Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mint.doli
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp - Xuất Bản] Ỷ Thiên Đồ Long Ký | Kim Dung

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:29:52 | Chỉ xem của tác giả
    Đô Đại Cẩm nói:
    - Không phải chỉ mình tôi, mà cả tiêu hãng này, mấy chục đôi mắt đều thấy cả.
    Trương Thúy Sơn lắc đầu:
    - Như thế nhất định là không phải. Tống sư ca và những người kia hôm nay đều ở tại Tử Tiêu Cung hầu hạ sư phụ, chưa hề đặt chân xuống núi một bước. Sư phụ và Tống sư ca thấy quá ngọ rồi mà Du tam ca chưa về núi, nên sai tiểu đệ xuống dưới này chờ, làm sao Đô tổng tiêu đầu lại gặp được bọn Tống sư ca được?
    Đô Đại Cẩm nói:
    - Thế vị có một nốt ruồi đen trên mặt, trên nốt ruồi có ba sợi lông dài là Tống đại hiệp hay Du nhị hiệp?
    Trương Thúy Sơn ngạc nhiên:
    - Trong số sư huynh đệ của tôi, không ai trên mặt có nốt ruồi, trên nốt ruồi mọc lông cả.
    Đô Đại Cẩm nghe thấy nói như thế, một luồng hơi lạnh chạy từ tim lên, nói:
    - Sáu người đó tự xưng là Võ Đương thất hiệp, lại xuất hiện ngay dưới chân núi Võ Đương, trong số đó lại có hai người đội mũ đạo sĩ, chúng tôi tự nhiên ?
    Trương Thúy Sơn ngắt ngang:
    - Sư phụ chúng tôi tuy là đạo nhân, nhưng thu nhận toàn là tục gia đệ tử. Bọn sáu người đó tự xưng là Võ Đương lục hiệp ư?
    Đô Đại Cẩm nhớ lại chuyện lúc đó, mới nghĩ ra là mình cho rằng họ là Võ Đương lục hiệp chứ đối phương không một lời nào tỏ lộ thân phận cả, chỉ không phủ nhận những sai lầm của mình thôi. Y cùng hai tiêu đầu Chúc, Sử mặt mày hoang mang, một lát sau mới nói:
    - Nếu thế thì xem ra bọn sáu người này không có hảo ý, phải duổi theo ngay mới được.
    Y nhảy lên ngựa, quay đầu lại theo hướng sơn lộ chạy lên.
    Trương Thúy Sơn cũng lên ngựa, chạy song song với Đô Đại Cẩm, hỏi:
    - Bọn sáu người đó mạo nhận tên tuổi, Đô huynh mặc họ đuổi theo làm gì.
    Đô Đại Cẩm thở hổn hển nói:
    - Đâu phải chỉ bọn họ. Tôi còn được người ta dặn dò phải mang người nọ lên giao cho Trương chân nhân. Sáu người đó giả mạo tính danh, nhận người đó đem đi rồi, e rằng ? e rằng có điều không ổn ?
    Trương Thúy Sơn hỏi lại:
    - Đô huynh phải đem ai giao cho sư phụ tôi? Sáu người đó nhận người nào?
    Đô Đại Cẩm giục ngựa chạy nhanh hơn, một mặt kể lại đầu đuôi việc người ta ủy thác y giao một người trọng thương lên núi Võ Đương như thế nào. Trương Thúy Sơn hơi ngạc nhiên, hỏi:
    - Người bị thương nặng kia tên họ là gì? Tuổi tác hình dáng ra sao?
    Đô Đại Cẩm nói:
    - - Nào ai biết tên gì họ gì, y bị thương nặng không nói được, cũng không động đậy, chỉ còn thở thoi thóp thôi. Người đó chừng độ trên dưới ba mươi.
    Sau đó y mô tả lại tướng mạo, hình dáng Du Đại Nham.
    Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, kêu lên:
    - Đó là ? là Du tam ca của tôi rồi.
    Tuy trong lòng hoảng loạn, nhưng chỉ giây lát chàng đã trấn tĩnh được, đưa tay trái nắm cương ngựa Đô Đại Cẩm níu lại. Con ngựa đó đang chạy nhanh, bị Trương Thúy Sơn ghìm lại, lập tức đứng dừng ngay tại chỗ, không có thể bước lên đến nửa bước, máu từ mép chảy ra ào ào, hí lên rầm rĩ. Đô Đại Cẩm bị hất rơi phịch xuống đất, chỉ nghe soạt một tiếng đã rút thanh đơn đao ra khỏi vỏ. Y thầm sợ trong lòng, không ngờ người này thân hình gầy yếu, nhưng chỉ giơ tay gò cương, đã giữ một con ngựa khỏe không sao chạy được.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Đô đại ca đừng hiểu lầm, ông đường xa vạn dặm hộ tống sư ca của tôi đến đây, tiểu đệ hết sức cảm kích, không dám có ý gì khác đâu.
    Đô Đại Cẩm hừ một tiếng, đút đao vào vỏ nhưng tay phải vẫn để trên cán. Trương Thúy Sơn nói:
    - Du tam ca của tôi vì sao bị thương? Kẻ địch là ai? Ai là người nhờ Đô đại ca đưa anh ấy đến đây?
    Cả ba câu hỏi đó Đô Đại Cẩm không trả lời được câu nào. Trương Thúy Sơn nhíu mày, hỏi tiếp:
    - Những người tiếp nhận Du tam ca của tôi hình dáng ra sao?
    Sử tiêu đầu mồm miệng nhanh nhảu, chen vào mô tả bọn người đó. Trương Thúy Sơn nói:
    - Tiểu đệ đi trước một bước.
    Nói rồi ôm quyền chào, giục ngựa chạy trước. Con ngựa thanh thông ra sức chạy, dĩ nhiên nhanh vô tả. Chỉ thấy hai bên tai gió vù vù, cây cối hai bên vùn vụt chạy về phía sau. Võ Đương thất hiệp cùng học với nhau, lại chung sức hành hiệp giang hồ, tình nghĩa khác gì ruột thịt. Trương Thúy Sơn nghe nói sư ca bị trọng thương, lại rơi vào tay một bọn người lai lịch không rõ rệt, lòng nóng như lửa đốt, giục ngựa luôn tay, dù con tuấn mã có lăn ra chết chắc chàng cũng không tiếc.
    Chàng chạy một mạch đến khi gặp một túp lều tranh, ở đó là ngã ba đường, một lối đi lên núi Võ Đương, một lối hướng đông bắc đi về Vân Dương. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Nếu bọn này có lòng tốt đưa Du tam ca lên núi Võ Đương thì khi xuống núi ắt là mình đã gặp.? Nghĩ vậy chàng kẹp hai đùi, giục ngựa chạy về hướng đông bắc.
    Thôi đường đó phải đến hơn nửa giờ, con ngựa tuy khỏe nhưng cũng chịu không nổi, càng lúc càng chậm dần. Nhìn trời thấy đã sắp tối mà đường núi không một bóng người, muốn hỏi thăm cũng không biết hỏi ai. Trương Thúy Sơn không ngừng tính toán trong đầu: ?Du tam ca võ công trác tuyệt, sao lại có thể bị người ta đánh đến trọng thương? Thế nhưng xem thần tình của Đô Đại Cẩm thì y không có vẻ nói láo.? Nhìn đường xem chừng đã sắp đến Thập Yển trấn.
    Bỗng chàng thấy bên đường có một cỗ xe lớn lật nghiêng nằm trong đám cỏ cao. Đến gần hơn nữa, thấy con ngựa kéo xe đầu bị đánh vỡ, óc tung tóe, nằm chết trên mặt đất.
    Trương Thúy Sơn nhảy xuống, lật rèm xe ra xem, thấy trong xe không có người. Chàng quay đầu trở lại, thấy trong đám cỏ dày có một người nằm phủ phục, không động đậy, tựa như đã chết từ lâu. Trương Thúy Sơn tim đập liên hồi, vội vàng chạy đến, nhìn phía sau thấy đúng là sư huynh Du Đại Nham, vội vàng thò tay bế lên.
    Trong ánh chiều mờ mờ, chỉ thấy y hai mắt nhắm nghiền, mặt vàng như nghệ, thần sắc cực kỳ đáng sợ. Trương Thúy Sơn vừa kinh hãi vừa đau lòng, lấy má mình áp lên mặt y, cảm thấy còn hơi ấm. Chàng mừng quá, đưa tay vào sờ trên ngực, thấy trái tim vẫn còn đập nhè nhẹ, có điều lúc đập lúc không, xem ra lúc nào mạch cũng có thể ngừng.
    Trương Thúy Sơn rơi lệ khóc:
    - Tam ca, anh sao lại ? em là ngũ đệ ? ngũ đệ đây.
    Chàng ôm y từ từ đứng lên, thấy hai tay hai chân thõng xuống, hóa ra các đốt xương tay chân đều đã bị người ta đánh gãy cả rồi. Lại thấy các đốt ngón tay, cổ tay, cánh tay, đùi đều có máu tươi chảy ra, rõ ràng địch nhân hạ thủ chưa lâu. Thế nhưng tất cả cũng đều gãy cả, ra tay độc ác như thế, khiến chàng kinh sợ không dám nhìn.
    Lửa giận của Trương Thúy Sơn bốc lên, mắt như muốn nổ con ngươi, biết rằng kẻ địch đi chưa xa, bằng sức con tuấn mã chắc có thể đuổi kịp, trong cơn cuồng nộ, chàng định đuổi theo nhưng nghĩ lại: ?Tam ca mệnh trong giây lát, việc cứu mạng cho anh ta cần hơn. Người quân tử báo thù mười năm chưa muộn.?
    Khi chàng đi xuống dưới núi chỉ định một lát sẽ lên lại nên không mang theo binh khí hay thuốc men, thấy tình cảnh Du Đại Nham như thế, nếu đi ngựa lắc qua lắc lại, mỗi bước một thêm đau đớn. Do đó chàng nhẹ nhàng ôm sư ca lên tay, thi triển khinh công, chạy lên núi. Con ngựa thanh thông lẽo đẽo theo sau, thấy chủ nhân không cưỡi mình, dường như cũng lạ.
    Ngày hôm đó chính là ngày mở tiệc mừng sinh nhật thứ chín mươi của tổ sư phái Võ Đương Trương Tam Phong. Ngay từ sáng sớm, hỉ khí đã đầy Tử Tiêu Cung, sáu người học trò từ đại đệ tử Tống Viễn Kiều trở xuống, ai ai cũng đều bái thọ sư phụ, chỉ trong bảy người còn thiếu Du Đại Nham chưa về. Trương Tam Phong cùng mọi người biết rằng Du Đại Nham hành sự cẩn trọng, đi Giang Nam để tiêu diệt bọn giặc đó cũng không phải là lợi hại gì, nên nghĩ thể nào cũng về kịp. Thế nhưng đợi đến chính ngọ vẫn chưa thấy hình bóng y đâu. Mọi người không còn nhẫn nại được nữa, Trương Thúy Sơn nói:
    - Để con xuống núi đón tam ca.
    Nào ngờ chàng đi rồi, cũng lại không nghe tin tức gì cả. Con ngựa thanh thông chàng cưỡi là loại chạy thật nhanh, dẫu có chạy đến Lão Hà Khẩu, quay trở về cũng còn kịp. Đến giờ dậu cũng vẫn chưa thấy y về núi. Tiệc thọ bày ra trong đại sảnh đã sẵn sàng, ngọn nến đỏ đã cháy đến quá nửa, mọi người ai nấy đều thấy trong dạ không yên. Đệ tử thứ sáu là Ân Lê Đình[12], đệ tử thứ bảy là Mạc Thanh Cốc sốt ruột đi ra đi vào Tử Tiêu Cung không biết bao nhiêu lần. Trương Tam Phong biết tính hai người học trò mình, Du Đại Nham thì ổn trọng dè dặt, có thể đảm đương việc lớn, Trương Thúy Sơn thì thông minh lanh lợi, biện sự nhanh nhẹn, xưa nay không phải là kẻ do dự, lừng khừng, đến lúc này chưa về núi hẳn có chuyện gì.
    Tống Viễn Kiều nhìn ngọn hồng chúc, cười nói:
    - Sư phụ, tam đệ và ngũ đệ chắc gặp chuyện không vừa ý, nên phải ra tay can thiệp. Sư phụ vẫn thường dạy chúng con phải tích đức, làm việc thiện, hôm nay là ngày đại hỉ nghìn năm chưa có một lần của lão nhân gia, hai đệ tử làm một việc nghĩa, thì cũng là một cách ăn mừng thật phải.
    Trương Tam Phong vuốt bộ râu dài, cười:
    - Ha ha, năm ta tám mươi tuổi, con có cứu một người quả phụ đâm đầu xuống giếng, thật là hay. Chỉ có điều cứ mười năm mới làm việc tốt một lần, người đời đợi lâu thế thì phát chán ngấy mất thôi.
    Cả năm người học trò cùng cười rộ. Trương Tam Phong tính tình vui vẻ, thầy trò vẫn thường nói đùa với nhau.
    Đệ tử thứ bốn Trương Tùng Khê nói:
    - Lão nhân gia phải thọ tối thiểu cũng hai trăm tuổi, chúng con mỗi mười năm làm một việc tốt, tính ra cũng không phải là ít đâu.
    Đệ tử thứ bảy Mạc Thanh Cốc cười:
    - Ha ha, chỉ sợ bảy đệ tử chúng con không sống được lâu đến thế ?
    Y nói chưa dứt câu, Tống Viễn Kiều và nhị đệ tử Du Liên Châu cùng đứng lên đi tới bên mái hiên hỏi:
    - Phải tam đệ đó không?
    Chỉ nghe Trương Thúy Sơn nói:
    - Em đây!
    Thanh âm có lẫn tiếng nghẹn ngào. Mọi người thấy chàng hai tay bồng một người tiến vào, mặt đầy vết máu lẫn mồ hôi, chạy đến trước mặt Trương Tam Phong quì xuống, khóc không ra tiếng, kêu lên:
    - Sư phụ, tam ? tam ca bị người ta ám toán ?
    Mọi người hết sức kinh hãi, còn Trương Thúy Sơn loạng choạng, ngã ngửa về phía sau. Chàng vừa chạy một quãng dài không ngừng, lại thêm trong lòng đau thương, đến bây giờ chịu không nổi, vừa thấy mặt sư phụ và anh em đồng môn là lăn ra bất tỉnh.
    Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu biết rằng Trương Thúy Sơn ngất đi chỉ vì tâm thần xúc động, lại lao lực quá độ mà ra, còn tam sư đệ Du Đại Nham không biết sống chết ra sao. Hai người không hẹn mà cùng xông tới bế Du Đại Nham lên, chỉ thấy hơi thở rất yếu, mong manh như sợi tơ.
    Trương Tam Phong thấy đứa học trò yêu bị thương đến thành như thế, trong lòng hết sức chấn động, không kịp hỏi han, đi luôn vào phòng lấy ra một bình ?Bạch Hổ Đoạt Mệnh Đan?. Miệng bình vốn gắn kín bằng sáp trắng, lúc này không còn thì giờ cạy sáp để mở nắp ra, hai ngón tay bên trái bóp nhẹ, chiếc bình vỡ tan, lấy ra ba viên thuốc màu trắng, nhét vào miệng Du Đại Nham. Thế nhưng Du Đại Nham không còn tri giác, làm sao nuốt xuống nổi?
    Trương Tam Phong hai tay dùng ngón tay cái và ngón trỏ hợp lại, thành thế Hạc Chủy Kình, dùng đầu ngón tay trỏ điểm vào huyệt Long Dược trên đầu Du Đại Nham, cách vành tai ba phân, vận nội lực day nhè nhẹ. Với công lực của ông hiện giờ, sử dụng ?Hạc Chủy Kình điểm Long Dược huyệt? thì dù người có mới chết cũng phải hoàn hồn giây lát, vậy mà tay ông day đến hai mươi lần, Du Đại Nham vẫn không động đậy.
    Trương Tam Phong thở dài, hai tay để thành kiếm quyết, lòng bàn tay úp xuống, cùng ấn vào huyệt Giáp Xa của Du Đại Nham. Huyệt Giáp Xa này nằm ở trên má, ngay chỗ hai hàm răng cắn lại, Trương Tam Phong âm thủ điểm vào, lập tức chưởng tâm ngửa lên trên, biến thành dương thủ, một âm một dương đổi cho nhau, đổi qua đổi lại đến lần thứ mười hai, Du Đại Nham mới há miệng ra, chầm chậm nuốt đơn dược vào cổ họng.
    Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc từ nãy giờ nín thở đứng xem, bây giờ cùng kêu ?A? một tiếng. Thế nhưng bắp thịt cổ họng Du Đại Nham đã cứng rồi, viên thuốc tuy vào đến cổ nhưng không xuống bụng. Trương Tùng Khê liền đưa tay xoa bóp bắp thịt cổ, còn Trương Tam Phong đưa ngón tay đóng huyệt Khuyết Bồn và Du Phủ trên vai, Dương Quan, Mệnh Môn ở sau lưng Du Đại Nham để khi y tỉnh dậy không vì đau đớn quá mà lại hôn mê.
    Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu lúc bình thời thấy sư phụ dù gặp chuyện khó khăn hung hiểm cách nào cũng vẫn an nhiên, bình tĩnh, bây giờ thấy ông tay hơi run, mắt lộ vẻ kinh hoảng, hai người biết rằng thương thế tam sư đệ mười phần nguy kịch, không phải chuyện nhỏ.
    Không bao lâu, Trương Thúy Sơn mơ mơ màng màng tỉnh lại, kêu lên:
    - Sư phụ, tam ca có cứu được chăng?
    Trương Tam Phong không trả lời, chỉ nói:
    - Thúy Sơn, trên đời này có ai mà không chết?
    Bên ngoài bỗng thấy tiếng chân người, một tên tiểu đồng tiến vào bẩm:
    - Ngoài cửa có một tiêu khách xin được gặp tổ sư gia, nói là Đô Đại Cẩm của Long Môn tiêu cục ở phủ Lâm An.
    Trương Thúy Sơn đứng vụt dậy, mặt đầy vẻ giận dữ, hét lên:
    - Chính y đó.
    Chạy vọt ra ngoài, chỉ nghe mấy tiếng loảng xoảng của binh khí rơi xuống đất. Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc vừa định chạy ra trợ giúp sư huynh, đã thấy Trương Thúy Sơn tay phải nắm cổ một đại hán, xách vào, quăng mạnh xuống đất, giận dữ nói:
    - Cũng chỉ vì tên này làm hỏng hết mọi sự.
    Mạc Thanh Cốc nghe nói y làm cho tam sư ca bị thương như thế, giơ chân định đá vào Đô Đại Cẩm. Tống Viễn Kiều vội kêu lên:
    - Ngừng lại.
    Mạc Thanh Cốc vội vàng co chân về.
    Lại nghe bên ngoài có người nói:
    - Người của phái Võ Đương có nói chuyện phải quấy hay không thì bảo? Chúng tôi có hảo ý lên đây cầu kiến, sao lại làm nhục chúng tôi như thế?
    Tống Viễn Kiều hơi nhướng mày, giơ tay vỗ vào sau lưng và vai của Đô Đại Cẩm mấy cái, giải các huyệt đạo do Trương Thúy Sơn điểm, nói:
    - Khách ở bên ngoài không nên huyên náo, chờ đó một lát, để xem phải trái thế nào.
    Mấy lời đó ngữ khí uy nghiêm, nội lực đầy đủ. Chúc Sử hai tiêu đầu nghe thấy bị nhiếp phục ngay, lại tưởng Trương Tam Phong xuất ngôn, nên đâu còn dám hó hé gì nữa.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Ngũ đệ, tam đệ bị thương ra sao, ngươi từ từ kể lại, không phải vội.
    Trương Thúy Sơn hậm hực trừng mắt nhìn Đô Đại Cẩm, rồi tường thuật Long Môn tiêu cục nhận lãnh việc hộ tống Du Đại Nham lên núi Võ Đương thế nào, bị sáu người mạo danh tiếp nhận, mọi sự kể lại đầy đủ. Tống Viễn Kiều nhìn thấy tài nghệ của Đô Đại Cẩm như thế, quyết không thể nào có đủ bản lãnh hại Du Đại Nham, vả lại còn dám lên đây cầu kiến, ắt trong lòng không phải man trá, nên dịu xuống hỏi y kỹ càng mọi việc xảy ra.
    Đô Đại Cẩm nhất nhất cứ thực tình kể lại, sau cùng mới nói:
    - Tống đại hiệp, họ Đô tôi làm việc không chu đáo, làm lụy đến Du tam hiệp như thế này, có chết cũng đáng. Có điều cả cục chúng tôi ở phủ Lâm An, già trẻ lớn bé lúc này chẳng biết tính mệnh ra sao.
    Trương Tam Phong liên tiếp dùng song chưởng đặt lên hai huyện Thần Tàng và Linh Đài của Du Đại Nham, dùng nội lực đẩy vào thân thể của đứa học trò, nghe Đô Đại Cẩm nói như thế, liền nói:
    - Liên Châu, con dẫn Thanh Cốc, lập tức hai người xuống Lâm An, bảo hộ cho người già trẻ con trong Long Môn tiêu cục.
    Du Liên Châu đáp lời, trong lòng hơi ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay lòng từ bi, hiệp nghĩa của sư phụ, vì người khách họ Ân kía có nói là nếu như việc có nửa phần sơ xuất, sẽ giết sạch tất cả toàn thể Long Môn tiêu cục đến con gà con chó cũng không tha. Câu nói đó tuy chỉ là một lời hăm dọa, nhưng Đô Đại Cẩm cùng tất cả các hảo thủ trong tiêu cục đều ra ngoài bảo tiêu, nếu như quả gặp nguy nan, ắt không có ai chống cự.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Sư phụ, gã họ Đô này làm việc quá ư hồ đồ, để đến nỗi tam sư ca ra nông nỗi này, mình đã không hỏi tội thì thôi, lẽ đâu lại còn đến bảo vệ gia quyến già trẻ nhà y?
    Trương Tam Phong lắc đầu, không trả lời. Tống Viễn Kiều nói:
    - Ngũ đệ, sao em bụng dạ hẹp hòi thế? Đô tổng tiêu đầu phải nghìn dặm bôn ba là vì ai?
    Trương Thúy Sơn cười nhạt:
    - Y vì hai nghìn lạng vàng chứ đâu phải vì có lòng tốt với Du tam ca?
    Đô Đại Cẩm nghe nói mặt đỏ bừng, nhưng ngẫm lại thì quả thật y nhận món hàng này cũng chỉ vì tiêu kim quá hậu. Tống Viễn Kiều quát lên:
    - Ngũ đệ, không được vô lễ với khách, em đã mệt mỏi nửa ngày rồi, mau đi nghỉ.
    Trong phái Võ Đương, quyền sư huynh rất lớn, Tống Viễn Kiều tính lại đoan nghiêm, từ Du Liên Châu trở xuống, ai ai cũng rất kính trọng, Trương Thúy Sơn vừa nghe sư huynh trách mắng, không dám cãi lời, nhưng vì lo lắng cho thương thế của tam sư huynh nên không chịu lui về nghỉ. Tống Viễn Kiều nói tiếp:
    - Nhị đệ, sư phụ đã có lệnh, em cùng thất đệ phải đi suốt ngày đêm, sự tình khẩn cấp, không nên để lỡ việc.
    Du Liên Châu và Mạc Thanh Cốc vâng lời, vội vàng về phòng chuẩn bị binh khí, y phục. Đô Đại Cẩm thấy Du Mạc hai người định xuống Lâm An bảo hộ già trẻ nhà mình, cảm thấy trong lòng hết sức an ủi, ôm quyền cảm tạ Trương Tam Phong:
    - Trương chân nhân, việc của vãn bối, không dám làm phiền Du Mạc nhị hiệp, xin cáo từ.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Đêm nay xin các vị ở lại đây nghỉ ngơi, chúng tôi còn nhiều điều muốn hỏi.
    Tuy lời nói của ông bình thường nhẹ nhàng, nhưng lại có một vẻ uy nghiêm, khiến người ta không dám từ chối. Đô Đại Cẩm chỉ lặng yên không nói, ngồi sang một bên. Du Liên Châu và Mạc Thanh Cốc bái biệt sư phụ, bịn rịn nhìn Du Đại Nham mấy lần, rồi mới xuống núi. Hai người trong lòng nặng như chì, chẳng biết lần này là sinh ly hay tử biệt, không biết mai sau có còn gặp lại Du Đại Nham nữa không.
    Lúc đó trong đại sảnh lặng yên không một tiếng động, chỉ nghe thấy tiếng hô hấp trầm trọng của Trương Tam Phong, lại thấy trên đỉnh đầu ông nhiệt khí bốc lên, tưởng như một cái lồng hấp[13] vậy. Phải đến hơn nửa tiếng đồng hồ, đột nhiên Du Đại Nham ?A? lên một tiếng lớn, vang động cả nhà. Đô Đại Cẩm giật nảy người, liếc mắt nhìn trộm Trương Tam Phong, thấy mặt ông không lộ vẻ gì buồn hay vui nên không biết đó là triệu chứng tốt hay xấu.
    Trương Tam Phong dẽ dàng nói:
    - Tùng Khê, Lê Đình, hai con đưa tam ca vào phòng nghỉ ngơi.
    Trương Tùng Khê và Ân Lê Đình vội đưa người bị thương vào phòng rồi lui ra. Ân Lê Đình không nhịn nổi hỏi:
    - Sư phụ, võ công của tam ca có thể toàn bộ khôi phục được không?
    Trương Tam Phong thở dài, một hồi sau mới nói:
    - Y có bảo toàn được tính mệnh hay không, phải một tháng sau mới rõ, nhưng gân chân tay đứt, xương cốt gãy, không có cách nào nối lại được. Oại cả một đời, cả một đời Nói đến đây ông nghẹn ngào buồn bã lắc đầu. Ân Lê Đình đột nhiên òa lên khóc.
    Trương Thúy Sơn nhảy dựng lên, nghe bốp một cái, đã đánh cho Đô Đại Cẩm một cái bạt tai. Lần này chàng ra tay nhanh như điện, Đô Đại Cẩm giơ tay đỡ, nhưng tay đưa ra thì mặt đã trúng chưởng rồi. Trương Thúy Sơn không dằn nổi cơn giận, cùi chỏ trái lại xoay qua, thúc luôn vào hông. Chiêu đó tuy thật nhanh nhưng Trương Tùng Khê đã giơ tay đẩy vào vai Trương Thúy Sơn nên thế đó rơi ra ngoài. Đô Đại Cẩm nhảy vội về phía sau, nghe coong một tiếng, một khối vàng ròng từ trong bọc của y rơi xuống đất.
    Trương Thúy Sơn chân trái móc một cái, hất đĩnh vàng lên, giơ tay bắt lấy, cười khẩy:
    - Đồ tham tài vô nghĩa, người ta cho ngươi một đĩnh kim nguyên bảo, ngươi liền đưa Du tam ca của ta ra cho họ giầy vò ?
    Nói chưa dứt câu, đột nhiên ?Ủa? một tiếng, nhìn vào năm vết ngón tay trên khối vàng:
    - Đại sư ca, cái này ? cái này là công phu Kim Cương Chỉ của phái Thiếu Lâm mà.
    Tống Viễn Kiều cầm lấy thoi vàng, nhìn một lát, rồi đưa cho sư phụ. Trương Tam Phong lật qua lật lại nhìn mấy lần, đưa mắt nhìn Tống Viễn Kiều, không nói một lời.
    Trương Thúy Sơn kêu lên:
    - Sư phụ, cái này đúng là Kim Cương Chỉ của phái Thiếu Lâm. Trên đời này làm gì có môn phái nào có nổi công phu này, có phải thế không, có phải thế không thầy?
    Chỉ trong chớp mắt, Trương Tam Phong nhớ lại thuở còn nhỏ mình ở trong Tàng Kinh Các hầu hạ sư phụ Giác Viễn ra sao, đấu chưởng với Côn Lôn Tam Thánh Hà Túc Đạo thế nào, rồi bị tăng chúng chùa Thiếu Lâm đuổi bắt phải chạy lên núi Võ Đương, mấy chục năm trời truyện cũ hiện ra rõ ràng. Mặt ông hiện vẻ hoang mang, cứ theo vết ngón tay trên thoi vàng này, quả đúng là Kim Cương Chỉ Pháp của phái Thiếu Lâm, Trương Thúy Sơn nói không sai, không có môn phái nào có nổi công phu đó. Không nói gì phái Võ Đương chuyên về luyện nội công cho thâm hậu, không để ý đến các môn ngạnh công đập vàng phá đá, ngay các môn phái ngoại gia, chuyên luyện cạnh bàn tay, quả đấm, sức cánh tay, sức chân đá cho đến cả dùng đầu đập, dùng cùi chỏ thúc, đầu gối đánh hay cạnh bàn chân, nhưng đến luyện ngón tay thì không thể nào đạt đến công phu đó.
    Nghe Trương Thúy Sơn hỏi đi hỏi lại, nếu ông nói ra sự thực thì bọn học trò, môn hạ nhất định sẽ không để yên cho phái Thiếu Lâm, và các đại môn phái không thể không sóng gió.
    Trương Thúy Sơn thấy sư phụ trầm ngâm không nói, biết rằng suy nghĩ của mình không sai, lại gặng tiếp:
    - Sư phụ, trong võ lâm có kỳ nhân dị sĩ nào tự mình luyện thành môn Kim Cương Chỉ này không?
    Trương Tam Phong chầm chậm lắc đầu, nói:
    - Phái Thiếu Lâm phải mất hàng ngàn năm mới thành được tuyệt kỹ này, không phải một lúc mà xong. Dù có người nào tuyệt đính thông minh, cũng không tự mình nghĩ ra được.
    Ngừng lại một lát, ông tiếp:
    - Hồi ta còn nhỏ ở chùa Thiếu Lâm, vì chưa được truyền thụ võ công nên đến giờ phút này cũng không biết tại sao tấm thân máu thịt của con người lại có thể luyện đến mức có ngón tay mạnh đến thế.
    Mắt Tống Viễn Kiều bỗng dưng lóe lên một tia sáng khác lạ, nói lớn:
    - Gân cốt chân tay của tam đệ, đúng là bị Kim Cương Chỉ Lực bẻ đứt rồi.
    Ân Lê Đình ?A? lên một tiếng, nước mắt dưng dưng, chịu không nổi chảy xuống thành giòng. Đô Đại Cẩm nghe thấy người tàn hại Du Đại Nham là đệ tử của phái Thiếu Lâm, lại càng kinh hoảng, há hốc mồm, một lát sau mới ấp úng:
    - Không ? nhất định là không phải, tôi ở trong chùa Thiếu Lâm học nghệ hơn mười năm, chưa bao giờ gặp người mặt có nốt ruồi đó cả.
    Tống Viễn Kiều ngưng thần nhìn y, thản nhiên không động thanh sắc, nói:
    - Lục đệ, ngươi đưa Đô tổng tiêu đầu và anh em vào hậu viện nghỉ ngơi, sửa soạn cơm rượu, dặn lão Vương tiếp đãi khách phương xa cho tử tế, không được sơ sót.
    Ân Lê Đình vâng lời, dẫn đường bọn người Đô Đại Cẩm đi xuống hậu viện. Đô Đại Cẩm còn muốn biện bạch vài câu, nhưng trong tình cảnh đó, một câu cũng không nói ra nổi.
    Ân Lê Đình lo liệu cho bọn tiêu sư xong, quay trở lại phòng Du Đại Nham, chỉ thấy tam sư ca mở mắt trừng trừng như người mất hồn, còn đâu hình dáng anh hùng hào sảng lúc bình thời, trong lòng không khỏi đau đớn, chỉ kêu lên được một tiếng ?tam ca?, rồi ôm mặt chạy ra. Tới đại sảnh, chàng thấy Tống Viễn Kiều và các anh em đang ngồi trước mặt sư phụ, nên đến bên cạnh Trương Thúy Sơn ngồi xuống.
    Trương Tam Phong nhìn ra cây hòe trước sân xuất thần, lắc đầu nói:
    - Việc này ta cũng đành bó tay, Tùng Khê, con nghĩ sao?
    Trong bảy đệ tử của phái Võ Đương, Trương Tùng Khê là người đa mưu túc trí hơn cả. Bình thời chàng trầm mặc ít nói, nhưng suy tính liệu sự, nói đâu đúng đó, từ lúc Trương Thúy Sơn ôm Du Đại Nham về núi, tuy trong lòng đau đớn, nhưng vẫn suy tưởng mọi chuyện bên trong xem có gì, bấy giờ nghe sư phụ hỏi, mới nói:
    - Cứ như đệ tử suy nghĩ, đầu dây mối nhợ không phải là phái Thiếu Lâm mà là thanh đao Đồ Long.
    Trương Thúy Sơn và Ân Lê Đình cùng ?A? lên một tiếng. Tống Viễn Kiều nói:
    - Tứ đệ, sự lý bên trong, em đã suy tưởng minh bạch, mau nói ra để xin sư phụ chỉ thị.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Tam ca hành sự mau lẹ, vững vàng, đối với ai cũng hết lòng, chắc không gây thù chuốc oán một cách khinh thị. Anh ấy xuống Giang Nam trừ bọn giặc, là một bọn đầu trộm đuôi cướp, võ lâm ai ai cũng ghét bỏ, phái Thiếu Lâm không thể nào vì chuyện đó mà hạ thủ đả thương tam ca.
    Trương Tam Phong gật đầu. Trương Tùng Khê lại nói tiếp:
    - Tam ca chân tay gân cốt bị gãy, chỉ là ngoại thương, nhưng tại phủ Lâm An Chiết Giang lại trúng kịch độc. Cứ như đệ tử nghĩ, trước hết mình nên đến Lâm An tra xét xem tại sao tam ca trúng độc, ai là người hạ thủ ?
    Trương Tam Phong lại gật đầu nói:
    - Chất độc mà Đại Nham bị trúng rất là kỳ lạ, ta cũng chưa nghĩ ra là loại thuốc độc nào. Lòng bàn tay Đại Nham có bảy cái lỗ nhỏ, hông và đùi lại có những vết châm li ti. Trên chốn giang hồ, chưa nghe cao thủ nào sử dụng những loại ám khí độc như thế cả.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Việc này quả thật kỳ quái. Cứ theo thường lý mà suy, người bắn những ám khí nhỏ như thế mà tam đệ không tránh kịp, ắt phải là cao thủ hạng nhất, thế nhưng quả thực là cao thủ thì sao lại tẩm thuốc độc trên ám khí?
    Mọi người lặng yên không nói, ai ai cũng đều suy nghĩ xem người nào, môn phái nào sử dụng những loại ám khí như thế. Một lúc sau, cả năm người đều hoang mang, không nghĩ ra là ai.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Tại sao gã mặt có nốt ruồi kia lại đánh đứt gân cốt của tam ca? Nếu như y có thù oán với tam ca, một chưởng cũng đã giết được rồi, còn nếu muốn cho thêm đau đớn, khổ sở, sao không đánh gãy xương sống, xương sườn? Chuyện này thật rõ ràng, y chỉ muốn ép buộc tam ca cung khai. Thế nhưng y hỏi việc gì, cứ đệ tử suy tưởng, ắt là vì đao Đồ Long. Đô Đại Cẩm có nói, trong số sáu người có một tên hỏi là: ?Đồ Long đao đâu? Ở trong tay ai??.
    Ân Lê Đình nói:
    - Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong. Câu này truyền đã mấy trăm năm nay, chẳng lẽ đến bây giờ, quả thực mới xuất hiện thanh đao Đồ Long sao?
    Trương Tam Phong nói:
    - Làm gì đã mấy trăm năm, cùng lắm chỉ độ bảy, tám mươi năm thôi. Hồi ta còn trẻ cũng chưa nghe thấy câu này.
    Trương Thúy Sơn nhỏm dậy, nói:
    - Tứ ca nói rất phải, cái đầu dây mối nhợ làm hại tam ca ắt là chỉ ở trong một giải Giang Nam thôi, mình phải đi tìm cho ra. Có điều bọn ác tặc phái Thiếu Lâm hạ thủ độc ác đến thế, mình không thể nào bỏ qua được.
    Trương Tam Phong nói với Tống Viễn Kiều:
    - Viễn Kiều, con nghĩ bây giờ mình phải tính sao?
    Những năm gần đây mọi việc trong phái Võ Đương, Trương Tam Phong đều giao cho Tống Viễn Kiều lo liệu cả, vị đại đệ tử này làm gì cũng chu đáo mực thước, không để sư phụ phải lo nghĩ. Nghe sư phụ nói thế, y lập tức đứng dậy, cung kính nói:
    - Việc này chẳng phải chỉ là báo thù cho tam đệ thôi đâu, mà còn liên quan đến đại sự của bản phái, nếu như ứng phó không phải, chỉ sợ sẽ gây ra một trận sóng gió trong võ lâm, kính xin sư phụ dạy bảo.
    Trương Tam Phong nói:
    - Ừ, con và Tùng Khê, Lê Đình hai người, đem lá thư của ta lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn bái kiến phương trượng Không Văn thiền sư, nói rõ mọi việc, xin ông ta chỉ thị. Việc này chúng ta không cần phải nhúng tay vào, chùa Thiếu Lâm môn hộ rất nghiêm cẩn, Không Văn phương trượng là người vọng trọng võ lâm, ắt sẽ có cách xử trí thích đáng.
    Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê, và Ân Lê Đình ba người lập tức cung kính vâng lời. Trương Tùng Khê nghĩ thầm:
    - Nếu như chỉ mang một lá thư, thì chỉ cần sai lục đệ đi cũng đủ. Sư phụ bảo đại sư ca đích thân xuất mã, lại sai ta đi theo, bên trong ắt có thâm ý. Chắc là phòng việc chùa Thiếu Lâm muối mặt không nhận, nên muốn bọn mình tùy cơ mà hành sự.
    Quả nhiên Trương Tam Phong nói tiếp:
    - Bản phái và Thiếu Lâm hai bên có những liên quan thật đặc thù. Ta là đào đồ của phái Thiếu Lâm, trong bao nhiêu năm nay, có lẽ họ thấy ta tuổi tác đã cao, nên không lên núi Võ Đương bắt về, tuy vậy hai bên dẫu sao cũng vẫn có chỗ không thuận thảo.
    Nói đến đây, ông mỉm cười, tiếp tục:
    - Các con lên núi Thiếu Lâm, đối với phương trượng Không Văn dĩ nhiên cung kính, nhưng cũng không nên làm mất thanh danh của bản môn.
    Tống Trương Ân ba người cùng lên tiếng vâng mệnh.
    Trương Tam Phong quay lại nói với Trương Thúy Sơn:
    - Thúy Sơn, sáng mai con lên đường xuống Giang Nam, tìm cách tra xét, mọi việc nghe lời nhị sư ca dặn dò.
    Trương Thúy Sơn thõng tay nhận lệnh. Trương Tam Phong nói tiếp:
    - Chén rượu thọ tối nay mình không uống nữa. Một tháng sau, tất cả lại tụ hội ở đây, nếu như không chữa nổi cho Đại Nham, sư huynh đệ cũng được nhìn thấy y lần cuối.
    Ông nói tới đó không khỏi bùi ngùi, không ngờ mình uy chấn võ lâm mấy mươi năm, đến năm chín mươi tuổi, đứa học trò yêu quí lại gặp phải chuyện bất hạnh như thế này. Ân Lê Đình đưa tay áo gạt lệ, khóc lên rưng rức. Trương Tam Phong phất tay một cái, nói:
    - Tất cả đi ngủ.
    Tống Viễn Kiều khuyên:
    - Sư phụ, tam sư đệ một đời hành hiệp trượng nghĩa, tích đức thật dày. Người đời thường nói rằng ?người lành sẽ được trời giúp?, hoàng thiên hữu nhãn, ắt không để cho y ? cho y chết yểu ?.
    Nói đến đây nghẹn ngào, nước mắt y ròng ròng chảy xuống, biết rằng càng khuyên càng tăng thêm mối đau lòng, nên cùng các sư đệ chúc sư phụ ngủ ngon, chia nhau về phòng.
    [1] Cao quí nhất trong võ lâm là bảo đao Đồ Long, ra lệnh cho mọi người không ai không tuân theo.
    [2] Ỷ Thiên nếu không xuất hiện, thì không cái gì có thể ganh đua được.
    [3] Mặt trời, mặt trăng chiếu sáng, vua loài chim ưng giương đôi cánh ra. Trong chữ Hán, chữ nhật và chữ nguyệt ghép lại thành chữ minh, ý nói đây là một chi lưu của Minh giáo.
    [4] Tức Quan Vũ hay Quan Công, em kết nghĩa của Lưu Bị đời Tam Quốc.
    [5] Kim nhỏ như râu con muỗi.
    [6] Một cân Tàu có mười sáu lượng, ý nói ngang ngửa. Lưỡng bại câu thương là hai bên cùng bị thương, ai cũng thiệt cả.
    [7] Con gấu nhiều tay [8] Sau ba lần nhảy ở Long Môn con cá chép hóa thành rồng.
    [9] Tức Hồ Bắc [10] Kim nguyên bảo là vàng được đúc thành từng cục, mỗi triều đại lại ban hành khi tiền giấy còn chưa thông dụng. Cục vàng đó đúc như một chiếc thuyền, thường là vàng từ 91.5% trở lên (khá nguyên chất) nặng chừng 90 gram, dưới đáy có hai chữ ?túc kim? bên trên thường là chữ ?thọ?. Loại ngân nguyên bảo hay kim nguyên bảo ít lưu hành, thường chỉ do triều đình phong thưởng những người có công, có thể coi là một loại tiền hiếm có. Đời Hán đúc hình móng ngựa nên gọi là ?mã đề kim?, qua đời Đường thì hình dẹp, đến đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh mới đúc thành hình thuyền, mỗi đời theo niên hiệu mà gọi như Thiên Phúc, Thuần Hóa, Hồng Võ ...
    [11] ngựa có màu xanh trắng [12] Cứ theo sách vở để lại, bảy người đệ tử của Trương Tam Phong là Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tùng Khê, Trương Thúy Sơn, Ân Lợi Hanh, Mạc Thanh Cốc. Tên của Ân Lợi Hanh lấy từ chữ trong kinh Dịch ?Nguyên Hanh Lợi Trinh?. Thế nhưng vì tên này không cùng một loại với sáu tên kia ? tất cả đều tả cảnh như cầu ở xa xa (Viễn Kiều), thuyền đậu liền nhau (Liên Châu), tảng đá lớn (Đại Nham), cây tùng bên giòng suối (Tùng Khê), núi biếc (Thúy Sơn), hang núi sâu (Thanh cốc). Vì thế trong bản này, Kim Dung đã đổi tên người thứ sáu thành Ân Lê Đình (cây lê bên cạnh toà nhà). ? lời chú của dịch giả.
    [13] Nguyên tác chưng lung là loại giỏ bằng tre đan để hấp bánh hay đồ ăn
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:30:18 | Chỉ xem của tác giả
TỰ TÁC TANG LOẠN Ý BÀNG HOÀNG

    Tình sư đệ nghĩa anh em, Đau lòng nét bút càng thêm thần sầu.
   
Trương Thúy Sơn lòng đầy đau thương, căm giận, không cách gì phát tiết, nằm trằn trọc hơn một tiếng đồng hồ, chàng len lén trở dậy, quyết ý tìm bọn Đô Đại Cẩm đánh một trận cho bõ tức. Chàng e ngại đại sư huynh, tứ sư huynh ngăn cản, nên không dám gây tiếng động, rón rén đi ra. Đến đại sảnh, chàng thấy một bóng người hai tay chắp sau lưng, không ngừng đi qua đi lại.
    Trong ánh sáng mông lung mờ ảo thấy người đó thân dài lưng rộng, bước chân ngưng trọng, chính là sư phụ. Trương Thúy Sơn náu mình sau cột, không dám cử động, tính thầm phải quay về phòng ngay. Thế nhưng ắt là sư phụ sẽ hay biết, nếu bị tra hỏi, đành phải nói thực thì thể nào cũng bị trách mắng.
    Chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi, ngửng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên đưa tay phải, tại không trung làm bút viết lên thành chữ. Trương Tam Phong cả văn lẫn võ đều thông, ngâm thơ viết chữ, học trò đều biết nên cũng không lấy làm lạ. Chàng theo dõi nét bút ở tay, hóa ra ông viết đi viết lại mấy lần hai chữ ?tang loạn[1]?, rồi lại viết hai chữ ?đồ độc[2]?. Trương Thúy Sơn trong lòng rung động, nghĩ thầm: ?Sư phụ trong lòng đang nghĩ đến ?Tang Loạn Thiếp?.
    Chàng có ngoại hiệu là ?Ngân Câu Thiết Hoạch?, vốn bởi tay trái sử dụng hổ đầu câu bạc vụn, tay phải sử phán quan bút thép ròng mà ra. Từ khi mang cái tên đó rồi, Thúy Sơn e ngại danh quá kỳ thực, sợ giới văn nhân chê cười, nên tiềm tâm học phép viết chữ, chân thảo triện lệ, loại nào cũng tập. Khi đó chàng thấy sư phụ dùng ngón tay làm bút, đạt đến tình trạng ?không nét nào duỗi ra mà không thu vào, không nét nào đi rồi mà không quay lại? chính là bút ý của Vương Hi Chi trong Tang Loạn Thiếp.
    Tang Loạn Thiếp hai năm trước chàng đã tập qua, biết là nét bút túng dật, mạnh mẽ chắc nịch nhưng không bằng được nét chữ trang nghiêm cẩn thận, khí tượng vững vàng trong ?Lan Đình Thi Tự Thiếp?, hay ?Thập Thất Thiếp?. Lúc này, chàng thấy sư phụ đưa tay viết liên tiếp: ?Hi Chi đốn thủ, tang loạn chi cực, tiên mộ tái ly đồ độc, truy duy kháo thậm? mười tám chữ, mỗi nét, mỗi chữ đều tràn đầy uất hận, bi phẫn, nên bỗng cảm thông được? tâm tình Vương Hi Chi khi viết ?Tang Loạn Thiếp?.
    Vương Hi Chi là người đời Đông Tấn, lúc đó trung nguyên đang rối ren, rôi vào tay dị tộc. Họ Vương, họ Tạ là những gia đình có thế lực, nay phải di cư xuống miền Nam tránh giặc, trong cái tai biến đó, phần mộ của ông cha cũng bị dày xéo, khiến những đau khổ trong lòng không sao phát tiết ra cho hết, nên tất cả những uất ức đều thể hiện trong bài Tang Loạn Thiếp. Trương Thúy Sơn đang tuổi thanh niên, không lo không sầu, trước đây làm sao lãnh hội được những thâm ý trong bài thiếp? Lúc này gặp phải cái cảnh đại họa, không biết sống chết ra sao của sư huynh mới hiểu được hai chữ ?tang loạn?, hai chữ ?đồ độc?, hay bốn chữ ?truy duy kháo thậm[3]?.
    Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, bỗng thở dài một tiếng, bước tới giữa sân, đứng trầm ngâm một hồi rồi đưa ngón tay, lại bắt đầu viết chữ. Lần này cách viết chữ hoàn toàn khác hẳn. Trương Thúy Sơn theo nét bút thì thấy chữ đầu tiên là chữ "võ", rồi đến chữ "lâm", tiếp tục hai mươi bốn chữ chính là câu người thường truyền tụng "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long. Hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?? Dường như Trương Tam Phong đang tìm cách suy nghĩ cho ra thâm ý của hai mươi bốn chữ này để biết vì cớ gì Du Đại Nham bị thương? Việc này có liên hệ gì đến hai món thần binh lợi khí là đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên?
    Chỉ thấy ông viết một lần hai mươi bốn chữ rồi viết lại lần nữa, nét bút mỗi lúc một dài, nhưng đưa tay mỗi lúc một chậm, đến về sau ngang dọc, đóng mở, chẳng khác gì? thi triển quyền cước. Trương Thúy Sơn ngưng thần theo dõi, trong lòng vừa mừng vừa sợ, hai mươi bốn chữ mà sư phụ vừa viết kia hóa ra là một pho võ công thật cao minh, mỗi chữ bao gồm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại bao gồm nhiều cách biến hóa. Chữ long và chữ phong nhiều nét, chữ đao, chữ hạ ít nét. Thế nhưng nhiều nét mà không rườm rà, ít nét cũng không thô lậu, lúc thu vào thì như con sâu co mình, lúc bung ra thì như con thỏ vuột chạy, lâm ly sảng khoái, cương kiện hùng hồn. Nét phóng dật thì vi vu nhẹ nhàng như tuyết rơi lả tả, nét nặng nề thì hậu trọng như voi đi, uy nghi như hổ bước.
    Trương Thúy Sơn sau phút giây thảng thốt, vội định thần chú tâm ghi nhớ. Hai mươi bốn chữ đó bao gồm hai chữ bất, hai chữ thiên, thế nhưng những chữ đó viết ra hình giống nhau mà ý không đồng, khí tưởng giống mà thần không giống, biến hóa ảo diệu, quả thật là một công trình.
    Những năm gần đây rất ít khi Trương Tam Phong hiển thị võ công, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc hai tiểu đệ tử phần lớn do Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu thay thầy truyền thụ, do đó Trương Thúy Sơn tuy tiếng là đệ tử thứ năm của Trương Tam Phong, nhưng lại đích thực là quan môn đệ tử [4] do ông thân truyền. Trước đây Trương Thúy Sơn học chưa đến nơi đến chốn nên nhiều khi thấy sư phụ thi triển quyền kiếm cũng không hiểu được những chỗ bác đại tinh thâm. Sau này võ học của chàng đại tiến, đặc biệt tối hôm nay hai thầy trò lại tâm ý tương thông, tình chí hợp nhất, cùng gặp cảnh tang loạn mà bi phẫn, gặp cảnh đồ độc mà uất ức. Trương Tam Phong tình đến mà đem hai mươi bốn chữ diễn thành một pho võ công. Lúc đầu viết chữ ông không có ý đó, mà Trương Thúy Sơn nấp ở đằng sau cái cột cũng là cơ duyên xảo hợp. Cả thầy lẫn trò hai người tâm thần đều mê say, chìm đắm vào cảnh giới thư pháp kết hợp với võ công, quên hẳn cả người lẫn ta.
    Phép viết đó, Trương Tam Phong diễn đi diễn lại, thoáng cái đã hơn hai tiếng đồng hồ, đến lúc trăng lên đến đỉnh đầu, ông hú lên một tiếng dài, tay phải quét từ trên thẳng xuống, như ánh kiếm vung ra, như mũi tên phóng tới, sấm chưa kịp rền, điện chưa kịp xẹt. Chiêu đó chính là nét sổ sau cùng trong chữ ?phong?.
    Trương Tam Phong ngửng đầu lên nhìn trời, hỏi:
    - Thúy Sơn, đường thư pháp đó con thấy sao?
    Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, không ngờ rằng mình ẩn ở sau cây cột, sư phụ tuy không quay đầu lại, nhưng đã biết rồi, vội vàng chạy ra, nói:
    - Đệ tử có phúc được coi lén tuyệt kỹ của sư phụ, thật là thỏa lòng. Để con đi gọi các vị sư ca ra để cùng ngưỡng mộ, được không?
    Trương Tam Phong lắc đầu:
    - Hứng của ta đã hết rồi, có diễn lại cũng không sao viết được đẹp như thế. Bọn Viễn Kiều, Tùng Khê không biết thư pháp, dẫu có được coi, cũng hiểu biết không bao nhiêu.
    Nói xong ông phất tay, quay vào nội đường.
    Trương Thúy Sơn không dám đi ngủ, sợ sau một giấc sẽ quên những chiêu thức tinh diệu mới vừa được xem, lập tức ngồi xếp bằng, mỗi nét mỗi gạch, mỗi chiêu mỗi thức cố gắng nhớ thật kỹ. Mỗi khi nổi hứng chàng lại đứng dậy biểu diễn vài đường. Không biết qua bao lâu thời gian, chàng mới ghi nhớ hết những biến hóa của hai mươi bốn chữ, bao gồm hai trăm mười lăm nét đó.
    Chàng đứng dậy, tập lại một lần, thấy tất cả những nét vươn ra, nắm bắt chẳng khác gì chim nhạn tung bay, chim điêu xoải cánh, khi vươn cổ, lúc thu mình, thế như mây bay, toàn thân nhẹ nhàng lãng đãng, chẳng khác gì đằng vân giá vụ. Chưởng sau cùng đánh thẳng xuống, nghe phụp một tiếng đánh rách ngay chính áo chàng một mảng lớn. Trương Thúy Sơn vừa sợ vừa mừng, quay đầu lại thấy mặt trời đã chiếu ở bên tường phía đông. Chàng giơ tay dụi mắt, chỉ sợ mình nhầm, định thần cho kỹ, quả nhiên đã quá trưa. Hóa ra chàng tiềm tâm luyện công, vô tình vô ý, không ngờ đã mất hơn nửa ngày trời.
    Trương Thúy Sơn giơ tay áo chùi mồ hôi trên trán, chạy đến phòng của tam sư ca, thấy Trương Tam Phong song chưởng đang đè vào ngực và bụng Du Đại Nham, vận công chữa bệnh cho y. Chàng hỏi ra mới biết Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê và Ân Lê Đình ba người đã ra đi từ sáng sớm. Ai nấy thấy chàng tĩnh tọa, nhập định, không đến quấy rầy chàng luyện công. Bọn tiêu sư Long Môn tiêu cục cũng đã xuống núi. Lúc đó toàn thân Trương Thúy Sơn ướt đầm mồ hôi, nhưng vì gấp chuyện trả thù cho sư huynh, chàng không kịp tắm rửa thay quần áo, chỉ mang theo binh khí và quần áo tùy thân, lấy vài chục lượng bạc, đến phòng Du Đại Nham, nói:
    - Sư phụ, đệ tử đi đây.
    Trương Tam Phong gật đầu, mỉm cười, ý như khuyến khích.
    Trương Thúy Sơn đi đến bên cạnh giường, thấy Du Đại Nham mặt mày xám xịt, quyền cốt nhô lên, hai má lõm xuống, mắt nhắm nghiền, ngoại trừ mũi còn thở nhè nhẹ, nếu không chẳng khác gì người đã chết. Chàng thấy trong lòng đau đớn, nghẹn ngào nói:
    - Tam ca, dù em có phải tan xương nát thịt, cũng sẽ vì anh mà báo thù.
    Nói xong chàng quì xuống lạy sư phụ, ôm mặt chạy ra ngoài.
    Trương Thúy Sơn cưỡi con ngựa thanh thông chân dài, phi nhanh xuống núi. Lúc đó đã xế chiều nên chỉ chạy được năm mươi dặm thì trời đã tối. Chàng vừa vào quán trọ thì mây đen vần vũ, rồi mưa ào ào đổ xuống như trút nước. Mưa càng lúc càng to, mãi đến khuya vẫn không ngừng. Sáng hôm sau, chàng trở dậy, thấy bốn bề mờ mịt, tai chỉ nghe tiếng mưa lách tách. Chàng gọi chủ quán mua một bộ áo tơi, đội mưa ra đi. Cũng may là con ngựa thanh thông thật là thần tuấn, tuy trời mưa, đường trơn như mỡ, nhưng vẫn phóng như bay.
    Đi đến Lão Hà Khẩu, qua sông Hán Thủy thấy nước sông đục ngầu, ào ào chảy xuôi, thế nước thật là nguy hiểm. Khi qua Tương Phàn, chàng nghe trên đường người ta kháo nhau, bên dưới hạ lưu đê bị vỡ, người bị thương vô số kể. Hôm đó đi đến Nghi Thành, thấy dân chúng chạy lụt bồng bế nhau, tay xách nách mang trên đường, trong khi trời mưa chưa dứt, ai nấy ướt như chuột lột, tình cảnh thật đáng thương.
    Trương Thúy Sơn đang đi, thấy trước mặt một đoàn người ngựa, tiêu kỳ dương cao, chính là các tiêu sư của Long Môn tiêu cục. Chàng giục ngựa chạy lên, vượt qua tiêu đội, quay đầu lại, chặn ngay giữa đường.
    Đô Đại Cẩm thấy Trương Thúy Sơn đuổi đến, trong lòng kinh hoảng, ấp úng nói:
    - Trương ? Trương ngũ hiệp có điều chi chỉ dạy?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Những dân chúng bị thủy tai, Đô tổng tiêu đầu có thấy không?
    Đô Đại Cẩm không ngờ chàng lại hỏi y câu đó, ngẩn người, nói:
    - Cái gì?
    Trương Thúy Sơn cười khẩy:
    - Yêu cầu nhân ông mở lòng, đem hoàng kim ra cứu tế dân chúng.
    Đô Đại Cẩm mặt biến sắc, nói:
    - Chúng tôi là người bảo tiêu, đem mạng sống mình để trên đường đao mũi kiếm kiếm cơm ăn, có đâu tiền bạc cứu tế chẩn tai?
    Trương Thúy Sơn hạ giọng:
    - Ngươi mau bỏ hai nghìn lạng vàng trong bọc ra, đưa cả cho ta.
    Đô Đại Cẩm tay cầm cán đao, nói:
    - Trương ngũ hiệp, phải hôm nay ông định làm khó dễ họ Đô này chăng?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Đúng thế, ta cho ngươi biết tay.
    Chúc Sử hai tiêu đầu cũng rút binh khí ra, cùng Đô Đại Cẩm đứng ngang hàng. Trương Thúy Sơn chỉ hai tay không, cười nhạt mấy tiếng, nói:
    - Đô tổng tiêu đầu, ngươi nhận tiền của người ta, phải làm tròn việc người ta giao chứ? Hai nghìn lạng hoàng kim kia, ông mặt mũi nào mà nhận.
    Đô Đại Cẩm mặt mày tím ngắt, nói:
    - Du tam hiệp chả lên tới núi Võ Đương là gì? Khi giao y cho chúng tôi, y đã bị trọng thương, đến bây giờ cũng chưa chết.
    Trương Thúy Sơn giận quá, quát lên:
    - Ngươi còn già hàm, Du tam ca của ta hồi ở Lâm An chân tay có bị gãy không?
    Đô Đại Cẩm lặng yên không đáp.
    Sử tiêu đầu xen vào:
    - Trương ngũ hiệp, ông quả thực muốn gì, xin nói thẳng ra.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Ta muốn đem xương chân xương tay các ngươi bẻ ra từng tấc một.
    Câu nói đó vừa xong, chàng liền nhảy xuống, phi thân đến trước. Sử tiêu đầu giơ côn định đánh, Trương Thúy Sơn tay trái vung ra chộp lấy, sử võ công vừa mới học, chính là yếu quyết nét phẩy trong chữ thiên. Cây côn trong tay Sử tiêu đầu tuột ra, y cũng rơi xuống ngựa. Chúc tiêu đầu muốn lùi lại, nhưng còn làm sao cho kịp? Trương Thúy Sơn thuật tay sử yếu quyết nét nhấn của chữ thiên, tay quét ngang trúng ngang xương sườn y, nghe bình một tiếng, hất y cả người lẫn yên ra xa hơn một trượng. Hóa ra Chúc tiêu đầu hai chân quặp chặt lấy yên, mà kình đạo của nét quét đó hết sức mãnh liệt, cái đai buộc yên ngựa cũng bị đứt lìa, Chúc tiêu đầu chân vẫn còn ở trong ngàm, nên ngã lăn ra không dậy nổi.
    Đô Đại Cẩm thấy chàng ra tay nhanh như thế, sợ hãi, giựt cương giục ngựa chạy lên. Trương Thúy Sơn quay đầu trở lại, tay trái đấm ra, chính là nét chấm trong chữ hạ, nghe bịch một tiếng, trúng ngay hậu tâm y. Đô Đại Cẩm thân hình rung động, võ công của y so với Chúc Sử tiêu đầu cao hơn nhiều, nên không té xuống ngựa. Y nhảy xuống toan giao đấu, bỗng cổ họng mằn mặn, ọe một tiếng, phun ra một ngụm máu tươi. Chân y thất thểu bước tới, vội hít một hơi, chỉ thấy trong ngực máu nóng dồn lên, tuy cố giữ nhưng không chịu nổi, đầu gối nhũn ra ngồi bệt xuống đất.
    Trong tiêu hãng còn ba thanh niên tiêu sư và một số chạy hiệu, trông thấy thế chỉ biết há hốc mồm, trợn mắt đứng nhìn, không ai dám chạy tới đỡ.
    Trương Thúy Sơn lúc đầu lửa giận bừng bừng, những tưởng muốn đem chân tay bọn Đô Đại Cẩm từng người đánh gãy hết cho hả cơn tức. Thế nhưng chàng thấy mình thuận tay một quyền một chưởng, đã đánh cho ba tên tiêu sư bò lê bò càng, Đô Đại Cẩm lại bị trọng thương, nên không khỏi thầm kinh dị, đâu ngờ hai mươi bốn chữ ?Ỷ Thiên Đồ Long Công? lại có uy lực ghê gớm đến thế.
    Trong lòng thấy vui, chàng không còn muốn ra tay tàn nhẫn, nên nói:
    - Họ Đô kia, hôm nay ta xuống tay lưu tình, đánh cho các ngươi như thế cũng đã đủ. Ngươi bỏ hết số tiền hai nghìn lượng vàng trong túi ra, đem đi cứu tế người bị nạn. Ta ngấm ngầm xem xét, nếu ngươi giữ lại dù một lượng, tám tiền, ta sẽ đến Long Môn tiêu cục? giết hết tất cả, con gà con chó cũng không còn.
    Câu cuối cùng là chàng nghe Đô Đại Cẩm thuật lại, bây giờ nghĩ lại, thuận miệng nói ra. Đô Đại Cẩm từ từ đứng lên, nhưng thấy lưng đau quá, mỗi lần cử động, lại thổ ra một ngụm máu tươi. Sử tiêu đầu chỉ bị thương ngoài da thịt, biết mình không phải là đối thủ của Trương Thúy Sơn, nên không còn mạnh miệng nói cứng nữa. Y nói:
    - Trương ngũ hiệp, chúng tôi tuy nhận tiêu kim của người ta, nhưng vì chuyến này làm không nên việc, đành phải đem tiền trả lại. Hơn nữa, tiền bạc để hết tại tiêu cục ở Lâm An, chúng tôi thân tại nơi xa xôi, làm gì có mang tiền theo để mà cứu tế tai dân.
    Trương Thúy Sơn cười nhạt nói:
    - Bộ ngươi khinh ta là đứa trẻ con sao? Long Môn tiêu cục các ngươi bao nhiêu người đi hết, ở phủ Lâm An đâu còn tay hảo thủ nào giữ nhà, số hoàng kim đó các ngươi phải đem theo chứ.
    Chàng nhìn qua tiêu đội, đi tới một cỗ xe lớn, giơ chưởng lên đánh một cái, nghe lách cách mấy tiếng, thùng xe vỡ toang, rơi ra mấy chục lượng vàng. Bọn tiêu sư ai nấy biến sắc, kinh hãi không hiểu tại sao chàng lại biết được chỗ họ giấu vàng. Đâu biết rằng Trương Thúy Sơn tuổi tuy còn trẻ, nhưng đi theo các sư huynh hành hiệp, chuyện trên chốn giang hồ chứng kiến đã nhiều. Chàng thấy vết cỗ xe này lún sâu vào bùn nhiều hơn cả, ba tên tiêu sư trẻ thấy Đô Đại Cẩm bị thương ngã xuống, không chạy lại cứu trợ, lại đến cỗ xe này canh chừng, biết rằng trong xe phải chứa vật gì quí giá. Thấy hoàng kim rơi ra đầy đất, chàng cười khẩy mất tiếng, quay mình nhảy lên ngựa chạy đi.
    Trương Thúy Sơn thấy chuyện đó xảy ra thật là thống khoái, liệu rằng Đô Đại Cẩm e sợ tính mạng già trẻ trong nhà, không dám không đem hai nghìn lượng vàng ra cứu tế người bị nạn. Chàng một mặt chạy trên đường, một mặt nghĩ đến những biến hóa của chiêu số trong hai mươi bốn chữ. Tối hôm đó học được pho võ công này, chỉ tưởng sư phụ ra chiêu biến hóa kỳ diệu thôi, nào ngờ một khi thi triển mới thấy thật là thần uy, trong bụng còn vui gấp mười lần nhặt được của báu. Thế nhưng chợt nghĩ đến Du Đại Nham sống chết chưa biết ra sao, chàng không khỏi thở dài một tiếng.
    Trời mưa lớn liên tiếp mấy ngày trời, con ngựa thanh thông tuy tráng kiện, nhưng cũng không chịu nổi, đến địa giới tỉnh Giang Tây thì miệng sùi bọt trắng, thân nóng bừng bừng. Trương Thúy Sơn thương cho con vật, nên chạy chậm lại. Chàng đi một mạch đến phủ Lâm An thì đã ba mươi tháng tư.
    Trương Thúy Sơn vào một khách điếm, nghĩ thầm:
    - Ta đi đường chạy thật chậm, không biết bọn Đô Đại Cẩm đã về đền tiêu cục chưa? Nhị ca và thất đệ không biết bây giờ ở chỗ nào? Ta đã làm cho bọn tiêu sư bị mất mặt, không tiện đến gặp họ, tối nay mình đến tiêu cục thám thính xem sao.
    Ăn cơm tối xong, hỏi người chủ quán đường đi, biết Long Môn tiêu cục nằm ở bờ Tây Hồ. Chàng lên phố mua một bộ áo khăn, thêm một cái quạt xếp vốn nổi danh của đất Hàng Châu. Về phòng tắm rửa sạch sẽ, chải đầu gọn ghẽ, thay bộ quần áo mới, soi gương chàng thấy mình đã thành một công tử đẹp trai, đâu còn vẻ gì một hiệp sĩ uy chấn võ lâm? Trương Thúy Sơn mượn bút mực, định đề lên trên quạt một bài thơ, nào ngờ cầm bút lên, tự nhiên không chủ ý mà viết xuống hai mươi bốn chữ ?Ỷ Thiên Đồ Long?, nét nào nét ấy đều như muốn xuyên qua giấy mà đi. Viết xong chàng đưa lên ngắm không khỏi đắc ý, nghĩ thầm:
    - Học được sư phụ pho quyền pháp ấy, ngay cả thư pháp[5] mình cũng đại tiến.
    Chàng phe phẩy quạt, thảnh thơi đi dạo nhắm hướng Tây Hồ mà tới.
    Hồi đó nhà Tống đã bị diệt, phủ Lâm An thuộc về người Nguyên. Lâm An vốn là kinh đô cũ của nhà Nam Tống, người Mông Cổ sợ dân chúng còn nhớ tiền triều, lưu luyến chúa cũ, nên đặt trọng binh trấn áp. Để ra oai, nơi đây họ còn bạo ngược hơn những nơi khác, nên mười nhà thì chín bỏ trống, đa số dân chúng dời đi nơi khác. Một trăm năm trước, phủ Lâm An nhà nào cũng dương liễu rủ, đâu đâu cũng có tiếng đàn tiếng sáo, nay đâu còn nữa.
    Trương Thúy Sơn thẳng đường đi tới, thấy đâu đâu cũng ngói vỡ tường xiêu, cảnh vật tiêu điều, cái thành quách một thời phong thịnh của đất Giang Nam nay chỉ là hư phế. Lúc đó trời chưa tối hẳn, nhưng nhà nào cũng cửa đóng then cài, trên đường không ai qua lại, chỉ thấy kỵ binh Mông Cổ hoành hành, tra hỏi, đi tuần qua lại.
    Trương Thúy Sơn không muốn gây thêm phiền nhiễu, mỗi khi nghe tiếng thiết kỵ quân Nguyên, liền náu mình dưới góc tường hay hẻm nhỏ.
    Trước đây cứ vừa chập tối là mặt hồ đã đầy đèm đóm, bây giờ khi Trương Thúy Sơn chạy đến mặt đê, chỉ thấy mặt hồ đen ngòm, không ai qua lại. Chàng theo lời chỉ dẩn của người chủ quán, tìm đến trụ sở Long Môn tiêu cục. Tiêu cục đó là một dãy năm căn nhà lớn, mặt quay về phía Tây Hồ, trước cửa có một đôi sư tử bằng đá trắng, khí tượng uy võ. Trương Thúy Sơn đứng từ xa nhìn tới, di chuyển dần lại, thấy ngay trên mặt hồ ngay trước tiêu cục, có một chiếc du thuyền, đầu thuyền treo hai cái đèn lồng bằng sa xanh, dưới ánh đèn có một người đang ngồi uống rượu.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Người này kể cũng có nhã hứng thật!?. Lại thấy cái lồng đèn lớn treo bên ngoài tiêu cục cũng không đèn nến gì, cánh cửa có vòng đồng sơn màu đỏ kia cũng đóng chặt, chắc là người trong tiêu cục đã đi ngủ cả rồi.
    Trương Thúy Sơn chạy đến trước cửa, nghĩ thầm: ?Một tháng trước, có người đưa tam ca qua cánh cửa này, không biết người đó là ai??. Trong lòng bùi ngùi, bỗng nghe sau lưng có tiếng người thở dài.
    Tiếng thở dài đó trong đêm đen tĩnh lặng nghe như tiếng ma kêu, Trương Thúy Sơn quay đầu lại, thấy sau lưng không có ai cả, đảo mắt nhìn quanh một vòng, trừ người khách ngồi một mình trên chiếc thuyền trên hồ kia, chung quanh nào thấy bóng người. Trương Thúy Sơn hơi lấy làm lạ, nhìn người khách kia, thấy y áo dài xanh, mũ vuông, trông giống hệt mình, cũng ăn mặc ra dáng văn nhân, trong ánh sáng mờ mờ không nhìn rõ mặt, chỉ thấy nhìn ngang mặt y thật xanh xao, ánh đèn từ chiếc đèn lồng phất bằng bích sa chiếu vào, phản ảnh màu nước lục, nước lạnh thuyền đơn, lạnh lẽo thê lương, trông như không phải người trần thế. Lại thấy y ngồi trên thuyền một hồi lâu, trừ việc gió thổi vào quần áo phơ phất, y tuyệt nhiên yên lặng không động đậy.
    Trương Thúy Sơn đã tính nhân lúc tối trời sẽ vượt tường vào tiêu cục, nhưng thấy có người trên thuyền, e rằng đêm hôm làm thế không được quang minh chính đại, nên đi đến trước đại môn của tiêu cục, cầm cái vòng đồng, gõ vào cửa coong coong coong ba tiếng. Trong đêm vắng, ba tiếng gõ đó kêu vang rất to, truyền đi thật xa. Đợi một hồi, trong nhà không thấy ai ra mở cửa. Trương Thúy Sơn lại gõ thêm ba tiếng nữa, thanh âm vẫn kêu rất to, chàng lắng tai nghe, bên trong nhà cũng vẫn không thấy tiếng chân người. Chàng lấy làm lạ, đưa tay vào cánh cửa đẩy một cái, cửa lập tức mở ra không một tiếng động, hóa ra cửa không cài then. Chàng tiến vào gọi lớn:
    - Đô tổng tiêu đầu có trong nhà không?
    Nói rồi tiến vào đại sảnh.
    Đại sảnh tối đen như mực, không đèn đuốc gì cả. Ngay lúc đó, bỗng nghe bình một tiếng, cánh cửa chính bỗng đóng lại. Trương Thúy Sơn lập tức hiểu ngay, vội nhảy ra ngoài phòng, thấy cửa đã đóng chặt, lại có cài then, rõ ràng trong nhà có người. Chàng? cười khẩy mấy tiếng, nghĩ thầm: ?Các ngươi làm trò quỉ gì đây?? Nghĩ thế chàng lại mạnh dạn tiến vào trong nhà.
    Vừa đến cửa sảnh, bỗng thấy hơi gió từ trước sau, trái phải thổi tới, bốn bề đều có người cùng xông vào tấn công. Trương Thúy Sơn nghiêng người nhảy qua, trong bóng tối thấy ánh sáng hơi động, cả bốn người đó trong tay đều có binh khí. Chàng xoay qua bên trái, xông qua phía tây, hữu chưởng từ trái chém ngang qua phải, nghe chát một tiếng, đánh trúng huyệt Thái Dương của một người, lập tức người đó lăn ra bất tỉnh. Tiếp theo tay trái từ góc phải trên đánh chéo xuống góc trái dưới, đánh trúng ngay mạng sườn của một người khác. Hai chiêu đó là một nét ngang, một nét phẩy trong tự quyết chữ ?bất?. Hai cú đánh vừa xong, tay trái gạt xuống, tay phải liền tống ra, đủ bốn nét của chữ bất đã đánh ngã tất cả bốn đối thủ.
    Chàng không biết bọn mai phục trong đại sảnh để tập kích kia thuộc hạng người nào, nên ra tay không lấy gì làm nặng, mỗi chiêu chỉ sử độ ba thành kình lực. Người sau cùng bị cú thôi sơn phải lui về sau mấy bước, nghe lách cách, đã làm gãy một chiếc ghế bằng gỗ gụ, quát lên:
    - Ngươi? tàn ác như thế, ra tay quả là độc địa, nếu như nam nhi hán, đại trượng phu thì để lại tên đi.
    Trương Thúy Sơn cười đáp:
    - Nếu ta thực sự ra tay độc địa, liệu ngươi còn sống được không? Tại hạ là Võ Đương Trương Thúy Sơn đây.
    Người đó ?Ồ? một tiếng tựa hồ quá ư kinh ngạc, nói:
    - Có thực ngươi là Võ Đương Trương ngũ ? Trương ngũ ? Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn chăng? Ngươi không mạo danh đấy chứ?
    Trương Thúy Sơn mỉm cười, thò tay vào hông mò binh khí, tay trái hổ đầu câu bằng bạc vụn, tay phải phán quan bút bằng thép ròng, hai món binh khí đánh vào nhau, nghe coong một tiếng, lửa bắn ra tung tóe.
    Đốm lửa đó chỉ trong chớp mắt nhưng Trương Thúy Sơn đã nhìn rõ bốn người đều mặc tăng y màu vàng, hóa ra họ là hòa thượng. Trong bốn nhà sư có hai người đối mặt với chàng, nên cũng nhìn rõ tướng mạo. Trương Thúy Sơn thấy hai người đó mặt đầy vết máu, mắt lóe ra đầy vẻ oán độc, tưởng như muốn ăn thịt, lột da chàng mới hả, nên lấy làm lạ hỏi:
    - Bốn vị đại sư là ai?
    Chỉ nghe một tăng nhân kêu lên:
    - Mối huyết hải thâm cừu này, hôm nay chưa trả được, chạy đi thôi!
    Nói xong bốn nhà sư cùng đứng dậy chạy ra cửa, trong đó có một người chân khập khiễng, được vài bước đã ngã lăn ra đất, hình như bị trúng đòn nặng hơn cả. Hai nhà sư quay lại đỡ lên, dìu y ra ngoài sảnh.
    Trương Thúy Sơn kêu lớn:
    - Bốn vị ở lại một chút, cái gì mà huyết hải ?
    Nói chưa dứt câu, bốn nhà sư đã vượt tường chạy mất. Trương Thúy Sơn thấy chuyện buổi tối hôm nay rất là bất thường, suy nghĩ giây lát, vẫn không hiểu được nguyên do, tại sao trong Long Môn tiêu cục lại có bốn hòa thượng mai phục? Mình vừa bước chân vào đã tập kích, lại còn nói gì ?huyết hải thâm cừu? ? Chàng nghĩ thầm: ?Chuyện này chỉ hỏi những người trong tiêu cục mới có thể giải được những nghi nan này?. Chàng cao giọng gọi:
    - Đô tổng tiêu đầu có nhà không? Đô tổng tiêu đầu có nhà không?
    Đại sảnh trống không, vang vọng tiếng chàng dội lại, nhưng tuyệt nhiên không có ai trả lời.
    Chàng nghĩ thầm: ?Nhất định không phải họ ngủ say đến thế. Chẳng lẽ họ sợ mình nên trốn hết rồi chăng? Lẽ nào mọi người trong tiêu cuộc đều đi cả, không còn một ai?? Chàng thò tay vào bọc lấy đồ đánh lửa thắp lên, thấy trên bàn có để một cái chân nến bèn? châm vào đó, đi ra sau nhà. Đi chưa được mấy bước thấy dưới đất có một người đàn bà nằm phục xuống, không động đậy. Trương Thúy Sơn gọi to:
    - Này chị kia, làm sao thế?
    Người đàn bà đó không đáp, Trương Thúy Sơn cầm vai kéo lên soi đèn nhìn mặt, không khỏi kêu lên thất thanh.
    Người đàn bà đó mặt như mỉm cười, nhưng bắp thịt đã cứng, chết từ lâu rồi. Khi Trương Thúy Sơn cầm vai bà ta, đâu ngờ bà ta đã chết mà mặt vẫn còn cười, lúc đêm hôm nhìn thấy, không thể không giật mình. Chàng đứng thẳng dậy, thấy ở trước cái cột bên trái cũng có một người, đến gần nhìn xem, hóa ra là một ông già, quần áo mặc theo kiểu đầy tớ, mặt cũng cười một cách ngô nghê, nằm chết ở đó.
    Trương Thúy Sơn trong lòng cảm thấy kỳ lạ, tay trái lấy hổ đầu câu từ thắt lưng ra, tay phải giơ cao ngọn nến, từng bước từng bước đi xem xét, thấy đông một người, tây một người, bên trong bên ngoài, đến mấy chục mạng chết đầy mặt đất, xem ra cả Long Môn tiêu cục không một ai sống sót. Chàng hành tẩu giang hồ, sinh bình những cảnh ghê gớm thấy cũng đã nhiều, nhưng trước cái cảnh sát diệt mãn môn đang chứng kiến, cũng không khỏi tim đập thình thịch. Trương Thúy Sơn thấy bóng mình trên tường cũng lập lòe, hóa ra tay chàng cầm đèn phát run, cây nến cũng rung động nên bóng chàng cũng chuyển theo.
    Chàng thu móc đứng lại, nghĩ đến hai câu : ?Đường đi nếu có gì sai chạy, ta sẽ giết Long Môn tiêu cục của ngươi đến con gà con chó cũng chẳng còn?. Bây giờ thấy Long Môn tiêu cục ai cũng chết cả, ắt là tại vì hộ tống Du Đại Nham không được chu đáo. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Người ta hạ độc thủ như thế này cũng vì Du tam ca, hẳn phải là một hảo bằng hữu của anh ấy. Người này bản lãnh so với Đô Đại Cẩm cao hơn nhiều, lại biết rằng đường đi thể nào cũng gặp hung hiểm, sao y không tự mình đưa Du tam ca tới núi Võ Đương? Tam ca nhân hậu chính trực, ghét kẻ ác như kẻ thù, sao lại giao kết bạn bè với kẻ lòng độc như rắn rết thế này??.
    Chàng càng nghĩ những nghi vấn càng nhiều, nên từ căn nhà phía tây cất bước đi ra. Dưới ánh nến, thấy hai tăng nhân mặc áo màu vàng, lưng dựa vào tường, nhìn trừng trừng, nhe răng cười.
    Trương Thúy Sơn vội vàng lùi lại hai bước, giơ câu ra chặn hỏi:
    - Hai vị ở đây làm gì thế?
    Hai nhà sư đó nằm yên không động đậy, mới hiểu ra rằng họ cũng chết cả rồi. Đột nhiên chàng thấy lạnh ở tim, kêu lên:
    - Ối chao, không được rồi, huyết hải thâm cừu, huyết hải thâm cừu ?
    Bây giờ chàng mới hiểu tại sao lúc trước bốn nhà sư kia có hỏi :? Ngươi? tàn ác như thế, ra tay quả là độc địa, nếu như nam nhi hán, đại trượng phu thì để lại tên đi.? Lại còn nói : ?Mối huyết hải thâm cừu này, hôm nay chưa trả được? Xem ra món nợ máu mấy chục mạng của Long Môn tiêu cục, đổ cả lên đầu mình rồi. Khi đó mình không biết được chuyện này, đã không những chính miệng nói tên ra, lại còn lộ ra cả món võ khí thành danh ngân câu thiết hoạch. Nhưng bốn gã sư áo vàng đó lai lịch ra sao?
    Trương Thúy Sơn ra tay quá nhanh, chỉ mới sử bốn nét trong tự quyết một chữ ?bất? đã đánh ngã cả bốn nhà sư, không kịp coi gia số võ công của đối phương, thế nhưng tứ tăng khi xông vào đều kình lực cương mãnh, hiển nhiên là đường lối ngoại gia của Thiếu Lâm. Đô Đại Cẩm là đệ tử Thiếu Lâm nên những nhà sư hẳn là do y kêu gọi đến viện thủ, không biết Du nhị ca và Mạc thất đệ giờ này ở đâu, sư phụ đã sai đến đây bảo hộ gia quyến trẻ già của Long Môn tiêu cục, với khả năng của nhị ca sao đến nỗi để người ta hạ thủ như thế này?
    Trương Thúy Sơn trầm ngâm giây lát, hiểu rõ nguyên do, nghĩ thầm: ?Nếu những nhà sư này từ chùa Thiếu Lâm đến, thể nào phái Thiếu Lâm cũng đổ tội lên đầu mình, dẫu rằng sau này rồi mọi việc cũng ngã ngũ, hung thủ đích thực là ai, hai phái Thiếu Lâm Võ Đương liên thủ thể nào cũng phải tìm ra manh mối. Chuyện này hiện giờ mình chưa thể làm gì, tốt nhất là đi kiếm nhị ca và thất đệ là cần kíp hơn cả?.
    Chàng thổi tắt nến, chạy ra bờ tường, nhảy vọt ra ngoài.
    Chân chưa chạm đất,? bỗng nhiên nghe vù một tiếng thật lớn, một món binh khí nặng nề đánh ngang qua thắt lưng, lại nghe một người nói:
    - Trương Thúy Sơn, ngã này.
    Trương Thúy Sơn đang ở trên không, không cách gì né tránh, cú đánh của kẻ địch lại vừa độc vừa mạnh, trong cơn nguy cấp, chàng đưa tay trái đè vào binh khí của địch, mượn sức, nhẹ nhàng khéo léo nhảy trở lại đầu tường. Chiêu đó chính là nét mác trong tự quyết chữ võ, thật đúng là ?sai trì yến khởi, chấn tốc hồng phi, lâm nguy chế tiết, trung hiểm đằng ki (cơ)?[6], trong đường tơ kẽ tóc, chuyển nguy thành an.
    Trong khi đang ở vào thế không còn cách gì khác hơn, chàng đâu ngờ rằng pho võ công mới học khi nặng thì như đá lở, khi nhẹ lại như khói sương, không tốn một chút hơi sức giải ngay được thế đánh của đối phương.
    Chân trái chàng đạp lên đầu tường, tay phải rút phán quan ra, biết rằng đòn vừa rồi của kẻ địch đánh ngang hông, vừa độc địa, vừa mãnh liệt, quả là một hảo thủ không thể coi thường. Người vừa tập kích thấy Trương Thúy Sơn dễ dàng tránh được thế của mình, quả thực ngoài dự định, nhịn không nổi phải ?Ồ? một tiếng, quát lên:
    - Hảo tiểu tử, ngươi quả không phải tay vừa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:30:31 | Chỉ xem của tác giả
  Trương Thúy Sơn tay trái cầm câu, tay phải cầm bút, đưa ra bảo vệ mặt trước, đầu câu và mũi bút đều hướng về phía đối phương, chiêu này gọi là ?Cung Linh Giáo Huấn?[7], là một cách để biểu lộ sự kính trọng khi đối địch với một bậc tiền bối trong võ lâm. Vừa rồi khi đối phương ra tay tập kích, nếu như Trương Thúy Sơn không học được của sư phụ pho võ công hóa xuất từ thư pháp ra thì ắt là đã lưng nát, xương gãy, trong lòng tuy rất bực tức nhưng vẫn cẩn thủ sư huấn, không dám thất lễ với một cao thủ.
    Trong bóng đêm chàng thấy đứng hai bên hai nhà sư mặc áo vàng, mỗi người cầm trong tay một thanh thiền trượng to chắc. Tăng nhân ở bên trái giơ gậy dậm xuống đất một cái, nghe ầm một tiếng lớn, nói:
    - Trương Thúy Sơn, Võ Đương thất hiệp các ngươi cũng là những người đã thành danh trên chốn giang hồ, sao lại hành sự tàn ác đến như thế?
    Trương Thúy Sơn nghe y gọi thẳng tên mình chứ không gọi là Trương ngũ hiệp, cũng không gọi Trương ngũ gia, trong bụng hơi giận nên chỉ lạnh lùng đáp:
    - Đại sư chưa hỏi đầu đuôi, chưa nói phải trái, núp ở dưới chân tường lén lén lút lút tập kích, như thế là hành vi của anh hùng hảo hán chăng? Tôi vẫn thường nghe võ công phái Thiếu Lâm trì danh thiên hạ, nào ngờ thủ đoạn ám toán cũng có chỗ độc đáo hơn người.
    Nhà sư đó giận dữ gầm lên một tiếng, cầm ngang thiền trượng nhảy lên đầu tường, người chưa hạ xuống nhưng đầu trượng đã đánh tới. Trương Thúy Sơn thấy một làn kình phong? đâm thẳng vào ngực, liền vung hổ đầu câu vòng lên, chặn thiền trượng lại, phán quan bút lập tức điểm ra, nghe keng một tiếng, bút đã điểm ngay vào thân gậy. Tăng nhân đó thấy cánh tay chấn động, không còn đứng vững trên đầu tường được, rơi phịch xuống đất. Thế nhưng hai bên giao qua một chiêu, Trương Thúy Sơn cũng thấy hai tay tê chồn, hóa ra sức cánh tay của tăng nhân đó thật mạnh, nên hỏi lớn:
    - Hai vị là ai, xin thông báo pháp hiệu?
    Nhà sư ở phía bên phải từ tốn đáp:
    - Bần tăng Viên Âm, còn đây là sư đệ Viên Nghiệp.
    Trương Thúy Sơn hạ đầu câu, đầu bút xuống, cung kính nói:
    - Hóa ra là hai vị đại sư thuộc hàng chữ ?Viên? của chùa Thiếu Lâm, tiểu khả[8] từng nghe tên đã lâu, không hiểu muốn dạy bảo chuyện gì?
    Giọng của Viên Âm xem chứng như không có hơi sức, thở hổn hển, nói:
    - Chuyện này có quan hệ đến đại sự của hai phái Thiếu Lâm Võ Đương, sư huynh đệ bần tăng chỉ là tiểu bối trong phái Thiếu Lâm, không đủ tư cách để nói, nhưng hôm nay chỉ muốn hỏi một câu, Long Môn tiêu cục trai gái mấy chục người, trong đo có cả hai người sư điệt của chúng tôi, đều chết dưới tay Trương ngũ hiệp. Người đời thường nói là ?mệnh con người có liên quan đến trời, sao cho được an lành về sau?, mong được hỏi Trương ngũ hiệp định như thế nào?
    Tuy y nói có vẻ khiêm hòa nhưng mỗi lời đều có ý kết tội, xem ra người này so với Viên Nghiệp còn lợi hại hơn nhiều. Trương Thúy Sơn cười nhạt đáp:
    - Mệnh án tại Long Môn tiêu cục này do ai ra tay, chính tiểu khả cũng đang lấy làm lạ. Đại sư sao một mực cho là độc thủ của tiểu khả, phải chăng chính mắt đại sư trông thấy?
    Viên Âm gọi:
    - Tuệ Phong, ngươi ra đối chất với Trương ngũ hiệp.
    Sau những gốc cây đi ra bốn nhà sư mặc áo vàng, chính là bốn người vừa bị Trương Thúy Sơn dùng tự quyết chữ ?bất? đánh ngã. Nhà sư có pháp danh Tuệ Phong khom lưng nói:
    - Khải bẩm sư bá, Long Môn tiêu cục mấy chục nhân khẩu, trong đó có cả Tuệ Thông, Tuệ Quang hai vị sư huynh, đều bị ? tên ác tặc họ Trương hạ độc thủ.
    Viên Âm nói:
    - Các ngươi chính mắt trông thấy không?
    Tuệ Phong đáp:
    - Quả thực chính mắt nhìn thấy, nếu như bốn người đệ tử chạy không nhanh, thì cũng chết dưới tay tên ác tặc này rồi.
    Viên Âm nói:
    - Đệ tử nhà Phật không được nói láo, việc này có liên quan đến hai đại môn phái Thiếu Lâm chúng ta và phái Võ Đương, nghìn vạn lần không được nói năng bậy bạ.
    Tuệ Phong quì ngay xuống đất, chắp tay nói:
    - Có Đức Phật ở trên, đệ tử Tuệ Phong xin thưa rằng, quả là tình thực mà nói, quyết không dám lừa dối sư bá.
    Viên Âm nói:
    - Ngươi đem tình hình mắt ngươi trông thấy, nói lại đầu đuôi xem nào.
    Trương Thúy Sơn nghe đến đây, từ trên đầu tường nhảy ngay xuống đất.
    Viên Nghiệp tưởng rằng Trương Thúy Sơn định gia hại Tuệ Phong, huy động thiền trượng ngay đầu chàng quét ngang. Trương Thúy Sơn rùn mình, lách người về phía trước, chuyển ngay ra phía sau lưng Tuệ Phong. Viên Nghiệp đánh không trúng, cứ đúng theo chiêu số của Phục Ma Trượng thì sẽ chuyển đầu đâm lại vào vai Trương Thúy Sơn. Thế nhưng lúc này chàng đang đứng sau Tuệ Phong, nếu như thiền trượng hồi chuyển, ắt sẽ đánh vào Tuệ Phong trước, trong cơn kinh hoảng chỉ còn cách cố giữ trượng lại, quát lên:
    - Ngươi định làm trò gì?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Ta muốn cẩn thận lắng nghe cho kỹ xem y kể lại chuyện ta giết người của Long Môn tiêu cục như thế nào.
    Tuệ Phong thấy Trương Thúy Sơn đứng ngay cạnh mình, cách nhau không đầy hai thước, binh khí trong tay chỉ vung lên, là mình sẽ táng mệnh ngay lập tức dẫu rằng có hai vị sư bá ở bên, muốn cứu cũng không kịp. Thế nhưng y trong lòng phẫn nộ nên vẫn ngang nhiên không sợ, nói lớn:
    - Viên Tâm sư thúc ở Giang Bắc nhận được thư cáo cấp của Đô Đại Cẩm sư huynh, nên lập tức phái Tuệ Thông, Tuệ Quang hai vị sư huynh ngày đêm chạy đến cứu nguy, sau lại truyền hiệu lệnh, sai đệ tử cùng ba người sư đệ, đến Long Môn tiêu cục. Chúng con vừa đến tiêu cục, Tuệ Quang sư huynh đã e ngại đêm nay sẽ có cường địch đến, nên sai bốn người chúng con phục tại tường phía đông để chờ, lại dặn nên cẩn thận đừng để trúng kế điệu hổ ly sơn, không được tự ý đi khỏi nơi đây.
    Viên Âm nói:
    - Sau đó thế nào? Nói ta nghe.
    Tuệ Phong nói:
    - Trời vừa tối không lâu, bỗng nghe Tuệ Thông sư huynh lên tiếng chửi mắng, cùng người động thủ ở hậu sảnh, sau đó nghe y kêu lên thảm thiết, tựa hồ đã bị trọng thương. Chúng con chạy đến thì thấy ? y ?y đã viên tịch, tên ác tặc họ Trương ?
    Đến đây, y dậm chân nghiến răng chỉ ngay vào mặt Trương Thúy Sơn, nói:
    - -??????????? Chính mắt ta thấy ngươi một chưởng đánh Tuệ Quang sư huynh văng vào tường chết tươi. Ta tự biết không phải là địch thủ của tên ác tặc, nên nằm phục ở bên ngoài cửa sổ, thấy ngươi đi ra hậu viện giết người, sau đó tám người từ hậu viện chạy ra, ngươi đuổi theo, dùng chỉ điểm chết từng người một, đến khi già trẻ lớn bé không còn một ai, ngươi mới nhảy qua tường đi mất.
    Trương Thúy Sơn lặng yên đứng nghe, Tuệ Phong nói đến nước bọt tung tóe, văng cả vào mặt chàng, chàng cũng không né tránh, cũng không xuất thủ, chỉ lạnh lùng nói:
    - Rồi sau thế nào?
    Tuệ Phong phẫn uất nói:
    - Sau thế nào ư? Về sau ta trở lại tường phía đông cùng ba vị sư đệ thương lượng, đều thấy ngươi võ công quá cao, bốn người chúng ta không thể nào địch nổi, chỉ còn cách xem xét tình hình rồi sẽ tính sau. Nào ngờ đợi chẳng bao lâu, ngươi đã phá cửa trở vào, lần này lại còn gọi đích danh Đô tổng tiêu đầu ra nói chuyện. Bốn người bọn ta biết rằng ra là chết, nhưng cũng cùng ngươi sống mái một phen. Ta hỏi tên họ ngươi, ngươi không phải tự báo danh hiệu,? gọi là ?Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn? đấy ư? Lúc đầu ta không tin, nghĩ ngươi là một trong Võ Đương thất hiệp lẽ nào lại giở trò giết người không nháy mắt, tàn ác như thế, nhưng đến khi ngươi tự lộ binh khí, thì còn giả làm sao được?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Ta tự báo tính danh, lộ xuất binh khí, cái đó thì quả thật không phải là giả, bốn người bọn ngươi chính ta đánh ngã. Thế nhưng ngươi nói lại đi: ?Mấy chục nhân mạng trong tiêu cục này, các ngươi chính mắt trông thấy họ Trương này giết hại?.
    Ngay lúc đó, Viên Âm phất tay áo một cái, nắm ngay lấy Tuệ Phong kéo ra xa vài thước, nghiêm nghị nói:
    - Ngươi nói lại một lần nữa, để cho vị Trương ngũ hiệp danh chấn thiên hạ này không còn cãi chầy cãi cối được nữa.
    Y dùng tay áo đẩy Tuệ Phong ra xa cốt y thân không còn tại nơi hiểm địa, để Trương Thúy Sơn không có thể nổi giận bất ngờ, ra tay giết người diệt khẩu, không ai đối chất.
    Tuệ Phong nói:
    - Tốt lắm, để ta nói lại một lần, chính mắt ta trông thấy ngươi xuất chưởng đánh chết Tuệ Quang, Tuệ Thông hai vị sư huynh, chính mắt ta thấy ngươi dùng chỉ điểm chết tám người của tiêu cục.
    Trương Thúy Sơn lại hỏi:
    - Ngươi có trông rõ mặt mày ta không? Ta mặc quần áo thế nào?
    Nói rồi đánh lửa châm đuốc, chiếu ngay vào mặt mình. Tuệ Phong giương mắt nhìn diện mạo chàng, hậm hực nói:
    - Chính ngươi mặc bộ quần áo này, trường bào phương cân, không sai. Lúc đó tay trái ngươi cầm một cái quạt xếp, cái quạt đó, ngươi đang? gài trên cổ áo kia kìa.
    Trương Thúy Sơn giận quá hóa điên, không hiểu tại sao y lại cố tình vu hãm mình như thế, giơ cao ngọn đuốc, tiến lên hai bước, quát lên:
    - Ngươi có gan thì nói lại một lần đi, kẻ giết người chính là Trương Thúy Sơn, không phải ai khác.
    Hai mắt Tuệ Phong đột nhiên phát ra một thần sắc kỳ dị, chỉ vào mặt chàng nói:
    - Ngươi ? ngươi ? ngươi không ?
    Bỗng dưng ngã nhào xuống đất, nằm lăn ra. Viên Âm và Viên Nghiệp cùng hoảng hốt kêu lên, xông lại đỡ y dậy. Tuệ Phong hai mắt mở trừng trừng, đầy vẻ kinh ngạc sợ hãi, nhưng khí đã tuyệt rồi.
    Viên Âm kêu lên:
    - Ngươi ? ngươi đánh chết y rồi ư?
    Biến cố đó xảy ra thật mau, Viên Âm và Viên Nghiệp dĩ nhiên vừa sợ vừa tức, đến Trương Thúy Sơn cũng không sao lường được, lập tức quay đầu lại, chỉ thấy sau lùm cây có cái gì hơi động. Trương Thúy Sơn quát lên:
    - Đừng chạy.
    Chàng tung mình nhảy tới, biết rằng trong bụi có người ẩn phục, xông vào rất là nguy hiểm, nhưng trong thế kẹt, nếu không bắt được kẻ ám tiễn thương nhân kia, bản thân mình không sao thoát khỏi can hệ.
    Nào ngờ khi thân chàng còn đang ở trên không, lại nghe thấy hai tiếng vù vù ở phía sau, hai cây thiền trượng chia hai bên tả hữu đánh tới, đồng thời nghe hai nhà sư quát lên:
    - Ác tặc đừng chạy.
    Trương Thúy Sơn đưa bút và câu xuống gạt ra, trả lại hai đòn trong tự quyết chữa ?đao?, ngân câu móc trúng thiền trượng của Viên Nghiệp, phán quan bút điểm vào thiền trượng của Viên Âm, thân hình mượn sức nhảy lên, nhảy lên đầu tường, chăm chú nhìn vào bụi cây, chỉ còn thấy tàn hơi rung động, còn kẻ ẩn trong đó không thấy tung tích gì nữa.
    Viên Nghiệp liên tiếp rống lên, huy động thiền trượng toan nhảy lên đầu tường thí mạng. Trương Thúy Sơn quát lên:
    - Đuổi theo chính hung thủ là cần, hai vị đừng có ngăn trở.
    Viên Âm thở hổn hển nói:
    - Ngươi ? ngươi ngay trước mắt bọn ta giết người, lại còn tính chuyện bài bây ư?
    Trương Thúy Sơn huy động hổ đầu câu ép cho Viên Nghiệp không sao nhảy lên trên tường được. Viên Âm nói:
    - Trương ngũ hiệp, chúng tôi hôm nay không cần phải lấy mạng của ngươi, các hạ bỏ binh khí xuống, theo chúng tôi về chùa Thiếu Lâm là xong.
    Trương Thúy Sơn giận dữ đáp:
    - Hai người làm vướng chân vướng tay để cho hung thủ chạy mất, đến bây giờ cũng còn chưa biết đầu đuôi. Ta theo các ông về chùa Thiếu Lâm làm gì?
    Viên Âm đáp:
    - Về chùa Thiếu Lâm để cho phương trượng bản tự định đoạt. Ngươi giết hại ba người của chùa chúng tôi, chuyện này là chuyện lớn, ta không thể giải quyết được.
    Trương Thúy Sơn cười nhạt:
    - Uổng cho các ông là hảo thủ thuộc hàng chữ ?Viên? của chùa Thiếu Lâm, hung thủ ở ngay trước mắt đào tẩu, vậy mà không biết gì cả.
    Viên Âm nói:
    - Thiện tai ! Thiện tai ![9] Ngươi làm hại mạng người, nhất định ta không thể để ngươi chạy thoát.
    Trương Thúy Sơn thấy y một mực đổ cho mình là thủ phạm, trong lòng càng bực bội thêm, một mặt đấu khẩu với y, một mặt sách chiêu với Viên Nghiệp không cho y nhảy lên đầu tường, càng lúc đấu càng mãnh liệt, nên cười nhạt nói:
    - Hai vị đại sư có bản lãnh thì cứ bắt tôi đi !
    Viên Nghiệp giơ thiền trượng giáng xuống đất một cái, mượn sức nhảy vọt lên, Trương Thúy Sơn cũng nhảy theo, khinh công của chàng so với Viên Nghiệp cao hơn nhiều nên đứng từ cao đánh xuống, nhanh chẳng khác gì đang cưỡi gió. Viên Nghiệp giơ ngang trượng định đỡ, hổ đầu câu của Trương Thúy Sơn lập tức chuyển qua, nghe xoẹt một tiếng đã móc trúng vai, máu chảy tung tóe, khiến y kêu rống lên, rơi trở lại đất. Cú đánh đó là Trương Thúy Sơn còn thủ hạ lưu tình, chứ nếu không chỉ đi xéo qua một chút sẽ móc ngay vào yết hầu của Viên Nghiệp, y không khỏi chết ngay tại chỗ.
    Viên Âm kêu lên:
    - Viên Nghiệp sư đệ, bị thương có nặng không?
    Viên Nghiệp giận dữ nói:
    - Chẳng sao cả ! Sao sư huynh không xuất thủ mà cứ đứng đó lèm bèm gì nữa?
    Viên Âm ho một tiếng, giơ trượng đánh lên. Viên Nghiệp vẫn rất hùng hổ, không để ý tới chỗ bị thương trên đầu vai, múa trượng như gió cuốn, hai bên xáp lại tấn công. Trương Thúy Sơn thấy hai nhà sư này tí lực[10] thật là mạnh mẽ, sử một loại binh khí thật nặng nề, nếu để họ nhảy lên được trên tường, một chống hai muốn thắng càng thêm khó khăn. Nghĩ thế chàng thủ môn hộ thật nghiêm nhặt, từ cao đánh xuống, nhị tăng không cách gì có thể đánh lên. Ba nhà sư hàng chữ ?tuệ? võ công kém xa, thấy hai vị sư bá đánh đã lâu mà chưa nên công cán gì, muốn nhảy vào tương trợ, nhưng không có cách gì chen vào được.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Hiện tại không có cách gì hay hơn là phải điều tra cho ra hung thủ, không thể để cho bọn họ cứ luẩn quẩn quấy rầy mình mãi được?. Chàng bèn giơ câu và bút đan chéo ra trước mặt để chặn các thế tấn công đánh tới, hú lên một tiếng, đang định nhảy đi, bỗng nghe phía bên trong tường một người rống lên như sấm, sau lưng đã thấy một luồng lực đánh tới. Chàng liền nhảy xuống đất, thì thấy một tăng nhân cao lớn nhảy qua tường, vươn tay ra toan đoạt binh khí của chàng. Trong bóng đêm không nhìn rõ diện mạo, nhưng mười ngón tay y như mười cái móc câu, trảo cũng cứng mà cách đoạt cũng mạnh, đúng là môn Hổ Trảo Công cực kỳ lợi hại của phái Thiếu Lâm.
    Viên Nghiệp kêu lên:
    - Viên Tâm sư huynh, dù cách nào cũng không để cho tên ác tặc này chạy thoát.
    Trương Thúy Sơn từ khi học nghệ thành đến nay, ít khi gặp địch thủ, nửa tháng trước lại được thêm ?Ỷ Thiên Đồ Long Công?, võ công càng cao. Lúc này chàng thấy các nhà sư Thiếu Lâm cực kỳ uy mãnh, lại muốn chọc cho đối phương nổi giận, nên đem hổ đầu câu và phán quan bút cài lại vào lưng, kêu lên:
    - Hỡi ba người của chùa Thiếu Lâm hãy tất cả xông lên, ta Trương Thúy Sơn đâu có sợ gì?
    Thấy tay trái của Viên Tâm chộp tới, chàng vươn tay phải ra dùng chỉ đối lại, nghe soạt một tiếng đã xé rách một mảnh tay áo tăng bào. Thủ trảo của nhà sư lại toan chộp vào vai Trương Thúy Sơn, chàng liền giơ chân trái đá lên, trúng ngay đầu gối y.
    Nào ngờ hạ bàn công phu của Viên Tâm rất là chắc chắn, tuy đầu gối bị trúng một cú đá mạnh nhưng y chỉ loạng choạng mà không ngã. Y rống lên như hổ gầm, tay phải lại chộp ra. Cùng lúc đó, hai thiền trượng của Viên Âm, Viên Nghiệp cũng đồng thời đánh tới, một thọc ngang hông, một trên bổ xuống.
    Viên Âm khi nói luôn luôn ho sù sụ như người bị bệnh nặng, thực ra trong ba người y là người có võ công cao hơn cả. Cây thiền trượng bằng đồng đúc nặng đến mấy chục cân mà y sử dụng chẳng khác gì một món binh khí tầm thường, đâm chém đỡ gạt, nhẹ nhàng như không.
    Trương Thúy Sơn gặp được hảo thủ, nghĩ thầm:
    - Phái Võ Đương ta và phái Thiếu Lâm ít lâu nay cùng nổi danh trong võ lâm, thế nhưng bên nào cao bên nào thấp, chưa bao giờ có dịp so sánh. Hôm nay quả là một dịp hay để xem cao tăng chùa Thiếu Lâm đến độ nào.
    Nghĩ thế chàng thi triển hai bàn tay không, giữa hai cây thiền trượng và một đôi hổ trảo tung hoành qua lại, chém phạt chộp nắm, chỉ đâm chưởng lách, tuy một địch ba, nhưng lại dần dần chiếm được thượng phong.
    Thiếu Lâm và Võ Đương hai bên đều có sở trường sở đoản, phái Võ Đương có được một vị cái thế kỳ tài là Trương Tam Phong, trong khi Thiếu Lâm đã có hơn nghìn năm sửa đổi truyền thụ, không phải kém cỏi gì. Có điều lúc này Trương Thúy Sơn là loại hảo thủ bậc nhất của phái Võ Đương trong khi Viên Âm, Viên Tâm, Viên Nghiệp tuy võ công cũng có mức thành tựu, nhưng tại chùa Thiếu Lâm cũng chỉ là loại hạng nhì. Hai bên đánh càng lâu, Trương Thúy Sơn thần khí càng thêm sung túc, tiêu sái nhẹ nhàng. Chàng tay phải? đánh ra, sử thế móc trong tự quyết chữ ?Long?, chộp ngay được thiền trượng của Viên Nghiệp, thuận tay hất ra đỡ ngay thiền trượng của Viên Âm vừa đánh tới. Thế đó mượn sức đánh sức, nghe choang một tiếng lớn,? khiến tai mọi người đều lùng bùng. Lực khí Viên Âm và Viên Nghiệp đều mạnh, lại thêm lực đạo của Trương Thúy Sơn khiến cho hổ khẩu hai người đều ứa máu. Viên Tâm trong lòng kinh hãi, xông lên cứu viện. Trương Thúy Sơn đưa chân móc một cái, lật chưởng đánh vào đầu vai y, lại mượn sức y đang xông về trước, đẩy y ngã xuống.
    Trương Thúy Sơn cười khẩy:
    - Muốn bắt ta để đưa lên chùa Thiếu Lâm, các ngươi phải học thêm vài năm nữa.
    Nói xong quay mình định đi. Viên Tâm tung mình nhảy tới, kêu lên:
    - Hung đồ chớ chạy.
    Kế? tiếp Viên Âm và Viên Nghiệp hai người cũng chạy đến nơi. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Nếu ba gã hòa thượng này cứ luẩn quẩn không chịu buông, chẳng lẽ mình đánh chết họ?. Chàng liền đề một khẩu khí, thi triển khinh công chạy vụt đi.
    Viên Tâm và Viên Nghiệp kêu la rầm rĩ chạy đuổi theo. Hai người khinh công không bằng Trương Thúy Sơn nên chỉ gào lên:
    - Bắt lấy tên hung thủ giết người ! Ác tặc chớ có chạy !
    Tiếp tục chạy theo bờ hồ không chịu bỏ.
    Trương Thúy Sơn trong lòng cười thầm, nghĩ bụng các ngươi đuổi theo ta sao nổi. Bỗng nghe Viên Tâm và Viên Nghiệp ở sau lưng cùng kêu lên:
    - Ối chà !
    Viên Âm kế đó cũng kêu lên hình như cả ba người đều bị đau đớn. Trương Thúy Sơn kinh ngạc quay đầu nhìn, chỉ thấy ba nhà sư đều giơ tay ôm mắt phải, tựa hồ trúng phải ám khí. Quả nhiên nghe thấy Viên Nghiệp lớn tiếng chửi:
    - Họ Trương kia, ngươi có giỏi thì đánh mù nốt mắt trái ta đi.
    Trương Thúy Sơn cũng ngớ người ra: ?Không lẽ mắt phải y đã bị người nào làm mù rồi ư? Không biết ai là người đã ám trợ mình??. Chàng chợt nghĩ ra, kêu lên:
    - Thất đệ, thất đệ, em ở đâu đó ?
    Trong Võ Đương thất hiệp chỉ có người thứ bảy là Mạc Thanh Cốc phát xạ ám khí giỏi hơn cả, nên Trương Thúy Sơn nghĩ rằng y đã đến.
    Chàng kêu lên mấy lần nhưng không nghe tiếng ai trả lời. Trương Thúy Sơn cử bộ chạy nhìn chung quanh mấy cây liễu lớn ở ven hồ, nhưng không thấy bóng một ai. Viên Nghiệp một mắt bị bắn mù, giận dữ điên cuồng, không còn kể sống chết nhất định xông lên cùng Trương Thúy Sơn một mất một còn. Thế nhưng Viên Âm biết rằng dù còn cả hai mắt, ba người cũng không phải là địch thủ của Trương Thúy Sơn, nên níu Viên Nghiệp lại, nói:
    - Viên Nghiệp sư đệ, việc báo cừu đâu phải chỉ tại một lúc này? Chuyện này dù ta và ngươi không lý đến, lão phương trượng và hai vị sư thúc cũng bỏ qua sao được ?
    Trương Thúy Sơn thấy ba nhà sư không đuổi theo nữa, trong lòng đầy nghi hoặc: ?Người trong bóng tối náu mình ra tay ám trợ ta, không biết là ai?.? Chàng không dám ở lại bờ hồ lâu hơn nữa, rảo bước trở về khách điếm, nhưng chưa được mươi trượng thấy đám lau lách bên hồ không ngừng rung động.
    Lúc này mặt hồ không có gió, lau lách xào xạc hẳn là có người nấp ở bên trong. Trương Thúy Sơn chạy đến, đang định lên tiếng hỏi, trong đám lau nhảy vụt ra một người, giơ đao nhắm đầu chàng chém xuống, quát lên:
    - Ngươi không chết, thì ta chết !
    Trương Thúy Sơn nghiêng người đá lên, trúng ngay cổ tay phải y. Cương đao trong tay người đó tuột ra, lấp lánh một tia ánh sáng trắng, nghe tõm một tiếng đã rơi xuống hồ. Nhìn lại người đó, mặc tăng bào, đầu trọc, cũng lại là một nhà sư chùa Thiếu Lâm. Trương Thúy Sơn quát:
    - Ngươi ở đây làm gì ?
    Chỉ thấy trong đám lau còn ba người nữa, không biết đã chết hay chỉ bị thương. Chàng thấy nhà sư đó võ công bình bình, nên không cố kỵ, đi tới mấy bước cúi mình xuống xem, thấy ba người đó chính là Đô Đại Cẩm và Chúc, Sử tiêu đầu của Long Môn tiêu cục.
    Trương Thúy Sơn kinh ngạc, kêu lên:
    - Đô tổng tiêu đầu, ông ? ông sao lại ?
    Nói chưa dứt câu, Đô Đại Cẩm đã nhảy lên, hay tay túm chặt lấy ngực chàng, nghiến răng nói:
    - Ác tặc, ta bất quá để lại có ba trăm lượng hoàng kim, ngươi ? ngươi cũng hạ độc thủ.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Ngươi định làm gì?
    Chàng định dùng cầm nã pháp thoát ra, thấy khóe mắt, khóe miệng y đều có máu tươi, lúc này tuy là ban đêm, nhưng chỉ cách nhau không đầy nửa thước, nhìn thấy rõ ràng, kinh hãi hỏi:
    - Ông bị nội thương chăng?
    Đô Đại Cẩm quay qua nhà sư Thiếu Lâm kia nói:
    - Sư đệ, ngươi nhìn cho rõ, người này tên gọi Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn, chính là ? chính là hung thủ hại người. Ngươi mau chạy đi, chạy nhanh đi, đừng để y đuổi kịp ?
    Đột nhiên hai tay nắm chặt, dùng đầu đập mạnh vào trán Trương Thúy Sơn một cái, muốn cùng chàng hai bên đầu cùng vỡ toang để chết một lượt.
    Trương Thúy Sơn vội vàng hai tay xoay qua, đẩy vào đầu vai y một cái, chỉ nghe soạt một tiếng, Đô Đại Cẩm đã bị hất văng ra ngoài nhưng áo chàng cũng bị rách một mảng lớn ngay trước ngực. Trương Thúy Sơn tuy rất lớn mật, nhưng hôm nay gặp bao nhiêu là chuyện khác thường, thần tình Đô Đại Cẩm lại khiến cho người ta hãi sợ, khiến chàng không khỏi tim đập thình thịch, cúi đầu nhìn xuống, Đô Đại Cẩm mắt đã trợn trắng,? khí đã tuyệt rồi. Y vốn đã bị nội thương nặng, chàng chỉ đẩy nhẹ vào đầu vai y, quyết không thể nào giết y nổi.
    Gã sư chùa Thiếu Lâm kêu lên thất thanh:
    - Ngươi ? ngươi lại giết Đô sư huynh ?
    Lập tức quay mình chạy trốn, vừa kinh hoảng, vừa gấp gáp, chỉ chạy được vài bước đã ngã nhào.
    Trương Thúy Sơn lắc đầu, thấy hai chân của Chúc, Sử tiêu đầu chìm dưới nước hồ, chết cũng đã lâu. Nhìn lại ba xác chết, chàng không khỏi bồi hồi. Tuy với Đô Đại Cẩm không có giao tình, Long Môn tiêu cục hộ tống Du Đại Nham không chu đáo, khiến chàng một phen căm hận, nhưng một khi thấy họ bất minh bất bạch chết đi, không khỏi không thương cảm. Chàng đứng bên bờ hồ chốc lát, bỗng dưng nghĩ ra: ?Đô Đại Cẩm có nói: Ác tặc, ta bất quá để lại có ba trăm lượng hoàng kim, ngươi cũng hạ độc thủ?. Ta bảo y đem hai nghìn lượng vàng ra cứu tế nạn dân, có lẽ y tiếc của nên lén giữ lại ba trăm lượng. Không nói gì đến việc ta không biết,? nếu có biết, cũng chỉ cười, lẽ đâu lại vì thế mà làm khó y bao giờ?.
    Chàng nhắc thử cái túi sau lưng Đô Đại Cẩm, quả nhiên nặng chịch, mở ra có mấy đĩnh vàng rơi xuống bên mặt xác chết. Ngay lúc đó, chàng cảm thấy cái vô thường của cõi nhân sinh, vị tổng tiêu đầu này một đời khổ sở, nghìn dặm bôn ba, trên đầu đao mũi kiếm xả thân, chỉ cốt được một mớ hoàng kim, bây giờ trước mắt vàng rơi ngay bên cạnh, nhưng y vẫn không được hưởng. Chàng mới rồi đánh với Thiếu Lâm tam tăng, tuy toàn thắng nhưng cái tiếng anh hùng nhất thời, một trăm năm sau, so với Đô Đại Cẩm có khác gì đâu. Nghĩ tới đó chàng không khỏi thở dài một tiếng.
    Bỗng dưng Trương Thúy Sơn nghe thấy tiếng đàn tình tang, từ trong hồ đưa tới. Chàng ngửng đầu lên, thấy thanh niên văn sĩ nhìn thấy bên ngoài Long Môn tiêu cục đang gẩy đàn trên thuyền. Dưới chân là ba cái xác chết, nếu để chiếc du thuyền xích lại gần bờ e ngại người nọ nhìn thấy sẽ hoảng sợ kêu lên, kinh động đội tuần quân Mông Cổ,? sẽ gây thêm phiền nhiễu. Còn đang chần chừ, bỗng nghe người văn sĩ nọ gẩy nhẹ ba tiếng, quay đầu lại, nói:
    - Huynh đài có nhã hứng du ngoạn bờ hồ lúc canh khuya, sao không xuống thuyền chơi?
    Nói rồi đưa tay ra vẫy một cái. Phía sau có sẵn một người lái đò nhỏm dậy, đẩy hai mái chèo, đưa chiếc thuyền nhỏ bơi vào bờ. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Người này từ trước đến nay vẫn ở trên hồ, có thể y nhìn thấy gì chăng, sao mình không hỏi thăm y một chút?. Nghĩ vậy chàng chãy đến bên bờ nước, đợi chiếc thuyền đến gần, nhẹ nhàng nhảy xuống đầu thuyền.
    Người thư sinh trong thuyền đứng dậy, mỉm cười, chắp tay chào, đưa tay trái ra chỗ thượng thủ, mời khách ngồi xuống. Ánh sáng từ chiếc đèn lồng phất bích sa chiếu vào, tay người đó trắng còn hơn tuyết. Nhìn lại tướng mạo, thấy y mặt ngọc hơi gầy, mi cong mũi thẳng, khi mỉm cười bên má trái có đồng tiền núm vào, nhìn xa tưởng là một công tử phong lưu tuấn nhã, nhưng bây giờ đối diện, rõ ràng là một thiếu nữ mặc giả trai.
    Trương Thúy Sơn tuy là người tiêu sái, phóng khoáng, nhưng qui củ sư môn, chuyện trai gái phòng phạm rất kỹ lưỡng. Võ Đương thất hiệp hành tẩu giang hồ, đối với nữ sắc lúc nào cũng rất nghiêm cẩn, nay chàng thấy đối phương là một người con gái, vừa kinh ngạc, lập tức má đỏ bừng, đứng ngay dậy, nhảy vội lên bờ, chắp tay nói:
    - Tại hạ không biết cô nương ăn mặc nam trang, nên đã vô ý mạo muội.
    Thiếu nữ không trả lời. Bỗng nghe tiếng mái dầm khua lên, chiếc thuyền lặng lẽ đi ra giữa hồ, người con gái đó gẩy đàn hát rằng:
    Kim tịch hứng tận, Lai tiêu du du.
    Lục Hòa tháp hạ, Thùy liễu biên chu.
    Đãi quân tử hề, Ninh đương lai du ?
    Hứng tối nay đến đây đã cạn, Mong đêm mai lại đến cùng nhau.
    Lục Hòa tháp dưới chân cầu, Bên cây liễu rủ thuyền câu đứng chờ.
    Người quân tử nếu không quản ngại, Tới nơi đây du ngoạn một phen.
    Chiếc thuyền đi mỗi lúc một xa, tiếng hát cũng nhỏ dần, chỉ thấy sóng nước rung động, chiếc thuyền nhỏ như hạt đậu chìm lẫn vào sắc nước.
    Sau một phen đao quang kiếm ảnh, kịch đấu trong gió tanh mưa máu, bỗng gặp cảnh nhẹ nhàng lả lướt như thế, Trương Thúy Sơn lặng người đứng trên bờ hồ, lòng không khỏi dâng lên một nỗi nao nao, mãi một lúc lâu sau, mới quay về khách điếm.
    Hôm sau trong thành Lâm An, vụ huyết án mấy chục mạng của Long Môn tiêu cục truyền ra ai ai cũng biết. Trương Thúy Sơn tướng mạo nho nhã, nên không ai nghi ngờ chàng. Suốt ngày hôm đó, chàng nhàn du khắp các phố phường, đền miếu, nghe ngóng tung tích nhị sư ca Du Liên Châu và thất sư đệ Mạc Thanh Cốc. Thế nhưng đi cả buổi, chàng không tìm ra được một ký hiệu liên lạc nào của Võ Đương thất hiệp cả.
    Đến lúc xế chiều, trong lòng lại rộn lên tiếng hát của người thiếu nữ:
    Kim tịch hứng tận, Lai tiêu du du.
    Lục Hòa tháp hạ, Thùy liễu biên chu.
    Đãi quân tử hề, Ninh đương lai du ?
    Hình ảnh cô gái đó lại chập chờn hiện ra trước mắt. Chàng nghĩ thầm: ?Miễn là ta giữ lễ, gặp cô ta một lần cũng đâu hề gì ? Nếu như có cả nhị sư ca và thất sư đệ ba người cùng đi có lẽ hay hơn, nhưng lúc này trừ việc hỏi thăm cô ta ra, không còn nơi nào khác để có thể tìm ra sự thực cái mệnh án đêm hôm trước?.
    Ăn cơm tối xong, chàng nhắm hướng Lục Hòa tháp, bên sông Tiền Đường đi tới.
    [1] tai nạn lớn (catastrophe) [2] làm thương tổn, phục độc (to injure, to poison) [3] đau khổ cùng cực [4] Đệ tử sau cùng [5] phép viết chữ Hán [6] con chim én bay ngang hồ, gặp lúc con vịt trời cũng bay lên, trong khi đang nguy hiểm, vội vàng bay vụt lên (người dịch chưa tìm ra nguồn gốc của bốn câu này, quí vị nào biết xin chỉ giáo. Đa tạ) [7] Cung kính nghe lời dạy bảo [8] tiếng tự xưng nhún mình một cách khiêm tốn (Từ Hải tr. 944) [9] từ tiếng Phạn Sa độ (sadhu) là tán thán từ nghĩa là ?quí hóa thay? thường dùng để ngợi khen nhưng ở đây được dùng để thay thế một tiếng niệm Phật [10] sức cánh tay
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:31:00 | Chỉ xem của tác giả
HẠO TÍ TỰ NGỌC MAI HOA TRANG

    Nghĩa chàng như non Thái, Tình thiếp tựa biển Đông.
    Dẫu trăm đường ngăn trở, Đã quyết cũng nên công.


    Từ sông Tiền Đường đến tháp Lục Hòa chuyển qua một khúc quanh lớn, sau đó mới chảy thẳng về hướng đông. Chỗ đó với phủ thành cũng chẳng gần nên dù đi nhanh, lúc Trương Thúy Sơn đến Lục Hòa tháp trời cũng đã tối. Chàng thấy bên phía đông ngọn tháp có ba cây liễu lớn, bên dưới quả nhiên đậu một chiếc thuyền. Thuyền trên sông Tiền Đường đều có buồm, so với thuyền nhỏ để đi chơi ở Tây Hồ thì lớn hơn nhiều, nhưng đầu thuyền cũng treo hai cái đèn lồng bích sa không khác gì hôm qua. Trương Thúy Sơn thấy tim đập thình thịch, cố định thần, đi đến dưới cây liễu, thấy cô gái đó ngồi một mình dưới hai cái đèn lồng. Nàng mặc một chiếc áo dài màu xanh nhạt, nay đã đổi sang quần áo phụ nữ.
    Trương Thúy Sơn vốn chỉ muốn hỏi nàng về chuyện tối hôm qua, lúc này thấy nàng đã đổi qua trang phục đàn bà, còn đang ngại ngùng, thì thiếu nữ ngửng đầu lên nhìn trời ngâm rằng:
    Ngồi ôm gối đầu thuyền đợi khách, Biết bao giờ người mới đến cho, Sóng kia có ý muốn đùa, Lay em mau tỉnh cơn kia mơ màng.[1] Trương Thúy Sơn cao giọng nói:
    - Tại hạ là Trương Thúy Sơn có chuyện muốn thỉnh giáo nhưng chưa dám mạo muội.
    Thiếu nữ đáp:
    - Tối qua mây đen đầy trời, không thấy ánh trăng. Đêm nay mây tan, trời trong, cảnh đẹp hơn nhiều.
    Tiếng nàng trong trẻo dịu dàng nhưng khi nói thì ngửng lên nhìn trời, không nhìn chàng lấy một lần. Trương Thúy Sơn nói:
    - Không dám, xin hỏi tôn tính của cô nương.
    Thiếu nữ đó đột nhiên quay đầu qua, đôi mắt sáng trong vắt nhìn thẳng vào mặt chàng nhưng không trả lời. Trương Thúy Sơn thấy nàng mặt mày đẹp đẽ nhưng ánh mắt như có điều dồn bức, cảm thấy hơi xấu hổ, không dám hỏi thêm, xoay mình nhảy lên bờ sông, chạy ngược về phía mặt đường.
    Chạy được mươi trượng, chàng ngừng lại, nghĩ thầm: ?Trương Thúy Sơn ơi hỡi Trương Thúy Sơn, ngươi bảy thước ngang tàng, nam nhi hán đại trượng phu, tung hoành giang hồ, có điều gì sợ hãi đâu, sao hôm nay lại ngại một cô gái trẻ tuổi là sao??. Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy chiếc thuyền của cô gái nọ thuận theo dòng nước sông Tiền Đường chảy xuôi, hai ngọn đèn lồng chiếu lên mặt sông. Trương Thúy Sơn nhất thời lòng dạ phân vân, nên cứ theo con đường dọc theo sông mà tản bộ.
    Người ở trên bờ, thuyền trôi dưới nước, một người một thuyền, song song mà đi. Cô gái vẫn ngồi ôm gối trên đầu thuyền, chăm chú ngắm vành trăng non ở chân trời.
    Trương Thúy Sơn đi được một lúc, không hẹn mà cũng theo nàng nhìn vầng trăng treo, bỗng thấy từ phía đông bắc một đám mây đen nổi lên. Quả thực trời không sao lường trước được, đám mây đen đó kéo lên rất nhanh, chẳng mấy chốc đã che kín mặt trăng, rồi một trận gió thổi tới, mưa lác đác rơi. Bờ sông là một cánh đồng trống, không có nơi nào để trú mưa cả. Trương Thúy Sơn dẫu không nghĩ đến chuyện đụt mưa, nhưng tuy không nặng hạt, nếu để lâu, thân thể ắt cũng ướt hết.
    Thiếu nữ vẫn ngồi ở đầu thuyền nên mưa xuống tạt cả vào người. Trương Thúy Sơn giật mình tỉnh lại, kêu lên:
    - Cô nương, cô vào trong khoang thuyền tránh mưa đi thôi.
    Cô gái ?A? lên một tiếng, đứng dậy, cũng sững người, nói:
    - Thế ông cũng không sợ mưa ướt hay sao?
    Nói rồi đi vào trong khoang thuyền, khi trở ra, tay cầm một cái dù, vung tay ném lên bờ.
    Trương Thúy Sơn giơ tay tiếp lấy, thấy đó là một chiếc ô nhỏ phất bằng giấy dầu, giương lên, thấy trên tàn vẽ cảnh viễn sơn cận thủy, vài cây liễu rủ, một bức thủy mặc giản dị nhưng phong nhã. Bên cạnh bức họa có đề bảy chữ: ?Tà phong tế vũ bất tu qui?[2].
    Những chiếc dù làm ở Hàng Châu đều có vẽ vời viết chữ, trước nay đều thế cả, không lấy gì làm lạ. Tranh vẽ và chữ viết của thợ làm dù, cũng không khác gì đồ sứ ở đất Giang Tây, ít nhiều thể nào cũng có vẻ hàng buôn bán. Thế nhưng thư họa trên chiếc dù nhỏ này lại thật tinh vi tuy bảy chữ viết kia nét ẻo lả hơi thiếu kình lực, hẳn là do con nhà khuê tú viết nên, nhưng vẫn toát ra vẻ thanh lệ thoát tục.
    Trương Thúy Sơn nghiêng đầu ngắm những nét bút trên chiếc dù nhưng chân vẫn không ngừng, nào ngờ trước mặt có một cái rãnh nhỏ, chân trái vẫn bước tới đạp vào chỗ không. Nếu như người thường, bước hụt đó không thể nào không ngã bổ chửng. Thế nhưng chàng biến chiêu thật nhanh, chân phải lập tức đá về phía trước, thân mình dĩ nhiên vọt lên, nhẹ nhàng xảo diệu rơi qua bờ rãnh bên kia. Trên thuyền thiếu nữ kêu lên:
    - Giỏi lắm.
    Trương Thúy Sơn quay đầu nhìn ra, thấy nàng đầu đội một chiếc nón lá, đứng ở đầu thuyền, gió mưa thổi tới phiêu phiêu, chẳng khác gì nàng tiên đang cưỡi trên đầu sóng.
    Thiếu nữ nói:
    - Nét vẽ, chữ viết trên chiếc dù, liệu có lọt được vào mắt Trương tướng công chăng?
    Trương Thúy Sơn đối với nét vẽ không quan tâm lắm, chỉ lưu tâm đến thư pháp, nói:
    - Nét bút theo lối viết của Vệ phu nhân[3] trên Danh Cơ Thiếp, bút tuy đứt nhưng ý vẫn liền, bút tuy ngắn nhưng ý vẫn dài, quả là phô diễn được cái khéo léo của trâm hoa, tả vận.[4] Thiếu nữ thấy chàng nhận ra tự thể của mình, trong lòng vui lắm, nói:
    - Trong bảy chữ có chữ ?bất? viết kém nhất.
    Trương Thúy Sơn nhìn kỹ, nói:
    - Chữ bất đó viết rất tự nhiên, dẫu rằng không kín đáo khác hẳn sáu chữ kia, dư vận bất tận, khiến càng nhìn càng không biết chán.
    Cô gái nói:
    - Vậy ư. Tôi cảm thấy chữ này hơi khác, nhưng không nhìn ra có điểm gì không phải, nay tướng công nói ra, mới hiểu được.
    Chiếc thuyền cô gái đang đi thuận dòng trôi xuôi, Trương Thúy Sơn cũng ở trên bờ đi theo, hai người nói chuyện thư pháp, một hỏi một đáp, không để ý mà đã đi cả dặm. Lúc đó trời đã tối, mặt hai người nhìn nhau không còn rõ nữa. Thiếu nữ bỗng nói:
    - Quả là ?Cùng chàng nói chuyện một đêm,? Còn hơn sách vở mười năm dùi mài?[5]. Đa tạ Trương tướng công chỉ điểm, giờ xin từ biệt.
    Nàng giơ tay lên, người lái thuyền ở phía sau lập tức giương buồm, từ từ kéo lên cao. Buồm gặp gió, chiếc thuyền đi nhanh hơn, Trương Thúy Sơn thấy chiếc thuyền xa dần, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Bỗng chàng nghe tiếng nàng vọng lại từ xa:
    - Tôi họ Ân ? mai này có dịp, sẽ lại thỉnh giáo tướng công thêm ?
    Trương Thúy Sơn nghe thấy nàng nói ba chữ : ?Tôi họ Ân?, giật mình kinh hãi: ?Đô Đại Cẩm từng nói là, người nhờ y hộ tống Du tam ca, là một thư sinh tướng mạo đẹp đẽ, tự xưng họ Ân, hay chính là cô gái này mặc giả trai??.
    Nghĩ như thế, chàng không còn hiềm gì nam nữ, đề khí đuổi theo. Tuy chiếc thuyền buồm kia chạy nhanh, nhưng Trương Thúy Sơn thi triển khinh công, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp, lớn tiếng gọi:
    - Ân cô nương, cô có biết Du tam ca Du Đại Nham của tôi không?
    Thiếu nữ đó quay đầu lại, nhưng không trả lời. Trương Thúy Sơn tựa như có nghe một tiếng thở dài, nhưng vì người ở trên bờ, người tại dưới thuyền, nên nghe không rõ, không biết có phải cô gái thở dài hay không.
    Trương Thúy Sơn lại nói tiếp:
    - Trong lòng tôi có biết bao nhiêu điều không hiểu, xin cô cho biết.
    Cô gái đáp:
    - Việc gì phải nhất định hỏi cho ra?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - -??????????? Ủy thác Long Môn tiêu cục hộ tống Du tam ca của tôi đến đất Ngạc, có phải là Ân cô nương chăng? Cái ân đức đó, phải có khi báo đáp.
    Thiếu nữ nói:
    - Ân ân oán oán, thật là khó nói.
    Trương Thúy Sơn nói tiếp:
    - Du tam ca của tôi đến chân núi Võ Đương, lại bị người ta hạ độc thủ, Ân cô nương có biết không?
    Cô gái lại nói:
    - Tôi thật quả không vui, rất tiếc về chuyện đó.
    Hai người một hỏi, một đáp, gió mỗi lúc một mạnh, chiếc thuyền buồm đi mỗi lúc một nhanh. Trương Thúy Sơn nội lực thâm hậu, trước sau vẫn đi ngang với chiếc thuyền, không chậm hơn chút nào. Thiếu nữ đó nội lực không bì được với Trương Thúy Sơn nhưng mỗi câu mỗi chữ đều nghe được rõ ràng.
    Sông Tiền Đường càng về hạ lưu, mặt sông càng rộng, gió nhẹ mưa phùn đã dần dần biến thành cuồng phong bạo vũ. Trương Thúy Sơn hỏi:
    - Tối hôm qua mấy mươi người của Long Môn tiêu cục bị giết chết, do ai hạ thủ, cô nương có biết không?
    Cô gái nói:
    - Tôi đã nói với Đô Đại Cẩm, phải hộ tống Du tam hiệp đến núi Võ Đương cho chu đáo, nếu như đường đi có nửa phần sai sót ?
    Trương Thúy Sơn tiếp:
    - Cô sẽ giết hết tất cả tiêu cục, dù con gà con chó cũng không còn.
    Cô gái nói:
    - Đúng thế. Y bảo hộ Du tam hiệp không đến nơi đến chốn, đó là y tự rước họa vào thân, còn trách gì ai được nữa?
    Trương Thúy Sơn thấy lạnh trong lòng, nói:
    - Trong tiêu cuộc có bao nhiêu nhân mạng, đều do ? do ?
    Cô gái nói:
    - Đều do tôi giết cả.
    Trương Thúy Sơn tai bỗng ù đi, chàng không sao ngờ được người con gái kiều mị như hoa kia lại là hung thủ giết người không chớp mắt, một lúc sau, mới nói:
    - Còn ? còn hai hòa thượng của chùa Thiếu Lâm thì sao?
    Thiếu nữ đáp:
    - Cũng chính tôi giết. Tôi vốn không muốn cùng phái Thiếu Lâm kết oán cừu, nhưng bởi vì họ dùng ám khí tẩm độc đả thương tôi trước, thành thử không tha được.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Thế sao.. thế sao bọn họ lại đổ cho tôi?
    Người con gái cười khúc khích mấy tiếng, nói:
    - Cái đó là do tôi sắp đặt đấy.
    Trương Thúy Sơn lửa giận bốc lên, lớn tiếng nói:
    - Cô sắp đặt để cho họ tưởng là tôi ư?
    Thiếu nữ yêu kiều mỉm cười:
    - Chính thế.
    Trương Thúy Sơn giận dữ:
    - Tôi với cô nương không thù không oán, sao lại làm thế ?
    Cô gái giơ tay áo phẩy một cái, cúi đầu đi vào trong khoang thuyền. Đến nước này, Trương Thúy Sơn không thể nào không hỏi cho ra nhẽ, nhưng thấy chiếc thuyền buồm cách xa bờ đến mấy trượng, không cách gì có thể nhảy lên được. Trong cơn cuồng nộ, chàng giơ chưởng đánh mạnh vào một cây phong ở bên bờ sông, lách cách mấy tiếng, đã gãy xuống hai cành lớn.
    Chàng vận sức ném một cành ra giòng nước, tay trái cầm cành cây kia, chân phải điểm một cái, nhảy ra giữa sông. Chân trái vừa chạm vào cành cây liền mượn sức, nhảy về phía trước. Trong khi còn đang ở trên không, chàng ném cành cây còn lại ra, vừa rơi xuống, chân phải lại điểm vào cành cây một cái, mượn sức lần nữa, nhảy vọt lên đầu thuyền, lớn tiếng nói:
    - Cô ? cô sắp đặt cách nào ?
    Trong khoang thuyền lúc này tối mò, không một tiếng động. Trương Thúy Sơn toan tiến vào, nhưng trong cơn thịnh nộ vẫn còn tự chế, nghĩ thầm:
    - Nếu ta tiến vào trong khoang thuyền của phụ nữ, e rằng vô lễ.
    Chàng còn đang phân vân, bỗng thấy ánh lửa lóe lên, bên trong đã thắp một ngọn nến. Thiếu nữ nói:
    - Xin mời vào trong này.
    Trương Thúy Sơn sửa lại mũ áo, gập dù lại, tiến vào khoang thuyền, bỗng nhiên sững người. Trong thuyền ngồi một thiếu niên thư sinh, khăn vuông, áo xanh, tay cầm quạt phe phẩy, thần thái cực kỳ tiêu sái. Trong khoảnh khắc cô gái đã cải nam trang, nếu nhìn thoáng qua, hình thù mặt mũi trông chẳng khác gì Trương Thúy Sơn.
    Chàng hỏi cô sắp đặt cách nào khiến cho các nhà sư chùa Thiếu Lâm tưởng lầm là mình, thiếu nữ chỉ cải trang, không cần trả lời, khiến chàng hiểu ngay, trong khi trời tối, ai cũng tưởng hai người là một, thảo nào Tuệ Phong và Đô Đại Cẩm nhất định đổ riệt cho chàng đã hạ độc thủ.
    Thiếu nữ giơ cây quạt xếp chỉ chỗ đối diện, nói:
    - Trương ngũ hiệp, xin mời ngồi.
    Nàng cầm chiếc ấm trà nhỏ nhắn lên rót một ly, đưa đến trước mặt, nói:
    - Hàn dạ khách lai trà đương tửu[6]. Trong thuyền không có rượu, không khỏi làm giảm cái thanh hứng của Trương ngũ hiệp.
    Cách nàng rót và mời trà rất mực nho nhã khiến cho lửa giận của Trương Thúy Sơn không sao phát ra được, chỉ đành khom mình nói:
    - Đa tạ.
    Thiếu nữ thấy chàng quần áo ướt đẫm, nói:
    - Trong thuyền có quần áo, trời mùa xuân lạnh cóng, Trương ngũ hiệp ra sau thuyền thay đi.
    Trương Thúy Sơn lắc đầu:
    - Không cần Nói rồi ám vận nội công, một luồng hơi ấm từ đan điền xông lên, toàn thân nóng bừng, nước trên y phục dần dần bốc hơi đi hết. Cô gái nói:
    - Nội công phái Võ Đương đứng đầu võ lâm, tiểu muội mời Trương ngũ hiệp thay áo, quả thực không biết trời cao đất dày là gì.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Cô nương ở môn phái nào, có thể cho biết được chăng?
    Nghe Trương Thúy Sơn hỏi câu đó, thiếu nữ nhìn qua song cửa, trong đầu mi gợn lên một nét buồn. Trương Thúy Sơn thấy thần sắc nàng có điều u uất, không tiện gặng hỏi, một lúc sau nhịn không nổi, mới nói:
    - Du tam ca của tôi bị kẻ nào làm hại, mong cô nương cho biết.
    Cô gái đáp:
    - Chẳng cứ gì Đô Đại Cẩm nhìn lầm, mà chính tôi cũng sai nốt. Tôi vẫn nghĩ Võ Đương thất hiệp phong tư anh sảng, có lý nào lại là những người thô lỗ táo tợn như thế.
    Trương Thúy Sơn thấy nàng không trả lời câu hỏi của mình, nhưng lại nói ?phong tư anh sảng?, hiển nhiên ngay tận mặt tán dương phong thái mình, trong lòng rộn ràng, hai má nóng bừng, nhưng không hiểu nàng nói thế là có ý gì.
    Thiếu nữ thở dài một tiếng, đột nhiên vén tay áo bên trái lên, lộ ra cánh tay trắng muốt như ngọc. Trương Thúy Sơn vội vàng cúi xuống, không dám nhìn. Thiếu nữ lại nói:
    - Ngũ hiệp có nhận ra ám khí này không ?
    Trương Thúy Sơn thấy cô ta nói đến ?ám khí?, mới dám ngửng lên, thấy trên cánh tay bên trái của cô gái có cắm ba mũi cương tiêu nho nhỏ màu đen, làn da nàng trắng như tuyết, chỗ trúng tiêu lại đen như mực. Ba mũi tiêu đó ở cán đều khắc hình hoa mai, thân tiêu bất quá chỉ dài độ một tấc rưỡi, nhưng đã ngập vào thịt đến một tấc rồi. Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, đứng ngay dậy, kêu lên:
    - Đây là mai hoa tiêu của phái Thiếu Lâm, sao ? sao lại màu đen thế này ?
    Thiến nữ nói:
    - Đúng thế. Chính là mai hoa tiêu của phái Thiếu Lâm, trên mũi tiêu có tẩm chất độc.
    Cánh tay của nàng trắng muốt trên có cắm ba ngọn tiểu tiêu, dưới ánh nến lung linh chiếu vào trông đẹp bội phần. Cảnh tượng đó vừa làm rung động lòng người, vừa có vẻ thần bí ghê sợ, chẳng khác gì một trương Tuyên chỉ[7] ai nhỏ trên đó ba giọt mực.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Phái Thiếu Lâm là danh môn chính phái, trên ám khí không đời nào lại tẩm chất độc, thế nhưng những đóa mai hoa tiêu này, trừ đệ tử phái Thiếu Lâm ra, chưa nghe có môn phái nào, nhân vật nào biết dùng cả. Cô nương trúng tiêu đã bao lâu rồi ? Mau tìm cách giải độc gấp.
    Cô gái thấy chàng thần sắc tỏ ra hết sức quan thiết, nói:
    - Trúng tiêu cũng đã hơn hai mươi ngày, nhưng độc tính bị tôi dùng thuốc chặn lại, nhất thời chưa lan ra ngoài, nhưng có điều là ba ngọn tiêu này không thể nhổ ra được, vì sợ một khi rút ra, độc tính sẽ theo máu mà lan ra khắp nơi.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Trúng tiêu đã hai mươi ngày mà chưa lấy ra, e rằng ? e rằng sau này trị lành rồi, trên da sẽ có ? sẽ có sẹo lớn.
    Kỳ thực chàng định nói rằng : ?e rằng độc tính ở trong cơ thể quá lâu, cánh tay này phải phế bỏ?.
    Cô gái nước mắt doanh tròng, buồn bã nói:
    - Tôi cũng đã hết sức để ? hôm qua, lúc ban chiều tìm kiếm thuốc giải trong người những nhà sư chùa Thiếu Lâm ? ôi, cánh tay này chắc hỏng mất.
    Nói rồi nàng từ từ bỏ tay áo xuống. Trương Thúy Sơn trong ngực bỗng thấy nóng ran, nói:
    - Ân cô nương, cô có tin tưởng ở tôi không? Tại hạ nội lực tuy thô thiển, nhưng tin rằng có thể giúp cô nương trục được chất độc trong cánh tay ra.
    Thiếu nữ nhoẻn một nụ cười, lộ ra chút núm đồng tiền trên má, dường như trong lòng vui sướng lắm, nhưng rồi lại nói ngay:
    - Trương ngũ hiệp, trong bụng ông có rất nhiều điều chưa rõ, để tôi nói cho minh bạch trước, miễn cho sau khi giúp tôi rồi lại đâm hối hận.
    Trương Thúy Sơn khẳng khái nói:
    - Trị bệnh cứu người, là chuyện phải làm của chúng tôi, sao lại còn hối hận?
    Cô gái nói:
    - Dẫu sao cũng đã giữ được hai mươi ngày rồi, trong chốc lát không có gì đáng ngại. Để tôi nói ông nghe, sau khi tôi gửi Du tam hiệp cho Long Môn tiêu cục, chính mình cũng đi theo phía sau tiêu đội, trên đường quả nhiên có mấy kẻ định hạ thủ Du tam hiệp, nhưng đều bị tôi bí mật đánh bại cả, nực cười cho Đô Đại Cẩm cứ như trong giấc mơ.
    Trương Thúy Sơn chắp tay nói:
    - Đại ân đại đức của cô nương, tử đệ phái Võ Đương chúng tôi cảm kích vô cùng.
    Cô gái lạnh lùng đáp:
    - Ông không phải tạ ơn tôi, chỉ sợ sau ông lại hận tôi không kịp thôi.
    Trương Thúy Sơn ngẩn người, không hiểu tại sao. Thiếu nữ nói tiếp:
    - Trên đường đi tôi thay đổi nhiều loại trang phục, có lúc mặc như nông phu, có lúc lại như nhà buôn, đi xa xa ở sau tiêu đội, đâu ngờ đến chân núi Võ Đương lại sinh chuyện rắc rối.
    Trương Thúy Sơn nghiến răng nói:
    - Sáu tên ác tặc đó, cô nương có chính mắt nhìn thấy không? Chỉ giận Đô Đại Cẩm mù mù mờ mờ, không nói được lai lịch của sáu tên giặc đó.
    Cô gái thở dài một tiếng, nói:
    - Không những tôi trông thấy họ, lại còn giao đấu với họ nữa kìa. Nhưng tôi cũng mù mù mờ mờ, không nói được lai lịch bọn họ.
    Nàng cầm chén trà lên, nhấp một ngụm, nói:
    - Hôm đó tôi thấy sáu tên đó từ trên núi Võ Đương xuống đón, Đô Đại Cẩm cùng với họ chào hỏi, gọi là ?Võ Đương lục hiệp?, sáu người đó cũng mặc nhiên không phủ nhận. Tôi đứng xa xa nhìn, thấy bọn họ tiếp lấy cỗ xe lớn chở Du tam hiệp, nghĩ rằng mọi việc thế là xong, nên dừng ngựa bên đường, nhường cho Đô Đại Cẩm và cả đoàn đi qua. Thế nhưng ngay lúc đó, trong bụng nẩy ra một nghi vấn lớn: ?Võ Đương thất hiệp là huynh đệ đồng môn, tình như cốt nhục, Du tam hiệp bị thương nặng, cả bọn đáng lẽ phải ào cả lên, xem xét thương thế của y mới phải. Thế nhưng chỉ có một người đến cỗ xe nhìn vào, còn lại những người kia không lý gì tới, trái lại còn có vẻ vui mừng, kêu la om sòm, giục xe chạy đi, việc đó không hợp với nhân tình?.
    Trương Thúy Sơn gật đầu:
    - Cô nương tinh tế lắm, nghi vậy thật là đúng.
    Thiếu nữ nói tiếp:
    - Tôi càng nghĩ càng thấy không phải, vội vàng giục ngựa đuổi theo, quát hỏi tính danh bọn họ. Sáu tên đó nhãn lực cũng không kém, vừa gặp mặt biết ngay tôi là đàn bà. Tôi trách họ sao dám mạo danh Võ Đương lục hiệp, cướp lấy Du tam hiệp ắt có dạ bất lương. Hai bên lời qua tiếng lại, tôi bèn xông lên động thủ. Trong sáu người đó có một tên gầy gò, tuổi chừng ba mươi ra đấu với tôi, một tên đạo sĩ đứng bên trông chừng, còn bốn tên kia đánh chiếc xe đi. Tên gầy gò đó bản lãnh khá lắm, đánh ba mươi hiệp mà tôi không thắng nổi y, đột nhiên gã đạo nhân tay trái vung ra, tôi thấy bả vai tê chồn, vô thanh vô tức trúng ba mũi mai hoa tiêu, tay tôi lập tức ngứa ngáy. Tên gầy gò ăn nói vô lễ, toan bắt sống tôi, tôi ném lại cho hắn ba mũi ngân châm, thế mới thoát được.
    Nói đến đây, má nàng hơi đỏ lên, ắt là tên gầy gò kia thấy nàng là một thiếu nữ mỹ mạo cô thân, nên giở giọng hỗn hào.
    Trương Thúy Sơn trầm ngâm, nói:
    - Mai hoa tiểu tiêu này dùng tay trái ném ư ? Sao môn hạ Thiếu Lâm lại có đạo nhân, có lẽ họ cải trang đó.
    Cô gái mỉm cười:
    - Đạo sĩ giả làm hòa thượng thì phải cạo đầu, hòa thượng giả làm đạo sĩ thì dễ hơn nhiều, chỉ cần đội mũ là xong.
    Trương Thúy Sơn gật đầu. Cô gái nói tiếp:
    - Tôi trong lòng thấy có điều không xong, nhưng địch không lại gã gầy gò đó, gã đạo nhân xem chừng còn lợi hại hơn nhiều, huống chi bọn họ tất cả đến sáu người ? Thật không còn cách nào khác.
    Trương Thúy Sơn mở mồm định nói, nhưng cố nhịn được. Cô gái nói:
    - Tôi biết ngũ hiệp định hỏi: ?Sao tôi không lên núi Võ Đương nói rõ ràng đầu đuôi mọi việc?? phải không nào? Tôi đâu có lên núi Võ Đương được, nếu như tự tôi có thể lộ diện, hà tất phải nhờ Đô Đại Cẩm đưa món tiêu hàng đó đi. Tôi bàng hoàng vô kế, đang đi đường thì gặp ông nói chuyện với bọn Đô Đại Cẩm. Sau đó thấy ông chạy đi kiếm Du tam hiệp, tôi nghĩ rằng Võ Đương thất hiệp đã đứng ra lo vụ này rồi, không cần phải tôi xen vào nữa. Với cái tài nghệ nhỏ nhặt của tôi, có giúp cũng không giúp được bao nhiêu. Lúc đó tôi lo gấp chuyện giải dược, nên lập tức theo hướng đông trở về, không biết Du tam hiệp về sau ra sao nữa ?
    Trương Thúy Sơn mới kể lại cho cô gái nghe việc Du Đại Nham bị người ta hạ độc thủ như thế nào. Thiếu nữ thở dài một tiếng, làn mi hơi rung động, nói:
    - - Cũng mong sao Du tam hiệp người lành được trời giúp, về sau có thể chữa khỏi, nếu không ... nếu không ...
    Trương Thúy Sơn thấy nàng giọng thành khẩn, trong lòng cảm kích, nói:
    - Đa tạ lòng tốt của cô nương.
    Nói đến đây chàng rưng rưng nước mắt. Thiếu nữ lắc đầu, nói:
    - Tôi về đến Giang Nam, nhờ người ta xem cái mai hoa tiêu, có người nhận ra là độc môn ám khí của phái Thiếu Lâm, nói là trừ phi có được giải dược của chính người phát xạ ám khí ra, nếu không độc tính khó mà trừ được. Phủ Lâm An này ngoài Long Môn tiêu cục ra đâu có ai khác thuộc phái Thiếu Lâm? Vì thế đang đêm tôi lẻn vào tiêu cục, muốn bức bách họ phải đưa giải dược, nào ngờ họ đã không cho, còn mai phục nhân mã, tôi vừa vào đến cửa đã lập tức ra tay hạ độc thủ.
    Trương Thúy Sơn hừ một tiếng, trầm ngâm đáp:
    - Cô nói cô cố ý an bài, để cho họ tưởng là tôi?
    Cô gái vẻ mặt bẽn lẽn, cúi đầu, nói nhỏ:
    - Tôi thấy ngũ hiệp ra phố mua một bộ áo khăn, thấy mặc như thế thật là ? thật là dễ nhìn, nên tôi cũng mua một bộ.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Thì ra thế. Có điều cô vừa ra tay đã giết mấy chục mạng người, không khỏi quá ư tàn ác, người trong tiêu cục có oán thù gì với cô đâu.
    Cô gái sầm mặt xuống, cười khẩy đáp:
    - Ngũ hiệp định dạy dỗ tôi đấy à? Năm nay tôi đã mười chín tuổi rồi, chưa từng nghe ai dạy dỗ cả. Trương ngũ hiệp đại nhân đại nghĩa, vậy mời ông đi về. Thuyền này toàn là người tàn ác, đâu dám mong kết giao với ông.
    Trương Thúy Sơn bị cô ta dồn cho một trận, khiến cho mặt đỏ bừng, đứng bật dậy toan ra khỏi thuyền, nhưng lại chợt nhớ ra đã hứa giúp cô ta trị thương, nên nói:
    - Mời cô nương vén tay áo lên.
    Đôi mày ngài của cô gái hơi nhướng lên, nói:
    - Ngũ hiệp thích mắng người khác, tôi không cần ông trị cho tôi nữa.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Vết thương của cô trên cánh tay dai dẳng đã lâu, để thêm nữa chỉ sợ ? chỉ sợ chất độc phát ra càng thêm khó chữa.
    Cô gái hậm hực đáp:
    - -??????????? - - Có chết cũng không sao, c? đó cũng là do ngũ hiệp hại tôi.
    Trương Thúy Sơn lấy làm lạ, nói:
    - Hứ, đó là tên ác tặc của phái Thiếu Lâm bắn ám khí vào cô, chứ tại hạ đâu có liên quan gì?
    Thiếu nữ đáp:
    - Nếu như tôi không bôn ba nghìn dặm hộ tống Du tam sư ca của ngũ hiệp lên núi Võ Đương thì liệu tôi có gặp sáu tên ác tặc đó không? Sáu tên đó cướp Du tam ca của ông, nếu tôi cứ sõng tay đứng ngoài nhìn, tay tôi có trúng tiêu không? Nếu như ngũ hiệp tới nhanh một bước, giúp tôi một tay, liệu tôi có trúng tiêu không?
    Trừ hai câu cuối có vẻ cưỡng từ đoạt lý, những câu khác nghe cũng hợp tình. Trương Thúy Sơn chắp tay đáp:
    - Đúng thế, tại hạ giúp cô nương trị thương, chỉ mới báo lại một chút ân đức của cô thôi.
    Cô gái nghiêng đầu nói:
    - Thế ngũ hiệp đã nhận mình sai chưa?
    Trương Thúy Sơn hỏi lại:
    - Tại hạ nhận sai cái gì?
    Thiếu nữ đáp:
    - Ngũ hiệp nói tôi độc ác, câu nói đó sai đó. Bọn hòa thượng chùa Thiếu Lâm, Đô Đại Cẩm và người trong Long Môn tiêu cục đều đáng giết cả.
    Trương Thúy Sơn lắc đầu:
    - Tuy cô nương trúng độc ở cánh tay, nhưng cũng vẫn còn có thể cứu chữa. Tam sư ca của tôi thân thụ trọng thương, nhưng cũng chưa chết, mà dù không trị được chăng nữa, mình cũng chỉ đi kiếm kẻ gây ra tội ác, chứ giết mấy chục mạng người, điều đó không hợp lý chút nào.
    Cô gái nhướng đôi lông mày đẹp lên, hỏi:
    - Thế ra ngũ hiệp nói tôi giết lầm người ư? Thế người phát xạ mai hoa tiêu đả thương tôi không phải người của phái Thiếu Lâm ư? Long Môn tiêu cục không phải thuộc phái Thiếu Lâm ư?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Môn đồ của phái Thiếu Lâm ở khắp mọi nơi, có hàng nghìn hàng vạn, tay cô nương trúng ba mũi tiêu, không lẽ giết hết môn hạ đệ tử của chùa Thiếu Lâm sao?
    Cô gái cãi không lại, bất thần giơ bàn tay phải, đập xuống cánh tay trái, đánh ngay vào nơi ba mũi tiêu. Cái vỗ đó khiến cho ba ngọn tiêu ngập sâu vào thịt, thương thế càng nặng thêm.
    Trương Thúy Sơn không ngờ tâm tính cô ta lại quái dị đến thế, một lời không hợp, lập tức dùng trọng thủ tàn hại thân thể chính mình. Cô ta đối với mình còn như thế, việc ra tay giết người khác cũng đâu lạ lùng gì. Chàng toan ngăn lại nhưng không kịp nữa, vội nói:
    - Cô ? cô sao tự làm khổ mình như thế?
    Chỉ thấy tay áo cô ta máu bầm thấm ra, Trương Thúy Sơn biết rằng tiêu thương trở nên trầm trọng, nội lực cô ta không đủ sức ngăn trở máu độc chạy lên, nếu không cứu ngay, lập tức nguy đến tính mệnh. Chàng đưa tay trái ra nắm lấy tay trái cô, tay phải vén tay áo cô gái lên.
    Bỗng nghe đằng sau có người quát:
    - Cuồng đồ không được vô lễ.
    Nghe vù một tiếng, người đó đã vung đao chém xuống lưng chàng. Trương Thúy Sơn biết rằng người lái thuyền ra tay nhưng sự tình khẩn cấp, không thể giải thích, nên đá ngược lại sau, đá y văng ra ngoài.
    Cô gái lại nói:
    - Tôi không cần ngũ hiệp cứu, tôi tự mình muốn chết, đâu có liên quan gì đến ông?
    Nói rồi nghe chát một tiếng, đã thẳng tay tát Trương Thúy Sơn một cái. Cô ta ra tay thật nhanh, chàng không phòng bị, vội vàng bỏ tay cô ta ra. Cô gái mặt sầm xuống, nói:
    - Ông đi lên bờ đi, tôi nói lần nữa là tôi không muốn thấy ông nữa.
    Trương Thúy Sơn bị cô ta đánh một cái khiến cho chàng vừa thẹn, vừa tức, nói:
    - Được rồi, tôi chưa bao giờ gặp một cô gái vô lễ như cô.
    Nói rồi quay mình đi ra đầu thuyền. Thiếu nữ cười khẩy nói:
    - Ông chưa thấy, thì hôm nay được thấy đó.
    Trương Thúy Sơn cầm một miếng ván lên, định vứt xuống sông, làm bàn đạp để lên bờ, nhưng chợt nghĩ lại:
    - Nếu ta bỏ đi, thể nào tính mệnh cô ta cũng không còn.
    Chàng cố dằn cơn giận, đi vào trong khoang, nói:
    - Cô đánh tôi một cái, tôi không thèm chấp cái cách nói năng không đâu vào đâu của cô, mau vén tay áo lên, cô có muốn sống hay không nào?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:31:13 | Chỉ xem của tác giả
  Cô gái giận dữ đáp:
    - Tôi muốn sống hay muốn chết, có liên quan gì đến ông đâu?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Cô bôn ba nghìn dặm đưa tam ca của tôi đi, ơn đó không thể không báo đáp.
    Cô gái cười khẩy:
    - Hay nhỉ, hóa ra ông chỉ muốn thay mặt tam ca của ông để trả nợ đấy thôi. Nếu tôi không hộ tống tam ca của ông, tôi bị thương có nặng hơn nữa, ông thấy chết cũng mặc kệ phải không?
    Trương Thúy Sơn sựng người, nói:
    - Chưa hẳn như vậy.
    Bỗng thấy cô gái co ro, thân mình hơi run, hẳn là độc tính đang xông lên, chàng vội nói:
    - Mau vén tay áo lên, bộ cô muốn đem tính mệnh của mình làm trò đùa sao.
    Cô gái nghiến răng:
    - Ông không nhận sai, tôi không chịu cho ông cứu.
    Gương mặt cô vốn dĩ trắng trẻo, lúc này vừa giận vừa sợ, lại càng thêm đáng thương. Trương Thúy Sơn thở dài, đáp:
    - Được rồi, cứ coi như tôi nói sai, cô giết người không sai chút nào.
    Cô gái nói:
    - Thế chưa được, sai là sai, sao lại cái gì coi như hay không coi như. Tại sao ông thở dài rồi mới nhận sai, rõ ràng không phải thành tâm thành ý rồi.
    Trương Thúy Sơn thấy việc cứu người là cấp bách, không phải lúc hơn thua đôi co với cô ta, lớn tiếng nói:
    - Hoàng thiên ở trên, giang thần ở dưới, tôi là Trương Thúy Sơn hôm nay thành tâm thành ý, nhận là đã không phải với Ân ? Ân ?
    Nói đến đây chàng ngừng lại, cô gái nói:
    - Ân Tố Tố.
    Trương Thúy Sơn nói tiếp:
    - Ờ, nhận đã không phải với Ân Tố Tố cô nương.
    Ân Tố Tố mừng lắm, nhoẻn một nụ cười, nhưng chân bỗng nhuyễn ra, ngồi phịch xuống ghế. Trương Thúy Sơn vội móc bình thuốc trong bọc, lấy ra một viên Thiên Tâm Giải Độc Đơn đưa cho cô uống. Chàng cuộn tay áo lên, thấy một nửa cánh tay cô ta đã tím bầm, hắc khí chạy lên thật nhanh. Trương Thúy Sơn đưa tay trái ra nắm cánh tay trên, hỏi:
    - Cô thấy thế nào?
    Ân Tố Tố nói:
    - Ngực thấy khó thở lắm. Ai bảo ngũ hiệp không nhận sai sớm hơn? Nếu tôi có chết, đều do ông hại tôi đó.
    Trong tình cảnh này, Trương Thúy Sơn chỉ cón có nước dịu giọng an ủi cô ta:
    - Đừng gượng lại, cô cứ để yên, toàn thân lỏng ra, đừng vận khí một chút nào, cứ tưởng như đang ngủ vậy.
    Ân Tố Tố lườm chàng:
    - Thì cứ coi như tôi chết rồi đi.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Đến nước này mà cô ả này còn ngang ngược điêu ác như thế, sau này không biết ai làm chồng cô sẽ khổ cả đời?.
    Nghĩ đến đó, chàng bỗng thấy trong lòng rung động, mặt nóng bừng, sợ rằng Ân Tố Tố biết được ý nghĩ của mình, nên liếc trộm cô ta một cái. Chỉ thấy nàng hai má đỏ bừng, đầy vẻ thẹn thùng, không biết nàng đang nghĩ chuyện gì. Hai người ánh mắt gặp nhau, không hẹn mà cùng quay đầu sang hướng khác.
    Ân Tố Tố bỗng hạ giọng nói nhỏ:
    - Trương ngũ ca, em nói không biết khinh trọng, lại ra tay đánh anh, anh ? đừng giận em nhé.
    Trương Thúy Sơn thấy cô bất ngờ đổi giọng, từ Trương ngũ hiệp đổi sang thành Trương ngũ ca, tim bỗng đập thình thịch, vội vàng hít một hơi dài, thu nhiếp tâm thần, một luồng hơi ấm từ đan điền dâng lên, kình đạo dẫn vào hai cánh tay, nắm chặt lấy hai bên trên dưới vết thương.
    Một lát sau, trên đỉnh đầu Trương Thúy Sơn tỏa ra một làn hơi trắng, đủ biết chàng đã sử dụng toàn lực, hơi mồ hôi bốc lên. Ân Tố Tố trong lòng cảm kích, biết là đây là lúc khẩn yếu quan đầu trong việc trị độc, sợ làm phân tâm, nên nhắm mắt không dám nói chuyện với chàng nữa. Bổng nghe bụp một tiếng, một chiếc mai hoa tiêu đã từ cánh tay bắn ra, văng xa cả trượng, tiếp theo một vòi máu đen từ vết thương phun ra, dần dần biến thành màu đỏ. Sau đó chiếc tiêu thứ hai cũng bị nội lực của Trương Thúy Sơn đẩy ra ngoài.
    Ngay lúc đó, bỗng nghe trên mặt sông có người cao giọng nói lớn:
    - Ân cô nương có ở đó không? Chu Tước Đàn đàn chủ xin tham kiến.
    Trương Thúy Sơn hơi lấy làm lạ, nhưng đang lúc vận lực gấp gáp, nên không để ý. Người đó lại gọi lần nữa, rồi nghe gã lái thuyền kêu lên:
    - Ở đây có một tên ác nhân, muốn hại Ân cô nương, Thường đàn chủ mau đến cứu.
    Người trên chiếc thuyền kia quát lên:
    - Ác tặc không được vô lễ, ngươi chỉ cần đụng đến một chiếc lông măng của Ân cô nương, thì ngươi sẽ bị lăng trì hàng nghìn vạn nhát.
    Người đó tiếng như chuông đồng, trên mặt sông kêu la vang dội, thật là uy mãnh.
    Ân Tố Tố mở mắt ra, nhìn Trương Thúy Sơn mỉm cười, như muốn xin lỗi sự hiểu lầm này. Chiếc tiêu thứ ba bị nàng đánh xuống, đâm vào thịt rất sâu, Trương Thúy Sơn liên tiếp vận ba lần lực đạo, nhưng vẫn không bắn được ra ngoài. Bỗng nghe tiếng giầm chèo thật gấp, chiếc thuyền kia đã đến thật gần, Trương Thúy Sơn thấy thuyền chao đi một cái, có người đã nhảy qua, nhưng chàng còn đang bận dùng sức nên không lý tới.
    Người kia vừa vào đến khoang thuyền, thấy Trương Thúy Sơn hai tay nắm chặt cánh tay Ân Tố Tố, đâu có ngờ chàng đang vận công liệu thương, trong cơn giận dữ, đánh ngay một chưởng vào hậu tâm Trương Thúy Sơn, đồng thời quát lên:
    - Ác tặc còn chưa buông tay ra ư?
    Trương Thúy Sơn không cách gì giơ tay ra đỡ, hít một hơi, giơ lưng chịu cho y đánh một chưởng. Chỉ nghe bùng một tiếng, luồng lực đạo đó thật mạnh, giáng một cách đích đáng ngay giữa lưng chàng. Trương Thúy Sơn đã thâm đắc tinh yếu của nội công phái Võ Đương, toàn thân không động, mượn lực chế ngự lực, dẫn luồng lực đạo trầm trọng đó vào gan bàn tay, chỉ nghe bóc một tiếng nhỏ, mũi mai hoa tiêu từ cánh tay Ân Tố Tố bắn vọt ra, cắm luôn vào ván, nhưng vẫn còn dư lực nên lay động không ngừng.
    Người phát chưởng vừa đánh xong một cái, chưởng thứ hai lập tức theo ra, trông thấy tình cảnh đó, đệ nhị chưởng mới ra giữa chừng, vội vàng ghìm lại, kêu lên:
    - Ân cô nương, cô ? cô không bị thương đấy chứ?
    Nhưng thấy từ trên cánh tay máu độc phun ra, người đó vốn là đại hành gia trên chốn giang hồ, biết rằng mình đánh lầm người rồi, trong lòng cảm thấy không an, nghĩ thầm chưởng của mình có sức vỡ bia tan đá, xem ra nội tạng Trương Thúy Sơn đã bị chấn thương cả, e rằng sinh mệnh cũng khó toàn, vội vàng lấy thương dược từ trong bọc ra, đưa cho Trương Thúy Sơn uống.
    Trương Thúy Sơn lắc đầu, thấy máu từ cánh tay Ân Tố Tố chảy ra đã thành màu đỏ tươi, nên bỏ tay ra, quay đầu lại, cười đáp:
    - Chưởng của các hạ lực đạo không phải ít.
    Người kia giật mình kinh hãi, nghĩ thầm chưởng của y đã đánh chết không biết bao nhiêu nhân vật thành danh, võ lâm hảo thủ, sao thanh niên này không tránh né chịu một chưởng, mà coi như không, nói:
    - Ngươi ? ngươi..
    Rồi y nhìn mặt để biện sắc và đưa tay ra xem mạch. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Để đùa y cho biết?. Chàng ám vận nội kình, phúc mô nâng lên, trong giây lát tâm tạng ngừng đập. Người kia đưa tay cầm cổ tay chàng, thấy mạch đã tuyệt, càng thêm sợ hãi.
    Trương Thúy Sơn tiếp lấy tấm khăn tay Ân Tố Tố trao cho, giúp nàng buộc vết thương, nói:
    - Độc chất đã theo máu mà chảy ra rồi, cô nương chỉ cần uống những loại thuốc giải độc thường cũng đủ không sao.
    Ân Tố Tố nói:
    - Đa tạ.
    Nàng quay qua, mặt sầm xuống, nói:
    - Thường đàn chủ không được vô lễ, đây là Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương.
    Người kia lùi lại một bước, cung thân thi lễ, nói:
    - Thì ra là Trương ngũ hiệp trong Võ Đương thất hiệp, thảo nào nội công thâm hậu đến thế, tiểu nhân Thường Kim Bằng mạo phạm đã nhiều, xin đừng trách cứ.
    Trương Thúy Sơn thấy người đó chừng năm chục tuổi, mặt mày gân guốc, cánh tay bắp thịt cuồn cuộn từng múi, chàng vội đứng lên đáp lễ. Thường Kim Bằng chào hỏi Trương Thúy Sơn xong, lập tức cung kính quay sang Ân Tố Tố thi lễ, nàng chỉ lặng lẽ gật đầu. Trương Thúy Sơn hơi lấy làm lạ, nghe Thường Kim Bằng nói:
    - Bạch đàn chủ của Huyền Võ Đàn đã ước hẹn với các nhân vật của phái Hải Sa, bang Cự Kình và môn phái Thần Quyền, sáng sớm mai tại đảo Vương Bàn Sơn ở cửa sông Tiền Đường để dương đao lập uy. Cô nương nếu không được khỏe, để tiểu nhân hộ tống cô nương về phủ Lâm An. Việc trên đảo Vương Bàn Sơn, để một mình Bạch đàn chủ lo cũng đủ lắm rồi.
    Ân Tố Tố hừ một tiếng, nói:
    - Phái Hải Sa, bang Cự Kình và môn phái Thần Quyền, thế ? thế chưởng môn nhân của Thần Quyền là Quá Tam Quyền có đến không?
    Thường Kim Bằng đáp:
    - Nghe nói là y tự dẫn mười hai đệ tử giỏi đến Vương Bàn Sơn đảo phó hội.
    Ân Tố Tố cười khẩy:
    - Quá Tam Quyền tên tuổi tuy lớn, nhưng chịu không nổi một cái đánh của Bạch đàn chủ, ngoài ra còn có hảo thủ nào khác không?
    Thường Kim Bằng ngập ngừng giây lát rồi đáp:
    - Nghe nói phái Côn Lôn có hai kiếm khách trẻ tuổi cũng đến phó hội, nói muốn được xem Đồ ? Đồ ?
    Nói đến đây y liếc trộm Trương Thúy Sơn một cái, rồi không nói tiếp nữa. Ân Tố Tố lạnh lùng nói:
    - Bọn họ cũng muốn đến xem đao Đồ Long ư? Chỉ sợ họ thấy rồi lại nổi lòng ?
    Trương Thúy Sơn nghe thấy ba tiếng ?đao Đồ Long?, bỗng giật mình, lại thấy Ân Tố Tố nói tiếp:
    - Hừ, người của phái Côn Lôn thì không thể coi thường được. Vết thương nhỏ trên cánh tay tôi không có gì đáng ngại, đã như thế, bọn mình phải đến xem trò vui này, không chừng cũng giúp Bạch đàn chủ được một tay.
    Nàng quay sang nói với Trương Thúy Sơn:
    - Trương ngũ hiệp, thôi mình từ biệt nhau nơi đây, tôi đi thuyền của Thường đàn chủ, còn ngũ hiệp ngồi thuyền của tôi về phủ Lâm An. Phái Võ Đương không nên dính vào chuyện này.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Tam sư ca của tôi bị thương, hình như có liên quan đến đao Đồ Long. Việc đó như thế nào, Ân cô nương làm ơn cho tôi biết được không?
    Ân Tố Tố nói:
    - Những chuyện tế vi khúc chiết bên trong chuyện này, tôi cũng không biết rõ lắm, để sau này hỏi chính Tam sư ca của ông có lẽ hay hơn.
    Trương Thúy Sơn thấy nàng không muốn trả lời, biết rằng có gặng hỏi thêm cũng vô ích, nghĩ thầm: ?Kẻ làm hại Tam sư ca cốt chỉ muốn kiếm thanh đao Đồ Long. Thường đàn chủ nói rằng họ sẽ dương đao lập uy tại đảo Vương Bàn Sơn, dường như thanh đao này đang ở trong tay bọn họ. Những tên ác tặc đó nghe tiếng thể nào cũng đến?. Chàng bèn nói:
    - Tên đạo sĩ phát xạ ba mũi mai hoa tiêu kia, cô liệu xem hắn có đến Vương Bàn Sơn đảo không?
    Ân Tố Tố nhếch mép cười, không trả lời câu hỏi của chàng, nói:
    - Ngũ hiệp cũng định đi xem trò vui này chăng, thế thì cả bọn mình cùng đi vậy.
    Nàng quay sang nói với Thường Kim Bằng:
    - Thường đàn chủ, xin thuyền của ông đi trước dẫn đường.
    Thường Kim Bằng đáp:
    - Vâng.
    Nói rồi khom lưng đi ra khỏi khoang thuyền, cung kính chẳng khác gì đầy tớ đối với chủ nhân.
    Ân Tố Tố chỉ gật đầu. Trương Thúy Sơn kính trọng võ công của y không phải tầm thường nên đứng dậy tiễn ra đến cửa khoang. Ân Tố Tố thấy trường bào của chàng sau lưng bị Thường Kim Bằng đánh rách một mảng lớn, đợi khi Trương Thúy Sơn quay lại mới nói:
    - Ngũ hiệp cởi áo ra, để tôi vá lại cho.
    Trương Thúy Sơn đáp:
    - Chẳng sao đâu.
    Ân Tố Tố nói:
    - Ngũ hiệp hiềm tôi chân tay vụng về phải không?
    Trương Thúy Sơn đáp:
    - Đâu dám.
    Nói rồi chàng lặng thinh, nghĩ đến cô ta chỉ một buổi tối giết chết mấy chục mạng người của Long Môn tiêu cục. Những kẻ đại ác đó, đáng ra chàng phải ra tay tru diệt mới phải, nào ngờ giờ này không những cùng nàng đi chung thuyền, lại còn giúp cô ta trừ tiêu khu độc. Vẫn biết rằng chàng làm thế chỉ để báo đền cái ơn hộ tống sư huynh, nhưng dẫu sao cũng là thiện ác bất minh, việc ở trên đảo Vương Bàn Sơn xong rồi, mình sẽ cùng nàng chia tay, sau này sẽ không bao giờ gặp lại cô ta nữa.
    Ân Tố Tố thấy mặt chàng có vẻ không vui, đã đoán được tâm sự nên lạnh lùng nói:
    - Chẳng cứ Đô Đại Cẩm và Chúc, Sử hai tiêu đầu, toàn gia Long Môn tiêu cục và hai nhà sư chùa Thiếu Lâm, ngay đến hòa thượng Tuệ Phong, cũng do tôi giết đó.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Tôi cũng đã sớm nghi là cô rồi, chỉ không biết cô làm cách nào thôi.
    Ân Tố Tố nói:
    - Có gì lạ đâu. Tôi nằm phục ở dưới nước, bên bờ hồ nghe hai bên đối đáp. Gã Tuệ Phong bỗng đâu phát giác hai người tướng mạo không đồng, đang định nói ra, tôi vội vàng bắn ngân châm vào trong mồm y, ngũ hiệp đi kiếm tôi trên đường, bên gốc cây hay trong bụi cỏ thì đời nào tìm cho ra.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Thảo nào phái Thiếu Lâm cứ nhất định cho là tôi đã hạ độc thủ. Ân cô nương, cô quả thực thật thông minh, thật thủ đoạn.
    Mấy câu nói đó của chàng chứa đầy tức tối, Ân Tố Tố làm như không biết, giả vờ đứng dậy, cười nói:
    - Không dám, Trương ngũ hiệp quá khen.
    Đến lúc này Trương Thúy Sơn giận không còn chịu nổi, sẵng giọng:
    - Họ Trương này với cô không thù không oán, sao cô lại phải cố công hãm hại tôi như vậy?
    Ân Tố Tố mỉm cười:
    - Tôi đâu phải muốn hãm hại ngũ hiệp đâu. Chỉ vì Thiếu Lâm, Võ Đương được coi là hai đại tông phái của võ lâm, tôi muốn hai bên đánh nhau thử, để xem bên nào mạnh, bên nào yếu.
    Trương Thúy Sơn hãi sợ, lửa giận trong lòng xem chừng tắt ngóm, nhưng lại càng thấy đáng gờm, nghĩ thầm: ?Hóa ra cô ta còn có một đại gian mưu, đâu phải chỉ hãm hại mình ta không thôi. Nếu phái Võ Đương ta và phái Thiếu Lâm hai bên đánh lẫn nhau, thế ắt lưỡng bại câu thương, thành một cơn hạo kiếp trong võ lâm?.
    Ân Tố Tố lấy chiếc quạt ra phe phẩy, làm như không có chuyện gì, nói:
    - Trương ngũ hiệp, ngũ hiệp có thể cho tôi được mở mắt, thưởng thức thư họa trên chiếc quạt của ông không?
    Trương Thúy Sơn chưa kịp trả lời, bỗng nghe một người nào đó trên chiếc thuyền của Thường Kim Bằng lớn tiếng nói:
    - Có phải thuyền của bang Cự Kình đấy không? Vị nào ở trên thuyền thế?
    Bên cánh phải của mặt sông lại có người kêu lên:
    - Đây là thiếu bang chủ của Cự Kình bang đến đảo Vương Bàn Sơn phó hội.
    Người trên thuyền của Thường Kim Bằng lại nói lớn:
    - Tại đây có Ân cô nương và Thường đàn chủ Chu Tước Đàn của Thiên Ưng giáo, lại có quí khách thuộc danh môn, quí thuyền lùi lại sau đi.
    Người ở bên thuyền phía bên hữu liền đáp lại bằng một giọng thô lỗ:
    - Nếu như giáo chủ quí giáo giá lâm thì chúng tôi sẽ nhường, người khác thì đừng hòng.
    Trương Thúy Sơn trong lòng chợt động, nghĩ thầm:
    - Thiên Ưng giáo? Đây là tà giáo nào? Sao mình chưa nghe tới bao giờ nhưng trước mắt thấy thanh thế, lực lượng của họ xem ra không nhỏ. Có lẽ giáo phái này nổi dậy chưa lâu, mình lại ít đến Giang Nam nên không biết tới. Cự Kình bang thì nghe tên đã lâu, họ cũng chẳng phải bọn tử tế gì.
    ?Chàng đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài thấy bên phải có một chiếc thuyền, thân khắc thành một con cá kình thật lớn, trên đầu lấp lánh vài mươi con dao xếp thành răng con cá, thân thuyền cong cong, đuôi vểnh lên chẳng khác gì đuôi một con cá kình. Chiếc thuyền đó buồm lớn, thân nhẹ, chạy nhanh gấp bội thuyền của Thường Kim Bằng.
    Thường Kim Bằng đứng ở đầu thuyền, kêu lớn:
    - Mạch thiếu bang chủ, Ân cô nương đang ở đây, bộ ngươi không nể mặt chút nào sao?
    Từ trong khoang thuyền của Cự Kình bang đi ra một thanh niên mặc áo màu vàng, cười khẩy đáp:
    - Trên đất liền thì Thiên Ưng giáo các người là hơn, nhưng trên mặt biển thì phải để Cự Kình bang chúng tôi hơn chứ. Đâu có thể để các ngươi đi trước dễ dàng như thế được.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm:
    - Mặt sông rộng như thế này, vài trăm chiếc cùng đi cũng còn được, việc gì phải bắt họ nhường đường cho mình, Thiên Ưng giáo này kể cũng ngang ngược thật.
    Lúc đó thuyền của bang Cự Kình lại giương thêm một chiếc buồm nữa, đi càng nhanh hơn, hai chiếc thuyền mỗi lúc một xa, không có cách gì đuổi kịp. Thường Kim Bằng hừ một tiếng, nói:
    - Cự Kình bang ? đao Đồ Long ? đúng ? đao Đồ Long ?
    Trên sông lớn, sóng cao gió mạnh, hai chiếc thuyền khoảng cách lại xa, không biết y định nói cái gì. Mạch thiếu bang chủ nghe thấy y liên tiếp nói hai câu ?đao Đồ Long?, nghĩ chắc phải là chuyện quan trọng, nên ra lệnh cho thủy thủ quay thuyền lại, mỗi lúc một gần thuyền của Thường Kim Bằng, lớn tiếng hỏi:
    - Thường đàn chủ muốn nói cái gì?
    Thường Kim Bằng nói:
    - Mạch thiếu bang chủ ? Huyền Võ Đàn Bạch đàn chủ ? thanh đao Đồ Long đó ?
    Trương Thúy Sơn thấy hơi lạ lùng: ?Sao y nói cái gì mà ngập ngừng đứt khúc như thế??. Thuyền của bang Cự Kình mỗi lúc gần hơn, cách nhau chỉ còn vài trượng, bỗng nghe một tiếng ?vù?, Thường Kim Bằng đã xách chiếc neo lớn để ở đầu thuyền ném qua, tiếng xích sắt kêu loảng xoảng, thuyền phía bên kia có hai tên thủy thủ kêu la thảm thiết, chiếc neo đã móc vào thuyền của bang Cự Kình.
    Mạch thiếu bang chủ quát lên:
    - Ngươi định làm gì thế?
    Thường Kim Bằng tay chân thật nhanh nhẹn, xách luôn chiếc neo phía bên tả ném sang luôn, hai chiếc neo đã đánh chết ba tên thủy thủ của bang Cự Kình, đồng thời hai chiếc thuyền đã xích chùm lại với nhau.
    Mạch thiếu bang chủ chạy đến bên be thuyền, giơ tay nhổ chiếc neo ra. Thường Kim Bằng tay trái huy động, tiếng xích leng keng, một trái dưa màu xanh thẫm đã bay ra, nghe bình một tiếng lớn, đánh trúng ngay chiếc cột buồm cái của thuyền bang Cự Kình. Trương Thúy Sơn bây giờ mới thấy trái dưa sắt đó là vũ khí sử dụng của Thường Kim Bằng, trông ra làm bằng thép đúc thành, trên trái dưa có sơn màu xanh sọc đen. Dưa đó gồm hai trái, chẳng khác gì lưu tinh chùy, có điều rất nặng, mỗi trái không dưới năm sáu chục cân, nếu cánh tay không có sức kinh người, làm sao có thể sử động được?
    Trái dưa bên phải vừa đánh ra, chiếc cột buồm cái của thuyền bang Cự Kình đã nghe lắc rắc, Thường Kim Bằng lập tức thu vũ khí về, tiếp theo trái dưa sắt bên tay trái lại đánh tiếp ra, đến lúc trái dưa bên phải đánh ra lần thứ ba thì chiếc cột cái đó lắc rắc liên hồi, gãy ra làm đôi. Bọn hải tặc bên bang Cự Kình kêu la om xòm, hai trái dưa trong tay Thường Kim Bằng tung ra một lượt, đánh luôn vào cột buồm ở phía sau, cột này nhỏ hơn, đánh một lần là gãy liền.
    Lúc đó hai chiếc thuyền cách nhau chừng hơn hai trượng, Mạch thiếu bang chủ đành trơ mắt đứng nhìn hai chiếc cột buồm từng chiếc bị đánh gãy, không biết cách nào khác, chỉ còn nước lớn giọng chửi bới.
    Thường Kim Bằng quát lên:
    - Có Thiên Ưng giáo ở đây, trên mặt nước cũng không đến lượt Cự Kình bang các ngươi xưng hùng.
    Tay bên phải lại vung trái dưa ra, nghe vù một tiếng, lần này đánh vào mạn thuyền của bang Cự Kình. Nghe bình một tiếng, mạn thuyền đã bị vỡ một lỗ lớn, nước biển tràn vào, trên thuyền bọn thủy thủy lập tức kêu la nổi lên.
    Mạch thiếu bang chủ cầm chiếc phân thủy nga mi thích[8], hai chân nhún một cái, tung mình nhắm phía đầu thuyền của Thường Kim Bằng nhảy lên. Thường Kim Bằng đợi y nhảy lên đến vị trí cao nhất mới phóng trái dưa bên tay trái ra, nhắm ngay mặt y đánh tới. Chiêu đó hết sức độc địa, khi trái dưa sắt bay đến, chính là lúc y đang ở trên không, sức nhảy chưa suy, Mạch thiếu bang chủ chỉ còn cách kêu lên:
    - Ối chà !
    Liền đem mũi của nga mi thích đỡ trái dưa để mượn sức, chỉ thấy ngộp thở, mắt tối sầm, vội lộn người nhảy ngược về thuyền.
    Hai trái dưa của Thường Kim Bằng lúc này thay phiên nhau tung ra thu vào, chỉ giây lát thuyền của bang Cự Kình đã thủng bảy, tám cái lỗ lớn. Y liền cầm dây xích buộc neo, vận kình kéo về. Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, thuyền của Cự Kình bang bị vỡ nát, hai cái neo đã trở lại đầu thuyền.
    Bọn thủy thủ trên thuyền của Thiên Ưng giáo không đợi đàn chủ ra lệnh, dương buồm, chuyển lái, thẳng tiến về phía trước.
    Trương Thúy Sơn thấy Thường Kim Bằng đánh phá thuyền địch uy mãnh như thế, trong lòng sợ thầm: ?Nếu như ta không được ân sư truyền thụ, học được phép mượn sức ngự sức, cú đánh sấm sét của y trúng ngay lưng ta, làm sao chịu nổi. Người này trong giây lát đã dụ địch, phá địch, không phải chỉ võ công kinh người, mà còn hiểm độc tàn nhẫn, tâm kế đa đoan, thật là một tay lợi hại trong tà giáo?. Chàng quay lại nhìn Ân Tố Tố thấy nàng vẫn thản nhiên, tưởng như những việc như thế vẫn thấy hàng ngày, nên không để tâm chút nào.
    Từ xa tiếng ầm ầm vọng đến như tiếng sấm, chính là thủy triều ban đêm trên sông Tiền Đường. Bang chúng của bang Cự Kình tuy ai nấy đều thông thủy tính, nhưng chỗ này là nơi sông và biển tiếp giáp nhau, mặt sông đến mấy chục dặm, hai bờ nam bắc đều xa. Bang chúng của bang Cự Kình nghe thấy tiếng thủy triều, không khỏi hoảng sợ kêu cứu ầm ỹ. Hai chiếc thuyền của Thường Kim Bằng và Ân Tố Tố vẫn tiếp tục đi về hướng đông, chẳng thèm lý đến.
    Trương Thúy Sơn thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhìn về phía sau, thấy chiếc thuyền của bang Cự Kình đã chìm một nửa dưới nước, nước triều chỉ tràn tới là sẽ vỡ tan. Chàng nghe thấy tiếng người kêu cứu thảm thiết, trong lòng thấy không chịu nổi, nhưng biết rằng Thường Kim Bằng và Ân Tố Tố đều là những người tâm địa ác độc, thủ đoạn tàn nhẫn, nếu như yêu cầu họ dừng thuyền cứu người ắt sẽ bị cự tuyệt thêm khó chịu nên đành ngồi yên không nói.
    Ân Tố Tố nhìn thần sắc chàng, mỉm cười, nói lớn:
    - Thường đàn chủ, khách của chúng ta là Trương ngũ hiệp đại phát từ bi, ngươi mau cứu bọn Cự Kình bang lên.
    Câu đó thực ngoài liệu định của Trương Thúy Sơn. Chỉ nghe thuyền trước có tiếng Thường Kim Bằng nói:
    - Cẩn tuân mệnh lệnh của quí khách.
    Thuyền liền nghiêng qua, quay đầu trở lại thượng lưu. Thường Kim Bằng lớn tiếng nói:
    - Hỡi các bang chúng của Cự Kình bang, Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương cứu mạng các ngươi, kẻ nào muốn sống thì bơi xuống đây.
    Các bang chúng đều theo dòng mà bơi xuống. Thuyền của Thường Kim Bằng ngược chiều đi lên, chặn ngay trước đầu sóng, vớt hết cả bọn Cự Kình bang, từ Mạch thiếu bang chủ trở xuống, mười phần cứu được tám chín, nhưng cũng có bảy tám thủy thủ táng mạng trong cơn ba đào.
    Trương Thúy Sơn trong lòng thấy an ủi, vui vẻ nói:
    - Đa tạ cô nương.
    Ân Tố Tố lạnh lùng đáp:
    - Cự Kình bang giết người cướp của, trên thuyền đó không kẻ nào tay không đầy máu, ngũ hiệp cứu chúng làm gì?
    Trương Thúy Sơn ngẩn người, không trả lời được. Bang Cự Kình ác danh rất nổi, là một trong bốn đại ác bang trên mặt nước, chàng đã nghe nói đến nhiều, không ngờ hôm nay lại ra tay cứu vớt. Ân Tố Tố nói:
    - Nếu như không cứu bọn chúng lên thuyền, e rằng Trương ngũ hiệp trong bụng sẽ chửi thầm: ?Hừ, cô gái trẻ tuổi này bụng dạ độc ác, chẳng khác gì rắn rết, ta Trương Thúy Sơn thật hối hận đã giúp cô ta nhổ tiêu trừ độc?.
    Câu đó quả thực đã nói đúng tâm sự của Trương Thúy Sơn khiến chàng đỏ mặt, chỉ còn cười gượng:
    - Cô mồm miệng lanh lợi, tôi làm sao nói cho lại. Cứu người là tích công đức cho cô, có liên can gì đến tôi đâu.
    Ngay lúc đó, tiếng nước triều ầm ầm như sấm động, ù cả tai. Chiếc thuyền Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đang đi bị chao đi chao lại, tiếng nói đều bị át mất. Trương Thúy Sơn nhìn ra ngoài cửa sổ thấy sóng lớn cao như bức tường, bọn bang chúng Cự Kình bang nếu không được cứu thì giờ này đã bị ba đào cuốn mất.
    Ân Tố Tố đi vào sau khoang thuyền đóng cửa lại. Một lát sau nàng đi ra, đã đổi sang y phục phụ nữ. Nàng ra dấu bảo Trương Thúy Sơn cởi trường bào. Trương Thúy Sơn không tiện cự tuyệt, chỉ còn nước thay áo ra. Chàng tưởng Ân Tố Tố sẽ giúp mình vá lại chỗ rách trên lưng, nào ngờ lại đưa cho chàng chiếc trường bào nàng dùng để cải nam trang, ra hiệu cho chàng mặc vào, còn chiếc áo rách đem cất vào sau khoang.
    Trương Thúy Sơn trên người chỉ còn áo ngắn lót mình nên đành mặc chiếc áo của Ân Tố Tố. Chiếc áo đó vốn rộng rãi, Trương Thúy Sơn tuy cao lớn hơn nàng nhiều, nhưng mặc không thấy chật. Chàng thấy có mùi hương nhè nhẹ tỏa ra xông lên mũi, trong lòng thấy lâng lâng, không dám nhìn nàng, chỉ nghiêm cẩn ngồi giả vờ ngắm những bức thư họa trên vách thuyền. Thế nhưng tâm sự cũng như nước triều, cùng sóng biển bên ngoài đưa thuyền trồi lên hụp xuống, nhưng biết đi về hướng nào bây giờ? Ân Tố Tố cũng không nói chuyện với chàng thêm nữa.
    Bỗng dưng một làn sóng lớn ùa tới, thân thuyền chao đi, trong khoang đèn nến tắt phụp. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Mình hai người cô nam quả nữ, cùng ngồi trong khoang thuyền, tuy ta không làm điều gì sai trái, nhưng e rằng có thể có hại cho thanh danh của Ân cô nương?. Nghĩ vậy chàng liền đẩy cửa khoang sau, đi ra ngồi xem người lái thuyền, xem y cầm lái một cách vững chãi, đưa con thuyền vượt sóng lướt triều mà đi.
    Độ hơn nửa giờ sau, nước triều bắt đầu rút trở ra biển, thuận nước xuôi gió, thuyền chạy càng nhanh hơn, đến sáng sớm đã đến Vương Bàn Sơn đảo. Đảo Vương Bàn Sơn chỉ là một hòn đảo hoang nhỏ nằm trên biển Đông ngay cửa sông Tiền Đường, trên đảo đá dựng chơm chởm không người ở. Hai chiếc thuyền đi vào hướng nam, còn cách đảo vài ba dặm, đã nghe tiếng tù và thổi vang, thấy trên bờ có hai người vẫy hai ngọn đại kỳ ra hiệu. Chiếc thuyền đi tới gần hơn, thấy hai lá cờ đó đều có thêu hình một con chim ưng lớn, hai cánh giương rộng, trông thật uy võ.
    Đứng giữa hai ngọn cờ đó là một ông già. Y lớn tiếng nói:
    - Huyền Võ Đàn Bạch Qui Thọ cung kính nghinh đón Ân cô nương.
    Thanh âm chậm và dài, giọng kết chặt với nhau, tuy không vang động, nhưng khí lực hùng hậu. Một lát sau khi thuyền đến sát bờ, Bạch Qui Thọ tự mình bắc ván làm cầu cho khách xuống thuyền. Ân Tố Tố nhường Trương Thúy Sơn xuống trước, lên đến bờ liền đưa chàng lại giới thiệu với Bạch Qui Thọ.
    Bạch Qui Thọ thấy Ân Tố Tố có vẻ rất coi trọng Trương Thúy Sơn, lại nghe chàng là Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương, trong bụng không khỏi e ngại, nói:
    - Đã nghe danh Võ Đương thất hiệp từ lâu, hôm nay được gặp, quả thực đại vinh hạnh.
    Trương Thúy Sơn khiêm tốn đáp lại vài câu. Ân Tố Tố cười nói:
    - Hai người nói năng giữ kẽ, nghe chẳng thoải mái chút nào. Một người thì nghĩ thầm: "Chao ôi, không ổn rồi, người của phái Võ Đương đến đây, lại thêm một tay lợi hại đến tranh cướp đao Đồ Long". Còn người kia trong bụng nghĩ: ?Các ngươi là bọn giáo phái tà đạo, ta đâu có thèm kết giao làm gì?. Thôi nghe tôi đây, ai nghĩ sao cứ nói ra làm vậy, đừng có nghĩ một đằng nói một nẻo.
    Bạch Qui Thọ cười ha hả. Trương Thúy Sơn nói:
    - Không dám. Bạch đàn chủ võ công tinh thâm, tại hạ được nghe công phu ?Cách Hải Truyền Thanh?, trong lòng lấy làm bội phục lắm. Tại hạ chỉ theo Ân cô nương đến đây xem trò vui, không có bụng dòm ngó bảo đao đâu.
    Ân Tố Tố nghe chàng nói thế, mặt tươi như hoa, trong lòng thật vui vẻ. Bạch Qui Thọ vốn biết Ân Tố Tố mặt lạnh lòng lang, xưa nay chưa để ai vào mắt bao giờ, bây giờ đối với Trương Thúy Sơn tuyệt nhiên khác hẳn, biết rằng cô coi người này không phải nhẹ, lại nghe chàng tán tụng võ công của mình, nên không coi chàng là thù địch nữa, nói:
    - Ân cô nương, phái Hải Sa, bang Cự Kình, Thần Quyền môn những bọn đó cũng đã đến trước, lại có thêm hai kiếm khách trẻ tuổi của phái Côn Lôn. Hai tên tiểu tử đó dương dương vênh váo, phách lối ra trò. Đâu có được như Trương ngũ hiệp, danh vang thiên hạ nhưng vẫn hết sức khiêm cung. Thế mới biết có một phần tài ba, lại phải có một phần tu dưỡng ?
    Y vừa nói tới đó, bỗng nghe từ phía núi đằng sau có người nói:
    - Lén lén lút lút phỉ báng sau lưng người khác, thế là cái tư cách gì?
    Tiếng nói vừa dứt, có hai người đi ra. Hai người đó đều mặc trường bào màu xanh, trên lưng đeo chéo một thanh trường kiếm, khoảng hai mươi tám, hai mươi chín tuổi, mặt mày đăm đăm như muốn gây gỗ sinh sự.
    Bạch Qui Thọ cười nói:
    - Nói đến Tào Tháo, Tào Tháo đến ngay. Lại đây, lại đây, để tôi giới thiệu các vị với nhau.
    Hai gã kiếm khách phái Côn Lôn vốn định gây sự, nhưng khi thấy Ân Tố Tố dung quang xinh đẹp, diễm lệ phi phàm, không hẹn mà hai người cùng động tâm. Một người nhìn cô không chớp mắt, còn người kia nhìn cô một cái, quay đầu đi, rồi lại nhìn lén một cái. Bạch Qui Thọ chỉ người đang ngơ ngẩn, nói:
    - Vị này là Cao Tắc Thành, Cao đại kiếm khách.
    Lại chỉ người kia nói:
    - Còn vị này là Tưởng Đào, Tưởng đại kiếm khách. Hai vị đều là võ học cao thủ của phái Côn Lôn. Ai cũng biết phái Côn Lôn uy chấn Tây Vực, trong võ học có những môn không truyền ra ngoài. Cao Tưởng hai vị lại là kỳ tài của phái Côn Lôn, siêu quần bạt tụy, không phải như những người khác. Lần này hai vị đến Trung Nguyên, thể nào cũng đại hiển tài nghệ để cho chúng ta được mở mắt ra.
    Lời nói của y bên trong hàm ý mỉa mai, Trương Thúy Sơn nghĩ nếu hai gã này không lập tức động võ, ít nhất cũng trả miếng vài lời. Nào ngờ Cao Tưởng chỉ ừ hử, tưởng như không nghe y nói gì, xem lại thần sắc hai người chàng mới vỡ lẽ. Hóa ra họ vừa thấy Ân Tố Tố, một gã thì đờ người như mất hồn, một gã thì lấm lét nhìn trộm, rõ ràng cả hai như si như ngốc. Trương Thúy Sơn trong bụng cười thầm:
    - Phái Côn Lôn nổi tiếng trong thiên hạ, dám xưng kiếm thuật thông thần, nào ngờ đệ tử của phái này tư cách kém đến thế.
    Bạch Qui Thọ nói tiếp:
    - Còn vị này là Phái Võ Đương Trương Thúy Sơn Trương tướng công, vị này là Ân Tố Tố Ân cô nương, còn đây là Thường Kim Bằng Thường đàn chủ của tệ giáo.
    Y nói đến tên ba người chỉ phớt qua, không màu mè chi tiết, đối với Trương Thúy Sơn lại chỉ gọi Trương tướng công chứ cả ba chữ Trương ngũ hiệp cũng không nói đến, rõ ràng coi chàng là một người rất thân của bên mình.
    Ân Tố Tố trong lòng vui lắm, đưa mắt liếc Trương Thúy Sơn một cái, sóng mắt long lanh, đôi má núm đồng tiền hơi lõm xuống.
    Cao Tắc Thành thấy Ân Tố Tố đối với Trương Thúy Sơn thần thái thân cận, trong bụng không hiểu sao bỗng dưng tức tối, hậm hực trừng mắt nhìn Trương Thúy Sơn, khinh khỉnh nói:
    - Tưởng sư đệ, hồi mình ở Tây Vực, hình như cũng có nghe qua, phái Võ Đương cũng là một danh môn chính phái của Trung nguyên thì phải.
    Tưởng Đào đáp:
    - Đúng thế, có nghe như vậy.
    Cao Tắc Thành nói:
    - Thế nhưng tai nghe không như mắt thấy, chuyện thiên hạ bàn tán ngoài đường, thật không thể nào tin nổi.
    Tưởng Đào đáp:
    - Vậy ư? Trên chốn giang hồ, biết bao nhiêu chuyện, mười thì có đến tám chín không có gì xác thực, Cao sư ca nói phái Võ Đương làm sao?
    Cao Tắc Thành đáp:
    - Đệ tử danh môn chính phái sao lại đàn đúm một bọn với các nhân vật tà giáo, khác nào tự mình rơi vào chỗ xấu xa?
    Hai người kẻ tung người hứng, nhắm vào Trương Thúy Sơn để châm chọc. Họ đâu biết Ân Tố Tố cũng là người trong Thiên Ưng giáo nên hai chữ ?tà giáo? lại tưởng chỉ nói đến Thường, Bạch mà thôi.
    Trương Thúy Sơn thấy hai người ăn nói vô lễ, đã toan nổi giận, nhưng chợt nghĩ ra, chuyến này mình lên Vương Bàn Sơn đảo, chỉ cốt điều tra hung thủ hãm hại Du tam ca, hai tên đệ tử phái Côn Lôn kia tuy tuổi tác cao hơn mình, nhưng cũng chỉ là bọn vô danh mới ?ra khỏi lều tranh?, chấp họ làm gì. Huống chi Thiên Ưng giáo quả thực hành sự tàn ác, cứ xem Ân Tố Tố và Thường Kim Bằng giết người như cơm bữa thì đủ biết, mình không thể nào đi chung với họ. Chàng mỉm cười, nói:
    - Tại hạ và các vị của Thiên Ưng giáo đây cũng chỉ mới quen, so với hai vị nhân huynh cũng chẳng khác gì.
    Câu nói của chàng ai nấy nghe thấy cũng ngoài dự kiến. Bạch, Thường hai đàn chủ nghĩ Ân Tố Tố cùng với chàng giao tình thật sâu, nào ngờ cũng chỉ mới quen. Ân Tố Tố trong lòng giận lắm, biết rằng Trương Thúy Sơn nói như thế, rõ ràng có ý không coi Thiên Ưng giáo vào đâu. Cao Tưởng hai người nhìn nhau cười nhạt, nghĩ thầm: ?Tiểu tử này quả là đồ bị thịt, vừa mới nghe đến tên phái Côn Lôn, trong lòng đã khiếp đảm rồi?.
    Bạch Qui Thọ nói:
    - Các vị tân khách đến đã đủ, chỉ còn Mạch thiếu bang chủ chưa thấy, mình không đợi y làm chi. Bây giờ quí vị tùy ý ngao du, đến chính ngọ, xin mời đến sơn cốc bên kia uống rượu, xem đao.
    Thường Kim Bằng cười đáp:
    - Thuyền của Mạch thiếu bang chủ chẳng may bị đắm, được Trương tướng công sai người cứu lên, hiện giờ đang ở trên thuyền, đợi đến lúc đó mời y phó yến cũng được.
    Trương Thúy Sơn thấy hai đàn chủ Bạch Thường đối với mình cực kỳ cung kính giữ lễ, Ân Tố Tố thì thần sắc nhãn quang lúc nào cũng nhu tình long lanh, cảm thấy đối với những người này làm sao càng xa càng tốt, nên nói:
    - Tiểu đệ muốn một mình đi lanh quanh, xin các vị tùy tiện.
    Chàng không đợi mọi người hồi đáp, chắp tay chào, rồi nhắm đám rừng cây ở phía đông đi tới.
    Vương Bàn Sơn là một hòn đảo nhỏ, núi đá cây cối chẳng có gì đáng xem, ở phía đông nam có một cái vịnh, nơi các cột buồm dựng lên, đậu khoảng chục chiếc thuyền lớn, có lẽ là của bang Cự Kình và phái Hải Sa. Trương Thúy Sơn cứ men theo bờ biển mà đi, chàng đối với hành vi giết người tàn ác của Ân Tố Tố rất bất mãn, nhưng không hiểu sao, một câu hỏi có liên quan đến nàng cứ chập chờn: ?Ân cô nương đó địa vị trong Thiên Ưng giáo rất cao, hai vị Bạch Thường đàn chủ đối với nàng săn sóc, hầu hạ chẳng khác gì một cô công chúa, nhưng rõ ràng nàng không phải là giáo chủ, không biết nàng là loại người gì??.
    Lại nghĩ: ?Thiên Ưng giáo tại hòn đảo nhỏ này dương đao lập uy, đối phương các phái Hải Sa, Thần Quyền môn, bang Cự Kình đều do các thủ lãnh phó hội, còn Thiên Ưng giáo chỉ phái hai tên đàn chủ chủ trì, không coi các đối thủ đó vào đâu. Xem ra Bạch đàn chủ của Huyền Võ Đàn tựa hồ công lực còn cao hơn Thường đàn chủ của Chu Tước Đàn. Thiên Ưng giáo rồi đây sẽ là một mối lo cho võ lâm, hôm nay mình phải dò xét xem đầu dây mối nhợ của họ thế nào, biết đâu một ngày Võ Đương thất hiệp sẽ phải đứng vào thế đối đầu với họ?.
    Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe từ bên ngoài rừng cây truyền lại tiếng binh khí va chạm nhau, tính hiếu kỳ nổi lên, men theo tiếng vọng tìm tới. Chỉ thấy dưới bóng cây Cao Tắc Thành và Tưởng Đào hai người đều cầm trường kiếm, đang đối luyện với nhau còn Ân Tố Tố đứng một bên cười khúc khích. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Sư phụ thường nói là kiếm pháp phái Côn Lôn có chỗ độc đáo, lão nhân gia khi còn trẻ đã từng có lần cùng một danh gia của phái Côn Lôn xưng là ?Kiếm Thánh? giao đấu, cơ duyên này thật là hiếm có?.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:31:42 | Chỉ xem của tác giả
    Thế nhưng nhân sĩ trong võ lâm khi luyện võ rất kỵ người ngoài coi lén. Trương Thúy Sơn tuy rất muốn xem, nhưng đành phải giữ qui củ võ lâm, chỉ liếc qua một cái, quay mình toan đi. Thế nhưng chàng vừa thò mặt ra, Ân Tố Tố đã nhìn thấy rồi, vẫy chàng lại, kêu lên:
    - Trương ngũ ca, lại đây.
    Trương Thúy Sơn nếu vẫn ra đi không khỏi người ta nghi chàng xem trộm, nên đành phải đủng đỉnh đi tới, nói:
    - Hai vị huynh đài đang luyện kiếm tại đây, bọn mình không nên để người ta khó chịu, đi sang bên kia đi.
    Chàng chưa kịp nghe Ân Tố Tố trả lời, đã thấy một ánh sáng trắng lóe lên, nghe xoẹt một cái, Tưởng Đào trả kiếm đâm trúng đầu vai của Cao Tắc Thành, máu tươi tóe ra. Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, cho rằng Tưởng Đào sơ xuất đả thương sư huynh. Nào ngờ Cao Tắc Thành mặt mày xanh xám, mím môi chát chát chát đâm luôn ba kiếm, toàn nhằm chỗ yếu hại của Tưởng Đào, chiêu số vừa khéo léo vừa độc địa. Trương Thúy Sơn bấy giờ mới biết, hai người không phải luyện tập, mà là đánh nhau thực, nên càng lạ lùng.
    Ân Tố Tố cười nói:
    - Xem ra sư ca không bằng sư đệ, Tưởng huynh kiếm pháp có vẻ tinh diệu hơn.
    Cao Tắc Thành nghe nói thế, nghiến răng, uốn mình hồi kiếm, kiếm quyết xéo qua, một chiêu ?Bách Trượng Phi Bộc[9]?, mũi kiếm từ trên không đâm thẳng xuống. Trương Thúy Sơn không nhịn nổi phải kêu lên:
    - Hảo kiếm pháp.
    Tưởng Đào rụt người tránh ra, nhưng thế kiếm của Cao Tắc Thành không đợi sử xong, giữa đường biến chiêu, đâm ngang, nghe cách một tiếng, đã trúng ngay đùi bên trái Tưởng Đào. Ân Tố Tố vỗ tay reo:
    - Hóa ra sư huynh cũng có một hai miếng, chiêu này Tưởng huynh xem ra không sao bì kịp rồi.
    Tưởng Đào giận nói:
    - Cái đó chưa chắc.
    Kiếm chiêu biến thật nhanh, vù vù veo véo luôn mấy đường ?Vũ Đả Phi Hoa? kiếm pháp. Lộ kiếm này toàn những thế đâm xéo, thật là tiêu dật, nhưng cứ bảy tám thế chéo lại xen vào một thế thẳng, khiến cho rất khó đón đỡ. Cao Tắc Thành đối với đường kiếm này của bản môn đã quen thuộc lắm rồi, nhận chiêu sách chiêu, thỉnh thoảng lại trả lại một hai nhát. Hai người đều bị thương, tuy không phải chỗ yếu hại, nhưng khi kịch đấu máu me vung vãi, trên mặt, trên áo, trên tay đều có lấm tấm vết máu. Hai sư huynh đệ càng đấu càng hăng, thế càng độc, về sau tưởng như một phen sống mái không bằng. Ân Tố Tố ở bên cạnh không ngớt xui nguyên, giục bị, khen Cao Tắc Thành vài câu, lại khen Tưởng Đào vài câu, khiến họ như điên như si, hận không đâm chết được đối phương, để phô bày sự cao cường của mình cốt lấy lòng Ân Tố Tố.
    Lúc đó Trương Thúy Sơn đã minh bạch, hai sư huynh đệ xả thân ác đấu, đều do Ân Tố Tố đứng bên khiêu khích để báo thù hai người dám ra lời khinh thị Thiên Ưng giáo. Xem chừng hai người càng lúc càng độc địa, lúc đầu không phải muốn thủ thắng, nhưng sau không còn tự chế được nữa, như muốn lấy mạng đối phương, nếu tiếp tục thể nào cũng gây đại họa. Hai người kiếm pháp cũng khá tinh diệu, nhưng biến hóa chưa được linh động, nội lực lại thô thiển, uy lực của kiếm pháp chỉ phát huy được độ một, hai thành.
    Ân Tố Tố vỗ tay cười vui vẻ, thật cao hứng nói:
    - Trương ngũ ca, anh xem kiếm pháp phái Côn Lôn ra sao?
    Nàng không đợi Trương Thúy Sơn đáp, quay đầu lại, thấy chàng hơi nhướng lông mày, có vẻ chán ghét, bèn nói:
    - Sử qua sử lại chỉ có mấy đường, xem chẳng có gì hấp dẫn, thôi mình đi qua bên kia ngắm biển đi.
    Nói xong nàng nắm bàn tay trái của Trương Thúy Sơn, cất bước đi khỏi.
    Trương Thúy Sơn thấy bàn tay mềm mại ấm áp nắm tay mình, trong lòng xúc động, biết nàng cố tình chọc tức hai gã Cao Tưởng, nhưng không tiện giựt tay ra, chỉ có nước đi theo nàng ra phía biển.
    Ân Tố Tố nhìn biển cả mênh mông không thấy bến bờ, lặng người ngắm, bỗng nói:
    - Trang Tử trong thiên Thu Thủy có viết là:? Nước trong thiên hạ không gì lớn bằng biển, vạn dòng nước chảy về, không biết lúc nào ngừng và lúc nào sẽ đầy?. Thế nhưng biển cả không bao giờ kiêu ngạo, chỉ nói:? Ta ở trong trời đất, cũng chẳng khác gì hòn đá nhỏ, cái cây non trong núi lớn?. Trang Tử quả là hiểu biết, bụng dạ rộng rãi biết bao.
    Trương Thúy Sơn thấy nàng xúi cho Cao Tưởng hai người tự tàn sát lẫn nhau để làm vui, trong lòng rất bất mãn, bây giờ nghe nàng nói câu này, không khỏi ngạc nhiên. Trang Tử là cuốn sách mà đạo gia tu dưỡng ai ai cũng phải đọc, Trương Thúy Sơn khi còn ở núi Võ Đương, sư huynh đệ vẫn thường được Trương Tam Phong đem ra giảng giải. Thế nhưng nữ ma đầu giết người không chớp mắt này đột nhiên buông lời cảm khái đó, thật ngoài sức tưởng tượng của chàng. Chàng sững người rồi đáp lại:
    - Đúng thế, thật là ? phù thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại, thiên nhận chi cao, bất túc dĩ cực kỳ thâm? (cách xa nghìn dặm cũng chưa đủ nói cái rộng, mà cao nghìn nhận cũng chưa đủ nói chiều sâu).
    Ân Tố Tố thấy chàng cũng dùng lời của Trang Tử trong thiên Thu Thủy hình dung sâu rộng của biển để trả lời, nhưng nét mặt không khỏi có vẻ hâm mộ, nên hỏi:
    - Ngũ ca nghĩ đến sư phụ phải không?
    Trương Thúy Sơn giật mình, không cưỡng nỗi, giơ tay phải nắm lấy tay kia của nàng, nói:
    - Sao cô nương lại biết?
    Năm xưa khi chàng ở trên núi Võ Đương, cùng đại sư huynh Tống Viễn Kiều, tam sư huynh Du Đại Nham đọc Trang Tử, đọc đến câu ?phù thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại, thiên nhận chi cao, bất túc dĩ cực kỳ thâm?, Du Đại Nham nói:
    - Anh em chúng ta theo sư phụ học nghệ, càng học càng thấy rằng so với lão nhân gia hai bên một trời một vực, dường như mỗi ngày lại giật lùi một bước. Dùng hai câu này của Trang Tử để hình dung công phu sâu không thể đo, cao không thể vói của lão nhân gia thật là thích hợp.
    Tống Viễn Kiều và Trương Thúy Sơn đều gật đầu nhận là đúng. Bây giờ chàng đọc hai câu này dĩ nhiên nghĩ ngay đến sư phụ. Ân Tố Tố nói:
    - Trông mặt ngũ ca, nếu không phải nghĩ đến cha mẹ, ắt là nghĩ đến sư trưởng. Thế nhưng ?thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại? vân vân, hiện nay trên đời này ngoài Trương Tam Phong đạo trưởng, e rằng không một người thứ hai nào có thể sánh được.
    Trương Thúy Sơn mừng lắm, nói:
    - Cô thật thông minh.
    Bỗng chàng nhận ra hai tay mình đang nắm tay nàng, mặt đỏ bừng, nhè nhẹ bỏ ra. Ân Tố Tố nói:
    - Võ công của tôn sư xuất thần nhập hóa như thế nào, ngũ ca có thể nói cho tiểu muội nghe được không?
    Trương Thúy Sơn trầm ngâm một hồi, nói:
    - Võ công chỉ là tiểu đạo, sở học của lão nhân gia không phải chỉ võ công, ôi, bác đại tinh thâm, đâu biết nói từ đâu trước.
    Ân Tố Tố mỉm cười:
    - Phu tử bộ diệc bộ, phu tử xu diệc xu, phu tử trì diệc trì, phu tử bôn dật tuyệt trần, nhi hồi sanh nhược hồ hậu hĩ.[10] Trương Thúy Sơn thấy nàng dẫn chương Nhan Hồi ca tụng Khổng Tử trong sách Trang Tử, mà trong lòng chàng quả thực kính phục sư phụ không sao kể xiết, nên nói:
    - Sư phụ tôi chẳng cần phải chạy bụi mù, chỉ cần lão nhân gia rảo bước là chúng tôi đã không còn theo kịp.
    Ân Tố Tố thông minh linh lợi, có ý muốn chàng vui lòng, nói chuyện mười phần hợp ý, nên Trương Thúy Sơn không biết chán. Hai người sánh vai ngồi trên phiến đá, không còn biết giờ giấc là gì.
    Bỗng nghe từ xa có tiếng bước chân trầm trọng, người nào đó ho mấy tiếng, nói:
    - - Trương tướng công, Ân cô nương, đã đến giờ ngọ, xin mời nhập tiệc.
    Trương Thúy Sơn quay đầu lại, thấy Thường Kim Bằng đứng cách xa chừng mươi trượng, tuy thần sắc trang nghiêm kính cẩn, nhưng mép có điểm một nụ cười. Trông thần tình của y, giống như một trưởng giả hiền từ nhìn thấy một đôi tiểu tình nhân xứng lứa, tặc lưỡi khen đẹp đôi. Ân Tố Tố trước nay vẫn coi y như người dưới, không cần giữ lễ, lúc này thấy e thẹn, cúi đầu. Trương Thúy Sơn tuy lòng quang minh lỗi lạc, nhưng xem thần sắc hai người, má cũng không khỏi đỏ bừng.
    Thường Kim Bằng quay người đi trước dẫn đường. Ân Tố Tố nói nhỏ:
    - Tiểu muội đi trước, ngũ ca đừng đi cùng với em.
    Trương Thúy Sơn hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm:
    - Sao cô nương này lại muốn tránh hiềm nghi lúc này là sao?
    Chàng gật đầu. Ân Tố Tố tiến lên trước, đi ngang với Thường Kim Bằng, nghe nàng cười hỏi:
    - Hai tên ngốc của phái Côn Lôn đánh nhau đi đến đâu?
    Trương Thúy Sơn trong lòng vui chẳng ra vui, buồn chẳng ra buồn, nhìn theo hai người đi khuất vào sau hàng cây, lúc ấy mới chậm rãi đi về phía sơn cốc.
    Khi chàng đến thung lũng, đã thấy trên bãi cỏ xanh bày bảy, tám cái bàn vuông. Trừ bàn thứ nhất ở phía đông, bàn nào cũng đã có người. Thường Kim Bằng thấy chàng đến, lớn tiếng nói:
    - Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương giá lâm.
    Tám chữ đó nói như tiếng sấm, vang vọng sơn cốc. Y nói vừa xong, liền cùng Bạch Qui Thọ đi vội lên, mỗi người dẫn theo năm tên đà chủ của bản đàn, cả mười hai người cùng đứng chờ ở cốc khẩu, xếp thành hai hàng, khom mình đón tiếp. Bạch Qui Thọ nói:
    - Thuộc hạ của Ân giáo chủ Thiên Ưng giáo, Huyền Võ Đàn Bạch Qui Thọ, Chu Tước Đàn Thường Kim Bằng, cung nghinh Trương ngũ hiệp đại giá.
    Ân Tố Tố tuy không đi ra ngoài đón chàng nhưng cũng đứng dậy.
    Trương Thúy Sơn nghe thấy ba chữ ?Ân giáo chủ?, trong bụng chấn động, nghĩ thầm: ?Giáo chủ của họ quả nhiên họ Ân?. Liền chắp tay đáp lễ nói:
    - Không dám, không dám.
    Chàng tiến vào trong thung lũng, thấy trên bàn tiệc ai ai cũng có vẻ tức tối, bất bình, tuy không hiểu, nhưng cũng không hỏi đến. Chàng biết đâu thủ lãnh các lộ như phái Hải Sa, bang Cự Kình, Thần Quyền môn khi đến, Thiên Ưng giáo chỉ phái một tên đà chủ trong đàn dẫn đường nhập tọa, không cung kính giữ lễ như Trương Thúy Sơn. Xem cách đối đãi cũng đủ biết có ý coi thường.
    Bạch Qui Thọ dẫn chàng đến bàn thứ nhất ở phía đông, cung kính mời ngồi. Cái bàn đó chỉ đặt một chiếc ghế, là bàn thủ tịch tôn quí nhất trong các bàn. Trương Thúy Sơn vừa liếc mắt, thấy các bàn khác đều ngồi bảy tám người, chỉ có bàn thứ sáu là hai người Cao Tắc Thành, Tưởng Đào. Chàng cao giọng từ chối:
    - Tại hạ mạt học hậu tiến, không dám ngồi ngôi thủ tịch. Xin Bạch huynh chuyển xuống dưới ngồi tiện hơn.
    Bạch Qui Thọ nói:
    - Phái Võ Đương hiện nay là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ lâm, Trương ngũ hiệp uy chấn thiên hạ, nếu không ngồi ngôi thủ tịch này, ở đây chắc chẳng ai dám ngồi.
    Trương Thúy Sơn nhớ đến sư phụ bình thời hay dạy bốn chữ ?ninh tĩnh khiêm ức[11]?, nghĩ thầm: ?Nếu như có sư phụ hay đại sư ca ở đây thì ngồi mâm thủ tịch này là đúng rồi, còn mình đâu có xứng đáng?. Cho nên chàng cương quyết từ chối.
    Cao Tắc Thành và Tưởng Đào liếc nhau một cái, Tưởng Đào đột nhiên cầm cái ghế của mình đang ngồi, ném vọt qua. Mâm của y và mâm thủ tịch cách nhau đến năm cái bàn, nhưng sức liệng của y rất mạnh, chỉ nghe vù một tiếng, cái ghế đó bay qua đầu mọi người ngồi tại năm bàn đó, rơi xuống đúng ngay bên cạnh bàn thủ tịch, ngay ngắn thẳng thắn, chỉ cách cái ghế có sẵn ở đó chừng một thước, quả thực tài nghệ không phải vừa. Tưởng Đào vừa ném cái ghế xong, Cao Tắc Thành lớn tiếng nói:
    - Ha ha, Thái Sơn Bắc Đẩu, không biết kẻ nào phong cho danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu đấy nhỉ? Họ Trương kia không dám ngồi, nhưng sư huynh đệ bọn ta đâu phải hạng người khiếp nhược như thế đâu.
    Hai người thân pháp như gió, đã lướt ngay đến chỗ ghế ngồi.
    Thì ra lúc nãy Ân Tố Tố hỏi họ xem trong hai người võ công ai cao cường hơn để dạy cho mình vài chiêu Côn Lôn kiếm pháp. Hai người không từ chối, liền rút kiếm biểu diễn ngay. Lúc đầu cốt chỉ thắng được đối phương nhưng càng đánh càng gay, về sau không còn nương tay được nữa. Ân Tố Tố lại đứng bên cạnh khiêu khích, khiến cả hai người đều bị thương. Đến khi nàng và Trương Thúy Sơn thân mật dắt nhau đi, họ mới biết mắc mưu cô gái. Cả hai thu kiếm băng bó, vừa giận vừa ghen, nhưng đâu dám gây chuyện với Ân Tố Tố. Lúc này họ thừa cơ cướp lấy mâm thủ tịch của Trương Thúy Sơn mong khích được chàng ra tay, sẽ có dịp làm nhục một phen trước mặt quần hùng.
    Thường Kim Bằng giơ tay ngăn lại, nói:
    - Hãy khoan.
    Cao Tắc Thành giơ ngón tay ra thế, toan điểm vào khuỷu tay Thường Kim Bằng. Trương Thúy Sơn nói:
    - Hai vị ngồi mâm thủ tịch này thật là thích hợp. Tiểu đệ xuống ngồi dưới kia tốt hơn.
    Nói rồi cất bước đi xuống bàn thứ sáu. Ân Tố Tố đột nhiên giơ tay vẫy chàng, kêu lên:
    - Trương ngũ ca, đi lại bên này.
    Trương Thúy Sơn không biết nàng định nói chuyện gì, nên đi đến gần. Ân Tố Tố thuận tay cầm một chiếc ghế, đặt ngay bên cạnh mình, mỉm cười nói:
    - Ngũ ca ngồi xuống đây.
    Trương Thúy Sơn không ngờ nàng dám tỏ lộ hình tích ngay tại đây, trước mắt quần hào, nên hơi trù trừ, nếu như cùng nàng sóng vai ngồi cùng mâm, không khỏi quá ư thân mật, còn nếu không chịu ngồi xuống, thì khiến cho nàng bẽ mặt. Ân Tố Tố nói nhỏ:
    - Tiểu muội còn có câu chuyện muốn nói với ngũ ca.
    Trương Thúy Sơn thấy vẻ mặt nàng tỏ ý khẩn cầu, không tiện từ chối, nên đành ngồi xuống. Ân Tố Tố lòng như hoa nở, cười khúc khích rót cho chàng một chén rượu.
    Bên kia Cao Tắc Thành và Tưởng Đào tuy đoạt được mâm thủ tịch, nhưng thấy tình hình như thế, lại càng giận hơn. Bạch Qui Thọ giơ tay phất mấy cái lên chiếc ghế, phủi cho sạch bụi, cười nói:
    - Hai vị đại kiếm khách phái Côn Lôn muốn ngồi mâm thủ tịch này, quả thật không sai chút nào, mời ngồi, mời ngồi.
    Nói rồi cùng Thường Kim Bằng và mười tên đà chủ quay về mâm chủ nhân. Cao Tắc Thành và Tưởng Đào đều nghĩ bụng: ?Tên gà chết kia không dám ngồi mâm thủ tịch, uy phong phái Võ Đương kể như đã bị phái Côn Lôn đè bẹp rồi?. Hai người nhìn nhau, vênh váo ngồi xuống.
    Chỉ nghe lách cách, lách cách hai tiếng, chân ghế gãy rời, cả hai ngã ngửa về phía sau. Cũng may hai người võ công không đến nỗi kém, không đợi lưng chạm đất đã giơ tay đẩy xuống, tung vọt người lên, nhưng cũng phải một phen hoảng hốt. Hào khách các mâm đều cười ha hả.
    Cao Tưởng hai người bấy giờ mới biết rằng khi Bạch Qui Thọ dùng tay áo phủi bụi, đã lén ra tay, nhưng phải nói âm kình của y thực là lợi hại, mình không thể nào có công lực cao như thế. Hai người vốn mười phần tự phụ, chỉ coi Thiên Ưng giáo là loại bàng môn tả đạo hạng xoàng không coi ra gì, toan lên Vương Bàn Sơn đảo khoe khoang một phen. Lúc này thấy Bạch Qui Thọ biểu lộ chút công lực, khiến cho nhuệ khí của họ suy giảm rất nhiều.
    Lại nghe Bạch Qui Thọ lạnh lùng nói:
    - Võ công của phái Côn Lôn, ai ai cũng biết là cao rồi, quí vị không cần phải ép gẫy hai chiếc ghế tầm thường đó để hả giận làm chi. Nói đến công phu nhỏ mọn ngồi gãy ghế, trong tiệc này có ai mà làm không được?
    Nói xong y giơ tay phải, chỉ vào mười tên đà chủ ngồi ở bàn cuối, nói:
    - Các ngươi cũng đã luyện qua rồi phải không?
    Nghe thấy lách cách lách cách mấy tiếng lớn, mười chiếc ghế cùng gãy nát một lượt. Mười tên đà chủ có chuẩn bị trước, ngồi gãy ghế xong vẫn đứng nguyên cười hì hì, thần định khí nhàn, so với Cao Tưởng hai người hoảng hốt ngã lăn chiêng thật khác nhau một trời một vực. Trong số quần hào, phần lớn là người kiến đa thức quảng, biết rằng Bạch Qui Thọ cố tình hí lộng hai người, nhưng tình cảnh quả thật thú vị, nên ai nấy đều cười hô hố.
    Trong khi mọi người còn đang cười, có hai đà chủ của Thiên Ưng giáo bưng hai khối đá lớn, đến bàn tiệc thứ nhất, giơ chân đá hai chiếc ghế gãy qua, nói:
    - Ghế gỗ mỏng manh, không đủ sức mang quí thể, xin mời ngồi trên hai tảng đá này vậy.
    Hai người đó là hai đại lực sĩ nổi tiếng của Thiên Ưng giáo, võ công chỉ bình bình, nhưng thân thể tráng kiện, trời sinh thần lực, hòn đá hai người mang đều phải đến bốn, năm trăm cân, đưa ra cho Cao Tưởng hai người đỡ lấy.
    Cao Tưởng tuy kiếm pháp tinh diệu, nhưng đỡ hai cục đá đó thì không sao làm nổi. Cao Tắc Thành nhíu mày nói:
    - Bỏ xuống đi.
    Hai người đại lực sĩ cùng nhất tề ?hự? lên một tiếng, hai tay giơ thẳng, nâng hai tảng đá lên cao khỏi đỉnh đầu, nói:
    - Đỡ này.
    Lúc ấy, Cao Tưởng chỉ còn nước lui về phía sau, e sợ nếu một trong hai người sức yếu hơn, hòn đá bốn năm trăm cân kia lỡ tay rơi xuống, còn gì mà không xương gãy thịt nát? Hai người trong lòng tức giận, nhưng không dám ra tay tấn kích, e ngại hòn đá chênh vênh nên không dại gì lại gần nơi hiểm địa.
    Bạch Qui Thọ lớn tiếng nói:
    - Hai vị kiếm khách phái Côn Lôn không muốn ngồi mâm thủ tịch, thôi lại mời Trương tướng công lên vậy.
    Trương Thúy Sơn đang ngồi bên cạnh Ân Tố Tố, mùi hương thơm thoang thoảng, trong lòng thấy ngây ngất, không khỏi thần hồn phiêu đãng, bỗng nghe Bạch Qui Thọ nói, lập tức tỉnh lại: ?Ta trăm ngàn lần không thể để cho mình rơi vào ma chướng, dây dưa hơn nữa với nữ ma đầu của tà giáo này?.
    Chàng lập tức đứng lên, đi qua bên kia. Bạch Qui Thọ nghe Thường Kim Bằng tán dương Trương Thúy Sơn võ công cao cường, nhưng y chưa có dịp chính mắt trông thấy, lúc này có ý định thử xem thế nào, nên đưa mắt ra hiệu cho hai tên đà chủ đang giơ cao hai tảng đá. Hai tên đà chủ hiểu ý, đợi Trương Thúy Sơn đến gần, cùng quát lên:
    - Trương tướng công cẩn thận, xin đỡ lấy.
    Tiếng vừa dứt, hai người rùn mình xuống, hai tay thu lại, hét lên một tiếng, hết sức bung ra, hai khối đá cùng thẩy thẳng lên đầu Trương Thúy Sơn.
    Quần hào nhìn thấy tình cảnh đó, không ai bảo ai cùng đứng bật cả lên. Bạch Qui Thọ tuyệt nhiên không có ác ý, chỉ muốn thử xem võ công Trương Thúy Sơn đến đâu, một phần vì danh tiếng Võ Đương thất hiệp quá vang dội trên chốn giang hồ, nay thấy chỉ là một văn nhược thư sinh, không khỏi ngạc nhiên, phần khác vì Ân Tố Tố trước nay không coi ai ra gì, vậy mà đối với vị Trương ngũ hiệp này lại mười phần say đắm, về sau người này đối với Thiên Ưng giáo ắt có liên quan trọng đại. Thế nhưng khi thấy hai tên đại lực đà chủ hùng hùng hổ hổ ném hai tảng đá, y cảm thấy hối hận, kêu thầm: ?Chết rồi?. Y nghĩ bụng Trương Thúy Sơn là danh môn đệ tử, không thể nào để đá làm bị thương, nhưng khi nhảy nhót né tránh, thể nào chẳng hoảng hốt, nếu như chẳng may lại bị xấu mặt, không những Trương Thúy Sơn bực mình, Ân cô nương ắt sẽ nổi giận. Trong khoảnh khắc y định ngay chủ ý, nếu như tình hình không ổn, lập tức giá họa cho hai tên đà chủ, thà để chúng chết dưới tay mình còn hơn là đắc tội với Ân Tố Tố.
    Trương Thúy Sơn thấy hai hòn đá từ trên không rơi xuống, chàng giật mình kinh hãi, nếu như nhảy về sau tránh né thì so với hai gã Cao Tưởng của phái Côn Lôn có khác gì, chẳng làm mất thanh vọng của sư môn ư? Lúc dó chàng không có thể suy nghĩ nhiều hơn, người luyện võ khi gặp cảnh nguy hiểm khẩn bách, công phu súc tích tự nhiên nảy ra. Tay trái chàng sử cái móc bên phải trong tự quyết chữ ?võ?, hất tảng đá bên trái, tay phải sử chiêu nét phất trong tự quyết chữ ?đao?, hất tảng đá bên phải.
    Hai tảng đá này vốn dĩ cũng đã phải bốn trăm cân, lại thêm rơi từ trên xuống, sức thật ghê gớm. Trương Thúy Sơn không có sức mạnh bắp thịt, bảo chàng bưng một cục đá cũng không nổi. Thế nhưng võ công này Trương Tam Phong từ thư pháp biến ra, thực là thần kỳ, đoạt cả công phu tạo hóa. Võ công của phái Võ Đương, không cần phải dùng nhiều sức, cũng không cần ra chiêu nhanh, chỉ cần lực đạo vận dụng đúng phép tắc, bốn lượng có thể gạt được nghìn cân. Lúc này Trương Thúy Sơn sử dụng công phu tối tinh diệu của sư môn, mượn sức ném của hai tên đà chủ, hất hai tảng đá bay vọt lên trời.
    Hai khối đá đó bay lên chính là từ sức của hai tên đà chủ, chỉ có điều chàng vung tay bát động, biến đổi phương hướng. Tay áo dài của chàng phất phới, thủ chưởng dấu bên trong, người ngoài đứng xem, chẳng khác gì như dùng tay áo cuộn hai tảng đá ném lên trời. Hai khối cự thạch một cao một thấp, trước sau rơi xuống. Trương Thúy Sơn nhẹ nhàng tung thân nhảy lên, ngồi xếp bằng trên tảng đá bên trên. Chỉ nghe một tiếng ầm, mặt đất chấn động, một tảng đá đã rơi xuống đất, lún xuống đến hơn một nửa vào trong đất. Tảng đá thứ hai lại rơi xuống tiếp, bình bình ổn ổn nằm ngay trên tảng thứ nhất, hai tảng đá chạm nhau, lửa văng tung tóe, lay động chén bát trên các mặt bàn kêu loảng xoảng.
    Trương Thúy Sơn điềm nhiên ngồi trên tảng đá, cười nói:
    - Hai vị đà chủ thần lực kinh người, bội phục, bội phục.
    Hai tên đà chủ cũng kinh ngạc đến trợn mắt há mồm, đứng trơ trơ ngay tại chỗ, một lời cũng không thốt nổi. Trong giây lát, cả sơn cốc yên lặng như tờ, một lát sau, mới ầm ầm nổi lên tiếng vỗ tay khen ngợi, hồi lâu chưa dứt.
    Ân Tố Tố đưa mắt cho Bạch Qui Thọ, mặt tươi như hoa, thật là đắc ý. Bạch Qui Thọ mừng quá, may là Trương Thúy Sơn võ công kinh người, lại biến trò chơi nguy hiểm của mình thành một dịp để lấy lòng Ân cô nương. Y vội vàng đi đến bàn thủ tịch, rót một chén rượu, lớn tiếng nói:
    - Đã từ lâu nghe uy danh Võ Đương thất hiệp, hôm nay được thấy võ công của Trương ngũ hiệp, chúng tôi quả thực kính phục vô cùng, tiểu nhân xin kính Trương ngũ hiệp một chén.
    Nói rồi nâng ly uống cạn. Trương Thúy Sơn nói:
    - Không dám.
    Chàng cũng bồi tiếp một chén.
    Bạch Qui Thọ đứng thẳng người, lớn tiếng nói:
    - Tệ giáo gần đây mới có được một thanh bảo đao, tên gọi Đồ Long. Thường nghe rằng ?Võ Lâm Chí Tôn, Bảo Đao Đồ Long, Hiệu Lệnh Thiên Hạ, Mạc Cảm Bất Tòng?.[12] Y nói đến đây, đưa đôi mắt sáng quắc quét từ tả qua hữu khắp một lượt toàn trường. Thân hình y không to lớn, nhưng tiếng nói hưởng lượng, mục quang sắc bén, khiến cái uy nghiêm làm mọi người đều e sợ. Y ngừng lại một chút, nói tiếp:
    - Ân giáo chủ của tệ giáo muốn gửi danh thiếp mời các lộ anh hùng trong thiên hạ tới núi Thiên Ưng, để đem bảo đao cho mọi người cùng xem. Ngặt vì làm như thế phải trù hoạch mất nhiều thời gian cho chu đáo, lại e rằng anh hùng các nơi không biết bảo đao đã do tệ giáo làm chủ, nên mời bạn bè bằng hữu các bang lộ Giang Nam tới chơi, để nhìn qua cho biết.
    Nói tới đây, y giơ tay khoát một cái. Tám tên đệ tử trong số giáo chúng lớn tiếng đáp ứng, quay mình đi vào một sơn động ở phía tây.
    Mọi người yên chí là tám tên này sẽ vào trong hang núi để đem đao ra, nên đều chăm chú nhìn theo. Nào ngờ khi trở ra bọn họ đều cởi trần, khiêng một cái đỉnh sắt lớn. Trong đỉnh một ngọn lửa cháy bừng bừng, lên cao cả trượng. Cả tám tên đều phải đứng khá xa, dùng gậy dài ghé vai khiêng, thở phì phò, ỳ ạch để chiếc đỉnh trên bãi đất trống. Mọi người bị lửa hắt vào mặt, đều cảm thấy nóng rát. Đằng sau tám tên này lại có thêm bốn tên khác, hai tên khiêng một chiếc đe thợ rèn, hai tên khác mỗi tên mang một cái búa sắt.
    Bạch Qui Thọ nói:
    - Thường đàn chủ, xin mời dương đao lập uy.
    Thường Kim Bằng đáp:
    - Tuân lệnh.
    Rồi quay lại nói lớn:
    - Mang đao ra.
    Hai tên đà chủ có thần lực, mới vừa biểu diễn vác đá liền đi vào sơn động. Khi trở ra, một tên hai tay bưng một cái bao dài, tên kia đi theo hộ vệ. Giao cho Thường Kim Bằng xong, mỗi tên bước qua một bên tùy giá. Thường Kim Bằng mở bao, lộ ra một thanh đơn đao. Y cầm lên, nhìn quanh mọi người một lần, rút đao ra khỏi vỏ, nói:
    - Đây chính là võ lâm chí tôn bảo đao Đồ Long, xin các vị nhìn cho kỹ.
    Nói xong y đưa thanh đao lên ngang mặt, cử chỉ thật cung kính.
    Quần hào nghe tiếng Đồ Long bảo đao đã lâu, nhưng chỉ thấy cái đao đó đen biếc không đẹp tí nào, trong lòng không khỏi hồ nghi: ?Ai biết thanh đao này thật hay giả??.
    Chỉ thấy Thường Kim Bằng từ từ giao thanh đao cho tên đà chủ ở phía bên trái, nói:
    - Thử búa đi!
    Tên đà chủ nhận lấy đơn đao, để lên trên cái đe, lưỡi hướng lên trời. Tên kia cầm cái búa lên, nhắm ngay lưỡi đao giáng xuống. Chỉ nghe thấy một tiếng keng nhỏ, đầu cái búa đã bị cắt ra làm hai, một nửa còn dính vào cán, một nửa rơi xuống đất. Quần hào ai nấy kinh hãi, đứng bật cả lên, thầm nghĩ: ?Bảo kiếm, lợi đao có thể cắt vàng chặt ngọc dẫu có ít thấy, nhưng không phải là không có. Thế nhưng thanh Đồ Long đao này cắt cái búa sắt như cắt miếng đậu phụ, ngay tiếng đinh đang cũng không nghe, nếu không phải là thần vật thì cũng có điều gì man trá?.
    Trong đám Thần Quyền Môn và Cự Kình Bang có một người đi đến bên cái đe sắt, xem xét nửa cái búa, thấy vết cắt phẳng lỳ lấp lánh sáng choang, quả thực vừa mới đứt xong.
    Gã thần lực đà chủ lại cầm một mảnh búa lên đập vào thanh đao, cục sắt lại đứt đôi một cách dễ dàng. Lần này quần hào ai nấy đều lớn tiếng hoan hô. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm:
    - Đao báu như thế, quả thực là nghe chưa nghe tới, nhìn chưa nhìn thấy bao giờ.
    Thường Kim Bằng chậm rãi bước tới bãi đất, cầm bảo đao lên, sử một chiêu ?Thượng Bộ Phách Sơn?, chỉ nghe soẹt một tiếng nhỏ, chém cái đe sắt đứt ra làm đôi. Đột nhiên y lướt qua bên trái, vút một cái, chém ngang thân một cây tùng lớn. Thế rồi y tiếp tục nhảy qua chạy lại, vung đao liên tiếp múa may, chém đủ mười tám cây cổ tùng. Quần hào thấy y vũ động bảo đao, nhưng những cây đó vẫn còn nguyên vẹn, đang lấy làm khó hiểu, bỗng nghe Thường Kim Bằng cười một tiếng dài, chạy đến cây tùng thứ nhất, phất tay áo một cái, đánh vào giữa thân cây. Chỉ nghe những tiếng lách cách, cây tùng đã đổ xuống bên ngoài. Hóa ra cây tùng này đã bị bảo đao chém đứt đôi, nhưng chỉ vì đao quá bén, Thường Kim Bằng sử lực lại thật chuẩn xác, tuy nửa thân trên đã đứt đoạn, nhưng vẫn còn nằm trên cây. Chỉ đến khi có ngoại lực suy động, lúc ấy mới đổ. Cây tùng thứ nhất đổ làm thành một làn gió mạnh, chỉ nghe liên tiếp những tiếng lách cách, lách cách không dứt, những cây đại thụ còn lại cũng thi nhau ngã xuống.
    Thường Kim Bằng cười ha hả, vung thanh đao ném thẳng vào đám lửa đang bừng bừng cháy trong đỉnh sắt.
    Tiếng cây đổ chưa dứt hẳn, bỗng nghe từ xa truyền lại tiếng ỳ ầm, ỳ ầm, dường như có ai đang chặt cây. Bạch Qui Thọ và Thường Kim Bằng đều ngạc nhiên, nhìn theo hướng tiếng động thấy những chiếc cột buồm đang từ từ đổ xuống từng chiếc một. Những chiếc cột buồm đó đều có treo cờ, Thiên Ưng giáo, Cự Kình bang, Hải Sa phái, Thần Quyền môn các thủ lãnh thấy các lá cờ thi nhau rơi xuống, không ai không tức giận, lập tức sai thủ hạ đi điều tra.
    Vẫn nghe thấy những tiếng bì bành liên tiếp, chỉ trong khoảnh khắc tất cả mọi cột buồm đều gãy hết, không cái nào còn nguyên, tưởng như chiếc vịnh nhỏ có hải quái, đánh chìm mọi chiếc thuyền đang ở trong đó. Quần hào tụ tại bãi cỏ không ai ngờ được biến cố này, nhất thời không nói nên lời, lúc đầu còn tưởng Thiên Ưng giáo bố trí âm mưu, nhưng thấy thuyền của Thiên Ưng giáo cũng bị tai họa, xem ra không phải.
    Một nhóm thứ hai lại được sai đi tìm hiểu. Từ bãi cỏ đến cái vịnh không bao xa, hơn một chục người gửi đi không thấy ai quay trở lại. Mọi người ai nấy hoang mang, kinh nghi bất định. Bạch Qui Thọ nói với một đà chủ dưới tay:
    - Ngươi đi coi xem nào.
    Tên đà chủ đó tuân lệnh ra đi. Bạch Qui Thọ cố gượng trấn tĩnh, nói:
    - Có lẽ dưới biển có biến cố gì, các vị cũng đừng quá lo. Ví bằng thuyền bè có bị hủy hết, chẳng lẽ mình không làm bè đi về được hay sao? Thôi, thôi, thôi, bọn mình cạn chén đi chứ.
    Quần hào ai nấy đều bồn chồn nhưng không muốn mọi người thấy mình yếu đuối, nên nhất tề đưa chén lên, vừa để vào môi, bỗng nghe từ phía vịnh tiếng người kêu la thật thảm thiết, vang vọng đến.
    Bạch Qui Thọ và Thường Kim Bằng nghe tiếng đó đúng là kẻ thuộc hạ mới sai đi, trong bụng hoang mang, thấy tiếng chân huỳnh huỵch chạy về, mỗi lúc một gần, rồi một người đầy máu hiện ra chính là tên đà chủ đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:31:53 | Chỉ xem của tác giả
   Y hai tay ôm mặt, những kẽ ngón tay máu chảy ra, đỉnh đầu da bị lột, còn quần áo từ ngực xuống đến bụng dưới, đùi đều rách hết, có một vết thương thực dài, máu thịt bầy nhầy nhưng không biết sâu nông ra sao, thảm thiết kêu lên:
    - Kim Mao Sư Vương, Kim Mao Sư Vương.
    Bạch Qui Thọ hỏi:
    - Một con sư tử ư?
    Y nghe nói là một mãnh thú cũng phần nào khoan tâm. Tên đà chủ nói:
    - Không, không phải, đó là một người. Y cào chết mọi người, đánh đắm hết cả thuyền.
    Nói tới đây y chịu không nổi, ngã lăn ra, chết tươi. Bạch Qui Thọ nói:
    - Để ta đi xem.
    Thường Kim Bằng nói:
    - Tôi cũng đi theo.
    Bạch Qui Thọ đáp:
    - Ngươi ở lại bảo hộ Ân cô nương.
    Y biết rằng tên đà chủ vừa chết võ công không phải tầm thường, tại Thiên Ưng giáo được coi là một tay có hạng, nhưng chỉ chớp mắt đã bị thương như thế, đối thủ ắt võ công rất cao. Thường Kim Bằng gật đầu:
    - Xin vâng.
    Bỗng nghe có tiếng đằng hắng, rồi tiếng người nói:
    - Kim Mao Sư Vương đã ở đây rồi.
    Mọi người giật mình kinh hãi, thấy một người từ sau một cây lớn bước ra. Người đó thân thể cao to dị thường, tóc vàng đầy đầu phủ xuống tận vai, mắt xanh biếc lóng lánh phát quang, tay cầm một chiếc lang nha bổng hai đầu dài đến trượng sáu, trượng bảy. Y đứng tại trước bàn tiệc, uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì thiên thần, thiên tướng.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Kim Mao Sư Vương, cái hỗn hiệu đó hẳn là do tóc y vàng mà ra, nhưng y là ai? Chưa nghe sư phụ nói đến bao giờ?.
    Bạch Qui Thọ tiến lên mấy bước, nói:
    - Xin hỏi tôn giá cao tính đại danh?
    Người kia đáp:
    - Không dám, tại hạ họ Tạ, đơn danh một chữ Tốn, biểu tự là Thoái Tư, có một cái ngoại hiệu là Kim Mao Sư Vương.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ: ?Người này thần thái uy mãnh như thế, nhưng chọn tên hiệu thật là tư văn. Chỉ có ngoại hiệu là hợp thôi?. Bạch Qui Thọ thấy y ăn nói lễ độ, nói:
    - Hóa ra đây là Tạ tiên sinh. Tôn giá không quen biết gì chúng tôi, sao lại vừa đến đảo đã hủy thuyền sát nhân là sao?
    Tạ Tốn mỉm cười, để lộ hàm răng trắng sáng lấp lánh, nói:
    - Các vị tụ họp tại đây để làm gì thế?
    Bạch Qui Thọ nghĩ thầm: ?Việc này không thể dấu y được. Gã này võ công dĩ nhiên lợi hại, nhưng y chỉ có một mình. Ta cùng Thường đàn chủ liên thủ, lại có thêm Trương ngũ hiệp, Ân cô nương đứng bên tương trợ, chắc là có thể trừ được y?. Y lớn tiếng nói:
    - Tệ giáo Thiên Ưng giáo mới có được một thanh bảo đao, nên mời bằng hữu giang hồ tới đây để tất cả cùng xem.
    Tạ Tốn trừng mắt nhìn thanh đao Đồ Long trong đỉnh sắt lúc ấy mới vừa bị liệt hỏa nung, thấy thanh đao đó nằm trong than mà không suy tổn chút nào, quả thực thần vật lợi khí, liền nhanh nhẹn bước tới.
    Thường Kim Bằng thấy y giơ tay phải ra toan cầm thanh đao, quát lên:
    - Ngừng tay.
    Tạ Tốn quay đầu lại khinh khỉnh hỏi:
    - Cái gì?
    Thường Kim Bằng đáp:
    - Đao đó là sở hữu của tệ giáo, Tạ bằng hữu có thể đứng xa mà xem chứ không được cầm lên.
    Tạ Tốn đáp:
    - Thế đao này các ngươi đúc chăng? Hay các ngươi mua được?
    Thường Kim Bằng á khẩu, nhất thời không trả lời được. Tạ Tốn nói:
    - Các người đoạt được từ tay người khác, ta lại từ tay các ngươi đoạt lại, thật là thiên công địa đạo, có gì đâu mà không được?
    Nói rồi tiếp tục đi tới cầm thanh đao. Chỉ nghe loảng xoảng, Thường Kim Bằng đã cởi ở lưng ra hai trái lưu tinh chùy, quát lên:
    - Tạ bằng hữu, nếu người không ngừng tay, tại hạ đành phải vô lễ.
    Ngôn ngữ của y tựa hồ cảnh cáo, kỳ thực nói là đánh ngay, trái dưa thép từ tay trái nhắm ngay lưng Tạ Tốn phóng tới. Tạ Tốn không thèm quay đầu lại, chỉ giơ thanh lang nha bổng quơ ra sau lưng, nghe keng một tiếng lớn, trái dưa thép bị lang nha bổng đỡ, bay ngược trở lại, nhanh vô tỉ. Thường Kim Bằng kinh hãi, trái dưa từ bên phải lập tức bay ra, hai trái dưa đụng nhau. Không ngờ Tạ Tốn thần lực kinh người, hai trái dưa cùng quay trở lại, đánh ngay vào ngực Thường Kim Bằng. Thường Kim Bằng thân hình loạng choạng, ngã xuống chết ngay.
    Lúc y trên sông Tiền Đường dùng chùy đánh vỡ thuyền của Mạch thiếu bang chủ thần uy làm sao, vậy mà bây giờ không chịu nổi một cái đỡ lang nha bổng của Tạ Tốn.
    Năm tên đà chủ thuộc Chu Tước Đàn kinh hãi, cùng xông lên. Hai người đỡ Thường Kim Bằng, ba người rút binh khí, không kể sống chết xông vào đánh Tạ Tốn. Tạ Tốn tay trái cầm thanh đao Đồ Long, tay phải dùng lang nha bổng thọc vào cái đỉnh hất một cái, cái đỉnh sắt nặng mấy trăm cân kia lập tức bay quét ngang qua, đè bẹp cả ba tên đà chủ. Dư thế của đại đỉnh chưa yếu, dưới đất còn lăn thêm mấy vòng, hất ngã luôn cả hai tên đang đỡ Thường Kim Bằng. Cả năm tên đà chủ cùng Thường Kim Bằng lập tức quần áo cháy bùng, trong đó bốn tên đà chủ đã bị đỉnh đụng chết, chỉ còn một tên sống sót quằn quại dưới đất.
    Mọi người thấy tình thế như vậy, không ai không rụng rời. Tạ Tốn chỉ giơ tay đã đánh cho năm tên hảo thủ giang hồ chết tươi, tên đà chủ còn lại cũng đã trọng thương khó sống. Trương Thúy Sơn hành tẩu giang hồ, gặp những cao thủ không phải ít, nhưng siêu nhân cả thần lực lẫn võ công như Tạ Tốn thì chàng chưa thấy bao giờ. Chàng nghĩ thầm mình không phải địch thủ của y, mà ngay cả đại sư ca, nhị sư ca cũng không bằng được. Hiện nay trên đời, trừ phi sư phụ hạ sơn, ngoài ra không biết có ai thắng được y hay không.
    Tạ Tốn nhắc thanh đao lên, giơ ngón tay búng một cái, thanh đao phát ra một tiếng trầm uất không phải vàng không phải gỗ, gật đầu khen ngợi:
    - Vô thanh vô sắc, thần vật tự hối[13], đao tốt thực là tốt.
    Y ngửng đầu lên, nhìn chiếc vỏ đao ở bên cạnh Bạch Qui Thọ, nói:
    - Đó có phải là cái bao của đao Đồ Long không? Đưa lại đây.
    Bạch Qui Thọ thầm nghĩ tình thế này, tính mệnh mình mười phần kể như chết đến chín, nếu như đưa vỏ đao cho y, không những cái tiếng anh hùng một đời trôi theo dòng nước, mà sau này nếu giáo chủ truy cứu tội, thì cái chết lại càng thêm thảm khốc. Thế nhưng giờ phút này chống cự lại y, thì cũng chỉ có nước chết mà thôi, cho nên y ngang nhiên đáp:
    - Ngươi muốn giết cứ việc giết, họ Bạch này có phải là phường tham sống sợ chết chăng?
    Tạ Tốn mỉm cười, nói:
    - Cứng cỏi lắm, cứng cỏi lắm. Trong Thiên Ưng giáo quả nhiên cũng có vài ba nhân vật.
    Bỗng nhiên tay phải y vung ra, thanh đao Đồ Long nặng hơn một trăm cân phóng thẳng vào Bạch Qui Thọ. Bạch Qui Thọ vốn đã đề phòng, nên thanh đao vừa rời khỏi tay, biết rằng thủ kình người này mạnh vô tả, không dám dùng binh khí đón đỡ, cũng không dám đưa tay ra chộp, lập tức né qua một bên. Nào ngờ thanh đao đó bay xéo tới, nghe soẹt một tiếng, phóng ngay vào chiếc bao đang ở trên bàn. Cái ném đó lực đạo thật mạnh, mang luôn cả vỏ đao cùng bay lên. Tạ Tốn đưa lang nha bổng ra, vừa gom vừa móc, khoèo luôn cả thanh đao Đồ Long lẫn bao về, tiện tay nhét luôn vào thắt lưng. Cái cách của y ném đao thu bao vừa chuẩn xác, tinh xảo, thủ pháp lại lạ lùng, quả thực không ai ngờ nổi.
    Nhãn quang của y từ trái qua phải, nhìn quần hào khắp một lượt, hỏi:
    - Tại hạ muốn lấy thanh đao Đồ Long này, các vị có dị nghị gì không?
    Y hỏi luôn hai lượt, không ai dám trả lời.
    Bỗng nhiên từ trong bàn tiệc của phái Hải Sa có một người đứng lên nói:
    - Tạ tiền bối đức cao vọng trọng, danh dương bốn bể, đao này từ nay về tay Tạ tiền bối sở hữu. Bọn chúng tôi ai ai cũng đều hết sức tán thành.
    Tạ Tốn nói:
    - Các hạ có phải là Tổng đà chủ phái Hải Sa Nguyên Quảng Ba không?
    Người kia đáp:
    - Chính thị.
    Y thấy Tạ Tốn biết được tên mình, rất là khoái chí, nhưng cũng hoảng sợ. Tạ Tốn nói:
    - Ngươi biết sư phụ ta là ai chăng? Ở môn nào phái nào? Ta đã làm được việc gì?
    Nguyên Quảng Ba ấp úng đáp:
    - Cái đó ? Tạ tiền bối ?
    Thực ra y không biết tí gì cả. Tạ Tốn lạnh lùng đáp:
    - Việc gì của ta ngươi cũng không biết, sao dám nói đức cao vọng trọng, danh dương bốn bể? Ngươi chỉ quen nịnh bợ xu phụ, nói láo quen mồm. Ta sinh bình ghét nhất hạng người vô sỉ tiểu nhân như ngươi. Mau đứng ra đây.
    Câu cuối cùng mỗi tiếng đều vang ầm như sấm động. Nguyên Quảng Ba bị uy thế của y bức hiếp, không dám trái lời, cúi đầu đi đến trước mặt y, nhưng không cưỡng nổi run lên bần bật.
    Tạ Tốn nói:
    - - Phái Hải Sa các ngươi võ nghệ bình thường, chỉ dùng độc diêm hại người. Năm ngoái ở Dư Diêu giết hại toàn gia Trương Đăng Vân, đầu tháng này Âu Dương Thanh chết ở Hải Môn, đều do tay các ngươi, phải không?
    Nguyên Quảng Ba giật mình kinh hãi, vẫn tưởng hai vụ án đó cực kỳ bí mật, làm sao y lại biết được? Tạ Tốn quát:
    - Gọi thủ hạ ngươi đem hai bát muối độc ra đây, để ta xem thử, là loại gì.
    Bang chúng phái Hải Sa ai cũng mang theo độc diêm, Nguyên Quảng Ba không dám trái lời, chỉ còn nước bảo thủ hạ đem hai bát muối ra. Tạ Tốn cầm lấy một bát, đưa lên mũi ngửi một hồi, nói:
    - Hai người mình mỗi người ăn một bát.
    Nói rồi cắm lang nha bổng xuống đất, đưa tay nắm Nguyên Quảng Ba kéo lại, nghe lạch cạch, đã bóp y trật hàm ra, khiến y không thể nào ngậm miệng lại, rồi đem một bát muối độc đổ cả vào mồm.
    Toàn gia Trương Đăng Vân ở Dư Diêu một đêm bị giết sạch, còn Âu Dương Thanh ở Hải Môn bị ám hại chết tại khách điếm là hai nghi án lớn trong võ lâm những năm gần đây. Trương Đăng Vân và Âu Dương Thanh thanh danh trên chốn giang hồ không tệ hại, không ai ngờ rằng lại do Nguyên Quảng Ba của phái Hải Sa làm, Trương Thúy Sơn thấy y bị ép ăn muối độc, chàng cảm thấy thống khoái trong lòng.
    Tạ Tốn lại cầm bát muốn độc kia lên, nói:
    - Họ Tạ này làm gì cũng công bình, ngươi ăn một bát, ta cũng tiếp ngươi một bát.
    Nói rồi há mồm, cầm bát muối trút luôn vào bụng. Việc làm đó ra ngoài dự liệu của mọi người. Trương Thúy Sơn thấy y ra tay tàn độc, nhưng thần khí uy vũ ngang tàng, huống chi những người bị y giết đều là loại cùng hung cực ác, trong lòng không khỏi có chút hảo cảm, nhịn không nổi nói:
    - Tạ tiền bối, những gian nhân này có chết cũng đáng, việc gì phải đồng lần với họ?
    Tạ Tốn xoay qua, trừng mắt nhìn chàng. Trương Thúy Sơn mỉm cười, nhưng không lộ vẻ sợ hãi. Tạ Tốn hỏi:
    - Các hạ là ai?
    Trương Thúy Sơn đáp:
    - Vãn bối là Trương Thúy Sơn của phái Võ Đương.
    Tạ Tốn nói:
    - Ồ, các hạ là Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương, cũng đến đây tranh đoạt đao Đồ Long chăng?
    Trương Thúy Sơn lắc đầu:
    - Vãn bối đến Vương Bàn Sơn chỉ cốt tra xét tại sao sư ca là Du Đại Nham bị thương thôi, Tạ tiền bối nếu rõ chuyện này làm ơn cho biết.
    Tạ Tốn không trả lời, thấy Nguyên Quảng Ba kêu la thảm thiết, ôm bụng lăn lộn mấy vòng rồi co rúm lại chết tốt. Trương Thúy Sơn vội nói:
    - Tạ tiền bối mau uống giải dược đi.
    Tạ Tốn nói:
    - Uống giải dược cái gì, mau đưa rượu đây cho ta.
    Người tư tân chuyên việc tiếp khách của Thiên Ưng giáo lập tức mang vò và chén rượu lại. Tạ Tốn quát:
    - Thiên Ưng giáo các ngươi tính khí thật là nhỏ nhen, mau mang bình lớn đến đây.
    Gã tư tân tự mình bưng một vò trần tửu lớn, cung cung kính kính đặt trước mặt Tạ Tốn, trong lòng nghĩ thầm:
    - Ngươi trúng độc rồi lại còn uống rượu, chắc còn hiềm chết chưa đủ nhanh chắc?
    Tạ Tốn bưng cả hũ rượu, ục ục uống luôn một mạch tất cả vào bụng. Vò này ít ra cũng phải hai mươi cân, vậy mà chỉ chốc lát y đã uống sạch. Y vỗ vỗ vào cái bụng phình to, rồi bất thần há mồm, một dòng rượu tống vọt ra, phun luôn vào ngực Bạch Qui Thọ. Bạch Qui Thọ còn đang kinh ngạc thì cột rượu đã trúng vào người y, chẳng khác gì một cái búa mấy trăm cân liên tiếp đập vào, khiến y dù nội công tinh thâm cũng không chịu nổi, lảo đảo mấy cái ngã lăn ra bất tỉnh.
    Tạ Tốn quay lại, phun rượu lên trời, thành một trận mưa phủ xuống toàn thể đám Cự Kình bang. Từ bang chủ Mạch Kình trở xuống ai ai cũng đính đầy đầu đầy mặt, thấy rượu đó tanh hôi không chịu nổi, người nào công lực hơi yếu lập tức ngã lăn ra. Thì ra Tạ Tốn uống rượu vào bụng, tẩy sạch muối độc trong dạ dày, rồi dùng nội lực tống ra, hơn hai mươi cân rượu đều biến thành độc tửu, chất độc còn lại trong bụng y chỉ chút ít, nội công thâm hậu như y, không làm hại nổi.
    Bang chủ Cự Kình bang là Mạch Kình bị y đùa rỡn như thế, đứng bật lên, nhưng nghĩ lại, không dám nổi giận, đành ngồi xuống. Tạ Tốn nói:
    - Mạch bang chủ, hồi tháng năm năm nay, ngươi ở Mân Giang Khẩu cướp một viễn dương hải thuyền, có phải thế không?
    Mạch Kình mặt xám lại, nói:
    - Đúng vậy.
    Tạ Tốn nói:
    - Các hạ làm hải khấu, không đi ăn cướp, lấy gì mà sống? Chuyện đó ta cũng không trách làm chi. Thế nhưng ngươi đem mấy chục thương khách vô tội ném tất cả xuống biển, lại luân phiên gian dâm bảy phụ nữ đến chết, việc đó chẳng phải thái quá thương thiên hại lý ư?
    Mạch Kình nói:
    - Cái đó ? cái đó ? cái đó là anh em trong bang làm chứ ? không phải tôi.
    Tạ Tốn nói:
    - Thủ hạ ngươi làm chuyện cùng hung cực ác, ngươi không biết ước thúc, thì có khác gì chính ngươi làm? Thế khi đó những ai làm?
    Mạch Kình gặp phải cảnh này, chỉ mong mình khỏi chết, rút ngay yêu đao, nói:
    - Thái Tứ, Hoa Thanh Sơn, Hải Mã Hồ Lục, việc ngày hôm đó, ba người các ngươi có dự phần phải không?
    Xoẹt xoẹt xoẹt ba đao, y đã chém ba kẻ ngồi bên ngã lăn ra. Ba đao đó ra tay thật là nhanh, bọn Thái Tứ không có cách gì phản kháng, lập tức trúng đao chết ngay.
    Tạ Tốn nói:
    - Tốt lắm. Chỉ có điều quá chậm, lại không phải ngươi thực tâm muốn thế. Giá như hôm đó ngươi giết luôn ba người này, ắt là hôm nay ta không tỉ võ với ngươi. Mạch bang chủ, công phu giỏi nhất của ngươi là gì?
    Mạch Kình thấy không còn né tránh được nữa, nghĩ thầm: ?Trên đất liền tỉ thí với ngươi, chưa chắc mình đỡ được ba chiêu. Thế nhưng ở dưới biển, là giang sơn của mình, nếu có không lại, còn có đường đào tẩu, không lẽ ngươi thủy tính cũng giỏi hơn ta chăng??. Y nói:
    - Tại hạ mong được lãnh giáo Tạ tiền bối công phu dưới nước.
    Tạ Tốn nói:
    - Được rồi, bọn mình ra ngoài biển tỉ thí.
    Đi được mấy bước, bỗng nói:
    - Khoan đã, ta đi khỏi đây, chỉ sợ những người ở đây chạy trốn hết cả.
    Mọi người trong lòng ai nấy hãi sợ, nghĩ thầm: ?Y sợ mình chạy trốn, không lẽ y muốn giết hết mọi người ở đây sao??. Mạch Kình vội nói:
    - Thực ra dù có xuống biển tỉ thí, tại hạ cũng không phải là đối thủ của Tạ tiền bối, chi bằng nhận thua trước là hơn.
    Tạ Tốn đáp:
    - Ừ, thế càng giản tiện, ngươi đã nhận thua, thì hoành đao tự sát đi.
    Mạch Kình giật nảy người, nói:
    - Cái đó ? cái chuyện tỉ võ, thắng bại là chuyện thường, việc gì mà phải tự sát ?
    Tạ Tốn quát:
    - Láo nào, cái mặt ngươi làm gì mà đòi tỉ võ với ta? Hôm nay ta đến đây cốt để đòi mạng. Chúng ta học võ, tay ai là không nhuốm máu? Có điều Tạ mỗ sinh bình chỉ giết người biết võ, ghét nhất những ai ăn hiếp kẻ yếu đuối, sát hại đàn bà con trẻ chưa từng luyện võ. Nếu ai đã làm chuyện đó, hôm nay Tạ mỗ sẽ không bỏ qua đâu.
    Trương Thúy Sơn nghe đến đây, không nhịn nổi nhìn trộm Ân Tố Tố một cái, nghĩ đến nàng giết hại già trẻ lớn bé của Long Môn tiêu cục mấy chục mạng người, trong đó không ít người chẳng biết võ công, Tạ Tốn nếu như biết được chuyện này, thể nào cũng tìm cô tính sổ. Chàng thấy nàng mặt mày trắng bệch, môi mấp máy. Trương Thúy Sơn lại nghĩ thầm: ?Tạ Tốn như muốn giết nàng, ta có ra tay cứu hay chăng? Nếu ta ra tay, chỉ bất quá đem nạp mạng cho y thôi, huống chi với nàng cũng chỉ là tội hữu báo ứng thôi, nhưng ? nhưng ? làm sao có thể xõng tay nhìn nàng bị hành hung mà không lý tới??.
    Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:
    - Chỉ có điều sợ các ngươi chết mà không phục, nên ta cho từng người thi triển sinh bình tuyệt nghệ, chỉ cần thắng được ta một ngón thôi, ta sẽ tha cho khỏi chết.
    Y nói đến đó, cúi xuống móc dưới đất hai nắm đất, đổ rượu vào, hòa thành hai nắm bùn, nói với Mạch Kình:
    - Thủy tính giỏi hay dở, cốt là xem ai ở dưới nước được lâu. Ta với ngươi hai người dùng bùn bịt chặt miệng mũi, ai chịu không nổi giơ tay gỡ ra trước, thì người đó phải vung đao tự tận.
    Y nói xong không cần Mạch Kình đồng ý hay không, dùng nắm bùn bên tay trái bịt luôn vào mặt mình, kín cả mũi miệng, tay phải vung ra, nghe bạch một tiếng, nắm bùn bay ra bịt chặt mũi miệng Mạch Kình.
    Mọi người thấy cảnh tượng đó, tuy thật hoạt kê nhưng không ai cười nổi.
    Trước khi bị bùn bịt chặt mũi miệng, Mạch Kình chuẩn bị hít một hơi dài, y lập tức ngồi xếp bằng, nín thở bất động. Y từ khi bảy tám tuổi đã ngày ngày ra biển mò cua bắt cá, bơi lội cực giỏi, đến tàn một nén hương chưa phải trồi lên mà cũng không ngộp, thành thử màn tỉ thí này y tin chắc nhất định không thua, nên không còn sợ hãi nữa, ngưng thần tĩnh tâm, cốt để được thật lâu.
    Tạ Tốn trái lại không ngồi bất động, lại rảo bước tới mâm của Thần Quyền môn, trừng mắt nhìn chưởng môn của Thần Quyền môn là Quá Tam Quyền. Quá Tam Quyền thấy y nhìn mà rởn tóc gáy, vội đứng lên, vòng tay nói:
    - Chào Tạ tiền bối, tại hạ là Quá Tam Quyền.
    Tạ Tốn mồm bị gắn kín, không nói chuyện được, giơ ngón tay trỏ bên phải, nhúng vào ly rượu, viết lên trên bàn ba chữ. Quá Tam Quyền trông rồi mặt mày xám ngoét, thần tình cực kỳ hãi sợ, chẳng khác gì đột nhiên thấy ma quỉ hiện ra. Các đệ tử cùng bàn liếc trông, chỉ thấy ba chữ Tạ Tốn viết là ?Thôi Phi Yên?. Những đệ tử đó không hiểu chuyện gì, nghĩ thầm ?Thôi Phi Yên? dường như tên của một người đàn bà, nhưng không biết tại sao sư phụ lại hãi sợ đến thế.
    Thế nhưng Quá Tam Quyền biết ngay, vì Thôi Phi Yên chính là chị dâu của y, y bức gian không được nên ra tay giết chết. Y nghĩ thầm: ?Y thể nào cũng không tha mình, nhân lúc bùn còn đang bịt mũi miệng, mình toàn lực tấn công, nếu như y vận khí phát quyền thể nào cũng thua Mạch Kình?.
    Nghĩ thế bèn lớn tiếng nói:
    - Tại hạ chấp chưởng Thần Quyền môn, cả đời chỉ học quyền pháp, vậy xin lãnh giáo tiền bối vài chiêu.
    Không đợi Tạ Tốn chuẩn bị, nghe vù một tiếng, y đã nhắm ngay bụng dưới đối phương đánh tới. Quyền thứ nhất vừa ra, quyền thứ hai lập tức đi theo. Cái tên Quá Tam Quyền chính là vì quyền lực của y cực mạnh, một quyền có thể đánh chết một con bò đực, võ sư tầm thường chưa ai chịu nổi ba cú đấm. Trên giang hồ vì thế truyền ngôn, còn tên thực của y không ai biết đến nữa.
    Y biết rằng sự tình trước mắt, cốt ở tấn công thật nhanh, nếu như Mạch Kình chịu không nổi phải bóc cục bùn ra, Tạ Tốn cũng nhân đó mà gỡ theo. Lúc này là lúc y thật là lợi thế, đối phương không cách nào hô hấp vận lực, võ công sẽ bị giảm đi rất nhiều.
    Hai quyền của y đánh ra, Tạ Tốn giơ tay ra đỡ. Quá Tam Quyền thấy kình lực đối phương yếu đuối, so với thần uy lúc đánh chết Thường Kim Bằng, hay phun ngã Bạch Qui Thọ thật khác xa, hét lên một tiếng:
    - Quyền thứ ba đây.
    Cú đấm thứ ba của y có một cái tên, gọi là ?Hoành Tảo Thiên Quân, Trực Tồi Vạn Mã[14]?, là chiêu bình sinh sở học tối lợi hại, nhiều anh hùng hảo hán thành danh trên giang hồ đã bị thương dưới cú đánh này.
    Lúc đó Mạch Kình mặt đã đỏ bừng, trên trán mồ hôi vã ra như mưa, xem chừng không còn chịu nổi nữa. Mạch thiếu bang chủ thấy phụ thân nguy cấp, mà Tạ Tốn lại đang tỉ quyền với Quá Tam Quyền, chợt nghĩ ra một mẹo, thò tay rút một chiếc ngân thoa của một nữ đà chủ trong bang, bẻ lấy một đoạn chừng một tấc, nhắm ngay miệng Mạch Kình ném tới, tuy không khỏi làm y bị thương nơi răng hay lưỡi, nhưng đoạn thoa sẽ đâm lủng một cái lỗ nhỏ, không khí theo đó mà vào, chuyện tỉ thí sẽ không thể nào thua được.
    Mảnh thoa gãy còn cách Mạch Kình chừng một trượng, Tạ Tốn liếc mắt trông thấy, giơ chân hẩy một hòn đá nhỏ bay lên, trúng ngay chiếc ngân thoa. Chiếc thoa quay ngược trở lại, thế nhanh lạ thường, chỉ nghe Mạch thiếu bang chủ kêu ?A? một tiếng thảm thiết, giơ tay ôm mắt phải, máu chảy ròng ròng, hóa ra y đã bị chiếc thoa đâm mù mắt.
    Mạch Kình lại đưa tay toan gỡ nắm đất ra, Tạ Tốn đá luôn hai hòn sỏi khác, cách cách hai tiếng, hai hòn đá đã đánh gãy hai xương đầu vai, tay y không còn động đậy được nữa.
    Ngay lúc đó, quyền thứ ba của Quá Tam Quyền đã đánh ngay bụng dưới Tạ Tốn. Quyền đó thế như sấm sét, quyền lực chưa đến nhưng đã rất là mãnh liệt. Quá Tam Quyền liệu rằng đối phương sẽ không dám giơ tay đỡ thế quyền của mình mà phải né qua, nhưng dù lách qua trái hay phải, chồm lên lùi xuống, y cũng đã dự bị sẵn một thế tiếp theo cực lợi hại. Nào ngờ Tạ Tốn lại không chuyển động, Quá Tam Quyền mừng lắm, quyền của y đánh trúng ngay bụng dưới. Trong cơ thể, bụng dưới là chỗ mềm nhất, nào ngờ quyền của y đánh vào chẳng khác gì đánh vào sắt đá, vừa biết là không ổn thì mồm đã hộc máu tươi, chết ngay tại chỗ.
    Tạ Tốn quay đầu lại, thấy Mạch Kình hai mắt trợn trắng, khí đã tuyệt chết rồi. Y gỡ nắm bùn của Mạch Kình ra trước, thò tay xem xét hơi thở, sau đó mới đưa tay gỡ cục bùn trên mặt mình, ngửa mặt lên trời cười một hồi, nói:
    - Hai tên này bình sinh tác ác đa đoan, đến hôm nay mới gặp báo ứng cũng là muộn lắm rồi.
    Nói xong y đưa đôi mắt sáng quắc như điện nhìn vào hai kiếm khách của phái Côn Lôn, từ Cao Tắc Thành sang Tưởng Đào rồi lại từ Tưởng Đào quét sang Cao Tắc Thành, một lúc lâu không nói gì. Cao Tưởng hai người mặt mày trắng bệch, nhưng vẫn ngang nhiên cầm kiếm, giương mắt nhìn lại y.
    Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn chỉ trong khoảnh khắc đã giết những nhân vật thủ lãnh của bốn đại bang hội, bây giờ lại toan hạ thủ Cao Tưởng hai người, đứng dậy nói:
    - Tạ tiền bối, cứ như ông nói, những người mới chết đây đều đầy tội lỗi, chỉ là báo ứng mà thôi. Thế nhưng nếu ông cũng không phân biệt trắng xanh vàng đỏ gặp ai cũng giết, thì có khác gì bọn họ đâu?
    Tạ Tốn cười khẩy:
    - Có gì phân biệt ư? Ta võ công cao, bọn họ võ công thấp, kẻ mạnh thắng mà kẻ yếu thua, phân biệt là thế đó.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Người ta khác loài cầm thú bởi vì biết được đâu là phải, đâu là trái, nếu chỉ cậy mạnh hiếp yếu, thì đâu khác với cầm thú ở chỗ nào.
    Tạ Tốn ha hả cười, nói:
    - Trên đời này bộ có chuyện phân biệt phải trái ư? Ngày nay người Mông Cổ làm vua, muốn giết người Hán bao nhiêu thì giết, họ có nói chuyện phải trái với ngũ hiệp không? Người Mông Cổ muốn bắt đàn bà con gái, vàng bạc ngọc ngà của người Hán, cứ thò tay ra lấy, người Hán không phục, họ giơ đao chém liền, họ có nói chuyện phải trái đâu?
    Trương Thúy Sơn lặng thinh hồi lâu, nói:
    - Người Mông Cổ bạo ngược, tàn ác, hoành hành chẳng khác gì cầm thú. Phàm là người có chí khí, ai chẳng nghiến răng thống hận, ngày đêm mong đuổi được quân Thát tử, lấy lại giang sơn.
    Tạ Tốn nói:
    - Ngày trước người Hán làm Hoàng Đế, bộ cũng nói chuyện phải trái hay sao? Nhạc Phi là đại trung thần, sao cũng bị Tống Cao Tông giết chết? Tần Cối là đại gian thần, tại sao thân cư cao vị, hưởng tận phú quí vinh hoa?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Các vua nhà Nam Tống thích dùng gian nịnh, sát hại kẻ trung lương, bãi xích danh tướng, để đến nỗi giang sơn gấm vóc rơi vào tay dị tộc, trồng ác nhân thì thu ác quả, đó chính là phân biệt phải trái.
    Tạ Tốn đáp:
    - Hoàng đế Nam Tống hôn ám vô đạo, thế nhưng người Kim, người Mông Cổ tàn sát ngược đãi lại là người Hán trong khắp thiên hạ. Xin hỏi Trương ngũ hiệp, trăm họ làm điều ác gì, mà phải chịu không biết bao nhiêu tai ương như vậy?
    Trương Thúy Sơn lặng thinh. Ân Tố Tố đột nhiên chen vào:
    - Dân chúng vô quyền vô dũng, dĩ nhiên phải chịu để cho người ta chém giết. Người đời nói rằng họ là dao thớt, mình là cá thịt, âu cũng là chuyện thường.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Chúng ta cố công cố sức học võ, cũng là để sao cho người ta được thân oan, được hả giận, chống kẻ mạnh giúp người yếu. Tạ tiền bối anh hùng vô địch, nếu đem cái tuyệt kỹ võ công này hành hiệp trong thiên hạ, ắt là người người đều được hưởng phúc ấm.
    Tạ Tốn hỏi lại:
    - Hành hiệp trượng nghĩa có lợi gì? Tại sao lại phải hành hiệp trượng nghĩa?
    Trương Thúy Sơn sững người, chàng từ nhỏ được sư phụ giáo huấn, ngay từ khi chưa học võ, là hành hiệp trượng nghĩa là việc suốt đời phải theo đuổi, sở dĩ học võ cũng là cốt để hành hiệp. Hành hiệp là gốc, còn học võ chỉ là ngọn. Trong bụng chàng chưa bao giờ lại hỏi :? Hành hiệp trượng nghĩa có lợi gì? Tại sao lại phải hành hiệp trượng nghĩa??, mà vẫn coi đó là chuyện đương nhiên, cái lý tự nhiên đã sáng tỏ rồi, nên không bao giờ suy nghĩ đến, lúc này nghe Tạ Tốn hỏi, chàng ngơ ngẩn một hồi, mới đáp:
    - Hành hiệp trượng nghĩa ư, là để trải rộng chính nghĩa, thiện được đáp đền, ác bị quả báo.
    Tạ Tốn cười một hồi dài, nói:
    - Thiện được đáp đền, ác bị quả báo? Ha ha, nói láo nói lếu. Ngươi tưởng trong chốn võ lâm thực là có chuyện thiện được đáp đền, ác bị quả báo hay sao?
    Trương Thúy Sơn bỗng nghĩ đến Du Đại Nham, tam sư ca một đời làm không biết bao nhiêu điều tốt, vậy mà bị thảm họa như thế, tám chữ ?thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo?, chính mình cũng chưa tin là thực, nên thở dài đáp:
    - Đạo trời khó nói, việc người khó biết. Mình chỉ cầu sao tâm được an, thấy việc nghĩa thì làm, còn chuyện họa hay phúc, đâu nghĩ đến làm gì.
    Tạ Tốn liếc Trương Thúy Sơn nói:
    - Ta vẫn nghe tôn sư Trương Tam Phong tiên sinh võ công quán tuyệt đời nay, mong có duyên được gặp một lần. Ngươi là cao đồ trong môn phái, kiến thức lại tầm thường như thế, có lẽ Trương Tam Phong cũng chỉ đến thế thôi, không gặp được cũng không sao.
    Trương Thúy Sơn thấy lời lẽ của y đối với ân sư có ý khinh thị, nhịn không nổi, nói:
    - Cái học của ân sư đâu phải kẻ phàm phu tục tử có thể đo lường được. Tạ tiền bối võ công cao cường, hậu học tiểu bối không sánh kịp, nhưng đối với với ân sư của tôi, thì chẳng qua cũng chỉ là cái dũng của kẻ thất phu thôi.
    Ân Tố Tố kéo vạt áo chàng, ý muốn chàng nhịn cái nhục nhất thời, khỏi phải gặp chuyện rắc rối trước mắt. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Đại trượng phu có chết cũng cam, nhưng quyết không để y làm nhục đến ân sư?.
    Nào ngờ Tạ Tốn lại không nổi giận, chỉ bình thản nói:
    - Trương Tam Phong tiên sinh khai sáng tông phái, chắc hẳn võ công phải có chỗ khác người. Võ học chi đạo, vô cùng vô tận, ta không thể nào bằng được tôn sư, cái đó cũng không có gì lạ. Nhưng thể nào cũng có ngày, ta sẽ lên núi Võ Đương lãnh giáo một phen. Trương ngũ hiệp, môn công phu sở trường của ngươi là gì, họ Tạ này mong được biết đến.
    [1] Bão tất thuyền đầu, Tư kiến gia tân. Vi phong động ba, Võng yên nhược tỉnh.
    [2] Gió hiu hiu, mưa lất phất thì chẳng phải về nhà ý nói cái dù này có thể giúp người tránh được gió mưa nhỏ.
    [3] con của Vệ Hằng đời Tấn (có chỗ chép là em gái) vợ của Lý Củ nên còn gọi là Lý phu nhân, có tài viết theo lối chữ lệ là thầy dạy cho Vương Hi Chi về phép viết chữ.
    [4] Phép cắm hoa, hoa nọ đỡ cho hoa kia, và phép gieo vần, vần nọ liền với vần kia, ý nói chữ nọ liền với chữ kia không đứt đoạn.
    [5] Văn quân nhất tịch thoại, Thắng độc thập niên thư [6] Đêm lạnh khách đến đem trà ra đãi thay rượu. Đây là câu đầu của bài thơ tứ tuyệt: Hàn dạ khách lai trà đương tửu, Trúc lô thang phí hỏa sơ hồng. Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt, Tài hữu mai hoa tiện bất đồng. (Đêm lạnh trà ngon thay rượu quí, Lửa vừa mới bén nước đang sôi. Ánh trăng trước cửa càng đơn lẻ, Hay muốn thay hoa chuốc ngậm ngùi) [7] Giấy làm ở Tuyên châu là một loại danh phẩm [8] một loại võ khí ngắn dùng để chiếu đấu dưới nước, hai đầu nhọn, có thể dấu theo cánh tay và ném ra như một loại ám khí [9] Thác nước từ trên cao trăm trượng đổ xuống [10] Thầy đi ta cũng đi, thầy rảo bước ta cũng rảo bước, thầy chạy ta cũng chạy, nhưng khi thầy ra sức chạy bụi mù, thì ta chỉ giương mắt nhìn không sao theo kịp.
    [11] yên ổn, lặng lẽ, khiêm tốn, đè nén là bốn đức tính cần tập luyện của đạo gia [12] thanh đao Đồ Long là vật cao quí nhất trong võ lâm, hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không theo [13] Không thanh không sắc, thần vật tự khiêm tốn dấu mình [14] đánh ngang thì tiêu diệt nghìn quân, đánh thẳng thì đập tan vạn mã
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:32:38 | Chỉ xem của tác giả
PHÙ TRA BẮC MINH HẢI MANG MANG

Đi đâu cho thiếp theo cùng,
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam.[1]
Trông vời biển Bắc mênh mang,
Đã yêu thiếp nguyện sắt son một bề.


    Ân Tố Tố trước mắt thấy Bạch Qui Thọ, Thường Kim Bằng, Nguyên Quảng Ba, Mạch Kình, Quá Tam Quyền chết nằm ngang dọc, người nào động thủ với y cũng không thoát khỏi, giờ nghe Tạ Tốn khiêu chiến với Trương Thúy Sơn, chàng võ công tuy cao, nhưng cũng không phải là địch thủ, nên nói:
    - Tạ tiền bối, đao Đồ Long đã vào tay ông, mọi người ai nấy bội phục ông võ công cao cường, ông còn muốn gì nữa?
    Tạ Tốn nói:
    - Liên quan đến thanh đao Đồ Long này, có mấy câu cố lão tương truyền, cô có biết không?
    Ân Tố Tố đáp:
    - Có nghe nói qua.
    Tạ Tốn nói:
    - Cứ theo đó thì thanh đao này là võ lâm chí tôn, ai cầm nó có thể hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không theo. Trong thanh đao này rốt ráo có cái bí mật gì, mà lại khiến cho thiên hạ quần hùng khâm phục?
    Ân Tố Tố đáp:
    - Tạ tiền bối cái gì cũng biết, vãn bối đang muốn thỉnh giáo.
    Tạ Tốn nói:
    - Tôi cũng không biết nữa. Tôi muốn tìm một chỗ ở thanh tĩnh, để có thời gian suy nghĩ về chuyện đó.
    Ân Tố Tố nói:
    - Ồ, thế thì hay biết bao. Tạ tiền bối tài trí hơn người, nếu như ông cũng không nghĩ ra, người khác làm sao có thể làm được.
    Tạ Tốn nói:
    - Ha ha, họ Tạ này đâu phải là loại cuồng vọng tự đại. Nói về võ công, hiện nay trên đời người giỏi hơn tôi cũng không phải là ít. Chưởng môn phái Thiếu Lâm Không Văn đại sư ?
    Nói đến đây, y ngừng lại một lát, trên mặt thoáng qua một nét buồn mênh mang.
    - ? Thiếu Lâm tự Không Trí, Không Tính hai vị đại sư, Trương Tam Phong đạo trưởng của phái Võ Đương, lại còn chưởng môn các phái Nga Mi, Côn Lôn, người nào không là người thân mang tuyệt học? Phái Thanh Hải ẩn ở biên cương phía tây, võ công cũng có chỗ độc đáo bí mật. Còn tả hữu Quang Minh sứ giả của Minh giáo ... ha ha, thật là ghê gớm. Rồi tới Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ trong Thiên Ưng giáo của cô cũng là một kỳ tài trên đời khó gặp, tôi chắc gì đã thắng nổi ông ta.
    Ân Tố Tố đứng lên, nói:
    - Đa tạ tiền bối ca ngợi.
    Tạ Tốn nói:
    - Tôi được thanh đao này, người ngoài ai chả thèm muốn. Hôm nay trên đảo Vương Bàn Sơn không ai là địch thủ của tôi, đó cũng là Ân giáo chủ tính nhầm thôi. Ông ta tưởng chỉ cần Bạch đàn chủ, Thường đàn chủ hai người cũng dư sức đối phó với các phái Hải Sa, bang Cự Kình, đâu ngờ giữa đường lại có họ Tạ này nhúng tay vào ?
    Ân Tố Tố nói chen vào:
    - Không phải Ân giáo chủ tính sai đâu, mà tại vì ông ấy có việc quan trọng, không phân thân ra được.
    Tạ Tốn đáp:
    - Cứ cho là như thế, nếu Ân giáo chủ có mặt tại đây, một là tôi võ công nhiều lắm so với ông ta cũng chỉ kẻ tám lạng, người nửa cân thôi, hai là nghĩ đến tình nghĩa với cố nhân, nên không thể nào ra mặt sang đoạt. Cứ như thế, họ Tạ này đâu có đến làm gì. Ân giáo chủ trước nay vẫn cho là mình tính toán không bao giờ sơ hở, hôm nay đao rơi vào tay tôi, tên tuổi ông ta không khỏi bị thương tổn.
    Ân Tố Tố nghe Tạ Tốn nói đối với Ân giáo chủ có ?cố nhân chi tình?, trong lòng cũng hơi yên tâm, nên nàng cố tình tiếp tục nói chuyện nọ chuyện kia để dẫn dụ, ngõ hầu y không đòi tỉ võ với Trương Thúy Sơn nữa:
    - Nhân sự nan tri, thiên ý nan liệu, mọi việc bên ngoài không phải muốn gì được nấy. Chính vì thế mà người ta nói là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Tạ tiền bối phúc trạch thâm hậu, lấy được thanh đao này mang đi dễ dàng, người khác thiên phương bách kế đem hết tâm cơ ra chiếm nó, vậy mà lại không được gì.
    Tạ Tốn nói:
    - Từ khi thanh đao này có trên đời, không biết bao nhiêu phen đổi chủ, cũng không biết đem lại cho người cầm nó bao nhiêu cái họa sát thân. Hôm nay tôi được thanh đao này mang đi, biết đâu ngày mai lại có cao thủ mạnh hơn tới giết tôi rồi đoạt mất?
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người nhìn nhau, đều cảm thấy y nói câu này quả có thâm ý. Trương Thúy Sơn nghĩ đến tam sư ca Du Đại Nham chỉ mới liên can đến thanh đao, mà tới nay chết sống chưa đoán được, còn mình chỉ mới nhìn thấy bảo đao thôi, tính mệnh đã phải giao cho người ngoài.
    Tạ Tốn thở dài, nói:
    - Hai người văn võ song toàn, tướng mạo tuấn nhã, ta phải ra tay giết đi, chẳng khác gì đập nát một đôi ngọc khí quí báu hiếm có, thật là đáng tiếc. Thế nhưng ở vào tình thế bắt buộc, không giết không xong.
    Ân Tố Tố hãi sợ hỏi:
    - Sao thế?
    Tạ Tốn đáp:
    - Tôi lấy được thanh đao này đem đi, nếu trên đảo này để lại một ai sống sót, chẳng mấy ngày mọi người đều biết là đao Đồ Long đang ở trong tay họ Tạ. Người này đến kiếm, người khác đến kiếm, họ Tạ lại không phải là người vô địch trong thiên hạ, làm sao không khỏi có lúc sẩy tay? Không nói chi người khác, chỉ riêng Bạch Mi Ưng Vương không thôi, họ Tạ đã chắc đâu thắng được ông ta. Huống chi Thiên Ưng giáo người nhiều thế mạnh, còn Tạ mỗ chỉ đơn chiếc một thân một mình?
    Nói xong y lặng lẽ lắc đầu, nói tiếp:
    - Nội ngoại công phu của Ân Thiên Chính cương mãnh không ai sánh kịp, Tạ mỗ vốn kính phục lắm. Nhớ lại khi xưa ? ôi ?
    Y lại thở dài, rồi buồn bã lắc đầu.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Thì ra giáo chủ của Thiên Ưng giáo tên gọi Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính?. Chàng lạnh lùng đáp:
    - - Hóa ra ông chỉ muốn giết người bịt miệng đấy thôi.
    Tạ Tốn đáp:
    - Đúng thế.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Vậy thì việc gì ông phải kể tội phái Hải Sa, bang Cự Kình, hay Thần Quyền môn làm chi?
    Tạ Tốn ha hả cười, nói:
    - Cái đó là để cho chúng chết mà không oán giận, lúc lâm tử trong lòng không tức tối đấy thôi.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Tiền bối quả thật có lòng từ bi.
    Tạ Tốn nói:
    - Trên đời nay có ai mà không chết? Chết sớm vài năm hay muộn vài năm cũng có khác nhau bao nhiêu. Trương ngũ hiệp và Ân cô nương đang tuổi xuân thì, hôm nay táng thân nơi Vương Bàn Sơn đảo, tựa hồ đáng tiếc lắm thay. Thế nhưng một trăm năm sau nhìn lại, có còn như thế nữa đâu. Năm xưa Tần Cối không hãm hại Nhạc Phi, không lẽ Nhạc Phi sống đến ngày nay? Con người ta lúc chết miễn sao trong lòng yên ổn, hợp lý, đừng có quá thống khổ, thế là đủ rồi. Chúng ta là người học võ, nếu muốn chết hoàn toàn thư thái, thật không phải dễ. Chính thế mà tôi muốn cùng hai vị tỉ thí một phen, ai thua thì chết, thế là công bình lắm rồi. Hai người tuổi ít hơn tôi, tôi nhường các ngươi được lợi thế. Binh khí, quyền cước, nội công, ám khí, khinh công, thủy công, muốn chọn gì thì chọn, tôi đều hầu tiếp.
    Ân Tố Tố nói:
    - Ông lớn lối nhỉ, muốn tỉ đấu công phu gì cũng được, có phải thế không?
    Nàng nghe Tạ Tốn nói như thế, biết rằng hôm nay không cách gì thoát được cái cảnh khó khăn này. Đảo Vương Bàn Sơn lênh đênh giữa biển, Thiên Ưng giáo lại tin chắc hai đàn chủ Bạch Thường có mặt, không thể sơ sót, nên không đưa cường viện đến làm gì. Nàng tuy nói cứng, nhưng nghe giọng cũng hơi run.
    Tạ Tốn sựng lại, nghĩ thầm nếu nàng lại đòi mình tỉ thí thêu thùa vá may, chải đầu đánh phấn, thì làm sao được nên lớn tiếng nói:
    - Đương nhiên là chỉ võ công thôi, chứ không lẽ cả chuyện ăn cơm uống rượu? Nói vậy chứ có thi ăn cơm uống rượu, hai người cũng không thắng được cái túi cơm hũ rượu này đâu. Chúng ta chỉ đấu một lần xem ai thắng ai thua, hai người thua thì ra tay tự sát. Chao ôi, một đôi người ngọc đẹp đẽ như thế kia, tôi thật không đang tâm chính mình hạ thủ.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nghe y nói ?một đôi người ngọc?, không khỏi hai má đỏ bừng.
    Ân Tố Tố bỗng nhướng đôi lông mày, hỏi lại:
    - Thế tiền bối thua có tự sát không?
    Tạ Tốn cười đáp:
    - Tôi làm sao thua được?
    Ân Tố Tố nói:
    - Tỉ thí phải có thua được. Trương ngũ hiệp đây là danh gia đệ tử, biết đâu chẳng có một môn công phu thắng được ông?
    Tạ Tốn cười:
    - Bằng tuổi trẻ như ngũ hiệp, dẫu chiêu số có cao thì nội lực cũng không thâm hậu được.
    Trương Thúy Sơn nghe hai người lời qua tiếng lại, trong bụng tính toán: ?Công phu nào của mình có thể ngang tay với y được? Khinh công chăng? Chưởng pháp mới học chăng? ? Bỗng nhiên linh cơ nhất động, chàng nói:
    - Tạ tiền bối, nếu như ông nhất định ép tôi phải động thủ, không lộ cái xấu ra thì không xong. Nếu tôi thua tiền bối, dĩ nhiên rút kiếm tự sát, thế nhưng nếu như hai người ngang nhau thì sao?
    Tạ Tốn lắc đầu:
    - Không có chuyện ngang nhau. Trận đầu ngang nhau, thì sang trận thứ hai, bao giờ thắng bại rõ ràng mới thôi.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Được rồi, nếu như vãn bối thắng được một chiêu nửa thức, quả không dám bảo tiền bối làm gì, chỉ xin tiền bối đáp ứng một chuyện thôi.
    Tạ Tốn đáp:
    - Một lời đã định, thế ngũ hiệp muốn tỉ thí môn gì?
    Ân Tố Tố trong bụng rất lo, hạ giọng hỏi:
    - Chàng muốn tỉ thí môn gì thế? Có chắc ăn không?
    Trương Thúy Sơn cũng hạ giọng đáp:
    - Không biết nữa, cứ hết sức thôi.
    Ân Tố Tố nói nhỏ:
    - Nếu thấy không xong, hai đứa mình tùy cơ chạy trốn, không lẽ trói tay chịu chết.
    Trương Thúy Sơn cười buồn, không trả lời, nghĩ bụng: ?Thuyền bè bị phá hủy cả rồi, trên hòn đảo nhỏ tí xíu này, chạy chỗ nào bây giờ??. Chàng sửa lại áo quần, lấy chiếc phán quan bút đúc bằng thép từ trong lưng ra. Tạ Tốn nói:
    - Trên chốn giang hồ ai cũng khen ngợi Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn, hôm nay song đầu lang nha bổng của tôi hân hạnh được lĩnh giáo. Còn chiếc hổ đầu câu bằng bạc vụn đâu? Sao ngũ hiệp không lấy ra luôn thể?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Tôi không muốn tỉ thí binh khí với tiền bối, chỉ thi viết vài chữ thôi.
    Nói xong, chàng chậm rãi đi đến gần vách đá nơi ngọn núi ở phía bên trái, hít một hơi dài, hai chân nhún một cái, phóng mình nhảy lên. Võ công của phái Võ Đương vốn dĩ đứng vào bậc nhất thiên hạ, lúc này lại là lúc gặp phải hiểm nguy sống chết, lẽ nào lại không hết sức ra tay? Thân hình tung lên khoảng hơn một trượng, lập tức chàng sử dụng công phu tuyệt kỹ Thê Vân Túng, chân phải đạp vào vách núi một cái, mượn sức, lại vọt lên hai trượng nữa. Phán quan bút trong tay nhắm thẳng vào mặt đá, xoẹt xoẹt xoẹt mấy tiếng, đã viết xong chữ ?võ?. Một chữ vừa viết xong, thân hình chàng như muốn rơi xuống.
    Trương Thúy Sơn uốn mình tay trái vung chiếc ngân câu, đã trúng một chỗ nhô ra trên vách, chiếc móc chịu cả sức nặng đong đưa. Tay phải lại tiếp tục viết chữ ?lâm?. Hai chữ này, mỗi nét mỗi gạch, đều do Trương Tam Phong đêm khuya suy nghĩ đắn đo mà sáng tạo ra, bên trong bao hàm cương nhu, âm dương, tinh thần khí thế, phải nói là đạt đến cao điểm công phu của phái Võ Đương. Tuy Trương Thúy Sơn công lực còn non, nét bút hằn vào đá chưa sâu mấy nhưng hai chữ rồng bay phượng múa, bút lực hùng kiện, tưởng như dùng khoái kiếm trường thương đục thành.
    Viết hai chữ xong, chàng viết tiếp chữ ?chí?, chữ ?tôn?. Càng viết càng nhanh, chỉ thấy đá vụn lả tả rơi xuống, tưởng như linh xà uốn khúc, trông như mãnh thú vươn mình, khoảnh khắc đã xong hai mươi bốn chữ. Việc khắc chữ lên vách đá có khác gì hính ảnh trong thơ Lý Bạch:
    Tiêu phong sậu vũ kinh táp táp, Lạc hoa phi tuyết hà mang mang.
    Khởi lai hướng bích bất đình thủ, Nhất hàng sổ tự đại như đẩu.
    Hoảng hoảng như văn quỉ thần kinh, Thời thời chỉ kiến long xà tẩu.
    Tả bàn hữu túc như kinh lôi, Trạng đồng Sở Hán tương công chiến.
    (Gió rít mưa sa rơi lộp bộp, Hoa rơi tuyết thổi rét căm căm.
    Trên vách viết ra không ngừng lại, Một hàng chữ to bằng cái đấu.
    Bàng hoàng nghe tựa quỉ thần kinh, Đâu đâu cũng thấy rồng rắn lượn, Quét phải, uốn trái như sấm chớp, Khác gì Sở Hán đang giao tranh) Trương Thúy Sơn viết đến nét cuối của chữ ?phong? rồi, cả ngân câu lẫn thiết bút cùng đẩy mạnh vào vách núi, uốn mình rơi xuống đất, nhẹ nhàng khéo léo làm sao đứng ngay bên cạnh Ân Tố Tố.
    Tạ Tốn chăm chăm nhìn ba hàng đại tự trên vách núi một lúc thật lâu, không nói một lời. Sau cùng y thở dài một tiếng:
    - Tôi không viết nổi, xin chịu thua.
    Nên biết là từ ?võ lâm chí tôn? cho đến ?thùy dữ tranh phong? tổng cộng hai mươi bốn chữ, vốn do Trương Tam Phong ý đáo thần hội, suy đi nghĩ lại mà sáng chế ra, đều do ở bút ý. Một nét ngang, một nét dọc, một cái chấm, một cái phảy, đều là toàn do dung hợp những gì tinh diệu nhất của võ công. Giá như chính Trương Tam Phong đến đây, nhưng trước chưa qua một đêm cùng cực suy nghĩ, ắt cũng không có được cái tâm cảnh như thế. Ví dù có suy nghĩ hồi lâu, muốn viết hai mươi bốn chữ lên vách núi, cũng không thể nào đạt được trình độ xuất thần nhập hóa thế này. Tạ Tốn có biết đâu nguyên do bên trong, tưởng rằng vì việc bảo đao Đồ Long trước mắt phát khởi tranh chấp, Trương Thúy Sơn lập tức tự ý viết ra ba hàng chữ mà từ lâu cố lão vẫn truyền. Thực ra, ngoài hai mươi bốn chữ này nếu bảo Trương Thúy Sơn viết những chữ khác, so sánh nét bút yếu mạnh, nông sâu sẽ thấy khác xa ngay.
    Ân Tố Tố mừng quá, vỗ tay reo:
    - Thế là ông thua, phải giữ lời nhé.
    Tạ Tốn nhìn Trương Thúy Sơn nói:
    - Trương ngũ hiệp đem võ học lồng vào thư pháp, mở ra một con đường mới, khiến cho người người phải mở to mắt, bội phục, bội phục. Ngũ hiệp có điều gì sai bảo, mau nói ra đi.
    Bị bắt buộc phải vâng lời, y miễn cưỡng nói ra, trong lòng thật là thất vọng.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Vãn bối chỉ là kẻ mạt học hậu tiến, có chút nghề mọn, may được tiền bối khen ngợi, đâu dám nói chuyện ?sai bảo? chỉ cầu xin chấp thuận một việc thôi.
    Tạ Tốn hỏi:
    - Cầu chuyện gì thế?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Tiền bối lấy thanh đao Đồ Long này đem đi, nhưng tha cho mọi người trên đảo, chỉ bắt mọi người thề độc, không được tiết lộ bí mật.
    Tạ Tốn đáp:
    - Tôi đâu có ngu đến mức tin vào lời thề của người khác.
    Ân Tố Tố nói:
    - Hóa ra tiền bối nói nhưng lại chẳng giữ lời. Tiền bối nói nếu thua, sẽ nghe lời người ta sai bảo, sao bây giờ lại không chịu?
    Tạ Tốn nói:
    - Tôi không giữ lời thì làm gì được tôi?
    Nhưng nghĩ lại y thấy mình nói vậy thật là ngang ngược, nên nói:
    - Tính mệnh hai người thì tôi tha cho, người khác thì không được.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Hai kiếm sĩ của phái Côn Lôn là danh gia đệ tử, trước nay chưa làm điều gì ác ?
    Tạ Tốn bịt mồm chàng lại nói:
    - Cái gì mà điều ác điều lành, dưới mắt ta không có gì khác nhau cả. Hai người mau xé vải áo, nút chặt lỗ tai, lấy hai tay bịt thêm bên ngoài. Nếu muốn sống thì đừng có sơ hở.
    Mấy câu đó y nói thật nhỏ tựa hồ sợ người khác nghe thấy. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đưa mắt nhìn nhau, không biết y nói thế là nghĩa gì, nhưng thấy y nói hết sức trịnh trọng, ắt bên trong có duyên cớ, đành làm theo lời xé vạt áo nhét vào trong tai, lại lấy hai tay bịt chặt.
    Đột nhiên Tạ Tốn há mồm to, dường như cất tiếng hú. Hai người tuy không nghe rõ, nhưng không hẹn mà cùng giật nảy mình. Tất cả mọi người trong Thiên Ưng giáo, Cự Kình bang, Hải Sa phái, Thần Quyền môn, người nào người nấy há mồm lè lưỡi, mặt lộ vẻ kinh ngạc, rồi biến ngay thành thống khổ có vẻ như chịu không nổi, không khác gì đang chịu tra tấn. Qua một lát nữa, từng người từng người lăn ra đất, co quắp quằn quại.
    Cao Tưởng hai người của phái Côn Lôn sau khi kinh hoảng liền ngồi xuống xếp bằng nhắm mắt vận nội công chống lại với tiếng hú. Hai người trên trán từng hạt mồ hôi to bằng hạt đậu rơi xuống như mưa, các bắp thịt mặt liên tiếp giựt giựt, mấy lần cố đưa tay che tai, nhưng tay đến còn cách vành tai chừng vài tấc, lại phải bỏ xuống. Đột nhiên cả hai người cùng nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, rơi bịch xuống đất nằm bất động.
    Tạ Tốn ngậm miệng ngừng hú, ra hiệu cho Trương Ân hai người lấy vải ra khỏi tai, nói:
    - Những người này nghe tiếng hú của tôi, tất cả đều bất tỉnh, nhưng sẽ không ai chết. Có điều khi tỉnh lại rồi, thần trí sẽ thác loạn, thành người điên, không còn suy nghĩ được, và cũng không còn nhớ gì những chuyện đã qua. Trương ngũ hiệp, điều ngũ hiệp yêu cầu tôi là tha chết cho tất cả những người trên Vương Bàn Sơn đảo, tôi đã tha rồi.
    Trương Thúy Sơn không đáp, nghĩ thầm: ?Ngươi tuy tha chết cho họ, nhưng những người này sống mà có khác gì đã chết, có khi giết họ đi lại còn đỡ tàn khốc hơn?. Lòng chàng đối với việc tàn độc của Tạ Tốn thật là căm hận, nhưng thấy bọn Cao Tắc Thành, Tưởng Đào nằm hôn mê la liệt, mặt mày vàng ệch, trông không còn là người, nghĩ bụng tiếng hú của y không thôi đã thần uy như thế, quả thực đáng sợ. Nếu như mình không biết trước lấy vải bịt tai, đến bây giờ không biết ra sao.
    Tạ Tốn mặt mày thản nhiên, lạnh lùng nói:
    - Thôi mình đi.
    Trương Thúy Sơn hỏi:
    - Đi đâu bây giờ?
    Tạ Tốn đáp:
    - Đi về. Việc trên đảo Vương Bàn Sơn đã xong rồi, ở lại đây làm gì?
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: ?Còn phải đi chung thuyền với tên ma đầu này một ngày một đêm, mười hai giờ đó, không biết còn những biến cố gì nữa??.
    Tạ Tốn dẫn hai người đến sau một núi nhỏ ở phía tây hòn đảo. Ở đó có một cái vịnh đậu một chiếc thuyền ba cột buồm, chính là chiếc thuyền y dùng để đến đảo. Tạ Tốn đi đến bên cạnh thuyền, cúi mình nói:
    - Mời hai vị lên thuyền.
    Ân Tố Tố cười khẩy:
    - Lúc này tiền bối sao khách sáo quá nhỉ.
    Tạ Tốn đáp:
    - Hai vị là khách quí đến thuyền của tôi, sao lại không tiếp đãi cho đủ lễ nghĩa?
    Ba người lên thuyền xong, Tạ Tốn đưa tay ra lệnh cho thủy thủ nhổ neo giong thuyền ra. Trên thuyền có đến mười sáu, mười bảy thủy thủ, nhưng người cầm lái ra lệnh gì, cũng đều giơ tay vạch chân, không nói một tiếng, dường như ai ai cũng đều câm cả. Ân Tố Tố nói:
    - Tiền bối quả thực là hay, kiếm sao được cái thuyền toàn người vừa câm vừa điếc.
    Tạ Tốn cười nhạt, đáp:
    - Cái đó có gì khó đâu, tôi chỉ tìm một thuyền mà tất cả thủy thủ đều không biết chữ, chọc điếc tai họ, sau đó bắt họ uống thuốc câm, thế là xong.
    Trương Thúy Sơn bỗng thấy rởn gai ốc. Ân Tố Tố vỗ tay cười:
    - Hay thật là hay, vừa câm vừa điếc, dù ông có bí mật gì, họ cũng không tiết lậu cả. Tiếc rằng họ còn phải lái thuyền, nếu không mắt họ cũng đâm mù luôn thể.
    Trương Thúy Sơn lườm nàng, trách:
    - Ân cô nương, một cô gái như cô, cớ sao tàn nhẫn đến thế? Đây là một đại thảm sự ở nhân gian, có gì đáng cười đâu?
    Ân Tố Tố lè lưỡi, toan biện bạch, nhưng vừa định nói ra, nhìn lại sắc mặt chàng, vội ngừng lại. Tạ Tốn thản nhiên nói:
    - - Sau này về đại lục, lúc đó tôi sẽ đem tất cả bọn họ chọc mù mắt.
    Trương Thúy Sơn liếc nhìn những người chèo thuyền, trong bụng thương cảm: ?Chỉ một ngày một đêm nữa, đến đôi mắt các người cũng không còn?.
    Buồm kéo lên, mũi thuyền từ từ chuyển qua. Trương Thúy Sơn nói:
    - Tạ tiền bối, những người còn ở trên đảo thì sao? Bao nhiêu thuyền bè đều bị ông hủy hết rồi, họ về bằng gì?
    Tạ Tốn đáp:
    - Trương tướng công, việc ông nghĩ quả không sai. Thế nhưng có điều không nên nghĩ đông nghĩ tây nhiều quá. Cứ để cho họ ở trên đảo tự sống tự lo, ra sao thì ra, không hơn ư?
    Trương Thúy Sơn biết y là người không thể đem lý mà nói cho nghe, đành ngồi yên, thấy thuyền mỗi lúc một xa hòn đảo, nghĩ thầm: ?Trên đảo tuy phần lớn là người tác ác đa đoan, nhưng gặp cảnh đó thật là thảm thiết, nếu không ai đến cứu, e rằng trong vòng mười ngày là chết hết?.
    Chàng lại nghĩ tiếp: ?Hai đệ tử của phái Côn Lôn chết trên đảo, sư trưởng của họ thể nào chẳng đi tìm, rồi ra võ lâm trung nguyên chỉ ngày một ngày hai sẽ gặp cơn sóng gió?.
    Trong những năm qua, Võ Đương thất hiệp tung hoành giang hồ, mọi việc đều chiếm thượng phong, thế mà hôm nay đành chịu thúc thủ, mạng sống nằm trong tay người khác, không có cách nào phản kháng. Trương Thúy Sơn càng nghĩ càng buồn, lại càng tức tối, đành cúi đầu suy nghĩ, không lý gì đến Tạ Tốn và Ân Tố Tố nữa.
    Một lát sau, chàng ngửng lên nhìn qua cửa sổ xem phong cảnh biển cả, thấy mặt trời sắp chìm vào những đợt sóng, chiếu lên mặt biển thành nghìn vạn con rắn lập lòe chạy lăng quăng. Chàng còn đang xuất thần, bỗng dưng giật mình: ?Tịch dương sao lại lặn ở phía sau thuyền??. Chàng quay đầu lại nói với Tạ Tốn:
    - Người lái đi sai hướng rồi, thuyền của chúng ta đang đi về hướng đông.
    Tạ Tốn đáp:
    - Thì hướng đông, không sai đâu.
    Ân Tố Tố kinh hãi hỏi:
    - Hướng đông là biển cả mênh mông, mình đi đâu bây giờ? Sao ông không bảo tài công chuyển hướng?
    Tạ Tốn đáp:
    - Tôi không nói trước với hai vị rồi ư? Tôi được thanh đao Đồ Long rồi, sẽ đi tìm một nơi thanh tĩnh, để suy nghĩ một thời gian, tìm hiểu xem vì đâu con đao này được gọi là võ lâm chí tôn, làm sao lại hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Trung nguyên đại lục là nơi nhiều rắc rối, nếu người ta biết tôi có bảo đao, hôm nay có kẻ đến tìm cách đoạt, ngày mai có kẻ đến ăn cắp, cứ lo việc đánh đuổi họ cũng thật là nhiêu khê, làm sao còn tĩnh tâm được? Nếu như người đến tìm lại là cao thủ như Trương Tam Phong tiên sinh hay Thiên Ưng giáo giáo chủ, họ Tạ đâu đã chắc gì thắng. Thành thử tôi phải đi ra ngoài biển khơi, tìm một hòn đảo nào không có dấu chân người để ở.
    Ân Tố Tố đáp:
    - Vậy tiền bối đưa chúng tôi về trước vậy.
    Tạ Tốn cười:
    - Các ngươi về đến trung nguyên, hành tàng của tôi bị lộ rồi còn gì?
    Trương Thúy Sơn nhỏm người dậy, sẵng giọng:
    - Thế ông định sao đây?
    Tạ Tốn đáp:
    - Chỉ còn cách buộc hai vị ở trên hoang đảo đó với tôi sống một đời tiêu dao khoái hoạt.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Thế lỡ mười năm, tám năm ông chưa tìm ra bí mật trong thanh đao thì sao?
    Tạ Tốn cười đáp:
    - Thì các người đành ở trên đảo với tôi mười năm, tám năm, ngày nào tôi nghĩ chưa ra, thì còn ở thêm một ngày. Hai vị trai tài gái sắc, tình đầu ý hợp, ở trên đảo kết thành vợ chồng, sinh con đẻ cái, không hay lắm sao?
    Trương Thúy Sơn giận quá, vỗ bàn quát lên:
    - Ông không được nói nhăng nói cuội.
    Chàng liếc qua, thấy Ân Tố Tố thẹn thùng cúi đầu, hai má đỏ bừng. Trương Thúy Sơn trong lòng kinh hãi, chàng có linh cảm rằng nếu cùng Ân Tố Tố ở bên nhau lâu, e rằng mình khó lòng tự chế. Tạ Tốn là một cường địch, cái tâm viên ý mã trong lòng mình cũng là một cường địch, quả thực bốn bề đều đầy rẫy nguy cơ, làm sao thoát ra khỏi càng sớm càng tốt. Nghĩ thế chàng bèn cố nén lửa giận, nói:
    - Tạ tiền bối, tại hạ là người nói biết giữ lời, quyết không tiết lộ hành tung của tiền bối. Bây giờ tôi sẽ lập trọng thệ, quyết không nói cho ai biết những gì trông thấy, nghe thấy ngày hôm nay.
    Tạ Tốn nói:
    - Trương ngũ hiệp là hiệp nghĩa danh gia, một lời đáng nghìn vàng, nặng như non, trên chốn giang hồ đã nghe từ lâu. Thế nhưng họ Tạ này hồi hai mươi tám tuổi đã có một lời nguyền, các người coi ngón tay tôi thì biết.
    Nói rồi đưa bàn tay trái ra, Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố thấy ngón tay út đã bị chặt đứt, chỉ còn lại bốn ngón tay. Tạ Tốn chậm rãi nói tiếp:
    - Vào năm đó, một người mà tôi sùng kính nhất, yêu kính nhất đã làm nhục tôi, làm cho tôi nhà tan người chết, cha mẹ vợ con, chỉ một đêm chết hết không còn một ai. Vì thế tôi chặt tay lập thệ, ngày nào họ Tạ này còn sống, quyết không tin một người nào. Năm nay tôi bốn mươi mốt tuổi, mười ba năm qua tôi chỉ làm bạn với cầm thú, tôi tin cầm thú mà không tin người. Mười ba năm qua, tôi giết người nhiều hơn giết cầm thú.
    Trương Thúy Sơn cảm thấy rởn gai ốc, mới biết tại sao y mang võ công tuyệt thế nhưng trên chốn giang hồ chẳng nghe tên tuổi, chẳng nghe nói tới. Cái thảm sự y gặp phải hồi trẻ hẳn ít thấy trên trần gian này, nên mới chán đời, sống xa trần tục, coi mọi người là kẻ thù như thế. Chàng vốn thống hận sự tàn ác, bạo ngược của Tạ Tốn vô cùng, nhưng giờ nghe y nói như thế, không khỏi dâng lên một nỗi đồng tình, trầm ngâm giây lát, nói:
    - Tạ tiền bối, thâm thù đại hận của ông chắc đã báo phục rồi.
    Tạ Tốn đáp:
    - Chưa được. Người hại tôi võ công rất cao, tôi chưa thắng được y đâu.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người không hẹn mà cùng ?Ồ? lên một tiếng, nói:
    - Còn giỏi hơn ông ư? Người đó là ai thế?
    Tạ Tốn đáp:
    - Việc gì tôi phải nói tên y ra để thêm nhục? Nếu không vì cái thâm cừu đại hận đó, tôi đâu phải đi cướp thanh đao Đồ Long làm chi? Việc gì mà phải khổ sở nghĩ cho ra bí mật của thanh đao này? Trương tướng công, tôi mới gặp ông đã thấy hợp tính, nếu không cứ như tính tình bình thường của tôi, quyết không để ngũ hiệp sống đến giờ phút này. Tôi để cho hai người sống thêm một thời gian nữa, thế đã là phá lệ rồi, e rằng sẽ có chuyện không hay.
    Ân Tố Tố hỏi:
    - Sao lại sống thêm một thời gian nữa?
    Tạ Tốn thản nhiên đáp:
    - Đợi đến khi tôi tìm ra bí mật trong thanh đao Đồ Long rồi, trước khi rời đảo tôi sẽ giết hai người. Tôi tìm ra chậm một ngày, hai người sống thêm một ngày.
    Ân Tố Tố nói:
    - Hừ, thanh đao này bất quá nặng nề sắc bén, lửa nung không chảy thôi, chứ bên trong có gì bí mật đâu? Cái chuyện ?hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng? chẳng qua chỉ là nói đến việc thanh đao này là món binh khí đứng đầu thiên hạ, không gì sánh được mà thôi.
    Tạ Tốn thở dài:
    - Nếu đúng là như thế, ba người mình sẽ phải ở trên hoang đảo một thời gian lâu.
    Bỗng nhiên mặt y đổi thành sầu thảm, tuyệt vọng, dường như e rằng câu nói của Ân Tố Tố rất có thể là sự thực, xem ra việc báo thù cả đời không sao thành được. Trương Thúy Sơn thấy thần sắc y như thế, nhịn không nổi toan nói vài câu an ủi. Nào ngờ Tạ Tốn phẩy tay một cái, thổi tắt ngọn nến, nói:
    - Thôi đi ngủ.
    Y thở dài, trong âm thanh bao hàm nỗi thống khổ vô cùng vô tận, nỗi tuyệt vọng vô biên vô tế, tưởng đâu không phải tiếng người, mà là tiếng kêu của một con thú bị thương sắp chết. Tiếng than đó lẫn với tiếng sóng biển ỳ ầm bên ngoài, Trương Ân hai người nghe mà không khỏi rùng mình.
    Gió từ ngoài theo cửa khoang thổi vào, Ân Tố Tố áo quần mỏng mảnh, một lát sau dần dần chịu không nổi nên run rẩy. Trương Thúy Sơn hạ giọng hỏi:
    - Ân cô nương, cô lạnh phải không?
    Ân Tố Tố đáp:
    - Chưa sao.
    Trương Thúy Sơn cởi áo dài, nói:
    - Cô khoác lên người đi.
    Ân Tố Tố trong lòng cảm kích, nói:
    - Không cần đâu. Anh cũng lạnh mà.
    Trương Thúy Sơn đáp:
    - Tôi chịu lạnh được.
    Nói rồi đem trường bào đặt vào tay nàng. Ân Tố Tố cầm lấy khoác lên vai, thấy áo còn hơi ấm của Trương Thúy Sơn, cảm thấy ngọt ngào êm dịu, trong bóng đêm nàng bất giác mỉm cười.
    Trương Thúy Sơn lại chỉ nghĩ kế thoát thân, nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn một đường: ?Không giết Tạ Tốn không thể thoát được?. Chàng lắng tai nghe, bên cạnh tiếng ỳ ào ầm ầm của sóng biển, chàng nghe tiếng thở ngưng trọng của Tạ Tốn, hiển nhiên y đã ngủ say, nghĩ thầm: ?Người này lập trọng thệ, trên đời quyết chẳng tin ai, nhưng sao y cùng mình đi chung một thuyền, sao vẫn yên tâm nằm ngủ, chẳng lẽ y không sợ ta hạ thủ gia hại sao? Nhưng dầu sao chăng nữa, mình cũng phải mạo hiểm tấn công. Nếu trì hoãn, suốt cuộc đời còn lại mình sẽ phải ở chung với y tại một hoang đảo?.
    Chàng len lén đến bên cạnh Ân Tố Tố, định ghé tai nói nhỏ mấy câu, nào ngờ ngay lúc đó Ân Tố Tố lại quay đầu. Hai người đụng phải nhau, môi của Trương Thúy Sơn để ngay lên má bên phải của nàng.
    Trương Thúy Sơn giật mình kinh hãi, định biện bạch vài lời để nàng biết không phải mình có ý khinh bạc, nhưng chưa biết nói sao. Ân Tố Tố trong lòng thật vui sướng, liền nghiêng đầu tựa ngay lên vai chàng, cảm thấy biết bao êm đềm ngọt ngào, mong sao con thuyền này cứ đi mãi, đi mãi trên biển cả không bao giờ tới bến, dù có cả trăm năm cũng được. Bỗng nàng thấy Trương Thúy Sơn ghé tai nói nhỏ:
    - Ân cô nương, cô đừng giận tôi nhé.
    Ân Tố Tố đã thẹn đến mặt đỏ như một đóa phù dung, cũng hạ giọng:
    - Được chàng để ý tới, em thật hài lòng.
    ?Nàng tuy hành sự muốn gì làm nấy, giết người không chớp mắt, nhưng trong ái tình, cũng nào có khác chi những cô gái biết yêu lần đầu. Lòng nàng vừa mừng vừa lo, vừa lúng túng vừa hoảng loạn, nếu không phải trong đêm tối, chắc nàng không dám nói ra câu đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:32:55 | Chỉ xem của tác giả
   Trương Thúy Sơn sựng người, không ngờ câu xin lỗi của mình, lại khiến nàng thổ lộ chân tình. Ân Tố Tố kiều diễm không ai sánh kịp, mới gặp nhau một lần nàng đã đối với mình đầy tình ý, bây giờ chỉ trong chín chữ, đã nói lên hết cái tấm lòng yêu thương. Trương Thúy Sơn đang tuổi thanh xuân, tuy biết tự chế trong lễ nghĩa, nhưng đâu có phải là gỗ đá gì, thấy thân hình mềm mại của nàng tựa trên vai mình, mùi thơm dịu dàng ngây ngất xông lên mũi, đang định nói vài lời tình tứ, bỗng chợt nghĩ: ?Trương Thúy Sơn ơi, đại địch ngay trước mắt, sao lại không lo đến? Lời dạy bảo của ân sư, không lẽ quên hết sạch rồi sao? Dẫu cho nàng với ta ý tình tương hợp, nàng lại là ân nhân của tam ca chăng nữa, nhưng dẫu sao cũng xuất thân tà giáo, hành vi bất chính, có muốn lấy nàng cũng phải bẩm rõ lên sư phụ, nếu được lão nhân gia thuận rồi, nhờ người mai mối, chứ đâu có ở nơi tối tăm này, làm điều sằng bậy được??. Chàng nghĩ đến đây, liền thẳng người lên, nói nhỏ:
    - Hai đứa mình phải nghĩ cách chế ngự người này, tìm cách thoát thân mới được.
    Ân Tố Tố trong lòng đang mê man say đắm, bỗng nghe chàng nói, không khỏi ngơ ngẩn, hỏi lại:
    - Sao thế?
    Trương Thúy Sơn hạ giọng:
    - Hai đứa mình đang ở trong cảnh tuyệt hiểm, nếu như đương khi y ngủ ra tay ám kích, không phải là hành vi đại trượng phu. Chi bằng để anh gọi y dậy, cùng y đấu chưởng lực, em ném kim châm đả thương y. Lấy hai địch một, tuy có thắng cũng không thượng võ, nhưng mình so với y chênh lệch quá xa, đành phải cách ấy thôi.
    Câu nói đó chàng nói khẽ như tiếng muỗi vo ve, miệng lại ghé tận sát tai Ân Tố Tố, nào ngờ Ân Tố Tố chưa trả lời, Tạ Tốn ở phía sau khoang đã cười ha hả, nói:
    - Nếu ngươi bất ngờ ra tay đánh lén, mặc dù họ Tạ này đâu có để cho ai thâu tập, nhưng cũng còn một chút hi vọng, bây giờ lại muốn ra tay theo đường quang minh chính đại, bảo toàn tiếng danh môn hiệp nghĩa của môn phái, thì chỉ có chuốc lấy khổ vào thân thôi.
    Tiếng ?thôi? vừa dứt, thân hình y lắc một cái, đã đến ngay trước mặt Trương Thúy Sơn, vung chưởng đánh ngay vào ngực chàng.
    Trương Thúy Sơn khi đang nghe y nói đã ngưng tụ chân khí, ám vận nội công, khi chưởng của y vừa đánh ra lập tức giơ chưởng phải, dùng sư môn tâm truyền Miên Chưởng chống lại, hai chưởng đụng nhau, chỉ nghe bộp một tiếng nhỏ, chưởng lực bài sơn đảo hải của đối phương đã ào tới. Trương Thúy Sơn biết Tạ Tốn công lực hơn mình xa lắc, nên đã dự định chỉ thủ mà không công, được phút nào hay phút đó. Vì thế hai người chưởng lực đụng nhau, chưởng của chàng bị đẩy lùi lại đến tám tấc. Tám tấc sai biệt đó, lại khiến cho chàng thủ ngự càng dễ dàng hơn, dù Tạ Tốn vận kình thế nào, nhất thời vẫn không phá được chưởng lực phòng ngự của Trương Thúy Sơn.
    Tạ Tốn liên tiếp đẩy ra ba luồng lực đạo, chỉ cảm thấy chưởng lực của đối phương so với mình yếu hơn nhiều, thế nhưng yếu mà không suy, nhẹ mà không kiệt, chưởng lực của y càng đánh ra càng mạnh, nhưng Trương Thúy Sơn vẫn chống đỡ được.
    Tạ Tốn lại đưa tay trái ra, nhắm ngay đỉnh đầu Trương Thúy Sơn ép xuống. Trương Thúy Sơn tay trái co lại, dùng chiêu ?Hoành Giá Kim Lương?[2] đỡ lấy. Võ công của phái Võ Đương sử dụng cốt dùng mềm mại, khít khao làm sở trường, so với phái khác không đâu sánh kịp, hai người tuy công lực hơn kém nhau xa, nhưng Trương Thúy Sơn vận dụng sư môn tâm pháp, trong nhất thời Tạ Tốn chưa làm gì chàng được.
    Hai người đấu chưởng một hồi, Trương Thúy Sơn mồ hôi chảy xuống như mưa, toàn thân ướt đẫm, trong bụng kêu thầm: ?Sao Ân cô nương giờ này còn chưa ra tay? Y lúc này đang hết sức tấn công ta, nếu Ân cô nương dùng kim châm bắn vào các huyệt đạo của y, dù không hạ được thì y cũng phải thu chưởng chống đỡ, chỉ cần một chớp mắt là y sẽ bị trúng chưởng của ta, bị thương ngay?.
    Sự việc đó Tạ Tốn đã nghĩ tới, y vẫn tưởng rằng nếu Trương Thúy Sơn bị cả hai chưởng của y cùng đánh một lượt sẽ bị trọng thương ngay, nào ngờ tuổi chàng tuy còn trẻ, nhưng nội công tài nghệ lại không phải bình thường, chống đỡ được đến hết một tuần trà rồi mà chưa núng thế. Hai người tỉ đấu chưởng lực, nhưng cũng vẫn nghe ngóng động tĩnh của Ân Tố Tố. Trương Thúy Sơn ngưng khí ở ngực, không dám mở miệng gọi nàng. Tạ Tốn thì không đến nỗi đó, y nói:
    - Tiểu cô nương, cô không ra tay là khôn, nếu không ta biến chưởng thành quyền, một quyền đánh ra, ý trung nhân của cô sẽ đứt hết gân cốt.
    Ân Tố Tố nói:
    - Tạ tiền bối, chúng tôi bằng lòng đi theo ông, ông thu chưởng lại đi.
    Tạ Tốn nói:
    - Trương tướng công, ngươi nghĩ sao?
    Trương Thúy Sơn càng thêm nóng ruột, trong bụng kêu thầm: ?Bắn ngân châm, bắn ngân châm, cái dịp may ngàn năm một thuở này, sao không bắt lấy??. Ân Tố Tố vội nói:
    - Tạ tiền bối mau thu chưởng lại đi, nếu không tôi sẽ thí mạng đó.
    Tạ Tốn kỳ thực cũng sợ Ân Tố Tố bất ngờ ra tay dùng ngân châm bắn lén, trong khoang thuyền chật hẹp, châm lại nhỏ bé, trong đêm tối bắn ra không hình không bóng, không tiếng động, không dễ gì tránh né, dù y có lập tức chưởng lực tống ra, đánh chết Trương Thúy Sơn, cũng không kịp. Y nghĩ thầm: ?Tiểu cô nương này kinh khiếp uy thế của ta, không dám xuất thủ, chứ trong tình cảnh này, có lẽ cả ba người cùng chết cả? bèn nói:
    - Nếu hai người không có ý khác, ta có thể tha mạng cho được.
    Ân Tố Tố đáp:
    - Không, chúng tôi không có ý khác đâu.
    Tạ Tốn nói:
    - Vậy cô thay y thề đi.
    Ân Tố Tố trầm ngâm, nói:
    - Trương ngũ ca, hai đứa mình không phải là địch thủ của Tạ tiền bối, thôi mình đi theo ông ta ra hoang đảo ở vài tháng, một năm. Bằng trí tuệ thông minh của ông ấy, việc tìm ra bí mật của thanh đao này không phải là khó, để em thay anh lập lời thề nhé.
    Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: ?Lập lời thề quỉ gì? Mau bắn kim châm, bắn kim châm đi?. Thế nhưng khổ nỗi chàng không thể mở miệng, trong đêm tối không cách gì ra hiệu cho nàng, huống chi cả hai tay đều dính chặt vào tay đối phương, có muốn ra hiệu cũng không được.
    Ân Tố Tố trước sau không nghe Trương Thúy Sơn nói một lời nào, nên nói:
    - Chúng tôi Ân Tố Tố và Trương Thúy Sơn quyết ý theo Tạ tiền bối sống trên hoang đảo cho đến khi tìm ra bí mật của đao Đồ Long mới thôi. Nếu hai người chúng tôi có dị tâm, xin chết dưới đao kiếm.
    Tạ Tốn cười:
    - Chúng ta là người học võ, chết dưới đao kiếm có gì là lạ đâu?
    Ân Tố Tố nghiến răng, đáp:
    - Được rồi, vậy thì tôi không sống đến hai mươi.
    Tạ Tốn cười ha hả, thu chưởng lực về.
    Trương Thúy Sơn toàn thân lực khí mất hết, ngã bịch xuống sàn thuyền. Ân Tố Tố vội vàng đánh lửa thắp đèn lên, thấy chàng mặt vàng như nghệ, hơi thở yếu ớt, trong lòng kinh hoảng, lấy vội chiếc khăn tay trong bọc ra, lau mồ hôi mặt mũi cho ý trung nhân.
    Tạ Tốn cười nói:
    - Đệ tử phái Võ Đương, quả thật danh bất hư truyền, giỏi thật là giỏi.
    Trương Thúy Sơn đang giận Ân Tố Tố làm mất cơ hội bằng vàng, không phát xạ ngân châm đả thương địch, nhưng thấy nàng nước mắt chạy quanh, mặt đầy lo lắng, quả thực đối với mình chí tình, trong lòng nổi lên mối cảm kích, thở dài một tiếng, toan nói vài lời trấn an, bỗng thấy mắt tối sầm, trong cơn mê man còn nghe loáng thoáng tiếng Ân Tố Tố kêu lên:
    - Họ Tạ kia, ngươi đánh chết Trương ngũ ca, ta quyết sống chết với ngươi.
    Tạ Tốn chỉ cười ha hả.
    Đột nhiên thân hình Trương Thúy Sơn chao qua một bên, lăn đi mấy vòng, rồi có tiếng Tạ Tốn, Ân Tố Tố cùng kêu lên thất thanh, trong tiếng người có lẫn tiếng gió rít lên vù vù, tiếng sóng ầm ầm, tưởng như hàng trăm, hàng nghìn làn sóng cùng đổ ập tới. Trương Thúy Sơn thấy toàn thân ướt đẫm, mồm mũi đầy nước mặn, đang mê man, bị nước lạnh tạt vào, lập tức tỉnh lại. Ý nghĩ đầu tiên đến với chàng là: ?Bộ đắm thuyền hay sao??. Chàng không biết bơi nên trong lòng hoảng hốt, vội vàng cố gắng đứng lên. Dưới chân ván thuyền chao qua bên trái, nước trong thuyền hắt cả ra ngoài, nhưng cuồng phong vẫn hú lên, chung quanh vẫn toàn là nước biển. Chàng chưa hiểu chuyện gì, bỗng nghe Tạ Tốn quát lên:
    - Trương Thúy Sơn, mau ra sau thuyền giữ tay lái.
    Câu đó tiếng vang vọng như sấm rền, tuy trong khi gió to sóng cả, vẫn đầy vẻ uy nghiêm. Trương Thúy Sơn không kịp suy nghĩ, nhảy ra sau thuyền, chỉ thấy thoáng một bóng đen bay lên, một thủy thủ đã bị hất ra ngoài biển khơi, xa đến mấy trượng, bị những làn sóng cuốn mất hút.
    Trương Thúy Sơn chưa đến được đầu thuyền, đã bị một làn sóng khác ập đến. Làn sóng đó chẳng khác gì một bức tường nước, chỉ nghe ầm một tiếng lớn đã cuốn văng hết những mảnh ván thuyền. Lúc này võ công một đời cần luyện của Trương Thúy Sơn mới có dịp dùng, hai chân bám chặt trên mặt thuyền chẳng khác gì đóng đinh vào ván, không lay chuyển chút nào. Đợi đến lúc sóng qua đi, chàng chuyển qua tiễn bộ đã tiến sát đuôi thuyền, giơ tay giữ chặt tay lái.
    ?Lại nghe những tiếng chí chát liên hồi, đó là Tạ Tốn dùng lang nha bổng quật ngang, đánh gãy cột buồm chính và cột buồm phía trước. Hai cột buồm đó mang theo hai cánh buồm rơi luôn xuống biển. Thế nhưng gió quá lớn, lúc này tuy chỉ còn cột buồm ở sau đuôi còn căng gió, thuyền cũng vẫn nghiêng qua ngả lại, trồi hụp quay cuồng trên mặt biển.
    Tạ Tốn cố hết sức để kéo tấm buồm đó xuống, thế nhưng dù thân mang tuyệt thế võ công, nhưng trước cái uy của đất trời, cũng đành bó tay. Chiếc buồm đó bị gió thổi qua, nghiêng đến đụng mặt nước, Tạ Tốn ngoạc mồm chửi:
    - Giặc trời già, thổi gió gì dữ vậy.
    Xem chừng nếu còn do dự, thuyền sẽ lật úp, y đành phải giơ lang nha bổng đánh gãy nốt cái cột buồm còn lại.
    Ba cái cột buồm đều gãy cả rồi, con thuyền này trong sóng to gió cả biến thành một hồn ma vô định, chỉ theo gió mà trôi. Trương Thúy Sơn kêu lớn:
    - Ân cô nương, cô đang ở đâu?
    Chàng kêu luôn mấy lần, không nghe tiếng trả lời, kêu đến lần sau cùng, trong thảm thiết dường như lẫn tiếng nghẹn ngào. Bỗng dưng từ đâu có một bàn tay vịn vào đầu gối chàng, rồi một ngọn sóng lớn ào qua đầu, trong khối nước biển có người ôm chặt lấy ngang lưng.
    Khi làn sóng đã qua khỏi mặt thuyền, người trong lòng chàng đưa tay níu cổ, êm ái nói:
    - Trương ngũ ca, anh nhớ em đến thế sao?
    Chính là tiếng của Ân Tố Tố. Trương Thúy Sơn mừng quá, tay phải giữ lái, đưa tay trái ra ôm chặt lấy nàng, thốt lên:
    - Tạ trời tạ đất.
    Trong lòng chàng vừa sợ vừa mừng, tự nhủ: ?Nàng đang ở bên cạnh ta đây, nàng không rơi xuống biển?. Trong thời khắc mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị sóng to gió cả vùi dập xuống biển khơi, sự sống và sự chết chỉ cách nhau gang tấc, Trương Thúy Sơn mới nhận ra rằng, sự quan hoài của chàng với Ân Tố Tố còn nhiều hơn an nguy của chính mình.
    Ân Tố Tố nói:
    - Trương ngũ ca, hai đứa mình chết chung với nhau.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Đúng thế, Tố Tố, hai đứa mình chết chung với nhau.
    Nếu ở vào cảnh ngộ thông thường, chính tà khác biệt, bao điều xa cách, dù có bụng yêu thương nhau, cũng không thể nào trong giây lát hai lòng như một. Vào lúc này hai người ôm chặt lấy nhau, chung quanh trời tối đen như mực, thân thuyền răng rắc không ngừng, bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ nát, nhưng trong lòng lại cực kỳ êm đềm, ngọt ngào, vui sướng. Trương Thúy Sơn đối chưởng với Tạ Tốn một phen, tinh lực hao tổn gần hết, nhưng giờ đây được cái ân tình ôn nhu của Ân Tố Tố kích động, tinh thần phấn chấn, dù cho bốn bề sóng to gió cả, chàng vẫn giữ vững tay lái, không hề dao động.
    Tất cả những thủy thủ câm điếc đã bị rơi xuống biển, mà cuồng phong bạo vũ cứ đến là đến, không hề có một dấu hiệu gì báo trước. Thì ra dưới đáy biển đột nhiên có động đất, lại thêm những dòng hải lưu kích động nên sinh giông bão, nếu Tạ Tốn và Trương Thúy Sơn không phải là những người mang hãn hữu võ công, làm sao chịu nổi. Cũng may chiếc thuyền này rất kiên cố, nên tuy nóc khoang, ván thuyền đã bị vỡ tan trôi mất, thân thuyền vẫn không sao.
    Trên đầu mây đen vẫn mù mịt, mưa xuống như trút, bốn bên sóng biển như những ngọn núi lớn, còn nói gì phân biệt đâu là đông tây nam bắc. Kỳ thực dù có biện được phương hướng, cột buồm đã gãy, họ cũng không sao lái được thuyền đi được.
    Tạ Tốn đi xuống phía sau, nói:
    - Trương huynh đệ, may là có ngươi. Thôi để ta lái thay, hai người vào khoang nghỉ một chốc.
    Trương Thúy Sơn đứng lên giao lại tay lái cho y, nắm tay Ân Tố Tố vừa định bước đi, bỗng một cơn sóng ở đâu ào tới, hất văng hai người ra ngoài. Ngọn sóng đó đến thật đột ngột, hai người không sao phòng bị kịp.
    Trương Thúy Sơn vừa cảm thấy kinh hoàng thân hình đã tung vọt lên không, lúc rơi xuống, dưới chân là sóng biển sâu tít rồi, chỉ còn kịp vung tay chộp lấy cổ tay Ân Tố Tố, trong lòng gợn lên một ý nghĩ : ?Mình sẽ cùng nàng chết trong lòng biển cả, bất khả phân ly?.
    Tay trái chàng vừa nắm được tay Ân Tố Tố, thì bỗng đâu tay phải có một sợi dây thừng quấn chặt, thân hình hai người bay bổng ngược lên, vượt qua đầu sóng, quay trở lại thuyền. Thì ra Tạ Tốn kịp thời phát giác, cầm ngay sợi dây buộc buồm ở dưới chân, tung ra cuốn hai người kéo về. Chỉ nghe hai tiếng bình bình, Trương Ân đã rơi phịch xuống ván thuyền. Phen này chết đi sống lại, thật ra ngoài dự liệu của hai người, Tạ Tốn cũng kêu lên:
    - May thật.
    Nếu dưới chân y không có sẵn sợi dây buồm, dù tài ba gấp mười cũng không sao cứu được.
    Trương Thúy Sơn đỡ Ân Tố Tố vào trong khoang, con thuyền lúc thì nhồi lên cao như trên đỉnh núi, lúc thì hụp xuống như rơi vào vực sâu, nhưng hai người vừa trải qua những giây phút nguy nan, không còn để ý tới cái cảnh trước mắt nữa. Ân Tố Tố nằm trong lòng Trương Thúy Sơn, ghé tai chàng nói:
    - Trương ngũ ca, nếu hai đứa mình không chết, em muốn được mãi mãi lúc nào cũng ở bên cạnh chàng.
    Trương Thúy Sơn tâm tình bồng bột, nói:
    - Anh cũng đang muốn nói với em như thế, khắp thế gian này, chân trời đáy biển, lúc nào hai đứa mình cũng ở bên nhau.
    Ân Tố Tố lòng mừng vô hạn, nhắc lại:
    - Khắp thế gian này, chân trời đáy biển, lúc nào hai đứa mình cũng ở bên nhau.
    Hai người má tựa vai kề, lòng thầm cảm tạ cơn giông bão định mệnh này. Thế nhưng về phần Tạ Tốn thì không ngớt kêu than, dù y võ công cao cường đến đâu, đối với mưa to gió lớn cũng không làm gì được, đành phải phó mặc cho trời, để đưa đâu thì đi, đến đâu thì đến.
    Cơn giông đó kéo dài đến hơn ba giờ mới từ từ giảm xuống. Mây đen trên trời cũng dần dần tan đi, lộ ra vầng trăng. Trương Thúy Sơn đến chỗ lái thuyền, nói:
    - Tạ tiền bối, đa tạ ông đã cứu mạng hai người chúng tôi.
    Tạ Tốn lạnh lùng đáp:
    - Câu nói đó e rằng còn quá sớm. Tính mạng ba người mình, chín phần mười còn nằm trong tay giặc trời già.
    Trong đời Trương Thúy Sơn, chàng chưa nghe ai lại thêm chữ ?giặc? vào hai tiếng ?trời già?, nghĩ thầm người này hận đời, đến mức chẳng còn úy kỵ gì nữa, nhưng chỉ nghĩ lại, con thuyền nhỏ bé này lênh đênh trên biển cả mênh mông, xem chừng chưa thấy hi vọng gì. Chàng và Ân Tố Tố hai người hết dạ thương yêu, càng thêm lưu luyến cõi đời, khác gì rượu ngon rót vào chén ngọc, lại bị người khác lấy mất. Cái cảnh ngộ ?con tạo hóa đành hanh quá ngán? này, với tiếng chửi ?giặc trời già? của Tạ Tốn kia xem ra lại càng thấm thía.
    Chàng thở dài một tiếng, tiếp lấy tay lái từ Tạ Tốn. Tạ Tốn cũng đã mệt nhọc hơn nửa ngày, liền vào trong khoang nằm nghỉ.
    Ân Tố Tố ngồi bên cạnh Trương Thúy Sơn, ngửng đầu nhìn sao, theo cái cán chòm Bắc Đẩu, kiếm được sao Bắc Cực. Chiếc thuyền thuận theo dòng hải lưu, đi về phương bắc. Nàng nói:
    - Ngũ ca, thuyền này không ngừng đi mãi về hướng bắc.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Đúng thế, tốt hơn hết phải quay ngược sang hướng tây, mình mới có hi vọng trở lại quê hương.
    Ân Tố Tố thừ người một hồi, nói:
    - Nếu như thuyền cứ đi mãi về hướng đông, không biết mình sẽ đến đâu.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Hướng đông là biển khơi vô tận, chỉ lênh đênh bảy tám ngày là mình hết nước uống ?
    Ân Tố Tố mới hưởng phong vị ái tình, như say như mơ, không muốn nghĩ đến cái khổ đau chết chóc, nói:
    - Nghe người ta nói rằng, biển đông có núi tiên, trên núi có các vị tiên trường sinh bất lão, không chừng mình sẽ đến được tiên đảo đó, gặp những tiên ông tiên bà hình dung đẹp đẽ ?
    Nàng ngửng đầu nhìn giải Ngân Hà, nói tiếp:
    - Không chừng thuyền cứ trôi mãi, đến được Ngân Hà, hai đứa mình sẽ thấy Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau trên cầu Ô Thước.
    Trương Thúy Sơn cười đáp:
    - Hai đứa mình sẽ tặng cho Ngưu Lang chiếc thuyền này, lúc nào y muốn gặp Chức Nữ, chỉ việc chèo thuyền qua sông, không phải đợi đến mồng bảy tháng bảy mỗi năm mới gặp được.
    Ân Tố Tố nói:
    - Mình đem thuyền cho Ngưu Lang, anh với em muốn gặp nhau, lấy gì mà đi?
    Trương Thúy Sơn cười:
    - Khắp thế gian này, chân trời đáy biển, lúc nào hai đứa mình cũng ở bên nhau. Nếu lúc nào cũng ở bên nhau rồi, còn việc gì mà phải qua Ngân Hà làm chi?
    Ân Tố Tố cũng phá lên cười, mặt nàng tươi như hoa mới nở, nắm tay Trương Thúy Sơn, mơn man vuốt ve. Hai người tình như mật ngọt, dường như trong bụng biết bao những điều ân ái muốn nói cùng nhau, nhưng lại thấy không cần phải nói nên lời. Một lúc lâu sau, Trương Thúy Sơn nhìn xuống, thấy Ân Tố Tố nước mắt doanh tròng, trên mặt vương vương một nỗi buồn, vội hỏi:
    - Em sao thế?
    Ân Tố Tố cúi đầu nói nhỏ:
    - Ở trên đời, nơi đáy biển, em được ở bên anh. Thế nhưng mai này mình chết đi, anh được lên trời, còn em ... em ... phải xuống địa ngục.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Lại nói lăng nói nhăng rồi.
    Ân Tố Tố thở dài:
    - Em biết chứ, trong đời em làm biết bao nhiêu điều ác, giết lung tung không kể ai với ai.
    Trương Thúy Sơn kinh hãi, ngầm hiểu nàng là người lòng dạ tàn ác, với mình thực không phải là mối lương duyên, nhưng tình yêu đã sâu đậm, lại thêm trong cảnh chín chết một sống giữa biển khơi, hai người đâu có nghĩ gì đến chuyện mai sau. Chàng an ủi nàng:
    - Từ nay trở đi em làm lành lánh dữ, tích thêm công đức cho dày vì người ta có câu: tri quá năng cải, thiện mạc đại yên.[3] Ân Tố Tố lặng thinh, một lúc sau, bỗng cất tiếng hát khúc ?Sơn Pha Dương[4]?:
    - Chàng với em, em với chàng, hai đằng thương nhớ nhau. Oan gia ơi, sao lại kết nên mối duyên này, để khi chết xuống trước Diêm Vương, ông ấy bỏ mình vào cối giã, lấy cưa cưa đầu, ném vào vạc dầu. Sống mà làm tội, chết đi mang gông. Lửa đốt lông mày, quay đầu lại đi. Lửa đốt lông mày, quay đầu lại đi.[5] Bỗng từ khoang thuyền vọng ra Tạ Tốn nói lớn:
    - Khúc hát hay lắm, hay lắm. Ân cô nương, so sánh cô với Trương tướng công giả nhân giả nghĩa kia, xem ra cô hợp ý tôi nhiều.
    Ân Tố Tố đáp:
    - Tiền bối và tôi đều là ác nhân, sau này thể nào cũng phải khổ.
    Trương Thúy Sơn nói nhỏ:
    - Nếu mai này em phải chịu khổ, anh cũng sẽ chịu khổ cùng với em.
    Ân Tố Tố vừa mừng vừa sợ, chỉ kêu lên được một tiếng:
    - Ngũ ca.
    Rồi không nói thêm được nữa.
    Hôm sau, khi trời mờ sáng, Tạ Tốn dùng lang nha bổng đánh được một con cá khoảng hơn mười cân. Đầu lang nha bổng có móc câu, dùng vào việc đánh cá thật là tiện lợi. Ba người đói đã hai ngày, tuy cá sống rất tanh, nhưng ăn vẫn thấy ngon lành. Trên thuyền không có nước uống, đành ép thịt cá lấy nước, tạm dùng cho đỡ khát.
    Dòng nước biển tiếp tục chảy về hướng bắc, đưa con thuyền không ngừng tiến lên. Ban đêm, sao Bắc Cực ở đầu thuyền lấp lánh, mặt trời mọc ở phía tay phải, lặn về phía bên trái. Liên tiếp mười ngày như thế, con thuyền tuyệt nhiên không chuyển hướng.
    Khí hậu mỗi ngày thêm lạnh, Tạ Tốn và Trương Thúy Sơn nội công thâm hậu, còn chịu được. Riêng Ân Tố Tố mỗi ngày thêm tiều tụy, Trương Tạ hai người đều cởi áo ngoài cho nàng mặc, nhưng cũng không đỡ được bao nhiêu. Trương Thúy Sơn thấy nàng gượng làm vui, cố gắng chịu đựng cái gió rét, trong lòng hết sức chua xót. Nếu con thuyền cứ tiếp tục đi thêm vài ngày nữa, Ân Tố Tố thể nào cũng chết cóng.
    Thế nhưng cũng may trời còn thương, một hôm thuyền lạc vào một bầy hải cẩu. Tạ Tốn dùng lang nha bổng đánh chết mấy con, ba người lột da khoác lên người, thành một tấm áo cừu rất tốt. Thịt hải cẩu cũng ăn được, ai nấy đều hết sức sung sướng.
    Chiều hôm đó, ba người ngồi ở sau thuyền ngắm trời. Ân Tố Tố cười hỏi:
    - Cầm thú nào tốt nhất trên đời?
    Cả ba cùng cười đáp:
    - Hải cẩu.
    Ngay lúc đó, bỗng nghe thấy mấy tiếng leng keng, loong coong, thật là thú vị. Ba người đều ngơ ngẩn, Tạ Tốn sắc mặt đại biến, nói:
    - Băng nổi.
    Y lấy lang nha bổng thọc xuống biển khoắng mấy cái, quả nhiên đụng phải những cục nước đá.
    Tới lúc này, trong lòng ba người bỗng thấy lạnh lẽo, biết rằng nếu con thuyền tiếp tục ngày đêm trôi về hướng bắc, trời mỗi lúc một lạnh thêm, bây giờ trên biển chỉ là những cục băng nhỏ, càng về sau băng càng nhiều hơn, càng lớn hơn, thuyền sẽ bị kẹt trong băng giá, không di động được, là lúc cả ba đều chết.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Trong thiên Tiêu Dao Du sách Trang Tử có câu: ?Tại cực bắc có biển tối, là chỗ ao trời[6]?. Chúng mình chắc sẽ tới ao trời chăng.
    Tạ Tốn nói:
    - Chẳng phải ?thiên trì? mà chính là ?minh hải?, ?tử hải? đó.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người nhìn nhau cười gượng. Đêm hôm đó, cả ba nghe tiếng băng chạm nhau leng keng không ngừng, chẳng ai ngủ được. Đến trưa hôm sau, những khối băng trên mặt biển đã bằng cái bát, đụng vào thuyền kêu lách cách. Tạ Tốn chua xót nói:
    - - Tôi si tâm vọng tưởng, muốn đi tìm cái bí mật trong thanh đao Đồ Long này, ngờ đâu lại đến băng hải, làm băng nhân , mai mối cho hai người, quả là danh với thực giống nhau.
    Ân Tố Tố mặt đỏ lên, đưa tay nắm lấy tay Trương Thúy Sơn.
    Tạ Tốn cầm thanh đao Đồ Long lên, hậm hực nói:
    - Thôi để ta cho mi xuống Long Cung, để mi giết con rồng bỏ mẹ nào ở dưới ấy.
    Y toan ném thanh đao xuống biển, nhưng vừa định buông tay, nghĩ sao lại thở dài, sau cùng ném thanh đao vào trong khoang.
    Thuyền đi lên hướng bắc thêm bốn ngày nữa, mặt biển đầy băng, có khối to bằng cái bàn, có cái bằng cái nhà nhỏ, ba người biết rằng tình thế không ổn, chẳng còn nghĩ đến chuyện sống chết nữa. Hôm đó, ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe bình một tiếng lớn, chiếc thuyền rung chuyển thật mạnh. Tạ Tốn kêu lên:
    - Hay lắm, được lắm, đụng phải băng sơn rồi.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người nhìn nhau cười buồn, lập tức xích lại gần nhau, thấy dưới chân nước biển lạnh buốt từ từ dâng lên ngập đến bắp chân, hiển nhiên đáy thuyền đã vỡ. Lại nghe Tạ Tốn kêu lớn:
    - Nhảy lên trên băng sơn đi, sống được thêm ngày nào tốt ngày nấy. Giặc trời già muốn ta chết sớm, ông không chịu xem mi làm gì được nào.
    Trương Ân hai người nhảy lên đầu thuyền, dưới ánh trăng một tòa băng sơn chiếu sáng xanh chói lòa, trông thật là đẹp, nhưng cũng thật đáng sợ. Tạ Tốn đã đứng trên một khối băng hình thoi bên cạnh băng sơn, đưa lang nha bổng cho hai người níu lấy. Ân Tố Tố giơ tay kéo một cái, hai người cùng nhảy lên băng sơn.
    Lỗ hổng dưới đáy thật lớn nên chỉ chừng xong một bữa cơm thuyền đã chìm xuống biển mất tăm mất tích. Tạ Tốn lấy hai mảnh da hải cẩu trải xuống mặt băng, ba người sóng vai ngồi xuống. Tòa băng sơn này to ước chừng bằng một ngọn núi nhỏ, nhìn ra mặt bằng ngang chừng hơn hai mươi trượng, dọc cũng tám chín trượng, so với mặt thuyền rộng rãi hơn nhiều. Tạ Tốn ngững đầu lên hú một tiếng, nói:
    - Ở trên thuyền buồn chán quá, thôi mình ra đây cho dãn gân dãn cốt.
    Nói xong y đứng dậy trên phiến băng đi qua đi lại, ra vẻ đắc ý lắm. Mặt băng tuy trơn trượt, nhưng Tạ Tốn túc bộ trầm ổn, đi chẳng khác gì trên đất liền.
    Băng sơn theo dòng nước chiều gió, vẫn không ngừng trôi về hướng bắc. Tạ Tốn cười nói:
    - Giặc trời già đem tới một chiếc thuyền lớn đón ba người mình đi gặp Bắc Cực tiên ông đây mà.
    Ân Tố Tố hình như chỉ cần có tình lang bên cạnh là đã thỏa mãn lắm nên dù có trời sập nàng cũng không màng. Trong ba người chỉ có Trương Thúy Sơn nhíu mày, lo lắng chuyện nguy nan trước mắt thôi.
    Băng sơn tiếp tục trôi thêm bảy tám ngày nữa. Ban ngày nước đá phản xạ ánh sáng mặt trời khiến da ba người bị cháy nắng, mắt cũng sưng đỏ. Thành ra ban ngày ba người lấy miếng da che đầu nằm ngủ, đến chiều tối mới dậy bắt cá, săn hải cẩu. Nói ra cũng lạ, càng về hướng bắc, ngày càng dài ra, đến sau mỗi ngày dường như mười một tiếng là ngày, đêm tối chỉ chừng một canh.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố càng lúc càng uể oải, mặt mày tiều tụy, còn Tạ Tốn thần sắc mỗi ngày một khác thường, mắt lộ quang thái kỳ lạ, thường hoa tay múa chân chỉ trời chửi mắng, những lời oán độc trong lòng không còn ức chế được nữa.
    Một buổi chiều, Trương Thúy Sơn đang che mảnh da hải cẩu tựa vào băng nằm ngủ, mơ mơ màng màng bỗng nghe Ân Tố Tố kêu lớn:
    - Buông tôi ra, buông tôi ra.
    Trương Thúy Sơn vội vàng nhỏm dậy, dưới ánh sáng huy hoàng của băng sơn, Tạ Tốn đang hai tay nắm chặt đầu vai Ân Tố Tố, miệng hà hà, tiếng như mãnh thú. Mấy hôm nay Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn thần tình cổ quái, đã ngầm đề phòng, nhưng không ngờ y lại xâm phạm Ân Tố Tố. Chàng không khỏi vừa sợ vừa tức, tung mình nhảy tới, kêu lên:
    - Bỏ tay ra.
    Tạ Tốn lầm lì đáp:
    - Tên gian tặc kia, ngươi giết chết vợ ta, được rồi, hôm nay ta bóp chết vợ ngươi, cho ngươi một thân một mình sống nơi trần thế.
    Nói xong y đưa tay trái cấu vào yết hầu Ân Tố Tố. Ân Tố Tố ?A? một tiếng, kêu lên thất thanh. Trương Thúy Sơn kinh hãi nói:
    - Tôi đâu phải cừu nhân của ông, đâu có giết vợ ông. Tạ tiền bối, mau tỉnh lại, tôi là Trương Thúy Sơn của phái Võ Đương, đâu phải kẻ thù của ông đâu.
    Tạ Tốn ngẩn người, kêu lên:
    - Thế mụ này là ai? Có phải vợ ngươi không?
    Trương Thúy Sơn thấy y nắm chặt Ân Tố Tố, nóng lòng vội nói:
    - Đó là Ân cô nương, Tạ tiền bối, cô ấy đâu phải là vợ của kẻ thù ông đâu.
    Tạ Tốn gầm lên:
    - Ta cóc cần biết là ai với ai. Vợ ta bị người ta giết chết, mẹ ta bị người ta giết chết, ta muốn giết hết đàn bà con gái trên đời này.
    Nói rồi tay trái sử kình, Ân Tố Tố ngộp thở, không còn kêu lên được nữa. Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn đột nhiên hóa điên, không còn cách gì nói năng phải quấy, vội vàng ngưng khí lên tay phải, hết sức đánh vào sau lưng y. Tạ Tốn đưa tay trái ra sau, đánh lại một chưởng. Trương Thúy Sơn loạng choạng, mặt băng lại quá trơn, nên ngã lăn ra. Tạ Tốn phóng chân phải ra, nhắm ngay eo chàng đá tới. Trương Thúy Sơn biến chiêu thật nhanh, tay đẩy một cái người phóng vọt lên, giơ ngón tay điểm huyệt đạo trên đầu gối y. Tạ Tốn không đợi sử hết cú đá, nửa đường giựt ngược về, tay phải đánh xuống đỉnh đầu Trương Thúy Sơn.
    Ân Tố Tố nghiêng người, vung tay trái ra chém xuống đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn không thèm để ý, tiếp tục đánh xuống. Trương Thúy Sơn song chưởng đưa ra đỡ một chưởng của y, nhưng chỉ giây lát, thấy tức ngực, chân khí dường như không vận lên nổi. Ân Tố Tố chém vào cổ Tạ Tốn, chỉ thấy cổ y vừa dai vừa cứng, tay nàng bị dội trở ra, cạnh bàn tay lại tê dại đau điếng. Tạ Tốn hai mắt đỏ ngầu như muốn tóe lửa, bàn tay to lớn của y lại thò ra chộp vào yết hầu nàng, Ân Tố Tố kêu lên kinh hãi.
    Ngay lúc đó, trước mắt bỗng sáng lòa, phương bắc hiện ra một khung cảnh màu sắc kỳ dị không sao tả được. Không biết bao nhiêu màu sắc, trong bóng đêm khi vươn ra khi thu vào, trong ánh vàng có lẫn màu tím đỏ. Màu tím càng lúc càng dài ra, trong màu tía có những tia sáng vàng, lam, lục, hồng. Tạ Tốn ngạc nhiên kêu ?Ồ? một tiếng, tay lỏng ra buông rơi Ân Tố Tố. Trương Thúy Sơn cũng thấy sức ép trên tay nhẹ hẳn đi.
    Tạ Tốn hai tay chắp sau lưng, đi về hướng bắc của băng sơn, đăm đăm nhìn ánh sáng kỳ ảo. Thì ra ba người theo nước trôi đi, đên đây đã gần Bắc Cực, ánh sáng lạ lùng đó chính là một cảnh sắc kỳ diệu gọi là Bắc Cực quang[7], người Trung Hoa trước nay chưa thấy bao giờ.
    Trương Thúy Sơn chạy tới đỡ Ân Tố Tố, hai người tim đập thình thình. Hôm đó, Tạ Tốn đứng ngắm Bắc Cực kỳ quang, không động tĩnh gì nữa. Sáng hôm sau, quang thái nhạt dần, Tạ Tốn cũng tỉnh lại, không hiểu sao quên hết việc mình phát điên đêm hôm qua, ngôn ngữ cử chỉ lại thật nho nhã.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đều nghĩ: ?Cha mẹ vợ con y đều bị người ta giết chết, không trách y được. Có điều không biết kẻ thù của y là ai??. Lại sợ bệnh điên của y tái phát, hai người không dám đề cập đến.
    Lại thêm mấy ngày nữa, băng sơn vẫn trôi về hướng bắc. Tạ Tốn lại bắt đầu mắng chửi trời già, đôi lúc mắt y lại tóe ra những tia sáng lấp lánh chẳng khác gì một con mãnh thú. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố tuy cả hai không đề cập tới, nhưng đều chuẩn bị ngầm, e rằng y lại đột nhiên phát điên.
    ?Một hôm kia, mặt trời đỏ rực dừng lại tại mặt nước phía tây, hồi lâu không lặn xuống biển. Tạ Tốn bỗng nhảy lên, chỉ vào vầng thái dương lớn tiếng mắng chửi:
    - Cả cái mặt trời kia ngươi cũng chọc tức ta, tặc thái dương, quỉ thái dương, ta mà có cái cung cứng, một mũi tên dài, hừ hừ, bắn một cái là xuyên qua ngươi.
    Y đột nhiên đánh mạnh vào băng sơn, vỡ một khối nước đá lớn, dùng sức ném về phía mặt trời. Miếng băng phóng ra phải đến hai chục trượng mới rơi tòm xuống biển. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người kinh hãi, nghĩ thầm: ?Cánh tay người này mạnh thật, giá như mình, e rằng ném không xa tới một nửa?.
    Tạ Tốn ném khối đá xong, lại ném khối khác, tổng cộng đến sáu bảy chục miếng, kình lực vẫn không suy giảm. Y ném tới ném lui, dường như không biết mặt trời cách xa bao nhiêu. Y lại nhảy lên đá tung vào băng sơn, khiến cho đá vụn văng tứ tán.
    Ân Tố Tố khuyên:
    - Tạ tiền bối, ông nghỉ ngơi đã, đừng để ý đến quỉ thái dương làm gì.
    Tạ Tốn quay đầu lại, mắt đầy tia máu đỏ ngầu, ngơ ngẩn nhìn nàng. Ân Tố Tố trong lòng sợ hãi, gượng nở một nụ cười. Tạ Tốn đột nhiên kêu lên một tiếng, nhảy tới ôm chặt lấy nàng, kêu lên:
    - Ta giết ngươi, ta giết ngươi. Sao ngươi lại giết mẹ ta, giết con ta?
    Ân Tố Tố thấy mình như bị nhốt trong một cái lồng sắt, có điều cái lồng đó dần dần xiết lại.
    Trương Thúy Sơn nắm lấy cánh tay Tạ Tốn cố gỡ ra, nhưng không nhúc nhích chút nào. Trước mắt thấy Ân Tố Tố lè lưỡi, tưởng như hết thở, chàng liền giơ chưởng hết sức bình sinh đánh vào huyệt Thần Đạo trên lưng y, nghe bùng một tiếng. Nào ngờ chưởng đánh vào như trúng sắt đá, Tạ Tốn vẫn hà hà rống lên như dã thú, hai tay càng xiết chặt thêm. Trương Thúy Sơn quát lên:
    - Nếu ngươi không buông ra, ta dùng binh khí đó.
    ?Thấy y không lý gì đến, chàng lấy phán quan bút ra, điểm mạnh vào huyệt Tiểu Hải trên khuỷu tay trái. Tạ Tốn tay phải vung ngược lại, chộp được phán quan bút, ném vèo vào trong biển cả.
    Ân Tố Tố thấy vòng tay y lỏng ra, liền hụp xuống chui ra ngoài. Tạ Tốn tả chưởng đánh xéo vào cổ Trương Thúy Sơn, tay phải giơ ra chộp vào đầu vai Ân Tố Tố. Nghe rẹt một cái, chiếc áo da hải cẩu của Ân Tố Tố bị năm ngón tay y cào rách một đường. Trương Thúy Sơn biết rằng nếu mình né qua, Ân Tố Tố thể nào cũng sẽ bị y bắt lại, lập tức sử chiêu ?Tự Tại Phi Hoa? trong Miên Chưởng chế ngự chưởng lực của y. Nào ngờ bàn tay chàng và cạnh bàn tay y vừa đụng nhau, lập tức cảm thấy một sức hút cực mạnh gỡ ra không được, chỉ còn cách vận nội công lên chống đỡ.
    Tạ Tốn một chưởng đã chế ngự được Trương Thúy Sơn liền lập tức lôi chàng chồm về phía Ân Tố Tố. Ân Tố Tố tung mình nhảy lên, hai chân chưa chạm đất, Tạ Tốn liền đá một cái, bảy tám miếng băng nhỏ bay vèo tới, trúng cả vào đùi bên phải của nàng. Ân Tố Tố chỉ kịp kêu lên một tiếng: ?Ối chà? rồi ngã lăn ra.
    Tạ Tốn đột nhiên phát xuất chưởng lực, đánh Trương Thúy Sơn văng ra xa mấy trượng. Chưởng đó thực là mãnh liệt, Trương Thúy Sơn rơi xuống ngay mép của băng sơn, nước đá lại trơn, chân phải chàng trượt một cái, nghe tõm một tiếng, lăn tòm xuống biển.
    [1] Ca dao Việt Nam [2] Đỡ ngang xà vàng [3] Biết điều sai mà sửa, là làm một điều thiện lớn [4] Con dê trên triền núi [5] Bài này có lẽ là một loại dân ca, người dịch cũng không hiểu rõ lắm, dịch theo nghĩa đen mà thôi.
    [6] Cùng phát chi bắc hữu minh hải giả, thiên trì dã.
    [7] aurora borealis
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 18:33:18 | Chỉ xem của tác giả
THÙY TỐNG BĂNG KHẢ LAI TIÊN HƯƠNG

    Trời xanh se một chữ duyên, Thiên Thai trước mặt, Đào Nguyên trong lòng.
    Theo chàng phận gái chữ tòng, Nguyện rằng sống chết sẽ cùng bên nhau.


    Trương Thúy Sơn tay trái vung ngân câu ra, móc vào băng sơn, mượn sức nhảy về, nghĩ bụng Ân Tố Tố ắt đã bị rơi vào tay Tạ Tốn, không ngờ dưới ánh trăng lạnh, chỉ thấy Tạ Tốn hai tay ôm mắt, rên rỉ còn Ân Tố Tố đang nằm phục trên mặt băng.
    Trương Thúy Sơn vội chạy tới đỡ nàng dậy, Ân Tố Tố nói nhỏ:
    - Em ? em bắn trúng mắt y ?
    Câu nói chưa dứt, Tạ Tốn rống lên một tiếng, xông lại. Trương Thúy Sơn ôm lấy Ân Tố Tố cùng lăn luôn mấy vòng, tránh ra chỗ khác, bỗng nghe thấy tiếng ầm ầm vang dội, Tạ Tốn đang giơ lang nha bổng đánh vào băng sơn. Y vứt lang nha bổng xuống, hai tay nâng một khối băng lớn ước chừng hơn trăm cân, nghiêng đầu nghe ngóng, rồi ném về phía Trương Ân hai người.
    Ân Tố Tố muốn đứng lên chạy trốn, nhưng Trương Thúy Sơn đã đẩy lưng nàng, hai người cùng núp vào một cái hốc nước đá, không dám thở mạnh. Tạ Tốn ném khối băng xong, đứng yên không động đậy, cố tìm nơi hai người ẩn náu. Trương Thúy Sơn thấy mắt y chảy hai dòng máu tươi, biết rằng Ân Tố Tố trong khi nguy cấp đã bắn ngân châm, Tạ Tốn lúc đó thần trí hôn mê không kịp đề phòng, hai mắt trúng kim thành mù.
    Thế nhưng thính giác y cực kỳ linh mẫn, chỉ cần một tiếng động nhỏ, cũng đủ khiến y chồm tới, hậu quả ra sao thật khó lường. Cũng may trên biển còn có sóng ỳ ầm, gió lại mạnh, thêm băng đá chạm nhau leng keng, nên hơi thở của hai người bị át hết, nếu không khó mà thoát khỏi độc thủ của y.
    Tạ Tốn nghe ngóng một hồi, trong tiếng sóng, tiếng gió, tiếng băng chạm nhau không tìm được chỗ hai người đang trốn, nhưng hai mắt đau nhức, trước mắt chỉ một màu tối đen, vừa giận dữ vừa sợ hãi, dậm chân kêu hú một tiếng, tay đánh chân đá hỗn loạn vào băng sơn, rồi cầm các tảng băng ném ra tứ tán, nghe bình bình liên thanh, vang vọng bất tuyệt. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố hai người nép vào với nhau, sợ mặt cắt không còn hột máu, trên đầu vô số cục băng bay vèo vèo, chỉ trúng một mảnh thôi cũng đủ táng mạng.
    Trận ném đá của Tạ Tốn tuy chỉ chừng nửa giờ nhưng Trương Ân hai người tưởng chừng kéo dài một năm. Tạ Tốn ném băng không hiệu quả, bỗng dưng ngừng tay, ôn tồn nói:
    - Trương tướng công, Ân cô nương, tôi nhất thời hồ đồ, bệnh điên phát tác, khiến cho mạo phạm, xin hai vị tha lỗi cho.
    Câu đó thật là khiêm hòa, lễ độ trở lại thần thái bình thường của y. Y nói xong, ngồi trên phiến băng, chờ hai người lên tiếng.
    Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố trong tình cảnh này, đâu dám trả lời. Tạ Tốn nói mấy lần, không thấy hai người đáp lại, liền đứng thẳng lên, thở dài một tiếng, nói:
    - Hai vị nếu không tha thứ , tôi không còn cách nào khác.
    Nói xong y hít mạnh một hơi. Trương Thúy Sơn bỗng giật mình, nhớ lại lúc y cất tiếng hú tại Vương Bàn Sơn đảo làm mọi người ngã gục, trước khi ra tay cũng thở mạnh một hơi như thế này. Hai mắt y tuy mù, tiếng hú chế ngự địch của y nào có gì khác. Lúc này nguy cơ đến ngay tức thì, muốn xé áo nhét kín hai tai, cũng đã muộn. Chàng không kịp nghĩ ngợi, vội ôm Ân Tố Tố nhảy ùm xuống bể.
    Ân Tố Tố chưa rõ việc gì, tiếng hú của Tạ Tốn đã cất lên. Trương Thúy Sơn ôm nàng vội vàng lặn xuống, nước lạnh thấu xương ngập hết cả đầu, nên cũng che kín luôn tai. Tay trái Trương Thúy Sơn cầm ngân câu móc vào băng sơn, tay phải chàng ôm Ân Tố Tố, trừ bàn tay trái thò ra ngoài, toàn thân hai người đều chìm dưới nước. Tuy vậy hai người vẫn nghe văng vẳng tiếng hú của Tạ Tốn.
    Băng sơn vẫn tiếp tục trôi về hướng bắc, mang theo cả hai người ở bên dưới. Trương Thúy Sơn thấy mình vẫn còn may, nếu như không mất bút thép mà lại mất ngân câu, dẫu hai người có chạy khỏi tiếng hú của Tạ Tốn, thì cũng chết đuối trong biển cả.
    Lâu lâu một lần, hai người thò miệng ra ngoài mặt nước, hít một hơi, nhưng hai tai vẫn chìm trong nước, sáu bảy phen như thế, tiếng hú của Tạ Tốn mới ngừng. Mỗi lần hú nội lực tiêu hao rất nhiều, nên y thấy uể oải, không còn hơi sức đâu mà tìm xem Trương Ân chết hay sống, chỉ còn ngồi xuống dưới mặt băng ám điều nội tức. Trương Thúy Sơn giơ tay ra hiệu, hai người lặng lẽ trồi lên băng sơn, nhổ ít lông hải cẩu trên mảnh da thú, nhét chặt vào trong tai, cốt mong sao qua được cơn kiếp nạn.
    Trương Ân biết rằng nếu còn ở chung với y trên cùng một băng sơn, chỉ cần một tiếng động nhỏ, lập tức đại họa đến ngay. Hai người mặt mày đăm chiêu, nhìn về hướng tây thấy mặt trời đỏ như máu vẫn chưa chìm xuống dưới mặt biển. Họ đâu biết vùng này gần kề Bắc Cực, thời tiết hoàn toàn thay đổi, nơi đây sáu tháng là ngày liên tiếp, còn sáu tháng kia là đêm tối vô cùng, chỉ thấy mọi sự đều quái dị, nghĩ mình đã đến nơi tận cùng của thế giới.
    Ân Tố Tố toàn thân ướt đẫm, lạnh buốt thấu xương, chịu không nổi run lên cầm cập, hai hàm răng đánh vào nhau kêu lách cách. Tạ Tốn dĩ nhiên nghe thấy, y lập tức rống lên, cầm lang nha bổng đánh xuống. Trương Ân đã phòng bị, nhảy qua tránh né, nghe bình một tiếng, bổng đã đánh vào băng sơn. Lực đạo cú đánh đó phải ít nhất bảy tám trăm cân làm vỡ bảy tám miếng lớn, văng cả xuống biển.
    Hai người nhìn nhau kinh hãi, thấy Tạ Tốn vũ động lang nha bổng thành hàng nghìn đạo ngân quang, từ từ ép tới. Cái lang nha bổng đó dài đã hơn một trượng, bây giờ múa lên, uy lực bao trùm phải bốn năm trượng chung quanh, hai người tuy nhảy nhót đã nhanh, nhưng cũng không thể nào chạy thoát, chỉ cón cách liên tiếp lùi về sau, lùi một hồi đã đến mép của băng sơn.
    Ân Tố Tố kinh hãi kêu lên:
    - - Ối chà Trương Thúy Sơn cầm lấy tay nàng, hai chân nhún một cái, nhảy vọt luôn xuống biển. Hai người còn đang ở trên không, nghe thấy tiếng bình bình thật lớn, những mảnh băng đã bắn tới sau lưng, một số mảnh văng trúng nên cảm thấy hơi đau. Trương Thúy Sơn khi nhảy đã nhắm một khối băng to bằng cái bàn, tay trái vung ngân câu ra, móc luôn vào đó. Tạ Tốn nghe thấy tiếng hai người rơi xuống biển, dùng lang nha bổng đánh vỡ băng, cầm ném theo. Nhưng hai mắt y đã mù, Trương Ân hai người trên biển liên tiếp bơi đi, miếng đầu không trúng, những miếng sau cũng đều ra ngoài cả.
    Băng sơn trên biển phần trồi lên chỉ là một phần nhỏ của toàn khối, dưới nước là một băng thể thật lớn. Miếng băng Trương Ân hai người nằm phục trên đó là một mảnh băng do Tạ Tốn đánh vỡ ra, nhỏ chưa bằng một phần nghìn của băng sơn, vì thế theo dòng thủy lưu trôi thật nhanh, càng lúc càng xa núi băng nơi Tạ Tốn đang đứng. Đến chiều tối, quay đầu nhìn lại, thân hình Tạ Tốn chỉ còn là một cái chấm nhỏ, còn đại băng sơn vẫn lấp lánh phát quang.
    Hai người bám được khối băng này chỉ cốt không bị chìm, nhưng thân mình ở dưới nước không thể nào chịu được lâu. May thay trên đường trôi về phương bắc, họ lại thấy một khối băng sơn nho nhỏ xuất hiện, hai người vội vàng bơi đến gần bám vào leo lên.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Cứ nói là trời không đưa mình vào tuyệt lộ, nhưng sao mình phải chịu biết bao nhiêu khổ sở, em cảm thấy thế nào?
    Ân Tố Tố nói:
    - Tiếc là mình không mang theo được chút thịt hải cẩu nào, anh không bị thương chứ?
    Hai người nói mà như cho mình nghe, chẳng hiểu bên kia nói gì, chợt hiểu ra vội móc lông hải cẩu trong tai. Thì ra họ ra sức đào thoát, quên cả hai tai vẫn còn bịt chặt.
    Hai người thoát được đại nạn, nhu tình trong lòng lại càng tăng lên mãnh liệt. Trương Thúy Sơn nói:
    - Tố Tố, hai đứa mình có chết trên núi băng đó, cũng là vĩnh bất phân ly rồi.
    Ân Tố Tố đáp:
    - Ngũ ca, em có câu muốn hỏi, anh nói thật với em nhé. Ví như hai đứa mình còn ở trên đất liền, không trải qua những nguy nan như bây giờ, nếu em vẫn nhất tâm nhất ý muốn lấy anh, anh có bằng lòng lấy em không?
    Trương Thúy Sơn ngẩn người, giơ tay gãi đầu, nói:
    - Anh nghĩ rằng mình có lẽ không thân nhau sớm đến thế đâu, lại thêm ? lại thêm ? nhất định sẽ có rất nhiều trở ngại, gian lao, hai đứa môn phái không đồng ?
    Ân Tố Tố thở dài, nói:
    - Em cũng đã nghĩ như thế. Cho nên hôm anh cùng Tạ Tốn đấu chưởng, mấy lần em định phát xạ ngân trâm trợ lực, nhưng ngần ngừ mãi vẫn không xuất thủ.
    Trương Thúy Sơn lạ lùng nói:
    - Thế ư, thế là tại sao? Anh lại tưởng em trong đêm tối nhìn không rõ, sợ lỡ trúng anh.
    Ân Tố Tố hạ giọng:
    - Không phải đâu. Nếu lúc đó đả thương được y, hai đứa mình trở về lục địa, em sợ anh sẽ không ở bên em nữa.
    Trương Thúy Sơn trong lòng bồi hồi, kêu lên:
    - Tố Tố.
    Ân Tố Tố nói tiếp:
    - Có thể anh sẽ giận em nhưng lúc đó em chỉ mong được mãi mãi bên anh, hai đứa đến một cái hoang đảo, sống với nhau. Tạ Tốn ép bọn mình đi theo y, chính hợp với tâm nguyện của em.
    Trương Thúy Sơn không ngờ nàng lại yêu thương mình sâu đậm đến thế, cảm kích vô hạn, dịu giọng nói:
    - Anh không giận em đâu, trái lại còn thương em hơn vì em đối với anh chân tình như thế.
    Ân Tố Tố ngả đầu vào ngực Trương Thúy Sơn, ngước lên nhìn vào mắt chàng, nói:
    - Ông trời đưa mình đến nơi địa ngục băng giá này, em không những không oán giận, lại càng vui sướng. Em chỉ mong băng sơn này không quay về nam, ồ, nếu có ngày hai đứa mình về lại trung nguyên, sư phụ anh chắc ghét em lắm, còn cha em không chừng lại muốn giết anh ?
    Trương Thúy Sơn ngạc nhiên:
    - Cha em?
    Ân Tố Tố đáp:
    - Cha em là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, tức là giáo chủ sáng lập ra Thiên Ưng giáo.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Ồ, thì ra là thế. Nhưng không lo, anh và em sẽ đi với nhau, cha em có hung dữ cách mấy, cũng không đến nỗi giết chàng rể của mình.
    Ân Tố Tố đôi mắt sáng lên, hai má đỏ bừng, nói:
    - Anh nói thế có thật lòng không?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Hai đứa mình kết thành vợ chồng nhé.
    Hai người lập tức cùng quì xuống ngay trên băng sơn. Trương Thúy Sơn cao giọng nói:
    - Hoàng thiên ở trên, đệ tử là Trương Thúy Sơn hôm nay cùng Ân Tố Tố kết thành vợ chồng, họa phúc cùng chung, trước sau thề không bao giờ phụ bạc nhau.
    Ân Tố Tố cũng kính cẩn khấn nguyện:
    - Xin trời phù hộ, cho hai đứa con được sống mãi mãi bên nhau là vợ chồng.
    Ngừng lại một chút, nàng tiếp:
    - Nếu sau này được về lại trung nguyên, tiểu nữ sẽ cải tà qui chánh, sám hối tội đã qua, theo phu quân làm điều thiện, quyết không giết ai nữa. Nếu vi lời thề, xin trời lẫn người cùng tru diệt.
    Trương Thúy Sơn mừng lắm, không ngờ nàng lại thề nguyền như thế, nên vòng tay qua ôm lấy Ân Tố Tố. Hai người tuy bị nước biển làm ướt đẫm, nhưng trong lòng ấm áp phơi phới như gió xuân.
    Một lúc lâu sau, cả hai mới nhớ ra là ngày hôm nay chưa ăn gì. Trương Thúy Sơn cầm ngân câu đứng rình tại mép băng sơn, đợi cá bơi gần mặt nước thì móc lên. Cá ở nơi đây vì phải chống lạnh nên thịt dày, nhiều mỡ, tuy ăn sống hơi tanh, nhưng ăn vào tăng khí lực rất nhiều.
    Hai người ở trên băng sơn, không có hi vọng gì quay về Trung Thổ, nhưng cũng không lo không buồn. Bây giờ ngày rất dài mà đêm rất ngắn, thực không bình thường, nên không có cách gì tính toàn thời khắc, cũng chẳng biết mặt trời mọc hay lặn bao nhiêu lần.
    Một hôm, Ân Tố Tố trông thấy ngay chính hướng bắc có một cột khói bốc lên, sợ hãi mất vía, kêu lên:
    - Ngũ ca.
    Giơ tay chỉ cột khói đen. Trương Thúy Sơn nửa mừng nửa lo, nói:
    - Không lẽ nơi đây cũng có người?
    Tuy hai người nhìn thấy khói bay lên, nhưng thực ra còn cách xa lắm. Băng sơn tiếp tục trôi thêm một ngày nữa, vẫn chưa đến gần, nhưng khói đen bốc lên càng lúc càng cao, đến sau trông thấy trong đám khói có thấp thoáng ánh lửa.
    Ân Tố Tố hỏi:
    - Cái gì đây thế?
    Trương Thúy Sơn lắc đầu không trả lời. Ân Tố Tố run run nói:
    - Thôi hai đứa mình chắc sắp hết kiếp rồi. Đây là ? là cửa địa ngục đó.
    Trương Thúy Sơn trong lòng cũng sợ hãi, nhưng cố trấn an nàng:
    - Rất có thể nơi đây có người ở, chắc đang đốt lửa trên núi.
    Ân Tố Tố nói:
    - Đốt củi sao ngọn lửa bốc lên cao thế?
    Trương Thúy Sơn thở dài, nói:
    - Thôi mình đã đến đây, mọi sự run rủi do trời sắp định. Trời không muốn mình chết rét, lại muốn mình chết thiêu, thì cũng vui vẻ mà chịu.
    Nói ra thật lạ, băng sơn hai người đang ở, lại cứ thẳng ngọn lửa mà trôi tới. Trương Ân hai người không hiểu rõ nguyên do, chỉ tin là do trời sắp xếp, dù họa hay phúc, thôi đành chiều theo số mệnh. Họ có biết đâu cột lửa kia là một ngọn hỏa sơn gần Bắc Cực đang hoạt động, lửa phun ra, làm cho nước biển chung quanh nóng lên. Nước nóng chảy về phía nam, dĩ nhiên cuốn các băng sơn từ phương nam lại thế chỗ, vì thế núi băng trôi đến càng lúc càng gần.
    Băng sơn trôi thêm một ngày một đêm nữa thì đến dưới chân núi lửa, chung quanh là một vùng cây cối xanh tươi rộng mênh mông, thì ra là một hòn đảo thật lớn. Phía tây hòn đảo là vách đá và những ngọn núi, hình thù quái dị, Trương Thúy Sơn đã đi gần khắp một nửa trung nguyên mà cũng chưa thấy bao giờ. Hai người có biết đâu đây là hỏa sơn, những ngọn núi này đều là phún xuất thạch muôn vạn năm tích lại kết thành. Phía đông là một bình nguyên rộng không biết đâu là bờ là bến, do bụi núi lửa rơi xuống, lấp biển mà nên. Vùng này tuy gần ngay Bắc Cực, nhưng nhò có hỏa sơn hoạt động từ xưa không tắt, trên đảo khí hậu vì thế cũng giống như dẫy núi Trường Bạch hay Hắc Long giang. Trên núi cao có băng tuyết nhưng dưới đồng bằng thì cây cối xanh tươi, tùng xanh bách biếc, cao lớn dị thường, lại có đủ loại kỳ hoa dị thảo mà Trung Quốc không có.
    Ân Tố Tố đứng ngắm một hồi lâu, đột nhiên nhảy lên, hai tay ôm cổ Trương Thúy Sơn nói:
    - Ngũ ca, hai đứa mình đến núi tiên rồi.
    Trương Thúy Sơn trong lòng cũng hết sức vui sướng, ngơ ngơ ngẩn ngẩn không nói nên lời. Lại thấy trên cánh đồng, một bầy mai hoa lộc cúi đầu ăn cỏ. Chàng nhìn bốn bề, ngoài ngọn núi lửa kia ra, tất cả đều yên tĩnh không có gì đáng sợ.
    Thế nhưng băng sơn trôi đến gần đảo, bị nước ấm đẩy ra nên lại trôi ra ngoài. Ân Tố Tố vội kêu:
    - Chao ôi, chao ôi, đảo tiên lại đi xa rồi.
    Trương Thúy Sơn thấy tình hình không xong, nếu không lên đảo, băng sơn sẽ tiếp tục trôi ra ngoài, biết bao giờ mới ngừng. Trong tình hình nguy cấp, chàng vừa chưởng, vừa câu đánh ra, nghe ầm một tiếng đánh vỡ ngay một mảnh băng lớn. Hai người ôm lấy tảng băng, nhảy tòm ngay xuống biển, tay chân quạt mạnh, một hồi sau đã lên được đất liền.
    Bầy mai hoa lộc thấy có người đến, giương mắt nhìn, có vẻ hiếu kỳ, nhưng không sợ hãi. Ân Tố Tố rón rén đến gần một con, giơ tay vuốt lưng nó mấy cái, nói:
    - Giá có thêm vài con hạc, em nghĩ đây hẳn là Nam Cực tiên cảnh rồi.
    Bỗng mặt đất rung rinh, nàng ngã lăn ra. Trương Thúy Sơn kinh hoảng kêu lên:
    - Tố Tố.
    Chàng vội chạy lại đỡ nàng lên, nhưng mặt đất vẫn lay động, đứng không vững. Chỉ nghe thấy những tiếng ầm ầm, mặt đất rung chuyển, thì ra hỏa sơn lại phun lửa. Hai người ở trên mặt biển trôi nổi mấy mươi ngày, sóng nhồi lên nhồi xuống suốt ngày đêm, nay vừa lên bờ, dưới chân vẫn còn bồng bềnh, mặt đất vừa rung động đã ngã nhào xuống.
    Hai người kinh hoảng nhưng không thấy gì xảy ra, mới cùng cười hì hì đứng dậy. Hôm đó hai người mệt lả, nên nằm ngay trên bãi cỏ, ngủ một giấc đến hơn bốn giờ mới dậy.
    Khi tỉnh dậy, mặt trời vẫn chưa qua khỏi núi, Trương Thúy Sơn nói:
    - Hai đứa mình đi vòng quanh xem thế nào. Tuy không thấy người ở nhưng biết đâu chẳng có độc trùng mãnh thú gì chăng.
    Ân Tố Tố nói:
    - Chỉ cần xem đàn mai hoa lộc này hiền từ như thế, đủ biết trên đảo tiên này thật là thái bình.
    Trương Thúy Sơn cười:
    - Cũng mong được như thế. Vậy hai đứa mình đi bái yết những vị tiên ở đây vậy.
    Dù ở trên băng sơn, Ân Tố Tố vẫn để ý đến dung nhan phục sức, quần áo vẫn chỉnh tề, bây giờ lên đảo lại càng kỹ lưỡng săm soi bề ngoài. Nàng sửa lại y trang, chải đầu cho Trương Thúy Sơn, sau đó mới đi ra ngoài xem xét phong cảnh.
    Ân Tố Tố tay cầm trường kiếm, còn Trương Thúy Sơn đã mất thiết bút nên chặt tạm một cành cây chắc chắn thay vào. Hai người thi triển khinh công, chạy từ nam lên bắc đến mười dặm. Mãi đến bây giờ mới có được một khoảng đất rộng để vùng vẫy, họ sung sướng không sao kể xiết. Khắp nơi, ngoài những gò thấp và cây cao, tất cả đều là bình nguyên, kỳ hoa dị thảo. Thỉnh thoảng có những loài chim đẹp đẽ, những con thú nhỏ, xem ra không làm hại đến người.
    Hai người đi qua một khu rừng lớn, thấy ở phía tây bắc có một ngọn núi đá, dưới chân có một cái hang. Ân Tố Tố kêu lên:
    - Chỗ này thật là tuyệt.
    Vội vàng vượt lên trước chạy ngay tới. Trương Thúy Sơn kêu lên:
    - Coi chừng.
    Nói chưa dứt câu, nghe thấy ừm một tiếng, trước mắt đã có bóng thấp thoáng, một con gấu trắng từ trong động nhào ra. Con gấu đó lông dài, to lớn như một con bò mộng. Ân Tố Tố sợ hãi, vội lùi lại phía sau. Con gấu chồm tới, giơ chân trước, vồ vào đầu Ân Tố Tố, nàng vội vung kiếm lên đâm vào vai con thú. Nào ngờ ở trên biển lâu ngày, sức lực suy kiệt, tay không còn sức, kiếm đó tuy đâm trúng vai con gấu, nhưng chỉ làm nó bị thương sơ sài, chiêu thứ hai vừa tới, con gấu nhào lên gạt ra, nghe cách một tiếng, thanh kiếm đã rơi xuống đất.
    Trương Thúy Sơn vội kêu:
    - Tố Tố lùi ra đi.
    Chàng nhảy tới vung cành cây quật ngang, đánh trúng ngay khuỷu chân trước con vật. Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, cành cây đã gãy thành hai khúc, nhưng con gấu cũng bị què chân. Con vật bị thương nặng, đau quá rống lên, vang động cả sơn cốc, hung hăng chồm tới tấn công Trương Thúy Sơn.
    Trương Thúy Sơn hai chân điểm một cái, sử dụng khinh công ?Thê Vân Túng?, nhảy vọt lên cao cả trượng, sử dụng cái móc trong tự quyết chữ ?tranh?, dùng ngân câu từ trên cao đánh xuống, trúng ngay mang tai con gấu. Chiêu đó kình lực thật mạnh, ngân câu móc vào cả tấc. Con gấu rống lên một tiếng kinh thiên động địa, hất văng ngân câu trong tay Trương Thúy Sơn, lăn ra dãy dụa mấy cái, chổng bốn vó lên trời chết tươi.
    Ân Tố Tố vỗ tay reo lên:
    - Khinh công đẹp quá, câu pháp thật tuyệt.
    - Nói chưa dứt câu, bỗng nghe Trương Thúy Sơn kêu lên:
    - Mau nhảy lại đây.
    Ân Tố Tố nghe thấy Trương Thúy Sơn có vẻ kinh hoảng, không kịp hỏi thêm, vội vàng vọt về phía trước, nhảy ngay vào lòng chàng, quay đầu lại, không khỏi kêu lên "Ôi chao" một tiếng. Thì ra ngay đằng sau nàng lại có một con gấu trắng khác, nhe răng giơ vuốt, trông thật ghê rợn.
    Trương Thúy Sơn trong tay không có món binh khí nào, vội ôm Ân Tố Tố nhảy lên trên một cây tùng lớn, con gấu cứ đi lòng vòng dưới gốc, thỉnh thoảng lại ngửng đầu gầm lên một tiếng. Trương Thúy Sơn bẻ một cành tùng, nhắm ngay mắt phải con vật phóng xuống, nghe vút một tiếng, cành cây đâm ngay vào mắt nó. Con gấu đau quá kêu ầm lên, toan trèo lên cây. Trương Thúy Sơn tiếp lấy thanh trường kiếm trong tay Ân Tố Tố, vận kình phóng xuống đầu dã thú, nghe soẹt một tiếng, thanh kiếm ngập vào đến quá nửa, con vật từ từ ngã ra, chết ngay dưới gốc cây.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Không biết trong động có còn con gấu nào nữa không.
    Chàng kiếm mấy hòn đá ném vào trong hang, chờ một lát sau không thấy động tĩnh gì, mới tiến vào trước, Ân Tố Tố theo sát phía sau. Hai người thấy cái hang đó thật rộng rãi, sâu đến bảy, tám trượng, bên trên nóc lại có một cái lỗ hổng ánh sáng chiếu vào, chẳng khác gì một cái cửa sổ thiên nhiên.
    Trong động đầy những đồ ăn còn lại của hai con gấu, xương cá, đầu cá, tanh thối vô kể. Ân Tố Tố bịt mũi nói:
    - Nơi này tốt thì có tốt, nhưng hôi quá.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Chỉ cần mỗi ngày mình quét dọn, chùi rửa, mười ngày nửa tháng, thì sẽ hết hôi.
    Ân Tố Tố nghĩ đến từ nay sẽ cùng chàng ở trên hòn đảo này, tháng năm vô tận, cho đến khi già chết mới thôi, trong lòng hết sức vui sướng, nhưng cũng thật thê lương. Trương Thúy Sơn ra ngoài bẻ cành cây, làm thành một cái chổi lớn, bắt đầu quét dọn những uế vật trong động. Ân Tố Tố cũng giúp chàng tẩy rửa, nhưng mùi hôi vẫn không hết. Ân Tố Tố nói:
    - Giá gần đây có chỗ nào lấy nước về rửa một phen thì tốt biết mấy. Nước biển thì nhiều nhưng mình lại không có thùng để xách.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Anh có cách làm.
    Chàng đến những vùng lạnh lẽo trên núi, ôm về mấy tảng băng lớn, để lên trên những chỗ cao trong hang. Ân Tố Tố vỗ tay cười:
    - Hay lắm.
    Khối băng dần dần tan ra thành nước, chảy xuống nhưng có điều rất chậm.
    Trong khi Trương Thúy Sơn ở trong động chùi rửa, Ân Tố Tố ra ngoài dùng trường kiếm xẻ thịt hai con gấu trắng, cắt ra thành từng miếng. Vùng này tuy có núi lửa, nhưng dẫu sao cũng là cực bắc, thời tiết vẫn rất lạnh, thịt gấu để đó xem ra mấy tháng cũng không hư. Ân Tố Tố thở dài:
    - Con người lòng không biết đến đâu mới vừa, được voi đòi tiên, giá như mình có lửa, nướng mấy cái bàn chân gấu mà ăn thì ngon biết mấy.
    Lại nói tiếp:
    - Chỉ sợ nước đá để trong động mãi không tan thì không hết được mùi hôi.
    Trương Thúy Sơn ngước lên nhìn lửa trên ngọn hỏa sơn phun ra, nói:
    - Lửa thì có kia, nhưng lửa lại quá lớn, để thư thả mình nghĩ cách nào lấy lửa đem về.
    Đêm hôm đó, hai người ăn no thịt gấu rồi trèo lên cây nằm ngủ. Họ tưởng như mình vẫn còn trên băng sơn rôi dạt trên biển cả, nghe tiếng sóng ỳ ầm, nhấp nhô lên xuống, thực ra chỉ là gió thổi vào lay động cành cây.
    Hôm sau, Ân Tố Tố chưa mở mắt đã kêu lên:
    - Thơm quá, thơm quá.
    Nàng xoay người nhảy xuống, thấy mùi thơm ngát từ một vùng đầy những loại hoa không biết tên bên dưới xông lên, vui mừng nói:
    - Trước cửa động có nhiều hương hoa như thế này, thật là thú vị.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Tố Tố, việc mừng để sau, có một việc anh muốn nói với em trước đã.
    Ân Tố Tố thấy chồng sắc mặt trịnh trọng, không khỏi lo âu, hỏi:
    - Cái gì vậy?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Anh đã tìm được cách có lửa rồi.
    Ân Tố Tố mừng nói:
    - Ồ, cái anh chàng này, vậy mà làm cho em tưởng có chuyện gì không hay cơ chứ. Cách nào đâu? Nói em nghe, nói cho em nghe nào.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Lủa trên miệng hỏa sơn lớn quá, không cách gì đến gần được, e rằng mình còn cách đến mấy chục trượng cũng đã chết thiêu rồi. Mình dùng vỏ cây tết thành một sợi thừng dài, phơi cho khô, sau đó ?
    Ân Tố Tố vỗ tay:
    - Cách đó hay lắm, hay lắm. Sau đó mình buộc một cục đá vào đầu dây, ném vào miệng núi lửa, lửa cháy vào dây, mình lấy đem về.
    Hai người ăn thịt sống đã lâu, muốn có lửa ngay, nói là lập tức làm liền. Phải mất đến hai ngày, họ mới bện được một sợi dây thừng dài hơn trăm trượng, lại phơi thêm một ngày nữa, ngày thứ tư mới nhắm hướng núi lửa mà đi.
    Ngọn hỏa sơn nhìn thì không xa, nhưng đi phải đến hơn bốn chục dặm. Hai người càng tới gần càng nóng, đầu tiên phải cởi áo da hải cẩu, lúc sau chỉ một manh áo ngoài mà cũng vẫn còn nóng. Đi thêm một dặm nữa, hai người miệng khô lưỡi bức, mồ hôi đầm đìa, chung quanh không còn cây cối hoa cỏ gì, chỉ toàn là đá vàng xém trơ trụi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách