Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: linhcancer
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Chuyện Tình Núi Brokeback | Annie Proulx

[Lấy địa chỉ]
11#
Đăng lúc 8-7-2016 19:30:15 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)



Giữa phòng một ông lớn tuổi đang bôi kem giữ da lên yên ngựa; ông đội một chiếc mũ rơm, hai bên vành mũ uốn cao làm nổi bất dáng đầu dài của ông. Có điều gì đó không ổn ở đôi vai, từ hông lên thân người nghiên về phía trước. Căn phòng có mùi táo và Diamond thấy một tổ táo trên sàn.

"Hondo, mình có khách."  Người đàn ông nhìn họ bâng quơ, cho thấy cái mũi gẫy bẹp gí, một bên xương má lõm xuống, trên mắt trái hình như đã mù có vết xước lớn. Miệng ông vẫn mím lại chăm chú. Trong túi áo ông có bao thuốc lá. Ông toát vẻ bình thản như gỗ tạc thường thấy nơi những kẻ từ lâu không biết đến nhục dục, đứng bên lề thế gian.

"Đây là Kaylee Felts và thằng Lùn, ghé qua thăm. Lùn thích rodeo. Chắc ông có biết tí ti về rodeo, phải không Hondo?" Gã nói lớn như thể người đàn ông bị điếc.

Người cưỡi ngựa hoang không nói, ánh mắt xanh dịu dàng chăm chú quay lai bộ yên, tay phải cầm mảnh len cừu lại bắt đầu xoa trên lớp da.

"Ổng ít nói," Moore nói. "Ổng vất vả lắm nhưng khôgn còn nước còn tát. Ổng còn tát được nhiều, phải không Hondo?"

Người đàn ông lặng lẽ xoa bộ yên da. Đã bao nhiêu năm từ dạo ông thúc chân vào vai ngựa tung hoành khắp đông tây?

"Hondo, coi bộ hôm nào ông nên thay mấy cái bàn đạp da cũ thiểu não đó đi," Moore nói giọng ra lệnh. Người đàn ông cưỡi ngựa hoang không tỏ vẻ ông đã nghe.

"Ôi dào," mẹ Diamond nói sau một phút dài nhìn hai bàn tay gân guốc, "gặp ông rất tuyệt, Hondo. chúc may mắn." Bà liếc Moore, và Diamond thấy có một thoáng ẩn ý nhưng không hiểu ý tứ của họ.

Họ bước ra ngoài,người đàn ông và người đàn bà đi cùng nhau, Diamond theo sau, giận dữ đến lảo đảo.

"Ừ. Ổng như điếc, lão Hondo ấy. Hồi đó ổng là tay cưỡi ngựa hoang ăn khách và đang lên. Hốt bạc hai năm liền ở Cheyenne. Rồi trong một buổi biểu diễn nhỏ vớ vẩn nào đó gần Meeteetse con ngựa của ôgnr giở chứng trong chuồng, lồng ngược lên. Hondo ngã xuống, bị đạp lên đầu. Ồ, ấy là năm 1961, từ đó ổng lau yên ngựa cho Bar J tới giờ. Ba mươi bảy năm. Lâu dữ. Chuyện xảy ra lúc ổng hai mươi sáu. Bảnh bao như ai. Ôi dào, tụi rodeo, mới thứ Ba còn là con gà trống huênh hoang, thứ Tư thành cây chổi lông gà. Nhưng như tôi nói, ổng còn nước còn tát. Bọn tôi tất nhiên quý Hondo lắm."

Họ đứng lặng yên nhìn Diamond vào xe.

"Tôi sẽ gọi," gã nói và bà gật đầu.

Diamond nhìn trừng trừng cánh đồng bên ngoài kính xe, đường ray xe lửa, hiệu cầm đồ, siêu thị Safeway, quán rượu Broken Arrow, hiệu Custom Cowboy, cửa hàng máy hút bụi. Ánh vàng úa đi, tàn lụi. Mặt trời đã lặn và bóng hoàng hôn nhung mượt phủ lên con đường, những ngọn đền neon báo hiệu cuộc vui.

Khi rẽ vào đường bờ sông bà nói, "Tao sẽ dẫn mày đi xem một cái xác để mày ra khỏi nghề rodeo."

"Đừng dẫn con đi xem cái gì nữa."

Dòng sông đen phẳng lặng như gương chảy giữa hai hàng liễu tối mờ. Bà lái rất chậm.

"Trời ơi," bà đột ngột hét lên, "mày hao tốn cho tao biết mấy!"

"Cái gì! Con tốn của má cái gì?" Lời nói phun ra như lửa từ miệng kẻ làm trò nuốt lửa.

Những ánh đèn xe chạy ngược chiều trong buổi nhá nhem rọi sáng dòng nước mắt của bà. Bà không trả lời cho đến khi rẽ vào con đường cuối, rồi bằng giọng cổ của người phụ nữ lớn tuổi, trầm và thô, hắn chưa từng nghe, bà nói, "Mày là đứa vô tình - tất cả."

Hắn ra khỏi xe trước khi ngừng, khập khiễng lên thang, nhét áo quần vào túi vải thô, không đáp lời Pearl.

"Này Diamond, andh chưa đi được. Anh phải ở hai tuần. Anh mới ở đây có bốn ngày thôi. Mình sẽ đóng cái thùng cưỡi. Mình chưa nói tới chuyện của Ba. Chưa nói lần nào."

Hắn đã nói dối Pearl nhiều lần, bắt đầu bằng "Ba với anh và em, hồi em còn nhỏ" - thằng bé muốn nghe những lời như thế. Hắn chưa hề bảo nó điều hắn biết và nếu nó không bao giờ tìm ra thì càng tốt.

"Anh sẽ về ngay," hắn nói dối,"rồi mình sẽ đóng cái thùng cho xong." Hắn thương hại thằng bé nhưng nó biết cứng rắn càng sớm càng tốt. Tuy nhiên có lẽ chẳng có gì để cho Pearl biết. Có lẽ tất cả tin dữ chi xảy đến cho hắn.

"Má thích em hơn anh," Pearl hét lên, cố vớt vát. Nó cởi cái áo thun và ném về phía Diamond.

"Anh biết." Hắn gọi tắc xi đưa hắn tới sân bay bé như hộp diêm và ngồi đợi năm tiếng đến khi chuyến bay đi Calgary cất cánh.


***************



Năm đầu tiên vênh váo tự mãn, hắn đổi dáng đi dạng chân như có quả tạ đong đưa giữa hai đùi. Hắn thấy mình như con bò đực, chưa nhận ra lằn ranh thù địch chia cách con thú và đứa cưỡi. Hắn lao đầu vào bọn gái lẳng lơ, bù đắp cho nhưng năm tháng chẳng có gì. Hắn muốn bọn con gái cao lớn. Trong tâm trạng hung hăng đó hắn quấn chân với vợ thằng Myron Sasser, gã bạn đường thứ nhì của hắn. Họ đến Cheyenne trong chiếc xe tải của Myron ghé vào quán Bunger Bar. Gã để máy nổ, máy radio ầm ĩ một giọng đặc Texas lần trong tiếng nhiễu âm.

"Mày muốn mấy cái, Diamond, hai hay ba? Londa, em có muốn ăn hành không?"

Hôm trước họ đón vợ Myron ở nhà cha mẹ gã tại Pueblo. Cô nàng cao gần một mét tám, những lọn tóc nâu dài quăn như Buffalo Bill (1), đã nhìn Diamond và nói với Myron, "Anh hổng nói anh chàng bé như cây tăm. Ê, tăm," cô ta nói.


(1) William Frederick 'Bufalo Bill' Cody nổi tiếng nhờ đoàn biểu diễn trò cao bồi miền viễn Tây tương tự gánh xiếc do ông sáng lập. Theo truyền thuyết, ông mang danh Buffalo Bill sau một cuộc tranh tài giết bò tót. Ông giết 69 con trong khi đối thủ của ông chỉ giết được 48 con!

"Tao vậy đó," hắn nói, "bé bằng đầu kim," mỉm cười khó chịu.

Cô cho họ xem một khuôn bánh kẹp có hình trái tim mua của một nhà bán đồ dư. Nó không dùng điện mà là một món đồ từ thời còn bếp củi. Cán khuôn bằng dây sắt xoắn. Cô hứa làm một bưã điểm tâm tình tứ cho Myron.

"Tao đi mua," Myron nói và vào Burger Bar.

Diamond và cô đợi trong chiếc xe tải, mùi đàn bà như hoa lan của cô nàng làm hắn hứng. Qua cửa kính xe họ thấy Myron đang đứng gần cuối hàng dài. Hắn nghĩ đến điều cô nói, rời ghế trước và vào khoang sau, ghìm chặt cô, vật lộn cởi chiếc  quần jean ống dài chín tấc của cô xuống cổ chân và nhét vào, như chơi giấy nhám, dạ dày hắn rộn lên vì đói suối lúc đó. Cô không muốn. Cô vùng vẫy, xô đẩy, chống cự và nguyền rủa hắn, cô nàng khô, nhưng hắn sẽ không ngừng. Có tiếng món đồ trên ghế rơi xuống nghe khô khốc.

"Khuôn bánh kẹp của tao," cô ta nói và suýt đẩy bật hắn ra - hắn kết thúc bằng năm sáu cú thọc mạnh rồi xong. Hắn quay lại ghế trên trước khi Myron đến đầu dãy người.

"Tao nghe người ta gọi nó bằng đủ thứ tên," hắn nói, "nhưng chưa hề nghe gọi là khuôn bánh kẹp," và cười đến sặc sụa. Hắn cảm thấy thích.

Cô tấm tức khóc trên ghế sau, kéo lại áo quần.

"Ê," hắn nói, "Im đi. Mày đâu có đau đớn gì. Tao nhỏ tẹo đâu có làm đau một đứa lớn như mày được? Đáng lẽ tao mới là đứa nên khóc - mài nhẵn nó mất rồi." Hắn không tin nổi khi cô ta mở cửa nhảy xuống, chạy vào Burger Bar, lao tới Myron. Hắn thấy Myron đưa đầu lắng nghe, liếc ra bãi đậu xe chẳng thấy gì, lau nước mắt trên mặt cô bằng miếng khăn giấy lấy ở quầy, rồi lao ra cửa, bạnh miệng gầm gừ. Diamond ra khỏi xe. Coi bộ nên đối đầu.

"Mày làm gì Londa?"

"Như mày đã làm với con nhỏ Texas ưỡn ẹo tối nọ." Hắn không ghét bỏ gì Myron Sasser ngoại trừ việc gã là thằng phát xít thiếu hài hước, hay ngoáy mũi và đẻ lại mấy cục cứt mũi dẻo trên tay lái, nhưng hắn muốn con nhỏ cao lớn nghe thật rõ.

"Đồ cứt đái oắt con," Myron nói và lăn xả vào hắn. Diamond đè gã sõng sượt trên mặt đường đá dăm, mặt lấm lem sữa sinh tố, nhưng vài giây sau hắn nằm bên cạnh gã, bị cái khuôn bánh kẹp đánh nốc ao như khúc gỗ. Sau đó, hắn nghe Myron khăn gói qua Hawaii không có con vợ vóc dáng đàn ông và đang biểu diễn trò cao bồi đảo. Cho hai đứa tụi nó gãy cổ. Con nhỏ ngon lành quá và nếu gặp hắn làn nữa, nó sẽ biết.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
Đăng lúc 20-7-2016 10:56:15 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)



Cái ngày xa xưa, ngày mọi chuyện vỡ lở, là một hôm Chủ nhật, ngày họ hay ăn món bánh kếp với xi-rô anh đào đen, nhưng bà không nướng bánh kếp, bà bảo hắn tự làm bát thức ăn ngũ cốc và cho Pearl ăn món lê hộp cho trẻ con. Hắn mười ba tuổi, náo  nức vì mùa săn hươu ba tuần nữa sẽ tới. Pearl hôi hám và ngọ nguậy trong cái tã ướt đầm nhưng lúc đó họ đang cãi nhau dữ dội. Chán phải nghe đứa bé gào thét, Diamond đã chùi sạch nó, thả cái tã bẩn vào chậu nhựa hôi hám.

        Họ cãi nhau suốt ngày, giọng mẹ hắn thấp và hằn học, cha hắn la hét những câu hỏi chẳng những không được mẹ hắn đáp mà còn trả ngược lại ông bằng sự im lặng hận thù mạnh như cú giáng. Diamond xem truyền hình, âm thanh đủ lớn để át đi những lời buộc tội và chửi rủa cuồng nộ đang nổ rền qua lại trên gác. Tiếng bước chân vội vã trên đầu như thể họ đang chơi bóng rổ, tiếng kêu khóc và quát tháo. Chẳng liên can gì đến hắn. Hắn cảm thấy thương hại Pearl đã khóc thét mỗi khi nó nghe tiếng nức nở tức tưởi của mẹ ở phòng trên. Một hai lần im lặng kéo dài nhưng không thể nhầm lẫn điều đó với yên bình. Đến chiều tối Pearl thiếp ngủ trên ghế dài ở phòng khách, nắm tay nó nắm chặt trong chăn. Diamond ra sân, lang thang, rửa kính xe để có chuyện để làm. Trời lạnh và gió, một cụm mây hình điếu xì gà lơ lửng trên rặng núi cách đó bốn mươi dặm về phía Tây. Hắn nhặt đá và ném tới cụm mây giả vờ như những viên đạn bắn hươu. Hắn nghe tiếng họ bên trong, vẫn tiếp diễn.

        Cánh cửa đóng sầm và cha hắn băng qua mái hiên mang theo cái vali nâu có nhãn hiệu con ngựa  nhỏ tí màu đỏ ở góc, sải bước đến chiếc xe như thể ông đã trễ.

        "Ba," Diamond  nói, "Vụ săn nai ..."

        Cha hắn nhìn hắn trừng trừng. Trên khuôn mặt co rúm đó con ngươi ông đen và lớn, nuốt hết màu nâu đỏ chung quanh.

        "Đừng bao giờ gọi tao như vậy nữa. Tao chưa bao giờ là ba mày. Bây giờ cút xéo đi, đồ con hoang," giọng nói cao và đổ vỡ.



Sau khi cắt đứt với Myron Sasser, hắn mua chiếc xe tải đã qua hai đời chủ, một chiếc Texas cũ không khá hơn đồ phế thải của Leecil, lái một mình vài tháng, cần đơn thân độc mã, phóng qua những núi đỉnh bằng và gò đỏ chồng chất như thịt nổi bướu và mọc sừng, và trên xa lộ những tảng thịt nai, lông da úa héo, thịt như những vết nứt gồ ghề trên vùng đất đỏ, những vũng máu cạn khô. Hắn gần như luôn có một đứa con gái trên giường quán trọ mỗi khi hắn có thể trả tiền trọ, một món thuốc giảm đau nửa giờ nhưng không có cái ào ạt và kích động hồi hộp như cưỡi bò. Không âu yếm sau khi làm xong. Hắn muốn họ cút đi. Bọn con gái qua đường rêu rao rằng hắn là đứa nổ súng sớm, là thằng nhóc kiêu ngạo và cái khăn quàng cờ sao sọc của hắn là cái đếch gì.

        "Hết pin rồi sao bạn," con điếm tóc vàng bỡn cợt.

        Mặc bọn chúng nói, vì nguồn cung cấp bọn chúng là vô hạn và vì hắn biết mình sắp hết thời trong cách sống này. Không có ai trong đời hắn ghì hắn lại bằng yêu thương. Đôi khi cưỡi bò là phần không đáng kể nhất, nhưng chỉ có cú cưỡi bò hỗn loạn mới cho hắn niềm phấn khích khôn tả, tiêm vào mạch máu hắn cơn vui điên cuồng. Trong sân đấu tất cả đều thật, vì không có gì là thật ngoài khả năng bị giết chết. Lằn chớp phóng đến, hắn nghĩ, vì hắn chưa chết. Khắp chung quanh hắn những thứ hoang dại đang rơi xuống đất.



Một buổi tối ở Cody, trong lúc chạy vội ra khỏi bãi đậu để tránh kẹt xe, Pake Bitts, một gã ngoan đạo cao lớn ném thòng lọng bò, gọi lớn, "Mày đi Roswell?"

        "Ừ." Bitts đang chạy song song với hắn, gã to khoẻ có mái tóc vàng nhạt và da sạm. Một miếng nhãn ghi chữ Ngợi ca Chúa đang bong ra trên túi đồ nghề của gã.

        "Cho ta đi nhờ được không? Chiếc xe tải chết dấp của tao bỏ tao ở Livinson. Phải thuê cái xe tí hon hổng kéo nổi toa moóc của tao. Cháy hộp số. Tee Dove nói nó nghĩ mày đi hướng Roswell?"

        "Ừ. Đi. Nếu mày sẵn sàng." Họ móc toa chở ngựa của Bitts vào, bỏ chiếc xe thuê đứng đó.

        "Kệ nó, người anh em, mình hổng kịp giờ đâu," gã ném thòng lọng nói, nhảy vào xe. Diamond đã cho bánh xe hất tung sỏi trước khi gã đóng cửa.

        Hắn nghĩ sẽ chán chết, lắm chuyện cầu nguyện bên đường và ngước mắt lên trời, nhưng Pake Bitts chín chắn, nhìn mức đo xăng, lo lắng công việc và không giảng đạo.

        Một cao lớn, một thấp bé họ cùng đi đến Mollala, đến Tuska, đến Roswell, Guthrie, Kaycee, đến Baker và Bend. Sau vài tuần Pake nói nếu Diamond muốn có bạn đường thường xuyên thì gã sẽ sẵn sàng. Diamond nói ừ, mặc dù chỉ có vài tiểu bang còn cho phép ném thòng lọng bắt bò và Pake phải vượt quãng đường dài vô ích, phạm vi chính của gã là vùng nuôi gia súc ở Oklahoma, Wyoming, Oregon và New Mexico. Lịch trình của họ không trùng nhau nếu không kiên nhẫn điều chỉnh. Nhưng Pake biết hàng trăm đường tắt, dẫn họ qua miền đá khô cằn và vùng dốc, ra vào những gò đống, qua cánh đồng nâu vàng vẫn còn rãnh xe của bọn hành hương, vào bóng chiều tối và trận bão đầu mùa rải lớp băng trơn khó thấy trên mặt đường, ánh bình minh rực đỏ, vạn vật khói mù, những cơn lốc bụi ngoằn ngoèo trên đất trọc, mặt trời toả nóng đến khi rộp sơn trên nắp chiếc xe tải, những mảng mưa rời rạc khô hạn không bao giờ chạm đất, qua dòng xe trong thôn nhỏ và lũ gia súc trên đường, đàn ngựa trong sương mai, hai gã cao bồi tóc đỏ đang dời một căn nhà làm choán lối xe chạy, và Pake lái vòng xuống rãnh để vượt qua, bỏ lại những bãi đồ phế thải và các quán ăn Mexico sau lưng, rẽ vào quán trọ nửa đêm có treo bảng NHẤN CHUÔNG VĂN PHÒNG  hay bẻ lái vào đồng cỏ tối đen để ngủ vùi một tiếng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
Đăng lúc 23-10-2016 16:09:23 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)





Bitts xuất thân ở Rawlins, gã luôn luôn muốn đến buổi thi đấu kế tiếp và vơ tiền, không chú ý đến đàn bà ngoài bà vợ chân to đang mang thai tên Nancy của gã, một cô nặng trịch theo đạo Kitô, Bitts nói cô nàng đang học lấy bằng địa chất. "Nếu muốn chuyện trò hay ho," gã nói, "mày nói với Nancy. Chúa ơi, cô nàng có thể nói cho mày nghe mọi chuyện về các cấu tạo đá."

        "Làm sao một nhà địa chất có thể tin trái đất được tạo nên trong bảy ngày?"

        "Ái dà, cô nàng là một nhà địa chất Kitô. Đối với Chúa không có gì là bất khả và ngài có thể tạo ra hết trong bảy ngày, hoá thạch, tất tần tật. Đời sống đầy những điều kỳ diệu." Gã nhét một cục thuốc lá nhai vào má vì ngay cả gã cũng có thói xấu.

        "Làm sao mày vô nghề," Diamond hỏi. "Lớn lên ở nông trại hả?"

        "Cái gì, rodeo à? Tao làm từ hồi còn nhỏ. Chưa hề sống ở nông trại. Chưa hề muốn. Lớn lên ở Huntsville, Texa. Mày biết ở đó có cái gì không?"

        "Khám lớn."

        "Đúng. Ba tao là lính gác trại tù Rawlins, nhưng trước đó ổng ở dưới Huntsville. Huntsvill có chương trình rodeo cho tù rất tốt từ nhiều năm. Ba tao dắt tao đến hết các buổi diễn. Ổng cho tao bắt đầu trong chương trình Quần Nhỏ. Nghe nè, ông nội Bitts của tao ném thừng phần lớn ở Huntsville. Vặn đứt mui một thằng nha sĩ. Ông cao bồi già dữ dằn đó xăm hình thòng lọng quanh cổ và dây buộc lợn quanh cổ tay. Vài năm sau ổng thấy chân lý và tâm niệm theo Jesus, rồi truyền xuống cho ba tao rồi tới tao. Rồi tao cố sống đời Kitô và giúp đỡ người khác."

        Họ lặng lẽ lái xe trong nửa tiếng, trời u ám làm cỏ trong khu lòng chảo xỉn lại thành màu đồng xu bẩn, rồi Pake lại bắt đầu.

        "Dẫn tới chuyện tao muốn nói với mày. Chuyện cưỡi bò của mày. Chuyện rodeo? Nè, con bò đực hổng phải là mẫu mực cho mày, nó là đối thủ của mày, mày phải vượt qua nó, giống như con bê đực al đối thủ của tao và tao phải cố sống cố chết để bắt và quăng thòng lọng nó hoặc là tao không quăng."

        "Ê, tao biết." Hắn cũng biết sớm muộn gì cũng sẽ có bài giảng đạo trời đánh.

        "Không, mày không biết. Vì nếu biết, mày đã không đóng vai bò đực đêm này sang đêm khác, mày sẽ không nhào vô vợ bạn, tao gọi cái mày làm là tông cửa để vô, mày sẽ kiếm người để cưới và xây dựng gia đình. Mày sẽ lấy Jesus làm mẫu mực, chứ hổng phải con bò đực hung hãn. Mày không thể chối chuyện mày đã làm. Mày phải thôi đóng vai bò đực đi."

        "Tao không nghĩ Jesus có vợ."

        "Có thể hổng có vợ, nhưng ổng là cao bồi, cao bồi rodeo đầu tiên. Có nói ngay trong Thánh kinh. Trong sách Matthew, Mark, Lucke John." Gã cất giọng mộ đạo: "'Hãy vào làng nơi mà, khi ngươi vào, ngươi sẽ thấy một con ngựa non bị cột, trên lưng nó chưa hề có ai cưỡi; hãy tháo nó ra và dắt nó đến đây. Chúa cần nó. Và họ mang nó đến với Jesus, rồi họ ném áo quần của họ lên con ngựa non và họ đặt Jesus lên nó.' Thế nào, nếu đó hổng phải là tả chuyện cưỡi ngựa không yên thì tao hổng biết là cái gì nữa."

        "Tao cưỡi bò đực, bò đực là đồng nghiệp của tao, và nếu bò biết lái xe thì mày cứ đánh cược là ngay lúc này sẽ có một con ngồi sau tay lái. Tao không biết làm sao mày nghĩ toàn thứ vớ vẩn về tao."

        "Dễ thôi. Myron Saser là em cùng mẹ khác cha với tao." Gã quay kính xe xuống và phun nước bọt. "Ba tao cũng có một ít tính bò đực trong ổng. Nhưng ổng vượt qua được."

        Một hai hôm sau Pake lại bắt đầu. Pake nói, "Mày có thằng em nhỏ phải không? Sao nó hổng bao giờ có mặt ở buổi rodeo nào để coi thằng anh lớn của nó? Còn ba má mày thì sao?"

        "Dừng xe lại một chút."

        Bitts giảm tốc độ chiếc xe tải trên mép cỏ cứng, gài số đậu, đoán lầm rằng Diamon muốn đi đái, gã cũng bước ra, kéo khoá quần.

        "Khoan," Diamond vừa nói vừa đứng chỗ ánh sáng đổ xuống gay gắt trên người. "Tao muốn mày nhìn tao cho kỹ. Mày thấy tao không?" Hắn xoay ngang rồi quay lại đối diện Bitts. "Tất cả có bấy nhiêu. Mày thấy cái gì. Bây giờ mày đái đi rồi lên đường."

        À, tao muốn nói là," Bitts nói, "mày hổng đếm xủa tới ai ngoại trừ cái bản thân khốn kiếp của mày. Mày hổng hiểu là mày hổng thể dựng hàng rào nếu chỉ có một cây cột."




Cuối tháng Tám nóng như địa ngục, trên đường rời Miles City cái đầu bản đồ của Pake thất bại và họ dừng trên bờ đá phía Nam ranh giới Wyo, vùng đất bao la tho ráp trải trước mặt họ, tầm nhìn hàng trăm dặm với những đàn linh dương và gia súc như những đốm mực nhỏ văng ra từ ngòi bút đè mạnh trên tờ giấy nợ xưa cũ. Họ quay ngược lại rồi đâm ngang, và khi cách Greybull vài dặm Diamond chỉ đoàn xe tải đậu trước một căn nhà nông trại xiêu vẹo biến thành quán rượu, những súc gỗ vuông sạm đen vì thời tiết.

        "Phía cuối là toa chở ngựa của thằng Sweets Musgrove phải không? Xe của thằng Nachtigal nữa. Đồ khốn, bọn ném thừng bê coi ngựa của tụi nó như đàn bà.Mày có nghe thằng Nachtigal tối hôm qua không? 'Cô nàng thật thà, cô nàng tốt, cô nàng không bao giờ lưà dối tao.' Nó nói tới con ngựa của nó."

        "Tao thấy con ngựa của tao cũng vậy."

        "Ghé vào. Tao sẽ nín thở uống bia."

        "Mình sống sót ra khỏi chỗ tụi nó là may. Thằng Nachtigal khùng. Mấy thằng kia hổng nói chuyện gì khác ngoài mấy cái toa kéo của tụi nó."

        "Tao đếch cần biết, Pake. Mày cứ uống cà phê của mày, còn tao cần một hai chai bia.""

        Trên cánh cửa treo một phiến gỗ thông bị đốt sâu vào gỗ thành tên quán, Saddle Rack. Diamond đẩy cánh cửa ván lỗ chỗ vết đạn đủ cỡ. Đây là một trong những quán khá, tối, tường gỗ súc đóng hàng trăm dấu gia súc bằng sắt nung, những bức ảnh mờ của những tay thuần ngựa chứng đã chết từ lâu cao trên mây khói, và bọn lùa thú mặc áo ấm, ống len phủ ngoài quần. Cái máy hát tự động cũ nhất thế giới đứng ở cuối phòng, cái máy cứng cáp, sứt mẻ, bị chết ngọn đèn neon, và một chiếc đèn pin buộc vào sợi dây cho gã khách hàng nhắng nhít nào muốn chọn bài. Giọng ca cao vút năm 1935 của Milton Brown đang lững lờ, "oh bree-yee-yee-yeeze"  trên quầy rượu bọc kẽm và bốn cái bàn.

        Gã bồi rượu là một lão hói cứng đầu với cái mỏ nhọn và cằm chẻ. Chai lọ, vòi rượu, và một tấm gương bẩn - lãnh thổ của thằng pha rượu chả có gì phức tạp. Lão nhìn họ và Pake gọi  nước gừng, sau khi đánh giá chất lỏng như nhựa đường trên bếp. Diamond biết mình sẽ say bí tỉ ở đây. Sweets Musgrove và Nachtigal, Ike Soot, Jim Jack Jett, đầu trần, chân tóc hói rõ mồn một, đang ngồi ở một bàn, Jim Jack uống bia đỏ, bọn kia rượu mạnh và tụi nó đang nốc, hút xì gà chúc mừng con gái Nachtigal thắng trận đua ngựa quanh thùng rượu đầu tiên, những điếu xì gà hút dở tắt ngúm trong gạt tàn thuốc.

        "Mày làm quỷ gì ở đây?"

        "Vớ vẩn, đứa nào đi ngang Saddle Rack mà không ngừng lại đổ nước."

        "Chắc vậy."

        Nachtigal ra dấu về phía mày chơi nhạc, "Ông hổng có Clint Back, hổng có Dwight Yoakam hả?"

        "Câm mồm, có bài nào thích bài đó," lão bồi rượu nói. "tụi mày đang nghe phím thép thời xưa. Tụi mày đang nghe thứ vô giá. Bọn rodeo tụi mày đếch biết gì về nhạc đồng quê."

        "Cứt ngựa." Ike Soot lấy trong túi ra một cặp xúc xắc.

        "Ném xem đứa nào trả tiền."

        "Mày trả, Nachtigal," Jim Jack nói. "Tao cháy sạch túi rồi. Tao thua hết chút tiền còm kiếm được cho thằng da đỏ chó đẻ Black Vest, nó là cho một thằng thầu gia súc. Được ăn cả ngã về không, một cú hốt trọn. Một lần ném. Nó có cặp xúc xắc bằng xương, thắng thua chỉ một cú thôi, lắc, ném xuống. Chớp nhoáng."

        "Tao có chơi với nó. Muốn cố vấn không?"

        "Không."

        Uống tới uống lưu, một lúc sau Jim Jack tán qua chuyện vợ con và vui thú gia đình khiến Pake khơi mào bài giảng mái ấm gia đình của gã, và trong chầu kế tiếp Ike Soot nức nở nói ngày vui sướng nhất đời nó là khi nó đặt cái khoá thắt lưng vàng trong tay cha nó và nói, Con làm là vì ba. Musgrove trội hơn cả bon bằng cách thú nhận rằng nó đã chia món tiền 8200 đô la nó thắng ở vòng Chung Kết cho bà nó và một cô nhi viện nuôi trẻ mù. Sau năm cốc rượu mạnh và bốn chai bia óc ách, đến lượt Diamon tuyên bố với cả bọn, thậm chí với cả hai thằng công nhân nông trại bụi bặm, mồ hôi đầm đìa vừa mới bỏ máy đóng kiện rơm mà vào áp mặt lên bình bia lạnh Ranny đặt giữa họ.

        "Tụi mày nhặng xị lên về chuyện gia đình, tao nghe vợ con, ba má, anh chị em, nhưng hổng thằng nào ở nàh lâu và tụi mày cũng không bao giờ muốn, nếu không thì tụi mày đâuc ó theo nghề rodeo. Rodeo là gia đình. Gia đình ở trại hổng có đáng cục cứt."

        Một trong mấy thằng thợ ở quầy rượu đập tay xuống quầy và Nachtigal để ý gườm gã.

        Diamond gio cao cốc rượu mạnh.

        "Uống mừng. Không ai sai vặt tụi mày, không ai đối xử với tụi mày như thằng ngốc. Chụp hình tụi mày, tụi mày lên tivi, hỏi ý kiến dấm dớ của tụi mày, xin chữ ký tụi mày. Tụi mày cũng là ông này ông nọ, đúng không? Uống mừng, Rodeo. Thiên hạ nói tụi mình ngu nhưng không nói mình hèn. Uống mừng đồng tiền dễ kiếm, uống mừng gãy xương sống và giạng háng, sạch túi, lái xe thâu đêm, ngã lộn cổ - nếu mày có bùa hay thì thằng khác ngã. Biết tao nghĩ gì không? Tao nghĩ..." Nhưng hắn chẳng biết hắn nghĩ gì ngoại trừ thằng Ike Soot vung tay về phía hắn, nhưng chỉ là để chộp lấy hắn trước khi hắn đâm sầm vào những đầu thuốc xì gà. Tối hôm đó hắn mắt khăn quàng cổ cờ sao và bắt đầu xuống dốc.

        "Lần cuối tao thấy cái khăn đó có đứa dùng lau chỗ ói trên sàn," Bitts nói, "Hổng phải tao."

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
Đăng lúc 8-1-2017 12:33:06 | Chỉ xem của tác giả
Bùn lầy (tt)





Đến giây thứ sáu con bò đực đứng như trời trồng, rồi quay hẳn sang hướng khác và tức khắc quật lại và hắn thua, bay qua vai trái con thú và đụng vào bàn tay mình (1), mắt hắn bắt gặp cái nhìn trừng trừng ẩm ướt của con bò đực, nhưng bàn tay hắn lật sấp và vướng trong sợi thừng. Hắn bị treo cứng. Đứng lên, hắn nói lớn, nhảy, amen. Con bò đực điên cuồng muốn hất bỏ hắn và cái chuông cổ lanh canh. Diamon bị giật tung khỏi mặt đất sau mỗi cú chồm, bật như cái khăn tắm. Sợi thừng vặn nửa vòng, siết những ngón tay nắm lại của hắn lên lưng con bò và hắn không thể xoay bàn tay ngửa lên xoè các ngón tay ra. Toàn thân hắn cố để cho chân chạm đất nhưng con bò quá lớn còn hắn quá nhỏ. Con thú quay nhanh đến nỗi khán giả thấy nó như một đốm sơn, đứa cưỡi nó như một cái ghẻ lau sơn. Bọn đấu bò chạy qua lại như lũ chó săn. Mỗi cái chồm con bò đực hất hắn từ Bắc cực tới biên giới Mexico. Lông bò trong miệng hắn. Cánh tay hắn bị lôi sái khớp. Cứ thế kéo dài. Lần này hắn sẽ chết trước mặt bọn người dưng đang gào thét. Con bò rơi xuống tung hắn lên cao, và gã đấu bò lợi dụng dịp này thọc tay dưới cánh tay Diamond, nhét đầu sợi thừng qua và giật mạnh. Những ngón tay trên chiếc găng của hắn mở ra và hắn ngã lộn nhào tránh móng bò. Ngay sau đó con bò đực tấn công hắn, húc sừng. Hắn co người, đưa cánh tay lành lặn lên che đầu.

        "Ôi trời, đứng lên, cú này dữ dằn quá," có kẻ ở xa gọi và hắn bò le bò càng, chổng mông lên trời, tới chấn song sắt, một gã hề ở đó, con bò đực đã biến mất. Khán giả bỗng bật cười và qua khoé mắt hắn thấy một tên hề khác đang giễu nhại dáng lảo đảo của hắn. Hắn nép và chấn song, quay lưng ra khán giả, bàng hoàng, chết sững. Họ đang đợi hắn cút khỏi sân khấu. Qua tiếng mưa tầm tã, tiếng còi báo nghe nhạt nhoà và buồn bã.

        Một bàn tay vỗ vai phải của hắn hai cái, ai đó nói, "Mày đi nổi không?" Run rẩy, hắn cố gật đầu mà không được. Cánh tay trái hắn thõng xuống như chết. Hắn tin chắc thần chết đã gạch tên hắn, rồi đưa hắn tới hồi còi báo tử, nhưng không hiểu vì sao thất bại. Người đàn ông đỡ dưới cánh tay phải của hắn, ai đó ôm lấy eo hắn, gần như khiêng hắn đến căn phòng nơi một thằng cưa xương trong vùng ngồi vừa đung đưa một chân vừa hút thuốc. Nơi đây không có đội y khoa thể thao. Hắn lờ mờ nghĩ mình không muốn để một thằng bác sĩ hút thuốc khám. Từ sân khấu giọng xướng ngôn viên vọng lại như trong ống cống, "Thiệt tình hả bà con cô bác, ly kỳ hết cỡ, nhưng hổng được điểm nào, không điểm cho Diamond Felts, nhưng quý vị phải hãnh diện về lập trường của anh chàng này, đừng để anh ta đi mà không có tràng pháo tay, anh ta sẽ bình phục, và bây giờ đây là Dunny Scotus ở Whipup, Texas..."





Hắn ngửi thấy hơi thở nồng mùi khói thuốc của gã bác sĩ, mùi hôi thối khó chịu của chính hắn. Hắn nhớp nháp mồ hôi và cơn đau đang gầm rống.

        "Mày cử động cánh tay được không? Ngón tay mày tê không? Mày có cảm thấy cái này không? Rồi, cởi áo này ra." Gã đưa lưỡi kéo vào cổ tay áo và khởi sự cắt lên ống tay.

        "Cái áo này năm chục đô la," Diamond thều thào. Cái áo mới có hình lông chim đỏ và mũi tên đen ngang cánh tay và ngực.

        "Tin tao đi, mày sẽ không cảm kích nếu tao cố kéo cánh tay mày ra khỏi áo đâu." Lưỡi kéo cắt qua cầu vai trước và cái áo rơi xuống. Không khí lạnh trên làn da ướt của hắn. Hắn rùng mình liên tục. Dù sao thì bây giờ nó đã là cái áo xui xẻo.

        "Coi này," gã bác sĩ nói, "Vai trật khớp. Xương cánh tay sái ra phía trước khỏi khớp vai. Được rồi, tao sẽ thử kéo lại xương cánh tay." Cằm gã bác sĩ tì sau vai hắn, hai tay gã nắm cánh tay vô dụng, mùi thuốc lá nồng nặc. "Đau một chút. Tao sẽ xoay xở cái này..."

        "CHÚA ƠI!" Cái đau tàn nhẫn và dữ dội. Nước mắt lăn xuống khuôn mặt nóng hổi của hắn và hắn không cầm được.

        "Cao bồi lên nào," gã bác sĩ mỉa mai.





Pake Bitts bước vào nhìn hắn chăm chú.

        "Bị treo bổng hả? Tao không thấy, nhưng người ta nói mày bị treo bổng rất khá. Hai mươi tám giây. Tụi nó sẽ thu hình mày vào video. Sấm sét ngoài kia." Gã mới tắm xong còn ướt, vảy ở vết thương từ tuần trước vẫn còn ở môi trên và vết xước mới đỏ tươi trên một bên hàm. Gã nói với bác sĩ. "Vai nó trặc à? Nó lái xe được không? Đến lượt nó lái. tụi tao phải có mặt ở phía Nam Texa lúc hai giờ chiều mai."

        Gã bác sĩ bó bột xong, châm một điếu thuốc nữa. "Nếu là tao thì tao không muốn lái - nó chỉ còn tay phải thôi. Trật khớp vai, không phải chỉ bốp vô lại là khỏi. Nó có thể cần giải phẫu. Gân bị thương, xuất huyết nội tạng, sưng, đau, có thể đứt mấy sợi dây thần kinh hay mạch máu. Nó đang đau. Nó sẽ ăn cả nắm aspirin. Nó sẽ bị bó bột một tháng. Nếu nó lái xe, bằng một tay hay hàm răng, tao không thể cho nó chống thuốc đau có á phiện và mày cũng liệu hồn đừng để nó uống. Gọi hãng bảo hiểm của mày để coi mày có lái được xe khi bị thương không."

        "Bảo hiểm nào?" Pake nói, rồi thêm, "Mày nên bỏ hút đi," và bảo Diamond, "Ôi dào, Chúa cứu vớt mày. Khi nào mình cút khỏi nơi này được? Ê, mày thấy tụi nó đánh vần tên tao ra sao không? Chúa ơi." Gã ngoác miệng ngáp, suốt đêm qua đã lái xe từ Idaho xuống.

        "Cho tao mười phút. Để tao tắm cho tỉnh người. Mày lấy dây thừng với túi đồ nghề của tao. Tao sẽ lái được. Tao chỉ cần mười phút thôi."

        Gã bác sĩ nói, "Tuỳ tụi mày."

        Một thằng khác đang vào, một vết cắt sâu ngang mày trái của nó, ngón tay ấn dưới vết cắt để máu khỏi chảy vào cặp mắt đang sưng tấy của nó và nói, cứ dán nó lại, dán cho cả hai con mắt khốn khiếp mở ra, tao đang xoay xở một mắt.




Hắn cởi áo quần bằng một tay trong phòng tắm bê tông cáu bẩn, lúng túng vì ống da phủ ngoài quần cài bốn khoá và dây giày ủng của hắn. Cái đau đến từng đợt dài dai dẳng. Hắn không trốn nổi nó. Có thằng trong một buồng tắm khác, tì trán lên bê tông, hai bàn tay áp sát lên tường đang để nước nóng dội lên gáy.

        Diamond nhìn mình trong tấm gương lốm đốm, hai mắt bầm đen, mũi chảy máu, má phải xước xát, tóc đẫm mồ hôi, lông bò dính trên bộ mặt bẩn thỉu loang lổ nước mắt, một vết bầm từ nách đến mông. Hắn choáng váng vì đau và nỗi mệt mỏi mênh mang chiếm lấy hắn. Lần này niềm phấn khích vui thú đã không đến. Nếu hắn đã chết thì có thể đây là địa ngục - bọn bác sĩ hút thuốc và lũ bò đực hôi hám, tám trăm dặm lái đêm trước mặt, đau đớn đến tận cùng.

        Dòng nước ngưng chảy, Tee Dove bước ra ngoài phòng tắm, tóc dính bệt. Gã già cỗi rồi, Diamond biết, ba mươi sáu tuổi, già trong nghề cưỡi bò nhưng vẫn đeo đuổi. Bộ mặt tái xám của gã là tấm bản đồ sửa chữa phẫu thâutj, và số sẹo gã mang trên người đủ để mở một cửa hàng. Vài tháng trước Diamond đã thấy gã, mũi gãy chảy máu bầm, lấy hai câu bút chì vàng thọc mỗi cây lên một lỗ mũi, xoay xở đến khi sụn vỡ và xương mũi được đẩy về đúng chỗ.

        Dove chà xát thân hình đầy sẹo bằng chiếc khăn tắm rách rưới nhưng là khăn may mắn của gã, nhe răng cáo ra với Diamond và nói, "Đúng là trò bầm dập phải không người anh em."




Bên ngoài mưa đã tạnh, chiếc xe tải ướt bóng, rãnh nước ngập tràn. Pake Bitts ngồi trên ghế cạnh tài xế, đã ngủ và ngáy nhẹ. Gã thức giấc khi Diamond, ngực trần, chân lấm, kéo ghế về phía trước, ném cái áo sơ mi bị cắt lên, lục lọi một tay trong túi vải thô tìm cái áo chui đầu rộng quá khổ để hắn có thể mặc qua cánh tay bó bột, thọc chân vào đôi giày thể thao cũ, leo lên xe và nổ máy.

        "Mày lái được không? Mày cố hai ba tiếng trong khi tao ngủ rồi tao sẽ lo phần đường còn lại. Mày không cần phải lái hết."       

        "Được rồi. Tụi nó đánh vần tên mày ra sao?"

        "C-A-K-E. Cake Bitts. Nance sẽ cười sặc sụa cho choi. Tống ga đi, người anh em, mình trễ rồi." Và gã ngủ tiếp, bàn tay chai sạn đặt trên đùi, lòng bàn tay ngửa lên, hơi mở ra như để nhận vật gì.




Vừa ra ranh giới Texa hắn ghé vào một bãi đậu xe tải suốt đêm và đổ đầy bình xăng, mua hai chai nước ngọt có hàm lượng caphêin cao và uống để nuốt trôi thuốc chống ngủ và chống đau của hắn. Hắn bước qua máy tính tiền và dãy thức ăn vặt, đến mấy cái máy điện thoại, lần mò thẻ điện thoại trong ví và quay số. Ở Redsled lúc này chắc hai giờ rưỡi.

        Bà trả lời ngay tiếng reng đầu tiên. Giọng bà rõ. Bà đang thức.

        "Con đây," hắn nói. "Diamond."

        "Lùn hả?" bà nói. "Chuyện gì thế?"

        "Nè, không có cách nào để con có thể nói cho nhẹ nhàng hay lễ phép. Ba con là ai?"

        "Mày muốn nói gì? Shirley Custer Felts. Mày biết mà."

        "Không," hắn nói. "Con không biết." Hắn kể cho bà điều Shirley Custer Felts đã nói lúc lên xe mười năm trước.

        "Đồ khốn kiếp," bà nói. "Nó gài mày như bom nổ chậm. Nó biết tính tình mày, mày sẽ nghiền ngẫm và lầm lì rồi nổi nóng."

        "Con không nổi nóng. Con hỏi má: ổng là ai?"

        "Tao nói rồi." Khi bà nói, hắn nghe một tiếng ho khàn bị chặn lại trong đường dây.

        "Con không tin. Lần thứ ba, ba con là ai?"

        Hắn đợi.

        "Đứa nào đang ở đó với má? Thằng thô bỉ đội nón đen hả?"

        "Không đứa nào hết," bà nói và gác máy. Hắn không biết bà trả lời câu hỏi nào.




        Hắn còn đứng đó lúc Pake Bitts bước vào, vừa lết chân vừa ngáp.

        "Bây giờ mày muốn tao lái không?" Gã đập gan bàn tay lên trán.

        "Không, mày ngủ đi."

        "À, ừ. Té đái đi, rồi mình đi."

        Hắn lái được. Hắn sẽ lái hết quãng đường. Bây giờ hắn có thể làm được, lần này, và nhiều lần tới nữa. Nhưng như thể có một khoen trơn nào đó trong hắn đã kẹt cứng và cháy. Không phải cú điện thoại mà là giây phút bải hoải ép sát vào chấn song, lúc hắn không bước nổi ra khỏi sân đấu.

        Hắn quay ra lại con đường vắng. Xa xa vài ánh đèn nông trại, bầu trời tối trên nền đất đen kéo ánh đèn vào mép tấm màn sao. Lúc hắn lái vào tiếng lanh lanh và ánh đèn sáng rực của sân đấu buổi trưa, hắn nghĩ đến ông già cưỡi ngựa hoang ba mươi bảy năm đánh bóng da, đến Leecil cưỡi ngựa vào buổi hoàng hôn Canada đầy muỗi, đến gã nhân công trang trại cúi trên con bê, cắt xoẹt bìu dái. Dòng đời dường như chậm hơn lưỡi dao nhưng không kém triệt để.

        Hắn nghĩ dường như hơn thế nữa, và lại nghe tiếng cộc cằn hung hãn của mẹ hắn nói "Tất cả". Tất cả chỉ là một cú cưỡi nhanh, dữ dội, chấm dứt dưới bùn. Hắn vượt qua chuyến xe lửa chở than trong đêm, những hình chữ nhật dày đặc là các toa xe lướt trên nền đêm xanh thẫm, một toa, một toa nữa, rồi một toa nữa. Rất chậm, chậm như ánh sáng hiện ra vào một buổi ban mai mây mù, hơi nóng phấn khởi chảy trong hắn, hay có lẽ chỉ là kỷ niệm của nó.


Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
Đăng lúc 9-1-2017 14:33:46 | Chỉ xem của tác giả
Quá trình làm việc






LEELAND LEE SINH RA TẠI NHÀ Ở CORA, WYOMING, ngày 7 tháng Mười một năm 1947, con út trong sáu anh chị em. Hồi thập niêm 1950, cha mẹ hắn dọn về Unique khi mẹ hắn được thưà kế một trang trại nhỏ trơ xương chó. Trại nằm cách thị trấn vài dặm. Họ nuôi cừu, vài con gà và dăm con lợn. Ông bố cáu kỉnh, và bọn con lớn tản mác ngay khi đủ lớn. Leeland hát được hết bài "Con cún trong cửa sổ". Cha hắn đánh hắn bằng cái đập ruồi và bảo hắn câm miệng. Chẳng có tin tức gì trên đài truyền thanh. Một trận bão tuyết gây cúp điện.

        Mặt Leeland xương xẩu giống đằng nhà mẹ hắn. Cổ hắn to và mái tóc hung đỏ đổ bết xuống ngang trán. Ngay khi còn bé cặp mắt hắn đã có túi như mắt bọn trung niên nghiện rượu, hàng long mày ngang phè trên đôi mắt lác lơ đãng. Mũi hắn to bẹt xuống mặt, cái miệng nom như bị cắt bằng một nhát đục xoắn vào thịt mềm. Hồi lớp năm, khi nghịch ngợm với bạn bè, hắn ngã xuống lối thoát hoả hoạn ở trường và gãy xương chậu. Hắn bị bó bột mất ba tháng. Trong chương trình tin tức, một phát thanh viên nói người Mỹ trung bình ăn 3,87 ký bơ thực vật mỗi năm nhưng chỉ ăn có 3,74 ký bơ động vật. Hắn không bao giờ quên con số thống kê này.

        Khi Leeland mười bảy tuổi, hắn cưới Lori Bovee. Tụi nó bỏ học. Lori có bầu và Leeland hãnh diện về việc này. Cái xương chậu chẳng gây rắc rối gì cho hắn. Lori nhỏ hơn hắn một tuổi, bộ mặt trái xoan không có gì nổi bật, tóc dài vừa phải. Con bé hơi đẫy nhưng nom ngon lành trong bộ đồ len màu nhạt. Leeland và mẹ hắn cãi nhau về vụ kết hôn này và Leeland bỏ trang trại. Hắn kiếm được việc bơm xăng ở Trạm Xăng Egg. Ed Egge bảo, "Sẵn sàng là mày bắn liền há, Gridley," (1) rồi cười. Trạm xăng nằm ở ngã ba xa lộ 16 và con đường huyện. Xa lộ 16 là trục đường chính của du khách tới Yellowstone. Leeland mua chiếc xe tải cũ của cha Lori giá năm chục đô và ông Ed làm lại máy xe. Việt Nam và thành phố Selma thuộc Alabama cùng được nhắc đến trong các bản tin.

(1) Câu nói nổi tiếng trong lịch sử hải quân Mỹ của tướng Dewey ra lệnh cho đại uý Gridley tại trận đánh với Tây Ban Nha ở vịnh Manila năm 1898.

        Chương trình xa lộ liên bang hoàn thành con đường mới xuyên bang có bốn làn xe, song song với xa lộ 16 và cách nó bốn mươi dặm về phía Nam. Ngay lập tức, ngành kinh doanh du lịch ở Unique ế ẩm. Ngày hôm trước còn có hàng trăm chiếc xe ngừng lại đổ xăng nhớt, mua hambuger, nước soda lạnh. Hôm sau chỉ có hai chiếc ghé vào, cả hai đều do dân trong vùng lái đến hỏi thăm chuyện buôn bán. Vài tháng sau có tấm biển BÁN TRẠM treo lên bên trong ô kính trạm xăng. Ed Egge uống rượu say, lái xe ào ào và tông phải hai con bò đực trên con đường huyện.

        Leeland đăng lính, xin làm trong đơn vị cơ giới. Hắn đóng quân ở Đức sáu năm và không hề học một chữ tiếng Đức. Hắn trở về Wyoming dềnh dàng hơn, cáu kỉnh hơn. Hắn làm việc với đội dựng hàng rào chống tuyết suốt mùa xuân và mùa hè, rồi đưa Lori và con cái - thằng con trai và đứa con gái mới sinh - tới Casper làm nghề lái xe tải chở xăng dầu. Họ sống trong toa nhà moóc trên đường Poison Spider, chen giữa hai láng giềng quậy phá. Họ nghe bản tin nói người ta mới tìm thấy một viên kim cương khổng lồ ở đâu đó. Đứa con gái thứ hai ra đời. Hình như Leeland không hoà thuận được với gã điều vận công ty xăng dầu. Một năm sau họ dọn về lại Unique. Leeland và mẹ hắn làm hoà.

        Lori giỏi dành dụm tiền và đã để ra được một món nhỏ. Họ xoay ra tự kinh doanh. Leeland tin là người ta sẽ thích mua sắm ở hiệu bán nông cụ địa phương vì bớt được một chuyến lái xe đường dài để vào thị trấn. Hắn thuê trạm xăng của bà Egge, bà không bán trạm được sau khi ông Ed chết đi. Tụi nó sửa sang lại, Leeland tự làm hết việc mộc, Lori quét sơn trong ngoài. Ngoài ra Leeland nuôi lợn với cha hắn. Cha hắn sinh ra và lớn lên ở tiểu bang Iowa, biết về lợn liếc.

        Rồi mới vỡ lẽ ra rằng thiên hạ thích lại một chuyến đi xa để vào thị trấn lớn thay đổi không khí, mua các thức ăn ngon lạ, áo quần, bánh trái cũng như nông cụ. Một mùa đông lạnh buốt, mọi thứ đông cứng họng, Leeland và cha hắn mất 112 con lợn. Họ bán sạch. Mười tám tháng sau, cửa hàng nông cụ vỡ nợ. Bộ tivi màu mới tinh trả lại về tiệm.

        Sau khi xong các thủ tục phá sản Leeland kiếm được việc ở một đội làm đường. Hình như lúc nào hắn cũng đi làm xa, nhưng thường về nhà đủ để làm cái chuyện mà hắn gọi là "cưỡi đã đời" và thế là làm cho Lori có bầu nữa. Trước khi đứa bé sinh, hắn bỏ đội làm đường. Hình như hắn không sao hoà thuận được với gã cai. Không ai chịu nổi, thợ bỏ việc nhiều. Qua chiếc radio gắn trên xe tải hắn nghe nói hàng trăm thành viên của một giáo phái uống Kool-Aid và cyanide.

        Leeland nhận việc ở Kho chế biến thịt Tongue River. Già Brose làm chủ cơ sở. Leeland là người làm công độc nhất. Hắn có khiếu định lượng và xẻ thịt thú lớn. Hắn thích gói những cái túi gọn gàng, thích mùi xương ẩm và hơi lạnh. Hắn có thể ném con dao phay không chệch, và nếu Leeland có mặt thì lũ chuột chạy dọc bờ tường đừng hòng trốn xa. Sau nhiều tháng thương lượng với Già Brose, Leeland và Lori ký hợp đồng thuê kho thịt trong mười năm. Đứa con trai lớn của họ tốt nghiệp trung học, người đầu tiên trong gia đình học xong, và gia nhập quân đội. Nó đăng ký sáu năm. Có tin gì đó về bữa trưa cho học sinh, và xốt cà chua được xếp vào loại rau. Già Brose dọn đi Albuquerque.

        Kinh tế xuống dốc. Tin tức toàn nói về suy thoái và thất nghiệp. Bọn chủ nông trại nhỏ căn cơ quay sang tự giết thịt, xẻ thịt và ướp lạnh. Tiền thuê kho thịt cao và giá điện nhảy vọt. Leeland và Lori phải bỏ cơ sở kinh doanh. Già Brose từ Albuquerque quay về. Có chuyện bất hoà. Công việc không đi tới đâu, Leeland nói, và sự thật là thế.

        Dường như đó là dịp tốt để thử nơi khác. Gia đình dọn đến Thermopolis, nơi Leeland tìm được việc làm tạm ở kho thịt địa phương trong mùa săn. Một gã đi săn người gốc Des Moines, không xa chỗ cha Leeland sinh ra, thưởng hắn một trăm đo lúc hắn chất những gói thịt nai đông lạnh và đầu nai lên chiếc máy bay một động cơ của gã. Gã vừa mới nhậu xong. Chiếc máy bay rớt xuống vùng Medicine Bow ở phía Đông Nam.

        Suốt mùa đông dài này Leeland thất nghiệp, ở nhà với em bé. Lori làm ở căngtin trường học. Em bé hay khóc, Leeland dỗ nó nín bằng mấy muỗng bia.

        Mùa xuân họ lại dọn về Unique và Leeland lại thử lái xe tải, lần này hắn lái những chiếc xe kéo toa moóc lớn chạy đường dài trong những chuyến đi xuyên lục địa khiến hắn xa nhà mỗi bận hai ba tháng. Hắn đi khắp lục địa, tới Texas, Alsaka, Montreal và Corpus Christi. Hắn bảo, chỗ nào cũng như nhau. Lori bây giờ làm trong bếp của Hi-Lo Cà phê ở Unique. Quán đổi chủ ba lần trong hai năm. West Klinker, một chủ nông trại già, mỗi ngày ăn ba bữa ở Hi-Lo. Lão mê mết Lori. Lão đọc cho cô ta một bản tin trên báo - một lỗ lạ xuất hiện trên tầng ozone. Lão lẫn lộn ozone với khí oxy.

        Một đêm trong  khi Leeland đang ở đâu đó bên bờ biển phía Đông, em bé lên cơn động kinh sau một tuần sốt và ho. Lori lái chuyến xe kinh hoàng trên con đường đóng băng đến cái bệnh viện xa lắc. Em bé sống sót nhưng nó trở nên trì độn. Lori lập một nhóm cấp cứu y tế ở Unique. Ba bà và hai ông ghi danh học khoá cứu thương. Họ lái một trăm dặm đến lớp cứu thương. Chỉ có hai người trong bọn họ đậu ngay lần thi đầu. Lori là một trong hai người. Người kia là Bob-cà-lăm, một tay già độc thân. Một trong những học sinh thi trượt  nói Bob-cà-lăm chẳng có chuyện gì làm ngoài việc học cuốn cẩm nang cứu thương vì lão được hưởng cuộc đời nhàn nhã đi cùng với tấm chi phiếu an sinh xã hội hàng tháng.

        Leeland bỏ việc lái xe tải và lại thử nuôi lợn với cha ở trang trại cũ. Hắn làm lính cứu hoả tình nguyện và có mặt trong trận cháy lớn hồi tháng Hai làm chết hai đứa trẻ. Xe cứu hoả mất ba giờ mới băng qua được gió tuyết vào đến nông trại. Gia đình đó có họ hàng với Lori. Lúc bên trong nổ tung, Leeland kể, một vật bay ra khỏi nhà đạp vào mui chiếc xe cứu hoả. Đó là cái máy chơi Nintendo, thậm chí chưa bị đen bên ngoài.

        Bob-cà-lăm có anh em họ ở Nuncie, tiểu bang Indianna. Một trong số các anh em họ đó làm việc ở Trung tâm Y tế Muncie. Gã anh họ dàn xếp để Trung tâm Y tế tặng Đội cấp cứu Unique chiếc xe cứu thương cũ mặc dù họ đã định cho một nhóm ở Mississippi. Gã anh họ Bob, trước đây tứng đến Unique, đã thuyết phục được họ. Bob sợ lái qua các thành phố đông nghẹt, vì thế Leeland và Lori đi mấy chuyến xe buýt tới Muncie để lấy chiếc xe. Đó là kỷ nghỉ đầu tiên của họ. Họ đem theo đứa con trai út. Trên đường về Lori để quên ví trên ghế nhà hàng. Tiền xăng cho chuyến về nằm trong ví. Họ quay lại nhà hàng, lo lắng muốn điên lên. Ví được trả lại, không mất một thứ gì. Lori và Leeland kể về lòng tốt của con người, ngay cả người lạ. Lúc họ đi vắng Bob-cà-lăm được bầu làm trưởng nhóm cấp cứu.

        Một cặp vợ chồng từ California dọn tới Unique và mở tiệm nhồi da thú. Họ bảo họ là nghệ sĩ chuyên sắp xếp thú vật trong những tư thế lạ. Lori nhận việc dọn dẹp xưởng cho họ. Dân địa phương đặt chuyện chế giễu con sói đồng trong cửa kính của họ, đứng giơ một chân tì lên bụi ngải đắng ở chỗ đặt cái bẫy. Bọn nhồi da thú chịu đựng được gần hai năm, rồi dọn qua Oregon. Thằng con cả của Leeland và Lori từ nước ngoài gọi điện về. Nó đang lập nghiệp trong quân đội.

        Cha của Leeland mất, và họ khám phá ra chuyện nuôi lợn nợ nần ngập cổ, cái trại đã bị cầm cố hai lần. Trang trại được bán đi để trả nợ. Mẹ Leeland dọn về ở với họ. Leeland tiếp tục lái xe tải đường dài. Mẹ hắn xem tivi suốt cả ngày. Đôi khi bà ngồi trong gian bếp của Lori, hầu như chẳng nói năng gì, chỉ mải nhặt sạn trong mớ đậu khô.

        Đứa con gái út giữ trẻ kiếm tiền. Một đêm, trên đường về nhà, chủ nó sờ cặp vú nhỏ của nó và đòi nó bóp dái hắn, vì hắn nói nó ăn mất miếng bánh sô cô la hắn để dành. Nó làm theo nhưng vừa chạy vào nhà vừa khóc và kể với Lori, cô ta khuyên nó giữ kín và từ nay ở nhà. Thằng đó là bạn của Leeland; bọn họ vẫn săn nai và linh dương với nhau.

        Leeland bỏ nghề lái xe tải. Lori đã dành dụm được ít tiền. Một lần nữa họ lại quyết định tự kinh doanh. Họ thuê cái trạm xăng cũ, nơi Leeland có việc làm đầu tiên trong đời và cũng là chỗ họ đã thử mở tiệm bán nông cụ. Bây giờ chỗ đó lại là trạm xăng, nhưng cũng vừa là tiệm bán đồ lặt vặt. Họ làm những mánh quảng cáo chắc an: biểu ngữ nhưạ mời gọi phất phới trong gió, tặng cây kem mỗi khi đổ đầy xăng, rút thưởng. Leeland nghĩ tới cái ngày huy hoàng khi có hàng trăm chiếc xe dừng lại. Dạo này xa lộ 16 hình như là con lộ vắng nhất nước. Họ cầm cự một năm, rồi Leeland chấp nhận rằng chuyện này không đâu vào đâu và hắn nói đúng. Hắn ủ rũ mất nhiều ngày khi đội San Fransisco đánh bại đội Denver trong giải Super Bowl.

        Thằng con cả của họ bị giải ngũ và không nói vì sao, nhưng Leeland biết đó là do hoá chất, ma tuý. Leeland lại lái xe đường dài bất kể cái lương đau. Thằng con cả về nhà, phụ việc trong một trang trại ở Pie. Leeland dò xét nó, tìm kiếm dấu hiệu nghiện ngập. Mắt đứa con lúc nào cũng đỏ và chảy nước.

        Rồi đến năm tệ hại nhất. Mẹ Leeland mất, Leeland đau lưng, và cùng trong tuần đó Lori biết mình bị ung thư vú và lại có bầu. Cô ta bốn mươi sáu tuổi. Bác sĩ của Lori khuyên phá thai. Lori không chịu.

        Thằng con cả phát hiện nó bị dị ứng với ngựa và bỏ việc trang trại. Nó nói với Leeland nó muốn thử nuôi lợn. Giá thịt lợn đang cao. Trong vài hôm Leeland háo hức. Hắn thấy rõ ràng: Leeland & Con, Công ty gia súc/. Nhưng thằng con đổi ý khi một đứa bạn nó quen biết từ hồi trong lính chạy mô tô ghé tới. Sáng hôm sau cả hai đứa đi Phoenix.

        Lori sảy thai vào tháng thứ năm, rồi căn bệnh ung thư khiến cô suy kiệt. Leeland ở bệnh viện với cô hằng ngày. Lori chết. Hai đứa con gái, cả hai nay đã lấy chồng, chủi rủa Leeland. Không ai biết làm cách nào báo tin cho thằng con cả và nó lỡ đám tang. Đứa con trai út khóc mãi không nguôi. Họ quyết định nó sẽ về soongs ở Billings, tiểu bang Montana, với đứa chị lớn sắp có con đầu lòng.

        Hai mùa xuân sau khi Lori mất, một bà đứng tuổi ở Ohio mua cái quán cà phê, quét sơn màu cam, đặt lại tên là Unique Eats và thuê Leeland nấu bếp. Hắn giỏi chuyện thịt thà, biết cách làm sao chọn miếng ngon nhất, và nướng hoặc làm món gà chiên tới mức tuyệt hảo. Hắn chưa bao giờ nấu nướng cái gì ở nhà và mọi người đều ngạc nhiên về tài năng tiềm ẩn lâu năm này. Thằng con cả trờ về và họ dự tính sang năm thuê trạm xăng cũ rồi biến nó thành tiệm sửa xe mô tô và nhà hàng thịt nướng. Không ai có thì giờ nghe tin tức.


~Hết.~
       

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
Đăng lúc 14-1-2017 17:27:47 | Chỉ xem của tác giả
Con ngựa tía




MÙA ĐÔNG 1886-87 THẬT KHỦNG KHIẾP. CUỐN sách lịch sử trời đánh nào về vùng cao nguyên cũng nói thế. Trong suốt mùa hè khô hạn có nhiều đàn gia súc lớn trên vùng thả bị gặm trụi cỏ. Tuyết ướt đầu mùa đông cứng vì thế gia súc không phá nổi lớp băng để ăn cỏ. Tiếp theo là bão tuyết và cơn lạnh cứng mắt, xác gia súc còm cõm chất đống trong các khu lòng chảo và khe sâu.

        Một gã cao bồi trẻ gốc Montana, hơi viển vông, hà tiện áo khoác và găng, đổ hết tiền lương vào đôi ủng đẹp khâu tay. Hắn băng qua Địa hạt Wyoming tưởng là sẽ ấm hơn vì nó nằm hướng Nam nơi hắn sống. Tối hôm đó hắn chết còng trên tây ngạn song Powder buốt giá, dòng nước đó nổi danh về kích thước và hướng chảy - sâu ba phân, rộng một dặm và chảy từ Texas ngược lên.

        Chiều hôm sau ba tay chăn bò từ nhóm Box Spring gần Suggs cưỡi ngựa ngang qua xác hắn xanh như đá mài, vùi nửa người trong tuyết. Bọn họ lão luyện và sắc sảo. Họ mặc áo khoác chăn dạ, ống len bao ngoài quần, khăn quàng len nhớp nhúa buộc trùm qua mũ xuống dưới cằm lởm khởm râu, đeo găng da cừu, và hai gã trong bọn được may mắn xỏ chân trong đôi ủng tốt, vớ dày. Gã thứ ba, Giẻ Rách, một đứa mắt lác nhậu nhẹt táp nham, phần trên tạm ổn nhưng phần dưới có số lem luốc, không vớ, đôi ủng mũi cong nứt nẻ và thủng lỗ.

        "Cái lon thịt bò đó mang cùng cỡ giày với tao," Giẻ Rách nói và xuống ngựa lần đầu tiên ngày hôm ấy. Hắn kéo chiếc ủng trái của gã cao bồi Montana nhưng nó đông cứng. Chiếc bên phải cũng không dễ hơn chút nào.

        "Thằng con nhà phải gió trên bờ tuyết," hắn nói, "để tao cắt phăng hai cẳng rồi hong cho tan băng sau bữa ăn tối." Giẻ Rách rút con dao Bowie ra cưa đứt ống quyển gã Montana ngay phía trên đôi ủng, bỏ cặp chân mang ủng vào túi bên yên ngựa của hắn, trầm trồ ngắm da giày có hình nổi và thêu viền rô cơ chuồn bích. Tụi nó cưỡi ngựa xuống dòng sông tìm của rơi, thấy một mớ vướng trong dòng nước sâu và mất gần hết ngày để lôi lên.

        "Trễ quá không tới kịp nhà ngủ rồi. Lán của ông già Grice ở đâu đó trên kia. Ổng chắc có mận khô hoặc kẹo bánh chi đó hay ít ra cũng có bếp nóng." Nhiệt độ xuống thấp, lạnh đến nỗi nước bọt rạn vỡ trong không khí và không đứa nào dám đái vì sợ cắm rễ cứng ngắc cho tới mùa xuân. Tụi nó đồng ý là phải bốn mươi độ âm hay hơn, gió rít một điệu hú Wyoming ra trò.

        Chúng tìm thấy cái lán cách đó bốn dặm về phía Bắc. Già Grice mở hé cửa.

        "Mời vô, chăn bò hay trộm ngựa, tao bất cần."

        "Tụi tui cho ngựa  nghỉ. Chuồng ở đâu?"

        "Chuồng ngựa hả? Chưa hề có. Cái chái sau đống củi ngoài kia chắc giữ được cho mấy con ngựa khỏi bị thỏi bay nhưng có khi rét cóng cũng hổng chừng. Tao có hai con ngựa trong này gần chạn bát đĩa. Tao nuông tụi nó ghê lắm. Tụi mày kiếm chỗ trống mà ngủ, nhưng tao dặn đừng quấy rầy con ngựa tía, nó ăn tươi nuốt sống tụi mày cho coi. Nó là con chiến mã khí thế. Kéo ghế lại ăn chút thịt hầm chó đẻ này. Và tao có khối chuyện để nuốt cho trôi. Bánh giòn nóng mới ra lò."

        Buổi tối đó vui, ăn nhậu đánh bài, tán dóc, bếp lò toả hơi nóng, hai con ngựa được nuông chiều của già Grice phì phò thoải mái. Âm điệu hậm hực duy nhất trong buổi tối theo quan điểm của bọn khố rách là sự kiện chủ nhà vét sạch túi bọn chúng, lấy của tụi nó ba đồng bốn hào. Khoảng nửa đêm Grice thổi tắt đèn rồi chui vào chõng của lão, ba gã chăn bò duỗi ra trên sàn nhà. Giẻ Rách đặt chiến lợi phẩm của hắn phía sau bếp lò, gối đầu lên yên ngựa rồi ngủ.

        Hắn thức dậy nưả tiếng trước khi trời sáng, nhớ ra hôm nay là sinh nhật mẹ hắn và nếu muốn đánh điện tỏ lòng hiếu thảo với bà, hắn phải phi ngựa nhanh hơn sấm sét, vì bưu điện Overland đóng cửa vào giữa trưa. Hắn ngắm nghía cặp chiến lợi phẩm rùng rợn của mình, thấy đã tan băng, liền kéo đôi ủng và vớ ra khỏi chân khổ chủ mà xỏ vào bộ phận bàn đạp ngoài cùng của chính mình. Hắn ném cặp cẳng Montana trần trụi và đôi ủng cũ của hắn vào góc gần chạn bát đĩa, nhẹ lẻn ra như chiếc lông chim rơi, thắng yên ngựa rồi cưỡi đi. Gió nhẹ và không khí lạnh mát khiến hắn tỉnh táo.

        Già Grice thức cùng mặt trời, xay cà phê và rán thịt ba chỉ muối xông khói. Lão liếc xuống bọn khách cuộn tròn và nói, "Cà phê xong rồi." Con ngựa tía giậm chân và đá cái gì trông như bàn chân người. Già Grice nhìn kỹ hơn.

        "Sáng sớm đã xui xẻo rồi," lão nói, "một cái cẳng người rồi một cái nữa." Lão đếm bọn khách đang ngủ. Chỉ có hai đứa tụi nó.

        "Thức dậy, tụi sống sót, trời ơi thức dậy ngồi dậy."

        Hai gã chăn bò lăn ra, cặp mắt lơ láo nhìn đăm đăm lão già vừa sùi bọt mép một đống vừa chỉ cặp cẳng trên sàn nhà phía sau con ngựa tía.

        "Nó ăn thịt thằng Giẻ Rách rồi. Ôi chao, tao biết nó là con ngựa dữ dằn, nhưng mà ăn hết nguyên một thằng người. Đồ chết tiệt dã man," lão quát con ngựa tía và xua nó ra cái lạnh cháy da. "Mày không bao giờ được ăn thịt người nữa. Mày phải ngủ bên ngoài với bão tuyết và lũ chó sói, mày là đồ quỷ sứ sẽ xuống địa ngục." Trong thâm tâm lão hài lòng là chủ một con ngựa dám ăn tươi nuốt sống một thằng cao bồi.

        Hai gã cao bồi Box Spring còn sót lại đã dậy và uống cà phê. Bọn chúng nhíu mắt nhìn già Grice, kéo dây lưng đeo súng của chúng.

        "Ê, tụi bay, trời đất ơi, tai nạn khủng khiếp mà. Tao đâu có ngờ con ngựa tía lại cục súc như vậy. Đừng kể với ai. Thằng Giẻ Rách chẳng đáng gì, tao có chừng bốn chục đồng vàng với ba đồng bốn hào tao lấy của tụi bay tối hôm qua. Ăn thịt lợn muối của tụi bay đi, đừng lộn xộn. Thế giới có đủ rắc rối rồi không cần thêm nữa đâu."

        Không, bọn chúng sẽ không gây rối, chúng bỏ đống tiền nặng vào túi bên yên ngựa của chúng, uống tách cà phê nóng cuối cùng, thắng yên ngựa ra đi vào buổi ban mai đang cười toa toét.

        Lúc chúng gặp thằng Giẻ Rách tối hôm đó đang ở nhà ngủ, chúng gật đầu, chúc mừng ngày sinh nhật của mẹ nó, nhưng chẳng nói gì về con ngựa tía hay bốn mươi ba đồng và bốn hào. Bài tính thế là thoải mái.


~ Hết ~

p/s: It's snowing outside ^^
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
Đăng lúc 21-1-2017 10:06:15 | Chỉ xem của tác giả
Người dưới địa ngục chỉ muốn một ngụm nước





BẠN ĐỨNG ĐÓ,GỒNG MÌNH, NHỮNG BÓNG MÂY bay nhanh trên đống đá vàng sẫm như bộ phim chiếu lên mặt đất nổi mụn lấm tấm, chóng mặt. Không gian kêu rít, chẳng phải ngọn gioa thoảng chung quanh mà là trận gió lớn  khắc nghiệt quét từ tận cùng quả đất. Vùng đất hoang dã khiến tâm linh run rẩy - những đỉnh núi lởm chởm màu chàm, cánh đồng cỏ bất tận, đá đổ nhào như những thành phố sụp đô, bầu trời cuồn cuộn rực rỡ. Đất trời như một nốt nhạc trầm, vô thanh nhưng có thể cảm nhận, như móng vuốt bấu trong ruột gan.

        Vùng đất dữ tợn và lạnh lùng: so với khối lượng bất biến của nó, bi  kịch của con người chẳng đáng kể, cho dù dấu hiệu của bất hạnh hiện diện khắp nơi. Không một cuộc tàn sát hay sự hung ác nào trong quá khứ, không một tai nạn hay vụ án mạng nào xảy ra trên  những trang trại nhỏ hay tại các giao lộ hoang vắng dân cư thưa thớt ba hay mười bảy người, hoặc trong các khu nhà kéo lưu động liều lĩnh ở phố mỏ, không điều gì trì hoãn được ánh ban mai tràn ngập. Hàng rào, gia súc, đường sá, nhà máy tinh chế, hầm mỏ, hầm sỏi đá, đèn lưu thông, câu ca tụng chiến thắng thể thao vẽ bậy trên cây cầu bắc ngang xa lộ, vảy máu đông trên thềm dỡ hàng của siêu thị Wal-Mart, những vòng hoa nhựa bạc nắng ghi nhớ cái chết trên xa lộ, tất cả đều phù du. Các nền văn hoá khác đã dựng trại nơi đây một thời gian rồi biến mất. Chỉ có mặt đất và bầu trời là đáng kể. Chỉ có ánh ban mai tràn ngập mãi mãi tái diễn. Bạn sẽ thấy Thượng đế không nợ chúng ta gì nhiều ngoài những thứ đó.

       


Năm 1908, chạy trốn hạn hán và bụi lốc ở Texas, Isaac "Ice" Dunmire đến Laramie, tiểu bang Wyoming, vào lúc ba giờ rưỡi sáng tháng Hai tối đen. Trời lạnh âm ba mươi bốn độ, gió rít theo vết xe.

        "Chắc chắn không thể nào tệ hơn thế này," hắn nói. Hắn chẳng biết gì.

        Mặc dù hắn có một vợ, Naomi, và năm đứa con trai ở quận Burnet, nhưng vì công việc chăn bò, hắn thề với viên quản đốc Trang trại Sáu Chuồng Lợn là hắn độc thân. Vùng đất bao la do hai anh em người Xcốtlen làm chủ chưa từng thấy Trại #6 và chẳng bao giờ muốn thấy, không khác gì tên chủ tàu buôn nô lệ bất cần đến hàng hoá của mình.

        Tới cuối năm, vì hắn chưa bao giờ vào thị tấn, nhờ dành dụm tiền lương bốn mươi đô một tháng và là kẻ săn chó sói lấy tiền thưởng không mỏi mệt, vì hắn chơi bài Red Dog (1) thắng nhiều hơn thua, Ice Dunmire có bốn trăm đô trong chiếc hộp thiếc xanh sơn hình một gã thuỷ thủ tóc đuôi sam đang vấn thuốc lá từ bánh thuốc vàng. Chưa đủ. Mùa xuân thứ nhì trong xứ, hắn bỏ lại Trại #6 mà đến rặng Tetons giết hươu đít trắng, lấy bộ nanh lớn của chúng để bán với giá cao cho bọn hội viên Hội Bảo vệ hươu nai B.P.O.E. đeo lủng lẳng cái nhanh ngà trên dây đồng hồ.

(1) Một môn đánh bạc dùng bộ bài 52 lá, trong đó người chơi thắng nếu lá bài họ có trong tay đồng hoa và lớn hơn lá bài của nhà cái.

        Hiện nay hắn đóng cọc lập trại trên cánh đồng Laramie phía Nam Big Hollow, một lũng dài gió bào mòn bên dưới dãy Snowy Range ở Medicine Bows, dựng một cái lán đất, đăng ký nhãn hiệu Rocking Box. Ranh giới không đáng kể - điều hắn thấy là miếng đất trũng và đẹp, hắn thấy đó là đất của hắn và dự tính khai thác nó hết sức mình. Hắn mua và ăn trộm năm chục con bò, và với niềm hãnh diện về cơ sở chắp vá này, tự tuyên bố mình là chủ trang trại. Hắn nhắn vợ và lũ con đến, đăng ký khu đất kế cận dưới tên Naomi. Thân phận hắn chuyển đột ngột từ gã độc thân thành kẻ có gia đình với năm đứa nhóc đuổi gà, từ gã chăn bò khánh tận thành chủ trang trại có điền sản, khiến thiên hạ đặt cho hắn biệt hiệu "Láu cá" mà có kẻ bực bội nghe nhầm thành "Láu tay".


       

Hix, mới gõ đc 3 trang mà trời lạnh quá cóng hết cả tay rồi T.T @tranthithuylam nàng ơi ta chụp ảnh hay gửi hình scan được k? có thể chống copy a ~

Bình luận

hỏi Ad xem có tiền mua DMCA không, ta gg thấy cách này ok nhất :))  Đăng lúc 22-1-2017 04:30 PM
nó rinh nguyên cái ảnh của mình đi, cắt mất bìa có link kites và ng biên tập, ức chế  Đăng lúc 22-1-2017 05:34 AM
scan cũng bị copy đc hả nàng?  Đăng lúc 21-1-2017 11:33 PM
chú thích: ảnh vẫn bị copy như thường, bọn ta đang đau đầu vụ đấy lắm đây, hic  Đăng lúc 21-1-2017 07:18 PM
được, chỉ cần nhìn rõ là được, nàng tự đăng nhé, đừng gửi cho ta làm gì ^^  Đăng lúc 21-1-2017 07:18 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
Đăng lúc 11-3-2017 14:58:23 | Chỉ xem của tác giả
Người dưới địa ngục chỉ muốn một ngụm nước (tt)















@tranthithuylam: thử chèn kín hình bằng dòng kites.vn xem sao, cách này chỉ có ngồi gõ từng chữ mới copy đc. Ta thử với ppt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
Đăng lúc 10-8-2017 20:52:08 | Chỉ xem của tác giả
Á, quên béng topic này Để ta up nốt truyện này, chụp hình bằng điện thoại nên hơi nghiêng ngả xíu ^^

________________

Người dưới địa ngục chỉ muốn một ngụm nước (tt)






[/url

[url=https://flic.kr/p/XnBhfR]







Công nhận nhìn tệ thật @@ Thôi để mai ta mang truyện lên chỗ làm scan cho nó dễ nhìn hơn =.=
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách