng chưa hẳn là xấu. “Quê cũ, quê cũ ư? Liệu rằng trở về quê cũ, có tốt lành hơn ở phương xa chăng?” Cô bé ở bên cạnh Kim Hoa bà bà hoàn toàn chẳng hiểu mấy câu của Trương Vô Kỵ có ý nghĩa gì, chẳng hiểu sao bà bà vừa nghe xong, lại như ngây như dại. Cô giương đôi mắt xinh đẹp nhìn bà bà, rồi lại nhìn Trương Vô Kỵ, hết nhìn người nọ lại nhìn người kia.
    Sau cùng Kim Hoa bà bà thở dài, nói:
    - Chuyện ở cõi u minh, quả thực hết sức mơ hồ. Tuy chết không hẳn đã đáng sợ, vì đã là người có ai khỏi chết, làm sao tránh khỏi cái ngày đó được. Thế nhưng sống thêm được ngày nào thì hay ngày đó vậy thôi.
    Trương Vô Kỵ thấy cả bọn Kỷ Hiểu Phù mười lăm người bị Kim Hoa bà bà đả thương thật là tàn nhẫn, lại thấy vợ chồng Hồ Thanh Ngưu sợ bà ta đến nỗi không còn cả cái can đảm đào tẩu nữa, nghĩ chắc Kim Hoa bà bà phải là người hung tàn vô hạn, thế nhưng khi gặp mặt rồi thì lại hoàn toàn khác hẳn. Hôm đó dưới ánh đèn gặp qua một lần, y nhìn chưa được rõ, hôm nay gặp đây thấy chỉ là một bà lão hiền hậu dễ mến, tuy các bắp thịt trên mặt dường như chai cứng, lại đầy vết nhăn như da gà, không lộ ra vẻ buồn vui giận ghét, nhưng ánh mắt trong vắt sáng ngời, linh hoạt chẳng khác gì một cô gái còn xuân, lộ rõ vẻ ôn hòa thân thiết.
    Kim Hoa bà bà lại hỏi:
    - Này bé con, thế cha cháu tên gì?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Cha cháu họ Trương, tên là Thúy Sơn, là đệ tử của phái Võ Đương.
    Tuy nhiên y không đề cập đến chuyện cha y tự vẫn chết. Kim Hoa bà bà hết sức lạ lùng, nói:
    - Thế ra ngươi là con trai của Trương ngũ hiệp phái Võ Đương, như thế có phải tên ác nhân dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương ngươi chỉ vì muốn bức bách ngươi thổ lộ nơi chốn của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn và thanh đao Đồ Long chăng?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:49:39 | Chỉ xem của tác giả
Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế, y dùng đủ mọi loại độc hình nhưng cháu thà chết chứ không chịu nói.
    Kim Hoa bà bà hỏi lại:
    - Thế cháu có thực là biết hay không?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Ồ, Kim Mao Sư Vương là nghĩa phụ của cháu, cháu nhất định không thể nào thổ lộ được.
    Kim Hoa bà bà giơ tay trái ra, nắm ngay lấy hai tay Vô Kỵ. Chỉ thấy xương kêu lách cách, Trương Vô Kỵ thấy đau đến gần như bất tỉnh, lại thấy một luồng hàn khí thấu xương, từ hai tay truyền vào trong ngực, khí lạnh đó khác hẳn Huyền Minh thần chưởng, nhưng cũng đau đớn khó chịu chẳng kém gì. Kim Hoa bà bà dịu dàng nói:
    - Bé con ngoan, ngươi mau nói chỗ ở của Tạ Tốn cho ta nghe, bà bà sẽ chữa khỏi âm độc cho ngươi, lại tuyền cho ngươi công phu thiên hạ vô địch.
    Trương Vô Kỵ đau đến nước mắt chảy ròng ròng, nhưng vẫn hiên ngang đáp:
    - Cha mẹ tôi thà phải hi sinh tính mạng chứ không chịu tiết lộ hành tàng của bạn bè. Kim Hoa bà bà, bà tưởng tôi là kẻ bán rẻ cha mẹ hay sao?
    Kim Hoa bà bà mỉm cười:
    - Được lắm, được lắm. Cha ngươi đâu, y có ở đây không?
    Bà ta ngấm ngầm vận nội công, bàn tay nắm cổ tay y tựa như một cái vòng sắt hẹp lại vài phân. Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
    - Sao bà không đổ thủy ngân vào tai tôi? Sao không bắt tôi nuốt kim vào bụng? Ăn đỉa sống? Bốn năm trước, khi tôi chỉ mới là một đứa bé, cũng đã không sợ ác hình của tên khốn kiếp kia, nay đã lớn rồi, không lẽ lại không bằng ngày xưa?
    Kim Hoa bà bà cười ha hả, nói:
    - - Thì ra ngươi đã thành người lớn rồi đấy, không còn là đứa bé con nữa, ha ha, ha ha ...
    Bà ta cười mấy tiếng, thả tay Vô Kỵ ra, cổ tay cho chí ngón tay tất cả đều tím bầm. Cô bé gái liếc y một cái, nói:
    - Mau tạ ơn bà bà tha mạng đi.
    Trương Vô Kỵ hứ một tiếng, nói:
    - Bà ta giết ta đi xem chừng còn sướng hơn, có gì mà phải tạ ơn?
    Cô gái nhíu mày, nói dỗi :
    - Người gì mà không chịu nghe lời, ta không thèm lý tới ngươi nữa.
    Nói xong cô quay ngoắt đi, nhưng mắt vẫn len lén liếc xem y làm trò gì. Kim Hoa bà bà mỉm cười nói:
    - A Ly, con sống một thân một mình trên đảo, không có ai chơi đùa, cô đơn lắm. Thôi mình bắt thằng nhỏ này đem về, bắt nó hầu hạ con, có thích không? Chỉ có điều thằng này cứng đầu, bướng bỉnh lắm, không chịu nghe lời.
    Cô bé nhướng lông mày, vỗ tay nhoẻn miệng cười, đáp:
    - Thế thì hay lắm, thôi mình bắt nó đi. Nếu nó không nghe lời, bộ bà bà không có cách trị nó hay sao?
    Trương Vô Kỵ nghe hai người một hỏi một đáp, trong dạ bồn chồn. Nếu như Kim Hoa bà bà giết y ngay tại đây thì cũng đành lòng, còn nếu họ bắt lên trên cái đảo quái quỉ gì đó, sống chẳng sống, chết chẳng chết, lây lất để cho hai người hành hạ, xem ra còn khốn khổ hơn nhiều.
    Kim Hoa bà bà gật đầu, nói:
    - Ngươi đi theo ta, mình trước hết đi tìm một người, làm một việc, xong rồi sẽ trở về Linh Xà đảo.
    Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
    - Các người không phải tử tế, ta nhất định không đi theo.
    Kim Hoa bà bà mỉm cười nói:
    - Trên đảo Linh Xà của bọn ta cái gì cũng có cả, ăn chơi những thứ ngươi chưa từng thấy bao giờ. Bé con ngoan, theo bà bà đi.
    Trương Vô Kỵ đột nhiên quay mình, co giò chạy. Nào ngờ, chỉ mới một bước, Kim Hoa bà bà đã chặn ngay trước mặt y. Trương Vô Kỵ nghiêng người, xoay qua chạy về hướng tả, nhưng cũng chỉ một bước, Kim Hoa bà bà cũng lại ở trước mặt y rồi, nhỏ nhẹ nói:
    - Này con, con chạy không được đâu, ngoan ngoãn theo ta đi nào.
    Trương Vô Kỵ nghiến răng, nhắm ngay bà ta đánh ra một chưởng. Kim Hoa bà bà hơi né mình, nhắm ngay bàn tay y ghé mồm thổi một cái. Bàn tay Trương Vô Kỵ vốn đã bị bà ta nắm khiến máu đọng lại sưng vù, nay lại thêm một làn hơi thổi đến, chẳng khác gì dùng dao ngoáy vào một vết thương, đau đến phải nhảy dựng lên.
    Bỗng nghe tiếng một bé gái cất lên:
    - Vô Kỵ ca ca, anh chơi đùa ở đâu đó? Em tới đây nè.
    Chính là Dương Bất Hối chạy đến, rồi Kỷ Hiểu Phù cũng từ trong lùm cây bước ra. Hai mẹ con mới đi chơi ở ngoài đồng về, bỗng thấy Kim Hoa bà bà, mặt Kỷ Hiểu Phù lập tức trắng bệch, nhưng cố thu hết can đảm, run run nói:
    - Bà bà, bà không nên làm khó trẻ con.
    Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Kỷ Hiểu Phù, lạnh lùng nói:
    - Ngươi chưa chết à? Chuyện của lão thái bà, ai cho ngươi chõ miệng vào? Ra đây cho ta xem, sao đến hôm nay vẫn còn chưa chết?
    Kỷ Hiểu Phù xuất thân danh gia võ học, lại là cao đồ của một danh môn, đúng ra rất có đảm lược, nhưng lúc này vì lo cho con, không dám khinh thị mạo hiểm, liền nắm tay Bất Hối lùi lại một bước, hạ giọng nói:
    - Vô Kỵ, cháu qua đây.
    Trương Vô Kỵ co chân định đi, cô bé A Ly kia liền lật tay chộp ngay Tam Dương Lạc trên cánh tay y, nói:
    - Đứng lại đây. Ngươi tên Vô Kỵ, họ Trương, vậy là Trương Vô Kỵ, phải không nào?
    Tam Dương Lạc đã bị nắm, Trương Vô Kỵ lập tức nửa thân trên tê dại, không thể cử động được, trong bụng vừa sợ vừa tức, kêu to:
    - Mau thả ta ra!
    Bỗng nghe một tiếng đàn bà trong trẻo nói:
    - Hiểu Phù, sao con lại nhút nhát thế? Đi ra thì đi ra chứ có sao.
    Kỷ Hiểu Phù vừa mừng vừa sợ, quay đầu lại kêu lên:
    - Sư phụ.
    Thế nhưng đằng sau nào thấy ai, cố gắng nhìn kỹ, mới thấy ở đằng xa một ni cô mặc áo bào màu tro từ từ đi tới, chính là Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi. Đằng sau bà ta có hai đệ tử đi theo, một người là sư tỉ Đinh Mẫn Quân, còn người kia là sư muội Bối Cẩm Nghi.
    Kim Hoa bà bà thấy bà ta còn xa đến thế, mặt mũi chưa nhìn rõ, thế nhưng thanh âm truyền vào tai rõ ràng như chỉ đứng cách chừng một thước, nội lực quả là thâm hậu. Tên tuổi của Diệt Tuyệt sư thái vang dậy đã lâu, trong võ lâm không ai không biết, có điều bà rất ít khi hạ sơn, không mấy người từng gặp được. Khi đến gần mới thấy bà ta chừng bốn mươi nhăm tuổi, mặt mày đúng ra rất đẹp, có điều hai hàng lông mày lại xiên xiên đổ xuống, khiến khuôn mặt biến thành kỳ bí, hơi giống kẻ đóng vai quỉ mị trong các vở tuồng.
    Kỷ Hiểu Phù tiến lên quì xuống khấu đầu, nói khẽ:
    - Sư phụ, lão nhân gia mạnh khỏe.
    Diệt Tuyệt sư thái đáp:
    - Nếu chẳng vì giận ngươi đến chết thì cũng khỏe.
    Kỷ Hiểu Phù quì đó không dám đứng dậy, nghe thấy Đinh Mẫn Quân đứng phía sau sư phụ cười nhạt một tiếng, biết là vị sư tỉ này nói xấu nàng rất nhiều, lưng không khỏi toát mồ hôi lạnh. Diệt Tuyệt sư thái thản nhiên nói:
    - Vị bà bà này bảo người đi đến cho bà ta coi, tại sao đến hôm nay vẫn chưa chết, sao ngươi không lại xem bà ta làm gì nào.
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Vâng.
    Nàng đứng lên mạnh mẽ đi đến trước mặt Kim Hoa bà bà, lớn tiếng nói:
    - Kim Hoa bà bà, sư phụ của tôi đã đến rồi. Những chuyện cường hung bá đạo của bà, sư phụ tôi sẽ thanh toán cho tôi đó.
    Kim Hoa bà bà ho vài tiếng, ngước mắt nhìn Diệt Tuyệt sư thái, gật đầu, hỏi:
    - Ồ, hóa ra bà là chưởng môn phái Nga Mi, ta đánh đệ tử của bà, bà làm gì ta?
    Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
    - Đánh càng tốt. Bà thích đánh thì cứ đánh, đánh chết cũng không sao.
    Kỷ Hiểu Phù lòng như dao cắt, kêu lên:
    - Sư phụ.
    Hai hàng lệ nóng hổi chảy dài trên má. Nàng biết sư phụ trước nay rất bênh học trò, đệ tử đắc tội với người ngoài, dù có sai mười mươi, bà ta vẫn cưỡng từ đoạt lý cãi cho bằng được. Lúc này nói ra như thế, có khác gì không còn coi nàng là đệ tử nữa.
    Kim Hoa bà bà nói:
    - Ta cùng phái Nga Mi không thù không oán, đánh qua một lần cũng đủ rồi. A Ly, thôi mình đi.
    Nói xong từ từ quay mình đi. Đinh Mẫn Quân không biết Kim Hoa bà bà lai lịch ra sao, thấy bà ta già cả yếu đuối, trông vẻ bệnh hoạn, lại dám vô lễ với sư phụ, trong lòng tức bực, lập tức vọt lên, chặn ngay trước mặt bà ta, quát lớn:
    - Bà chưa xin lỗi sư phụ tôi mà đã định bỏ đi sao?
    Nói xong tay phải rút kiếm ra khỏi vỏ nửa chừng, ra vẻ thị uy. Kim Hoa bà bà đột nhiên giơ hai ngón tay, kẹp nhẹ vào bao kiếm của y thị, rồi bỏ ra, cười nói:
    - Đồng vụn sắt han mà cũng đem ra dọa người à?
    Đinh Mẫn Quân lửa giận bừng bừng, lập tức rút kiếm. Nào ngờ y thị cố gắng mấy lần, thanh kiếm vẫn không rút ra được. A Ly cười nói:
    - Đồng vụn sắt han, nay bị sét rồi.
    Đinh Mẫn Quân lại sử kình, nhưng vẫn không thể rút kiếm. Mới hay Kim Hoa bà bà vừa kẹp tưởng như đùa chơi vào bao kiếm nhưng đã tiềm vận nội lực, làm bao kiếm lõm vào, ngậm chặt lấy lưỡi kiếm. Đinh Mẫn Quân muốn rút ra mà không nổi, không chịu thua, nhưng mặt mũi đỏ bừng, điệu bộ rất ư tức tối.
    Diệt Tuyệt sư thái chầm chậm bước tới, dùng ba ngón tay cầm vào cán kiếm, nhẹ nhàng lắc một cái, bao kiếm lập tức tách thành hai mảnh, lưỡi kiếm tuột ra, nói:
    - Thanh kiếm này tuy không phải là lợi khí, bảo nhận, nhưng cũng không đến nỗi là đồng vụn sắt han. Kim Hoa bà bà, sao ngươi không ở yên trên Linh Xà đảo, lại đến Trung Nguyên sinh sự làm gì?
    Kim Hoa bà bà thấy Diệt Tuyệt sư thái dùng ba ngón tay rung bao kiếm vỡ ra làm hai, trong lòng hơi sợ, nghĩ thầm: “Mụ tặc ni này thanh danh rất lớn, quả nhiên cũng có điểm chân thực công phu”. Liền cười hì hì đáp:
    - Chồng ta chết rồi, ở một mình trên đảo buồn chán quá, thành thử đi chỗ này chỗ kia, để xem có hòa thượng đạo sĩ nào vừa ý, bắt một người đem về làm bạn.
    Bà ta cố ý nói “hòa thượng đạo sĩ” để xỏ xiên đối phương thân là ni cô mà cũng đi nơi này nơi khác. Đôi lông mày rủ xuôi của Diệt Tuyệt sư thái lại càng xụ xuống, trường kiếm ngóc lên, hạ giọng quát:
    - Lấy binh khí ra.
    Bọn Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù từ khi theo học đến nay, chưa từng thấy sư phụ cùng người động thủ, nhưng Kỷ Hiểu Phù biết Kim Hoa bà bà võ công vô cùng quái dị, không khỏi lo lắng.
    Trương Vô Kỵ tay bị A Ly nắm chặt, thân trên mỗi lúc một tê, quát lên:
    - Mau bỏ ta ra. Ngươi giữ ta làm gì?
    A Ly thấy Kỷ Hiểu Phù đứng bên có thể can thiệp, nếu không thả y ra, nàng sẽ động thủ, lúc đó không thả không xong, dụng sức đẩy một cái, buông Vô Kỵ ra, cười khẩy:
    - Để xem ngươi chạy đâu cho thoát.
    Kim Hoa bà bà ôn tồn cười nói:
    - Năm xưa Quách Tương Quách nữ hiệp của phái Nga Mi kiếm pháp danh động thiên hạ, dĩ nhiên là cực kỳ cao minh, nhưng không biết truyền xuống đồ tử, đồ tôn còn học được mấy phần?
    Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng đáp:
    - Dù chỉ có được một thành, cũng đủ quét sạch tà ma ngoại đạo.
    Kim Hoa bà bà chăm chú nhìn mũi kiếm của đối phương không chớp mắt, đột nhiên giơ quài trượng trong tay lên điểm vào thân kiếm. Diệt Tuyệt sư thái trường kiếm rung động, nhằm ngay đầu vai bà ta đâm tới. Kim Hoa bà bà vừa ho, vừa giơ quài trượng gạt ra. Diệt Tuyệt sư thái thân đi theo kiếm, nhanh như điện đã luồn ra sau lưng đối phương, chân chưa vững, kiếm chiêu đã ra. Kim Hoa bà bà không quay đầu lại, múa xoay quài trượng, đưa ra sau lưng gạt thanh kiếm.
    Hai người ra ba bốn chiêu, trong lòng đều thầm phục đối phương tài nghệ cao siêu. Bỗng nghe một tiếng keng, thanh kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái gãy ra làm hai. Thì ra kiếm trượng chạm nhau, trường kiếm đã bị quài trượng chấn gãy.
    Những người bên ngoài trừ A Ly ra, ai nấy đều kinh hãi. Cái gậy trong tay Kim Hoa bà bà cũ kỹ xấu xí, trông không đẹp mắt chút nào, dường như không phải vàng mà cũng chẳng phải sắt, vậy mà đánh gãy được lợi kiếm, chắc hẳn phải nhờ ở nội lực thâm hậu. Thế nhưng khi Kim Hoa bà bà và Diệt Tuyệt sư thái hai bên binh khí chạm nhau, cả hai đều biết sở dĩ trường kiếm gãy đôi, chính là vì quài trượng cứng rắn hơn, chứ không phải vì nội lực mà thắng. Cái gậy đó là một loại đặc sản dưới đáy biển bên cạnh đảo Linh Xà, gọi là San Hô Kim, là một loại san hô hỗn hợp nhiều loại kim khí mà kết thành, nằm sâu dưới đáy biển cả muôn vạn năm, chặt sắt như chặt đậu phụ, đập đá như đập cục bông, binh khí dù có sắc bén thế nào, đụng phải đều gãy.
    Kim Hoa bà bà cũng không tiến lên tấn công, chỉ chống gậy đứng tại chỗ, ôm ngực ho. Ba đệ tử phái Nga Mi Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Bối Cẩm Nghi sợ sư phụ bị thương đều lập tức xông lên đứng cạnh sư phụ để tiếp ứng. A Ly lại vung tay ra, nắm cổ tay Trương Vô Kỵ, cười nói:
    - Ta đã bảo ngươi chạy không được đâu, có đúng không nào?
    Hành động của cô ta xuất kỳ bất ý, Trương Vô Kỵ không né tránh kịp, mạch môn bị cầm, nửa thân lập tức tê dại. Y hai lần bị cô bé này đùa rỡn, vừa thẹn vừa giận, vừa cấp bách vừa bực mình, giơ chân phải đá vào hông cô ta. A Ly gia tăng kình lực mấy ngón tay, chân Trương Vô Kỵ mới nhắc lên được nửa thước đã cứng nhắc. Y hậm hực kêu lên:
    - Ngươi có buông ta ra không nào?
    A Ly cười đáp:
    - Ta không buông, ngươi làm gì được ta?
    Trương Vô Kỵ gập người xuống, há mồm ngoặp ngay vào lưng bàn tay cô gái cắn mạnh một cái. A Ly thấy tay đau nhói, kêu hoảng lên:
    - - Ái chà.
    Tay phải buông ra, năm ngón tay trái giơ lên chộp vào mặt Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nhảy lùi về phía sau nhưng không kịp, bị móng tay giữa của cô ta đâm vào, rạch một đường dài trên má. Bàn tay phải của A Ly bị Vô Kỵ cắn một cái máu chảy ròng ròng, đau đến muốn khóc. Hai đứa trẻ ở bên cạnh đánh nhau, Kim Hoa bà bà không hề liếc mắt chẳng ngó ngàng gì đến. Diệt Tuyệt sư thái vứt nửa thanh kiếm gãy xuống đất, nói:
    - Đây là binh khí của học trò tôi, không đủ sức chịu đụng chạm với cao nhân.
    Nói xong bà ta cởi cái bọc trên vai xuống, lấy ra một thanh cổ kiếm dài chừng bốn thước. Kim Hoa bà bà liếc mắt qua, thấy trên bao kiếm ẩn một làn khí xanh, kiếm chưa ra khỏi bao, đã biết không phải một vật bình thường, trên vỏ kiếm thêu bằng tơ vàng hai chữ "Ỷ Thiên". Bà ta giật mình kinh hãi, buột miệng:
    - Ỷ Thiên kiếm.
    Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, nói:
    - Đúng thế, Ỷ Thiên kiếm đó.
    Trong đầu Kim Hoa bà bà lập tức hiện lên sáu câu võ lâm vẫn tương truyền: “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong”. Mụ lẩm bẩm:
    - Thì ra kiếm Ỷ Thiên nằm trong tay phái Nga Mi.
    Diệt Tuyệt sư thái quát lên:
    - Tiếp chiêu.
    Bà ta cầm cán kiếm nhưng không rút ra khỏi bao, dùng cả kiếm lẫn bao đâm vào ngực Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giơ quài trượng lên gạt. Diệt Tuyệt sư thái cổ tay hơi rung một cái, bao kiếm đã chạm vào cây gậy. Chỉ nghe một tiếng “xoẹt” nhỏ như xé một tờ giấy dày, thanh thần vật hải ngoại của Kim Hoa bà bà, một loại chí bảo trong kinh khí, San Hô Kim quài trượng kia đã gãy thành hai mảnh.
    Kim Hoa bà bà trong lòng chấn động, nghĩ thầm: “Thanh kiếm Ỷ Thiên kia chưa ra khỏi bao mà đã lợi hại như thế, quả thật danh bất hư truyền”. Bà ta chăm chăm nhìn thanh bảo kiếm một hồi, nói:
    - Diệt Tuyệt sư thái, xin bà cho tôi nhìn lưỡi kiếm xem ra thế nào?
    Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu, lạnh lùng đáp:
    - Thanh kiếm này ra khỏi vỏ rồi, chưa uống máu người thì không chịu vào bao.
    Hai người lặng thinh nhìn nhau một lúc lâu không ai nói gì.
    Kim Hoa bà bà biết rằng vị ni cô này công lực không kém gì mình, lại thêm chiêu số kỳ diệu chưa nhìn ra được. Bà ta là chưởng môn của phái Nga Mi, tài nghệ ắt không phải bình thường, lại có trong tay thanh bảo kiếm Ỷ Thiên số một trên đời, nhất định không thể địch lại, nên ho nhẹ mấy tiếng, quay đầu nắm tay A Ly thản nhiên cất bước ra đi.
    A Ly quay đầu lại gọi:
    - Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ.
    Tiếng kêu mỗi lúc một xa, nhỏ dần rồi chìm hẳn. Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù, Bối Cẩm Nghi ba người thấy sư phụ đắc thắng, địch nhân phải bỏ đi đều vô cùng hoan hỉ. Đinh Mẫn Quân nói:
    - Sư phụ, bà già đó đúng là có mắt không thấy Thái Sơn, dám động thủ với lão nhân gia để mua lấy cái khổ.
    Diệt Tuyệt sư thái nghiêm mặt nói:
    - Từ rày trở đi các ngươi đi lại trên giang hồ, mỗi khi nghe thấy tiếng ho của mụ ta thì nên tránh cho xa.
    Khi bà vung kiếm lên tấn công, tuy chặt đứt được quài trượng của đối phương, nhưng khi ra tay đã dùng đến Nga Mi Cửu Dương Công tu luyện trên ba mươi năm nay. Thần công này khi chạm vào Kim Hoa bà bà như chìm vào trong đại dương, không còn tăm hơi gì, chỉ lay động tà áo mà thôi chứ không đẩy lùi bà ta được một bước. Bây giờ nghĩ lại, trong bụng không khỏi kinh hãi, biết rằng bà ta nội lực rất cao siêu, lực xương sống lại vững chãi, chẳng khác gì kẻ tráng niên, không có vẻ gì một bà già hom hem yếu đuối, tu luyện đạt tới mức như thế thật khó mà hiểu nổi.
    Diệt Tuyệt sư thái ngửng đầu nhìn trời, xuất thần hồi lâu, nói:
    - Hiểu Phù, theo ta.
    Bà không thèm nhìn đồ đệ, đi vào trong căn nhà tranh. Ba người Kỷ Hiểu Phù cùng đi theo. Dương Bất Hối kêu lên:
    - Mẹ ơi.
    Cũng định chạy theo. Kỷ Hiểu Phù biết lần này sư phụ chính bản thân xuống núi, trước là thanh lý môn hộ, tuy mình trước đây được thầy sủng ái, nhưng sư thái tính tình nghiêm khắc, không biết sẽ xử mình ra sao, quay lại nói với con:
    - Con đi ra ngoài chơi, đừng theo mẹ.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Con mụ họ Đinh tính tình tồi tệ, chắc là đã ton hót với sư phụ, nói xấu Kỷ cô cô. Mọi việc đêm hôm đó ta chính mắt nhìn thấy, chỉ thấy mụ Độc Thủ Vô Diệm này chẳng ra gì. Nếu như mụ ta nói quấy nói quá, đổi trắng thay đen, ta sẽ tiến ra biện minh cho Kỷ cô cô”. Nghĩ thế y bèn len lén luồn qua sau nhà, nép mình bên song cửa, nín thở nghe lén.
    Chỉ thấy trong nhà không một tiếng động, chẳng ai nói câu gì. Qua một lúc lâu, Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Hiểu Phù, chuyện của ngươi, ta muốn chính miệng ngươi nói ra.
    Kỷ Hiểu Phù nghẹn ngào nói:
    - Sư phụ, con … con … Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Mẫn Quân, ngươi lại hỏi nó coi.
    Đinh Mẫn Quân đáp:
    - Vâng. Kỷ sư muội, trong môn phái chúng ta, điều giới luật thứ ba là gì?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Giới dâm tà phóng đãng.
    Đinh Mẫn Quân hỏi tiếp:
    - Đúng rồi. Còn điều giới thứ sáu là gì?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Giới lòng hướng người ngoài, phản bội sư môn.
    Đinh Mẫn Quân hỏi thêm:
    - Người vi phạm giới luật thì xử tội thế nào?
    Kỷ Hiểu Phù không trả lời câu hỏi của y thị, quay sang Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Sư phụ, việc này bên trong có những điều khó khăn đệ tử không biết nói cùng ai, không giống như Đinh sư tỉ thuật lại.
    Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Được, ở đây không có ai khác, ngươi kể lại rõ ràng cho ta nghe xem nào.
    Kỷ Hiểu Phù biết rằng hôm nay mình lâm vào bước đường cực kỳ trọng đại, không cách nào dấu diếm được nữa, liền nói:
    - Sư phụ, năm đó bên mình nghe tin về việc Vương Bàn Sơn đảo, sư phụ hạ lệnh cho chúng con sư huynh muội mười sáu người hạ sơn, chia nhau ra dò thám chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Đệ tử đi về hướng Đại Thụ Bảo ở Xuyên Tây, trên đường gặp một người đàn ông, tuổi trạc trung niên mặc áo trắng, độ chừng bốn mươi. Đệ tử đi đến đâu, y theo tới đó. Đệ tử vào khách điếm, y cũng vào khách điếm, đệ tử dừng chân, y cũng dừng chân. Ban đầu đệ tử không lý tới y, về sau thấy bực mình quá, mới lên tiếng trách cứ. Người đó ăn nói điên điên khùng khùng, đệ tử không nhịn nổi, liền rút kiếm đâm y. Người đó không mang binh khí nhưng võ công tuyệt cao, chỉ một vài chiêu, đã đoạt mất trường kiếm trong tay đệ tử.
    Con trong lòng kinh hoảng, lập tức bỏ chạy, nhưng người đó không đuổi theo. Sáng sớm hôm sau, khi con ở trong điếm phòng tỉnh dậy, đã thấy thanh kiếm của mình để ngay bên cạnh gối. Đệ tử giật mình kinh hãi, đi ra khỏi khách điếm lại thấy người kia đi theo rồi. Con nghĩ động võ với y cũng không ăn thua gì, chỉ còn cách ngọt ngào cầu khẩn, nói rằng hai người không thân thích họ hàng, cũng chẳng quen biết nhau, lại thêm nam nữ hữu biệt, ông cứ đi theo tôi là có ý gì. Con nói thêm, tôi tuy võ công không bằng được ông, nhưng phái Nga Mi chúng tôi không phải chuyện thường.
    Diệt Tuyệt sư thái Ừ một tiếng, ra chiều bằng lòng học trò mình ăn nói đắc thể. Kỷ Hiểu Phù nói tiếp:
    - Người đó bật cười, nói: “Võ công của một người mà còn phân môn phái thì mới chỉ là hạ thừa. Cô nương nếu chịu đi theo tôi sẽ có dịp sáng mắt, tôi sẽ dạy cho cô thấy trời đất bao la của võ học trên đời này”.
    Diệt Tuyệt sư thái tính tình cô độc, cả đời tiềm tâm học võ, sống ngăn cách với chuyện bên ngoài, nghe Kỷ Hiểu Phù chuyển thuật lời của gã kia, nói là “Võ công của một người mà còn phân môn phái thì mới chỉ là hạ thừa”, lại thêm “sẽ dạy cho cô thấy trời đất bao la của võ học trên đời này” không khỏi cảm thấy tò mò liền hỏi:
    - Thế là ngươi đi theo y xem y có bản sự gì cổ quái, phải không?
    Kỷ Hiểu Phù mặt đỏ lên, nói:
    - Sư phụ, y là một người đàn ông không quen biết, đệ tử lẽ nào lại chịu đi theo y.
    Diệt Tuyệt sư thái bấy giờ mới vỡ lẽ ra, nói:
    - - Ừ phải, vậy ngươi bảo hắn mau cút đi chỗ khác?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Đệ tử trăm phương nghìn kế trốn tránh y, nhưng không cách nào thoát khỏi tay y, sau cùng bị y bắt được. Oại, đệ tử bất hạnh, gặp phải cái oan nghiệt kiếp trước ...
    Nàng nói tới đây, âm thanh càng lúc càng nhỏ. Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
    - Rồi sau ra sao?
    Kỷ Hiểu Phù nói nhỏ:
    - Đệ tử chống cự không nổi, thất thân với y. Y giám thị con cực kỳ nghiêm nhặt, khiến cho con muốn chết cũng không xong. Cứ như thế suốt mấy tháng trường, bỗng có kẻ địch đến tìm y, đệ tử thừa cơ trốn thoát, chẳng bao lâu biết ra là đã có mang, không dám thưa cùng sư phụ, chỉ còn nước lén sinh ra một đứa con.
    Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
    - Tất cả thực là như thế ư?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Đệ tử nghìn vạn lần không dám nói dối sư phụ.
    Diệt Tuyệt sư thái trầm ngâm một hồi, nói:
    - Tội nghiệp con thật đáng thương. Ôi, việc này đâu có phải lỗi ở con đâu.
    Đinh Mẫn Quân nghe lời nói của sư phụ có vẻ thương xót Kỷ Hiểu Phù, liền hậm hực nhìn nàng một cái. Diệt Tuyệt sư thái thở dài, hỏi:
    - Thế bây giờ con định ra sao?
    Kỷ Hiểu Phù rơi lệ đáp:
    - Đệ tử do gia nghiêm định đoạt, vốn đã hứa gả cho Ân lục gia phái Võ Đương, nay gặp phải biến cố này, chỉ mong sư phụ nhủ lòng cho con xuất gia, cắt tóc làm ni cô.
    Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:
    - Chuyện đó không nên. Ôi, vậy tên đàn ông bại hoại đã hại đời con kia tên hắn là gì?
    Kỷ Hiểu Phù hạ giọng nói:
    - Y … y họ Dương, đơn danh một chữ Tiêu.
    Diệt Tuyệt sư thái bỗng nhảy dựng lên, tay áo phất một cái, nghe lách cách, mặt bàn đã bị bà ta đánh vỡ một bên. Trương Vô Kỵ nấp bên ngoài cửa nghe lén, sợ đến mất cả hồn vía. Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Bối Cẩm Nghi ba người mặt liền biến sắc.
    Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng hỏi:
    - Ngươi bảo tên hắn là Dương Tiêu? Có phải là đại ma đầu của Ma giáo, tự xưng cái gì “Quang Minh Tả Sứ Giả” Dương Tiêu đấy không?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Y … y … là người trong Minh giáo, hình như trong giáo phái này cũng có chút địa vị.
    Diệt Tuyệt sư thái mặt đầy vẻ giận dữ, nói:
    - Minh giáo cái gì? Cái đó là bọn Ma giáo thương thiên hại lý, vô ác bất tác. Y … y trốn ở đâu? Ở trên Quang Minh Đính dãy Côn Lôn chăng? Để ta đi tìm y.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Y nói, bọn họ Minh giáo … Diệt Tuyệt sư thái quát lên:
    - Ma giáo.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Vâng. Y nói tổng đàn của Ma giáo vốn đặt trên đỉnh Quang Minh, nhưng những năm gần đây nội bộ bất hòa, y không tiện ở lại đỉnh Quang Minh, để người khác khỏi nói là y muốn làm giáo chủ, nên dời qua ẩn cư trên Tọa Vong Phong cũng thuộc dãy Côn Lôn, nhưng chỉ nói cho một mình đệ tử biết thôi, trên giang hồ không ai hay cả. Sư phụ đã hỏi đến, đệ tử không dám không thưa. Sư phụ, người đó … người đó là kẻ thù của bản phái đấy ư?
    Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Thù sâu như biển. Đại sư bá ngươi Cô Hồng Tử, đã bị tên đại ma đầu này chọc giận quá mà chết.
    Kỷ Hiểu Phù hết sức kinh hãi, nhưng không khỏi kiêu hãnh ngầm, đại sư bá Cô Hồng Tử là một cao thủ năm xưa danh chấn thiên hạ, vậy mà bị “chàng” chọc tức mà chết. Nàng muốn hỏi cho rõ đầu đuôi nhưng không dám mở mồm.
    Diệt Tuyệt sư thái ngẩng đầu nhìn trời, hậm hực nói một mình:
    - Dương Tiêu, ôi Dương Tiêu … bao nhiêu năm nay ta không biết ngươi ở đâu, bây giờ trời xui đất khiến để ngươi lọt vào tay ta … Đột nhiên bà quay đầu lại, nói:
    - - Được rồi, ngươi thất thân với y, lại bảo vệ cho Bành hòa thượng, đắc tội với sư tỉ, dối trá sư phụ, lén nuôi hài nhi ... tất cả những điều đó ta không nhắc đến nữa. Ta sai ngươi làm một việc, đại công cáo thành rồi, ngươi trở lại núi Nga Mi, ta sẽ đem y bát và kiếm Ỷ Thiên truyền lại cho ngươi, lập ngươi làm người kế thừa chức chưởng môn bản phái.
    Câu nói đó khiến tất cả mọi người ai nấy đều kinh ngạc. Đinh Mẫn Quân vừa ghen tức, vừa thù hận, oán trách sư phụ sao chẳng phân biệt trắng đen, làm điều nghịch lý. Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Sư phụ có sai bảo gì, đệ tử phải hết lòng hết sức, theo đó mà làm. Còn việc thừa hưởng y bát chân truyền của ân sư, đệ tử biết mình đức hạnh khiếm khuyết, võ công kém cỏi, không dám vọng tưởng chuyện đó.
    Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Ngươi theo ta ra đây.
    Bà nắm tay Kỷ Hiểu Phù lẹ làng lướt ra khỏi căn nhà tranh, lên một triền núi ở phía trái thung lũng, đến một nơi thật trống trải mới ngừng lại.
    Trương Vô Kỵ từ xa nhìn tới, thấy Diệt Tuyệt sư thái đứng tại nơi cao nhất, nhìn chung quanh bốn bề một vòng, sau đó mới kéo Kỷ Hiểu Phù lại gần bên, nói nhỏ bên tai nàng. Thì ra bà ta muốn nói một chuyện cực kỳ bí mật, khỏi sợ chuyện tai vách mạch rừng, e người khác nghe lén nên ngay cả hai người học trò kia cũng không cho theo.
    Trương Vô Kỵ náu mình đằng sau mao ốc không dám thò mặt ra, chỉ xa xa nhìn Diệt Tuyệt sư thái nói một hồi, Kỷ Hiểu Phù cúi đầu suy nghĩ, sau cùng lắc đầu, thần thái cực kỳ kiên quyết, hiển nhiên không chịu theo lệnh sư phụ. Lại thấy Diệt Tuyệt sư thái giơ tả chưởng lên, dường như định đánh xuống, nhưng tay ngừng lại trên không, không hạ xuống, dường như cho nàng cơ hội sau cùng có chịu hồi tâm chuyển ý hay chăng.
    Trương Vô Kỵ tim đập thình thình, nghĩ thầm chưởng đó đánh xuống đầu, Kỷ Hiểu Phù không sao sống được. Hai mắt y không dám chớp, chăm chú nhìn Kỷ Hiểu Phù. Chỉ thấy nàng quì hai gối xuống, nhưng vẫn kiên quyết lắc đầu. Diệt Tuyệt sư thái giơ tay đánh xuống, trúng ngay giữa đỉnh đầu nàng, Kỷ Hiểu Phù thân hình rung lên mấy cái, quỵ xuống, dãy dãy vài lần rồi nằm bất động.
    Trương Vô Kỵ vừa kinh hãi, vừa đau lòng, nằm phục trong đám cỏ cao sau nhà, không dám động đậy. Ngay lúc đó, Dương Bất Hối khúc khích cười mấy tiếng, ở đâu ôm choàng lên lưng Trương Vô Kỵ, nói:
    - Bắt được anh rồi, bắt được anh rồi.
    Thì ra con bé chạy chơi ngoài đồng, thấy Trương Vô Kỵ nằm dấu mình trong đám cỏ, lại tưởng y đang chơi trò trốn tìm với mình, nên chạy tới bắt y. Trương Vô Kỵ vòng tay qua kéo nó vào lòng, một tay bịt chặt miệng đứa nhỏ, ghé tai nó nói nhỏ:
    - Không được nói, đừng để ác nhân nhìn thấy mình.
    Dương Bất Hối thấy mặt y xanh lè đầy vẻ kinh hoàng, cũng sợ theo.
    Diệt Tuyệt sư thái từ trên đồi cao hối hả đi xuống, bảo Đinh Mẫn Quân:
    - - Đi kiếm đâm chết nghiệt chủng của nó đi, khỏi lưu mầm họa.
    Đinh Mẫn Quân thấy sư phụ dùng trọng thủ đánh chết Kỷ Hiểu Phù, tuy trong lòng ngầm hoan hỉ, nhưng cũng không khỏi sợ hãi, nghe nói thế, liền mượn trường kiếm của sư muội Bối Cẩm Nghi, cầm trong tay đi tìm Dương Bất Hối.
    Trương Vô Kỵ ôm chặt Dương Bất Hối, co mình chui trong đám cỏ dày, ngay cả thở cũng không dám thở mạnh. Đinh Mẫn Quân chạy trước chạy sau đi kiếm một hồi, không thấy tung tích con bé đâu, đang định tìm kỹ một lần nữa, Diệt Tuyệt sư thái đã cất tiếng mắng:
    - Thật là đồ vô dụng, có đứa trẻ con mà tìm cũng không ra.
    Bối Cẩm Nghi bình thời chơi với Kỷ Hiểu Phù tương đối thân thiết, mắt thấy nàng chết thảm dưới chưởng của sư phụ, lại còn muốn giết nốt đứa con côi, trong lòng thấy bất nhẫn, bèn nói:
    - Con thấy đứa nhỏ đó hình như chạy ra ngoài thung lũng rồi.
    Nàng biết sư phụ tính tình cấp tháo, nếu ở bên ngoài kiếm không ra, sẽ không hơi đâu mà chạy vào tìm lần nữa. Tuy đứa bé con đó một thân một mình lênh đênh chưa chắc sống được, nhưng cũng còn hơn chính mắt nhìn thấy Đinh Mẫn Quân đâm nó một nhát chết tươi. Diệt Tuyệt sư thái nói:
    - Vậy sao không nói sớm?
    Bà hầm hầm trừng mắt nhìn người đệ tử, rồi chạy trước ra khỏi sơn cốc. Đinh Mẫn Quân và Bối Cẩm Nghi lật đật chạy theo. Dương Bất Hối đâu đã biết mẫu thân vừa gặp đại họa, đôi mắt đen láy luôn luôn chuyển động ý như muốn hỏi chuyện gì. Trương Vô Kỵ ghé tai sát đất nghe ngóng, thấy tiếng chân ba người mỗi lúc một xa, nhỏm dậy, dắt Dương Bất Hối chạy lên đồi cao. Dương Bất Hối cười:
    - Vô Kỵ ca ca, ác nhân đi rồi ư? Mình chạy lên núi chơi, có phải không?
    Trương Vô Kỵ không trả lời, cầm tay nó chạy thẳng tới chỗ Kỷ Hiểu Phù. Dương Bất Hối chạy tới gần mới thấy mẹ nằm dưới đất, giật mình kinh hãi, ngồi thụp xuống ôm choàng lấy Kỷ Hiểu Phù, kêu lên:
    - Mẹ ơi, mẹ ơi.
    Trương Vô Kỵ vội thăm hơi thở của Kỷ Hiểu Phù, khí tức thật là yếu ớt, thấy xương sọ của nàng bị Diệt Tuyệt sư thái đánh một chưởng vỡ tan, dù có Hồ Thanh Ngưu ở đây, cũng không thể nào cứu được. Kỷ Hiểu Phù hé mắt nhìn, thấy Trương Vô Kỵ và con mình, miệng mấp máy, dường như muốn nói, nhưng không thốt ra được một lời, trên mắt hai giọt lệ chảy xuống. Trương Vô Kỵ lấy kim châm trong bọc ra, châm vào các huyệt Thần Đình, Ấn Đường, Thừa Khấp ... mấy chỗ, để nhất thời cảm giác đau đớn không truyền lên não.
    Kỷ Hiểu Phù tinh thần hơi phấn chấn, nói thều thào:
    - Cô nhờ … nhờ cháu … đưa nó đến bố nó … cô không chịu … không chịu hại cha nó … Nàng thò tay lên ngực, dường như định lấy cái gì, đột nhiên đầu nghẹo qua một bên, tắt thở chết rồi. Dương Bất Hối ôm lấy thi thể mẹ, khóc òa lên, miệng không ngớt kêu:
    - Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ đau lắm hả? Mẹ đau lắm hả?
    Thân thể Kỷ Hiểu Phù lạnh dần, nhưng con bé vẫn tiếp tục hỏi mãi. Nó không hiểu sao mẹ nó không cử động, cũng không trả lời cho nó.
    Trương Vô Kỵ vừa đau lòng, vừa buồn bã, nghĩ đến lúc cha mẹ mình chết, y cũng nằm ôm xác hai người, nhịn không nổi nước mắt cũng ròng ròng. Hai đứa khóc một hồi, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Kỷ cô cô lúc lâm tử, nhờ mình đưa em Bất Hối đi kiếm cha nó. Cha nó tên là Dương Tiêu, là Quang Minh tả sứ giả trong Minh giáo, ở trên ngọn núi gì tên là Tọa Vong Phong trong dãy Côn Lôn. Ta phải đưa nó đến đó”. Nó đâu biết là dãy Côn Lôn ở phía cực tây, cách mấy vạn dặm, hai đứa trẻ con làm sao tới được? Lại thấy khi Kỷ Hiểu Phù tắt thở còn cố lấy cái gì đó trong ngực ra, nên vội sờ trên cổ nàng, thấy có một sợi dây tơ, một đầu có một chiếc thiết bài đen sì, trên mặt có tơ vàng thêu thành hình một ngọn lửa đang cháy.
    Trương Vô Kỵ không biết cái này là cái gì nhưng cũng cởi ra, đeo vào cổ Dương Bất Hối. Y vào trong nhà lấy ra một cái xẻng, đào một cái hố chôn Kỷ Hiểu Phù. Lúc này Dương Bất Hối khóc đã kiệt sức, nằm lăn ra ngủ. Khi con bé tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ phải nói mãi nó mới tin là mẹ nó bay lên trời rồi, phải thật lâu mới từ trên trời xuống gặp nó.
    Sau đó Trương Vô Kỵ vào nhà nấu qua quít một nồi cơm, cùng Dương Bất Hối ăn rồi đi ngủ. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Vô Kỵ thu thập hành lý thành hai gói nhỏ, cầm theo mấy chục lượng bạc Hồ Thanh Ngưu để lại, dẫn Dương Bất Hối lên trên mộ mẹ lạy mấy lạy rồi dắt nhau ra khỏi Hồ Điệp Cốc.
   

- o O o -

    [1] Người vợ vụng về của tôi (tiếng khiêm tốn) [2] người giữ việc trong nhà, thời xưa để chỉ người vợ [3] tình vợ chồng (nói một cách văn vẻ) [4] tiếng Trung Hoa, tiên sinh vừa để gọi một người học thức đáng kính, vừa để gọi ông thầy dạy chữ mình. Vô Kỵ hiện nay coi như là học trò của Hồ Thanh Ngưu nên gọi Vương Nạn Cô là sư mẫu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:49:55 | Chỉ xem của tác giả
ĐƯƠNG ĐẠO THỜI KIẾN TRUNG SƠN LANG

    Mang danh chính phái ai người, Làm ơn trả oán như loài sói lang.

    Hai đứa đi hơn nửa ngày mới ra khỏi Hồ Điệp Cốc, Dương Bất Hối chân nhỏ bước ngắn không còn đi nổi nữa. Ngồi nghỉ một hồi, lại đứng dậy đi tiếp. Đi rồi nghỉ, nghỉ rồi đi, chiều hôm đó không kiếm được khách điếm, hai đứa đi đến trời tối, vẫn còn đi lang thang trong hoang sơn dã lãnh, bốn phía sói tru cú rúc, khiến cho Bất Hối sợ quá khóc òa lên.
    Trương Vô Kỵ trong bụng cũng mười phần sợ hãi, thấy bên đường có một cái hốc đá, liền dắt Dương Bất Hối chui vào, ôm em vào lòng, lấy hai tay bịt tai lại để nó khỏi nghe thấy tiếng thú đói rú lên trong đêm. Đêm đó hai đứa bé vừa đói vừa sợ, qua một đêm khủng khiếp, sáng hôm sau mới đi vào trong núi kiếm trái cây dại để ăn, thuận theo đường núi đi một hồi lại nghỉ một chốc. Đi đến trưa, Dương Bất Hối đột nhiên kêu thất thanh, chỉ vào một cái cây lớn bên cạnh đường.
    Trương Vô Kỵ nhìn theo, thấy trên cây treo lủng lẳng đong đưa hai cái xác người, sợ quá vội nắm tay em quay đầu chạy. Hai đứa hoảng hốt bước thấp bước cao chưa được bao xa, vấp phải một hòn đá cùng ngã lăn xuống. Trương Vô Kỵ thu hết can đảm quay đầu lại nhìn, lần này lại càng kinh hãi, buột miệng kêu lên:
    - Hồ tiên sinh.
    Thì ra cái xác treo trên cây kia bị gió thổi quay lại, chính là Hồ Thanh Ngưu. Cái xác khô kia tóc dài phủ xuống lưng, là một người đàn bà, nhìn phục sức chính thị Vương Nạn Cô, vợ của Hồ Thanh Ngưu. Gió núi thổi vào xác và mái tóc dài của bà ta, càng làm tăng thêm âm khí u uất.
    Trương Vô Kỵ cố gắng trấn tĩnh, tự nhủ: “Không sợ, không sợ”. Y từ từ đứng lên, từng bước từng bước tiến lại, nhìn kỹ đúng là xác của hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, trên mặt có đốm lấp lánh, như nạm trên mặt mỗi người một bông hoa vàng. Trương Vô Kỵ hiểu ra: “Thì ra họ không chạy thoát độc thủ của Kim Hoa bà bà”.
    Lại thấy dưới giòng suối một chiếc xe vỡ nát, một con la nằm chết chìm trong đó. Trương Vô Kỵ bàng hoàng chảy nước mắt, cởi dây hạ hai cái xác vợ chồng Hồ Thanh Ngưu xuống gốc cây, bỗng nghe một tiếng cạch, từ trong bọc của Vương Nạn Cô rơi ra một quyển sách. Y nhặt lên, đó là một bộ sách chép tay, tựa đề năm chữ “Vương Nạn Cô Độc Kinh”. Giở ra xem, trong sách những chữ nhỏ bằng đầu ruồi theo lối chữ khải, viết chi chít độc tính của những loại độc vật, cách sử dụng và hóa giải, ngoài độc dược, độc thảo, còn các loại côn trùng như rắn, rết, bò cạp, nhện kể cả các loại cổ quái lạ lùng như cá, cắc kè, chim, thú, hoa, cây đất đá, đều có ghi cả. Y tiện tay bỏ luôn vào bọc, xếp song song thi thể vợ chồng Hồ Thanh Ngưu rồi lấy đất đá đắp lên thành hai cái gò, quì xuống lạy mấy lạy, sau đó dắt tay Dương Bất Hối theo đường mà đi.
    Hai đứa đi được vài dặm thì gặp đường lớn, chẳng bao lâu đến một thị trấn nhỏ, Trương Vô Kỵ định đi mua cơm ăn, nào ngờ trong phố nhà nào cũng bỏ không, chẳng thấy một bóng người nào. Hai đứa không còn cách nào khác, đành phải đi tiếp. Ruộng nương hai bên đường đều không trồng cấy gì, cỏ dại mọc đầy, trông thật hoang lương.
    Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, Dương Bất Hối thật ngoan, cố nhịn đói không khóc, gắng sức bước đi, vì nó cũng đâu biết làm gì. Đi được một lúc, thấy bên đường nằm chết mấy xác người, bụng lép kẹp, hai má hõm xuống, nhìn qua cũng biết ngay là chết đói. Càng đi càng thấy người chết mỗi lúc một nhiều, Trương Vô Kỵ càng thêm sợ hãi: “Không lẽ mình không thể kiếm được cái gì để ăn sao? Chắc hai đứa rồi cũng chết đói mất thôi”. Đi đến chiều, đến một khu rừng, thấy bên trong có một làn khói trắng bốc lên. Trương Vô Kỵ mừng lắm, từ khi ra khỏi Hồ Điệp Cốc y chưa thấy khói lửa, nên vội vàng nhắm phía làn khói hối hả đi tới.
    Khi tới gần, Vô Kỵ thấy hai gã áo quần bẩn thỉu ngồi bên cạnh một cái chảo nước đang bốc hơi nghi ngút, đang thêm củi vào bếp. Hai gã đó nghe thấy tiếng chân người, quay lại thấy Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối, trên mặt liền ra vẻ vui mừng, cùng nhảy cẫng lên. Một người vẫy tay gọi:
    - Bé con, tốt quá, lại đây, mau lại đây. Có người lớn nào đi cùng không? Hai đứa đi đâu thế?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Chỉ có hai đứa chúng cháu thôi, không có người lớn.
    Hai người kia nhìn nhau cười ha hả, cùng kêu lên:
    - May thật, may thật.
    Trương Vô Kỵ đói muốn lả, thò đầu nhìn vào trong chảo xem họ nấu gì, thấy bên trong đang sôi sục, toàn là cỏ xanh. Một tên đi tới túm lấy Dương Bất Hối, nhe răng cười:
    - Con dê con này vừa trắng vừa béo, đêm nay mình được một bữa no, sướng thật.
    Tên kia tiếp lời:
    - Đúng thế, thằng con trai để đến ngày mai hãy ăn.
    Trương Vô Kỵ giật mình hinh hãi, quát lên:
    - Làm gì thế? Mau bỏ em ta ra.
    Gã kia không thèm lý tới, soẹt một tiếng đã xé ngay áo của Dương Bất Hối, thò tay vào giày ủng rút ra một con dao găm, cười:
    - Lâu quá không được ăn loại dê non béo thế này.
    Y xách Dương Bất Hối để qua một bên, dường như muốn làm thịt. Tên kia liền cầm một cái bát sành để ở phía sau, nói:
    - Máu dê bỏ phí lắm, để mình nấu một nồi cháo huyết, ăn cũng ngon ra phết.
    Trương Vô Kỵ sợ đến hết cả hồn vía, xem chừng bọn chúng không phải đùa, có ý muốn giết Dương Bất Hối thực, kêu to:
    - Các ngươi định ăn thịt người à? Sao không sợ thương thiên hại lý?
    Gã cầm bát cười:
    - Bố mày ba tháng nay không được hạt gạo nào vào bụng, không ăn thịt người, không lẽ ăn thịt bò thịt dê sao?
    Y sợ Trương Vô Kỵ bỏ chạy vội đến nắm cổ nó. Trương Vô Kỵ nghiêng người né tránh, tay trái gạt ra, tay phải đánh ra một chưởng, trúng ngay giữa chỗ yếu hại trên lưng. Y được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn truyền thụ bí quyết võ công, lại được phụ thân dạy cho Võ Đương trường quyền, mấy năm nay tuy chuyên tâm học nghề thuốc, không luyện võ, nhưng những gì đã tập đã xem toàn là thượng thừa công phu. Chưởng đó y hết sức đánh ra, dù người tập võ nhiều năm cũng chưa chắc đỡ nổi, huống chi một gã nhà quê tầm thường? Gã đó hự một tiếng nằm gục ngay xuống, không còn động đậy gì nữa.
    Trương Vô Kỵ lập tức nhảy lại bên cạnh Dương Bất Hối, tên còn lại quát lên:
    - Để tao giết mày trước.
    Y giơ con dao lên đâm vào ngực Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ sử chiêu Nhạn Sí Thức trong Võ Đương trường quyền, chân phải đá lên, trúng ngay cổ tay tên nọ, con dao văng mất. Tiếp theo y sử Uyên Ương Liên Hoàn Thối, chân trái đá tiếp theo, trúng ngay cằm kẻ địch. Người đó đang há mồm quát tháo, hàm dưới bị đá trúng ngậm ngay lại, răng cắn trúng lưỡi, máu phun vọt ra, lập tức bất tỉnh. Trương Vô Kỵ vội chạy tới đỡ Dương Bất Hối.
    Ngay lúc đó có tiếng chân người, lại có mấy người khác đi vào rừng. Dương Bất Hối sợ đến quýnh quáng, vừa nghe tiếng người nói lập tức sà vào lòng Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thò đầu ra thăm dò, lúc ấy mới yên tâm kêu lớn:
    - Có phải Giản đại gia, Tiết đại gia không?
    Đi vào rừng gồm cả thảy năm người, một người là Giản Tiệp của phái Không Động, ngoài ra là Tiết Công Viễn và hai người đồng môn phái Hoa Sơn, bốn người này đều do Vô Kỵ trị bệnh lúc trước. Người sau cùng là một thanh niên chừng đôi mươi, tướng mạo uy tráng, trán rất rộng, Trương Vô Kỵ chưa từng gặp bao giờ.
    Giản Tiệp ồ lên một tiếng, nói:
    - Trương huynh đệ, ngươi ở đây đấy ư? Hai người này bị sao thế?
    Nói rồi chỉ hai gã kia đang nằm dưới đất. Trương Vô Kỵ hậm hực hể lại mọi chuyện, sau cùng kết luận:
    - Đến người sống mà họ còn ăn, quả thực là vô pháp vô thiên.
    Giản Tiệp đưa mắt nhìn Dương Bất Hối, đột nhiên khóe miệng chảy nước dãi, lè lưỡi liếm môi, nói lẩm bẩm:
    - Con mẹ nó, năm ngày năm đêm rồi không có hạt gạo nào vào bụng, chỉ ăn toàn rễ cỏ với vỏ cây …, ôi chao, mềm mại trắng trẻo thế kia, mập mạp mơn mởn … Trương Vô Kỵ thấy mắt y toát ra vẻ thèm khát, trông chẳng khác gì một con chó sói đói đang rình mồi, lại nhe răng trắng nhởn, thần tình thật đáng sợ, lập tức kéo Dương Bất Hối vào lòng.
    Tiết Công Viễn hỏi:
    - Thế mẹ con bé đâu?
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nếu mình bảo Kỷ cô cô chết rồi, thể nào bọn họ cũng có ý đồ không tốt”. Liền nói:
    - Kỷ nữ hiệp đi mua gạo, chút nữa về ngay.
    Dương Bất Hối bỗng nói:
    - Không đâu, mẹ cháu bay lên trời rồi.
    Giản, Tiết nghe hai đứa, biết ngay Kỷ Hiểu Phù đã chết, Tiết Công Viễn cười khẩy nói:
    - Mua gạo? Chung quanh đây năm trăm dặm, nếu ngươi kiếm được một hạt gạo thì ta chịu ngươi là giỏi.
    Giản Tiệp đưa mắt cho Tiết Công Viễn, hai người cùng nhảy xổ tới. Giản Tiệp hai tay nắm hai cánh tay Trương Vô Kỵ, Tiết Công Viễn giơ tay bịt mồm Dương Bất Hối, tay phải liền bế xốc con bé lên. Trương Vô Kỵ sợ hãi kêu:
    - Các ngươi làm gì thế?
    Giản Tiệp cười:
    - Phủ Phượng Dương này cả nghìn dặm đều bỏ hoang, bọn ta đói quá nhịn không nổi nữa rồi. Con bé này đâu có phải là gì của ngươi, để rồi ta chia cho ngươi một phần.
    Trương Vô Kỵ chửi:
    - Các ngươi tự cho là anh hùng hảo hán thật uổng, lại đi hiếp đáp một đứa trẻ mồ côi? Việc này truyền ra ngoài, các ngươi còn làm người sao nổi?
    Giản Tiệp tức quá, tay trái nắm chặt Vô Kỵ, tay phải tát luôn cho y hai cái, quát lớn:
    - Cả thằng chó này ta cũng làm thịt luôn, bọn ta xem chừng một con dê con không đủ.
    Vô Kỵ mới rồi đánh ngã hai người nhà quê thật dễ dàng, nhưng Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp là cao thủ của phái Không Động, có mấy chục năm công phu, Trương Vô Kỵ bị y nắm chặt, làm sao thoát thân nổi. Hai tên sư đệ của Tiết Công Viễn liền lấy dây thừng, trói luôn cả hai đứa bé lại. Trương Vô Kỵ biết hôm nay mình không sao thoát chết, trong cơn cuồng nộ, cảm thấy hối hận, biết thế lúc trước không cứu mấy tên này, để khỏi gặp cảnh nhân tâm phản phúc, lấy oán báo ân.
    Giản Tiệp nói:
    - Thằng chó này, mày chữa vết thương trên đầu ông, mày nghĩ ông phải chịu ơn mày, có phải không? Trong bụng mày đang chửi thầm ông chứ gì?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Thế chẳng phải là lấy oán báo ân hay sao? Ta với các ngươi không quen không biết, nếu ta không ra tay cứu cho, kỳ thương quái độc của bốn người có khỏi được không?
    Tiết Công Viễn cười:
    - Trương thiếu gia, chúng tôi bị thương rồi bao nhiêu cái xấu lộ ra hết, mọi việc cậu đều nhìn thấy cả, nếu như truyền ra, người trên giang hồ còn coi chúng tôi ra gì nữa. Hôm nay chúng tôi đói đến lả ra rồi, không có miếng thịt bỏ vào bụng thì chắc không sống nổi. Cậu cứu người cứu cho đến cùng, làm ơn thì làm ơn cho trót, rộng lòng cứu thêm một lần nữa.
    Giản Tiệp dáng điệu hung ác trông dễ sợ thì đã đành, tên Tiết Công Viễn cười hì hì nhưng tính tình nham hiểm, Trương Vô Kỵ vừa nhìn đã lạnh cả gáy, kêu lớn:
    - Ta là đệ tử của phái Võ Đương, cô em này là phái Nga Mi, các ngươi giết bọn ta thì được, nhưng Võ Đương ngũ hiệp và Diệt Tuyệt sư thái không lẽ cũng bỏ qua hay sao?
    Giản Tiệp kinh ngạc, “A” lên một tiếng, nghe y nói quả không sai, phái Võ Đương và phái Nga Mi không phải tầm thường. Tiết Công Viễn cười đáp:
    - Ở đây chỉ có trời biết đất biết, cậu biết tôi biết, đợi cậu vào trong bụng tôi rồi hãy đi tố cáo với lão đạo Trương Tam Phong.
    Giản Tiệp cười sằng sặc, nói:
    - Bụng đói đến nổ đom đóm thế này, dù ngươi có là em ruột, con ruột thì ta cũng ăn cả xương lẫn da.
    Y quay lại nói với hai tên sư đệ của Tiết Công Viễn:
    - Mau đi nhóm lửa đun nước, còn đợi gì nữa?
    Hai gã kia vội nhặt cái chảo ở dưới đất lên, một gã chạy ra suối lấy nước, còn một gã thì đi chụm lửa. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiết đại gia, hai người này đằng nào cũng chết rồi, các ông bụng đói muốn ăn thịt người, thì ăn họ đi có hơn không?
    Tiết Công Viễn cười đáp:
    - Hai tên này chỉ có da bọc xương, vừa già vừa dai, vừa hôi vừa cứng, đời nào dê non không ăn, lại ăn thịt dê già?
    Trương Vô Kỵ xưa nay rất là can đảm, dù có đánh y, giết y, cũng không nửa lời xin tha, nhưng lúc này rơi vào tay kẻ ác, đang toan giết người ăn thịt, không khỏi kinh hoảng, nên mới năn nỉ mấy câu. Tiết Công Viễn trái lại cười lên ha hả:
    - Ha ha, đệ tử phái Võ Đương, phái Nga Mi trên giang hồ xưng hùng xưng bá, hôm nay lại bị ta từng miếng từng miếng nuốt vào bụng, Trương Tam Phong và Diệt Tuyệt lão ni biết được không tức chết thì thôi.
    Trương Vô Kỵ cố gắng thu hết sức kêu lên:
    - Tiết đại gia, nếu các ông không ăn thịt người không được, thì ăn tôi đi, chỉ mong các ông thả cô em này ra, Trương Vô Kỵ này chết cũng không oán.
    Tiết Công Viễn hỏi lại:
    - Tại sao thế?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Khi mẹ nó qua đời, có nhờ tôi đưa em bé này đến cho cha nó. Hôm nay các ông ăn thịt tôi chắc cũng đủ no, ngày mai đi mua thịt bò thịt dê mà ăn, tha cho cô bé này.
    Giản Tiệp thấy y sắp chết không sợ, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng quả có phong thái hiệp nghĩa, trong lòng cũng hơi khâm phục, không khỏi động tâm, trù trừ nói:
    - Nghĩ sao?
    Tiết Công Viễn nói:
    - Tha cho con nhãi này cũng không hề gì, có điều tiết lộ phong thanh, sau này bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu tìm đến, Giản đại ca đánh nổi họ thì làm.
    Giản Tiệp gật đầu nói:
    - Tiết huynh đệ nói phải lắm. Ta thật là kẻ hồ đồ, không nghĩ trước, nghĩ sau gì cả.
    Nói đến đây, tên đệ tử phái Hoa Sơn đã bưng được chảo nước về, để lên lò đun. Trương Vô Kỵ biết sự tình khẩn cấp, kêu lên:
    - Bất Hối muội muội, em thề với họ sau này quyết không nói chuyện này với ai.
    Dương Bất Hối ngơ ngác không hiểu khóc nói:
    - Đừng ăn anh Vô Kỵ, đừng ăn anh Vô Kỵ.
    Con bé không biết Vô Kỵ muốn nói gì, chỉ lờ mờ hiểu là y xả thân để cứu mình. Người thanh niên hiên ngang từ nãy chỉ ngồi một bên, không nói không rằng. Giản Tiệp liếc y một cái, hỏi:
    - Từ tiểu xá, có muốn ăn thịt dê cho lên tinh thần không?
    Ở vùng Hào Tứ, thanh niên còn trẻ gọi là tiểu xá. Thanh niên kia đáp:
    - Có.
    Y rút trong lưng ra một con dao găm, nói:
    - Giết chó làm dê là nghề của mỗ.
    Y để dao lên miệng cắn, một tay xách Trương Vô Kỵ, một tay xách Dương Bất Hối, đi xăm xăm ra hướng giòng suối. Trương Vô Kỵ ngoạc mồm chửi, định ghé răng cắn tay y, nhưng vươn không tới.
    Gả thanh niên họ Từ kia đi được mươi bước, Tiết Công Viễn gọi lại:
    - Từ tiểu xá, ở chỗ đó làm thịt được rồi.
    Gã họ Từ quay đầu lại nói:
    - Ra suối mổ bụng rửa ruột tốt hơn, rửa thế mới sạch.
    Trong miệng y ngậm con dao, nói ú ớ nghe không rõ, chân vẫn không dừng bước. Tiết Công Viễn nói:
    - Ta bảo ngươi ở đó, thì cứ ở đó.
    Y xem ra gã họ Từ có điều gì không ổn, sợ y ăn một mình, xách hai đứa nhỏ chạy mất. Từ tiểu xá nói nhỏ:
    - Chạy mau.
    Y bỏ hai đứa trẻ xuống đất, lấy dao cắt dây trói cho hai người. Trương Vô Kỵ nói:
    - Đa tạ đại ân cứu mạng.
    Nắm tay Dương Bất Hối phóng mình bỏ chạy. Giản Tiệp và Tiết Công Viễn cùng rống lên, phóng mình đuổi theo. Từ tiểu xá vung dao chặn ngang:
    - Đứng lại.
    Giản Tiệp và Tiết Công Viễn thấy y đưa dao chỉ vào ngực, đứng chắn đường uy thế lẫm liệt, không khỏi ngạc nhiên. Giản Tiệp hét lên:
    - Làm gì thế?
    Từ tiểu xá nói:
    - Bọn mình hành tẩu giang hồ mà lại hiếp đáp kẻ yếu đuối, không sợ anh hùng thiên hạ cười cho ư?
    Tiết Công Viễn giận dữ nói:
    - Đang đói bỏ mẹ, đến bố mẹ ruột tao cũng ăn nữa là.
    Y hét lên giơ tay ra hiệu cho hai tên sư đệ:
    - Đuổi theo mau, đuổi theo mau.
    Trương Vô Kỵ thấy Dương Bất Hối không chạy nhanh được, vội ôm nó lên, y vốn đã người bé chân ngắn, nay lại càng chậm hơn nữa. Giản Tiệp và Tiết Công Viễn hai người liền rút binh khí ra, giáp công gã họ Từ. Đánh một hồi, Giản Tiệp chém một đao trúng đùi Từ tiểu xá, lập tức máu tươi tung tóe. Từ tiểu xá chống trả không lại, đột nhiên vung con dao lên ném luôn vào Tiết Công Viễn. Tiết Công Viễn nghiêng người né tránh, Từ tiểu xá vội vàng bỏ chạy. Giản Tiết hai người không đuổi theo, chạy đi đuổi bắt Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Từ tiểu xá từ xa nói vọng lại:
    - Trương huynh đệ đừng sợ, ta đi gọi thêm người đến cứu ngươi.
    Giản Tiết hai người chạy lên vây, bắt trói cả Trương Vô Kỵ lẫn Dương Bất Hối lại. Giản Tiệp trừng mắt chửi:
    - Tên họ Từ phản phúc, thật chẳng ra gì, các ngươi sao lại đi chung với hắn?
    Tiết Công Viễn nói:
    - Trên đường gặp hắn đi cùng, biết đâu được tốt hay xấu. Y nói họ Từ, tên Từ Đạt chi đó. Ngươi đừng tin lời nói của hắn làm gì, trời sắp tối, đi đâu mà kiếm người tới giúp hắn được.
    Một tên đệ tử phái Hoa Sơn nói:
    - Nghe giọng hắn thì là người bản địa phủ Phượng Dương này, chắc y đi gọi mấy người nhà quê đến, bọn mình đâu có sợ.
    Giản Tiệp cười nói:
    - Người ở phủ Phượng Dương, ha ha, người nào người nấy đói nhăn răng ra. Thôi bọn mình đem nấu hai con dê này lên cho thơm, đớp một bụng cho no đã.
    Lần thứ hai bị bắt lại, Trương Vô Kỵ bị bọn chúng đánh cho mặt mũi thâm tím, quần áo rách toang, tiền bạc vật dụng trong người rơi tung tóe. Y nghĩ thầm:
    - Thì ra vị đại ca này tên là Từ Đạt, là một người bạn thật tốt, tiếc rằng mình sắp chết đến nơi, không được kết giao với anh ta.
    Y cúi đầu, thấy một cuốn sách giấy vàng lật trên mặt đất, theo gió mở ra, chính là bộ Độc Kinh từ trong thi thể Vương Nạn Cô, nên đưa mắt nhìn, thấy trong sách viết hai chữ “Nấm Độc”, bên dưới chữ nhỏ mô tả kỹ càng các loại nấm độc, mùi vị, màu sắc, độc tính, từng loại khác nhau. Y trong lòng đang hoang mang còn ghi nhớ sao được. Bỗng dưng y chợt nhìn thấy cách bốn năm thước phía bên trái, dưới một khúc gỗ mục mọc đâu chừng một chục cái nấm, màu sắc thật là rực rỡ, trong bụng nghĩ thầm: “Không biết đây là loại nấm gì, chẳng biết có độc hay không? Trong Độc Kinh có viết là nấm độc thường có màu sắc rực rỡ. Nếu những cây nấm này mà là nấm độc thì em Bất Hối có cơ sống sót”.
    Y bấy giờ không mong mình được sống, biết hàn độc trong cơ thể không dễ gì trừ được, hôm nay có thoát chết, thì bất quá cũng chỉ sống thêm vài tháng, nên trong lòng chỉ mong cứu được Dương Bất Hối. Y ngồi dưới đất, dùng chân và mông nhích dần, quay tay lại nhổ hết những cây nấm đó. Lúc đó trời cũng đã tối, cả bọn đang đói lòng, chẳng ai lưu ý đến y.
    Trương Vô Kỵ bỗng nhìn về phía Từ Đạt chạy đi, nhảy phắt lên, kêu lớn:
    - Từ đại ca, anh mang người đến đấy à. Cứu mạng, cứu mạng.
    Bọn Giản Tiệp tưởng thật, cả bốn người liền rút binh khí ra, đứng cả dậy. Trương Vô Kỵ thừa lúc bọn kia nhìn về hướng khác, lùi lại hai bước, thả mấy cây nấm vào trong chảo. Bọn Giản Tiệp không thấy ai, liền chửi:
    - Đồ chó đẻ, bộ mày điên hay sao chứ có ai đến cứu mày.
    Tiết Công Viễn nói:
    - Thôi khai đao đi, ai ra tay đây?
    Giản Tiệp nói:
    - Để ta giết con bé con, còn ngươi giết thằng nhỏ.
    Nói xong y liền xách Dương Bất Hối lên. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiết đại gia, tôi khát nước quá, ông cho tôi uống một bát nước nóng, tôi chết đi không thành quỉ quấy phá ông.
    Tiết Công Viễn cười đáp:
    - Được, uống bát nước thì có gì không được?
    Y liền múc một bát nước đưa cho y. Bát nước chưa tới miệng, Trương Vô Kỵ đã lên tiếng khen:
    - Thơm quá, thơm quá.
    Mấy cây nấm này nấu trong nước nóng, quả thực thơm phức. Tiết Công Viễn vốn đã đói meo, ngửi thấy mùi canh nấm, liền không cho Trương Vô Kỵ uống nữa, tự mình uống luôn, lè lưỡi liếm môi, nói:
    - Ngon quá là ngon.
    Lại uống thêm một bát nữa. Giản Tiệp cũng xông tới, uống một tô lớn, chưa đủ, lại làm thêm một bát nữa. Hai người đệ tử phái Hoa Sơn cũng uống mỗi người hai bát. Cả bọn đang đói, được mấy bát canh nóng vào bụng đều cảm thấy khỏe khoắn hẳn lên. Giản Tiệp còn vớt mấy tai nấm trong chảo ra, ăn nhồm nhoàm. Chẳng ai hỏi đến những cây nấm đó từ đâu mà có.
    Giản Tiệp ăn hết mấy cây nấm rồi, giơ tay vỗ bụng, cười nói:
    - - Ăn lót lòng trước, ăn thịt dê sau.
    Tay trái nắm gáy Dương Bất Hối nhắc lên, tay phải giơ dao ra. Trương Vô Kỵ thấy cả bọn uống canh nấm xong chẳng sao cả, nghĩ thầm nấm này không độc, không khỏi kêu khổ thầm. Giản Tiệp bước tới hai bước, bỗng kêu lên:
    - Ối chà.
    Thân hình giật giật mấy cái, ngã khuỵu xuống đất, vứt luôn cả dao lẫn Dương Bất Hối sang một bên. Tiết Công Viễn kinh hãi gọi:
    - Giản huynh, sao thế?
    Y chạy đến cúi xuống xem, vừa mới cong lưng thì cũng không đứng lên được, gục luôn lên trên mình Giản Tiệp. Hai gã đệ tử phái Hoa Sơn cũng bị trúng độc chết luôn.
    Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Tạ trời tạ đất.
    Lăn đến bên con dao, thò tay chộp lấy, cắt dây trói cho Dương Bất Hối. Dương Bất Hối run rẩy, cắt trúng tay Vô Kỵ hai chỗ mới đứt được sợi dây. Hai người chết đi sống lại, vui sướng không cùng, ôm chặt lấy nhau. Một lúc sau, Vô Kỵ đi lại coi bốn người bọn Giản Tiệp, thấy người nào mặt cũng đen xì, bắp thịt co quắp, nằm chết trông thật đáng sợ, nghĩ thầm: “Độc vật giết được kẻ ác, cũng cứu được người lành”. Liền đem bộ Vương Nạn Cô Độc Kinh trân trọng cất vào trong bọc, định bụng sau này sẽ từ từ nghiên cứu.
    Trương Vô Kỵ dắt tay Dương Bất Hối tìm đường ra khỏi khu rừng. Còn đang lần mò, bỗng thấy phía đông có ánh lửa chiếu sáng, có bảy tám người tay cầm binh khí, xông xông đi tới. Trương Dương hai đứa vội chui vào trong cỏ lẩn trốn. Bọn người đó đi tới gần, thấy người đi đầu chính là Từ Đạt, tay trái giơ cao bó đuốc, tay phải cầm một cây giáo dài, lớn tiếng kêu lên:
    - Bọn ác tặc thương thiên hại lý ăn thịt người kia, mau ra đây nạp mạng.
    Cả bọn chạy vào trong rừng thấy bốn người bọn Giản Tiệp nằm chết dưới đất, đều thật kinh ngạc. Từ Đạt kêu lên:
    - Trương huynh đệ, chú mày có sao không? Bọn ta đến cứu ngươi đây.
    Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Từ đại ca, tôi ở đây.
    Y từ trong bụi cỏ chui ra. Từ Đạt mừng lắm, vội bế y lên, nói:
    - Trương huynh đệ, người hiệp nghĩa như chú mày, không nói gì trẻ con, mà đến người lớn cũng ít thấy. Ta vẫn sợ chú mày đã chết về tay bọn ác tặc này rồi, may sao ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, quả thực báo ứng không sai.
    Y hỏi xem bọn Giản Tiết tại sao trúng độc, Trương Vô Kỵ liền kể chuyện bỏ nấm vào nồi nước, ai nấy đều phục y thông minh. Từ Đạt nói:
    - Những người này đều là bạn tốt của ta, bọn họ đang giết một con bò, đang nấu trong chùa Hoàng Giác, ta đến gọi liền đi ngay. Thế nhưng nếu không phải Trương huynh đệ cơ trí, bọn ta đến thì cũng đã muộn rồi.
    Sau đó đưa Trương Vô Kỵ đi giới thiệu từng người. Người mặt vuông tai lớn kia tên Thang Hòa, người anh khí phơi phới tên Đặng Dũ, người cao gầy mặt đen tên Hoa Vân, hai anh em trắng trẻo là Ngô Lương và Ngô Trinh. Sau cùng là một nhà sư, mặt mũi xấu xí, cằm đưa ra như lưỡi cày, mặt nổi từng cục đầy sẹo và nốt ruồi,, hai mắt sâu nhưng lấp lánh có thần. Từ Đạt nói:
    - Vị này là Chu đại ca, tên Nguyên Chương, hiện nay đang tu ở chùa Hoàng Giác.
    Hoa Vân cười:
    - Nhưng hòa thượng này phong lưu khoái hoạt lắm, không thích tụng kinh lễ Phật, ngày nào cũng ăn nhậu.
    Dương Bất Hối thấy tướng mạo xấu xí của Chu Nguyên Chương, sợ hãi, trốn ở sau lưng Vô Kỵ. Chu Nguyên Chương cười nói:
    - Hòa thượng này hay ăn thịt nhưng không ăn thịt người, cô em đừng sợ.
    Thang Hòa nói:
    - Nồi thịt bò bọn mình nấu chắc giờ này chín rồi đó.
    Hoa Vân nói:
    - Đi mau lên, cô em. Để ta cõng.
    Y liền cõng Dương Bất Hối hối hả rảo bước. Trương Vô Kỵ thấy những người này hào sảng nhanh nhẹn, trong lòng hết sức thích thú. Đi độ bốn năm dặm thì đến một cái miếu. Vào trong đại sảnh, đã ngửi thấy mùi thịt bò thơm phức. Ngô Lương kêu lên:
    - Chín rồi, chín rồi.
    Từ Đạt nói:
    - Trương huynh đệ, ngươi ngồi đây nghỉ, để bọn ta vào lấy thịt bò ra.
    Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối liền ngồi trên cái chiếu ngoài đại sảnh. Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ … bảy người mỗi người một tay, bưng từng bát thịt lớn ra. Hai anh em Ngô Lương, Ngô Trinh thì đi lấy một vò rượu trắng, cả bọn ngồi ngay trước tượng Bồ Tát ăn nhậu. Vô Kỵ và Bất Hối đói đã mấy ngày, lúc này có thịt bò ăn, không nói cũng biết sướng là chừng nào. Hoa Vân nói:
    - Từ đại ca, giáo qui của chúng ta cái gì cũng hay, thế nhưng mà không cho ăn thịt, xem ra có điểm không phải.
    Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ thuộc Minh giáo. Qui củ của Minh giáo chỉ ăn chay, thờ Ma vương, vậy sao họ lại ở đây ăn thịt bò”.
    Từ Đạt nói:
    - Đệ nhất yếu nghĩa của giáo qui là “hành thiện khứ ác”, ăn thịt tuy không tốt, nhưng chỉ là sau cùng. Hiện giờ đây mình không gạo không rau, không lẽ ngồi nhìn thịt bò mà chịu chết đói hay sao?
    Đặng Dũ vỗ tay reo lên:
    - Từ đại ca trước nay nói gì cũng đều đúng cả, thôi mình ăn đi, ăn đi.
    Cả bọn đang ăn, bên ngoài bỗng có tiếng chân người, tiếp theo có người gõ cửa. Thang Hòa nhỏm dậy kêu lên:
    - Bỏ cha, người nhà Trương viên ngoại tìm đến đây rồi.
    Chỉ thấy cửa miếu bị người đẩy mở toang ra, hai tên đầy tớ ưỡn ngực sừng sộ đi vào. Một tên nói:
    - Giỏi nhỉ, con bò đực của nhà viên ngoại, quả nhiên bọn bay ăn trộm về làm thịt rồi.
    Nói rồi y xông tới nắm cổ Chu Nguyên Chương. Tên kia nói:
    - Tên tặc hòa thượng này, hôm nay chứng cớ rành rành, hết chối nhé. Để ta giải ngươi lên quan phủ, đánh một trận cho chết luôn.
    Chu Nguyên Chương cười đáp:
    - Các ngươi chỉ nói láo thôi, sao dám vu cho bọn ta ăn trộm bò của nhà viên ngoại? Người xuất gia ăn chay niệm Phật, ngươi lại bảo ta ăn thịt, thật là tội lỗi.
    Gã đầy tớ chỉ thịt bò trong bát, quát lên:
    - Cái này không phải thịt bò thì là cái gì?
    Chu Nguyên Chương đưa mắt cho những người kia, cười hì hì nói:
    - Ai bảo là thịt bò?
    Hai anh em Ngô Trinh, Ngô Lương đi đến đằng sau hai tên đầy tớ, quát lên một tiếng, nắm chặt tay của hai tên này. Chu Nguyên Chương lấy trong lưng ra một con dao ngắn, cười:
    - Hai vị đại ca, quả không dám dấu., thịt bọn ta đang ăn không phải thịt bò, mà là thịt người. Hôm nay bọn ngươi thấy rồi, đành phải ăn thịt luôn cả hai để diệt khẩu, khỏi tiết lộ ra ngoài.
    Nghe xoẹt một tiếng, y đã xé rách áo của một tên gia nhân, để lộ ngực ra, dùng mũi dao rạch một đường. Tên đầy tớ kinh hãi, luôn mồm kêu:
    - Tha … tha cho tôi … Chu Nguyên Chương bốc một nắm thịt, chia ra nhét vào mồm hai tên này, quát:
    - Nuốt mau.
    Hai đứa không dám nhai, trợn trạo nuốt xuống bụng. Chu Nguyên Chương lại chạy xuống bếp, lấy thêm một nắm lông bò, nhét vào mồm chúng, quát:
    - Nuốt ngay.
    Hái đứa lại nhăn nhó nuốt cho hết. Chu Nguyên Chương cười:
    - Cho các ngươi về nói lại với viên ngoại là bọn ta ăn cắp con bò, cả bọn mổ bụng đối chất, để xem ai ăn thịt bò mà không chịu nhổ cho sạch lông.
    Y lật con dao, dùng sống dao lướt nhẹ trên bụng tên đầy tớ. Tên đó thấy con dao lạnh như băng lướt trên bụng, sợ quá kêu toáng lên.
    Hai anh em họ Ngô cười lên ha hả, giơ chân đạp vào mông hai tên đầy tớ, đá văng ra bên ngoài điện. Cả bọn yên tâm ngồi ăn tiếp, cười hai tên đầy tớ mua lấy cái khổ, bình thời hay ỷ thế Trương viên ngoại, hà hiếp dân làng, nay sợ bị mổ bụng đối chất, hẳn không dám nói lại là bọn họ ăn cắp bò.
    Trương Vô Kỵ vừa tức cười, vừa bội phục, nghĩ thầm: “Hòa thượng họ Chu này tuy diện mạo khó coi, nhưng hành sự thật là nhanh nhẹn quả quyết, chế phục người khác không sao chống trả được, thủ đoạn quả là ghê gớm”.
    Chu Nguyên Chương đã nghe Từ Đạt nói qua, Trương Vô Kỵ xả thân chịu chết để cứu Dương Bất Hối, cảm mến cái tính tình hiệp nghĩa của cậu bé, không giống như những trẻ con bình thường, nên rót rượu mời ăn, coi y chẳng khác gì một người bạn thân.
    Ăn uống đến khi say sưa, Đặng Dũ bỗng thở dài:
    - Người Hán chúng ta bị bọn rợ Hồ áp bức, trăm cay nghìn đắng, đến nay cơm không có mà ăn, cảnh này làm sao chịu cho nổi?
    Hoa Vân vỗ đùi:
    - Mắt thấy dân chúng ở phủ Phượng Dương này chết đói đến một nửa rồi, xem ra thiên hạ chỗ nào cũng thế, chẳng lẽ giương mắt chịu chết đói, thà bằng sống mái một trận với bọn Thát tử còn hơn.
    Từ Đạt lớn tiếng nói:
    - Hiện nay người giết người như giết con chó, chú em và cô bé này suýt nữa thì vào bụng người khác rồi. Trong thiên hạ biết bao nhiêu lương dân bách tính biến thành dê thành bò cho người khác ăn? Là kẻ nam tử Hán, đại trượng phu không biết cứu dân chúng ra khỏi nơi nước lửa, có sống cũng bằng thừa.
    Thang Hòa nói:
    - - Đúng thế, hôm nay bọn mình hên, ăn cắp được một con bò mà ăn, ngày mai chắc gì đã trộm được con khác? Nói đúng ra, trên đời nay chẳng mấy ai đủ ăn, chẳng lẽ anh hùng hào kiệt ai ai cũng thành trộm cướp cả hay sao?
    Cả bọn càng nói càng phẫn uất, ai cũng lớn tiếng chửi bọn Mông Cổ hại người. Chu Nguyên Chương nói:
    - Bọn mình ngồi đây chửi ngàn câu, vạn câu liệu bọn Thát tử có rụng cái lông nào không? Là Hán tử có lòng thì kéo nhau đi giết chúng mới hay.
    Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, anh em họ Ngô cả bọn đều đồng thanh kêu lên:
    - Đi, đi ngay.
    Từ Đạt nói:
    - Chu đại ca, anh làm hòa thượng xem không còn ổn nữa rồi. Đại ca tuổi lớn hơn cả, tất cả anh em nghe lệnh anh.
    Chu Nguyên Chương không từ chối, nói:
    - Từ nay trở đi anh em mình đồng sinh cộng tử, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu.
    Cả bọn đều bưng chén lên uống cạn, rút dao chém lên bàn, hào khí ngất trời.
    Dương Bất Hối thấy mọi người làm như thế không biết chuyện gì, trong lòng sợ hãi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thái sư phụ vẫn thường căn dặn đừng nên kết giao với người của Ma giáo. Thế nhưng Thường đại ca và bọn Từ đại ca này đều là người Ma giáo, so với bọn đệ tử danh môn chính phái như Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, lại tốt gấp vạn lần”. Y trước nay đối với Trương Tam Phong hết sức kính phục, thế nhưng từ khi có những kinh lịch bản thân, thấy thái sư phụ đối với người Ma giáo không khỏi thiên kiến. Tuy vậy y vẫn không dám trái lời dạy của thái sư phụ.
    Chu Nguyên Chương nói:
    - Hảo hán tử nói là làm, bây giờ mình ăn no rồi, hành sự là vừa. Nhà Trương viên ngoại hôm nay làm tiệc thết đãi bọn Thát tử, bọn mình tới đó giết sạch chúng đi.
    Hoa Vân nói:
    - Được lắm.
    Nói xong cầm đao đứng lên. Từ Đạt nói:
    - Khoan đã,.
    Y chạy xuống bếp lấy một cái giỏ, bỏ vào mười bốn, mười lăm cân thịt bò chín, đưa cho Trương Vô Kỵ:
    - Trương huynh đệ, chú em tuổi còn nhỏ, không thể theo bọn ta đi làm công việc giết quan tạo phản được. Anh em ta ai cũng nghèo rớt mồng tơi, không có tiền bạc gì, đành tặng cho chú em vài cân thịt. Nếu như anh em bọn ta không chết, sau này sẽ gặp lại nhau, mình sẽ lại cùng nhau chén một bữa thịt bò.
    Trương Vô Kỵ cầm lấy cái giỏ, nói:
    - Chỉ mong các vị kiến lập đại công, đuổi sạch bọn Thát tử, để cả thiên hạ ai cũng có cơm ăn.
    Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ cả bọn nghe thế, ai nấy vỗ tay khen ngợi, nói:
    - Trương huynh đệ, chú mày nói đúng lắm, bọn mình sẽ gặp nhau sau.
    Nói xong cả bọn xách đao cùng ra khỏi miếu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bọn họ đi giết Thát tử, nếu như mình không bận dẫn tiểu muội tử, thì cũng đi theo họ rồi. Tuy nhiên họ chỉ có bảy người, ắt sẽ vào thế ít không chống được nhiều, thể nào bọn Thát tử và tráng đinh trong nhà Trương viên ngoại cũng sẽ đuổi đến đây, mình không thể ở cái miếu này được nữa”. Nghĩ thế y bèn xách giỏ thịt cùng Dương Bất Hối ra đi.
    Trong đêm tối hai đứa trẻ đi được độ bốn năm dặm, thấy phương bắc lửa hồng rực cả một góc trời, thế thật ác liệt, biết bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt đã làm xong việc, đốt trang viện của Trương viên ngoại rồi, trong lòng rất vui vẻ. Đêm hôm đó hai anh em ngủ trong núi, đến sáng thì theo hướng tây mà đi.
    Hai đứa trẻ đi đường xa phải chịu biết bao phong sương đói rét, nói sao cho hết. Cũng may cha mẹ Dương Bất Hối đều là danh gia võ học, thể chất tiên thiên khỏe mạnh, tuy nhỏ thế mà đi đường xa cũng không bệnh tật gì, thỉnh thoảng cảm mạo sơ sài, Trương Vô Kỵ hái ít thảo dược, cho nó uống là hết ngay. Thế nhưng hai đứa vừa đi vừa nghỉ, mỗi ngày chỉ được hai ba chục dặm, mười lăm mười sáu ngày, mới đến địa phận tỉnh Hà Nam. Tỉnh Hà Nam so với An Huy cũng không khác gì bao nhiêu, chỗ nào cũng đói khổ. Trương Vô Kỵ làm một bộ cung tên, bắn chim săn thú, bữa đói bữa no, cùng Dương Bất Hối chầm chậm đi về hướng tây.
    Cũng may trên đường hai đứa không gặp quan binh Mông Cổ, cũng không gặp nhân vật giang hồ, còn như bọn vô lại gian manh tầm thường có ý muốn cướp đoạt thì đâu phải là đối thủ của Trương Vô Kỵ.
    Một hôm y gặp một ông già đứng nói chuyện chơi, nói định đi đến ngọn Tọa Vong Phong trong dãy Côn Lôn. Ông già trợn tròn mắt, kinh ngạc đến thừ người ra, nói:
    - Này chú em, núi Côn Lôn cách đây đến mười vạn tám nghìn dặm, nghe nói ngày xưa chỉ có Đường tăng đi thỉnh kinh, mới đi đến đó thôi. Hai đứa còn nhỏ, liệu có điên không? Cửa nhà các ngươi ở chỗ nào mau mau đi về.
    Trương Vô Kỵ nghe nói thế không khỏi sờn lòng, nghĩ thầm: “Núi Côn Lôn ở xa thế, làm sao mình đến đó được, đành phải đi về núi Võ Đương gặp thái sư phụ rồi hãy hay”. Thế nhưng y lại nghĩ: “Ta nhận trọng thác của người, dù đường có xa, không thể giữa đường bỏ cuộc. Thọ mệnh của ta không được bao lâu nữa, nếu trước khi chết không đưa được em Bất Hối đến nơi thì quả là không phải đối với Kỷ cô cô”. Y không nói chuyện thêm với ông già đó nữa, cầm tay Dương Bất Hối lên đường đi tiếp.
    Lại đi thêm hai mươi ngày nữa, quần áo hai đứa trẻ đã rách bươm, mặt mày tiều tụy. Cái khổ nhất của Vô Kỵ là thỉnh thoảng Dương Bất Hối lại nhớ mẹ, hỏi sao mãi mẹ nó không từ trên trời bay xuống, lại khóc một hồi lâu. Trương Vô Kỵ phải dùng đủ cách cho nó tin là cứ đi mãi về hướng tây là sẽ gặp mẹ, rồi kể chuyện cho nó nghe, nhăn mặt làm hề, con bé mới đổi khóc thành cười.
    Hôm đó khi đến Trú Mã Điếm[1], đã đến thời cuối thu đầu đông, gió bấc thổi đến, hai đứa trẻ quần áo mỏng manh, không khỏi lạnh run. Trương Vô Kỵ cởi chiếc áo ngoài rách nát ra cho Dương Bất Hối mặc thêm. Dương Bất Hối nói:
    - Vô Kỵ ca ca, anh không lạnh ư?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Anh không lạnh, nóng thì có.
    Y nhảy lên nhảy xuống mấy cái. Dương Bất Hối nói:
    - Anh tử tế với em quá. Anh cũng lạnh mà lại cởi áo cho em mặc.
    Con bé tự nhiên nói một câu như người lớn khiến Trương Vô Kỵ không khỏi ngạc nhiên. Ngay lúc đó, bỗng nghe từ triền núi phía sau truyền đến tiếng binh khí giao đấu loảng xoảng, tiếp theo là tiếng chân người, một người đàn bà lên tiếng:
    - Ác tặc, ngươi trúng phải Táng Môn Đinh có tẩm độc của ta rồi, càng chạy nhanh thì càng mau phát tác.
    Trương Vô Kỵ vội vàng kéo tay Dương Bất Hối chui vào trong đám cỏ bên đường nằm xuống, thấy một tráng hán chừng ba mươi tuổi chạy đến, đằng sau vài trượng có một người đàn bà cầm song đao đuổi theo. Người đàn ông chân hơi khập khiễng, đột nhiên quị xuống, ngã lăn ra đất. Người đàn bà đuổi tới nơi, kêu lên:
    - Cuối cùng rồi ngươi cũng chết dưới tay cô nương.
    Hán tử từ dưới đất bỗng nhảy vọt lên, chưởng phải đánh ra, nghe bịch một cái trúng ngay ngực cô gái. Cú đánh đó lực đạo cương mãnh, cô gái kia liền ngã ngửa ra, hai thanh đao trong tay văng ra xa. Người đàn ông liền rút Táng Môn Đinh cắm trên lưng mình ra, hậm hực nói:
    - Mau lấy giải dược ra.
    Người con gái cười khẩy:
    - Lần này sư phụ sai bọn ta đuổi bắt ngươi, chỉ đưa ám khí tẩm độc, không cho thuốc giải. Ta bị rơi vào tay ngươi, làm gì cũng phải chịu. Có điều ngươi không có hi vọng gì sống được đâu.
    Hán tử nọ lấy tay trái cầm đao chỉ ngay yết hầu cô gái, tay phải mò trong túi áo kiếm, quả nhiên không thấy thuốc giải. Y tức giận lắm, cầm cái Táng Môn Đinh có tẩm độc kia ném mạnh, cắm sâu vào vai cô gái, quát lên:
    - Để cho ngươi thưởng thức mùi vị của chất độc Táng Môn Đinh, phái Côn Lôn các ngươi … Câu nói chưa dứt, thuốc độc trên lưng phát tác, người nhũn ra nằm phịch xuống. Cô gái kia cố gượng đứng dậy, nhưng ọe một tiếng thổ ra một ngụm máu tươi, rồi lại ngồi bệt xuống, rút Táng Môn Đinh trên vai ra vứt xuống đất.
    Một trai một gái nằm trên bãi cỏ bên cạnh đường, hô hấp khó khăn, ho liên tiếp. Trương Vô Kỵ từ khi chữa bệnh cho Giản Tiệp, Tiết Công Viễn lại gặp ác báo đến giờ, đối với người trong võ lâm có lòng dè dặt, lúc này nằm một bên quan sát động tĩnh, không dám thò đầu ra. Một lát sau, nghe người đàn ông thở dài một tiếng, nói:
    - Tô Tập Chi này hôm nay táng mệnh ở Trú Mã Điếm, không biết có tội gì với phái Côn Lôn các ngươi, quả thật chết không nhắm mắt được. Các ngươi đuổi theo ta đến mấy ngàn dặm, không giết ta không xong, cũng vì cớ gì thế? Chiêm cô nương, cô có lòng tốt nói cho tôi nghe nào.
    Lời nói xem ra không có gì thù hằn nhau cả. Cô gái kia tên Chiêm Xuân biết sự ghê gớm của chất độc trên Táng Môn Đinh, trước mắt thấy mình với y cả hai cùng chết, bao nhiêu oán thù đều tan ra mây khói, buồn bã nói:
    - Ai bảo ngươi coi lén sư phụ ta luyện kiếm, pho Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm đó nếu không phải do đích thân lão nhân gia truyền thụ, bản môn đệ tử mà nhìn trộm cũng đã bị tội móc mắt rồi, huống chi là người ngoài.
    Tô Tập Chi “A” lên một tiếng, nói:
    - Con mẹ nó, đáng chết lắm, đáng chết lắm.
    Chiêm Xuân giận dữ nói:
    - Ngươi chết đầu nước rồi, sao còn dám chửi sư phụ ta?
    Tô Tập Chi nói:
    - Ta chửi thì đã sao? Thế không phải oan uổng ư? Ta trên đường đi qua núi Bạch Ngưu, vô ý thấy sư phụ cô luyện kiếm, lấy làm hiếu kỳ mới đứng coi một lúc. Không lẽ ta chỉ nhìn một lát mà đã học hết pho kiếm pháp ấy hay sao? Nếu tôi thực có chút tài cán, mấy đệ tử Côn Lôn làm gì được nào? Chiêm cô nương, để tôi nói cô nghe này, sư phụ cô Thiết Cầm tiên sinh bụng dạ nhỏ nhen quá, không nói chuyện tôi chưa học được một chiêu nửa thức nào trong Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm, mà dù có học được vài chiêu cũng không thể coi là tử tội được.
    Chiêm Xuân lặng yên không nói nhưng trong bụng cũng thấy sư phụ quả là chuyện bé xé ra to, chỉ mới thấy Tô Tập Chi lén coi kiếm pháp liền phái sáu đệ tử đuổi theo hàng nghìn dặm giết cho bằng được, để đến tình trạng lưỡng bại câu thương, sự đến thế này quả thật y không còn nói láo làm gì, việc y không học lén võ công có lẽ là sự thật.
    Tô Tập Chi nói tiếp:
    - Ông ta đưa cho các ngươi ám khí tẩm thuốc độc, lại không cho giải dược, trong võ lâm làm gì có qui củ đó? Con mẹ nó … Chiêm Xuân nhỏ nhẹ nói:
    - Tô đại ca, tiểu muội hại đại ca, lúc này trong bụng quả thật là hối hận, nhưng chính tiểu muội cũng chết theo, âu cũng là cái số. Chỉ khổ cho trong nhà anh, bà chị cùng các cháu, cái đó mới đáng kể.
    Tô Tập Chi thở dài:
    - Vợ tôi hai năm trước qua đời rồi, để lại hai đứa con một trai một gái, một đứa lên sáu, một đứa lên bốn, ngày mai là thành mồ côi không cha không mẹ rồi.
    Chiêm Xuân hỏi:
    - Thế trong nhà còn ai nữa không? Có ai chăm sóc cho hai đứa nhỏ không?
    Tô Tập Chi nói:
    - Hiện nay thì bà chị dâu tôi trông nom. Bà chị dâu tôi tính tình dữ tợn, điêu ngoa lắm, còn tôi thì còn e ngại vài phần. Ôi, từ nay hai đứa trẻ chắc sẽ khốn khổ lắm.
    Chiêm Xuân nói nhỏ:
    - Âu cũng tại em gây ra cái tội nghiệt này.
    Tô Tập Chi lắc đầu:
    - Cái đó cũng không trách cô được. Cô phụng nghiêm lệnh của sư môn, không thể không tuân theo, chính cô cũng chẳng có oán cừu gì với tôi cả. Đúng ra, tôi trúng ám khí tẩm độc của cô rồi, chết thì đã đành, tại sao lại còn đánh cô một chưởng, lại dùng ám khí đả thương cô? Nếu không tôi cứ tình thực nói ra, cô có lòng tốt, sẽ có cách lo liệu cho hai đứa con khốn khổ của tôi.
    Chiêm Xuân cười buồn:
    - Tôi là hung thủ làm chết anh, sao anh còn nói tôi có lòng tốt.
    Tô Tập Chi nói:
    - Tôi không trách gì cô đâu, thực đó, không trách gì đâu.
    Mới hồi nãy hai người xả thân ác đấu, bây giờ cùng sắp chết đến nơi, lưu luyến cuộc đời nên nói ra toàn điều nhân thiện. Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nghĩ thầm: “Một nam một nữ này xem chừng tâm địa không ác độc, huống chi trong nhà gã họ Tô kia còn hai đứa trẻ con”. Nghĩ đến mình và Dương Bất Hối là hai đứa trẻ mồ côi khổ sở, liền từ trong đám cỏ chui ra, nói:
    - Chiêm cô nương, trên Táng Môn Đinh của cô tẩm loại thuốc độc gì?
    Chiêm Xuân và Tô Tập Chi hai người bỗng thấy trong bụi cỏ chui ra một thiếu niên, một cô gái nhỏ, lấy làm kỳ quái, nghe Trương Vô Kỵ hỏi như thế đều kinh ngạc. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi biết chút y lý, vết thương trúng độc của hai vị, chưa hẳn không thể cứu được đâu.
    Chiêm Xuân nói:
    - Loại độc dược gì, tôi cũng không biết. Vết thương lúc này ngứa chịu không nổi. Sư phụ tôi nói rằng, trúng Táng Môn Đinh rồi, chỉ còn sống được bốn giờ thôi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Để tôi xem vết thương ra sao.
    Tô Chiêm hai người thấy y tuổi nhỏ, quần áo rách rưới, toàn thân dơ dáy, trông không khác gì một thằng ăn mày con, làm sao tin rằng y có thể trị độc. Tô Tập Chi sẵng giọng nói:
    - Hai người chúng tôi chỉ còn khoảnh khắc là chết rồi, trẻ con đừng ở đây làm phiền nhiễu, mau cút ra xa xa đi.
    Trương Vô Kỵ không thèm để ý tới y, nhặt chiếc Táng Môn Đinh ở dưới đất lên, đưa lên mũi thấy có mùi thơm nhè nhẹ như hoa lan. Trong mấy hôm nay, trên đường đi mỗi khi có thì giờ rảnh rỗi, đều ngồi đọc quyển Độc Kinh của Vương Nạn Cô để lại, nên các loại độc vật độc dược thiên kỳ bách quái trong thiên hạ đều ghi nhớ trong lòng. Thành thử khi y vừa ngửi thấy mùi hương, biết ngay trên mũi Táng Môn Đinh này có tẩm chất nước độc lấy từ hoa Thanh Đà La. Trong Độc Kinh có viết loại trấp dịch lấy từ loại hoa này vốn dĩ tanh hôi, không có độc tính, dù uống cả bát cũng không có hại, thế nhưng khi trộn với máu tươi sẽ trở thành kịch độc, mùi hôi lại biến thành mùi thơm. Y liền nói:
    - Đinh này tẩm chất độc của hoa Thanh Đà La.
    Chiêm Xuân cũng không biết trên mũi Táng Môn Đinh có tẩm loại độc dược gì, thế nhưng nàng biết trong vườn của sư phụ quả có trồng loại kỳ hoa này nên lạ lùng hỏi:
    - Ồ, sao cậu biết?
    Nên biết hoa Thanh Đà La rất là khó thấy, gốc ở Tây Vực xưa nay không hề có nơi trung thổ. Trương Vô Kỵ gật đầu, nói:
    - Tôi biết chứ.
    Y cầm tay Dương Bất Hối, nói:
    - Chúng tôi đi đây.
    Chiêm Xuân vội gọi:
    - Tiểu huynh đệ, nếu cậu biết cách chữa, xin cậu ra tay cứu hai người chúng tôi.
    Trương Vô Kỵ vốn dĩ có lòng muốn cứu, nhưng bỗng nhớ tới khuôn mặt hung ác của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn khi định ăn thịt hai đứa, không khỏi chần chừ. Tô Tập Chi nói:
    - Tiểu tướng công, tại hạ có mắt không biết cao nhân, xin đừng bắt lỗi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Được rồi, để tôi thử xem sao.
    Y lấy kim châm, châm vào huyệt Đản Trung ở trên ngực, và huyệt Khuyết Bồn ở hai bên vai của Chiêm Xuân, để chặn cơn đau chưởng thương rồi nói:
    - Hoa Thanh Đà La này gặp máu mới thành độc, vào trong bụng lại không sao. Hai vị bây giờ người nọ hút máu ở vết thương cho người kia, bao giờ trong máu không còn đóng cục nữa thì thôi.
    Tô Tập Chi và Chiêm Xuân cả hai đều thấy hơi bất tiện, nhưng lúc này tính mệnh là quan trọng, vết thương lại ở trên vai, sau lưng không thể tự mình hút lấy được đành phải thay phiên người nọ hút máu cho người kia. Trương Vô Kỵ đi tìm trong sườn núi ba loại thảo dược, nhai nhuyễn rồi đắp lên vết thương cho hai người, nói:
    - Ba vị thuốc này chỉ giúp chất độc tạm thời không xông lên chứ không có thể giải độc. Bây giờ mình đi đến thị trấn nào gần đây, tìm dược phòng, tôi sẽ kê toa để liệu độc cho hai vị.
    Vế thương của Tô Chiêm vốn dĩ cực kỳ ngứa ngáy không chịu nổi, nay đắp thuốc lên, thấy mát mẻ dễ chịu, tay chân cũng hết tê bại, nên luôn mồm cám ơn. Hai người chặt hai cành cây làm gậy chống, chầm chậm bước đi. Chiêm Xuân hỏi sư thừa lai lịch của Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ không muốn nói rõ, chỉ nói từ bé đã biết qua thuốc men.
    Đi độ hơn một tiếng đồng hồ thì đến Sa Hà Điếm, bốn người thuê phòng nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ viết một cái toa, Tô Tập Chi liền nhờ người chủ phòng đi cắt thuốc. Năm đó một dải Dự Tây không bị thiên tai, tuy người Mông Cổ có bá đạo tàn nhẫn không khác gì các nơi, nhưng dân chúng cũng còn cơm ăn, Sa Hà Điếm vì thế hàng quán vẫn mở như thường. Người chủ quán đem thuốc về, Trương Vô Kỵ liền sắc lên, cho Tô Tập Chi và Chiêm Xuân uống.
    Bốn người ở tại khách điếm ba ngày, Trương Vô Kỵ mỗi ngày lại đổi toa thuốc, trong uống ngoài thoa, đến ngày thứ tư, chất độc trong người Tô, Chiêm đã trục ra hết. Hai người hết sức cảm kích, hỏi thăm Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối đang định đi đâu. Trương Vô Kỵ liền nói địa danh Tọa Vong Phong trong dãy núi Côn Lôn.
    Chiêm Xuân nói:
    - Tô đại ca, tính mạng của hai người mình toàn do vị tiểu huynh đệ này cứu, thế nhưng năm người sư huynh vẫn đi khắp nơi tìm anh, thành thử việc này chưa xong đâu. Vậy đại ca đi theo tôi lên núi Côn Lôn một phen, anh nghĩ sao?
    Tô Tập Chi giật mình kinh hãi, nói:
    - Lên núi Côn Lôn ư?
    Chiêm Xuân nói:
    - Đúng thế. Anh đi cùng với tôi đến bái kiến gia sư, nói rõ anh chưa hề học được một chiêu nửa thức nào của Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm cả. Việc này nếu không được chính lão nhân gia tha thứ, đời anh sau này họa hoạn không biết đâu mà lường.
    Tô Tập Chi trong bụng tức giận, nói:
    - Phái Côn Lôn các ngươi thật chèn ép người quá lắm, ta chỉ mới nhìn qua một chút, vậy mà suýt nữa đến quỉ môn quan, thế mà cũng vẫn chưa xong.
    Chiêm Xuân dịu dàng nói:
    - Tô đại ca, xin anh đặt mình vào tình cảnh của tiểu muội mà tha thứ cho. Việc em về nói với sư phụ là anh thực sự chưa học được chút kiếm pháp nào thì cũng không phải là gì khó khăn, thế nhưng nếu năm vị sư huynh nếu lại ra tay đả thương anh, lòng tiểu muội làm sao chịu được.
    Hai người sống chết cùng nhau mấy hôm nay, trong lòng đã sinh tình ý, Tô Tập Chi nghe nàng nói lời chân thành ôn nhu kia, bao nhiêu bực tức trong lòng tiêu tán hết, nghĩ thầm: “Phái Côn Lôn người nhiều thế mạnh, nếu họ cứ như bóng ma không tan theo đuổi mình hoài, phải có ngày chết dưới tay họ mới thôi”. Chiêm Xuân thấy y trầm ngâm, lại nói:
    - Anh chịu khó đi theo em một chuyến. Nếu anh có chuyện gì gấp gáp, sau khi mình về núi Côn Lôn rồi, tiểu muội sẽ đi cùng với đại ca lo liệu cho.
    Tô Tập Chi mừng nói:
    - Được rồi, cứ như thế vậy. Nhưng không biết tôn sư có chịu tin không?
    Chiêm Xuân nói:
    - Trước nay sư phụ vẫn yêu thương em, em năn nỉ một hồi, thể nào cũng không làm khó gì anh đâu. Việc này xong rồi, tiểu muội sẽ đi thăm con trai, con gái anh để cho chúng nó khỏi bị bà chị dâu hành hạ.
    Tô Tập Chi thấy nàng nói như thế, rõ ràng có ý hứa hẹn, trong lòng mừng lắm, nói với Trương Vô Kỵ:
    - Tiểu huynh đệ, tất cả bọn mình lên núi Côn Lôn, cùng đi với nhau cho có bạn đồng hành.
    Chiêm Xuân nói:
    - Sơn mạch núi Côn Lôn dài hàng nghìn dặm, biết bao nhiêu ngọn, Tọa Vong Phong không biết ở chỗ nào. Thế nhưng phái Côn Lôn nếu muốn tìm ngọn núi Tọa Vong ắt sẽ kiếm ra.
    Hôm sau Tô Tập Chi đi mướn một cỗ xe lớn, để cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối ngồi, còn mình và Chiêm Xuân cưỡi ngựa theo sau. Đi đến thị trấn lớn ở đằng trước, Chiêm Xuân lại đi mua cho Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối mấy bộ quần áo, thay đổi cho hai đứa. Tô Chiêm hai người thấy hai đứa trẻ tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới rồi, con trai tuấn nhã, con gái mỹ miều, đều lớn tiếng khen ngợi.
    Hai đứa cho tới bây giờ mới khỏi cái cảnh khổ sở đường xa, ăn uống cũng khá, thân thể từ từ mập mạp lên. Càng đi về hướng tây, thời tiết mỗi ngày một lạnh, nhưng đường đi có Tô Tập Chi và Chiêm Xuân lo liệu nên mọi sự bình an. Đến Tây Vực rồi, phái Côn Lôn thế lực hùng mạnh, nên không có gì trở ngại, có điều cát vàng thổi vù vù vào mặt, gió lạnh thấu xương thực là khó chịu.
    Cuối cùng rồi cũng đến Tam Thánh Ao[2] trong dãy Côn Lôn, khắp nơi cỏ xanh tươi tốt, hoa thơm cây trái. Tô Tập Chi và Trương Vô Kỵ không ngờ giữa nơi hoang sơn lạnh lẽo lại có một nơi đẹp đẽ đến thế nên thực hoan hỉ bội phần. Thì ra Tam Thánh Ao này bốn bề núi non cao vút tới tận mây xanh, chắn gió lạnh. Phái Côn Lôn trong bảy tám chục năm từ khi Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo sáng lập đến nay, các đời chưởng môn hao phí không biết bao nhiêu công sức chỉnh đốn sơn ao này, sai các đệ tử tới tận Giang Nam ở phía đông, Thiên Trúc ở phía tây đem các loại kỳ hoa dị chủng đem về trồng.
    Chiêm Xuân dẫn ba người đến Thiết Cầm Cư, nơi ở của Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung. Vừa mới bước vào, thấy sư huynh đệ tỉ muội ai ai cũng có vẻ buồn lo, gặp nàng chỉ nhẹ gật đầu, không nói năng gì cả. Chiêm Xuân trong lòng áy náy, không hiểu chuyện gì xảy ra, cầm tay một sư muội ra hỏi:
    - Sư phụ có nhà không?
    Người sư muội đó chưa kịp trả lời đã nghe tiếng quát tháo, mắng chửi của Hà Thái Xung từ hậu đường vọng ra:
    - Rặt một phường giá áo túi cơm. Bao nhiêu chuyện bảo làm, không một chuyện nào làm xong cả. Có một bọn đệ tử ăn hại như chúng bay để làm gì?
    Tiếp theo là một tiếng vỗ bàn vang dội. Chiêm Xuân nói nhỏ với Tô Tập Chi:
    - Sư phụ đang bực mình, mình đừng vào gặp vội, ngày mai hãy tính.
    Hà Thái Xung đột nhiên gọi:
    - Có phải Xuân nhi đó không? Sao thập thà thập thò gì ngoài đó? Thủ cấp của Tô tiểu tặc có chưa?
    Chiêm Xuân mặt liền biến sắc, vội đi vào nội sảnh, quì xuống khấu đầu, thưa:
    - Đệ tử bái kiến sư phụ.
    Hà Thái Xung nói:
    - Việc ta sai ngươi đi làm đến đâu rồi? Tên tiểu tặc họ Tô ra sao?
    Chiêm Xuân đáp:
    - Tên họ Tô hiện đang ở bên ngoài, đến để khấu đầu tạ tội với sư phụ. Y nói y không biết qui củ, quả thực đã sơ sót xem sư phụ thi diễn kiếm pháp, nhưng kiếm pháp bản phái tinh vi áo diệu nên y xem rồi, chỉ biết đây là một loại kiếm thuật thiên hạ vô song, thế nhưng hay ở chỗ nào, chỉ biết là hay nhưng lại không lãnh hội được.
    Nàng theo học sư phụ đã lâu, biết ông ta rất tự phụ về võ công, nên nói Tô Tập Chi cực lực ca ngợi võ công bản môn, sư phụ thể nào cũng cao hứng mà tha tội cho anh chàng ta.
    Nếu phải lúc bình thời, cái câu khen nịnh ấy thể nào Hà Thái Xung cũng khoái chí lắm, nhưng hôm nay trong lòng ông ta đang bực bội, chỉ hừ một tiếng, nói:
    - Việc này ngươi làm khá lắm. Đem giam tên họ Tô tại thạch thất phía sau núi, ta sẽ phát lạc sau.
    Chiêm Xuân thấy sư phụ đang giận, không dám mở miệng cầu xin, liền nói:
    - Vâng.
    Lại hỏi tiếp:
    - Các sư mẫu đều khỏe? Để con ra sau khấu đầu.
    Hà Thái Xung có cả thảy năm người thê lẫn thiếp, sủng ái nhất là tiểu thiếp thứ năm. Chiêm Xuân muốn xin sư phụ tha cho Tô Tập Chi nên định nói với bà ngũ sư mẫu này xin hộ. Hà Thái Xung trên mặt lộ vẻ buồn rầu, thở dài một tiếng nói:
    - Ngươi xuống thăm cô năm cũng phải, cô ấy bệnh nặng lắm, ngươi may về kịp gặp được một lần.
    Chiêm Xuân giật mình kinh hãi nói:
    - Cô năm không khỏe ư? Không hiểu bệnh gì thế?
    Hà Thái Xung thở dài:
    - Biết được bệnh gì thì đã hay. Đã gọi đến bảy tám thầy thuốc có tiếng đến xem, vậy mà đến bệnh gì cũng không nói được, toàn thân sưng vù, một người như hoa tựa ngọc, vậy mà phù lên … ôi, không muốn nói nữa … Nói đến đây y liên tiếp lắc đầu, nói thêm:
    - Thu bao nhiêu là đồ đệ, không đứa nào làm được việc gì. Bảo chúng nó đi đến núi Trường Bạch kiếm thiên niên lão sơn nhân sâm đã hai tháng rồi, chưa đứa nào về, bảo chúng nó đi kiếm tuyết liên, thủ ô để cứu mạng, cũng chỉ về tay không.
    Chiêm Xuân nghĩ thầm: “Từ đây đến núi Trường Bạch đường xa vạn dặm, đâu phải đến là về ngay. Đến được Trường Bạch Sơn, chắc gì đã kiếm được nhân sâm nghìn năm. Còn như tuyết liên, thủ ô các loại thuốc trân quí có thể khởi tử hoàn sinh, kiếm cả đời chưa chắc đã thấy, trong một lúc làm sao kiếm cho ra?” Nàng biết sư phụ cưng cô tiểu thiếp này chẳng khác gì tính mệnh mình, nay cô ta bệnh nặng không trị được nên giận cá chém thớt, đổ tội lên đầu người khác.
    Hà Thái Xung lại nói:
    - Ta đã dùng nội lực thử kinh mạch cô ta, không thấy điểm nào khác lạ. Hừ hừ, cô năm mà không sống được ta sẽ giết sạch bọn lang băm trong thiên hạ.
    Chiêm Xuân nói:
    - Để đệ tử xuống thăm.
    Hà Thái Xung nói:
    - Được, để ta đưa ngươi đi.
    Hai thầy trò cùng xuống phòng ngủ của cô năm. Chiêm Xuân vừa bước vào đã ngửi thấy toàn là mùi thuốc, vén màn lên, chỉ thấy mặt cô ta sưng phù lên như Trư Bát Giới, hai mắt híp sâu vào trong thịt, không mở ra nổi, hơi thở gấp gáp, như đang kéo bễ. Ngũ cô vốn dĩ là một mỹ nhân, nếu không Hà Thái Xung đâu có mê say đến thế, lúc này bệnh hoạn, biến thành xấu xí, Chiêm Xuân trông thấy không khỏi sờn lòng. Hà Thái Xung nói:
    - Gọi bọn lang băm ra đây xem nào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:50:05 | Chỉ xem của tác giả
Bà vú phục thị trong phòng vội vàng vâng dạ, đi ra. Một lúc sau, nghe thấy tiếng xích kêu loảng xoảng, đi vào bảy ông thầy lang. Bảy người chân đều bị xích dính liền với nhau, hình dung tiều tụy, thần sắc buồn khổ. Những người đó đều là thầy thuốc có tiếng ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Cam Túc, bị Hà Thái Xung cho đệ tử đến nửa mời nửa bắt đem về đây. Thế nhưng bảy người danh y định bệnh mỗi người một khác, người thì bảo là phù thủng, người thì bảo là trúng tà, cho toa cắt thuốc rồi, uống không hiệu nghiệm, thân thể cô năm mỗi ngày một sưng thêm. Hà Thái Xung nổi giận, đem bảy vị danh y xiềng lại, nói là nếu cô năm trị không hết, bảy tên lang băm – danh y nay biến thành lang băm – sẽ bị chôn sống theo.
    Bảy người thầy lang trổ hết tài nghệ bình sinh, nhưng bệnh cô năm ngày càng sưng, ai cũng lo tính mệnh mình sẽ chẳng còn, mỗi lần hội chẩn, đều lớn tiếng cãi cọ liên miên, người này chê bai sáu người còn lại, nói cô năm sở dĩ nặng thêm, toàn là do bọn kia làm hại, còn mình vô can. Lần này bảy người tiến vào, chẩn mạch xong, ba điều bốn chuyện, lại bắt đầu tranh chấp. Hà Thái Xung lo quá hóa giận, lớn tiếng mắng chửi mới át được tiếng bọn danh y biến thành lang băm kia.
    Chiêm Xuân bỗng chợt nghĩ ra, nói:
    - Sư phụ, con có đem từ Hà Nam về một thầy lang, tuổi tác tuy còn nhỏ, bản lãnh so với mấy người này còn cao hơn.
    Hà Thái Xung mừng quá, kêu lên:
    - Sao con không nói sớm, mời vào mau, mời mau.
    Mỗi vị danh y khi mới đến, y đều đối đãi cực kỳ cung kính, thế nhưng khi từ “danh y” biết thành “dung y” rồi, y sẽ không còn nể nang gì nữa. Chiêm Xuân quay lại đại sảnh, dẫn Trương Vô Kỵ vào. Trương Vô Kỵ vừa gặp Hà Thái Xung, nhận ngay ra y có mặt trong đám người năm xưa lên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình, lòng không khỏi căm hận. Thế nhưng Trương Vô Kỵ xa cách đã bốn năm năm, mặt mày thân thể biến đổi rất nhiều, Hà Thái Xung không sao nhận ra được, thấy chỉ là một thiếu niên mười bốn, mười lăm, gặp mình lại không khấu đầu hành lễ, chỉ khinh khỉnh nhìn, thần sắc hết sức lạnh nhạt, nên cũng không thèm lý đến, quay sang hỏi Chiêm Xuân:
    - Con bảo thầy thuốc nào đâu?
    Chiêm Xuân đáp:
    - Chính là chú em này đây. Y đạo của y thật là tinh thâm, xem ra còn giỏi hơn nhiều danh y khác.
    Hà Thái Xung đời nào chịu tin, nói:
    - Vô lý, vô lý.
    Chiêm Xuân đáp:
    - Đệ tử trúng phải độc chất của hoa Thanh Đà La, chính nhờ chú ta trị khỏi đó.
    Hà Thái Xung kinh ngạc, nghĩ thầm: “Nếu không có giải dược của môn phái mình, trúng phải chất độc của hoa Thanh Đà La đều chắc chắn chết, tiểu tử này có thể trị được, chắc là tà môn”. Y nhìn Trương Vô Kỵ đánh giá một hồi, hỏi:
    - Này cậu, cậu biết chữa bệnh thật à?
    Trương Vô Kỵ nghĩ tới tình cảnh chết thảm của cha mẹ mình, trong bụng đối với Hà Thái Xung hết sức căm thù, nhưng bản tính y trời sinh không hay nhớ oán cũ, nếu không đã chẳng chữa cho bọn Giản Tiệp, cũng chẳng liệu độc cho Chiêm Xuân của phái Côn Lôn, nghe Hà Thái Xung hỏi sõng như thế, tuy bụng không thích, nhưng cũng gật đầu.
    Y vừa tiến vào phòng đã ngửi thấy một mùi rất cổ quái, qua một lúc sau, lại thấy mùi hương đó lúc đậm lúc nhạt rất đặc biệt, liền đến trước giường cô năm quan sát mặt cô ta một hồi, bắt mạch hai tay, đột nhiên lấy ra một mũi kim châm, chích ngay vào khuôn mặt sưng như trái dưa hấu của cô năm. Hà Thái Xung kinh hãi, quát lên:
    - Ngươi làm gì thế?
    Định giơ tay nắm Trương Vô Kỵ, nhưng y đã rút kim ra, trên mặt cô năm không thấy có huyết dịch hay nước chảy. Năm ngón tay Hà Thái Xung còn cách lưng Trương Vô Kỵ chừng nửa thước vội ngừng lại, thấy y cầm kim lên mũi ngửi, rồi gật gật đầu. Hà Thái Xung trong bụng thấy có chút hi vọng, hỏi:
    - Tiểu … tiểu huynh đệ, bệnh này liệu có chữa được không?
    Với tư cách tôn sư một môn phái như ông ta, mà gọi Trương Vô Kỵ một câu “tiểu huynh đệ” phải nói là khách sáo lắm rồi.
    Trương Vô Kỵ không trả lời, cúi xuống gầm giường cô năm quan sát một hồi, lại mở cửa sổ xem xét vườn hoa ngoài song cửa, đột nhiên nhảy ra, đi xem các cây hoa. Hà Thái Xung sủng ái cô năm, ngoài vườn chỗ cô nằm trồng toàn các loại kỳ hoa dị thảo, lúc này thấy Trương Vô Kỵ hành động quái lạ, trong bụng nóng như lửa đốt, chỉ mong lập tức ra toa cắt thuốc, trị lành quái bệnh cho cô năm, y lại ra vườn ngắm hoa vui thú, làm sao không khỏi nổi giận. Thế nhưng đang lúc thúc thủ vô sách có được chút hi vọng, nên y đành cố nén nộ khí, nhưng mặt cũng tím ngắt, hơi thở hổn hển.
    Chỉ thấy Trương Vô Kỵ xem hoa một hồi, gật gật đầu như đã hiểu, quay trở lại phòng nói:
    - Bệnh có thể trị được nhưng tôi không muốn chữa. Chiêm cô nương, tôi đi đây.
    Chiêm Xuân nói:
    - Trương huynh đệ, nếu cậu chữa được bệnh cho cô năm, cả phái Côn Lôn trên dưới ai ai cũng đều cảm tạ đại đức của cậu, vậy xin cậu ra tay trị giùm cho.
    Trương Vô Kỵ chỉ Hà Thái Xung nói:
    - Trong những người bức tử cha mẹ tôi, có cả Thiết Cầm tiên sinh, đời nào tôi lại cứu thân nhân của ông ấy?
    Hà Thái Xung kinh hoảng, hỏi lại:
    - Tiểu huynh đệ, cậu họ gì? Lệnh tôn lệnh đường là ai?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Tôi họ Trương, tiên phụ là đệ tử thứ năm của phái Võ Đương.
    Hà Thái Xung giật mình: “Thì ra y là con trai của Trương Thúy Sơn. Phái Võ Đương quả thực ghê gớm, y gia học uyên nguyên ắt hẳn có tài”. Lập tức đổi mặt buồn rầu thở dài, nói:
    - Trương huynh đệ, lệnh tôn khi còn tại thế, tại hạ cùng ông ta giao tình rất thân, khi ông ấy tự vẫn chết đi, tôi đau lòng biết mấy … Y vì muốn cứu người ái thiếp, nên phải thuận miệng đặt điều ra. Chiêm Xuân cũng vội nói đốc vào cho sư phụ:
    - Lệnh tôn lệnh đường chết rồi, gia sư than khóc một hồi, thường nói cùng các đệ tử chúng tôi là lệnh tôn là người gia sư thân thiết nhất. Trương huynh đệ, sao cậu không nói sớm? Nếu biết cậu là lệnh lang của Trương ngũ hiệp, tôi đã kính trọng cậu gấp mấy lần rồi.
    Trương Vô Kỵ bán tín bán nghi, nhưng y bình sinh không hay ghi nhớ chuyện hận thù, liền nói:
    - Vị phu nhân này không bị bệnh gì quái lạ cả, trúng phải nọc độc của Kim Ngân huyết xà đó thôi.
    Hà Thái Xung và Chiêm Xuân cùng kêu lên:
    - Kim Ngân huyết xà?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đúng thế, loại độc xà này tôi cũng chưa thấy bao giờ. Thế nhưng phu nhân mặt mày sưng phù, kim châm đâm vào có mùi đàn hương. Hà tiên sinh, xin ông nhìn chân phu nhân xem, trên mười đầu ngón chân thể nào cũng có vết răng nho nhỏ.
    Hà Thái Xung vội vàng giở chăn đắp trên người cô năm, chăm chú quan sát mười đầu ngón chân, quả nhiên mỗi ngón chân đều có vài vết răng đen tím, nhưng nhỏ như hạt gạo, nếu không cố ý tìm kiếm, không thể nào thấy được.
    Hà Thái Xung vừa thấy xong, lòng tin tưởng vào Trương Vô Kỵ tăng lên gấp mười, nói:
    - Đúng quá, đúng quá, đầu ngón chân nào cũng có vết răng, tiểu huynh đệ cao minh thực. Tiểu huynh đệ nếu biết nguồn gốc căn bệnh, ắt biết cách chữa. Tiện thiếp khỏi rồi, thể nào tôi cũng tạ ơn thật hậu.
    Y quay đầu lại mắng bảy ông thầy lang:
    - Thế mà bảo phong hàn trúng tà, toàn là nói láo nói lếu. Trên đầu ngón chân cô ấy có vết răng, sao bảy tên bị thịt ăn hại không đứa nào trông thấy?
    Tuy y mắng chửi nhưng trong giọng đầy những vui mừng hớn hở. Trương Vô Kỵ nói:
    - Bệnh của phu nhân vốn thật đặc biệt, bọn họ không định được căn nguyên, cũng không có gì đáng trách, vậy xin thả cho họ về đi.
    Hà Thái Xung cười đáp:
    - Đúng lắm, đúng lắm. Đã có đại giá quang lâm của tiểu huynh đệ, để bọn lang băm này ở đây thêm chỉ tổ bực mình. Xuân nhi, cho mỗi người một trăm lượng bạc, bảo họ tự tìm đường về nhà.
    Bảy ông thầy lang thật là chết đi sống lại, ai nấy đều mừng rỡ hết sức, vội vã ra ngay, sợ Trương Vô Kỵ chữa không xong, Hà Thái Xung lại đem tên “lang băm con” này xích luôn chung cho cả tám tên lang băm lớn bé tuẫn táng theo ái thiếp của y. Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin gọi đầy tớ khiêng giường của phu nhân ra, dưới gầm giường có cái lỗ nhỏ, chính là hang của Kim Ngân huyết xà.
    Hà Thái Xung không đợi đầy tớ ra tay, tay phải nắm ngay chân giường, kéo luôn cả người lẫn giường ra, quả nhiên dưới đất có một cái lỗ, vừa mừng vừa tức, kêu lên:
    - Mau đem lưu hoàng đốt lửa vào đây, xông cho con rắn độc chạy ra, chặt nó thành nghìn vạn mảnh.
    Trương Vô Kỵ vội xua tay:
    - Không được đâu, không được đâu. Chất độc mà phu nhân trúng phải, toàn do hai con rắn độc này chữa cả. Nếu giết chúng đi, bệnh của phu nhân trị không được nữa đâu.
    Hà Thái Xung nói:
    - Thì ra là thế. Trung gian nguyên ủy thế nào, xin được thỉnh giáo.
    Hai chữ “thỉnh giáo”, từ khi nghiệp sư chết đi đến giờ, hôm nay lần đầu tự miệng y nói ra. Trương Vô Kỵ chỉ bồn hoa trước cửa sổ nói:
    - Hà tiên sinh, bệnh tình của tôn phu nhân đều do tám cây lan Linh Chi trong vườn hoa kia mà ra.
    Hà Thái Xung nói:
    - Cây đó gọi là lan Linh Chi ư? Ta không biết tên gọi là gì, một vị bằng hữu biết ta thích hoa cỏ, đem từ Tây Vực về tám bồn hoa lan cho ta. Hoa này khi nở có mùi đàn hương, sắc hoa lại thật là kiều diễm, không ngờ trồng lại sinh họa.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cứ theo sách viết, loại lan Linh Chi này củ tròn như trái cầu màu đỏ như lửa, trong củ đó có chất cực độc. Mình ra đào thử xem có đúng thế không.
    Lúc đó các đệ tử đều nghe tin có một thầy lang trẻ đến chữa quái bệnh cho ngũ sư mẫu, nam đệ tử không tiện vào phòng, nhưng sáu nữ đệ tử trong đó có cả Chiêm Xuân đang đứng gần bên, nghe Trương Vô Kỵ nói như thế, liền có hai người đi lấy mai ra đào một cây lan Linh Chi lên. Quả nhiên dưới đất có một cái củ tròn đỏ như lửa, hai cô đệ tử nghe nói củ này có chất kịch độc, không dám dùng tay cầm.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin các vị đào cả tám cái củ lên, cho vào bồn sành, bỏ thêm tám cái trứng gà, một bát máu gà, giã cho nhuyễn thành hồ. Khi làm việc nhớ cẩn thận, đừng để dính vào da thịt.
    Chiêm Xuân vâng lời, chính mình cùng hai người sư muội làm đúng như lời dặn. Trương Vô Kỵ lại bảo lấy hai ống tre dài chừng một thước, một cái que tre, để sẵn một bên.
    Chẳng mấy chốc những củ Linh Chi Lan đã quết thành hồ, Trương Vô Kỵ lấy hồ đó đổ xuống đất thành một cái vòng tròn, nhưng để khuyết một khoảng chừng hai tấc, nói:
    - Nếu quí vị thấy có sự gì kỳ lạ, xin đừng lên tiếng, để độc xà khỏi kinh hoảng, chạy mất tăm mất tích. Các vị đi lấy cam thảo và bông gòn nhét vào mũi.
    Mọi người đều làm y như thế. Trương Vô Kỵ cũng bịt chặt mũi lại, sau đó lấy lửa đốt lá lan Linh Chi ngay trước hang rắn. Chưa đến thời gian uống xong một tuần trà, đã thấy trong động chui ra một con rắn nhỏ, thân mình đỏ như máu, trên đầu có một cái mào màu vàng. Con rắn từ từ chui ra, thì ra nó có bốn chân, dài chừng tám tấc. Trong động lại chui ra một con rắn nữa, thân hình ngắn hơn, hình dáng tương tự, nhưng cái mào trên đầu màu bạc.
    Bọn Hà Thái Xung thấy hai con quái xà đều nín thở không dám lên tiếng. Loại độc xà dị tướng này dĩ nhiên có chất độc nhưng ai nấy võ công cao cường, không sợ, thế nhưng nếu làm nó sợ chạy mất, e rằng quái bệnh của phu nhân không thể chữa khỏi.
    Lại thấy hai con rắn thè lưỡi ra, liếm lẫn nhau xem chừng thân mật lắm. Chúng lại cọ vào nhau rồi từ từ đi vào trong vòng hồ làm bằng lan Linh Chi. Trương Vô Kỵ vội vàng lấy một ống tre chặn ngay chỗ khuyết của vòng, cầm cái gậy lên gạt nhè nhẹ vào đuôi con ngân quan huyết xà một cái. Con rắn đó nhanh như chớp, mọi người chỉ thấy một ánh sáng bạc lóe lên, đã chui ngay vào trong ống tre.
    Con kim quan huyết xà cũng muốn vào theo, nhưng ống tre rất nhỏ chỉ đủ chỗ cho một con, con rắn mào vàng không sao vào được, chỉ có nước kêu ù ù. Trương Vô Kỵ lại lấy ống tre kia rồi dùng que gạt cho kim quan huyết xà chui vào nốt. Y vội vàng lấy nắp gỗ đóng chặt hai con rắn lại.
    Từ khi con kim quan huyết xà từ trong hang chui ra, mọi người ai nấy hồi hộp, lo lắng, đến khi Vô Kỵ đóng nắp ống tre lại rồi, mọi người mới cùng thở phào một tiếng. Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin đem vài thùng nước nóng, rửa sạch sàn nhà đừng để lưu lại độc tính của Linh Chi Lan.
    Sáu cô đệ tử liền xuống nhà bếp đun nước, chẳng bao lâu đã rửa sạch không còn tơ tóc gì. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho đóng kín cửa sổ, lại bảo đem hùng hoàng, minh phàn,[3] đại hoàng, cam thảo … các loại dược vật, giã nhỏ thành bột, trộn với vôi sống, đổ vào trong ống tre có con ngân quan huyết xà, con rắn lập tức kêu lên ù ù. Con kim quan huyết xà bên chiếc ống kia lập tức kêu lên đáp ứng. Trương Vô Kỵ mở nắp con kim xà, con rắn liền từ trong ống vọt ra, chạy quanh chiếc ống có con ngân xà vài vòng, có vẻ cấp bách, đột nhiên nhảy vọt lên giường, chui vào trong chiếc mền của cô năm.
    Hà Thái Xung kinh hoảng, “A” lên một tiếng. Trương Vô Kỵ xua xua tay, nhẹ nhàng mở chiếc chăn lên, thấy con kim quan huyết xà đang cắn chặt ngón chân giữa bàn chân bên trái của cô năm. Trương Vô Kỵ lộ vẻ vui mừng, hạ giọng nói nhỏ:
    - Phu nhân trúng phải chất độc của kim ngân huyết xà, nay lại chính đôi rắn này hút ra khỏi thân thể.
    Độ tàn nửa nén hương, con rắn thân thể phình to gấp mấy lần, cái mào trên đầu sáng lấp lánh. Trương Vô Kỵ mở nắp ống đựng con ngân xà ra, con kim xà lập tức từ trên giường nhảy xuống, chạy đến chiếc ống, miệng nhả độc huyết mớm cho con ngân xà. Trương Vô Kỵ nói:
    - Tốt lắm, mỗi ngày cứ hút độc như thế này hai lần, để tôi biên một cái toa bớt sưng, bổ hư, chỉ trong vòng mười ngày là có thể khỏi hẳn.
    Hà Thái Xung mừng lắm, mời Trương Vô Kỵ vào trong thư phòng, hỏi:
    - Tiểu huynh đệ kỹ thuật thần kỳ, vụ này do duyên cớ gì, xin được thỉnh giáo.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - - Cứ theo sách viết, đôi kim quan, ngân quan huyết xà này, trong các độc chất của thiên hạ đứng hàng thứ bốn mươi bảy, không phải là loại độc vật ghê gớm lắm đâu. Thế nhưng có một đặc điểm, tính thích ăn những loại có chất độc chẳng hạn như tì sương, hạc đính hồng, khổng tước đảm, trẩm tửu[4] … đều rất ưa. Trong bồn hoa ngoài cửa sổ của phu nhân có trồng Linh Chi Lan là loại cây có chất độc rất ghê gớm nên đã dẫn dụ kim ngân huyết xà đến.
    Hà Thái Xung gật đầu nói:
    - Thì ra là thế.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kim ngân huyết xà bao giờ cũng có một con trống một con mái sống chung với nhau, mới rồi tôi dùng hùng hoàng các loại dược vật để hun con ngân quan thư xà, kim quan hùng xà vì muốn cứu bạn nó, nên chạy tới cắn ngón chân phu nhân hút máu độc ra nuôi con mái. Kế đây tôi sẽ dùng thuốc để trị con hùng xà, con thư xà ắt cũng hút máu độc nuôi con trống, cứ đổi qua đổi lại, dần dần sẽ hút hết máu độc trong người phu nhân ra.
    Nói đến đây, y chợt nghĩ ra một việc: "Thế nhưng đôi huyết xà này thoạt đầu tại sao lại đến cắn ngón chân của phu nhân, bên trong ắt có điều gì khác lạ. "Y chưa nghĩ ra được tại sao nên không nói ra.
    Hôm đó Hà Thái Xung mở tiệc tại hậu đường, khoản đãi Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối. Trương Vô Kỵ nghĩ Dương Bất Hối là con tư sinh của Kỷ Hiểu Phù, nói ra e sẽ tổn thương thanh danh của phái Nga Mi nên khi Hà Thái Xung hỏi đến lai lịch, chỉ nói mơ hồ đôi câu không rõ ràng. Qua vài ngày, mặt cô năm giảm sưng, tinh thần khôi phục, đã bắt đầu ăn uống lại. Trương Vô Kỵ liền ngỏ lời cáo từ, Hà Thái Xung nhất định nài nỉ ở lại, chỉ sợ bệnh của ái thiếp tái phát. Đến hơn mười ngày, bệnh phù của cô năm hoàn toàn khỏi hẳn.
    Cô năm sửa soạn một bữa tiệc thật linh đình để đích thân cảm ơn Trương Vô Kỵ, lại mời Chiêm Xuân ngồi bồi tiếp. Cô ta tuy dung mạo còn tiều tụy, nhưng nét đẹp vẫn như xưa, Hà Thái Xung thập phần hoan hỉ.
    Chiêm Xuân nhân lúc sư phụ cao hứng, xin ông ta thu Tô Tập Chi làm môn đệ. Hà Thái Xung ha hả cười:
    - Xuân nhi, cái kế Phủ Để Trừu Tân[5] quả thực hay lắm, ta thu tên tiểu tử họ Tô đó làm học trò, mai mốt sẽ truyền cho nó Côn Lôn Lưỡng Nghi Kiếm, thành ra trước đây có nhìn lén một lần cũng chẳng hề chi.
    Chiêm Xuân cười:
    - Sư phụ, nếu như không vì gã họ Tô nhìn trộm lão nhân gia sử kiếm, đệ tử đâu có phải đi bắt y, thì làm sao gặp được Trương thế huynh. Cố nhiên sư phụ và ngũ cô hồng phúc tề thiên thì đã đành, lại thêm Trương thế huynh y đạo cao minh, nhưng tên họ Tô nói cho cùng cũng có một tí công lao nho nhỏ.
    Cô năm nói với Hà Thái Xung:
    - Ông thu bao nhiêu là đệ tử, thế nhưng lúc gặp chuyện nào có đứa nào giúp được gì, chỉ có mình Chiêm cô nương lập được đại công. Chiêm cô nương đã nhắm gã tiểu tử đó, ắt hẳn phải là người khá, ông thu thêm một đệ tử nữa, sau này lại là người đắc lực nhất không chừng.
    Người ái thiếp này nói gì Hà Thái Xung cũng nghe nên liền nói:
    - Được rồi, thu y cũng được có sao, nhưng có một điều kiện.
    Cô năm hỏi:
    - Cái gì thế?
    Hà Thái Xung nghiêm nét mặt:
    - Y gia nhập môn hạ của ta rồi, phải chú tâm học nghệ, không được si tâm vọng tưởng Xuân nhi, định lấy nó làm vợ, cái đó ta nhất định không bằng lòng.
    Chiêm Xuân mặt mày đỏ ửng, thẹn thùng cúi đầu xuống. Cô năm cười khúc khích, nói:
    - Ối chào, ông làm sư phụ thì chính mình phải làm gương, chính mình năm thê bảy thiếp, lại cấm học trò lấy nhau là sao?
    Hà Thái Xung vốn chỉ định nói đùa Chiêm Xuân, nghe thế bèn cười ha hả, nói:
    - Uống rượu đi nào, uống nào.
    Một con a hoàn bưng khay, trên khay để một vò rượu, đi đến bên mâm tiệc, rót rượu cho từng người. Rượu này đặc sệt như keo, màu sắc vàng ửng, thơm ngon nức mũi. Hà Thái Xung nói:
    - Trương huynh đệ, đây là danh sản của bản sơn, làm bằng hổ phách mật lê trên đỉnh núi, gọi là Hổ Phách Mật Lê Tửu, bên ngoài không có được, mình nên uống thêm với nhau ít chén.
    Y trong bụng nghĩ thầm: “Làm thế nào để lừa được nó nói ra chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn nhỉ? Việc này phải từ từ tính kế, nhất định không thể gấp gáp được”. Trương Vô Kỵ vốn không biết uống rượu, nhưng thấy mùi loại rượu Hổ Phách Mật Lê Tửu này xông lên ngào ngạt, nên cũng đưa chén ra, đang toan đưa lên môi, đột nhiên hai con kim ngân huyết xà trong bọc cùng kêu lên u u. Trương Vô Kỵ chợt động tâm, kêu lên:
    - Rượu này không uống được.
    Mọi người ngạc nhiên, đều vội đặt ly xuống. Trương Vô Kỵ lấy ống tre trong bọc ra, thả con kim quan hùng xà, con rắn liền đi tới bên cạnh chén rượu, thò đầu uống sạch không để lại một giọt. Trương Vô Kỵ lại cho nó vào trong ống, thả con ngân quan thư xà ra, cho nó uống một chén. Hai con rắn này rất quấn quít nhau, nếu chỉ thả một con trống hay mái sẽ không bao giờ đi xa, lại rất dễ bảo, thế nhưng nếu thả cả hai con ra một lượt thì khó có thể bắt trở lại, không những thế có khi còn hung bạo cắn lại người nuôi.
    Cô năm cười:
    - Tiểu huynh đệ, đôi rắn của chú biết uống rượu, trông hay quá nhỉ?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin cho người đem ra một con chó hay con mèo thử xem.
    Đứa đầy tớ đáp lời, quay mình toan đi vào. Trương Vô Kỵ nói:
    - Chị này đứng lại đây đừng đi đâu, để người khác đi lấy con mèo, con chó được rồi.
    Một lát sau, một người đầy tớ đem một con chó vàng vào. Trương Vô Kỵ lấy chén rượu trước mặt Hà Thái Xung, đổ vào mồm con chó. Con chó vàng hộc lên mấy tiếng, thất khổng ứa máu chết ngay.
    Cô năm sợ đến toàn thân run rẩy, nói:
    - - Trong rượu có thuốc độc ... ai ... ai định hại chúng ta thế này, Trương huynh đệ, sao cậu biết được?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kim ngân huyết xà thích ăn độc vật, chúng ngửi thấy chất độc trong rượu, nên cao hứng kêu lên.
    Hà Thái Xung mặt tím lại, chộp ngay cổ tay đứa a hoàn, hỏi khẽ:
    - Rượu độc này ai bảo ngươi đem lên đây?
    Con ở đó sợ đến hết cả hồn vía, run rẩy đáp:
    - Con … con không biết rượu … rượu có độc. Con … con đem dưới nhà bếp lên … Hà Thái Xung hỏi:
    - Ngươi từ nhà bếp lên, có gặp ai không?
    A hoàn đáp:
    - Đi tới hành lang có gặp chị Hạnh Phương, chị ta giữ lại nói chuyện một lát, mở bình rượu ra ngửi mùi.
    Hà Thái Xung, cô năm, Chiêm Xuân ba người nhìn nhau, đều có vẻ hãi sợ. Thì ra Hạnh Phương là người hầu của bà vợ cả. Trương Vô Kỵ nói:
    - Hà tiên sinh, việc này tôi vẫn ngần ngại không nói ra, chỉ bên trong đang cố tra xét. Ông thử nghĩ xem, đôi Kim Ngân huyết xà này lúc đầu tại sao lại đến cắn ngón chân phu nhân để nọc độc truyền vào trong người? Cái đó cũng dễ hiểu, trong người phu nhân vốn đã có mạn tính độc dược sẵn rồi, mới dụ đôi Kim Ngân huyết xà đến. Người đã bỏ chất độc cho phu nhân và người hôm nay bỏ chất độc vào rượu chắc cũng là một.
    Hà Thái Xung chưa kịp trả lời, đột nhiên rèm cửa mở ra, một bóng người thấp thoáng, Trương Vô Kỵ thấy dưới hai bên vú trên ngực đau nhói, đã bị người ta điểm trúng huyệt đạo rồi một giọng nói sắc như dao cất lên:
    - Ngươi nói không sai chút nào, chính ta hạ độc đó.
    Người vừa đi vào là một người đàn bà cao lớn, tuổi đã quá trung niên, tóc hoa râm, hai mắt có uy, trong lông mày dường như có sát khí. Người đàn bà đó nói với Hà Thái Xung:
    - Tôi bỏ nọc rết vào trong rượu, ông làm gì nào?
    Cô năm vẻ mặt hoảng sợ, lập tức đứng dậy, cung kính chào:
    - Thái thái.
    Thì ra người đàn bà cao to này là nguyên phối của Hà Thái Xung, tên là Ban Thục Nhàn, vốn là sư tỉ của ông ta. Hà Thái Xung thấy vợ hùng hổ tiến vào phòng, ngồi im không nói, chỉ hừ một tiếng. Ban Thục Nhàn nói:
    - Tôi hỏi ông, chính tôi hạ độc đó, ông làm gì nào?
    Hà Thái Xung nói:
    - Bà không ưa cậu bé này, cũng chẳng sao cả. Thế nhưng bà làm vậy không phân biệt trắng đen, lỡ tôi uống phải rượu độc vào trong bụng, thì có phải hỏng không?
    Ban Thục Nhàn giận dữ nói:
    - Tất cả những người ở đây có ai tốt lành gì đâu, chết bớt ai thì đỡ ngứa mắt một chút.
    Bà ta cầm hồ rượu lên lắc thử, có tiếng óc ách, còn đến quá nửa bình, liền rót một ly đầy, đặt ngay trước mặt Hà Thái Xung, nói:
    - Ta định hạ độc chết cả năm người, nhưng tên tiểu quỉ này phát giác, vậy ta tha cho bốn người khỏi chết. Còn một chén này ai uống cũng được. Lão quỉ, ông tùy ý lo liệu.
    Nói xong nghe soẹt một tiếng đã rút kiếm cầm trên tay. Ban Thục Nhàn là một nhân vật kiệt xuất trong phái Côn Lôn, còn lớn hơn Hà Thái Xung hai tuổi, nhập môn cũng sớm hơn ông ta, võ công không kém gì chồng. Hà Thái Xung khi còn trẻ anh tuấn tiêu sái, rất được vị sư tỉ này ưa thích. Sư phụ của họ là Bạch Lộc Tử đấu với một cao thủ của Minh giáo mà chết, không kịp để lại di ngôn khiến các đệ tử tranh đoạt chức chưởng môn, không ai chịu nhường ai. Ban Thục Nhàn lúc đó hết sức suy cử Hà Thái Xung, hai người hợp lực, thế lực mạnh hẳn, so với các sư huynh đệ khác không ai sánh được, nên Hà Thái Xung mới được tiếp nhiệm ngôi vị. Ông ta nhớ ơn cảm đức nên lấy vị sư tỉ này làm vợ. Khi còn trẻ thì không sao, nhưng khi tuổi càng lớn, Ban Thục Nhàn so với Hà Thái Xung xem như già hơn chục tuổi. Hà Thái Xung lấy cớ không có con nối dõi tông đường, nên nạp thêm thị thiếp.
    Trong mấy chục năm nay tích uy, lại thêm Hà Thái Xung biết mình không nên không phải, trong lòng hổ thẹn, đối với vị vừa là sư tỉ vừa là nghiêm thê này càng thêm nể sợ. Thế nhưng sợ là một chuyện, thị thiếp cứ lấy hết người này đến người khác, nhưng mỗi khi thêm một phòng, thì đối với vợ lại sợ thêm mấy phần. Lúc này Hà Thái Xung thấy vợ để chén rượu độc trước mặt mình, ông ta hoàn toàn không có ý gì chống lại, nghĩ thầm: “Bản thân mình đương nhiên không uống rồi, cô năm và Xuân nhi lẽ dĩ nhiên cũng không, Trương Vô Kỵ là ân nhân cứu mạng của mình, chỉ có con bé con này là đối với mình vô thân vô cố”. Y liền đứng lên, đưa chén rượu cho Dương Bất Hối nói:
    - Này bé, ngươi uống chén rượu này đi.
    Dương Bất Hối kinh hãi, nó vừa thấy một con chó to khỏe thế mà uống một chén rượu đã lăn ra chết tươi, nên đâu dám cầm chén rượu, khóc òa lên:
    - Tôi không uống, tôi không uống.
    Hà Thái Xung liền nắm ngay ngực nó, định đổ chén rượu vào mồm. Trương Vô Kỵ liền thản nhiên nói:
    - Để tôi uống cũng được.
    Hà Thái Xung trong bụng không bằng lòng nhưng không dám buông lời cự tuyệt. Ban Thục Nhàn bụng dạ ghen ghét, muốn bỏ thuốc độc giết người thiếp mà Hà Thái Xung sủng ái nhất là cô năm, tưởng đã chắc ăn, nào ngờ Trương Vô Kỵ từ đâu tới cứu nàng ta khỏi, thành thử trong bụng ghét cay ghét đắng thiếu niên này, nên lạnh lùng nói:
    - Thằng bé này nhiều trò cổ quái, có giải dược không chừng. Nếu ngươi thay nó uống thì một chén không đủ, phải uống cạn cả bình.
    Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn Hà Thái Xung, mong y sẽ đưa ra vài lời khuyên giải, nào ngờ lão ta chỉ cúi đầu không dám hé môi nói một lời. Chiêm Xuân và cô năm cũng lặng thinh, sợ nếu mở miệng, Ban Thục Nhàn lại trút cơn giận lên đầu mình, bắt uống hơn nửa vò rượu kia không chừng. Trương Vô Kỵ trong lòng tê tái, nghĩ thầm: “Mấy người này tính mệnh đều do mình cứu cả, nhưng khi ta vừa gặp nguy nan, bọn họ liền tụ thủ bàng quan, đến một lời xin giùm cũng không dám”. Y liền nói:
    - Chiêm cô nương, sau khi tôi chết rồi, nhờ cô đưa em bé này đến Tọa Vong Phong kiếm cha nó, liệu có được chăng?
    Chiêm Xuân nhìn sư phụ thấy Hà Thái Xung gật đầu, liền nói:
    - Được rồi, tôi sẽ đưa nó đi.
    Tuy nhiên trong lòng cô ta nghĩ thầm: “Dãy Côn Lôn dài cả nghìn dặm, biết Tọa Vong Phong ở chỗ nào mà tìm?” Trương Vô Kỵ thấy cô ta nói cho qua chuyện, không một chút thành ý nào, biết những người này toàn là loại vô tình bạc bẽo, có nói thêm cũng chỉ phí lời, cười khẩy:
    - Phái Côn Lôn là một danh môn đại phái trong võ lâm, hóa ra là thế. Hà tiên sinh, đưa rượu cho tôi uống.
    Hà Thái Xung nghe thế trong bụng tức giận, chỉ muốn cho Vô Kỵ uống rượu chết đi cho xong, để cho vợ mình hả dạ, khỏi tìm kế khác giết hại cô năm, chuyện cấp bách quan trọng như lửa cháy lông mày, còn tung tích Tạ Tốn không cần nữa, liền cầm ngay vò rượu đổ thẳng vào mồm Trương Vô Kỵ.
    Dương Bất Hối ôm chặt lấy anh, khóc òa lên. Ban Thục Nhàn khinh khỉnh nói:
    - Ngươi y thuật có giỏi, ta thử xem có cứu được chính mình không nào?
    Y thị liền giơ ngón tay điểm vào đầu vai và mạng sườn Vô Kỵ mấy chỗ, lại xoay ngược cán kiếm điểm mấy đại huyệt trên người tất cả Hà Thái Xung, Chiêm Xuân, cô năm và Dương Bất Hối, nói:
    - Hai giờ nữa ta sẽ quay lại tha cho các ngươi.
    Khi bà ta điểm huyệt, Hà Thái Xung và Chiêm Xuân không dám động đậy, cũng không dám né tránh. Ban Thục Nhàn quay lại nói với những thị tì đang đứng bên cạnh:
    - Đi ra hết.
    Bà ta ra sau cùng, quay tay đóng cửa, vừa đi cười nhạt liên tiếp.
    Uống rượu độc rồi, chỉ giây lát Vô Kỵ bụng đau như cắt, thấy Ban Thục Nhàn ra khỏi phòng đóng cửa lại, nghĩ thầm: “Ngươi đi khỏi rồi, chưa chắc ta đã chết đâu”. Y cố nhịn đau, ám tự vận khí, dùng phương pháp Tạ Tốn truyền cho, trước hết tự giải các huyệt đạo bị điểm, sau đó nhổ mấy sợi tóc trên đầu, cho vào trong cổ họng ngoáy ngoáy, ngứa miệng ọe một tiếng nôn ra, rượu độc mười phần cũng thổ ra được tám chín. Hà Thái Xung, Chiêm Xuân thấy y đã bị điểm huyệt mà vẫn cử động được, đều lấy làm vô cùng kinh ngạc.
    Hà Thái Xung muốn ra tay ngăn trở, nhưng khổ nỗi chính y cũng bị vợ điểm huyệt, tuy một thân võ công cũng chỉ đành giương mắt nhìn, có nóng nảy cũng không làm gì được. Trương Vô Kỵ thấy trong bụng vẫn còn đau, cố mửa thêm nhưng không được, nghĩ bụng phải thoát khỏi nguy cơ trước, sau sẽ tìm cách trừ độc, liền đưa tay giải huyệt cho Dương Bất Hối. Nào ngờ thủ pháp điểm huyệt của Ban Thục Nhàn rất tinh diệu, Trương Vô Kỵ nắn mãi vẫn không giải được, lúc này sự thế khẩn bách, không dám thử các phương pháp khác, nên ôm con bé lên, mở cửa sổ nhìn ra, không thấy ai liền bỏ Dương Bất Hối ra ngoài.
    Nếu Hà Thái Xung dùng chân khí thúc đẩy các huyệt đạo, chỉ nửa giờ là các huyệt đạo cũng giải khai, nay thấy Trương Vô Kỵ đang định bỏ trốn, sợ khi bà vợ tra hỏi thể nào cũng gây rắc rối, huống chi để một thằng bé con phái Võ Đương tay không trốn từ Tam Thánh Đường của phái Côn Lôn xuống, đem chuyện vong ân phụ nghĩa của mình truyền khắp giang hồ, thì còn mặt mũi nào xưng là một đại tông sư?
    Thành thử không thể nào không bắt y lại giết đi, nên y hít một hơi dài, đang tính kêu lên báo động cho vợ biết. Trương Vô Kỵ đã tính đến chuyện đó, lấy trong bọc ra một viên thuốc màu đen, nhét vào mồm cô năm, nói:
    - Đây là một viên Cưu Tì Hoàn, mười hai giờ đồng hồ sau, ngũ phu nhân sẽ bị đứt ruột, đứng tim mà chết. Tôi sẽ để thuốc giải cách đây ba mươi dặm trên một cây to, có đánh dấu, ba giờ đồng hồ sau, Hà tiên sinh có thể sai người đến lấy. Nếu tôi đi ra mà bị bắt lại, thì có thêm một người nữa chết cùng với tôi cũng là điều hay.
    Vô Kỵ làm như thế thật ngoài dự liệu của Hà Thái Xung, y trầm ngâm một chút, nói nhỏ:
    - Tiểu huynh đệ, tuy Tam Thánh Đường của chúng tôi không phải đầm rồng hang hổ gì, nhưng hai đứa trẻ như các ngươi, không thể nào qua được đâu.
    Trương Vô Kỵ biết y không nói sai, lạnh lùng đáp:
    - Thế nhưng viên thuốc Cưu Tì Hoàn mà ngũ phu nhân vừa uống, tại đây ngoài tôi ra không ai có thể giải cứu được.
    Hà Thái Xung nói:
    - Được rồi, cậu giải huyệt cho tôi, tôi sẽ đích thân đưa cậu xuống núi.
    Hai huyệt Hà Thái Xung bị điểm là Phong Trì và Kinh Môn, Trương Vô Kỵ liền xoa bóp các huyệt Thiên Trụ, Hoàn Khiêu, Đại Truy, Thương Khúc một hồi, nhưng không hiệu quả. Hai người thầm phục lẫn nhau, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Công phu điểm huyệt của phái Côn Lôn quả là ghê gớm, Hồ tiên sinh truyền cho ta tất cả bảy phương pháp giải huyệt khác nhau, ta áp dụng mà không có hiệu quả”.
    Hà Thái Xung lại nghĩ bụng: “Tiểu tử này sao biết nhiều phương pháp giải huyệt thế, thủ pháp quái dị, thực là cao minh. Sư tỉ rõ ràng điểm bảy tám chỗ trên người y, vậy mà sao không ăn thua gì cả? Phái Võ Đương những năm gần đây danh chấn giang hồ, lão đạo Trương Tam Phong quả thực bản lãnh không ai sánh kịp. Hôm đó ở trên núi Võ Đương, may mà mình không động thủ với họ, nếu không thể nào cũng bị bẽ mặt. Một đứa bé con mà đã thế này, lớn lên còn lợi hại gấp mười”.
    Y không biết công phu tự thông huyệt đạo của Vô Kỵ là học ở Tạ Tốn, còn phép giải huyệt là do Hồ Thanh Ngưu truyền thụ, việc phái Võ Đương danh chấn thiên hạ với hai công phu bản lãnh của Vô Kỵ không có liên can gì.
    Hà Thái Xung thấy y giải huyệt không hiệu quả, bỗng chợt nghĩ ra, nói:
    - Cậu đem bình trà lại đây, cho tôi uống vài ngụm.
    Trương Vô Kỵ không hiểu sao y đột nhiên lúc này lại đòi uống trà, nhưng chắc rằng vì lo lắng cho tính mạng ái thiếp, không dám giở trò gì với mình, nên lấy bình trà đem lại để vào miệng cho ông ta uống. Hà Thái Xung uống một ngụm to, nhưng không nuốt xuống, nhắm thẳng vào huyệt Thanh Lãnh Uyên ở khoeo tay phun mạnh một cái. Một luồng nước vọt thẳng ra nghe phụp một tiếng, lập tức giải ngay huyệt đạo trên tay y.
    Trương Vô Kỵ từ khi đến Tam Thánh Đường ở núi Côn Lôn, chỉ thấy Hà Thái Xung lo lắng buồn rầu vì bệnh trạng của cô năm, sợ vợ cả chiều vợ lẽ, vừa khiếp nhược vừa nhỏ nhen, chẳng khác gì một người đàn ông tầm thường, bây giờ lần đầu thấy y hiển thị võ công, không khỏi giật mình kinh sợ: “Võ công của vị chưởng môn phái Côn Lôn thâm hậu như thế, vậy mà trước nay mình vẫn cứ coi thường ông ta. Xem ra ông ta không kém gì Du nhị sư bá, Kim Hoa bà bà, Diệt Tuyệt sư thái. Lúc đầu mình thấy ông ta tầm thường, kém cỏi, quên rằng ở vị trí chưởng môn phái Côn Lôn ắt phải có điểm người khác không theo kịp. Luồng tên nước này mà nhắm vào mặt hay ngực ta, thể nào mình cũng chết ngay”.
    Hà Thái Xung lấy tay phải quay quay vài vòng, rồi tự giải huyệt ở trên đùi mình, nói:
    - Ngươi cho cô ta uống giải dược trước đi, ta sẽ đưa ngươi ra khỏi thung lũng an toàn.
    Trương Vô Kỵ lắc đầu, Hà Thái Xung vội vã nói:
    - - Ta là chưởng môn phái Côn Lôn, không lẽ thất tín với một đứa trẻ như ngươi sao? Lỡ như độc tính phát tác, thì biết làm cách nào bây giờ?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Chất độc không phát bất ngờ đâu.
    Hà Thái Xung thở dài một tiếng, nói:
    - Được rồi, bọn mình lẻn đi vậy.
    Hai người đi ra bằng cửa sổ, Hà Thái Xung dùng tay phất nhẹ một cái vào lưng Dương Bất Hối, lập tức giải ngay huyệt đạo cho cô bé, thủ pháp khinh linh không ai bì kịp. Trương Vô Kỵ thật là bội phục, ánh mắt lộ vẻ hâm mộ, Hà Thái Xung biết được tâm ý của y, mỉm cười, mỗi tay dắt một đứa, vòng qua hoa viên đằng sau Tam Thánh Đường, theo cửa hông mà đi.
    Tam Thánh Đường trước sau có đến chín lối vào, đi khỏi hoa viên, lại theo một dãy hoa vòng vèo, qua khỏi nhiều sảnh đường khác nữa. Chỉ thấy nhà cửa san sát, cổng trong cổng ngoài, nếu không do Hà Thái Xung đích thân dẫn đi, Trương Vô Kỵ thể nào cũng lạc, dù đệ tử phái Côn Lôn không ngăn trở cũng chưa chắc đã qua được.
    Qua khỏi Tam Thánh Đường, Hà Thái Xung tay phải bồng Dương Bất Hối, tay trái cắp Trương Vô Kỵ, thi triển khinh công theo hướng tây bắc mà chạy. Trương Vô Kỵ bị y ôm lên, thân hình nhẹ nhàng bay bổng, mỗi lần nhảy cả hơn một trượng, chỉ thấy gió ù ù bên tai, chẳng khác gì bay trong không trung, khiến cho tấm lòng kính phục phái Côn Lôn và bản thân Hà Thái Xung tăng thêm mấy phần.
    Y biết chất độc trong bụng chưa hết, vội vàng móc trong bọc ra hai viên thuốc giải độc, uống vào lúc ấy mới yên tâm. Đang chạy đi, bỗng nghe tiếng đàn bà kêu:
    - Hà Thái Xung …. Hà Thái Xung …. mau đứng lại ta bảo … Tiếng nói đó theo gió mà tới, tưởng như thật xa, mà cũng thật gần, chính là giọng của Ban Thục Nhàn. Hà Thái Xung hơi chần chừ, rồi đứng lại, thở dài nói:
    - Tiểu huynh đệ, hai người mau chạy đi, nội nhân đuổi tới nơi rồi, ta không thể giúp hai người được nữa.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này đối với ta cũng không đến nỗi tệ bạc lắm” liền nói:
    - Hà tiên sinh, ông về đi được rồi. Viên thuốc tôi cho cô năm uống không phải độc dược đâu, cũng chẳng phải Cưu Tì Hoàn, chỉ là một viên thuốc giảm ho, thông cổ Tang Bối Hoàn thôi. Mấy hôm trước Bất Hối muội muội bị ho, tôi bào chế cho nó uống, còn mấy viên để lại, không khỏi làm ông kinh sợ.
    Hà Thái Xung vừa tức vừa sợ, lại cũng yên tâm, quát lên:
    - Có thật không phải độc dược chăng?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Ngũ phu nhân do tay tôi cứu sống, lẽ nào lại bỏ thuốc độc hại bà ta.
    Chỉ nghe Ban Thục Nhàn liên tiếp kêu réo:
    - Hà Thái Xung … Hà Thái Xung … ngươi chạy có nổi không?
    Tiếng gọi càng lúc càng gần. Hà Thái Xung sở dĩ ôm Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối chạy trốn, chỉ vì sợ ái thiếp của y độc tính phát tác không trị kịp, bây giờ biết chắc thuốc cô năm uống không phải là thuốc độc, hóa ra bị thằng nhỏ này đánh lừa, cơn giận bùng lên, y liền giáng cho Vô Kỵ bốp bốp bốp bốp bốn cái tát liền, khiến hai má thằng nhỏ sưng vù lên, mồm đầy máu.
    Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức hối hận, vội sử chiêu Đảo Kỵ Long trong Võ Đương trường quyền, giơ tay đỡ. Chiêu này ví như cỡ Du Liên Châu sử dụng, ắt uy lực vô cùng, nhưng Vô Kỵ chỉ học được chút vỏ bên ngoài, làm sao có thể chống được với chưởng môn phái Côn Lôn? Hà Thái Xung hoi nghiêng mình né qua, đánh ra một chưởng trúng ngay mắt phải Vô Kỵ, khiến mắt sưng lên. Trương Vô Kỵ biết bản lãnh mình so với ông ta hơn kém quá xa, một chiêu không ăn thua gì, đành thõng tay đứng chịu không kháng cự gì nữa.
    Thế nhưng Hà Thái Xung đâu phải thằng bé đứng yên mà ngừng tay, y tay trái một cái, tay phải một cái đánh liên tiếp không ngừng. Tuy chưởng của ông ta không vận nội lực, nếu không một cú là đánh chết nó ngay, nhưng dù sao, chưởng nào chưởng nấy cũng làm cho Vô Kỵ mắt hoa đầu váng, đau đớn không sao chịu nổi.
    Y vừa bắt đầu dụng kình, Ban Thục Nhàn đã dẫn hai đệ tử chạy đến, lặng lẽ đứng một bên. Ban Thục Nhàn thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn không kháng cự, không thấy hứng thú nói:
    - Ngươi đánh con bé đó thử coi.
    Hà Thái Xung hơi chuyển người qua, nghe bốp một cái, đã tát cho Dương Bất Hối một cái. Dương Bất Hối đau quá, lập tức khóc ré lên. Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
    - Ngươi đánh ta đi, sao lại ăn hiếp một đứa con gái nhỏ?
    Hà Thái Xung không thèm để ý, lại giơ tay đánh Dương Bất Hối tiếp. Trương Vô Kỵ nhảy tới, lấy đầu húc vào bụng y. Ban Thục Nhàn cười khẩy nói:
    - Một đứa bé như thế, còn có tình nghĩa, có đâu như ngươi trăng hoa, là một đứa vô tình vô nghĩa.
    Hà Thái Xung nghe vợ mỉa mai, mặt đỏ bừng, chộp cổ Trương Vô Kỵ, ném ra bên ngoài, quát lớn:
    - Đồ chó má, cho mày đi theo bố mẹ mày.
    Y ném cái đó sử dụng lực thật sự, nhắm ngay một tảng đá lớn ở sườn núi liệng tới. Trương Vô Kỵ thấy thân hình bay vụt đi, chỉ nháy mắt sẽ đập vào tảng đá, đầu nát như tương.
    Nào ngờ ngay lúc đó từ đâu một luồng lực đạo bay tới, đỡ lấy y đứng thẳng trên mặt đất ngay bên cạnh tảng đá. Trương Vô Kỵ hồn phách chưa định, vừa đứng xuống giương đôi mắt sưng vù nhìn qua, thấy cách độ năm thước, một thư sinh trung niên mặc trường bào trắng bằng vải thô đứng đó.
    Ban Thục Nhàn và Hà Thái Xung cùng kinh hãi, thư sinh này đến từ lúc nào, ở đâu đến, sao họ không hề hay biết, dù y có trốn ở sau tảng đá, với bản lãnh của hai người lẽ nào không phát giác? Hà Thái Xung khi ném Trương Vô Kỵ vào tảng đá, lực đạo ít ra cũng năm sáu trăm cân, vậy mà thư sinh đó tay áo chỉ cuộn một cái, lập tức tiêu giải, để Trương Vô Kỵ sang một bên, hiển nhiên võ công thực là cao siêu. Người đó chỉ độ trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn nhã, có điều hai lông mày hơi xuôi xuống, hai bên mép có mấy ngấn sâu, không khỏi có tướng buồn rầu khổ sở. Y không nói năng, không động đậy, thần sắc thản nhiên, tưởng như đang mải mê nghĩ chuyện đâu đâu, không để ý tới việc trước mắt.
    Hà Thái Xung đằng hắng một tiếng, hỏi:
    - Các hạ là ai? Tại sao lại nhúng tay vào việc người khác, can dự vào việc của phái Côn Lôn?
    Thư sinh đó lạnh lùng đáp:
    - Có phải hai vị là Thiết Cầm tiên sinh và Hà phu nhân chăng? Tại hạ là Dương Tiêu.
    Hai chữ Dương Tiêu vừa ra khỏi cửa miệng, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn, Trương Vô Kỵ không hẹn mà cùng “A” lên một tiếng. Có điều tiếng kêu của Vô Kỵ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, còn vợ chồng họ Hà thì vừa kinh hoàng vừa phẫn nộ. Chỉ nghe soẹt soẹt, hai đệ tử của phái Côn Lôn đã rút kiếm khỏi bao, chuyển ngược cán lại đưa cho sư phụ sư mẫu.
    Hà Thái Xung giơ kiếm ngang bụng, ra thế sử chiêu Tuyết Ủng Lam Kiều. Ban Thục Nhàn mũi kiếm xeo xéo xuống đất, ra chiêu Mộc Diệp Tiêu Tiêu. Hai chiêu này đều là kiếm pháp tinh áo của phái Côn Lôn, thoạt trông có vẻ tầm thường, dễ dàng sơ sài, nhưng thực ra bên trong có ẩn bảy tám chiêu hết sức ghê gớm. Hai người cũng đã vận nội lực lên cánh tay phải, chỉ cần rung cổ tay một cái, kiếm quang lóe lên là đã đâm bảy tám chỗ yếu hại trên người địch nhân. Lúc này hai người gặp phải kình địch, đành giở hết bình sinh tuyệt học ra đối phó.
    Dương Tiêu vẫn bình thản tưởng như không biết đến, nghe Trương Vô Kỵ trong tiếng kêu đầy vẻ vui mừng, hơi ngạc nhiên, quay sang liếc y một cái. Lúc này mặt Trương Vô Kỵ đầy máu tươi, mũi sưng mắt bầm, bị Hà Thái Xung đánh không còn ra hình thù gì nữa, nhưng trong lòng đầy hoan hỉ, tuy khó coi như thế nhưng niềm vui sướng vẫn lộ ra. Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Ông … ông có phải là Quang Minh tả sứ giả của Minh giáo Dương Tiêu Dương bá bá đấy không?
    Dương Tiêu gật đầu, hỏi:
    - Sao một đứa bé như cậu lại biết được tên tôi?
    Trương Vô Kỵ chỉ vào Dương Bất Hối, nói:
    - Nó là con gái của bác đó.
    Y nắm tay Dương Bất Hối đưa đến nói:
    - Bất Hối muội muội, mau gọi cha đi, mau gọi cha đi. Anh em mình cuối cùng đã tìm thấy ông ấy rồi.
    Dương Bất Hối giương mắt trừng trừng nhìn Dương Tiêu, mười phần đến chín không tin, ông ta có phải cha nó không nó cũng không cần, chỉ hỏi lại:
    - Mẹ con đâu? Sao mẹ chưa bay từ trên trời xuống?
    Dương Tiêu trong lòng bàng hoàng, chộp lấy đầu vai Trương Vô Kỵ, hỏi:
    - Này cậu bé, ngươi nói cho rõ ràng. Nó … nó là con của ai, mẹ nó là ai?
    Y tay dụng lực nắm chặt, đầu vai Trương Vô Kỵ kêu lách cách, đau thấu tâm can. Trương Vô Kỵ không chịu hèn, quyết không kêu đau, nhưng sau cùng cũng phải “A” lên một tiếng, nói:
    - Nó là con gái bác, mẹ nó là nữ hiệp Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi.
    Mặt Dương Tiêu vốn đã xanh xao, lúc này lại không còn chút huyết sắc nào, run run nói:
    - Nàng … nàng có con gái ư? Nàng … nàng bây giờ ở đâu?
    Vội vàng cúi xuống bế Dương Bất Hối lên, thấy con bé bị Hà Thái Xung đánh hai cái tát, mặt sưng vù, nhưng trong nét mày ánh mắt, vẫn có vài phần xinh tươi của Kỷ Hiểu Phù. Đang định hỏi lại, đột nhiên Dương Tiêu thấy trên cổ nó có một sợi dây tơ đen, nhẹ nhàng kéo ra, thấy ở đầu kia có đeo một cái thiết bài, trên thiết bài có một ngọn lửa đang bốc cháy kết bằng chỉ vàng. Đó chính là Thiết Diễm Lệnh của Minh giáo mà y đã tặng cho Kỷ Hiểu Phù, nên không còn hoài nghi gì nữa, liền ôm chặt Dương Bất Hối vào lòng, hỏi:
    - Mẹ con đâu? Mẹ con đâu?
    Dương Bất Hối nói:
    - Mẹ con đi lên trời rồi, con đang đi tìm, ba có thấy mẹ con không?
    Dương Tiêu thấy nó còn bé quá, nói năng không rõ ràng, đưa mắt cho Trương Vô Kỵ có ý dò hỏi. Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nói:
    - Dương bá bá, cháu nói ra bác đừng buồn. Kỷ cô cô bị sư phụ cô ta đánh chết rồi, lúc sắp chết … Dương Tiêu la lớn:
    - Ngươi dối ta, ngươi dối ta.
    Nghe một tiếng cách, cánh tay trái của Vô Kỵ đã bị y bóp gãy, lịch bịch lịch bịch, cả hai người đều ngã lăn ra, tay phải Dương Tiêu vẫn còn ôm chặt đứa con gái.
    Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đưa mắt nhìn nhau, hai người cùng vung kiếm tới, chia nhau chỉ ngay vào cổ họng và giữa hai lông mày Dương Tiêu. Dương Tiêu là đại cao thủ của Minh giáo, uy danh rất lớn. Sư phụ của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn là Bạch Lộc Tử chết dưới tay người của Minh giáo, thủ phạm đích thực là ai không biết, nhưng người của phái Côn Lôn đều đổ riệt cho Dương Tiêu. Hôm nay hai vợ chồng họ Hà bất ngờ gặp y tại đây, trong bụng hết sức phập phồng, chưa biết sẽ ra sao, bỗng thấy y đột nhiên bất tỉnh, quả thực là dịp may trời cho, lập tức ra tay chế ngự hai nơi yếu hại.
    Ban Thục Nhàn nói:
    - Chặt đứt hai tay y đã rồi tính sau.
    Hà Thái Xung đáp lời:
    - Đúng thế.
    Lúc đó Dương Tiêu chưa tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thì chỗ gãy trên tay đau nhói đến toát mồ hôi, nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, thấy tình thế nguy cấp, vội lấy chân điểm nhẹ vào huyệt Bách Hội trên đầu Dương Tiêu.
    Huyệt Bách Hội liên quan đến óc, nay bị chấn động, Dương Tiêu lập tức tỉnh lại, vừa hé mắt ra, thấy hơi lạnh rung rung, một mũi kiếm đang để ngay mi tâm mình, kế tiếp ánh sáng xanh lấp lánh, một thanh kiếm khác chém xuống tay trái. Y dù muốn ra chiêu chống trả, không sao kịp nữa, huống chi kiếm của Ban Thục Nhàn chế ngự ngay chỗ yếu hại trên người khiến không thể nào cử động được, nên vội vàng vận chân khí ra tay trái.
    Trường kiếm của Hà Thái Xung chém xuống, đột nhiên mũi kiếm trượt sang một bên, lưỡi kiếm cũng không xuống được, giống như chém phải một vật vừa trơn vừa dai, nhưng thấy máu đã vọt ra tay áo trắng, y cũng đã bị thương.
    Ngay lúc đó, thân hình Dương Tiêu đột nhiên chuồi về phía sau hơn một trượng, tưởng như có ai lấy dây buộc vào cổ y dùng thủ pháp thật nhanh kéo đi. Kiếm của Ban Thục Nhàn vốn đã để vào mi tâm của Dương Tiêu, thân y tuột về sau nhanh quá, mũi kiếm liền rạch từ giữa hai lông mày xuống mũi, miệng, ngực thành một đường máu dài, sâu đến vài phân. Chiêu này thực là nguy hiểm, nếu mũi kiếm của Ban Thục Nhàn chỉ nhấn sâu thêm độ nửa tấc, Dương Tiêu sẽ không khỏi bị cái họa mổ bụng phanh thây. Thân hình y vừa lướt ra được, lập tức dựng tưng lên, tưởng như thân thể có một cái lò so, nhưng người thì lại cứng đơ đơ, trông không khác gì một xác chết.
    Dương Tiêu vừa đứng lên, hai chân đạp xuống, nghe lách cách hai tiếng, song kiếm của vợ chồng họ Hà gãy đôi ngay. Tuy hai chân của y đạp xuống có trước có sau, nhưng nhanh như ánh chớp, tưởng như đạp xuống cùng một lúc vậy. Với tài nghệ kiếm pháp của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn, Dương Tiêu võ công tuy cao, nhưng cũng không thể nào chỉ một chiêu đã đạp gãy binh khí của hai người, nhưng vì chiêu số quái dị, đã trọng thương rồi lại đột nhiên thoát thân phản kích, vợ chồng họ Hà đang kinh hãi, không kịp rút kiếm về.
    Dương Tiêu lập tức hai chân đá ra, hai mảnh lưỡi kiếm lập tức chia ra bắn vào hai người. Vợ chồng Hà Thái Xung liền giơ hai thanh kiếm gãy ra đỡ, tuy gạt được ra nhưng cũng hoảng sợ, vội nhảy lùi về phía sau, người đứng bên tây bắc, kẻ đứng phía đông nam. Hai vợ chồng mỗi người cầm một nửa thanh kiếm, dương kiếm chỉ lên trời, âm kiếm chỉ xuống đất, song kiếm hợp bích, sử dụng Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn, trong lòng tuy hoảng hốt, nhưng vẫn khí định thần nhàn, ngưng trọng như núi.
    Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn nổi danh đã mấy trăm năm, là một trong những kiếm pháp nổi danh trong thiên hạ, hai vợ chồng họ Hà đồng môn học nghệ, từ trẻ luyện đến già, tinh thục vô cùng. Dương Tiêu đã mấy lần đại chiến với phái Côn Lôn, biết kiếm pháp này rất lợi hại, tuy không sợ gì, nhưng muốn đánh bại hai người không thể nào dưới vài trăm chiêu, lúc này chĩ nghĩ đến việc sống chết của Kỷ Hiểu Phù, làm gì có bụng nào mà tranh đấu. Huống chi trên tay và trên mặt thương thế không phải là nhẹ, nếu để máu chảy mãi, sẽ thực là hung hiểm, nên cười nhạt nói:
    - Phái Côn Lôn càng ngày càng tệ hại, hôm nay ta tạm bỏ qua, sau này sẽ kiếm hiền kháng lệ[6] đòi món nợ này.
    Y tay trái bồng Dương Bất Hối, tay phải nắm Trương Vô Kỵ, không thấy y cử động đôi chân, đột nhiên thụt lùi hơn một trượng, xoay mình một cái đã vọt ra ngoài mấy trượng. Vợ chồng Hà Thái Xung đang kinh hoảng, nay thấy tên đại ma đầu tự ý bỏ đi, nên nào dám đuổi theo.
    Dương Tiêu dắt hai đứa trẻ chạy một mạch luôn mấy dặm, đột nhiên ngừng lại, hỏi Trương Vô Kỵ:
    - Kỷ Hiểu Phù cô nương sự thể như thế nào?
    Y đang chạy nhanh, nào ngờ muốn dừng là dừng, thân hình như đóng chặt dưới đất, không di động nửa phân. Trương Vô Kỵ thu thế không kịp, ngã bổ nhào về trước, nếu không được Dương Tiêu níu lại, ắt đã lăn dưới đất, nghe y hỏi như thế, thở hổn hển mấy lần mới nói:
    - Kỷ cô nương đã chết rồi, bác tin cũng được, không tin cũng không sao, việc gì phải bóp gãy tay cháu.
    Dương Tiêu trên mặt thoáng vẻ ân hận, hỏi tiếp:
    - Nàng … vì sao nàng chết?
    Thanh âm dường như có chiều nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ uống phải độc tửu của Ban Thục Nhàn, tuy đã nôn ra gần hết, trên đường cũng đã uống hai viên thuốc giải độc, nhưng chất độc chưa hết hẳn, lúc này trong bụng lại bắt đầu đau. Y lấy con kim quan huyết xà cho nó cắn đầu ngón tay trỏ hút chất độc, một mặt kể cho Dương Tiêu nghe tại sao y biết được Kỷ Hiểu Phù, làm sao trị bệnh cho cô ta, tại sao nàng bị Diệt Tuyệt sư thái đánh chết kể lại đầu đuôi. Đến khi kể xong, kim quan huyết xà cũng đã hút hết máu độc trong cơ thể y.
    Dương Tiêu lại hỏi kỹ những lời nàng thốt ra khi sắp chết, rơi lệ nói:
    - Diệt Tuyệt ác ni ép nàng phải đến hại ta, chỉ cần nàng nhận lời, là sẽ lập được đại công với phái Nga Mi, có thể kế thừa chức vụ chưởng môn. Ôi, Hiểu Phù ôi Hiểu Phù, em thà chết chứ không chịu làm. Thực ra, em chỉ cần giả vờ ưng thuận, hai đứa mình chẳng những gặp lại nhau, mà cũng chẳng chết dưới tay của Diệt Tuyệt ác ni đâu.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kỷ cô cô là người chính trực, cô không muốn lén hạ độc thủ hại bác, lại cũng không muốn dùng lời giả dối để đánh lừa sư phụ.
    Dương Tiêu buồn bã nhếch mép:
    - Cậu quả thực đáng là người tri kỷ của Hiểu Phù... đâu ngờ rằng sư phụ nàng độc ác đến thế, đang tâm giết nàng.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cháu đáp ứng Kỷ cô cô, đưa Bất Hối muội muội đến giao cho bác … Dương Tiêu giật mình, nói:
    - Bất Hối muội muội?
    Y quay sang hỏi Dương Bất Hối:
    - Con yêu quí của bố, con họ gì? Tên gì?
    Dương Bất Hối đáp:
    - Con họ Dương, tên là Bất Hối.
    Dương Tiêu ngửng đầu lên hú một tiếng dài, làm chấn động bốn bề, lá cây rơi lả tả hồi lâu chưa dứt, nói:
    - Con quả thực họ Dương. Bất Hối, Bất Hối. Đúng rồi, Hiểu Phù ơi, tuy ta cưỡng bức em, nhưng không vì thế mà em hối tiếc.
    Trương Vô Kỵ đã nghe Kỷ Hiểu Phù kể qua cái nghiệt duyên của hai người, lúc này thấy Dương Tiêu anh tuấn tiêu sái, tuổi tuy có hơi lớn, nhưng không mất cái phong độ của một người đàn ông đẹp trai, so với Ân Lê Đình lục thúc vẫn còn tính khí trẻ con, thì người như Dương Tiêu vẫn dễ được đàn bà say đắm hơn. Kỷ Hiểu Phù bị y cưỡng bức thất thân nhưng lại đổi thành mê say y, cũng không trách cô ta được. Ở vào tuổi của Vô Kỵ tuy không hiểu rõ mọi bề, nhưng cũng mơ hồ nhận ra điều đó.
    Tay trái của Trương Vô Kỵ bị gãy đau đớn không chịu nổi, nhất thời không kiếm ra các loại dược vật để tiếp cốt và giảm đau, đành phải nối xương trước, đắp ít lá làm bớt sưng, bẻ hai cành cây dùng vỏ cây bó lại để giữ cánh tay. Dương Tiêu thấy y tuổi còn nhỏ, một tay tiếp cốt trị thương, thủ pháp thập phần khéo léo cũng lấy làm lạ.
    Trương Vô Kỵ buộc tay xong rồi, nói:
    - Dương bá bá, cháu không phụ lòng ủy thác của Kỷ cô cô, Bất Hối muội muội đã gặp được cha. Vậy mình chia tay từ đây.
    Dương Tiêu nói:
    - Cậu đường xa vạn dặm, đưa con ta đến, lẽ nào ta không có gì báo đáp? Cậu muốn gì, chỉ cần mở miệng nói ra, chuyện gì mà Dương Tiêu này không làm được, vật gì mà ta không lấy được, thiên hạ chắc cũng không mấy người làm nổi.
    Trương Vô Kỵ cười ha hả, nói:
    - Dương bá bá, bác xem Kỷ cô cô nhẹ thể quá, uổng công cô ấy chết vì bác.
    Dương Tiêu mặt mày đại biến, quát hỏi:
    - Ngươi nói gì?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Kỷ cô cô không coi thường cháu, nên mới gửi con để cháu mang đến cho bác, nếu vì cháu cầu gì mà đến đây, người như thế có đáng để gửi gấm chăng?
    Y trong bụng nghĩ thầm: “Trên đường đi em Bất Hối gặp biết bao điều nguy nan, ta bao nhiêu lần lấy thân ra đỡ? Nếu ta là kẻ tham lợi vô nghĩa, làm gì cha con hôm nay có thể đoàn viên?”. Thế nhưng y không phải là người thích khoe khoang công lao, một câu cũng không đề cập đến những nguy khốn dọc đường, nên chỉ nói thêm vài câu rồi cúi đầu vái chào, quay mình ra đi.
    Dương Tiêu nói:
    - Khoan đã, cậu giúp tôi một việc to tát như thế, Dương Tiêu trước nay có oán tất trả, có ơn tất đền. Cậu theo ta, chỉ trong một năm, ta sẽ truyền cho cậu vài pho võ công trên đời ít ai địch lại.
    Trương Vô Kỵ chính mắt thấy y đạp gãy hai thanh trường kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung, võ công cao cường như thế, trên giang hồ quả thực ít ai sánh kịp, chỉ cần học được của y một chiêu, nửa thức sẽ có ích rất nhiều. Thế nhưng nghĩ đến thái sư phụ từng dặn đi dặn lại, không được lai vãng với người trong Ma giáo, huống chi tuy võ công có cao, nhưng y sao bằng được thái sư phụ? Hơn nữa mình chỉ còn sống được nửa năm nữa thôi, dù có học được võ công tuyệt thế vô địch, cũng có làm gì? Nghĩ thế y bèn nói:
    - Đa tạ Dương bá bá đã có lòng, nhưng vãn bối là đệ tử phái Võ Đương, không dám đi học cao chiêu của phái khác.
    Dương Tiêu “A” lên một tiếng, nói:
    - Thì ra cậu là đệ tử phái Võ Đương? Thế Ân Lê Đình … Ân lục hiệp … Trương Vô Kỵ tiếp lời:
    - Ân lục hiệp là sư thúc của cháu, từ khi tiên phụ chết đi, Ân lục thúc đối với cháu chẳng khác gì chú ruột. Cháu nhận lời gửi gấm của Kỷ cô cô đưa em Bất Hối đến núi Côn Lôn, đối với Ân lục thúc không khỏi … không khỏi có điều bất ổn trong lòng.
    Dương Tiêu gặp ánh mắt của y bỗng thấy ăn năn, tay phải vẫy một cái, nói:
    - Dương mỗ thâm cảm đại đức, hổ thẹn không có gì báo đáp. Nếu đã như thế, sau này mong có dịp gặp lại.
    Thân hình y động nhẹ một cái, đã vọt ra ngoài mấy trượng. Dương Bất Hối kêu to:
    - Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca.
    Nhưng Dương Tiêu đã thi triển khinh công, trong khoảnh khắc đã đi xa tít, những tiếng Vô Kỵ ca ca nhỏ dần, sau cùng cả người lẫn âm thanh đều biến mất.
   

- o O o -

    [1] Địa danh thuộc tỉnh Hà Nam, phía bắc huyện Xác Sơn bốn mươi dặm.
    [2] Đúng nghĩa là một chỗ đất trũng [3] phèn trắng [4] tì sương tức là thạch tín, hay nhân ngôn, hạc đính hồng là cái mào con hạc, khổng tước đảm là mật chim công, trẩm tửu là lông chim trẩm ngâm vào rượu đều là những chất độc [5] rút bớt củi dưới bếp đang đun, một trong ba mươi sáu kế ngày xưa (Tam Thập Lục Kế) ý nói nhân việc nọ làm việc kia luôn thể [6] vợ chồng (chữ dùng văn vẻ)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 18:50:24 | Chỉ xem của tác giả
KỲ MƯU BÍ KẾ MỘNG NHẤT TRƯỜNG

    Sông sâu còn có kẻ dò, Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng[1].

    Trời mưa bong bóng phập phồng, Trăm mưu nghìn kế cũng không ra gì.
    Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối hai đứa đi chung với nhau cả vạn dặm sang Tây Vực, như hình với bóng, đột nhiên chia tay, không khỏi bàng hoàng trống trải, nhưng nghĩ lại không phụ tấm lòng ủy thác của Kỷ Hiểu Phù, đưa cô bé đến đưa tận tay Dương Tiêu, cũng thấy an ủi. Y đứng ngơ ngẩn một hồi, lại sợ bọn Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn phái Côn Lôn tìm thấy, nên cứ theo hướng rừng sâu núi thẳm mà tiến vào.
    Đi như thế hơn chục ngày, vết thương trên tay cũng đỡ, nhưng y vẫn chỉ loanh quanh trong dãy Côn Lôn, không tìm được đường ra khỏi núi. Hôm đó y đi đã nửa ngày trời, ngồi trên một tảng đá nghỉ chân, bỗng nghe từ hướng tây bắc vọng đến tiếng chó sủa, nghe phải đến hơn chục con. Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần, dường như đang đuổi theo một con dã thú.
    Trong khi chó đang sủa, một con khỉ nhỏ hoảng hốt chạy tới, sau lưng có cắm một mũi tên ngắn. Con khỉ đó chạy đến cách Vô Kỵ chừng hơn một trượng thì ngã lăn ra, vì dính mũi tên trên lưng nên không trèo lên cây được, chạy đến đây kiệt sức, không gượng nổi nữa. Trương Vô Kỵ đi đến xem, mắt con khỉ lộ vẻ hoảng sợ van lơn, y động tâm nghĩ thầm: “Ta bị người của phái Côn Lôn rượt bắt, cũng khổ sở không khác gì ngươi”. Nghĩ thế bèn bế con khỉ lên, nhẹ nhàng rút mũi tên ra, lấy thuốc trong bọc ra rịt vết thương cho nó.
    Ngay lúc đó, tiếng chó sủa đã tới gần, Trương Vô Kỵ liền mở áo ra, dấu con khỉ vào trong bụng, có mấy tiếng gâu gâu gâu, hơn một chục con chó săn cao lớn đã vây quanh y. Những con chó đánh hơi theo dấu con khỉ, nhe răng gầm gừ nhưng chưa dám xông lại. Trương Vô Kỵ thấy những con chó đó trông thật dữ tợn, răng dài trắng nhởn, trong lòng sợ hãi, biết nếu mình vứt con khỉ ra chúng sẽ nhảy tới vồ ngay và buông tha cho mình. Thế nhưng từ bé y đã được cha giáo huấn, mọi việc đều coi hiệp nghĩa là trọng, nên đối với một con thú hoang cũng không phụ lòng, lập tức nhảy qua đầu bầy chó săn, co giò chạy, bầy chó lập tức hùng hổ vừa sủa vừa đuổi theo.
    Chó săn chạy rất nhanh, Trương Vô Kỵ chỉ chạy được mươi trượng là chúng đã đuổi kịp. Y nghe đùi đau nhói, đã bị một con chó cắn trúng, giữ rịt lại không nhả. Y quay lại xuất tận toàn lực đánh một chưởng, trúng ngay đầu con chó văng đi mấy vòng, nằm chết ngất. Những con chó còn lại lập tức xông lên.
    Trương Vô Kỵ tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Tay y đau chưa khỏi hẳn nên bên trái không cử động được, chẳng bao lâu đã bị một con chó cắn phải, rồi bốn bề tám hướng bầy chó xông vào cắn loạn xạ, đầu mặt vai lưng chỗ nào cũng bị răng của chúng ngoặp vào. Trong cơn hoảng hốt, dường như có nghe mấy tiếng người thanh thoát kêu la, nhưng xem chừng ở xa lắm, mắt y tối sầm, rồi không còn biết gì nữa.
    Trong cơn hôn mê, y thấy vô số sài lang hổ báo xông tới cắn, muốn há mồm kêu, nhưng không thốt ra được tiếng nào, bỗng nghe có tiếng người nói:
    - Bớt nóng rồi, may ra không chết.
    Trương Vô Kỵ mở mắt ra, vật đầu tiên y nhìn thấy là một ngọn đèn vàng vọt, mới biết mình đang nằm trong một căn phòng nhỏ, một hán tử trung niên đứng ngay trước mặt. Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Đại … đại thúc … sao tôi … Chỉ nói được vài tiếng, thấy toàn thân đau nhức như phải bỏng, bấy giờ mới từ từ hồi tưởng lại, mình đã bị một bầy chó dữ xông vào xâu xé. Hán tử đó nói:
    - Tiểu tử, ngươi mạng lớn lắm, không chết đâu, thấy thế nào? Có đói không?
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Tôi … tôi đang ở đâu thế?
    Lúc ấy các vết thương lại đau tấy lên, bất tỉnh lần nữa.
    Lần thứ hai y tỉnh lại, gã trung niên hán tử đó không còn trong phòng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ta không sống được lâu, sao lại chịu biết bao nhiêu là dày vò thế này?” Cúi đầu xuống nhìn thấy trên ngực dưới cổ, bắp tay, đùi vế chỗ nào cũng toàn là băng vải, mùi thuốc xông lên ngạt mũi, thì ra có ai đó bó thuốc vào các vết thương. Từ các mùi dược thảo, biết người nào đó trình độ dùng thuốc kém cỏi, trong các dược vật có hạnh nhân, mã tiền tử, phòng phong, nam tinh các vị thuốc trị chó dại cắn. Thuốc này để trừ nọc độc cũng khá linh hiệu, thế nhưng cắn y không phải chó dại, chỉ cân cốt cơ nhục bị tổn thương, thuốc không đúng bệnh, càng thêm đau đớn. Y không cách nào dậy được, đợi đến trời sáng người trung niên hán tử kia lại đến thăm.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đại thúc, đa tạ chú đã cứu tôi.
    Hán tử đó nói:
    - Đây là Hồng Mai sơn trang, tiểu thư của chúng tôi cứu cậu đó. Cậu có đói chưa?
    Nói xong đi ra bưng một tô cháo lớn đem vào. Trương Vô Kỵ ăn mấy thìa, thấy ngực nặng chình chịch, đầu váng mắt hoa, không ăn thêm được nữa.
    Cứ như thế tám ngày liền, mới gượng dậy nhưng chân bông bênh không có hơi sức. Y biết mình mất máu quá nhiều, nhất thời chưa thể hồi phục. Hán tử đó mỗi ngày đem cơm, thay thuốc cho y, rõ ràng có vẻ miễn cưỡng, phiền toái. Trương Vô Kỵ mười phần cảm kích, nhưng vì y không được vui, nên trong bụng biết bao nhiêu điều nghi nan cũng không dám mở miệng hỏi. Hôm đó y thấy gã này mang lại nào là phòng phong, nam tinh các loại dược vật đã tán quết thành hồ, Trương Vô Kỵ nhịn không nổi nói:
    - Đại thúc, các loại thuốc này trị không đúng bệnh, phiền chú đổi giùm tôi mấy vị khác có được không?
    Gã hán tử đó trừng mắt lườm y chăm chăm hồi lâu mới nói:
    - Toa thuốc này lão gia kê đơn, lại còn sai được ư? Ngươi bảo thuốc không đúng bệnh, thế sao ngươi chết đi mà lại sống lại được? Ta nói thực, trẻ con không nên nói năng bậy bạ, lão gia nghe thấy thể nào cũng giận, ngươi cũng phải biết điều một chút.
    Nói xong lấy dược hồ đắp lên các vết thương, Trương Vô Kỵ chỉ còn có nước gượng cười mà chịu. Gã hán tử đó nói tiếp:
    - Ta xem ngươi thương thế đã bớt nhiều rồi, nên đến gặp lão gia, thái thái, tiểu thư khấu đầu tạ ơn cứu mạng.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Chuyện đó nên lắm, nhờ đại thúc dẫn tôi đi.
    Hán tử đó đưa y ra khỏi căn phòng, qua một hành lang dài, lại qua thêm hai sảnh đường nữa, đến một căn phòng ấm áp. Lúc đó trời đã đầu mùa đông, một giải Côn Lôn trời lạnh ngắt, nhưng căn noãn các này ấm áp như ở mùa xuân, không biết lửa đốt nơi đâu. Trong phòng trần thiết huy hoàng xán lạn, ghế giường đều trải nệm may bằng gấm mềm. Trương Vô Kỵ từ trước tới nay chưa vào một căn phòng nào phú lệ sang trọng đến thế, thấy mình y phục dơ dáy, đứng trong căn noãn các này thật chẳng xứng chút nào, không khỏi tự thẹn mình ô uế.
    Căn phòng đó không có ai cả, nhưng hán tử đó thần sắc hết sức cung kính, khom lưng bẩm báo:
    - Thằng bé bị chó cắn đã khỏe rồi, nay đến khấu đầu trước lão gia, thái thái tạ ơn.
    Y nói xong mấy câu, đứng thẳng tay chờ, đến hơi thở cũng không dám thở mạnh. Qua một lúc lâu, thấy đằng sau bức bình phong có một thiếu nữ chừng mười lăm, mười sau tuổi đi ra, liếc xéo Trương Vô Kỵ một cái, nói:
    - Kiều Phúc, lại ông nữa, sao lại mang thằng nhỏ này tới đây? Lỡ chấy rận trên người nó nhảy ra thì làm thế nào?
    Kiều Phúc đáp:
    - Dạ phải, dạ phải.
    Trương Vô Kỵ vốn đã bối rối phập phồng, nay nghe nói thế, mặt đỏ bừng, ngoài bộ quần áo trên người y đâu có y phục nào khác mà thay đổi, quả thực sinh đầy chấy rận, vị tiểu thư này nói không sai. Cô gái đó mặt trái xoan, tóc xõa xuống vai, mặc không biết loại lụa là gấm vóc gì mà lấp lánh phát quang, tay đeo vòng vàng, người ăn mặc sang cả như thế trước nay y chưa gặp bao giờ. Vô Kỵ nghĩ thầm: “Khi ta bị bầy chó vây cắn, hình như có tiếng một người con gái quát chúng buông tha ra, Kiều Phúc đại thúc lại nói là tiểu thư của ông ta cứu mình, vậy mình nên rập đầu tạ ơn cho phải”. Nghĩ thế bèn quì xuống khấu đầu, nói:
    - Đa tạ tiểu thư ra tay cứu, suốt đời tôi không dám quên đại ân này.
    Thiếu nữ nọ ngạc nhiên, cười khúc khích, nói:
    - Này bác Kiều Phúc, nó làm trò gì thế? Bác tính đùa rỡn thằng ngốc này đấy ư?
    Kiều Phúc cười đáp:
    - Tiểu Phượng tỉ tỉ, thằng ngốc này quì lạy cô mấy cái, không dám nhận hay sao. Thằng bé đần độn chưa bao giờ ra ngoài đời, thấy cô lại tưởng là tiểu thư. Nói đúng ra, dù cho con hầu đầy tớ trong nhà này, so với thiên kim tiểu thư nhà khác còn tôn quí hơn nhiều.
    Trương Vô Kỵ kinh hoảng, vội vàng đứng dậy, nghĩ thầm: “Chết rồi, hóa ra thị chỉ là một con hầu, vậy mà mình lại tưởng là tiểu thư”. Mặt y vừa đỏ vùa trắng, thẹn thùng không biết để đâu cho hết.
    Tiểu Phượng cố nhịn cười, nhìn Vô Kỵ từ đầu đến chân để đánh giá. Trên mặt mũi thân thể của y vết máu chưa rửa sạch, lốt chó cắn thì buộc đầy băng vải, biết mình hôi hám khó coi, giận dưới đất sao không có cái lỗ nào để chui xuống. Tiểu Phượng giơ tay che mũi nói:
    - Lão gia thái thái đang bận, không đến chào được, chỉ có tiểu thư thôi.
    Nói xong vòng ra xa xa, đi trước dẫn đường, sợ chấy rận trong người Trương Vô Kỵ nhảy qua mình. Trương Vô Kỵ đi theo Kiều Phúc và Tiểu Phượng, trên đường gặp tì bộc gia nhân ai nấy đều phục sức đẹp đẽ, lầu son gác tía chỗ nào cũng thật là sang trọng. Y từ lúc sinh ra đến khi lên mười sống ở Băng Hỏa đảo, mấy năm sau thì một nửa ở trên núi Võ Đương, một nửa sống tại Hồ Điệp Cốc, ăn uống sinh hoạt hết sức giản phác, dù có nằm mơ cũng không bao giờ tưởng tượng nổi trên đời này lại có một gia đình giàu có đến thế.
    Đi một hồi đến trước một tòa đại sảnh, thấy tấm biển viết ba chữ Linh Ngao Doanh. Tiểu Phượng vào trong sảnh trước, một lúc sau đi ra vẫy tay, Kiều Phúc liền đưa Trương Vô Kỵ vào.
    Trương Vô Kỵ vừa đến cửa không khỏi giật mình. Y thấy trong sảnh ba chục con chó to khỏe hung dữ, chia thành ba hàng ngồi dưới đất, một thiếu nữ mặc áo hồ cừu toàn trắng ngồi trên một chiếc ghế lót da hổ, tay cầm roi da, cất giọng trong trẻo quát:
    - Tiền tướng quân, yết hầu.
    Một con mãnh khuyển liền nhảy vọt tới, cắn ngay vào cổ họng một người đứng bên tường. Trương Vô Kỵ thấy tình cảnh tàn nhẫn đó, nhịn không nổi kêu lên “Ôi chao” một tiếng, thấy con chó ngoạm được một miếng thịt, đứng dưới đất xé ăn. Y vừa định thần, nhìn rõ người này chỉ là một hình nhân làm bằng da, chung quanh thân mình những chỗ yếu hại treo đầy những miếng thịt. Nữ lang đó lại quát:
    - Xa Kỵ tướng quân, bụng dưới.
    Một con chó khác liền nhảy ra xông lên táp vào bụng của bù nhìn. Những con chó đó được huấn luyện có qui củ, theo lệnh mà cắn vào bộ vị không sai sẩy chút nào. Trương Vô Kỵ sau phút sửng sốt, lập tức nhận ra, chính bầy ác khuyển hôm đó cắn mình ở trong núi, nay nhớ lại, người quát tháo đàn chó chính là tiếng cô gái này. Y vẫn nghĩ tiểu thư là ân nhân cứu mạng, lúc này mới biết mình bị biết bao khổ sở chính là do cô ta gây nên, nhịn không nổi nộ khí xông lên, nghĩ thầm: “Không xong, không xong, cô nàng có bọn chó săn, ta không thể làm gì được. Nếu sớm biết như thế này, thà chết trong hoang sơn còn hơn là ở tại nhà cô ta dưỡng thương”. Y liền cởi hết dây băng vải, vứt xuống đất, quay mình bước đi.
    Kiều Phúc kêu lên:
    - Ê, ê, ngươi làm trò gì thế? Đây chính là tiểu thư, sao không tiến lên khấu đầu?
    Trương Vô Kỵ giận dữ đáp:
    - Hứ, ta phải tạ ơn cô ta ư? Bọn ác khuyển cắn ta, chẳng phải là chó cô ta nuôi hay sao?
    Nữ lang nọ quay đầu lại, thấy y đang nổi cáu, liền nhoẻn một nụ cười, vẫy tay gọi:
    - Tiểu huynh đệ, ngươi lại đây.
    Trương Vô Kỵ lúc này đối diện với nàng, tim đập thình thịch không dứt. Cô ta dung nhan kiều mị, da dẻ trắng trẻo mịn màng. Tai y lập tức ù đi, mồ hôi trên lưng chảy xuống, chân tay không khỏi hơi run rẩy, vội cúi đầu xuống không dám nhìn, khuôn mặt xanh xao không một chút huyết sắc nay đỏ bừng.
    Cô gái cười nói:
    - Cậu lại đây nào.
    Trương Vô Kỵ ngửng đầu liếc nàng một cái, gặp phải làn thu ba long lanh, lòng mơ mơ hồ hồ, tự nhiên từ từ di động tới. Cô gái lại mỉm cười:
    - Tiểu huynh đệ, cậu giận tôi, có phải không nào?
    Trương Vô Kỵ bị bầy chó cắn xé chịu biết bao đau khổ, lẽ nào không căm tức? Thế nhưng bây giờ đứng trước mặt nàng, cảm thấy hơi thở nàng tỏa ra một mùi thơm như hoa lan, từng lớp từng lớp u hương phả đến, khiến y ngất ngây, làm sao còn nói lên được một chữ "giận", lập tức lắc đầu nói:
    - Không đâu.
    Cô gái đó nói:
    - Tôi họ Chu, tên Cửu Chân, còn cậu tên gì?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi tên Trương Vô Kỵ.
    Chu Cửu Chân nói:
    - Vô Kỵ, Vô Kỵ. Ồ, cái tên đó thật là cao nhã, chắc tiểu huynh đệ phải là con nhà thế gia. Thôi, cậu ngồi ở đây đi.
    Nói xong nàng chỉ một cái ghế thấp bên cạnh. Trương Vô Kỵ từ khi cha sinh mẹ đẻ tới giờ, đây là lần đầu bị rơi vào cái ma lực kinh tâm động phách của mỹ nhân, lúc này Chu Cửu Chân có bảo y nhảy vào hầm lửa, chắc cũng không do dự nhảy ngay, thấy nàng bảo ngồi bên cạnh, thực là hoan hỉ không để đâu cho xiết, lập tức rón rén ngồi xuống.
    Tiểu Phượng và Kiều Phúc thấy tiểu thư biệt đãi thằng nhỏ vừa dơ dáy, vừa hôi hám ấy như thế, đều không thể nào hiểu nổi. Chu Cửu Chân lại thánh thoát quát:
    - Chiết Xung tướng quân, tâm khẩu.
    Một con chó lớn khác lại nhào ra, táp vào hình nộm kia. Thế nhưng miếng thịt ở tâm khẩu của hình nhân đã bị con chó khác ăn mất rồi, con chó liền đớp luôn miếng thịt khác treo ở dưới mạng sườn, ăn luôn. Chu Cửu Chân giận dữ nói:
    - Đồ tham ăn, mi không nghe lệnh hả?
    Nàng cầm roi da, quất liền hai cái vút vút. Cái roi đó có đầy gai nhọn nên khi đánh ra để lại trên lưng con vật hai đường máu dài. Con chó vẫn chưa chịu nhả miếng thịt, trái lại gầm gừ thị uy. Chu Cửu Chân quát lớn:
    - Mi vẫn không nghe?
    Trường tiên lại vung ra, đánh con chó lăn lộn dưới đất, trên thân chỗ nào cũng có máu chảy. Nào đánh roi thủ pháp linh hoạt, dù cho con chó có lăn lộn né tránh cách nào, vẫn không tránh được. Sau cùng con chó phải bỏ miếng thịt, nằm phục dưới đất bất động, chỉ còn rên ư ử. Thế nhưng Chu Cửu Chân nào đã tha, tiếp tục đánh đến khi con vật chỉ còn thoi thóp mới nói:
    - Kiều Phúc, đem nó xuống bó thuốc.
    Kiều Phúc đáp lời:
    - Tuân lệnh tiểu thư.
    Y liền ôm con chó bị thương ra khỏi sảnh, giao cho người đầy tớ chuyên lo việc nuôi chó lo liệu việc chữa trị. Bầy chó thấy tình cảnh đó, con nào con nấy sợ đến mất vía, không dám nhúc nhích.
    Chu Cửu Chân trở lại ghế ngồi, quát:
    - Bình Khấu tướng quân, đùi trái. Uy Viễn tướng quân, tay phải. Chinh Đông tướng quân, mắt.
    Từng con chó nhảy ra theo đúng lệnh truyền mà cắn, không con nào sai bộ vị. Mấy chục con chó, con nào cũng được phong làm tướng quân, nàng chỉ huy tất cả, đương nhiên trở thành đại nguyên soái.
    Chu Cửu Chân quay đầu lại mỉm cười:
    - Tiểu huynh đệ coi mấy con súc sinh này có hèn không? Không cho một trận đòn thì không chịu nghe lời.
    Trương Vô Kỵ tuy bị bầy chó cắn cho một trận thật khốn khổ, nhưng khi chứng kiến thảm trạng con chó bị đòn, trong bụng không khỏi chạnh lòng. Chu Cửu Chân thấy y không nói năng gì, cười hỏi:
    - Cậu nói cậu không giận tôi, sao không trả lời? Cậu làm sao mà đến được Tây Vực? Cha mẹ cậu đâu?
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, mình lênh đênh thế này, nếu đề cập đến tên tuổi thái sư phụ và cha mẹ, không khỏi làm nhục đến ông cha, nên nói:
    - Cha mẹ tôi đều đã mất cả, ở trung nguyên không sống nổi, nên bỏ xứ đi lang thang đến nơi này.
    Chu Cửu Chân cười nói:
    - Tôi bắn con khỉ, ai bảo cậu dấu nó vào trong bụng làm gì, bụng đói quá nên định ăn thịt khỉ, có phải không nào? Đâu có ngờ chó của tôi lại xông vào cắn xé cho tan tành như thế.
    Trương Vô Kỵ đỏ mặt, liên tiếp lắc đầu, nói:
    - Tôi không định ăn thịt con khỉ đâu.
    Chu Cửu Chân lại cười:
    - Cậu ở trước mặt tôi, phải ngoan ngoãn không được chối quanh nghe chưa.
    Nàng chợt nghĩ ra một chuyện, hỏi thêm:
    - Cậu học võ gì thế? Đánh một chưởng mà vỡ đầu con Tả tướng quân của tôi chết tươi, chưởng lực không phải nhẹ.
    Trương Vô Kỵ nghe nói mình đánh chết con chó yêu quí của cô ta, không khỏi ân hận, nói:
    - Lúc đó tôi kinh hoảng, ra tay có lẽ hơi nặng. Hồi còn bé tôi cha tôi có dạy đôi ba năm quyền cước, nhưng có biết võ công gì đâu.
    Chu Cửu Chân gật đầu, nói với Tiểu Phượng:
    - Ngươi đem y xuống tắm rửa, thay quần áo đi.
    Tiểu Phượng bĩu môi nói:
    - Vâng.
    Rồi dẫn y ra ngoài. Trương Vô Kỵ quyến luyến không muốn rời, đến cửa sảnh, nhịn không nổi quay đầu lại nhìn cô ta một cái, nào ngờ chính lúc đó Chu Cửu Chân cũng nhìn y, hai mắt gặp nhau nàng liền long lanh khóe thu ba, nở một nụ cười. Trương Vô Kỵ thẹn đến chân tóc cũng đỏ bừng, hồn vía đâu đâu, không nhìn thấy bậc cửa, vấp một cái ngã bổ tới trước. Y khắp người đâu cũng đầy vết thương, nay ngã nhào, mấy chỗ đau nhói, nhưng không dám kêu, vội lồm cồm đứng dậy. Tiểu Phượng cười khúc khích nói:
    - Gặp tiểu thư nhà ta, ai ai cũng thần hồn điên đảo. Không ngờ ngươi còn bé mà cũng đã gớm thế đấy.
    Trương Vô Kỵ quýnh quíu, liền rảo bước đi trước. Đi được một lúc, Tiểu Phượng lại cười:
    - Ngươi đến phòng bà chủ để tắm rửa, thay quần áo ư?
    Trương Vô Kỵ đứng lại nhìn kỹ, quả nhiên thấy căn phòng trước mặt rèm thêu trướng rủ, nơi này chưa từng đến bao giờ, hóa ra y lạng quạng nên đã đi lạc đường. Con a đầu Tiểu Phượng là đứa láu lỉnh, không nói trước, đợi đến khi y đi nhầm chỗ rồi bấy giờ mới ra lời chọc ghẹo. Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, cúi đầu không nói năng, Tiểu Phượng nói:
    - Ngươi gọi ta một câu “Tiểu Phượng tỉ tỉ, xin chị cứu tôi” thì ta sẽ dẫn ngươi đi ra.
    Trương Vô Kỵ ấp úng:
    - Tiểu Phượng tỉ tỉ … Tiểu Phượng giơ ngón tay lên má, giả vờ nghiêm nghị hỏi:
    - Hừ, ngươi gọi gì ta?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Xin chị cứu tôi, dẫn tôi ra.
    Tiểu Phượng cười:
    - Thế thì được rồi.
    Con bé liền dẫn Vô Kỵ quay trở lại căn phòng nhỏ của y, nói với Kiều Phúc:
    - Tiểu thư dặn là cho nó đi tắm rửa, thay một bộ quần áo sạch sẽ.
    Kiều Phúc vội vàng đáp:
    - Vâng, vâng.
    Lời lẽ tỏ ra hết sức cung kính, xem ra Tiểu Phượng tuy cũng chỉ là một đứa a hoàn, nhưng vai vế cao hơn những tì bộc khác. Năm sáu tên đầy tớ liền tiến lên, đứa này chào một câu “Tiểu Phượng tỉ tỉ”, đứa kia chào một câu “Tiểu Phượng tỉ tỉ”. Tiểu Phượng không thèm để ý tới họ, bất ngời quay lại vái Trương Vô Kỵ một cái. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:
    - Cô … sao lại … Tiểu Phượng cười đáp:
    - Lúc trước ngươi khấu đầu lạy ta, bây giờ ta hoàn lễ.
    Nói xong cô nàng thoăn thoắt về phòng. Kiều Phúc bèn đem chuyện Trương Vô Kỵ nhận lầm Tiểu Phượng là tiểu thư nên khấu đầu chào nàng ra kể lại, lại thêm dầu thêm mỡ nghe thật khôi hài, khiến bọn đầy tớ cười như chợ vỡ. Trương Vô Kỵ lủi thủi vào phòng, nhưng không nổi giận, ôn lại tất cả từ nét cười, lời nói của tiểu thư lúc nãy để nhấm nháp cái thú vui được gặp nàng.
    Y đi tắm rửa xong, thấy bộ quần áo Kiều Phúc đem đến cho mình thay là loại vải xanh may thẳng, dùng cho đầy tớ, trong bụng phẫn nộ: “Ta đâu có phải là loại nô bộc hạ lưu sao lại đưa cho ta mặc loại y phục này?”. Y bèn lấy lại bộ quần áo cũ rách của mình mặc vào, nhưng thấy những chỗ rách to, trơ xương hở thịt, nghĩ thầm: “Tiểu thư thể nào cũng gọi ta lên hỏi chuyện, thấy mình ăn mặc rách rưới dơ bẩn thế này, ắt sẽ không vui. Thực ra nếu mình có phải làm đầy tớ cho nàng chăng nữa, để nàng sai bảo thì có gì đâu mà không được”. Y nghĩ thế thấy lòng thản nhiên, liền mặc bộ quần áo đầy tớ vào.
    Nào ngờ không chỉ một ngày tiểu thư chẳng cho gọi y, hơn mười ngày sau, con a hoàn Tiểu Phượng cũng không ghé đến, đừng nói gì cô chủ. Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn, nhớ đến nét mặt, thanh âm, nụ cười kiều mị của Chu Cửu Chân mà cả đến lúc nàng dữ tợn đánh con chó, trông cũng khả ái. Y mong có thể đến hậu viện, đứng xa xa nhìn nàng một cái, nghe nàng nói chuyện với ai cũng được, nhưng Kiều Phúc đã dặn đi dặn lại mấy lần, nếu không được chủ nhân gọi đến, không được bước qua khỏi cổng, nếu không sẽ bị bầy chó xông ra cắn xé. Trương Vô Kỵ nghĩ đến bầy chó hung dữ, tuy trong bụng muốn lắm nhưng vẫn không dám héo lánh đến hậu viện.
    Lại thêm hơn một tháng nữa, xương cánh tay của y đã liền như cũ, các vết chó cắn nay cũng lành, nhưng tên cánh tay, trên đùi vẫn còn nhiều vết sẹo để lại không thể nào hết được, nhưng nghĩ đến đây là những vết răng của bầy chó yêu của tiểu thư, y lại thấy lòng rộn ràng trìu mến. Đến hồi này, hàn độc trong người y cứ mấy ngày lại phát tác một lần, lần sau lại càng tệ hại hơn lần trước.
    Hôm đó y bị lên cơn hàn độc, nằm co trên giường, lấy chăn chùm chặt, toàn thân run bần bật. Kiều Phúc vào phòng thấy thế đã quen nên không lấy làm lạ, nói:
    - Bao giờ ngươi hết cơn, húp một bát cháo hổ lốn[2] là khỏi. Còn đây là quần áo mới thái thái ban cho dịp năm mới.
    Nói xong y để một cái bao trên bàn. Trương Vô Kỵ cắn răng chịu đến quá nửa đêm cơn hàn độc mới từ từ bớt dần, ngồi dậy mở chiếc bao ra xem, thấy có một chiếc áo da mới may, bên trong lót bằng lông cừu dày trắng, trong bụng mừng thầm. Loại áo da này may cùng một loại cho các đồng bộc, xem như có vẻ họ Chu coi y như đầy tớ thật rồi. Trương Vô Kỵ tính tình hiền lành, cũng chẳng lấy gì làm khó chịu, nhưng không khỏi xót xa, nghĩ thầm: “Không ngờ ta đã ở đây hơn một tháng rồi, chớp mắt đã qua năm mới. Hồ tiên sinh bảo ta chỉ sống được một năm, qua Tết này, ta không còn thấy cái Tết thứ hai nào nữa".
    Những nhà giàu có khi đến năm cùng tháng tận, lại càng có cái khí tượng tưng bừng. Bọn gia nhân hối hối hả hả, kẻ quét vôi, người sơn cửa, giết heo giết dê nhộn nhịp. Trương Vô Kỵ phụ Kiều Phúc một tay làm việc tạp dịch, chỉ mong chóng đến Tết, sẽ gặp lão gia, thái thái, tiểu thư rập đầu chúc tết, được gặp lại Chu Cửu Chân, được nhìn nàng một lần, rồi sẽ lặng lẽ bỏ đi thật xa, vào nơi rừng sâu núi thẳm tự tìm nơi an nghỉ, hơn là ngày ngày tụm năm tụm ba cùng bọn Kiều Phúc.
    Trong tiếng pháo trúc rền vang, đã đến ngày tết Nguyên Đán. Trương Vô Kỵ đi theo Kiều Phúc đến đại sảnh để chúc tết chủ nhân. Chỉ thấy một đôi vợ chồng trung niên diện mục thanh tú ngồi trong đại sảnh, bảy tám chục người đầy tớ cùng quì dưới đất. Hai người đó cười khì khì nói:
    - Tất cả các anh em vất vả quá.
    Hai người quản gia đứng bên phân phát tiền lì xì, Trương Vô Kỵ cũng được hai nén bạc. Y không thấy tiểu thư trong lòng mười phần thất vọng, tay cầm hai đĩnh bạc mà lòng phập phồng, bỗng nghe một giọng kiều mị từ ngoài cửa vọng vào:
    - Biểu ca[3], năm nay anh sang sớm nhỉ.
    Chính là tiếng của Chu Cửu Chân. Có tiếng đàn ông cười nói:
    - Sang chúc tết cậu mợ không lẽ lại đi trễ sao?
    Trương Vô Kỵ trong lòng bồi hồi, trái tim dường như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài, mồ hôi đổ đầy hai lòng bàn tay. Y trông ngóng hơn hai tháng nay, bây giờ mới lại được nghe giọng nói của Chu Cửu Chân, bảo sao không khỏi hồn vía lên mây? Lại nghe tiếng một thiếu nữ khác cười:
    - Mới sáng sớm sư ca đã xăm xăm đi đi qua, chẳng biết đi chúc tết hai vị tôn trưởng, hay là đi chúc tết biểu muội nữa?
    Họ còn đang nói chuyện đã thấy ba người tiến vào sảnh môn, đám gia nhân voại vàng đứng tránh qua, còn Trương Vô Kỵ ngơ ngơ ngẩn ngẩn như trời trồng, mãi khi Kiều Phúc kéo mạnh một cái, mới dạt qua một bên.
    Trong ba người thì người đi giữa là một thanh niên, Chu Cửu Chân đi ở bên trái, mặc áo điêu cừu toàn hồng, màu đỏ ánh lên càng làm cho khuôn mặt nàng thêm kiều diễm không bút mực nào tả nổi. Bên kia của thanh niên là một cô gái khác. Từ khi Chu Cửu Chân tiến vào trong đại sảnh rồi, Vô Kỵ nhìn nàng không chớp mắt, cũng chẳng xem đôi thanh niên nam nữ kia đẹp xấu thế nào, mặc áo đỏ hay xanh. Hai người chúc tết gia chủ những gì, nói qua nói lại ra sao, y mắt mở trừng trừng mà không thấy gì cả, nghe tai này qua tai kia, trong mắt chỉ thấy một mình Chu Cửu Chân.
    Thực ra y tuổi còn nhỏ, chuyện tình ái nam nữ nào đã biết gì, nhưng mỗi người trên đời, lần đầu gặp một người xinh đẹp, ai chẳng thần hồn điên đảo, như si như ngốc, Trương Vô Kỵ thì cũng thế thôi. Huống chi Chu Cửu Chân dung nhan diễm lệ, trong khi vào cảnh nguy nan gặp phải nên không giữ nổi lòng say mê, y chỉ cần được nhìn nàng một lần, nghe nàng nói một câu cũng đã sung sướng vô cùng.
    Vợ chồng chủ nhân cùng ba thanh niên nam nữ nói chuyện một hồi, Chu Cửu Chân nói:
    - Ba, má, con đi dạo chơi với biểu ca và Thanh muội nhé.
    Trong thanh âm có ba phần trẻ con nhõng nhẽo. Hai vợ chồng trang chủ mỉm cười gật đầu. Chu phu nhân cười nói:
    - Chân nhi phải ăn nói nhỏ nhẹ với Võ gia muội tử, ba anh em mồng một Tết không được cãi nhau nghe chưa?
    Chu Cửu Chân cười:
    - Má, sao má không dặn biểu ca, bảo anh ấy đừng ăn hiếp con.
    Ba người vừa cười đùa nói chuyện vừa đi ra lối hậu viện. Trương Vô Kỵ không tự chủ được, lẽo đẽo đi theo ở đằng xa. Hôm đó ngày Tết nên ai muốn làm gì thì làm, đi chơi cũng được, đánh bạc cũng được, không ai nói gì y cả.
    Bấy giờ Trương Vô Kỵ mới nhìn kỹ, thanh niên kia dung mạo anh tuấn, cao ráo hiên ngang, tuy ở vào thời tiết đại hàn nhưng cũng chỉ mặc một chiếc áo gấm đoạn mỏng màu vàng, rõ ràng nội công không phải là kém. Thiếu nữ kia mặc điêu cừu màu đen, thân hình mảnh dẻ, cử chỉ ngôn ngữ thật là nhu mì, tướng mạo so với Cửu Chân cũng chẳng kém gì, nhưng dưới mắt Vô Kỵ, tiểu thư thật như tiên trên trời nàng ta không sao sánh kịp. Cả ba người đều khoảng mười bảy, mười tám tuổi.
    Ba người vừa nói chuyện vừa đùa rỡn, đi về phía dãy nhà sau. Thiếu nữ kia nói:
    - Chị Cửu Chân, công phu Nhất Dương Chỉ của chị luyện đã thêm được hai tầng chưa? Biểu diễn cho em xem một chút được không nào?
    Chu Cửu Chân nói:
    - Ối chao, tài nghệ của em lại không hơn chị hay sao? Dù chị có luyện thêm mười năm nữa, cũng làm sao chịu nổi một cái phẩy tay của môn Lan Hoa Phất Huyệt Thủ nhà họ Võ.
    Thanh niên kia liền cười:
    - Hai cô đừng có khiêm tốn nữa, tên tuổi vang lừng của Tuyết Lĩnh Song Chu[4] có ai chẳng biết là ghê gớm.
    Chu Cửu Chân nói:
    - Tiểu muội ở nhà luyện một mình, làm sao tiến bộ nhanh được bằng hai người có sư huynh sư muội tập chung với nhau? Hai người hôm nay đối luyện, ngày mai tập dợt, một ngày chẳng tiến xa hàng nghìn dặm ư?
    Thiếu nữ nọ thấy Chu Cửu Chân có vẻ so kè, nhếch mép cười, không trả lời, lại càng tỏ ra mặc nhiên thừa nhận. Thanh niên kia sợ Chu Cửu Chân bực mình, vội nói:
    - Cái đó chưa hẳn như vậy, Chân muội có hai vị sư phụ, cậu và mợ cùng dạy cho, chắc chắn giỏi hơn hai người chúng ta rồi.
    Chu Cửu Chân hậm hực nói:
    - Chúng ta, chúng ta mãi. Hứ, sư muội chắc chắn phải thân hơn biểu muội rồi. Em nói chuyện chơi với Thanh muội, biểu huynh nhất định phải nhảy vào bênh mới xong.
    Nói xong quay qua chỗ khác làm mặt giận lẫy. Thanh niên kia cười làm lành:
    - Biểu muội thân mà sư muội cũng thân, lòng bàn tay là thịt mà lưng bàn tay cũng là thịt, không phân biệt chỗ này chỗ khác. Biểu muội dẫn bọn ta đi xem những thủ môn đại tướng quân của em, liệu có được chăng? Những tướng quân đó do em huấn luyện nhất định là càng ngày càng lợi hại.
    Chu Cửu Chân lại cao hứng, nói:
    - Được chứ.
    Vội vàng đi trước dẫn họ đến Linh Ngao Doanh. Trương Vô Kỵ đi theo xa xa, thấy ba người cười cười nói nói, không biết họ nói gì, nên cũng đi theo vào nơi tập chó.
    Thì ra Chu Cửu Chân là con cháu của Chu Tử Liễu. Thiếu nữ kia họ Võ tên là Võ Thanh Anh, là hậu nhân của Võ Tam Thông, thuộc dòng Võ Tu Văn. Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu đều là đệ tử của Nhất Đăng đại sư, võ công vốn cùng một mối mà ra. Thế nhưng sau một trăm năm truyền xuống mấy đời, hai nhà đều có thêm bớt biến hóa. Hai anh em Võ Đôn Nho, Võ Tu Văn bái đại hiệp Quách Tĩnh làm sư phụ, tuy cũng học qua Nhất Dương Chỉ, nhưng võ công lại nghiêng về loại cương mãnh của Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công hơn[5]. Thanh niên kia tên Vệ Bích là anh con cô con cậu với Chu Cửu Chân, người đã anh tuấn, tính tình lại ôn nhu hòa thuận, cả hai nàng Chu Cửu Chân và Võ Thanh Anh đều thầm có lòng quyến luyến.
    Chu Võ hai nàng tuổi tác cũng ngang nhau, đều cùng xinh đẹp, xuân lan thu cúc, mỗi người một vẻ, võ học gia truyền cũng không bên nào dưới bên nào, mấy năm trước được giới võ lâm trong dãy Côn Lôn hợp xưng là Tuyết Lĩnh Song Chu. Hai cô gái vẫn ngầm tranh nhau, Vệ Bích không biết thương bên nào bỏ bên nào nên chỉ giữ nước đôi. Mỗi khi ba người ở gần nhau, ngoài mặt ra điều khách sáo nhưng hai cô thể nào cũng nói cạnh nói khóe, không ai nhường ai. Tuy nhiên Võ Thanh Anh kín đáo hơn, lại được cùng Vệ Bích đồng môn học nghệ, sớm tối gặp nhau, có lợi thế hơn Chu Cửu Chân nhiều.
    Chu Cửu Chân ra lệnh cho những cẩu bộc trông coi việc nuôi chó thả chúng ra. Những con chó theo lệnh mà thi hành, không con nào dám sai trái, Vệ Bích khen ngợi không tiếc lời, Chu Cửu Chân rất lấy làm đắc ý. Võ Thanh Anh nhếch môi cười:
    - Sư ca, sau này anh sẽ là Quán Quân, hay là Phiêu Kỵ[6]?
    Vệ Bích ngạc nhiên, hỏi:
    - Sư muội nói gì?
    Võ Thanh Anh nói:
    - Sư ca chịu nghe lời Chị Cửu Chân lắm, thể nào chị ấy chẳng phong cho anh một chức Quán Quân tướng quân hay Phiêu kỵ tướng quân. Có điều phải coi chừng ngọn roi da mới được.
    Khuôn mặt tuấn mỹ của Vệ Bích đỏ bừng, trong lông mày nhuốm vẻ bực dọc, hừ một tiếng, nói:
    - Chỉ nói nhăng cuội, sư muội mắng ta là chó đấy ư?
    Võ Thanh Anh mỉm cười:
    - Các tướng quân vẫy đuôi nịnh nọt, hầu hạ dưới bàn phấn của mỹ nhân, thích thú biết bao, có gì là không phải?
    Chu Cửu Chân phật ý nói:
    - Biểu ca là con chó, không biết sư muội của anh là cái gì nhỉ?
    Trương Vô Kỵ nghe đến đây, nhịn không nổi cười “Ha” lên một tiếng, nhưng biết ngay là mình thất thố, vội vàng bịt miệng quay đi chỗ khác. Võ Thanh Anh tức giận cành hông, nhưng không tiện nói thẳng vào mặt Chu Cửu Chân, đứng dậy nói:
    - Chị Cửu Chân, thằng đầy tớ trong quí phủ sao phép tắc quá nhỉ. Bọn mình ngồi nói chuyện vui, thứ người thấp hèn như nó đã ngang nhiên đứng bên nghe lén, lại còn cười hô hố. Sư ca, tiểu muội về trước đây.
    Chu Cửu Chân bỗng dưng nhớ lại Trương Vô Kỵ đã từng một chưởng đánh chết Tả Tướng Quân của mình, kình lực trên tay không phải là kém, cười nói:
    - Thanh muội, cô đừng nổi giận là gì, cũng đừng coi thường thằng nhỏ đó. Công phu võ học nhà họ Võ tuy cao nhưng trong ba chiêu mà đánh ngã được “thằng nhỏ hạ tiện” đó thì ta mới thật là phục cô đó.
    Võ Thanh Anh nói:
    - Hứ, hạng người như thế có đáng để tôi ra tay không? Chị Cửu Chân, chị đừng có coi thường tiểu muội quá như thế.
    Trương Vô Kỵ nhịn không nổi lên tiếng:
    - Võ cô nương, tôi cũng có cha mẹ sinh ra, chẳng lẽ không phải con người hay sao? Hay cô là thần tiên bồ tát, công chúa nương nương gì chăng?
    Võ Thanh Anh không thèm nhìn y, quay sang Vệ Bích nói:
    - Sư ca, anh để cho thằng nhãi đó cãi lại em mà không bênh lấy một tiếng.
    Vệ Bích thấy cô sư muội xinh đẹp có dáng nhõng nhẽo, đã thấy mềm lòng, tuy không có ý phân biệt Tuyết Lĩnh Song Chu ai hơn ai kém, nhưng y biết võ công sư phụ cao siêu không biết đâu mà kể, mình mới chỉ được dạy một hai phần mười, muốn học tuyệt thế công phu, không thể không chiều lòng sư muội, nên nói với Chu Cửu Chân:
    - Biểu muội, thằng nhỏ đó võ công khá lắm phải không? Để cho ta thử nó có được không nào?
    Chu Cửu Chân biết y muốn bênh sư muội, nhưng nghĩ ra một điều: “Tiểu tử họ Trương này không biết lai lịch ra sao, để cho biểu ca ép nó phải lộ gốc gác cũng là hay lắm” liền nói:
    - - Được lắm, để y lãnh giáo một chút tuyệt học nhà họ Võ thì cũng là điều hay. Thằng nhỏ này, chính tôi cũng không biết môn phái nào đệ tử ai nữa.
    Vệ Bích lạ lùng hỏi lại:
    - Thế ra võ công của y không phải từ quí phủ sao?
    Chu Cửu Chân nói với Trương Vô Kỵ:
    - Ngươi nói cho biểu thiếu gia hay, ngươi là người của môn phái nào?
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Các ngươi khinh thường ta đến thế, nếu nói ra môn phái cha mẹ, không khỏi làm nhục đến thái sư phụ và phụ mẫu quá cố hay sao? Vả lại ta cũng chưa thực sự luyện võ công của phái Võ Đương nữa” liền nói:
    - Tôi cha mẹ chết từ khi còn nhỏ, lưu lạc giang hồ, không học qua võ công nào cả, chỉ có khi còn bé cha tôi có chỉ dạy cho chút đỉnh thôi.
    Chu Cửu Chân hỏi:
    - Thế cha ngươi tên là gì? Thuộc môn phái nào?
    Trương Vô Kỵ lắc đầu:
    - Tôi không muốn nói.
    Vệ Bích cười:
    - Không lẽ ba người mình lại không nhìn ra được hay sao?
    Y chậm rãi bước ra sân, cười nói:
    - Tiểu tử, ngươi ra đỡ của ta ba chiêu xem thử nào?
    Nói xong quay sang Võ Thanh Anh nháy mắt một cái, ý muốn nói: “Sư muội đừng buồn, để ta đánh cho thằng nhãi này một trận cho sư muội hả dạ”.
    Người đã rơi vào cái lưới tình thì dù nhất cử nhất động, một câu nói, một nụ cười của tình nhân đều không bỏ sót, cái nháy mắt của Vệ Bích Chu Cửu Chân đều thấy cả. Nàng thấy Trương Vô Kỵ không muốn ra đấu, nên ngoắc y lại gần, ghé tai y nói nhỏ:
    - Biểu ca ta võ công rất cao, ngươi không cần phải thắng y, chỉ làm sao chịu được ba chiêu, cũng đã làm cho ta nở mày nở mặt lắm rồi.
    Nói xong nàng vỗ vai y một cái, ý muốn khuyến khích. Trương Vô Kỵ biết mình không phải là địch thủ của Vệ Bích, nếu ra sân đấu với y, chỉ mang lấy cái nhục vào thân, làm trò cười cho người ta thôi. Thế nhưng đứng trước Chu Cửu Chân rồi, không khỏi mê mẩn, lại nghe nàng ta ngon ngọt dỗ dành, mùi hương thoang thoảng, còn có chủ ý thế nào được? Trong lòng y chỉ nghĩ: “Tiểu thư nhắn nhủ ta, dù gian nan hung hiểm thế nào cũng phải làm, bị vài cú đấm cú đá thì đã sao?” Y lơ mơ đi tới trước mặt Vệ Bích, đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
    Vệ Bích nói:
    - Tiểu tử, tiếp chiêu này.
    Bốp bốp hai tiếng, y đã đánh Vô Kỵ hai cái tát tai. Hai chưởng đó đánh ra thật nhanh, Trương Vô Kỵ vừa định giơ tay đỡ, mặt đã trúng rồi, hai má lập tức sưng hằn dấu bàn tay. Vệ Bích biết được y chẳng phải do nhà họ Chu truyền thụ võ công, không ngại làm bỉ mặt Chu Cửu Chân và cậu mợ, ra tay không dung tình chút nào. Thế nhưng hai chưởng đó y không sử dụng nội lực, nếu không thì đã gãy răng vỡ mặt, lăn ra bất tỉnh rồi.
    Chu Cửu Chân kêu lên:
    - Vô Kỵ, hoàn chiêu đi.
    Trương Vô Kỵ nghe thấy tiếng kêu của tiểu thư, tinh thần phấn chấn, vù một tiếng đã đánh ra một quyền. Vệ Bích nghiêng người né tránh, khen ngợi:
    - Hảo tiểu tử, cũng có một hai miếng.
    Y lắc mình nhảy qua đằng sau Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ vội vàng quay lại, nào ngờ Vệ Bích ra tay cực nhanh, đã chộp được cổ, giơ tay xách y lên, cười nói:
    - Cho ngươi té như chó ăn phân.
    Nói xong ra sức ném y xuống đất. Trương Vô Kỵ tuy đã học qua Tạ Tốn mấy năm võ công, nhưng lúc ấy tuổi còn quá nhỏ, Tạ Tốn lại chỉ bắt y nhớ khẩu quyết và chiêu số, không cốt chiến đấu thực sự, nay gặp một danh môn đệ tử như Vệ Bích, chân tay luống cuống, không thi triển được chút nào. Y bị Vệ Bích ném ra, đang toan giơ tay đỡ nhưng không kịp nữa, nghe bình một tiếng, trán và mũi đã giáng xuống sàn, máu tươi chảy ra tung tóe.
    Võ Thanh Anh vỗ tay khen ngợi, cười khanh khách, nói:
    - Chị Cửu Chân, võ công nhà họ Võ xem có được không?
    Chu Cửu Chân vừa thẹn vừa tức, nếu nói công phu Võ gia không hay, ắt sẽ đắc tội với Vệ Bích, nếu nói là giỏi, hóa ra lại thua Võ Thanh Anh, chỉ đành mặt hầm hầm lặng thinh không nói.
    Trương Vô Kỵ lồm cồm đứng dậy, lấm lét nhìn Chu Cửu Chân, thấy nàng nhíu lông mày, nghĩ thầm: “Dù ta có phải táng mạng cũng không để cho tiểu thư phải mất mặt”. Y nghe Vệ Bích cười nói:
    - Biểu muội, gã tiểu tử này đến võ công mèo quào cũng chẳng biết, nói gì đến môn phái?
    Trương Vô Kỵ đột nhiên xông lên, giơ chân đá vào bụng dưới gã. Vệ Bích cười kêu lên:
    - Ối chà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách